
ĐIỀU TRỊ HỌC
NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU TRỊ CỦA Y HỌC DÂN TỘC
Sau khi dùng Tứ chẩn, Bát cương để phân tích và quy nạp được bệnh,
cần đề ra phương hướng điều trị cho thích hợp. Để cho việc điều trị đạt hiệu
quả cao, cần tuân theo 1 số nguyên tắc chính yếu sau :
I.- NGUYÊN TẮC CHUNG
a) Những bệnh khác nhau, nhưng quá trình bệnh lý diễn biến giống
nhau, có thể tạm điều trị giống nhau.
b) Những bệnh giống nhau mà cơ chế bệnh lý khác nhau, thì phải
chữa khác nhau.
c) Những cổ phương và những phác đồ trị liệu tuy rất nhiều, nhưng
khi đem áp dụng, cần phải hết sức linh hoạt. Phương là phỏng theo chứ
không bắt buộc phải theo đúng hoàn toàn. Cần linh hoạt thay đổi và tùy nghi
ứng biến cho phù hợp với từng trạng thái, diễn biến của bệnh.

d) Những nguyên tắc được người xưa đúc kết lại, là những kim chỉ
nam cần thiết, do đó cần nghiên cứu và đem ra áp dụng cho thích hợp.
II.- TIÊU BẢN (Ngọn Gốc)
Tiêu là ngọn triệu chứng của bệnh.
Bản là gốc của bệnh, nguyên nhân gây bệnh.
Tiêu và bản tuy đối lập nhưng luôn có quan hệ nhân quả với nhau.
Bệnh trước là gốc, bệnh mới là ngọn.
Thí dụ : 1 người bị lao phổi lâu năm (gốc) thình lình bị ói ra máu
(ngọn). Bệnh chứng này do bệnh phổi gây nên ho ra máu.
Do đó, trong 1 hội chứng bệnh, cần tìm cho ra ngọn, gốc của bệnh thì
mới dễ dàng trong việc quyết định cách trị liệu.
a) Tìm Gốc Bệnh
Gốc bệnh là những nguyên nhân gây bệnh, bao gồm những nguyên
nhân bên ngoài (tự nhiên, xã hội, tà khí...) và những thay đổi bên trong cơ
thể gọi là nội nhân (thất tình...).
Thí dụ : Chứng âm hư hỏa vượng.

Nguyên nhân gây bệnh là do âm hư làm cho hỏa vượng lên. Nếu chỉ
lo tả Hỏa (tức là chữa ở Tiêu, ở triệu chứng bệnh), thì bệnh tuy có thể giảm
nhưng sẽ trở lại ngay. Nếu bổ âm (tức chữa ở bản, ở nguồn gốc gây bệnh) thì
mới khỏi dứt.
Đào sâu vào Ngũ hành ta thấy : 1 hành bệnh (có sự xáo trộn), có thể
do nhiều nguyên nhân.
Thí dụ : Hỏa vượng có thể do :
- Hỏa khí bên ngoài kích thích làm hỏa bên trong cơ thể vượng lên.
- Mộc vượng quá làm Hỏa vượng theo.
- Thủy khí suy không khắc được Hỏa làm hỏa bùng lên...
Do đó, cần tìm ra gốc (nguyên nhân gây bệnh) thì việc trị liệu mới có
hiệu quả.
b) Cấp Trị Ngọn
Những bệnh nguy hiểm đến tính mạng người bệnh, cần phải chữa
những triệu chứng nào cần thiết nhất.

Thí dụ : Người bệnh đau bao tử đã lâu, nay nôn ra máu, xuất huyết
tiêu hóa, cần cấp thời làm cho cầm máu (chữa triệu chứng bằng tiêu) nếu
không kịp, máu ra nhiều quá, có thể nguy đến tính mạng.
c) Hoãn Trị Gốc
Đối với bệnh mãn tính, lúc chưa phát bệnh, phải chữa vào gốc bệnh.
Thí dụ: khi không có cơn hen, phải lo chữa Phế (vì Phế chủ khí) và chữa
Thận (vì Thận nạp khí) để khỏi tái phát vì hen là do Thận hư không nạp
được khí và Phế không chủ được khí làm khí nghịch lên.
d) Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn
Có nhiều bệnh cùng lúc có thể vừa điều trị cả gốc lẫn ngọn. Phương
pháp này thường được áp dụng trong cách "Bổ chính khu tả".
Thí dụ : Bệnh lao phổi do Phế âm hư, có các triệu chứng ho, hâm hấp
sốt, ra mồ hôi trộm... thì vừa bổ Phế âm (chữa gốc bệnh) vừa trị ho, sinh tân
dịch, cầm mồ hôi (chữa ngọn)...
III.- CHỮA BỆNH CÓ BỒ TẢ
Dựa vào nguyên tắc "Hư thì Bổ, Thực thì Tả" và "Hư bổ mẫu, Thực tả
Tử". Trong quá trình diễn tiến bệnh tật, luôn có sự đấu tranh giữa Tà khí

(nguyên nhân gây bệnh) và Chính khí (sức đề kháng của cơ thể), và có thể
xảy ra hiện tượng : Tà khí mạnh làm cho chính khí suy hoặc chính khí suy,
tà khí nhân cơ hội đó xâm nhập vào. Trong trường hợp này cần bổ chính và
khu tà nhưng chú trọng đến bổ chính hơn.
a) Tả
- Nếu tà khí mạnh, là thực chứng, cần áp dụng tả pháp (Thực tắc tả).
- Nếu tà khí quá mạnh, cần rút bớt tà khí đó bằng cách cho tà khí
chuyển qua tạng hoặc phủ, kinh lạc có liên hệ mẫu tử với nó, theo nguyên
tắc "Thực tả Tử".
Thí dụ : tà khí ở Tâm mạnh, tả ở Thổ (vì tâm sinh thổ) để rút bớt tà
khí từ tạng mẹ sang tạng con.
b) Bổ
- Nếu chính khí suy, cần áp dụng phép Bổ theo nguyên tắc : "Hư tắc
Bổ".
- Nếu chính khí quá suy, không thể tự phục hồi được, cần mượn sức
từ tạng phủ có liên hệ mẫu tử với nó để bổ cho tạng phủ đó.

