Di sản nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Champa
Cách đây mười năm (1999), khu thánh địa của người Chăm ở Mỹ
Sơn, thuộc tỉnh Quảng Nam, đã được công nhận là di sản văn hoá
thế giới. Sự kiện này, ngoài những lợi ích cụ thể về mặt kinh tế địa
phương và du lịch ra, còn có một ý nghĩa quan trọng khác, đứng
về mặt văn hoá, nghệ thuật. Đó là : những di sản văn hoá, nghệ
thuật của người xưa để lại không phải là của riêng ca một quốc
gia, mt dân tộc, hay mt cộng đồng văn hoá nào, mà là của chung
của nhân loại, do những giá trị nhân bản phổ biến của chúng.
Cách đây mười năm (1999), khu thánh địa của người Chăm ở Mỹ
Sơn, thuộc tỉnh Quảng Nam, đã được công nhận là di sản văn hoá
thế giới. Sự kiện này, ngoài những lợi ích cụ thể về mt kinh tế địa
phương và du lịch ra, còn có m
ột ý nghĩa quan trọng kc, đứng về
mặt văn hoá, nghệ thuật. Đó là : những di sản văn hoá, nghệ thuật
của người xưa để lại kng phải là của riêng c
a một quốc gia, mt
dân tộc, hay mt cộng đồng văn hoá nào, mà là của chung của
nhân loại, do những giá trị nhân bản phổ biến của chúng.
Người ta có thể đặt câu hỏi, thế còn những khu di tích lịch sử và
nghệ thuật khác của người Chăm thì sao ? Bi chúng cũng đáng
được chiêm ngưỡng, và đáng được bảo tồn lắm chứ : Đồng Dương,
Trà Kiệu, Chánh Lộ, Tháp Bánh Ít, Tháp Mm, Hoà Lai, Po
Nagar, Po Klaung Garai, v.v. ? Nếu UNESCO đã ” công nhận ”
Mỹ Sơn, thì lẽ ra cũng nên ” công nhận ” cả những di tích này mt
thể, nếu thật sự muốn bảo tồn mt di sản nghệ thuật quý báu của
nhân loại.
Bởi những dấu tích văn hoá, nghệ thuật thuộc những thời đại xa
xưa của một dân tộc, là hiện thân của cái dĩ vãng của dân tộc đó,
đồng thời cũng là một phần dĩ vãng của nhân loại. Con người cần
cái dĩ vãng đó để nhìn lại mình và kẻ khác. Nó như một tấm
gương, nhìn vào đó người ta thấy được lịch sử, thấy được những
nét nhân bản, hay không nhân bản, trong một nền văn hoá, nghệ
thuật, và từ đó nhận ra được những cái đẹp phổ biến, mà con
người dù ở thời đại nào, thuc nền văn hoá nào, cũng đều có th
cảm thụ được.
Tượng thần ở Đồng Dương Quảng Nam (thế kX)
Nụ cười an nhiên, bình thản, trên tượng thần Siva ở Tháp Bánh Ít
của người Chăm (thế k XI, Bình Định), hoặc trên tượng vua
Jayavarman VII, ở Kompong Svay, của người Khơ-me (phong
cách Bayon, thế kXII, Cam-pu-chia), có th tìm thấy lại được
trên nụ cười của bà hoàng hậu Ai Cập, ở mt bức phù điêu cách
đây 3100 năm, hoặc nữa, trên bức hoạ La Joconde nổi tiếng của
Leonardo da Vinci (thời Phục Hưng Ý, đầu thế k XVI). Phải
chăng, cái đẹp của tâm hồn, của tình cảm con người, của đức tin,
toát ra từ những nụ cườiy, thông qua một ngôn ngữ nghệ thuật
sống động, chính là cái nguyên nhân đã chinh phục được sự nhạy
cảm của tâm hồn và khiếu thẩm m của người xem ?
Tư thế và nụ cười an nhiên và bình thản của Siva, Tháp Bánh Ít,
Bình Định (thế kXI)
Nghệ thuật, đạt tới một trình độ nào đó, có một sức truyền cảm
mãnh liệt, vượt qua mọi ranh giới văn hoá và tín ngưỡng.
Đứng trước những chiếc tháp Chăm uy nghiêm, hùng vĩ, hay đứng
trước một pho tượng vũ nữ Trà Kiệu mm mại, uyển chuyển,
dù là
người Á đông, hay là người Âu, Mỹ, bạn đều có thể có được những
cảm xúc thẩm m sâu sắc. Nghệ thut Chăm, ở vào những thời k