Điêu khắc thời Lê Sơ

(1428 – 1527)

Trong trăm năm của triều đại Lê Sơ, Phật giáo đã bị đẩy lùi

về các làng xã, Nho giáo lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với

quan hệ địa chủ – nông dân cũng phát đạt. Ngoài ba pho

tượng đá chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh) đến nay hình ảnh điêu

khắc Phật giáo thời Lê Sơ rất mờ nhạt. Thay vào đó là nền

điêu khắc lăng mộ của các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hoá).

Tám lăng vua Lê và hai bà Hoàng hậu đều theo hình thức của

lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433, mặt bằng hình vuông,

chính giữa là đường thần đạo dẫn đến mộ phần ở đáy lăng,

hai bên có hai dãy tượng chầu gồm quan hầu, lân, tê giác,

ngựa, hổ. Bên ngoài lăng là nhà bia. Các lăng khác đều tương

tự, tuy các con vật chầu có chút ít thay đổi. Sau 20 năm chiến

tranh với nhà Minh (1407 – 1427), đất nước trở nên hoang

tàn, sản vật bị vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá, thợ

giỏi bị đưa về Tàu. Vua Lê đành phải dùng những nông dân

lân cận tạc tượng, xây lăng. Tính thô mộc, giản dị, sự cần

kiệm của một chính thể mới lên đã dẫn đến một nền điêu

khắc đơn điệu, nghèo nàn, dù con mắt kiến trúc tổng thể khá

đặc sắc.

Cũng giống như các thời kì trước, ở thời Lê Sơ điêu khắc vẫn

gắn bó mật thiết với kiến trúc. Với sự phát triển của các lăng

mộ, những tác phẩm điêu khắc của thời Lê Sơ tìm được chủ

yếu ở thể loại kiến trúc này . Đó là những tượng quan hầu

,tượng thú, là những hình chạm khắc trên các thành bậc cửa

điện Kính Thiên ,đàn Nam Giao trên các bia ở lăng mộ và bia

tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội).

a .Điêu khắc lăng mộ

Các lăng mộ thời Lê Sơ thường trang trí bằng 10 pho tượng

chia làm 5đôi gồm :người ,lân.tê giác, ngựa, hổ....ở một số

lăng muộn hơn có sự thay0 đổi nhỏ:tượng voi thay cho tương

hổ ,còn các tượng khác vẫn giữ nguyên .

Những pho tượng này đều nhỏ . kích thước trung bình là 1,1

m đối vơi tượng người Và 0,60m với tượng thú.Một đặc điểm

nổi bật , dễ dàng nhận thấy là các pho tượng lăng mộ thời Lê

Sơ có sự sắp xếp ,bố cục và kích thước đều nhau ở các lăng

mộ ,bắt đâù từ lăng Lê Lợi .Vì vậy bố cục mặt bằng,số lượng

và thể loại tượng ở lăng Lê Lợi trở thành mẫu mực .Các lăng

thời kì sau cứ theo thế mà làm và cũng không thể thay đổi

hoặc vượt qua hình mẫu,kích thước của Vĩnh Lăng. Điều này

phần nào bộc lộ tính khuôn thước, mẫu mực theo tinh thần

nho giáo. Các lăng đều nhỏ, do đó, tượng đặt ở lăng cũng

không được quá lớn . Quy mô của kiến trúc sẽ quy định quy

mô, kích thước cho tác phẩm điêu khắc.

Với những pho tượng nhỏ bé như vậy,cách thể hiện cũng đơn

giản ,bỉểu hiển ở cách tạo dáng, khối, đường nét.Tỉ lệ giữa

các phần chi tiếtcũng chưa thật chính xác.tuy vậy giưã tượng

nọ với tượng kia có sự thay đổi để làm rõ đặc điểm của từng

hình tượng .Tất cả đều được tạo ra từ một khối đá. Hoa văn

trang trí trên tượng ít.Từ cách tạo hình đến đường nét trên

các pho tượng phần nào bộc lộ tính dân gian .Tinh chất nho

giáo có thể biểu hiện ở nội dung, ở cách chọn lựa các hình

tượng, cách sắp xếp đôí xứng qua thần đạo

Nhưng tác giả của các pho tượng đó lại chính là những người

thợ xuất thân từ nông dân hoăc những người lao động bìng

thường.Vì vậy khi làm ra các tác phẩm này họ vẫn bị chi phối

bởi những quan điểm ,thị hiếu thẩm mĩ dân gian .Tuy vậy

tính chất nàycó thể thay đổi ở từng lăng ,từng thời gian khác

nhau. Nếu xét trên Tổng thể 100 năm tồn tại của nhà Lê,

phong cách có sự chuyển biến ,thay đổi theo một quy luật

nhất định .Thời kì đâù,điêu khắc của Lê Sơ vẫn là sự kế thừa

những nét tinh hoa của mĩ thuật Lý ,Trần. Điều này thể hiện

rõ trong điêu khắc ở lăng Lê Thái Tổ.Lăng Lê Thái Tông làm

năm 1442và phong cách điêu khắc ở lăng này biểu hiện sự

chuyển tiếp từ Lý ,Trần sang Lê tuy chưa rõ nét .Có thể nói ,

phong cách điêu khắc Lê Sơ đã thể hiện rõ bắt đầu từ thời Lê

Thánh Tông .

Đây cũng chính là thời kì phát triển cực thịnh của phong kiến

Lê Sơ. Có lẽ vì thế mà các tác phẩm thời kì này được thể hiện

với phong cách hoa mĩ , nuột nà,cầu kì hơn nhiều điêu khắc

thời trước đó .Tính dân gian giảm dần,ngược lại tính chính

thống thể hiện rõ hơn trong tác phẳm .Mặc dù vậy, thời gian

trôi qua ,điêu khắc Lê Sơ đã để lại một phong cách riêng biệt

thể hiện trên các tác phẩm còn lại đến ngày nay.phong cách

đó tạo mạch nối liền quá trình phát triển của mĩ thuật dân tộc

.Gía trị của nó chính là được thừa kế và phát triển trên truyền

thống và cơ sở dân gian hình thành từ các các thời kì trước

.Đó là sự mềm mại ,tinh tế trong đường nét, chặt chẽ ,khái

quát và mang tính biểu hiển ,tượng trưng cao trong bố cục

các hình tượng nghệ thuật của các tác phẳm điêu khắc.Một

trong những tác phẩm điển hình là bia Vĩnh Lăng . Đây là

một tấm bia đá tương đối lớn, còn nguyên vẹn .Bia được đặt

trên lưng một tượng rùa có kích thước tương đương. Bia

Vĩnh Lăng cao 2,80m,rộng 1,92m và dày 0,27m.Trong khi đó

tượng rùa cao 0,80m,dài 3,58 và rộng 1,94m.Điều đáng chú ý

là các tác giả thời Lê Sơ đã ghép được bia vào tượng rùa

bằng một kĩ thuật đặc biệt.Vì vậy suốt bao nhiêu năm tồn tại

,bia lăng mộ vẫn được gắn vững chãi với bệ rùa trông như tác

phẩm bia và thần rùa được tạo ra từ một khối đá lớn.Trang trí

trên biaVĩnh Lăng vẫn được làm theo truyền thống xưa.Diềm

bia đươc trang trí bằng hình tượng con rồng bố cục trong nửa

lá đề nối tiếp nhaugiống như thời Lý.Vũ cơ bản hình tượng

rồng trên bia Lăng Vĩnh có nhiều đặc điểm giống rồng thời

Lý,Trần. Cũng những khúc uốn thoăn thoắt, nhịp nhàng,

cũng hình lá thiêng bốc lên như ngọn lửa....

Nhưng nếu đi vào chi tiết thật kĩ lưỡng cũng nhận thấy nhiều

sự thay đổi . ở đây không thấy cái đẹp về tỉ lệ như rồng Lý,

các nét uốn cũng không tinh xảo, điêu luyện và thiếu sự đều

đặn ,uyển chuyển.Tuy vậy những hình tượng đó vẫn giữ

được nét cơ bản về tinh thần của rồng Lý và Trần.Hay nói

cách khác con rồng vẫn là một mô típ ,một hoa văn trang trí

được tạo bởi trí tưọng tượng phong phú và đậm chất triết lý

của cha ông ta .Trên trán bia Vĩnh Lăng ta bắt gặp mô típ

rồng chầu rồng. Đây là một mô típ quen thụôc của thời Lê Sơ

thể hiện một đặc điểm về đề tài trang trí giữa trán bia là một

hình vuông, trong là hình tròn và trung tâm là con rồng được

sắp xếp bố cục cân đối, chặt chẽ.

ở đây ta gặp một số khái niệm: vuông, tròn và con rồng. Liệu

các tác giả làm nghệ thuật điêu khắc này đã suy nghĩ gì khi

tạo ra một mô típ trang trí đẹp và mang nhiều ý nghĩa như

hình trên.Vuông ,tròn ở đây liệu có phải giống như quan

niệm của dân tộc ta về trời đất,vũ trụ.Và trung tâm của trời

đất, vũ trụ ấy chính là ông vua đươc biểu hiện qua hình tượng

con rồng. Hình tượng con rồng ở đây đã có cách tạo hình

khách với thời Lý,Trần: Từ khúc uốn văn vỏ đỗ,đến các chi

tiết như vây,sừng,chân,móng....tất cả tạo nên sự uy

nghiêm,bề thế cho hình tượng rồng. Hình vuông, hình tròn và

con rồng được "đặt" trên nền của hoa văn mây hình nấm linh

chi,sắp xếp cân đối và thoáng,hoạt ở các góc.các bia ở lăng

Lê Thánh Tông (1498),lăng bà hoàng Ngô Thị Ngọc Giao và

lăng Lê Hiến Tông (1505) không còn vẻ đẹp chân thực, sống

động và thoáng đạt như bia Vĩnh Lăng nữa .Thay vào đó là

sự dày đặc,cầu kỳ về đường nét và cách tạo hình .Đường nét

thì sắc nhọn, dứt khoát. Bố cục thì cầu kì, rối mắt_cái đẹp có

vẻ trau chuốt, tỉ mỉ.Trên toàn bộ trán và diềm bia đươc trang

trí bằng hình tượng rồng .Từ thời Lê Thánh Tông,Con rồng

được thể hiện mang đặc điểm của rồng thời Lê Sơ .Có thể nói

nó đã thoát ra khỏi hình dáng, cách biểu hiện của rồng thời

Lý,Trần và xứng đáng tiêu biểu, bôc lộ rõ đặc điểm phong

cách rồng thời Lê Sơ.Đó là vẻ đẹp sống động, tự nhiên, hiện

thực, khoẻ mạnh và dữ tợn hơn. Đến đây con rồng đã trở

thành một biểu tượng văn hoá, tượng trưng cho sức mạnh,uy

quyền của vua.Vì vậy có thể nói điều này phần nào do ảnh

hưởng của tư tưởng Nho Giáo .Những đường nét mềm mại,

cân đối được thay bằng những đường nét sắc, nhọn,mạnh mẽ.

Ngoài mô típ rồng chầu rồng, ta còn gặp nhiều mô típ rồng

chầu khác như rồng chầu chữ phật, rồng chầu mặt trời, rồng

chầu lá đề....tuy vậy,những mô típ trang trí kể trên không có

trên trang trí bia ở lăng mộ ,mà chủ yếu là trên bia ở chùa,

các tiến sĩ ở Văn Miếu lại không trang trí hình rồng mà chỉ co

hình mặt trời, mây, hoa lá và sóng nước .

Ngay cả kích thước các bia ở Văn Miếu cũng nhỏ hơn lăng

các vua và hoàng hậu.Như vậy ta thấy có một sự quy định rõ

rãng của hình tượng rồng trong thơi kì Lê Sơ .Từ sự quy định

này cho thấy sự phân chia đẳng cấp theo tinh thần nho giáo

được thể hiện khá rõ ràng trong nghệ thuật.Hình tượng con

rồng không chỉ là một hình tượng được tạo ra do trí tưởng

tương phong phú ,bay bổng của cha ông ta về môt con vật

thiêng nữa .Nó đã thực sự tượng trưng cho vương quyền mà

không dành cho những nơi dân dã bình thường.Kể cả ở Văn

Miếu, nơi thờ Khổng Tử cũng không vi phạm quy định này

.Ngoài hoa văn hình rồng tiêu biểu, trong chạm khắc thời Lê

Sơ còn có môt số đề tài khác như : Hoa văn hoa thị bốn mùa,

sóng nước, mây, hình nấm linh chi, hoa sen....tất cả đều được

thể hiện khác với các hoa văn cùng loại của thời kì Lý,Trần.

Biểu hiện đó là hoa văn sóng nước .Hoa văn sóng nước

thường được chạm ở diềm, chân bia.ở bia Vĩnh Long vẫn là

sóng nước hình núi nhưng cao hơn và nhiều đường song song

hơn. ở mặt bên bia ở lăng bà hoàng Ngô Thị Ngọc Giao lại là

sang nước trường và sang bạc đầu . Phía sau lại trồi cao như

ba ngọn núi, phía trên là hoa văn mây bay thành dải.Đây là

hình thức sóng nước đặc biệt của thời Lê Sơ

b. Chạm Khắc Trang tri.

Chạm khắc trang trí thời Lê rất tinh xảo .Các thành bậc bằng

đá, bia đá đều được chạm khắc

Cảnh sinh hoạt của nhân dân như các cảnh đấu vật , đánh cờ,

trai gái vui đùa, chèo thuyền, uống ruợu....được chạm khắc

trên gỗ ở các đình làng. Các dòng tranh khắc gỗ Đông Hồ,

Hàng Trổ nga đời đã tạo ra những bức tranh dân gian đặc sắc

,trở thành tài san quý giá trong kho tàng nghệ thuật dân tộc.

Nói về hình tương con rồng trên bia đá .

Thời Lê có nhiều bia đá được chạm khắc nổi ,trang trí hình

rồng bên cạnh các hoạ tiêt sóng ,nước, hoa, lá....

Trên lăng vua Lê Thái Tổ, ở cảc hai mặt trên bán bia được

chạm khác hàng chục hình rồng lớn nhỏ.Sự hiện hình rồng

thời Lý-Trần đã đạt đến mức hoàn chỉnh.

Nhìn chung, hình rồng trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam

cho đến nửa đầu thời Lê vẫn là hình rồng có đặc điểm rất

riêng. Còn ở nửa sau thời Lê,hình dáng của rồng mạnh mẽ

gần như trở thành hình mẫu chủ yếu của nghệ thuât thời Lê.