BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN GÂY LŨ - LỤT VÀ PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, TRÁNH LŨ - LỤT Ở TỈNH ĐỒNG THÁP THUỘC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG.
Ngành:
KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Chuyên ngành: KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Giảng viên hướng dẫn : TS. Trịnh Hoàng Ngạn
Sinh viên thực hiện
: Đặng Thủy Tiên
MSSV
: 1411090095
Lớp
: 14DMT01
TP. Hồ Chí Minh, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN GÂY LŨ - LỤT VÀ PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, TRÁNH LŨ - LỤT Ở TỈNH ĐỒNG THÁP THUỘC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG.
Ngành:
KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Chuyên ngành: KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Giảng viên hướng dẫn : TS. Trịnh Hoàng Ngạn
Sinh viên thực hiện
: Đặng Thủy Tiên
MSSV
: 1411090095
Lớp
: 14DMT01
TP. Hồ Chí Minh, 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 : ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÙNG ĐBSCL VÀ TỈNH ĐỒNG
THÁP LIÊN QUAN TỚI TÌNH TRẠNG LŨ, LỤT ................................................. 10
1.1 Tóm tắt về lưu vực sông Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long ................. 10
1.1.1 Lưu vực sông Mekong ................................................................................... 10
1.1.2 Ủy hội sông Mekong Quốc tế MRC .............................................................. 13
1.2 Phụ lưu Tonle Sap và Châu thổ sông Mekong ................................................ 17
1.2.1 Sông Tonle Sap và Biển Hồ (Great Lake) .................................................... 17
1.2.2 Cơ chế điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ......................................................... 18
1.2.3 Châu thổ sông Mekong: ................................................................................ 21
1.3 Đồng bằng sông Cửu Long ................................................................................ 22
1.3.1 Điều kiện tự nhiên......................................................................................... 22
1.3.2 Vùng ngập lũ ĐBSCL ................................................................................... 32
1.3.3 Điều kiện KTXH vùng ĐBSCL ..................................................................... 33
1.4 Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Đồng Tháp liên quan tới ngập, lụt .................... 34
1.4.1 Vị trí địa lý .................................................................................................... 34
1.4.2 Địa hình và địa mạo: .................................................................................... 36
1.4.3 Địa chất, thổ nhưỡng .................................................................................... 38
1.4.4 Đặc điểm khí tượng của tỉnh Đồng Tháp: .................................................... 40
1.4.4 Đặc điểm thủy văn và hệ thống sông kênh, rạch của tỉnh Đồng Tháp ......... 43
CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ LŨ, LỤT .................................... 44
2.1 Một số khái niệm và thuật ngữ về lũ, lụt ......................................................... 44
2.1.1 Khái niệm về lũ, lụt, úng, ngập ..................................................................... 44
i
2.1.2 Một số thuật ngữ thông dụng về lũ, lụt ......................................................... 45
2.1.3 Tiêu chuẩn thiết kế: ...................................................................................... 46
2.2 Tổng quan nghiên cứu phòng tránh lũ, lụt ...................................................... 47
2.2.1 Cơ sở khoa học nghiên cứu thủy văn công trình .......................................... 47
2.2.2 Các phương pháp tính toán .......................................................................... 48
2.2.4 Phân tích các đặc trưng thủy văn và mưa .................................................... 52
2.3 Tình hình lũ, lụt trên Thế giới .......................................................................... 55
2.3.1. Tổng quan và nguyên nhân .......................................................................... 55
2.3.2. Lũ lụt ở Trung Quốc: ................................................................................... 56
2.3.3 Trận lũ, lụt ở Ấn Độ: .................................................................................... 57
2.3.4 Lũ lụt ở Châu Âu: ......................................................................................... 57
2.3.5 Cập nhật tình trạng ngập nước đô thị ở Mỹ: ............................................... 57
2.3.6 Cập nhật tình trạng ngập nước đô thị ở Pháp năm 2016: ........................... 58
2.3.7 Lũ, lụt ở Thủ đô Bangkok, Thái Lan, năm 2011 ........................................... 59
2.4. Tình hình lũ, lụt ở Việt Nam ............................................................................ 60
2.4.1 Tổng quan ..................................................................................................... 60
2.4.2 Lũ trên lưu vực sông Hồng và trận lụt lịch sử ở Thủ đô Hà Nội năm 2008 62
2.4.3 Lũ trên các hệ thống sông miền Trung và lụt ở Cố đô Huế ......................... 63
2.4.4 Lũ, lụt ở Đà Nẵng ......................................................................................... 63
2.4.5 Lũ trên các hệ thống sông ............................................................................ 63
2.5 Tìm hiểu lịch sử, phân tích nguyên nhân và đặc điểm lũ, lụt ở ĐBSCL ...... 64
2.5.1 Tổng quan về lịch sử lũ, lụt ở ĐBSCL .......................................................... 64
2.5.2 Nguyên nhân chủ yếu gây ra lũ, lụt ở ĐBSCL ............................................. 70
2.5.3 Các đặc điểm lũ, lụt tại ĐBSCL ................................................................... 75
ii
2.5.4 Tác động của lũ ĐBSCL ............................................................................... 79
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG
TRÁNH LŨ, LỤT Ở ĐBSCL VÀ TỈNH ĐỒNG THÁP ........................................... 83
3.1 Phân tích hiện trạng các giải pháp kiểm soát lũ, lụt ở ĐBSCL ..................... 83
3.1.1 Vai trò của ĐBSCL ....................................................................................... 83
3.1.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng thủy lợi vùng ĐBSCL: ......................................... 84
3.1.3 Các giải pháp công nghệ đã thực hiện ......................................................... 86
3.2 Phân tích hiện trạng các giải pháp kiểm soát lũ, lụt ở Đồng Tháp ............... 92
3.2.1 Đặc điểm hệ thống kênh rạch tỉnh Đồng Tháp ............................................ 92
3.2.2 Diễn biến lũ, lụt tỉnh Đồng Tháp: ................................................................ 96
3.2.3 Phân tích rủi ro môi trường hiện trạng các giải pháp lũ ở Đồng Tháp..... 105
CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH THỦY LỢI NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, TRÁNH LŨ, LỤT CHO TỈNH ĐỒNG
THÁP ........................................................................................................................... 118
4.1 Quy hoạch thủy lợi tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030 ..... 118
4.1.1 Nguyên tắc: ................................................................................................. 118
4.1.2. Các phương án bố trí công trình Thủy lợi ................................................. 125
4.2 Cơ sở khoa học điều chỉnh quy hoạch thủy lợi tỉnh Đồng Tháp ................. 126
4.2.1 Vì sao phải điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ tỉnh Đồng Tháp . 126
4.2.2 Cơ sở khoa học điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ tỉnh Đồng
Tháp ..................................................................................................................... 127
4.3 Đề xuất điều chỉnh quy hoạch kiểm soát lũ cho ĐBSCL và Đồng Tháp .... 137
4.3.1 Đề xuất điều chỉnh quy hoạch thủy lợi kiểm soát lũ vùng ĐBSCL ............ 137
4.3.2 Điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ ở Đồng Tháp: ...................... 140
4.3.3 Các khuyên cáo trên quan điểm bảo vệ môi trường ................................... 142
iii
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 148
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTSMK Châu thổ sông Mekong
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐTM Đồng Tháp Mười
HLVSMK Hạ lưu vực sông Mekong
KTXH Kinh tế xã hội
LVSMK Lưu vực sông Mekong
MRC Mekong River Commission (Ủy hội sông Mekong)
MSL Mực nước biển trung bình
TBNN Trung bình nhiều năm
TGLX Tứ giác Long Xuyên
TLVSMK Thượng lưu vực sông Mekong
VCT Vàm Cỏ Tây
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Phân bố diện tích lưu vực sông Mekong theo từng nước ......................... 10
Bảng 1.2: Địa hình lòng hồ của Biển Hồ .................................................................. 17
Bảng 1.3: Cân bằng nước Biển Hồ cho 2 giai đoạn đại biểu .................................... 20
Bảng 1.4: Lưu lượng trung bình tháng tại trạm thủy văn Pakse và Kratie ............... 28
Bảng 1.5: Lưu lượng trung bình tại Tân Châu - Châu Đốc ...................................... 29
Bảng 1.6: Diện tích - Dân số - Đơn vị hành chính của các huyện thị năm 2009 ...... 35
Bảng 1.7: Phân bố diện tích theo cao độ ................................................................... 37
Bảng 1.8: Diện tích các loại đất ở tỉnh Đồng Tháp ................................................... 39
Bảng 1.9: So sánh đặc trưng cơ bản khí hậu vùng nghiên cứu với tiêu chuẩn nhiệt
đới. ............................................................................................................................. 41
Bảng 2.1: Mực nước (Hmax) và lưu lượng đỉnh lũ (Qmax) tại Tân Châu, Châu Đốc .. 78
Bảng 3.1: Tổng hợp hiện trạng đê, bờ bao vùng lũ ĐBSCL. .................................... 85
Bảng 3.2: Đặc điểm chính của hệ thống sông, kênh, rạch khu kẹp giữa hai sông .. 95
Bảng 3.3: Thời gian duy trì lũ theo các cấp mực nước (ngày).................................. 97
Bảng 3.4: Lưu lượng bình quân ngày lớn nhất tràn vào vùng ĐTM (m3/s) ............ 100
Bảng 3.5: Mực nước và thời gian xuất hiện đỉnh lũ một số trạm nội đồng ............ 101
Bảng 3.6: Thời gian (ngày) duy trì cấp mực nước lũ (cm) vùng ĐTM .................. 102
Bảng 3.7: Mực nước bình quân tháng qua các thời đoạn (Đơn vị: m) ................... 103
Bảng 3.8: Lưu lượng bình quân tháng (1996 - 2007) ............................................. 103
Bảng 3.9: Mực nước và lưu lượng bình quân ngày lớn nhất (m3/s) một số năm ... 104
vi
Bảng 3.10: Lũ đến ĐBSCL theo các tuyến và tỷ lệ của chúng. .............................. 106
Bảng 3.11: Mực nước và lưu lượng lớn nhất ở Tân Châu và Châu Đốc ................ 107
Bảng 3.12: Phân phối lưu lượng lớn nhất vào ĐTM............................................... 108
Bảng 3.13: Mực nước (cm) bình quân tháng nhiều năm ........................................ 111
Bảng 3.14: Mực nước (cm) bình quân tháng giai đoạn 2005 – 2009 ..................... 111
Bảng 3.15: Thông số kỹ thuật của kênh Cái Cỏ - Long Khốt ................................ 114
Bảng 4.1: Vùng kiểm soát lũ có thời gian. .............................................................. 119
Bảng 4.2: Vùng kiểm soát lũ cả năm. ..................................................................... 119
Bảng 4.3: Dự kiến bố trí các ô bao trong các tiểu vùng .......................................... 123
vii
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Lưu vực sông Mekong và các tiểu lưu vực ............................................... 13
Hình 1.2: Lưu vực các sông nhánh của vùng hạ lưu vực sông Mekong .................. 15
Hình 1.3: Phụ lưu Tonle Sap và Biển Hồ thuộc Campuchia .................................... 19
Hình 1.4: Biểu đồ cân bằng nước Biển Hồ cho 2 giai đoạn đại biểu, năm 1998 và
2000 ........................................................................................................................... 21
Hình 1.5: Châu thổ sông Mekong ............................................................................ 22
Hình 1.6: Các đơn vị hành chính của Đồng bằng sông Cửu Long .......................... 23
Hình 1.7: Mạng lưới sông, kênh, rạch ở ĐBSCL ..................................................... 27
Hình 1.8 : Chế độ nước sông Mekong tại trạm Phnom Penh, Campuchia ............... 28
Hình 1.9: Vùng ngập lũ ĐBSCL năm 2000 .............................................................. 33
Hình 1.10: Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Tháp ........................................................ 35
Hình 1.11: Bản đồ địa hình tỉnh Đồng Tháp ............................................................. 37
Hình 1.12: Bản đồ phân bố lượng mưa vùng ĐBSCL .............................................. 43
Hình 2.1: Cảnh ngập lụt ở Trung Quốc ..................................................................... 56
Hình 2.2 : Cảnh ngập lụt ở Ấn Độ, 1970 .................................................................. 57
Hình 2.3: Cảnh ngập lụt ở Hà Lan, 1953 .................................................................. 57
Hình 2.4: Cảnh ngập, lụt trong thành phố New Orleans, Hoa Kỳ ............................ 58
Hình 2.5: Dưới chân tháp Effene là biển nước mênh mông ..................................... 58
Hình 2.6: Sân bay Đôn Mường bị ngập với chiều sâu nước tới 1,5 m ..................... 59
viii
Hình 2.7: Đường phố Hà Nội trong trận lụt tháng 11/2008...................................... 62
Hình 2.8: Nước ngập trên đường phố Đà Nẵng ........................................................ 64
Hình 2.9: Phân vùng độ sâu ngập lụt ở ĐBSCL trong trận lũ năm 2000 ................. 74
Hình 3.1: Bản đồ hiện trạng công trình thủy lợi vùng ĐBSCL, năm 2017 .............. 84
Hình 3.2: Hiện trạng hệ thống đê bao, bờ bao chống lũ ở ĐBSCL, 2017 .............. 88
Hình 3.3: Hiện trạng kỹ thuật và phương pháp thi công đê bao ở Đồng Tháp ....... 110
Hình 3.4. Hình ảnh xói lở cù lao Long Khánh ....................................................... 114
Hình 3.5: Mực nước phía thượng lưu cao hơn nhiều so với mực nước ở hạ lưu .... 115
Hình 4.1. Mô hình phát triển vùng ngập lũ trung bình, kiểm soát lũ tháng VIII .... 121
Hình 4.2. Mô hình phát triển vùng ngập lũ nông, kiểm soát lũ triệt để .................. 121
Hình 4.3. Mô hình kiểm soát lũ triệt để khu dân cư tập trung ................................ 122
Hình 4.4. Mô hình kiểm soát lũ triệt để cho vườn cây ăn quả ................................ 122
Hình 4.5: Hình ảnh vùng ngập lũ trong 2 trận lũ xảy ra năm 2000 và 2011 .......... 126
Hình 4.6: Lụt Chùa Cầu ở Hội An .......................................................................... 131
Hình 4.7: Quá trình phát triển Luật về sông ngòi ở Nhật Bản ................................ 134
Hình 4.8: Dự án kiểm soát lũ biên giới Bắc Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp ............... 139
ix
LỜI CAM ĐOAN
Người thực hiện đề tài xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu được hình
thành và phát triển từ những quan điểm của chính người thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Trịnh Hoàng Ngạn. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực và
các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Người thực hiện đề tài cam đoan
sẽ chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)
LỜI CÁM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân Ban Giám Hiệu Trường Đại học Công Nghệ
TP.HCM. Cảm ơn quý thầy cô giáo, các giảng viên giảng dạy ngành Kỹ thuật Môi
trường về những kiến thức và giúp đỡ chân tình đã dành cho tôi trong bốn năm học
tập tại trường.
Tôi xin chân thành cám ơn thầy TS. Trịnh Hoàng Ngạn, người đã hướng dẫn
tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Cảm ơn thầy đã tận tình chỉ bảo, hỗ trợ và động
viên tôi trong suốt thời gian qua.
Cuối cùng, con xin nói lời biết ơn sâu sắc đối với Ba Mẹ đã chăm sóc, nuôi
dạy con thành người và luôn động viên tinh thần cho con yên tâm học tập.
Do thời gian thực hiện luận văn có hạn, năng lực bản thân còn hạn chế đồng
thời không gian nghiên cứu của đề tài khá rộng nên luận văn chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô để luận văn thêm
hoàn chỉnh.
Tác giả luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)
Đồ Án Tốt Nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
ĐBSCL là vùng hạ lưu cuối cùng của lưu vực sông Mekông trước khi chảy ra
biển, là vùng đất thấp và được xem là vùng đất ngập nước lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL
là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á (ĐNA) và
Thế Giới; là vùng đất quan trọng cho sản xuất lương thực, nuôi trồng thủy sản và trái
cây nhiệt đới lớn nhất cả nước. Nhìn chung, ĐBSCL có tiềm năng phát triển đa dạng,
là một trong những vùng kinh tế trọng điểm quan trọng bậc nhất về an ninh lương
thực của cả nước. Tuy nhiên đây cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro, hạn chế cho phát
triển bền vững, như lũ, lụt, thiếu nước ngọt, chua phèn, đất nhiễm mặn, lún đất v.v...
Trong đó Lũ – lụt ở ĐBSCL là một trong các hạn chế chính tác động đến điều kiện
sinh sống và sản xuất của người dân, cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, y tế, giáo dục
và đặc biệt là sức khỏe cộng đồng dân cư vùng ĐBSCL nói chung và của tỉnh Đồng
Tháp nói riêng.
Lịch sử lũ, lụt ở ĐBSCL trong hơn nửa thế kỷ qua cho thấy các trận lũ lịch sử với
tần suất 3% đã xuất hiện trong các năm 1961, 1966, 2000 và nhiều trận lũ lớn theo
chu kỳ thủy văn xảy ra vào các năm: 1978, 1981, 1984, 1994, 1996, 2001, 2002 và
2011 cũng gây thiệt hại đáng kể cho vùng.
Trong 8 tỉnh bị ảnh hưởng của lũ thì Đồng Tháp là tỉnh đầu nguồn, cùng với An
Giang, Kiên Giang và Long An là những nơi hứng chịu trực tiếp của lũ từ thượng
nguồn đổ về.
Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh, thành thuộc ĐBSCL với diện tích tự nhiên
337.400 ha, chiếm 8,3% diện tích tự nhiên của khu vực. Đồng Tháp có các đặc điểm
tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, khí hậu nóng ẩm quanh năm, đất đai
có tiềm năng khai thác lớn. Ngoài ra, tỉnh Đồng Tháp còn có những thuận lợi riêng
mà nhiều tỉnh trong vùng không có được, đó là: (a) nằm dọc sông Tiền, sông Hậu nên
1
Đồ Án Tốt Nghiệp
có nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm, (b) Hàng năm vào mùa lũ được một lượng
phù sa đáng kể bồi đắp làm tăng độ phì của đất, sự ngập lũ hành năm tạo điều kiện
vệ sinh đồng ruộng, các loại sâu keo, gặm nhấm phá hoại cây trồng cũng bị hạn chế,
(c) Có nguồn thủy sản nước ngọt tự nhiên phong phú, hệ sinh thái đa dạng (d) Cách
xa biển nên không bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập mặn, (e) Với hệ thống giao thông
thủy thuận tiện, có điều kiện phát triển tổng hợp và đa dạng. Trong đó nông nghiệp
là ngành kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên Đồng Tháp cũng có những hạn chế và thách thức cho phát triển bền
vững. Nổi cộm nhất là tình trạng lũ, lụt hàng năm. Đặc biệt trận lũ lịch sử năm 2000
đã gây thiệt hại to lớn cho con người và tài sản của nhân dân trong tỉnh. Ngoài ra với
diện tích lớn đất phèn hoạt động trong tỉnh (vùng Đồng Tháp Mười) cũng đòi hỏi
lượng nước tưới rất lớn cho cây trồng và vật nuôi, chưa kể đến hiện tượng sụt lún do
khai thác nước ngầm quá mức và tình trạng xói lở bờ sông Tiền đang là nguy cơ mất
đất do đói phù sa từ thượng nguồn kết hợp với việc khai thác cát mãnh liệt từ phía
Cambodia, nội vùng ĐBSCL và chính ngay tại tỉnh Đồng Tháp.
Là người con sinh ra tại tỉnh Đồng Tháp, tôi mong muốn đóng góp công sức nhỏ
bé của minh cho cộng đồng dân cư trong tỉnh bằng việc đề xuất đề tài đồ án tốt nghiệp
có tên gọi là: “Tìm hiểu nguyên nhân gây lũ – lụt và phân tích hiện trạng các giải
pháp phòng, tránh lũ – lụt ở tỉnh Đồng Tháp thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long”. Với mục tiêu phân tích tác động của lũ, lụt đối với tỉnh Đồng Tháp nói riêng
và ĐBSCL nói chung, thông qua việc đánh giá hiệu quả các giải pháp phòng tránh lũ,
lụt của tỉnh đã thực hiện. Đồng thời đề xuất điều chỉnh, bổ sung cho quy hoạch thủy
lợi nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của lũ, lụt trên địa bàn tỉnh. Trước bối cảnh
phát triển của các nước thượng lưu và biến đổi khí hậu thì đề tài này đáp ứng được
nhu cầu nghiên cứu khoa học của tỉnh nhằm giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt gây ra cũng
như thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai. Do
đó kết quả nghiên cứu này rất cần thiết và cấp bách cho tỉnh Đồng Tháp nói riêng và
vùng ĐBSCL nói chung.
2
Đồ Án Tốt Nghiệp
Tình hình nghiên cứu:
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ngày nay, các nghiên cứu, thống kê đã đưa ra những con số về sự gia tăng đến
mức chóng mặt những thiệt hại do lũ, lụt gây ra. Nếu như đầu thế kỷ 20, trung bình
mỗi năm trên thế giới, thiệt hại do ngập lụt vào khoảng 100 triệu USD, thì đến nửa
sau của thế kỷ con số này đã vượt quá 1 tỷ, trong mười năm trở lại đây là trên 10 tỷ
USD.
Lũ, lụt là một trong những loại thiên tai gây nhiều thiệt hại nhất cho loài người,
từ cổ chí kim, khắp nơi trên thế giới đã phải chịu những thảm họa khốc liệt do lũ, lụt
gây nên. Sau những thảm họa do ngập lụt trong thế kỷ 20, một số công trình lớn được
xây dựng nhằm bảo vệ người dân và tài sản trong vùng ngập lũ.
Nguyên nhân chính gây lũ, lụt được tóm lược như sau:
- Vị trí nơi ven sông, biển, có địa hình cốt nền thấp, bằng phẳng;
- Do biến đổi khí hậu dẫn tới tình trạng mưa cực đoan, NBD cao đột ngột;
- Do lũ thượng nguồn đổ về hoặc do triều cường, sóng thần v.v…
Các trận lũ lớn tái diễn liên tục tại nhiều nơi trên thế giới đã dẫn đến sự ra đời của
nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của ngập lụt, bao gồm các giải pháp công
trình và phi công trình. Giải pháp công trình trong phòng chống lũ, lụt là sử dụng các
loại hình công trình để làm thay đổi đặc tính lũ và môi trường tự nhiên, nhằm đạt đến
mục tiêu ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại do lũ, lụt gây ra. Có 5 biện pháp công trình
cơ bản là: Chỉnh trị sông, đắp đê, xây dựng công trình phân lũ, xây dựng hồ chứa lũ
và chậm lũ, xây dựng các công trình xử lý đất đai. Ngoài ra còn có một số loại công
trình kiêm dụng khác như: Đê bối, đập ngăn lũ cục bộ, đê bao khu dân cư, khu tôn
cao tránh lũ, đê vây sản xuất (có trạm bơm đi kèm).
Khoa học nghiên cứu thủy văn nói chung và lũ, lụt nói riêng đã phát triển từ đầu
thế kỷ 20, nhất là giai đoạn thập niên 70, do tác động của sự phát triển KTXH và công
nghệ thông tin đã hỗ trợ tìm kiếm lời giải cho những bài toán thủy văn, thủy lực chứa
3
Đồ Án Tốt Nghiệp
nhiều thành phần rất phức tạp. Đặc biệt trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế
kỷ 21, với sự trợ giúp của công nghệ GIS (Geography Informatic System – Hệ thống
thông tin địa lý), các phần mềm tính toán thủy văn cũng được bổ sung, nâng cấp mạnh
mẽ và mang tính tổng hợp. Trong đó những phần mềm có sự bổ sung, nâng cấp như:
SWMM, MIKE v.v phục vụ tính toán thủy văn, thủy lực cho các lưu vực có điều kiện
biên đặc thù khác nhau bao gồm các yếu tố tác động chủ đạo đến dòng chảy đô thị
như: sự biến đổi về mặt đệm do quá trình đô thị hóa, đặc điểm mưa, lũ, thuỷ triều.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam là một trong số các quốc gia đang phát triển phải thường xuyên đối mặt
với các cơn lũ, lụt nghiêm trọng nhất trên thế giới. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, hướng ra biển Đông, một trong 5 trung tâm phát sinh bão/áp thấp nhiệt đới
nhiều nhất trên Thế giới. Theo số liệu thống kê của Cục Đê điều và Phòng chống lụt
bão, Bộ NN&PTNT, từ năm 1954 - 2010, trong tổng số gần 800 cơn bão hoạt động
ở biển Đông thì có 290 cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ hoặc ảnh hưởng trực tiếp
đến thời tiết nước ta, gây ra các trận lũ, lụt hàng năm trên các hệ thống sông suối từ
Bắc chí Nam.
Nguyên nhân chính gây lũ, lụt ở Việt Nam cũng có những nét tương đồng như
các nước trên Thế giới. Đó là sự kết hợp các nguyên nhân chủ quan và khách quan,
nhưng ở Việt Nam nguyên nhân chủ quan do con người tạo ra nổi trội hơn so với
nguyên nhân khách quan. Lũ, lụt ở Việt Nam chủ yếu được tạo ra bởi mưa gió
mùa, bão nhiệt đới và triều cường. Tại các lưu vực sông lớn của Việt Nam như
sông Mekong, sông Hồng, sông Mã, Đồng Nai, hệ thống các lưu vực sông miền
Trung, Tây Nguyên v.v thường xuyên xảy ra lũ, lụt.
Để ứng phó với lũ, lụt, chúng ta đã áp dụng các giải pháp công trình và phi công
trình kết hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau. Bên cạnh các biện pháp công trình như:
Chỉnh trị sông, đắp đê, xây dựng công trình phân lũ, xây dựng hồ chứa lũ và chậm
lũ, xây dựng các công trình xử lý đất đai, cần có các biện pháp phi công trình như:
Quản lý đất đai vùng ngập lụt; dự báo, cảnh báo lũ; thông qua cứu tế, khôi phục
và bảo hiểm lũ để chia sẻ tổn thất do lũ; lập kế hoạch dự phòng tổn thất do lũ…
4
Đồ Án Tốt Nghiệp
Trong thời gian qua, chính quyền từ trung ương đến địa phương đã và đang triển khai
các biện pháp phòng, chống lũ, bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực.
Các Bộ NN&PTNT, Bộ TNMT, Xây dựng đã lập các quy hoạch sống chung an
toàn với lũ, lụt cho lưu vực các hệ thống sông Hồng, hệ thống miền Trung (từ Thanh
Hóa đến Phú Yên) và các tỉnh ĐBSCL. Đây là dự án đầu tư lớn của Chính phủ trong
việc chủ động phòng chống thiên tai lũ, lụt.
Liên quan tới lĩnh vực tài nguyên nước và môi trường, chúng ta đã có 2 luật quan
trọng được Quốc hội thông qua. Đó là Luật tài nguyên nước số No.17/2012 - QH13,
có hiệu lực ngày 21/6/2012 và Luật bảo vệ Môi trường số No.55/2014 - QH13, có
hiệu lực ngày 23/6/2014.
Các dự án, chương trình nghiên cứu về tài nguyên nước và môi trường ở Việt Nam
nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng đã có từ lâu, nhưng phải đến cuối thập kỷ 90
của thế kỷ 20 mới đi sâu và nhanh chóng hội nhập Quốc tế. Có thể liệt kê một số
nghiên cứu điển hình, như: Mekong Delta Master Plan 1993 (Quy hoạch tổng thể
ĐBSCL 1993) do Tư vấn NEDECO của Hà Lan soạn thảo; các quy hoạch Thủy lợi
của Bộ NN&PTNT 2005, Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu
được Chính phủ duyệt vào năm 2012 và gần đây là Mekong Delta Plan 2013 (Kế
hoạch ĐBSCL 2013) do Chính phủ 2 nước Hà Lan và Việt Nam cùng nghiên cứu với
tầm nhìn tới 2100 v.v…
Nhiều dự án nghiên cứu về quản lý tài nguyên nước và môi trường lưu vực sông
Mekong và ĐBSCL được Ủy hội Mekong Quốc tế MRC tiến hành trong nhiều năm
qua đã là cơ sở dữ liệu quý cho các nhà khoa học Việt Nam tham khảo và áp dụng
cho các nghiên cứu trong nước. Trong đó phải kể đến Chương trình Môi trường (Long
Term Envieronment Program, MRC) bao gồm kế hoạch thực hiện nhiều hợp phần
quy mô lưu vực kết nối giữa con người và hệ sinh thái vùng, lưu vực.
Các chương trình và dự án cụ thể như: Flood and salt water intrusion in the Mekong
Delta (Lũ và Xâm nhập mặn ở ĐBSCL) do 2 Chính phủ Úc (AuSaid) kết hợp với
Đức (GIZ) tài trợ trong 2 năm 2011 - 2012.
5
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nhiều hội thảo Quốc tế và trong nước liên quan tới chủ đề quản lý tài nguyên nước
tổng hợp và môi trường vùng ĐBSCL được tổ chức vào những năm gần đây, như:
World Delta 2013 Dialogues, tổ chức tại TP.HCM, do Mỹ tài trợ; MEKONG
ENVIRONMENT SYMPOSIUM 2013 (Diễn đàn môi trường Mekong 2013) do
Chính phủ Đức tài trợ qua Chương trình WISDOM (Water - related Information
System for the sustainable development of the Mekong Delta) v.v…
Các nghiên cứu của 2 đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT là Viện Khoa học Thủy Lợi
miền Nam và Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam về lũ, hạn, xâm nhập mặn và xói
lở bờ sông, ven biển được thực hiện trong nhiều năm qua. Đặc biệt là trận lũ lịch sử
năm 2000 và sự kiện đại hạn-mặn xảy ra năm 2016 được Chính phủ Việt Nam đặc
biệt quan tâm v.v…
Khoa học thủy văn công trình được chú ý nghiên cứu từ thập niên 90 của thế kỷ
20 do nhu cầu tính toán và thực tiễn đã được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học,
chuyên gia trong và ngoài nước tham gia. Mặc dù vậy, bộ môn khoa học thủy văn
vẫn còn rất mới mẻ và phát triển chậm so với sự bùng nổ đô thị trong tiến trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Trong đó đáng chú ý là các nghiên
cứu về mưa và các mô hình mưa (thời đoạn mưa giờ) và ảnh hưởng triều cho các lưu
vực sông Hồng, Mekong và các lưu vực khác. Ngoài ra đã cũng đã áp dụng các bộ
mô hình như SWMM, HYDROLOGIST, VRSAP, KOD, Mike 11, Mike 21 v.v... để
tính toán phục vụ quy hoạch, thiết kế giảm nguy cơ lũ, lụt ở một số lưu vực thông
qua việc áp dụng thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trong các lưu vực khác
nhau hoặc các đề tài nghiên cứu khoa học. Một số phương pháp tính toán của nhiều
tác giả tại các khu vực thuộc Châu Á và trên Thế giới cũng được giới thiệu và áp dụng
trong các nghiên cứu thủy văn của Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Tìm hiểu nguyên nhân gây lũ – lụt và đánh giá hiệu quả giải pháp phòng tránh
lũ, lụt ở vùng ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp. Đồng thời đề xuất giải giáp điều
6
Đồ Án Tốt Nghiệp
chỉnh quy hoạch lũ nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực cho các vấn đề về môi
trường ở ĐBSCL khi phát sinh lũ.
- Nâng cao nhận thức cộng đồng sống chung với lũ và thích ứng với biến đổi
khí hậu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu, thu thập tài liệu về lũ, lụt ở ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp.
- Tìm hiểu, phân tích nguyên nhân hình thành lũ, lụt ở ĐBSCL và tỉnh Đồng
Tháp.
- Phân tích ảnh hưởng của lũ, lụt đến môi trường khu vực ĐBSCL và tỉnh Đồng
Tháp
- Tìm hiểu hiện trạng công tác quản lý môi trường, xác định các vấn đề môi
trường đặc trưng vùng lũ ở khu vực ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất điều chỉnh quy hoạch thủy lợi tỉnh Đồng Tháp nhằm nhằm hạn chế và
giảm thiểu các vấn đề môi trường đặc trưng của vùng lũ ở Đồng Tháp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu thông tin cần thiết liên quan tới đề tài
- Phân tích thống kê và phân tích tổng hợp
- Kết hợp lý thuyết và thực tiễn,
- Nghiên cứu lịch sử lũ, lụt ở ĐBSCL
- Nghiên cứu chế độ thủy văn, thủy lực mùa lũ ở ĐBSCL và LVSMK
- Tương quan thủy văn
- Thừa kế có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước đây
- Tham vấn, trao đổi với giáo viên hướng dẫn và các chuyên gia khác trong và
ngoài nước.
7
Đồ Án Tốt Nghiệp
Dự kiến kết quả nghiên cứu:
- Xây dựng kho tư liệu đã thu thập
- Xây dựng tổng quát các nguyên nhân gây ra lũ, lụt ở ĐBSCL nói chung và
tỉnh Đồng Tháp nói riêng
- Nhận xét về hiệu quả các giải pháp phòng tránh lũ đã được thực hiện ở ĐBSCL
và tỉnh Đồng Tháp
Đề xuất bổ sung quy hoạch và kiến nghị biện pháp giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt
ở ĐBSCL nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của ĐATN là các yếu tố gây lũ, lụt ở Đồng Tháp
nói riêng và ĐBSCL nói chung.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
5.2.1 Phạm vi thời gian
ĐATN được tiến hành từ 5/2018. Đối với các số liệu đánh giá diễn biến lũ,
lụt tại Đồng Tháp và ĐBSCL được phân tích trong thời gian 1961 đến năm 2018.
5.2.2 Phạm vi không gian
Phạm vi không gian của nghiên cứu là tỉnh Đồng Tháp thuộc vùng ĐBSCL.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1 Ý nghĩa khoa học
ĐATN đã đánh giá mộ các tương đối đầy đủ và toàn diện về nguyên nhân,
diễn biến, tác động của lũ, lụt tới các lĩnh vực, khu vực và đề xuất các giải pháp
điều chỉnh quy hoạch nhằm hạn chế và giảm thiểu các vấn đề môi trường đặc
trưng của vùng lũ ở Đồng Tháp.
8
Đồ Án Tốt Nghiệp
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của ĐATN có thể sử dụng như cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc
hoạch định những chính sách liên quan đến lũ, lụt và cho các hoạt động quản lý,
chủ động sống chung với lũ, thích ứng BĐKH của chính quyền và cộng đồng địa
phương.
7. Kết cấu của Đồ án: gồm có 4 chương
- Chương 1: Đặc điểm tự nhiên vùng ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp liên quan tới
tình trạng lũ, lụt.
- Chương 2: Tổng quan nghiên cứu về lũ, lụt.
- Chương 3: Phân tích hiện trạng các giải pháp phòng tránh lũ, lụt ở ĐBSCL và
tỉnh Đồng Tháp.
- Chương 4: Đề xuất điều chỉnh quy hoạch thủy lợi nhằm nâng cao hiệu quả
phòng, tránh lũ, lụt cho tỉnh Đồng Tháp.
9
Đồ Án Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 1 : ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÙNG ĐBSCL VÀ TỈNH ĐỒNG
THÁP LIÊN QUAN TỚI TÌNH TRẠNG LŨ, LỤT
1.1 Tóm tắt về lưu vực sông Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1 Lưu vực sông Mekong
Với chiều dài 4.880 km, Mekong là con sông lớn thứ 12 trên thế giới về diện
tích, thứ sáu về lượng nước (500 tỷ m3), bắt nguồn từ vùng núi Tây Tạng ở độ cao
5.000 m so với mực nước biển trung bình (MSL), chảy qua địa phận 6 nước: Trung
Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Bảng 1.1 mô tả phân bố
diện tích và tỷ lệ đóng góp dòng chảy vào lưu vực sông Mekong (LVSMK).
Bảng 1.1 Phân bố diện tích lưu vực sông Mekong theo từng nước
No Tên nước Diện tích Tỷ lệ diện Tỷ lệ đóng góp tổng
(km2) lượng dòng chảy (%), lưu tích
(%) lượng trung bình
(m3/giây)
1 Việt Nam 72.000 9 11/1.660
2 Campuchia 155.000 20 18 /2.860
3 Lào 213.000 26 35 /5.270
4 Thái Lan 184.000 23 18 /2.560
5 Myanma 24.000 3 2 / 300
6 Trung Quốc 147.000 19 16 / 2.410
100 /15.060 Tổng cộng 795.000 100
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế (MRC)
LVSMK rộng 795.000 km2, chia thành hai phần: thượng lưu vực sông Mekong
(TLVSMK) bao gồm diện tích lưu vực nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc và
Myanma (171.000 km2) và hạ lưu vực sông Mekong (HLVSMK) là diện tích lưu vực
(624.000 km2) của bốn nước Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Phần
HLVSMK bắt đầu từ vùng Tam giác vàng thuộc biên giới 3 nước Thái Lan, Myanma
10
Đồ Án Tốt Nghiệp
và Lào, ở độ cao 500 m MSL, chiếm khoảng 77% tổng diện tích toàn LVSMK (Hình
1.1).
TLVSMK có chiều dài 2.680 km là vùng núi cao hiểm trở, lòng sông lắm thác
ghềnh, thuộc cao nguyên Tây Tạng (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) tuyết phủ quanh
năm, vào mùa khô, tuyết tan duy trì dòng chảy xuống hạ lưu. TLVSMK chịu ảnh
hưởng của khí hậu ôn đới, một phần nhỏ chịu ảnh hưởng cận nhiệt đới gió mùa, lượng
mưa trung bình năm chỉ đạt 1000 – 1700 mm. HLVSMK có chiều dài 2.200 km gồm
phần trung lưu từ Chiang Saen tới Kratie (Campuchia) chiếm khoảng 57% tổng diện
tích lưu vực, là vùng sinh lũ chủ yếu của lưu vực. Qua khỏi Kratie, sông Mekong tiếp
tục chảy vào vùng châu thổ sông Mekong (CTSMK) bao gồm diện tích đồng bằng
của Việt Nam gọi là ĐBSCL, còn lại là diện tích phần châu thổ thuộc Campuchia.
HLVSMK khí hậu chịu ảnh hưởng của chế độ nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa riêng biệt.
Mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 và mùa khô dài hơn, trong những tháng còn
lại. Lượng mưa phân phối không đều trên lưu vực, lớn nhất tới 3.000 - 4.000 mm
ở vùng núi dọc theo dãy Trường Sơn thuộc Lào, Campuchia và Tây Nguyên của
Việt Nam, trong khi vùng cao nguyên Korat của Thái Lan và lưu vực Biển Hồ
lượng mưa chỉ có 1.000 – 1.600 mm.
LVSMK được chia thành 6 vùng địa lý tự nhiên như sau: Vùng núi cao phía
Bắc (IV), vùng núi cao phía Đông (II), Cao nguyên Korat (III), vùng núi cao phía
Nam (V), vùng đồng bằng (I) và lưu vực sông Lang Cang của Trung Quốc (VI).
11
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế (MRC)
Hình 1.1: Lưu vực sông Mekong và các tiểu lưu vực
Các lưu vực sông nhánh của hạ lưu vực sông Mekong
HLVSMK có 128 sông nhánh lớn, nhỏ đổ vào dòng chính Mekong. Trong đó
một số nhánh sông lớn tập trung ở Đông Bắc Thái Lan (Kok Ingnan, Nam Mun, Nam
Chi), ở Lào (Nam Theum, Nam Ou, Xebang Phai, Xebang Hieng), phía Tây Bắc
Campuchia có sông Tonle Sap, một nhánh của sông Mekong, vùng Đông Bắc
Campuchia và Tây Nguyên của Việt Nam cùng chung hệ thống các sông nhánh (Se
Kông, Se San và Srepok). Hình 1.2 mô tả mạng lưới sông vùng HLVSMK.
Dòng chảy sông Mekong do tuyết tan và mưa sinh ra, nhưng phân bố không
đều trên lưu vực. Tổng lượng nước trung bình năm tại của sông khoảng 475 tỷ m3.
12
Đồ Án Tốt Nghiệp
Trong đó tổng lượng nước trung bình năm tại Chiang Sean là 76,5 tỷ m3. Lưu lượng
trung bình nhiều năm khoảng 15.000 m3/s (hiện nay chỉ còn 14.500 m3/s). Lưu lượng
đo được tại trạm Kratie, lớn nhất tới 75.700 m3/s (1939) và nhỏ nhất chỉ có 1.230 m3
(tháng 4 năm 1960). Các nhánh sông phía Tây Trường Sơn đóng góp 70% tổng lượng.
Biển Hồ và Tonle Sap là hồ điều tiết tự nhiên cắt 20% đỉnh lũ và bổ sung 16% nước
cho vùng hạ lưu trong mùa kiệt.
So sánh với các con sông lớn khác, lưu lượng dòng chảy trên sông Mekong
từng năm có thể dự đoán được. Giữa những năm lũ cao và lũ thấp, lưu lượng dòng
chảy rất ít thay đổi. Mặc dù hình thái mưa không thay đổi kể từ năm 1950, vào mùa
khô nước chảy vào sông nhiều hơn và vào mùa mưa nước chảy vào ít hơn. Điều có thể
giải thích ở đây là do những tác động của con người thông qua việc xây dựng các đập
cho tưới tiêu và thủy điện. Chúng trữ lại làm giảm lưu lượng nước đổ vào sông trong
mùa mưa, và xả nước trong mùa khô để tưới tiêu hoặc phát điện.
1.1.2 Ủy hội sông Mekong Quốc tế MRC
1.1.2.1 Lịch sử hình thành:
Ủy ban phối hợp khảo sát hạ lưu vực sông Mekong (HLVSMK), gọi tắt là Ủy
ban sông Mekong (Mekong River Committee - MRC) gồm Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam, ra đời năm 1957, do Liên Hợp Quốc bảo trợ, đánh dấu
bước ngoặt cho sự hợp tác chia sẻ tài nguyên trong lưu vực. Tuy nhiên sự hợp tác
lưu vực bị tác động do những biến cố chính trị xảy ra vào thập kỷ 70 – 80 của thế
kỷ 20, MRC chỉ còn 3 nước Thái Lan, Lào và Việt Nam Cộng hòa, được gọi là
Ủy ban lâm thời sông Mekong (Interim Mekong River Committee). Những năm
giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20, trong xu thế hội nhập để phát triển, sự hợp tác trong
lưu vực đã và đang trở nên nhu cầu cấp bách thúc đẩy sự ra đời hặc nâng cấp các
tổ chức ban đầu thành Ủy hội sông Mekong Quốc tế (Mekong River Commission
– MRC).
13
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế (MRC)
Hình 1.2: Lưu vực các sông nhánh của vùng hạ lưu vực sông Mekong
Ủy hội sông Mekong Quốc tế (Mekong River Commission - MRC) là sự kế thừa
Ủy ban sông Mekong, trên cơ sở “Hiệp định hợp tác phát triển bền vững
HLVSMK”, được ký ngày 5/4/1995 tại Thái Lan, gồm 4 nước HLVSMK.
14
Đồ Án Tốt Nghiệp
1.1.2.2 Hiệp định Mekong 1995:
Hiệp định gồm sáu chương, 42 điều. Trong đó, Chương I: Mở đầu; Chương II:
Ðịnh nghĩa và các thuật ngữ; Chương III: Mục tiêu và các nguyên tắc hợp tác, gồm
mười điều quy định lĩnh vực, đối tượng, phạm vi và các nguyên tắc hợp tác; Chương
IV: Khuôn khổ về thể chế, gồm 23 điều quy định cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động
của tổ chức hợp tác (MRC); Chương V: Giải quyết khác biệt và bất đồng, gồm hai
điều hướng dẫn về cơ chế giải quyết bất đồng nảy sinh giữa các nước khi thực hiện
và Chương VI: Ðiều khoản cuối cùng.
Theo Hiệp định, nguyên tắc cơ bản trong hợp tác giữa các quốc gia thành viên
MRC là đồng thuận, bình đẳng và tôn trọng chủ quyền lãnh thổ. Các vấn đề liên quan
hợp tác Mekong luôn được xem xét và giải quyết bằng các quá trình tư vấn rộng rãi
ở nhiều cấp. Nguyên tắc sử dụng nước công bằng và hợp lý của quốc tế cũng được
áp dụng.
Hiệp định Mekong 1995 và sự ra đời của MRC đã ghi nhận những nhận thức
mới của cả bốn quốc gia thành viên trước những biến đổi về chính trị, kinh tế và xã
hội trong khu vực. Trong khuôn khổ hợp tác mới, MRC đã đưa các quốc gia ven sông
nói chung và Việt Nam nói riêng vào một trang mới trong hợp tác khai thác, phát
triển, quản lý và bảo vệ nguồn nước và các tài nguyên liên quan khác trong khu vực
sông Mekong. Hiệp định là căn cứ pháp lý quan trọng, quy định các nguyên tắc cơ
bản và khung hợp tác chung cho các quốc gia thành viên trong lĩnh vực khai thác và
bảo vệ nguồn nước và các tài nguyên liên quan khác trong vùng hạ lưu sông Mekong,
nhằm đạt được phát triển bền vững, góp phần thực hiện các chiến lược phát triển kinh
tế và các chương trình trọng điểm các quốc gia thành viên trong vùng hạ lưu sông
Mekong, đồng thời góp phần thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ của LHQ và thực
hiện các Công ước quốc tế khác liên quan quản lý, khai thác, phát triển tài nguyên và
bảo vệ môi trường.
Trong các khuôn khổ hợp tác vùng hiện nay trong lưu vực sông Mekong, MRC
là tổ chức có lịch sử hợp tác lâu dài nhất, có mạng lưới giám sát, hỗ trợ kỹ thuật ổn
định, bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan, đồng thời là tổ chức có
15
Đồ Án Tốt Nghiệp
chức năng xây dựng các khung pháp lý vùng, bao gồm những quy chế có tính ràng
buộc cao đối với các quốc gia thành viên về chia sẻ công bằng, hợp lý tài nguyên
nước và cùng nhau bảo vệ môi trường sinh thái lưu vực sông bên cạnh chức năng
thúc đẩy các dự án phát triển chung.
Trong những năm qua, MRC đã đạt được những thành quả nổi bật: Xây dựng
khung pháp lý sử dụng tài nguyên nước và tăng cường đối thoại về phát triển tài
nguyên nước trong vùng, đặc biệt thúc đẩy quá trình quy hoạch toàn lưu vực có tính
điều phối thông qua quản lý tổng hợp tài nguyên nước; nghiên cứu thủy sản và đa
dạng sinh học thủy sinh, đưa ra hỗ trợ quyết định môi trường; mở rộng và tăng cường
mạng giám sát, xây dựng cơ sở dữ liệu, thúc đẩy quản lý và giảm nhẹ tác động của lũ
lụt và hạn hán; giúp các quốc gia thành viên mở rộng các cơ hội thương mại quốc tế
thông qua phương tiện giao thông thủy an toàn, hiệu quả hơn và các khuôn khổ pháp
lý cho giao thông thủy xuyên biên giới, xác định sự cân bằng giữa các cơ hội và nguy
cơ của các dự án thủy điện đang được kiến nghị, khởi động quá trình giúp đỡ người
dân trong lưu vực để thích ứng với biến đổi khí hậu; mở rộng hợp tác giữa MRC với
các đối tác khu vực, vùng và quốc tế, bao gồm, các đối tác đối thoại (Trung Quốc và
Myanmar) và các đối tác phát triển khác. MRC đang bước vào năm cuối cùng của Kế
hoạch chiến lược giai đoạn 2016 - 2020 và chuẩn bị xây dựng Kế hoạch chiến lược
giai đoạn năm năm tiếp theo, từ 2021 - 2025.
Ðối với Việt Nam, Hiệp định Mekong 1995 là cơ sở pháp lý quan trọng (và
cho tới nay là duy nhất về tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực
sông Mekong) để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam đối với vùng ĐBSCL và Tây
Nguyên. Việt Nam luôn gương mẫu, thực hiện nghiêm túc Hiệp định Mekong, tích
cực tham gia giải quyết các mâu thuẫn trong Ủy hội, đóng góp tích cực nhất cho các
chương trình hoạt động của Ủy hội cả về kinh phí, chuyên gia và thông tin số liệu.
Hiệp định Mekong 1995 còn có ý nghĩa quan trọng trong tăng cường quan hệ hữu
nghị và hợp tác giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mekong và các quốc gia khác
trong khu vực.
16
Đồ Án Tốt Nghiệp
1.2 Phụ lưu Tonle Sap và Châu thổ sông Mekong
1.2.1 Sông Tonle Sap và Biển Hồ (Great Lake)
Tonle Sap là một nhánh lớn của sông Mekong, bắt nguồn từ tỉnh Battam Bang,
chảy theo hướng Đông – Bắc và Tây – Nam gặp sông Mekong tại Phnom Penh. Lưu
vực sông Tonle Sap rộng khoảng 8,0 triệu ha, có nhiều sông nhánh đổ vào. Tonle Sap
hợp lưu với sông Mekong ở Chaktomuk. Lưu vực Tonle Sap không có núi cao, xu
thế dốc dần từ hai bên về lòng sông vào Biển Hồ, rồi dốc dần theo hướng dòng chảy
từ Đông – Bắc xuống Tây – Nam. Bảng 1.2 mô tả quan hệ địa hình của Biển Hồ.
Bảng 1.2: Địa hình lòng hồ của Biển Hồ
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế (MRC)
Sông Mekong tiếp nhận nước từ chi lưu chính Tonle Sap tại Phnom Penh. Dòng
chảy trên sông Tonle Sap được cung cấp nước bởi các nhánh sông chảy vào Biển Hồ
ở phía tây Campuchia. Dòng chảy này chuyển hướng trong mùa lũ khi một phần nước
lũ của sông Mekong chảy theo sông Tonle Sap đi vào khu vực trữ nước tự nhiên tạo
ra được gọi là Biển Hồ. Ngay phía dưới hợp lưu của sông Mekong và sông Tonle
Sap, sông Mekong được chia thành 2 nhánh chảy xuống ĐBSCL là sông Tiền và sông
Hậu. Qua sông Vàm Nao có sự phân phối lại dòng chảy từ sông Tiền sang sông Hậu.
Hình 1.4 mô tả hình dạng Biển Hồ và sông Mekong.
Biển Hồ có dạng lòng chảo nông, đáy phẳng, dung tích chứa của hồ rất lớn. Ở
độ sâu 11,0 m, Biển Hồ chứa trên 84 tỷ m3 với diện tích mặt thoáng là 14.000 km2.
Biển Hồ liên thông trực tiếp với sông Mekong qua sông Tonle Sap và vùng ngập lũ
bờ phải sông Mekong. Do đó, chế độ thủy văn của Biển Hồ có mối quan hệ chặt chẽ
17
Đồ Án Tốt Nghiệp
với dòng chảy của sông Mekong. Bảng 1.2 trên đây cho thấy Biển Hồ có cao độ phổ
biến từ 4,0 - 10,0 m MSL. Diện tích vùng giữa đường Quốc lộ số 5 và Quốc lộ số 6
của Campuchia rộng 1,3 triệu ha.
1.2.2 Cơ chế điều tiết tự nhiên của Biển Hồ
Biển Hồ nằm ở thung lũng của Tonle Sap, phân chia sông ra hai khu vực thượng
và hạ lưu. Đây là vựa cá của Campuchia và là hồ chứa điều tiết tự nhiên (nước ngọt)
lớn nhất Châu Á.
Hình 1.3: Phụ lưu Tonle Sap và Biển Hồ thuộc Campuchia
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế MRC
Khi sông Mekong chảy đến Thủ đô Phnom Penh thì chia thành 2 nhánh:
Mekong và Bassac chảy xuống Việt Nam rồi đổ ra Biển Đông. Cũng tại Phnom Penh,
sông Mekong tiếp nhận sự gia nhập của Biển Hồ ở bờ phải thông qua nhánh sông
Tonle Sap. Khu vực sông Mekong chia nhánh và tiếp nhập sông Tonle Sap được gọi
là ngã tư Chaktomuk.
Vào cuối mùa khô, dòng chảy sông Mekong ở mực nước thấp nhất và toàn bộ
dòng chảy nằm trong lòng dẫn sông. Biển Hồ cũng ở mực nước thấp nhất tương ứng
với chiều sâu không quá 1,0 m. Khi mùa mưa nhiệt đới bắt đầu, mực nước sông dâng
lên và làm ngập các khu đất trũng xung quanh. Dòng chảy đến cục bộ từ các sông
nhánh của Tonle Sap cũng bắt đầu đổ vào lòng hồ. Khi mực nước sông tại Phnom
Penh tiếp tục tăng lên thì dòng chảy sông Tonle Sap được trữ lại. Dòng chảy đến từ
18
Đồ Án Tốt Nghiệp
sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ kết hợp với lưu lượng các nhánh sông sẽ tích
đầy hồ cho đến cao độ trên dưới 10 m, diện tích mặt hồ tăng từ 3.000 km2 lên tới
16.000 km2, tương ứng dung tích khoảng 75 - 80 tỷ m3 nước.
Dòng chảy ngược vào Biển Hồ tiếp diễn trong nhiều tháng cho đến khi mùa khô
bắt đầu, quá trình điều tiết tự nhiên sẽ vận hành ngược lại. Khi mực nước sông
Mekong ở Phnom Penh thấp hơn so với Biển Hồ, nước dự trữ trong lòng hồ sẽ chảy
từ hồ xuôi về Phnom Penh, tiếp nước bổ sung cho dòng chảy cơ bản sông Mekong về
ĐBSCL của Việt Nam. Dòng tiếp nước bổ sung của hồ tiếp tục cho đến cuối mùa khô
khi mà mực nước hồ thấp hơn mực nước xung quanh (1,0 m). Chu trình ấy lại xảy ra
trong mùa mùa kế tiếp. Hình 1.4 và Bảng 1.3 mô tả cơ chế điều tiết của Biển Hồ theo
2 giai đoạn tiêu biểu cho 2 mùa trong năm (Nguồn: Ủy hội Mekong MRC).
Biển Hồ và vùng ngập lũ hai bờ sông Mekong đóng vai trò vô cùng quan trọng
cho cả Campuchia và Việt Nam. Về mùa lũ nơi đây là một hồ chứa có dung tích
phòng lũ lớn ( cắt 20% lưu lượng đỉnh lũ), làm chậm và giảm nhẹ lũ cho ĐBSCL. Về
mùa khô, lượng nước cấp hồ bổ sung khoảng 16% dòng chảy Mekong cho vùng hạ
lưu.
19
Đồ Án Tốt Nghiệp
Hình 1.4: Biểu đồ cân bằng nước Biển Hồ cho 2 giai đoạn tiêu biểu 1998 và 2000.
Bảng 1.3: Cân bằng nước Biển Hồ cho 2 giai đoạn đại biểu.
Nguồn: MRC, Water Utilization Program, Start up Project (2004), Overview
of hydrology of the Mekong Basin, 11/2004 [87]; MRC (2003), Consolidation of
20
Đồ Án Tốt Nghiệp
hydro-meteorological roles of Tonle Sap lake and its vicintives, Phase III (basinwide),
CTi Engineering International Co. Ltd. DHI, May 2004
1.2.3 Châu thổ sông Mekong:
CTSMK là một tam giác có đỉnh là Phnom Penh, đáy là biển Đông và vịnh Thái
Lan. Đây là vùng đất thấp, bằng phẳng và được xem là vùng đất ngập nước lớn nhất
của lưu vực. Lưu lượng trung bình của sông Mekong tại Kratie, Campuchia là 15.060
m3/s (14.500 m3/s). Chế độ thủy văn hàng năm theo mùa, mùa lũ gió mùa Tây Nam
(từ tháng 5 đến tháng 10), khi đó trầm tích sông được vận chuyển theo 2 nhánh chính
là Bassac (sông Hậu) và sông Mekong (sông Tiền) vào đồng bằng và vùng ven biển
qua một số cửa sông. Hình 1.5 mô tả mạng lưới sông vùng CTSMK.
Là một đồng bằng trẻ, CTSMK được hình thành khoảng 3 - 5 nghìn năm trước,
muộn hơn gần một thế kỷ so với các đồng bằng lớn khác ở Châu Á, do phù sa sông
Mekong tương tác với thủy triều biển Đông và vịnh Thái Lan xen lẫn tiến trình biển
tiến, biển thoái. CTSMK hiện nay đang phải đối mặt với thách thức lớn về tính bền
vững của nó khi trở nên dễ bị tổn thương do hậu quả can thiệp bởi con người cho nhu
cầu phát triển kinh tê - xã hội của các nước trong LVSMK cũng như sự cạnh tranh
địa chính trị trong khu vực.
21
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Ủy hội sông Mekong Quốc tế MRC
Hình 1.5: Châu thổ sông Mekong
1.3 Đồng bằng sông Cửu Long
1.3.1 Điều kiện tự nhiên
ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển,
phía Tây có đường biên giới giáp Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông
Nam Bộ - vùng kinh tế lớn Việt Nam hiện nay. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối
bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông
thủy. ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính, là vùng có lợi thế về tài nguyên đất đai, sông
ngòi, biển và thềm lục địa cũng như điều kiện khí hậu thuận lợi. Nếu chưa kể hải đảo,
thì tổng diện tích đất đai của cả vùng là 3,9 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích cả
nước, trong đó loại đất tốt nhất là đất phù sa chiếm gần 30%. Vùng ĐBSCL có đường
bờ biển dài hơn 700 km, khoảng 360.000 km2 là khu đặc quyền kinh tế, phía Đông
22
Đồ Án Tốt Nghiệp
giáp biển Đông, phía Nam giáp Thái Bình Dương và phía Tây – Nam giáp vịnh Thái
Lan, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển, khai thác và nuôi
trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hình
1.6 mô tả các đơn vị hành chính của ĐBSCL.
Nguồn: Ủy ban sông Mekong Việt Nam (VNMC)
Hình 1.6: Các đơn vị hành chính của Đồng bằng sông Cửu Long
23
Đồ Án Tốt Nghiệp
1.3.1.1 Địa hình, địa mạo
Ngoài trừ một vài khu vực có đá lộ thiên ở vùng tứ giác Long Xuyên, ĐBSCL
có địa hình bằng phẳng, chỉ có dọc theo biên giới phía Bắc với Campuchia cao độ
mặt đất đạt khoảng 1,5 m MSL. Cao độ trung bình của ĐBSCL xấp xỉ 0,8 m MSL
(MNBTB). Tuy nhiên, một số khác biệt cục bộ về mặt địa hình cũng gây ảnh hưởng
đáng kể đến các điều kiện tiêu thoát nước. Bắt đầu từ Campuchia sông Mekong, sông
Tonle Sap, sông Tiền và sông Hậu chảy ở giữa các dải đê tự nhiên với các khu trũng
cặp song song bên cạnh. Các khu trũng này như những vùng chứa nước lũ rộng lớn
và thường được nối với sông chính bằng các kênh nhỏ. Vào thời kỳ lũ lớn, một số nơi
trên thượng lưu của đồng bằng sông Mekong từ phía dưới Kong Pong Cham đến phía
trên Cần Thơ bị ngập sâu có chỗ đến 4,5 m. Tác động qua lại giữa bồi tích của sông
và biển đã hình thành nên một dải đất hơi cao ở ven biển, nơi đây mặt đất ngập lũ ít
hơn. Hiện tượng xói mòn đang xảy ra dọc theo bờ biển Đông, trong khi đó quá trình
bồi tích đang tiếp tục mở rộng thêm bán đảo Cà Mau về phía Nam và phía Tây.
1.3.1.2 Địa chất và thổ nhưỡng
ĐBSCL được tạo thành do trầm tích sông ngòi và khoáng sinh phèn được hình
thành trong các lớp trầm tích đầm lầy. Việc tiêu thủy lớp khoáng sinh phèn này tạo
nên các vùng đất phèn rộng lớn. Ở gần sông, trầm tích khoáng sinh phèn bị chồng
phủ - bồi các loại trầm tích sông. Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL có phù sa cấu trúc
nặng và thiếu lân. Các loại đất này phù hợp nhất cho việc canh tác lúa. Muốn canh
tác các loại cây trồng cạn, cần phải làm đất kỹ hơn để cải thiện khả năng phát triển
của bộ rễ, đặt biệt khi trồng luân canh với lúa.
Tổng diện tích ĐBSCL, không kể hải đảo, khoảng 3,9 triệu ha. Trong đó khoảng
2,46 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản và 0.38
triệu ha đất lâm nghiệp, nhưng chỉ có 0,2 triệu ha thực sự trồng rừng. Diện tích còn
lại bao gồm đất thổ cư (0,2 triệu ha), đất chưa canh tác (0,4 triệu ha), sông rạch (0,2
triệu ha) và đất chuyên dụng hoặc chưa phân loại (0,25 triệu ha). Tiềm năng mỏ rộng
đất nông nghiệp xấp xỉ 0,2 triệu ha. Quá trình kiến tạo của ĐBSCL vẫn tiếp tục diễn
24
Đồ Án Tốt Nghiệp
ra ở các cửa sông, mũi Cà Mau và Hà Tiên, trong khi vùng bờ biển dọc theo biển
Đông đang bị xói mòn.
1.3.1.3 Khí hậu
ĐBSCL thuộc khu vực ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có
2 mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng V đến tháng XI và mùa khô kéo dài từ tháng
XII đến tháng IV. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoáng 1.800 - 2.000 mm,
dao động từ 2.400 mm ở phía Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600
mm ở vùng phía Đông. Lượng mưa phân bố không đều, vào mùa mưa chiếm 91 -
94% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô lượng mưa trung bình dưới 50 mm, lượng bốc
hơi trung bình năm là 1500 - 1600 mm.
Dưới bức xạ cuả mặt trời lớn, cường độ bốc hơi xảy ra mãnh kiệt. Khí hậu ổn
định, nhiệt độ trung bình 28oC, chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm từ
2.226 – 2.790 giờ, ít xảy ra thiên tai do khí hậu gây ra. Bốc hơi trung bình tháng cũng
như năm cho thấy sự khác nhau giữa các vùng và giữa các mùa khá lớn. Trị số bốc
hơi (ống Piche) cao nhất trong tháng III (2,0 - 5,5 m/ngày) và thấp nhất vào tháng X
(1,8 - 2 mm/ngày) ở hầu hết ĐBSCL.
Độ ẩm tương đối có trị số cao nhất trong tháng VIII - X thay đổi từ 84 - 90%,
độ thấp nhất vào thời kỳ tháng III - V (65 - 80%). Độ ẩm không khí trung bình năm
thay đổi từ 74 - 85%. Những tháng mùa khô có lượng bốc hơi cao trên 170 - 180
(tháng III và IV). Điều đó tác động sâu sắc đến đất và cây cỏ, nhất là đất xám và đất
phèn khi bị khô nước.
Có hai hướng gió thịnh hành, vào mùa khô có gió Đông Bắc, mùa mưa gió Tây
Nam là chính. Gió làm tăng quá trình bốc hơi mặt đất. Trong mùa khô gió thịnh hành
theo hướng Đông - Bắc, tốc độ gió từ 3 - 5 m/s đôi khi đạt tới 10 m/s trong tháng III
và tháng XI - XII gây xói lở vùng bờ biển. Gió Tây - Nam thịnh hành trong mùa mưa,
nhìn chung có tốc độ thấp. Vào mùa mưa, bão ít xuất hiện nhưng những năm gần đây
(1997, 1998) đã có trường hợp tràn qua vùng bờ biển của ĐBSCL gây thiệt hại đáng
kể về người và tài sản.
25
Đồ Án Tốt Nghiệp
1.3.1.4 Thủy văn và tài nguyên nước mặt
Chế độ dòng chảy ở ĐBSCL chịu ảnh hưởng mạnh của dòng chảy sông Mekong,
thủy triều biển Đông, biển Tây và chế độ mưa nội đồng. Do chịu ảnh hưởng của sông
Mekong và chế độ mưa phân mùa nên chế độ dòng chảy có 2 mùa rõ rệt. Mùa lũ mực
nước trên sông rạch dâng cao gây ngập lụt, ngập úng. Mùa kiệt mực nước trên kênh
rạch xuống thấp, gây khó khăn cho việc khai thác nước tưới.
Nguồn nước được lấy từ 2 nguồn chính là từ sông Mekong và nước mưa. Sông
Mekong chảy qua vùng ĐBSCL hàng năm đem lại lượng nước bình quân khoảng 460
tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150 – 160 triệu tấn phù sa. Việc ĐBSCL hàng năm bị
ngập lũ gần 50% diện tích từ 3 – 4 tháng tạo nên một đặc điểm nổi bật của vùng, một
mặt làm hạn chế đối với canh tác, trồng trọt và gây nhiều khó khăn cho đời sống dân
cư nhưng mặt khác cũng tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt, nuôi
trồng thủy sản và bổ sung độ phì nhiêu cho đất trồng trọt.
Các đặc điểm nổi bật nhất về chế độ thủy văn tự nhiên ở ĐBSCL, được mô tả
trong Hình 1.7 và Hình 1.8. Cả chế độ mưa và lưu lượng trong sông đều thay đổi rõ
rệt theo mùa, được đặc trưng bằng các giai đoạn luân phiên với các giá trị rất cao và
rất thấp về lượng mưa và lưu lượng trong sông. Mỗi giai đoạn kéo dài khoảng nửa
năm, giai đoạn thừa xen kẽ với giai đoạn thiếu nước.
Sông Mekong chảy đến Phnom Penh có chi lưu quan trọng là sông Tonle Sap
nối với Biển Hồ, vừa có tác dụng điều tiết trong mùa lũ vừa cấp nước cho hạ du trong
mùa kiệt. Dòng chảy trên sông Tonle Sap do các nhánh sông chảy vào Biển Hồ ở phía
Tây Campuchia cung cấp. Dòng chảy này chuyển hướng trong mùa lũ khi một phần
nước lũ của sông Mekong chảy theo sông Tonle Sap đi vào khu vực trữ nước tự nhiên
đo Biển Hồ tạo ra. Ngay phía dưới hợp lưu của sông Mekong và sông Tonle Sap,
sông Mekong chia thành hai nhánh chính vào Việt Nam là sông Tiền (còn có tên là
Mekong,) và sông Hậu (còn có tên là Bassac). Qua sông Vàm Nao có sự phân phối
lại dòng chảy từ sông Tiền sang sông Hậu. Xuôi về phía hạ lưu, tại Vĩnh Long, sông
Tiền (đoạn từ Vĩnh Long trở ra biển có tên là Cổ Chiên) phân nhánh tạo thành 6 cửa,
trong khi sông Hậu có 3 cửa đổ ra biển.
26
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Hình 1.7 : Mạng lưới sông, kênh, rạch ở ĐBSCL
Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm cỏ Tây bắt nguồn từ Campuchia, ở độ cao 150 m
(MSL) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với chiều dài 220 km, diện tích lưu
vực là 12.900 km2, tiêu nước cho vùng nằm ngay phía Bắc sông Tiền. Hai sông gặp
nhau ở Nhật Ninh, cách bờ biển 36 km cùng đổ ra cửa Xoài Rạp. Sông Vàm Cỏ nhiều
nước trong mùa mưa, nhưng ít nước trong mùa khô, do vậy thủy triều có thể xâm
nhập ngược dòng rất xa về thượng lưu. Mặc dù sông Vàm Cỏ không nằm trong lưu
vực sông Mekong nhưng sông Vàm Cỏ Tây vẫn được nằm trong nghiên cứu quy
hoạch sử dụng đất và nước vì có nhiều kênh mương nối với sông Tiền. Trong mùa
khô, Sông Vàm Cỏ bị ảnh hưởng xâm nhập mặn nhiều hơn so với sông Tiền và sông
Hậu do lưu lượng nước nội tại nhỏ.
27
Đồ Án Tốt Nghiệp
Hệ thống kênh đào chằng chịt là đặc điểm cuả ĐBSCL. Các kênh nối giữa sông
Tiền và sông Vàm Cỏ nhằm đưa nước ngọt trong mùa khô và phù sa trong mùa lũ
cho vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) và hệ thống kênh từ sông Hậu nối với biển Tây
nhầm cung cấp nước ngọt trong mùa khô và thoát nước trong mùa mưa cho vùng tứ
giác Long Xuyên (TGLX) và bán đảo Cà Mau (BĐCM).
Nguồn: Quy hoạch tổng thể ĐBSCL (Mekong Delta Master Plan, VIE 87/031), 1993
Hình 1.8 : Chế độ nước sông Mekong tại trạm Phnom Penh, Campuchia
STT
Tháng
Trạm Pakse
Trạm Kratie
1
I
3.622
2.826
2
II
2.622
2.152
3
III
2.137
1.787
4
IV
1.734 2.067
1.734 2.067
5
V
2.823 3.584
2.823 3.584
6
VI
8.906 11.031
8.906 11.031
Bảng 1.4: Lưu lượng trung bình tháng tại trạm thủy văn Pakse (Lào) và Kratie (Campuchia) m3/s
28
Đồ Án Tốt Nghiệp
VII
16.981 22.968
16.981 22.968
7
VIII
27.231 36.587
27.231 36.587
8
IX
27.551 38.671
27.551 38.671
9
X
16.79 23.931
16.79 23.931
10
XI
8.33 11.685
8.33 11.685
11
XII
4.379 6.059
4.379 6.059
12
Trung bình
10.124 13.747
10.124 13.747
13
Nguồn: Ủy hội Mekong MRC
Bảng 1.5: Lưu lượng trung bình tại Tân Châu - Châu Đốc (m3/s)
Tháng Tân Châu Châu Đốc TC+CĐ Vàm Nao Mỹ Thuận Cần Thơ
6.339 1.364 7.703 2.528 3.811 3.892 1
4.113 772 4.885 1.631 2.482 2.403 2
2.572 483 3.055 1.078 1.494 1.561 3
2.190 389 2.579 900 1.290 1.289 4
3.371 573 3.844 1.325 2.046 1.898 5
7.209 1.440 8.649 2.725 4.484 4.165 6
12.389 2.846 15.235 4.824 7.565 7.670 7
18.449 4.856 23.305 7.102 11.347 11.958 8
20.142 5.855 25.997 8.355 12.848 13.149 9
10 19.214 5.755 24.969 7.773 12.356 12.613
29
Đồ Án Tốt Nghiệp
11 15.093 4.060 19.154 5.852 9.241 9.912
12 10.225 2.511 12.736 3.956 6.269 6.467
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Lưu lượng của hệ thống sông Mekong chỉ đáp ứng yêu cầu nước tưới của ĐBSCL
trong thời kỳ đầu mùa khô và hạn Bà Chằn trong mùa mưa. Trong thời kỳ từ tháng II
đến tháng V lưu lượng sông Mekong xuống thấp, kiệt nhất vào tháng IV.
Lượng bùn cát sông Mekong có trị số trung bình mùa khô là 300 g/m3, mùa lũ đạt
tới 700 - 800 m3/m. Tổng lượng bùn cát hàng năm bồi lắng cho đồng bằng và đổ ra
biển ước tính vào khoảng 100 – 160 triệu tấn phụ thuộc vào cách tính và tác giả.
Úng, ngập: Tình trạng ngập lũ ở phía Bắc ĐBSCL còn trầm trọng thêm do mưa lớn
nội đồng, ở phía Nam, lượng mưa lớn cũng dẫn đến ngập úng trên nhiều vùng đất
nằm ở ngoài khu vực bị ngập lũ do nước sông. Tình trạng này hay xảy ra ở phần Tây
Nam của ĐBSCL, nơi có điều kiện tiêu thoát kém. Các khu vực có điều kiện tiêu
thoát tự nhiên thuận lợi thường ít bị ngập như các dải đất cao ven sông và các khu
vực dễ tiêu bằng thủy triều. Trong các khu vực trũng tiêu thoát kém, thời gian ngập
luôn kéo dài đến tận tháng XII hoặc tháng I. Lượng mưa đầu mùa thường được giữ
lại trong đất, vào tháng VI hoặc tháng VII, khả năng trữ nước bị bão hòa và mực nước
ngầm dâng đến tầng rễ cây, mưa thêm nữa dẫn đến sự bão hòa tầng rễ cây (úng) và
sau đó là ngập. Nhiều vùng rộng lớn vẫn luôn bị úng và ngập trong mùa mưa. Chỉ
những khu đất có khả năng tiêu thoát tốt hơn, do tự nhiên hoặc do con người tác động,
mới thoát khỏi tình trạng này. Vào cuối mùa mưa khi lượng bốc hơi nước lớn hơn
lượng mưa, đất đai lại trở nên khô ráo, độ ẩm của đất giảm và mực nước ngầm tụt
xuống.
Một vấn đề khác nữa là tình trạng ngập lụt do thủy triều thường xảy ra ở vùng ven
biển và các cửa sông chính. Vào thời kỳ triều xuân tháng XII, tháng I có mực nước
biển cao nhất.
Thủy triều và xâm nhập mặn: Một đặc điểm quan trọng khác nữa của chế độ thủy
văn ở ĐBSCL là dao động thủy triều của các vùng biển xung quanh. Biển Đông có
30
Đồ Án Tốt Nghiệp
chế độ bán nhật triều chiếm ưu thế với biên độ triều dao động từ 2,5 - 3,0 m. Thủy
triều ở vịnh Thái Lan lại dạng nhật triều với biên độ dao động chỉ khoảng 0,4 - 1,2
m. Thủy triều biển Đông có tác động đáng kể đối với mực nước trong sông và kênh
rạch ở các vùng ven biển cũng như trong các dọc theo dòng chính sông Mekong lên
đến Campuchia. Điều này cũng tạo khả năng tưới tiêu bằng triều mặc dù diện tích
được tưới tự chảy ở ĐBSCL còn rất hạn chế (khoảng 10%). Hơn nữa, mực nước còn
bị ảnh hưởng bởi chu kỳ dao động mực nước biển hàng năm vào khoảng vài decimet,
mực nước xuống thấp vào tháng VII và cao nhất vào tháng XII, tháng I.
Triều biển Đông có chế độ bán nhật triều không đều, mỗi ngày có 2 đỉnh và 2
chân, với biên độ dao động đỉnh chân lớn nhất từ 3,5 - 4,0 m. Ngoài ra thủy triều biển
Đông còn có chu kỳ tháng, năm và nhiều năm. Trong mỗi tháng có 2 chu kỳ triều,
nghĩa là có 2 thời kỳ mức nước cao và biên độ lớn (triều cường) và 2 thời kỳ mức
nước thấp biên độ nhỏ (triều kém). Trong năm mức nước thấp nhất vào thời kỳ tháng
VI, VII và cao nhất vào thời kỳ tháng XI, XII. Chu kỳ nhiều năm của sóng triều
khoảng 18,6 năm, nhưng sự biến thiên trong chu kỳ nhiều năm không lớn.
Thủy triều vịnh Thái Lan (biển Tây) có dạng nhật triều không đều, hàng ngày
có một đỉnh cao và nhọn, phần chân thì bị kéo dài và đẩy lên cao bởi một đỉnh thấp
thứ hai, biên độ khoảng 0,8 - 1,0 m. Sự giao động của chu kỳ nửa tháng và năm của
triều biển Tây cũng nhỏ hơn rõ rệt so với triều biển Đông. Do vậy, ảnh hưởng của
triều biển Tây đối với ĐBSCL yếu, chỉ lan truyền trên các sông, kênh nhỏ phía Tây
như hệ thống sông Cái Lớn - Cái Bé và một số kênh trục ra vịnh Rạch Giá...
Hệ thống sông, ngòi, kênh rạch dày đặc ở ĐBSCL đã tạo nên sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của dòng chảy sông Mekong và thủy triều vào sâu trong nội đồng. Sự xâm
nhập mạnh mẽ của thủy triều đã kéo theo sự xâm nhập của mặn, làm ảnh hưởng cho
1,7 triệu ha ở vùng ven biển và các sông lớn.
Chua phèn: Thời kỳ từ tháng V đến tháng VII khi các chất acid từ trong đất bị nước
mưa đầu mùa rửa trôi đưa vào kênh. Nước kênh bị chua làm hạn chế việc sử dụng
nước tưới hoặc sinh hoạt. Kinh nghiệm từ trước đến nay cho thấy rằng: nhìn chung
có thể cải thiện nước trong kênh bằng cách tiêu thoát nhanh nước chu đầu mùa mưa.
31
Đồ Án Tốt Nghiệp
Quá trình cải tạo đất phèn có thể tốt hơn nếu chúng ta rửa đất nhiều lần trong mùa
mưa. Tuy nhiên, để làm việc này có hệ thống công trình đồng bộ và quản lý vận hành
hợp lý. Mặc khác lại phải sử dụng lượng nước vốn rất hạn chế trong mùa kiệt.
Các hệ sinh thái tự nhiên: Sông Mekong đã tạo ra nhiều dạng sinh thái tự nhiên,
thay đổi từ các bãi thủy triều, giồng cát và đầm lầy ngập triều ở vùng đồng bằng (ĐB)
ven biển, các vùng cửa sông cho đến vùng ngập lũ, các khu trũng rộng, đầm lầy than
bùn, các dải đất cao phù sa ven sông và bậc thềm phù sa cổ sâu trong nội địa. Có 3
hệ sinh thái tự nhiên trong vùng ẩm ướt gồm: (i) Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven
biển; (ii) Các đầm lầy và hệ sinh thái rừng tràm trong các vùng trũng và (iii) Hệ sinh
thái cửa sông. Mỗi hệ sinh thái có giá trị và chức năng thiết yếu riêng, thường là
không thể đánh giá trực tiếp được về mặt kinh tế. Tất cả các hệ sinh thái này đều rất
nhạy cảm về mặt môi trường.
1.3.2 Vùng ngập lũ ĐBSCL
Phạm vi vùng ngập lũ ĐBSCL được xác định là toàn bộ phần đất liền của các
tỉnh ĐBSCL: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang,
Hậu Giang, TP Cần Thơ và phần diện tích nhỏ của Bến Tre, không kể các đảo nằm
rải rác ở biển Tây thuộc Kiên Giang. Vùng ngập lũ có diện tích tự nhiên là 2.007.670
ha, dân số năm 2013 là 10.385.482 người, tương ứng với 49,35% và 58,13% so với
ĐBSCL. Vùng ngập lũ được chia thành 4 khu vực: Đồng Tháp Mười (ĐTM) gồm các
tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang; Vùng Tứ giác Long Xuyên (TGLX) có các
tỉnh An Giang, Kiên Giang, một huyện của Cần Thơ; Vùng Tây Sông Hậu (TSH) bao
gồm Cần Thơ, Hậu Giang; Vùng giữa có phần diện tích các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long và diện tích nhỏ phía Tây – Bắc tỉnh Bến Tre (Hình 1.9). Trong các
tỉnh bị ngập lũ thì Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Long An là các tỉnh đầu
nguồn đón lũ từ phía Campuchia đổ về, bị ngập sâu nhất, có nơi tới 4,0 m và thời gian
ngập dài nhất (từ 4 - 6 tháng). Trong vùng ngập lũ cũng chia ra 3 mức ngập: nông
(0,5 - 1,0 m), trung bình (1,0 - 2,0 m) và sâu (> 2,0 m) (Hình 1.9).
32
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Hình 1.9: Vùng ngập lũ ĐBSCL năm 2000
Hình 1.9 mô tả vùng ngập lũ của ĐBSCL. Trong đó tỉnh Đồng Tháp thuộc khu
vực ĐTM, nằm ở 2 bờ trái và phải của sông Tiền. Đây là nơi đón lũ sớm nhất và thời
gian bị ngập lâu nhất.
1.3.3 Điều kiện KTXH vùng ĐBSCL
Các ngành kinh tế chủ yếu:
- Cây lúa - cây trồng chủ lực, là sản phẩm chuyên môn hóa cao nhất vùng.
Sản lượng lúa cả vùng năm 2015 đạt 25,7 triệu tấn, chiếm 52,66% sản lượng cả
nước, với nhịp độ tăng trưởng hàng năm khoảng 3,2%. Hằng năm lúa gạo của
vùng ĐBSCL góp phần lớn vào việc cung ứng nhu cầu trong nước và chiếm tới
90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
- Sau lúa là nuôi trồng và khai thác thủy sản. Với 8/13 tỉnh giáp biển, lại
có 2 sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, vùng ĐBSCL có điều kiện thuận lợi để
nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ cũng như nước ngọt.
- Sản lượng thủy sản vùng năm 2015 đạt khoảng 25,2 triệu tấn, chiếm
56% sản lượng cả nước, trong đó thủy sản khai thác chiếm 33,33%. Nhịp độ tăng
33
Đồ Án Tốt Nghiệp
trưởng sản lượng thủy sản hằng năm khoảng 9,25%/năm (cả nước khoảng
8,35%/năm). Đến 2015, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta đã chạm mức
7 tỷ USD.
- Nguồn thủy sản nước ngọt ở ĐBSCL tập trung chủ yếu ở vùng lũ. Đây
là vùng có điều kiện rất thuận lợi cho tôm cá phát triển do mùa nước nổi kéo dài.
- Một lợi thế nữa trong sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL là chăn
nuôi gia súc và gia cầm. Các loại vật nuôi chính là bò (gồm cả bò lấy thịt và bò
sữa) và gia cầm. Gia cầm ở vùng ĐBSCL rất phát triển, chủ yếu là gà và vịt. Số
vịt được nuôi ở khu vực này chiếm đến 80% số vịt được nuôi ở toàn miền Nam
và trên 50% cả nước.
- Ngoài lợi thế về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, cây
ăn trái và nông sản khác được xem là thế mạnh của vùng ĐBSCL như bưởi năm
roi, xoài cát, quýt đường, vú sữa, mía đường, đậu phộng, thơm, dừa và các loại
rau đậu phục vụ cho ngành sản xuất trong nước, tiêu dùng và cho xuất khẩu đã
được các thị trường Thế Giới chú ý nhiều hơn trong thời gian gần đây.
- Trong những năm gần đây kinh tế ĐBSCL có những khởi sắc đáng kể
(tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 12,1%; Khu vực I: 5,9%,
khu vực II: 18,2%, khu vực III: 15,6%), cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực (giảm dần tỉ trọng ở khu vực I và tăng ở khu vực II và III). Đời sống
người dân ngày được nâng cao.
Nền kinh tế chính của vùng ngập lũ ĐBSCL là nông nghiệp, nhìn chung
vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, việc sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, đời sống nhân dân không đồng đều giữa các vùng. Các vùng sâu,
vùng xa phát triển còn ở mức thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
1.4 Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Đồng Tháp liên quan tới ngập, lụt
1.4.1 Vị trí địa lý
Đồng Tháp là một tỉnh đầu nguồn thuộc ĐBSCL có tọa độ địa lý: 100 07’ - 100
58’ Vĩ độ Bắc, 1050 11’ - 1050 56’ Kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Campuchia, có chung
đường biên giới dài khoảng 48 km; Phía Đông - Bắc giáp tỉnh Long An; Phía Đông -
34
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nam giáp 2 tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long; Phía Tây và Tây Nam giáp 2 tỉnh An
Giang và Cần Thơ.Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 328.300 ha, sông Mekong với 2
nhánh Tiền và Hậu chia cắt tỉnh Đồng Tháp thành hai phần.
Nguồn: Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp
Hình 1.10: Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Tháp
Bảng 1.6: Diện tích - Dân số - Đơn vị hành chính của các huyện thị năm 2009
Tên Thành phố/
Đơn vị trực
Diện tích
Dân số
Mật độ dân số
(người/km2)
Thị xã/ Huyện
thuộc
(km2)
(Người)
TP. Cao Lãnh
8 phường, 7 xã
107
161.950
1.514
TP. Sa Đéc
6 phường, 3 xã
60
103.667
2.545
TX. Hồng Ngự
3 phường, 4 xã
12
77.959
639
H. Cao Lãnh
17 xã và 1 thị trấn
491
200.757
409
35
Đồ Án Tốt Nghiệp
H. Châu Thành
11 xã và 1 thị trấn
246
151.411
615
H. Hồng Ngự
11 xã
320
144.295
687
H. Lai Vung
11 xã và 1 thị trấn
238
159.974
672
H. Huyện Lấp Vò
12 xã và 1 thị trấn
246
180.223
733
H. Tam Nông
11 xã và 1 thị trấn
474
104.932
221
H. Tân Hồng
8 xã và 1 thị trấn
311
91.534
294
H. Thanh Bình
12 xã và 1 thị trấn
341
154.580
453
H. Tháp Mười
12 xã và 1 thị trấn
528
136.424
258
17 phường, 119
Toàn Tỉnh
3.374
1.667.707
495
xã và 8 thị trấn
* Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp - năm 2009.
1.4.2 Địa hình và địa mạo:
Địa hình của tỉnh Đồng Tháp có hướng dốc Tây Bắc - Đông Nam, nghĩa là cao
ở vùng biên giới và vùng ven sông Tiền thấp dần về phía trung tâm ĐTM. Theo bản
đồ cấy điểm 1/25.000 của Bộ Thủy Lợi thành lập năm 1984 theo hệ bình chuẩn cao
độ Mũi Nai (chuyển sang Hệ Hòn dấu), vùng này có địa hình bằng phẳng, cao độ phổ
biến từ 1,00 ÷ 2,00 m, cao nhất 4,10 m, thấp nhất 0,77 m. Vùng kẹp giữa hai sông có
địa hình lòng máng, cao ở ven sông Tiền, sông Hậu thấp vào giữa. Cao độ phổ biến
0,90 ÷ 1,30 m, cao nhất 1,67 m, thấp nhất 0,67 m. Dạng địa mạo không có gì đặc biệt
trừ một số gò cao vùng Sa Rài giáp biên giới Việt Nam - Campuchia và hệ thống
kênh rạch, đường giao thông và các khu dân cư chia cắt khu vực thành nhiều ô, vùng
nhỏ hơn (Hình 11 và Bảng 1.7).
36
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp
Hình 1.11: Bản đồ địa hình tỉnh Đồng Tháp
Bảng 1.7: Phân bố diện tích theo cao độ
No Cao độ (m) Diện tích (ha) Diện tích cộng dồn (ha) Tỷ lệ (%)
1,00 - 1,50 1 255.906 255.906 75,84
1,50 - 2,00 2 27.927 283.830 8,28
2,00 - 2,50 3 16.809 300.642 4,98
2,50 - 3,00 4 5.080 305.722 1,51
3,00 - 3,50 5 4.000 309.722 1,19
3,50 - 4,00 6 1.162 310.880 0,34
37
Đồ Án Tốt Nghiệp
7 > 4,00 158 311.042 0,05
8 Sông rạch 26.366 337.400 7,81
Nguồn: Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp
1.4.3 Địa chất, thổ nhưỡng
Đặc điểm cấu tạo địa chất: Địa chất tỉnh Đồng Tháp mang đặc điểm cấu trúc
chung của ĐBSCL, được tạo thành bởi trầm tích bở rời Kanozoi với chiều dày khá
lớn. Theo tài liệu của Liên đoàn địa chất Miền Nam, Đồng Tháp có lớp đá gốc cách
mặt đất 100 ÷ 1000 m. Riêng vùng phía Bắc của tỉnh (vùng gò, đồi Sa Rài) là thềm
phù sa cổ, phần còn lại là lớp trầm tích được bồi tích bởi phù sa trẻ sông, biển thuộc
dạng mềm yếu.
Địa chất công trình: Theo tài liệu khảo sát địa chất dọc theo các tuyến kênh
trục thuộc tỉnh Đồng Tháp:
(a) Lớp 1: dày từ 1,3 m ÷ 2,5 m phân bố phổ biến trên lớp mặt, thành phần chủ
yếu là sét, á sét hoặc á cát màu xám nâu, xám đen chứa nhiều tạp chất hữu cơ đã phân
hủy hoặc bán phân hủy, trạng thái dẻo mềm đến dẻo chảy.
(b) Lớp 2: phân bố cục bộ ở các khu trũng, (Mỹ Hòa, Mỹ Hiệp, Láng Biển và
Châu Thành) không liên tục, thành phần gồm sét lẫn bụi màu nâu chứa tàn tích thực
vật, trạng thái bở rời hoặc dẽo chảy.
(c) Lớp 3: Phân bố phổ biến trong vùng, nằm dưới lớp 1, lớp 2. Thành phần hạt
gồm sét lẫn bụi, hoặc á sét lẫn bụi, sét loang lỗ, xám vàng, xám trắng, trạng thái cứng đến
dẻo chảy. Nhìn chung, địa chất công trình là nền địa chất công trình yếu.
Địa chất thủy văn: Địa chất thủy văn có bốn tầng chứa nước ngầm, tên gọi theo
các giai đoạn trầm tích tính từ trên mặt xuống nền đá gốc như sau: Upper Pleistocene,
Lower Pleistocene, Pliocene và Miocene. Tầng chứa nước Pleistocene là nguồn cung
cấp nước sinh hoạt quan trọng cho nông thôn trong vùng, trong đó: (a) Tầng chứa
nước Upper Pleistocece có bề dày khoảng 128 m, sản lượng nước trung bình đạt 1,0
l/s.m (lít/giây.mét); (b) Tầng chứa nước Lower Pleistocene, ở độ sâu từ 40 ÷128 m,
sản lượng nước trung bình đạt 0,9 ÷ 1,5 l/s.m.
38
Đồ Án Tốt Nghiệp
Tầng Pliocene có độ sâu từ 175 ÷ 400 m, lưu lượng nước đạt từ 0,1 ÷ 1,5 l/s.m.
Chất lượng nước tốt, trữ lượng lớn đủ đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt và công nghiệp.
Tầng Miocene có độ sâu lớn hơn 400 m, chất lượng nước rất tốt, lưu lượng đạt 0,2 ÷
0,8 l/s.m, công suất khai thác đạt 20 ÷ 80 m3/h, trữ lượng lớn đáp ứng yêu cầu khai
thác phục vụ cho dân sinh, công nghiệp
Thổ nhưỡng: Theo bản đồ đất tỉnh Đồng Tháp, tỷ lệ 1/100.000 do Phân viện
Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp biên hội từ bản đồ đất 1/50.000 của các chương
trình 60 - 02, 60 B và các bản đồ đất tỉ lệ 1/5.000 ÷ 1/10.000 của các nông trường,
trong phạm vi tỉnh có 6 nhóm đất chính, bao gồm 14 đơn vị phân loại đất, như Bảng
1.8 sau đây:
Bảng 1.8: Diện tích các loại đất ở tỉnh Đồng Tháp
Tên
Diện tích
Tỷ lệ
Ký
( Ha)
(%)
Việt Nam
Hiệu
Tổng diện tích tự nhiên
337.400
100
A. Các loại Đất
306.076
93,76
I. Đất phù sa:
191.769
59,06
Pb
1. Phù sa được bồi
26.579
8,19
P
2. Phù sa chưa phân dị
19.118
5,89
Pf
3. Phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng
124.055
38,21
Pg
4. Phù sa Glay
8.398
2,59
Ps
5. Phù sa trên nền phèn
13.619
4,19
II. Đất phèn:
84.382
25,99
Sp1 6. Đất phèn tiềm tàng nông
3.183
0,98
Sp2 7. Đất phèn tiềm tàng sâu
8.912
2,74
Sj1
8. Đất phèn hoạt động nông
15.391
4,74
Sj2
9. Đất phèn hoạt động sâu
44.015
13,56
Sd
10. Đ.phèn có lớp sườn tích lũ trên mặt
12.881
3,97
39
Đồ Án Tốt Nghiệp
III. Đất xám:
28.155
8,67
X
11. Đất xám trên nền phù sa cổ
15.787
4,86
Xb
12. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ
2.851
0,88
Xf
13. Đất xám có tầng loang lổ đỏ, vàng
9.517
2,93
IV. Đất cát:
Cz
14. Đất cát giồng
120
0,04
B. Đất thuộc Sông, Rạch
26.359
6,24
Nguồn: Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp
Đặc điểm của các loại đất chính như sau: Đất phù sa chiếm 35% tổng diện
tích toàn tỉnh, phân bố tập trung ven sông Tiền sông Hậu, có nguồn nước tưới dồi
dào, rất thích hợp cho đa dạng hóa cây trồng. Đất phèn chiếm 34%, nhưng trong đó
chỉ có 21% (23.359 ha) là đất phèn nặng (tầng phèn nông) hiện được sử dụng trồng
tràm, đại bộ phận diện tích là phèn nhẹ (tầng phèn sâu) hiện được sử dụng trồng lúa
và cho năng suất khá cao, nhưng mức độ đa dạng hóa cây trồng trên loại đất này hạn
chế hơn nhiều so với đất phù sa. Đất líp chiếm khoảng 17% tổng diện tích tự nhiên,
trong đó có khoảng 30% là đất thổ cư, diện tích còn lại được sử dụng trồng cây lâu
năm, chủ yếu là cây ăn quả. Đất xám chiếm khoảng 8% diện tự nhiên, tuy độ phì
không cao nhưng khá thích hợp với phát triển các loại rau - màu.
1.4.4 Đặc điểm khí tượng của tỉnh Đồng Tháp:
Trạm quan trắc các yếu tố khí tượng: Trong phạm vi tỉnh có trạm Cao Lãnh
đã tiến hành quan trắc nhiều năm và khá đầy đủ các yếu tố khí tượng. Ngoài ra, còn
có mạng lưới trạm khí tượng ở vùng lân cận như Cần Thơ, Châu Đốc, Mỹ Tho... có
nhiều năm tài liệu quan trắc, có thể dùng để tham khảo.
Trạm quan trắc mực nước: quan trắc nhiều năm có các trạm Tân Châu, Hưng
Thạnh, Cao Lãnh. Các trạm quan trắc ngắn hạn hơn, thiết lập trong thời kỳ từ 1977 -
1985 và liên tục quan trắc cho đến nay gồm có: Sa Đéc, Vĩnh Thạnh (Lấp Vò), Hồng
Ngự, An Long, Phong Mỹ, Tràm Chim, Mỹ An. Ngoài ra, còn có những quan trắc
mang tính chất chuyên dùng khác phục vụ các mục tiêu nghiên cứu trong khuôn khổ
phạm vi các dự án và chương trình nghiên cứu ở vùng ĐTM.
40
Đồ Án Tốt Nghiệp
Trạm quan trắc về lưu lượng: có trạm ở Tân Châu ở phía thượng lưu, Mỹ
Thuận ở phía hạ lưu. Ngoài ra còn có tài liệu của các đợt đo lưu lượng trên các tuyến,
điểm khác trong phạm vi tỉnh Đồng Tháp và vùng ĐTM phục vụ cho nghiên cứu ở
vùng dự án.
Đặc điểm khí tượng của tỉnh Đồng Tháp được mô tả trong Bảng 1.9 và Hình
1.12.
Bảng 1.9: So sánh đặc trưng cơ bản khí hậu vùng nghiên cứu với tiêu chuẩn nhiệt đới.
Đặc trưng khí hậu Tiêu chuẩn nhiệt Tỉnh Đồng Tháp
đới
Tổng nhiệt độ năm 7500 95000C 9700 100000C
Nhiệt độ trung bình năm Trên 210C 26,5 26,80C
Số tháng có nhiệt độ < < 4 tháng Không có tháng nào
200C
Nhiệt độ tháng lạnh nhất > 18 0C > 25 0C
Biên độ nhiệt độ năm 1 6 0C 2,9 3,4 0C
Lượng mưa năm 800 1800 mm 1700 2300 mm
a. Đặc điểm mưa năm, phân bố mưa theo mùa
Lượng mưa năm tương đối ổn định qua các năm, hầu hết biến đổi từ 1.100 ÷
1.600 mm. Lượng mưa trung bình năm tại Hồng Ngự 1.219 mm, Cao Lãnh 1.356
mm, Hưng Thạnh 1.522 mm, Sa Đéc 1.414 mm, Thạnh Hưng 1.243 mm. Nói chung,
lượng mưa giảm dần từ phía Tây – Nam lên phía Đông – Bắc.
Lượng mưa phân bố rất không đều trong năm, lượng mưa trong mùa mưa
chiếm khoảng 80 ÷ 90% tổng lượng mưa năm, trong các tháng mùa mưa, lượng
mưa bình quân tháng vượt quá 100 mm, các tháng VIII, IX và X vượt quá 250 mm,
tạo ra sự úng ngập.
Lượng mưa mùa khô chủ yếu tập trung vào các tháng chuyển tiếp tháng XII,
IV chiếm khoảng 80 ÷ 90% lượng mưa mùa khô, trung bình tháng 15 ÷ 60 mm.
41
Đồ Án Tốt Nghiệp
b. Lượng mưa ngày, mưa trận
Khu vực tỉnh Đồng Tháp nói chung, lượng mưa ngày không lớn, đa số < 50
mm. Trung bình mỗi năm có khoảng 3 ÷ 4 ngày mưa lớn hơn 50 mm, số ngày mưa
lớn 100 mm rất ít khi xảy ra, khoảng 3 ÷ 5 năm mới xảy ra 1 lần và thường xuất hiện
vào tháng IX ÷ X, đôi khi xảy ra vào tháng VI.
Những trận mưa lớn kéo dài trong nhiều ngày rất ít khi xảy ra, thường mưa
rào vào buổi chiều trong ngày. Nhóm mưa 1 – 3 – 5 ngày Max thường xuất hiện
ngày đầu có lượng mưa lớn nhất, nhỏ dần vào các ngày tiếp theo.
c. Số ngày mưa
Trung bình mỗi năm có khoảng (108 ÷ 122) ngày mưa, mùa mưa trung bình
(12 ÷ 20) ngày mưa trong tháng, mùa khô trung bình (3 ÷ 4) ngày (tháng XII, IV),
tháng I, II, III chỉ trên dưới 1 ngày. Tháng IX, X có số ngày mưa nhiều nhất (16 ÷
20) ngày. Tháng II có số ngày mưa ít nhất, dưới 1 ngày.
d. Chế độ mưa và tình hình úng, hạn
Các tháng trong mùa mưa, mưa đều có khả năng gây úng, nhưng với mức độ
khác nhau. Các năm đều có khả năng xảy ra mưa ngày lớn hơn 50 mm, mưa 3 ngày
max lớn hơn 75 mm, mưa 5 ngày max lớn hơn 100 mm. Trong đó, khả năng xảy ra
các đợt mưa úng vào tháng X là thường xuyên, tháng V ÷ VII ít khả năng xảy ra nhất.
Tuy lượng mưa lớn, nhưng phân bố không đều giữa các tháng trong trong mùa
mưa, đó là yếu tố chính gây nên hạn trong mùa mưa. Vào các tháng đầu mùa mưa
(tháng V ÷ VIII) thường có những đợt không mưa hoặc mưa nhỏ liên tục kéo dài hạn
gây trong vụ HT (hạn Bà Chằng). Tuy hạn không nghiêm trọng, nhưng ảnh hưởng
đến năng suất cây trồng, nhất là các vùng xa nguồn nước ngọt.
42
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp
Hình 1.12: Bản đồ phân bố lượng mưa vùng ĐBSCL
1.4.4 Đặc điểm thủy văn và hệ thống sông kênh, rạch của tỉnh Đồng Tháp
Nằm ở hạ lưu châu thổ sông Mekong, chế độ thủy văn tỉnh Đồng Tháp cũng
như vùng ĐBSCL, chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn sông Tiền, sông Hậu, thủy
triều Biển Đông, chế độ mưa nội vùng. Ngoài ra, hệ thống sông Vàm Cỏ cũng có
những ảnh hưởng nhất định (Hệ thống sông, kênh, rạch xem chi tiết trong Chương
3).
43
Đồ Án Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ LŨ, LỤT
2.1 Một số khái niệm và thuật ngữ về lũ, lụt
2.1.1 Khái niệm về lũ, lụt, úng, ngập
Lũ, lụt là một hiện tượng tự nhiên mang tính chu kỳ của một dòng sông, liên
quan đến lượng mưa kéo dài liên tục, cường suất mưa lớn, tập trung, vượt quá khả
năng thẩm thấu của lớp đất mặt và khả năng tiêu thoát nước của lòng dẫn gây nên
hiện tượng nước chảy tràn gây ngập, nhấn chìm các vùng trũng, thấp ở hai bên bờ
sông. Có 2 khái niệm về lũ, lụt như sau:
Theo định nghĩa của Cục Đê điều và Phòng chống lụt bão, Bộ NN & PTNT
(Sổ tay phòng chống lụt bão):
Lũ là hiện tượng mực nước và lưu lượng sông tại một trạm thủy văn dâng cao
đột ngột trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa
mưa lũ, những trận mưa từng đợt liên tiếp trên lưu vực sông, làm cho nước
sông từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những trận lũ trên sông, suối. Vào
các tháng mùa mưa có các trận mưa lớn, cường suất mạnh, nước mưa tích luỹ
nhanh, nếu đất tại chỗ đã no nước thì nước mưa đổ cả vào dòng chảy, dễ gây
ra lũ. Lũ lớn và đặc biệt lớn nhiều khi gây ra những thiệt hại to lớn về người
và của cải.
Lụt là hiện tượng mực nước sông dâng cao tràn bờ hoặc đê bị vỡ, nước chảy
vào đồng ruộng/khu trũng gây ngập nước đến mức chiều sâu ngập ảnh hưởng
tới tính mạng hoặc tài sản của cư dân trong vùng ngập thì được gọi là lụt.
Khi nước ngập trong một vùng, khu vực không thoát được gọi là bị úng.
Theo lý thuyết của khoa học thủy văn:
Lũ là một hiện tượng biểu hiện của biến cố/sự cố, gây ra do các dòng sông có
lưu lượng lớn, động năng mạnh dị thường, diễn ra trong lòng dẫn của dòng
chảy tự nhiên hay nhân tạo hoặc mở rộng trên các địa hình trũng, thấp kề cận
các dòng chảy, với sức mạnh có thể cuốn trôi các vật cản tự nhiên như: đất,
44
Đồ Án Tốt Nghiệp
đá, nhà cửa, đê đập, cầu cống v.v… có thể phá hủy địa hình và đe dọa đến tính
mạng và tài sản của con người trong vùng ngập lũ.
2.1.2 Một số thuật ngữ thông dụng về lũ, lụt
Ngoài ra, căn cứ vào mực nước lũ trung bình nhiều năm (TBNN), lũ được phân
thành 5 loại:
Lũ nhỏ là loại có đỉnh lũ thấp hơn mức đỉnh lũ TBNN.
Lũ vừa là loại có đỉnh lũ đạt mức đỉnh lũ TBNN.
Lũ lớn là loại có đỉnh lũ cao vượt mức đỉnh lũ TBNN.
Lũ đặc biệt là loại có đỉnh cao hiếm thấy trong các thời kỳ quan trắc.
Lũ lịch sử là loại có đỉnh cao nhất trong thời kỳ quan trắc hoặc điều tra khảo
sát được.
Lũ cực hạn được sử dụng ở một số nước trên Thế giới, như Hà Lan, Ấn Độ,
các nước ở Trung Đông v.v... áp dụng khi tính toán tần suất lũ thiết kế bảo vệ
các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật, quân sự quan trọng, khu vực đầu mối
đô thị công nghiệp, dân cư đông đúc v.v…
Độ lớn của lũ: là độ cao của mực nước sông dâng lên trong mùa lũ, nhưng phổ
biến hơn nó được hiểu là lưu lượng cực đại của dòng chảy trong trận lũ.
Đỉnh lũ: là mực nước cao nhất quan trắc được trong một trận lũ tại một tuyến
đo (trạm quan trắc thủy văn). Đỉnh lũ năm là đỉnh lũ cao nhất trong năm. Đỉnh
lũ trung bình nhiều năm là trị số trung bình của các đỉnh lũ năm trong thời kỳ
quan trắc.
Mùa nước nổi ở ĐBSCL: trước năm 1975, người dân ở đây gọi mùa mưa, lũ là mùa
nước nổi hay mùa nước lên do cường suất lũ trong ngày quá nhỏ (trung bình mực
nước thay đổi khoảng 4 – 10 cm/ngày, cao nhất cũng chỉ đạt 30 cm/ngày). Từ “Lũ”
chỉ được các kỹ sư Thủy lợi sử dụng phổ biến sau trận lụt năm 1978 xảy ra ở ĐBSCL.
Ngoài ra bà con nông dân miền Tây còn có cụm từ: “Lũ đẹp” khi mực nước mùa lũ
dao động trong khoảng 3,5 - 4,5 m MSL không gây thiệt hại cho mùa màng, đủ nước
cho cây trồng, vật nuôi và nguồn thủy sản phong phú.
45
Đồ Án Tốt Nghiệp
Đồng bằng ngập lũ (flood plain): được hiểu là vùng đất nằm kề bên các con sông
và chịu ảnh hưởng của lũ, lụt theo định kỳ. Đây là nơi tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho
các hoạt động phát triển, nếu như chúng bị đặt ở các vị trí xung yếu đối với hoạt động
của dòng lũ.
Tần suất lũ: Tần suất lũ là khoảng thời gian lặp lại của một trận lũ lớn. Tuy nhiên,
không phải lúc nào xác suất xảy ra lũ cũng có khoảng thời gian lặp lại giống nhau, có
thể xảy ra sớm hơn hoặc chậm hơn.
Tần suất lũ thiết kế có tác dụng quyết định tới quy mô công trình, kích thước các
công trình hạ tầng cơ sở như: cầu, cống, đập tràn, cao trình đê, đập ngăn nước v.v...,
chế độ làm việc các công trình và mức độ an toàn cũng như đánh giá chất lượng công
trình. Vì vậy trong thực tiễn việc tính toán lũ thiết kế có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với hầu hết các công trình thủy lợi, thủy điện, giao thông v.v...
2.1.3 Tiêu chuẩn thiết kế:
Tiêu chuẩn thiết kế dùng để định ra xác suất phục vụ cho việc thiết kế công
trình. Tiêu chuẩn thiết kế lũ quyết định trên cơ sở sự phối hợp có lợi nhất (tối ưu)
giữa giá thành công trình, mức độ bảo đảm an toàn công trình và tất cả các công trình
thi công dựa theo vốn đầu tư và tầm quan trọng được chia ra nhiều cấp khác nhau.
Tần suất lũ thiết kế được quy định theo cấp công trình.
Tiêu chuẩn thiết kế lũ lại chia làm hai loại:
Tiêu chuẩn thiết kế chống lũ (đảm bảo chắc chắn an toàn cho công trình
khi có cơn lũ dự kiến)
Tiêu chuẩn cho thiết kế phòng lũ (đảm bảo an toàn cho vùng hạ lưu công
trình)
Nếu đồng thời có cả hai nhiệm vụ phòng lũ và chống lũ thì tiêu chuẩn chống lũ
cho công trình bao giờ cũng cao hơn hoặc bằng tiêu chuẩn phòng lũ.
Thiết kế lũ ứng với tần suất P = 1% có nghĩa là bình quân trong nhiều năm thì
100 năm mới có một lần xuất hiện nước lũ lớn hơn hoặc bằng tiêu chuẩn đó. Tuy
nhiên, không phải lúc nào xác suất xảy ra lũ lớn cũng có khoảng thời gian lặp lại đúng
như vậy, nó có thể xảy ra sớm hơn hoặc chậm hơn. Có nhiều cách tính tần suất lũ của
46
Đồ Án Tốt Nghiệp
nhiều tác giả khác nhau, nhưng kết quả không đồng nhất. Theo tác giả Nguyễn Khắc
Cường, trong “Giáo trình thủy văn công trình” (trang 113), trường Đại học Bách
Khoa TP.HCM đưa ra công thức tính toán các trận lũ đặc biệt, khác thường như sau:
P = (m/n+1) x 100 %; Trong đó:
P là tần suất lũ đặc biệt
m là số thứ tự của các trận lũ thường
n là số năm quan trắc
2.2 Tổng quan nghiên cứu phòng tránh lũ, lụt
2.2.1 Cơ sở khoa học nghiên cứu thủy văn công trình
Hiệu ứng lũ, lụt là một hiện tượng vật lý, biểu hiện cho đặc trưng thủy văn và
chế độ thủy lực của một lưu vực sông dưới tác động của tự nhiên và con người. Do
đó nghiên cứu lũ, lụt là sự nghiên cứu khoa học về thủy văn lũ trên một lưu vực sông.
Nghiên cứu thủy văn lưu vực sông đã phát triển từ lâu, nhưng phát triển nhất là giai
đoạn thập niên 70 của đầu thế kỷ 20, do tác động của sự phát triển kinh tế đòi hỏi nhu
cầu dùng nước cho nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh, du lịch v.v… và bảo vệ các
công trình hạ tầng cơ sở cũng như các đô thị đông đúc dân cư phòng tránh các trận lũ
hoặc xả lũ từ các hồ chứa thủy lợi, thủy điện.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã hỗ trợ tìm kiếm lời giải cho những bài
toán thủy văn, thủy lực chứa nhiều thành phần rất phức tạp. Đặc biệt trong những
năm đầu thế kỷ 21, với sự trợ giúp của công nghệ GIS, các phần mềm tính toán thủy
văn, thủy lực cũng được bổ sung, nâng cấp mạnh mẽ và mang tính tổng hợp. Trong
đó những phần mềm có sự bổ sung, nâng cấp như mô hình: SSARR (Streamflow
Synthesis and Reservoir Regulation), IQQM, HYDROLOGIST, VRSAP, KOD,
Mike 11, Mike 21 v.v… phục vụ tính toán và dự báo thủy văn lũ cho các vùng có
điều kiện biên đặc thù khác nhau (bao gồm các yếu tố tác động chủ đạo đến dòng
chảy như: sự biến đổi về mặt đệm do quá trình chặt phá rừng đầu nguồn, đặc điểm
mưa, lũ, triều) hoặc tìm lời giải bằng phương pháp chồng lắp bản đồ và thể hiện các
kết quả tính toán trên không gian 2 hay 3 chiều rất trực quan và sinh động.
47
Đồ Án Tốt Nghiệp
Sự bổ sung vào các phần mềm thủy văn, thủy lực trên kênh hở và sông, rạch
cũng như thủy lực công trình nhằm giải quyết các vấn đề phức tạp của dòng chảy đô
thị với các điều kiện biên phức tạp hơn do quá trình đô thị hóa và sự biến đổi khí hậu
toàn cầu. Sự bổ sung vào phần mềm nhằm nâng cao độ chính xác trong mô phỏng ở
3 trạng thái chảy chủ đạo trong chu trình nước bao gồm:
Tính toán lượng mưa hiệu quả (tổn thất do thấm của đất thổ nhưỡng và mặt
đệm)
Dòng chảy trên mặt đệm, sườn dốc (mối quan hệ mưa – dòng chảy)
Chảy trong lòng dẫn nước: bao gồm trong hệ cống thoát nước đô thị (bao gồm
nhiều loại hình công trình thoát nước đô thị như: đường cống ngầm, hồ điều
tiết, trạm bơm, kênh, mương) và trong sông, rạch tự nhiên.
Qua các giai đoạn mô phỏng dòng chảy, sự phát triển của bộ môn thủy văn
còn được sự hỗ trợ của các ngành khoa học khác, nhất là công nghệ thông tin như:
- Các mô hình hướng đến sự khắc phục các hiện tượng phức tạp trong các quá trình
mô phỏng như: Phương pháp SCS (trong giai đoạn mô phỏng lượng mưa hiệu quả
theo thực nghiệm), phương trình ô trũng ngập nước trong mô phỏng sông gạch thiên
nhiên hay khái niệm về kênh có đặc trưng phức tạp.
- Sự phát triển về cách giải hệ phương trình Sainte Venant bằng các phương pháp
sai phân ẩn hay hiện, phần tử hữu hạn, phương pháp Euller v.v… làm cho việc áp
dụng các mô hình thủy văn vào điều kiện cụ thể trở nên phổ biến.
Có nhiều phương pháp tính toán thủy văn, thủy lực dòng chảy lũ đã và đang được
áp dụng trong thực tế. Dưới đây xin giới thiệu một số phương pháp tính toán đang
được ứng dụng nhiều ở trên Thế giới và Việt Nam.
2.2.2 Các phương pháp tính toán
2.2.2.1 Phương pháp tính toán lượng mưa
Có rất nhiều phương pháp tính toán lưu lượng và điều hòa dòng chảy nước
mưa. Hiện nay, người ta thường áp dụng phương pháp tính toán cường độ giới hạn.
Với phương pháp này ta xác định lưu lượng tính toán nước mưa căn cứ vào thời gian
tập trung nước theo công thức sau:
48
Đồ Án Tốt Nghiệp
Q = q x Ψ x F (l/s) (1)
Trong đó:
q: Cường độ mưa tính toán ( l/s.ha)
Ψ: Hệ số dòng chảy
F: Diện tích thu nước tính toán (ha)
Theo công thức trên, ứng với mỗi khu vực khác nhau sẽ có cường độ mưa và
diện tích thu nước khác nhau. Như vậy muốn thay đổi lưu lượng tính toán cho 1 khu
vực đã xác định ta có thể tìm cách để thay đổi hệ số dòng chảy. Bảng tra hệ số dòng
chảy Ψ trong sử dụng tính toán nước mưa theo TCXD 51 - 84:
Dạng bề mặt Hệ số dòng chảy Ψ
Mái nhà và mặt đường bê tông 0,95
Mặt đường bằng đá đẽo và mặt đường nhựa 0,6
Mặt đường bằng đá hộc 0,45
Mặt đường đá dăm không có chất kết dính 0,4
Đường trong vườn nhà bằng sỏi 0,35
Mặt đất 0,3
Bãi cỏ 0,15
Hệ số dòng chảy phụ thuộc vào tính chất, độ dốc và lớp phủ bề mặt, cường độ
mưa và thời gian mưa. Khả năng thấm nước của mặt phủ càng lớn thì hệ số dòng chảy
càng nhỏ. Vì thế, để giảm hệ số dòng chảy ta có thể tăng khả năng thấm nước của bề
mặt.
2.2.1.2 Phương pháp tính lưu lượng lũ lớn nhất theo lượng mưa
Cũng có nhiều phương pháp tính lưu lượng lũ lớn nhất theo lượng mưa. Sau
đây là 2 phương pháp được áp dụng cho các lưu vực miền núi:
a. Áp dụng số liệu khảo sát vết lũ:
Công thức: Qmax = F x V ; V =
Trong đó: Q là lưu lượng lũ (m3/giây); n: hệ số gồ ghề (hệ số nhám)
R: bán kính thủy lực (m)
49
Đồ Án Tốt Nghiệp
I: độ dốc mặt nước (%oo)
C: hằng số Chezi
F: diện tích mặt cắt ngang (m2)
b. Áp dụng số liệu mưa rào:
Công thức: Qmax = 1/3,6 (CI x A)
Trong đó: Qmax là lưu lượng lũ lớn nhất (m3/giây)
R: bán kính thủy lực (m)
I: cường độ mưa rào (mm/h)
C: hệ số dòng chảy
A: diện tích mặt cắt ngang (km2)
2.2.1.3 Phương pháp nghiên cứu bằng mô hình toán
Dòng chảy trong sông, rạch thiên nhiên, nhất là vùng bị ảnh hưởng thủy triều
là dòng không ổn định và không đều. Việc sử dụng mô hình toán để mô phỏng chế
độ dòng chảy không ổn định trong sông ngày càng được ứng dụng rộng rãi ở trong
và ngoài nước. Đặc biệt là chế độ thủy lực vùng ảnh hưởng thủy triều ở ĐBSCL. Cơ
sở lý thuyết của phương pháp này là phương trình Saint Vernant (1871), một nhà
khoa học từ Hoa Kỳ đã thực nghiệm mô phỏng chế độ thủy lực của hệ thống sông
Mississippi.
Thông thường sông, rạch, kênh trong thiên nhiên được mô phỏng bởi hệ
phương trình Saint Vernant, dựa trên quy luật bảo tồn khối lượng, động lượng và
năng lượng (dòng chảy một chiều) dạng đơn giản hay đầy đủ. Hệ phương trình Saint
Venant được viết dưới dạng bảo tồn như sau:
Phương trình liên tục: (6)
Phương trình động lực: (7)
Trong đó:
Z : Mực nước (m); Q : Lưu lượng (m3/giây); A : Diện tích mặt cắt ướt (m2); S0 : Độ
dốc đáy kênh; Sf : Độ dốc do ma sát; q : Lưu lượng nhập lưu bên (m3/giây do lượng
mưa trên các tiểu lưu vực hay nước thải chảy vào)
50
Đồ Án Tốt Nghiệp
Ngoài ra còn có hệ phương trình diễn tả sự lấy nước và thải nước của các ô thấp
trũng (thông qua nút tính toán) can thiệp rất lớn vào diễn biến dòng chảy dọc theo các
kênh rạch ở vùng chịu ảnh hưởng triều được diễn tả bởi phương trình.
(8)
Trong đó: ZJ : Là mực nước tại nút J; SJ : Diện tích mặt thoáng nút; Qk,1 : Là lưu
lượng tại mặt cắt giáp nút (mặt cắt số 1) của nhánh kênh k đổ vào nút; QbJ : Là lưu
lượng biên (m3/s điều kiện biên).
2.2.1.4 Phương pháp mô phỏng
Mô hình mô phỏng kết hợp với điều hành hồ chứa bao gồm tính toán cân bằng
nước của đầu vào, đầu ra hồ chứa và biến đổi lượng trữ. Kỹ thuật mô phỏng đã cung
cấp cầu nối từ các công cụ giải tích trước đây cho phân tích hệ thống hồ chứa đến các
tập hợp mục đích chung phức tạp. Theo Simonovic (1992), các khái niệm về mô
phỏng là dễ hiểu và thân thiện hơn các khái niệm mô hình hoá khác. Các mô hình mô
phỏng có thể cung cấp các biểu diễn chi tiết và hiện thực hơn về hệ thống hồ chứa và
quy tắc điều hành chúng (chẳng hạn đáp ứng chi tiết của các hồ và kênh riêng biệt
hoặc hiệu quả của các hiện tượng theo thời gian khác nhau). Thời gian yêu cầu để
chuẩn bị đầu vào, chạy mô hình và các yêu cầu tính toán khác của mô phỏng là ít hơn
nhiều so với mô hình tối ưu hoá. Các kết quả mô phỏng sẽ dễ dàng thỏa hiệp trong
trường hợp đa mục tiêu. Số phần mềm máy tính đa mục tiêu phổ biến có sẵn có thể
sử dụng để phân tích mối quan hệ quy họach, thiết kế và vận hành hồ chứa. Hầu hết
các phần mềm có thể chạy trong máy vi tính cá nhân đang sử dụng rộng rãi hiện nay.
Hơn nữa, ngay sau khi số liệu yêu cầu cho phần mềm thực hành đã được chuẩn bị, nó
dễ dàng chuyển đổi cho nhau và do đó các kết quả của các thiết kế, quyết định điều
hành, thiết kế lựa chọn khác nhau có thể được đánh giá nhanh chóng.
Có lẽ một trong số các mô hình mô phỏng hệ thống hồ chứa phổ biến rộng rãi
nhất là mô hình HEC - 5, phát triển bởi Trung tâm kỹ thuật thủy văn Hoa Kỳ (Feldman
1981, Wurbs 1996).
51
Đồ Án Tốt Nghiệp
Một trong những mô hình mô phỏng nổi tiếng khác là mô hình Acres
(Sigvaldson 1976), tổng hợp dòng chảy và điều tiết hồ chứa (SSARR - USACE 1987),
Mô phỏng hệ thống sóng tương tác (IRIS) (Loucks và nnk 1989). Gói phần mềm phân
tích quyền lợi các hộ sử dụng nước (WRAP) (Wurbs và nnk, 1993). Lund và Ferriera
(1996) đã nghiên cứu hệ thống hồ chứa sông Missouri và xây dựng mô hình mô phỏng
trong đó nâng cấp kỹ thuật hồi quy cổ điển và sử dụng mô hình quy hoạch động. Jain
và Goel (1996) đã giới thiệu một mô hình mô phỏng tổng quát cho điều hành cấp
nước của hệ thống hồ chứa dựa trên các đường quy tắc điều phối. Mặc dù có sẵn một
số các mô hình tổng quát, vẫn cần thiết phải phát triển các mô hình mô phỏng cho
một (hệ thống) hồ chứa cụ thể vì mỗi hệ thống hồ chứa có những đặc điểm riêng.
2.2.4 Phân tích các đặc trưng thủy văn và mưa
2.2.4.1 Các đặc trưng về chuẩn dòng chảy năm
Chuẩn dòng chảy năm hay chuẩn dòng chảy là trị số dòng chảy năm trung bình
trong nhiều năm với các điều kiện cảnh quan địa lý không thay đổi, cùng thuộc thời kỳ
địa chất và cùng mức độ khai thác tài nguyên nước trên dòng sông.
Chuẩn dòng chảy là đặc trưng cơ bản của nguồn nước được sử dụng để thiết
kế các công trình có liên quan đến tài nguyên nước, đồng thời cũng từ đó mà tìm hiểu
mối liên quan giữa chúng và các nhân tố khí hậu. Bởi vì dòng chảy là sản phẩm của
khí hậu.
Lưu lượng bình quân nhiều năm Qo (m3/giây)
Q = V. F (lưu lượng tức thời) (1.1)
Ở đây: V: tốc độ dòng chảy (m/s); n: hệ số gồ ghề; R: bán kính thủy lực (m);
I: độ dốc mặt nước (%oo); C: hệ số Chezi
và F: diện tích mặt cắt ngang (m2)
Tổng lượng dòng chảy trung bình nhiều năm Wo:
(1.2) Wo = Qo 31,536 106 (m3)
Ở đây 31,536 106 là số giây của một năm
52
Đồ Án Tốt Nghiệp
Modun dòng chảy trung bình nhiều năm Mo
(1.3)
(Vì đổi từ m3 ra lít nên nhân 103)
F – diện tích lưu vực (km2)
Độ sâu dòng chảy trung bình nhiều năm Y0
(mm) (1.4)
(Vì đổi ra mm nên không còn 106 ở tử số)
Hệ số dòng chảy là tỷ số lượng dòng chảy so với lượng mưa.
(1.5)
Hệ số dòng chảy: + Phản ánh mối quan hệ giữa mưa và tổn thất
+ Phản ánh tài nguyên nước trên các vùng của lưu vực
Trên lưu vực sông Đồng nai hệ số dòng chảy thay đổi như sau:
Toàn bộ lưu vực: 0.56; Trên dòng chính: 0.54; Trên lưu vực sông Bé: 0.60
Trên sông La Ngà: 0.57; Trên sông Đa nhim: 0.41; Lưu vực sông Sài gòn: 0.31
Ở Việt Nam qua nhiều nghiên cứu thấy rằng hệ số 0,50 (được áp dụng trên
toàn quốc)
Phương trình cân bằng dòng chảy:
Y = X – Z (1.6)
Đối với lưu vực kín trong thời gian dài thì:
Y= X- Z (1.7)
Theo Sraybe: (1.8)
Ở đây:
Y: dòng chảy bình quân nhiều năm (mm); X: lượng mưa bình quân nhiều năm
(mm);
53
Đồ Án Tốt Nghiệp
Z: lượng bốc hơi bình quân nhiều năm (mm); R: cán cân bức xạ Kcalo/cm2
năm;
L: tiềm nhiệt bốc hơi; W: lượng dòng chảy ngầm trao đổi hoặc hệ số điền đầy;
Theo M.I. Buđưkô, nếu đặt:
Gọi Zo là khả năng bốc hơi lớn nhất. Ở Việt Nam Z0 1400 mm, thì Z sẽ là:
(1.9)
Thay (1.9) vào (1.7) ta sẽ có:
(1.10)
(1.11)
2.2.4.2 Lưu lượng lũ lớn nhất:
Khi không có tài liệu tính toán dòng chảy lũ nên phải xác định bằng phương
pháp gián tiếp. Để kiểm tra, so sánh kết quả tính toán ta tiến hành tính theo nhiều
công thức khác nhau:
Công thức Alecxâyep
Dạng công thức:
Qmp = q.F = 16,67 Hp..F
Trong đó:
Qmp : lưu lượng lớn nhất ứng với tần suất thiết kế P%
: môđun lưu lượng lớn nhất ứng với P% (m3/Skm2) qmp
: hệ số dòng chảy lũ.
: lượng mưa ứng với tần suất thiết kế Hp
F : diện tích lưu vực (km2) = I/H
(với I là cường độ mưa của thời đoạn T ứng với mức bảo đảm P%)
54
Đồ Án Tốt Nghiệp
Công thức kinh nghiệm của Cục Thủy văn Việt Nam
Dạng công thức:
Q = q.F
Trong đó:
Ở đây:
Q: lưu lượng lớn nhất ứng với mức bảo đảm P% (m3/s).
q: môđun lưu lượng lớn nhất ứng với mức bảo đảm P% (m3/Skm2)
F: diện tích lưu vực (km2)
max: hệ số dòng chảy lớn nhất lấy theo từng khu vực khác nhau mà Tổng
Cục Khí tượng Thủy văn kiến nghị
I: cường độ mưa lớn nhất trong một giờ ứng với mức bảo đảm P%
(mm/h)
: hệ số hiệu chỉnh có liên quan đến quan hệ giữa độ dài và diện tích lưu
vực, tốc độ tập trung nước. Hệ số này được phân định từ tài liệu thực
tế từng khu vực.
2.3 Tình hình lũ, lụt trên Thế giới
2.3.1. Tổng quan và nguyên nhân
Ngày nay, các nhà thống kê học đã đưa ra những con số về sự gia tăng đến mức
chóng mặt những thiệt hại do ngập lụt gây ra. Nếu như đầu thế kỷ 20, trung bình mỗi
năm trên thế giới, thiệt hại do ngập lụt vào khoảng 100 triệu USD, thì đến nửa sau
của thế kỷ con số này đã vượt quá 1 tỷ, trong mười năm trở lại đây là trên 10 tỷ USD.
Thậm chí những năm gần đây bão, lũ đã gây thiệt hại tới hàng trăm tỷ USD, như ở
Mỹ do các trận lũ xảy ra do bão vào năm 2005, 2015, 2016.
Các tài liệu nước ngoài cũng chỉ rõ rằng, 20 đến 30 năm gần đây, mức độ lũ, lụt
tăng lên rất rõ rệt. Năm 1968, tại Hội nghị tài nguyên nước, căn cứ vào tình hình công
55
Đồ Án Tốt Nghiệp
trình phòng chống lũ, lụt và tình hình thực hiện qui hoạch phát triển đồng bằng ngập,
lụt, Mỹ đã dự báo tổn thất do lũ gây ra có thể từ 1,7 tỷ USD năm 1960 tăng lên đến
hơn 5 tỷ USD vào năm 2020. Thực tế con số thiệt hại lớn hơn nhiều so với dự báo.
Nguyên nhân gây lũ, lụt trên Thế giới:
- Các vùng định vị tại vị trí ven sông, biển, có địa hình cốt nền thấp;
- Do biến đổi khí hậu dẫn tới tình trạng mưa cực đoan, nước biển dâng cao đột
ngột;
- Do lũ thượng nguồn đổ về;
Các trận lũ lớn tái diễn liên tục tại nhiều lưu vực sông trên thế giới đã dẫn
đến sự ra đời của nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của lũ, lụt, bao gồm
các giải pháp công trình và phi công trình. Dưới đây cung cấp một số số liệu,
thông tin về tình trạng lũ, lụt của một số nước trên Thế giới:
2.3.2. Lũ lụt ở Trung Quốc:
Vào năm 1583 toàn bộ Thành
phố An Cương (nằm trên bờ
Nam sông Hàn Thùy - một
nhánh lớn của sông Dương
Tử) đã bị ngập lụt, gần 5000
người đã tử vong. Do Thành
phố An Cương nằm ở vị trí
thấp, cộng thêm đặc điểm lũ Hình 2.1: Cảnh ngập lụt ở Trung Quốc
nơi đây thường đột ngột và
mạnh mẽ nên thành phố bị
nhấn chìm trong lũ có khi đến
15 lần/năm.
56
Đồ Án Tốt Nghiệp
2.3.3 Trận lũ, lụt ở Ấn Độ:
Khủng khiếp nhất thế kỷ 20
xảy ra ở hạ lưu sông Hằng vào
năm 1970. Những đợt sóng
biển cao đến 10 m làm ngập
hơn 20.000 km2 đất đai. Trên
mặt đất, nước lũ đã cuốn trôi
đi hàng chục thành phố, hàng
trăm làng mạc và số người Hình 2.2 : Cảnh ngập lụt ở Ấn Độ, 1970 thiệt mạng gần 500 ngàn
người
2.3.4 Lũ lụt ở Châu Âu:
Năm 1953 đã xảy ra trận
ngập lụt kinh hoàng tại Hà
Lan, Anh và Đức. Trong đó,
người Hà Lan phải chịu thiệt
hại nặng nề nhất về người và
của. Trong mưa bão, những
cơn sóng với sức tàn phá
khủng khiếp đã đổ ập xuống Hình 2.3: Cảnh ngập lụt ở Hà Lan, 1953
vùng ven biển Bắc Âu làm
nước dâng cao 3 ÷ 4 m tại các
cửa sông Rhine, Maasa,
Schelde và các sông khác.
Tai họa này đã cướp đi sinh mạng của gần 2000 người dân Hà Lan, phá hủy
hơn 470 nghìn ngôi nhà …
2.3.5 Cập nhật tình trạng ngập nước đô thị ở Mỹ:
Cơn bão Katrina đổ bộ vào bang Loisiana, Hoa Kỳ, vào ngày 29/8/2005, với
sức gió đạt tới 241 km/giờ làm hàng nghìn người chết, phá hoại hai con đê bảo vệ
57
Đồ Án Tốt Nghiệp
thành phố New Orleans, khiến 80 % diện tích bị ngập sâu trong nước 7 - 8 m. Thiệt
hại ước tính khoảng 15 tỷ USD (Hình 2.4).
Nguồn: Ảnh tư liệu trên mạng Internet
Hình 2.4: Cảnh ngập, lụt trong thành phố New Orleans, Hoa Kỳ, ngày 29/8/2005
2.3.6 Cập nhật tình trạng ngập nước đô thị ở Pháp năm 2016:
Nước Pháp vừa phải gánh chịu trận lũ, lụt lịch sử xảy ra trên lưu vực sông
Seine. Thiệt hại ước tính khoảng 2,0 tỷ EUR. Hình 2.5 mô tả nước tràn bờ ở thủ đô
Paris, ngày 2/6/2016, gây ngập nhiều nơi trong Thủ đô. Trong đó nước tràn lên tới
chân tháp Effel.
Hình 2.5: Dưới chân tháp Effene là biển nước mênh mông.
58
Đồ Án Tốt Nghiệp
2.3.7 Lũ, lụt ở Thủ đô Bangkok, Thái Lan, năm 2011
Nguồn: Ảnh tư liệu trên Internet
Hình 2.6: Sân bay Đôn Mường bị ngập với chiều sâu nước tới 1,5 m
Trận lũ, lụt đặc biệt lớn, xảy ra trong mùa mưa năm 2011 tại Thái Lan, nghiêm
trọng nhất ở lưu vực sông Chao Phraya, nơi Thủ đô Bangkok chịu thiệt hại khủng
khiếp nhất. Bắt đầu từ cuối tháng 7 và kéo dài liên tục trong hơn hai tháng. Thiệt hại
do trận lũ, theo số liệu sơ bộ đã gây ra 307 ca được báo cáo là tử vong, hơn 2,3 triệu
người bị ảnh hưởng, thiệt hại ước tính lên tới 156,7 tỷ Baht (5,1 tỷ USD) tính đến
thời điểm ngày 18 tháng 10 năm 2011. Lũ, lụt đã tràn ngập khoảng 6 triệu ha đất, hơn
300.000 ha là đất nông nghiệp, trong 58 tỉnh, từ Chiang Mai ở miền Bắc đến các khu
vực của thủ đô Bangkok, nằm gần các nhánh của lưu vực sông Chao Phraya. Đây
được mô tả là "trận lũ, lụt tồi tệ nhất tính về lượng nước và số người dân chịu ảnh
hưởng". Bảy khu công nghiệp lớn đã bị ngập sâu đến 3 mét và ước tính sẽ kéo dài
khoảng 40 ngày. Số liệu người chết và mất tích được thống kê sau trận lũ là 800
người, thiết hại về kinh tế ước tính khoảng 45 tỷ USD và lũy tiến sau trận lụt lên tới
khoảng 85 tỷ USD.
59
Đồ Án Tốt Nghiệp
2.4. Tình hình lũ, lụt ở Việt Nam
2.4.1 Tổng quan
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hướng ra biển Đông, một
trong 5 trung tâm phát sinh bão/áp thấp nhiệt đới nhiều nhất trên Thế giới. Số liệu
thống kê của Cục Đê điều và phòng chống lụt bão, Bộ NN&PTNT, từ năm 1954 -
2010, trong tổng số gần 800 cơn bão hoạt động ở biển Đông (50% xuất phát từ Tây
Thái Bình Dương), thì có 290 cơn bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ hoặc ảnh hưởng
trực tiếp đến thời tiết nước ta, trung bình mỗi năm có 5 cơn, những năm nhiều là
1964 có 16 cơn, năm 1978 có 13 cơn bão đổ bộ vào nước ta và năm 2013 với tổng
cộng 19 cơn, năm 2017 nhiều nhất có 20 cơn bão và áp thấp trên biển Đông đổ bộ
vào Việt Nam gây ra các trận lũ, lụt hàng năm trên các hệ thống sông suối từ Bắc
chí Nam.
Nguyên nhân chính gây lũ, lụt ở Việt Nam cũng có những nét tương đồng như
các nước trên Thế giới. Đó là sự kết hợp các nguyên nhân chủ quan và khách quan,
nhưng ở Việt Nam nguyên nhân chủ quan do con người tạo ra nổi trội hơn so với
nguyên nhân khác quan. Lũ, lụt ở Việt Nam chủ yếu được tạo ra bởi mưa gió mùa,
bão nhiệt đới và triều cường. Tại các lưu vực sông lớn của Việt Nam như sông
Mekong, sông Hồng, sông Mã, sông Đồng Nai, hệ thống các lưu vực sông miền
Trung, Tây Nguyên v.v… thường xuyên xảy ra lũ, lụt.
Để ứng phó với lũ, lụt, chúng ta đã áp dụng các giải pháp công trình và phi
công trình kết hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau. Bên cạnh các biện pháp công trình như:
Chỉnh trị sông, đắp đê, xây dựng công trình phân lũ, xây dựng hồ chứa lũ và chậm lũ,
xây dựng các công trình xử lý đất đai, cần có các biện pháp phi công trình như: Quản
lý đất đai vùng ngập lụt; dự báo, cảnh báo lũ; thông qua cứu tế, khôi phục và bảo
hiểm lũ để chia sẻ tổn thất do lũ; lập kế hoạch dự phòng tổn thất do lũ… Trong thời
gian qua, chính quyền từ trung ương đến địa phương đã và đang triển khai các biện
pháp phòng, chống lũ, bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực.
Các Bộ NN&PTNT, Bộ TNMT, Xây dựng đã lập các quy hoạch sống chung
an toàn với lũ, lụt cho lưu vực các hệ thống sông Hồng, hệ thống miền Trung (từ
60
Đồ Án Tốt Nghiệp
Thanh Hóa đến Phú Yên) và các tỉnh ĐBSCL. Đây là dự án đầu tư lớn của Chính phủ
trong việc chủ động phòng chống thiên tai lũ, lụt.
Liên quan tới lĩnh vực tài nguyên nước và môi trường, chúng ta đã có 2 luật
quan trọng được Quốc hội thông qua. Đó là Luật tài nguyên nước số No.17/2012 -
QH13, có hiệu lực ngày 21/6/2012 và Luật bảo vệ Môi trường số No.55/2014 - QH13,
có hiệu lực ngày 23/6/2014.
Các dự án, chương trình nghiên cứu về tài nguyên nước và môi trường ở Việt
Nam nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng đã có từ lâu, nhưng phải đến cuối thập kỷ
90 của thế kỷ 20 mới đi sâu và nhanh chóng hội nhập Quốc tế. Có thể liệt kê một số
nghiên cứu điển hình, như: Mekong Delta Master Plan 1993 (Quy hoạch tổng thể
ĐBSCL 1993) do Tư vấn NEDECO của Hà Lan soạn thảo; các quy hoạch Thủy lợi
của Bộ NN&PTNT 2005, Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu
được Chính phủ duyệt vào năm 2012 và gần đây là Mekong Delta Plan 2013 (Kế
hoạch ĐBSCL 2013) do Chính phủ 2 nước Hà Lan và Việt Nam cùng nghiên cứu với
tầm nhìn tới 2100 v.v…
Nhiều dự án nghiên cứu về quản lý tài nguyên nước và môi trường lưu vực
sông Mekong và ĐBSCL được Ủy hội Mekong Quốc tế MRC tiến hành trong nhiều
năm qua đã là cơ sở dữ liệu quý cho các nhà khoa học Việt Nam tham khảo và áp
dụng cho các nghiên cứu trong nước. Trong đó phải kể đến Chương trình Môi trường
(Long Term Envieronment Program, MRC) bao gồm kế hoạch thực hiện nhiều hợp
phần quy mô lưu vực kết nối giữa con người và hệ sinh thái vùng, lưu vực.
Các chương trình và dự án cụ thể như: Flood and salt water intrusion in the
Mekong Delta (Lũ và Xâm nhập mặn ở ĐBSCL) do 2 Chính phủ Úc (AuSaid) kết
hợp với Đức (GIZ) tài trợ trong 2 năm 2011 - 2012.
Nhiều hội thảo Quốc tế và trong nước liên quan tới chủ đề quản lý tài nguyên
nước tổng hợp và môi trường vùng ĐBSCL được tổ chức vào những năm gần đây,
như: World Delta 2013 Dialogues, tổ chức tại TP.HCM, do Mỹ tài trợ; MEKONG
ENVIRONMENT SYMPOSIUM 2013 (Diễn đàn môi trường Mekong 2013) do
61
Đồ Án Tốt Nghiệp
Chính phủ Đức tài trợ qua Chương trình WISDOM (Water - related Information
System for the sustainable development of the Mekong Delta) v.v…
Các nghiên cứu của 2 đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT là Viện Khoa học Thủy
Lợi miền Nam và Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam về lũ, hạn, xâm nhập mặn và
xói lở bờ sông, ven biển được thực hiện trong nhiều năm qua. Đặc biệt là trận lũ lịch
sử năm 2000 và sự kiện đại hạn - mặn xảy ra năm 2016 được Chính phủ Việt Nam
đặc biệt quan tâm v.v…
2.4.2 Lũ trên lưu vực sông Hồng và trận lụt lịch sử ở Thủ đô Hà Nội năm 2008
Chỉ tính từ đầu thế kỷ này, trên hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình đã có
16 trận lũ lớn. Lớn nhất là trận lũ lịch sử năm 1971, mực nước lũ đã vượt quá khả
năng chịu đựng của đê. Trong vòng 40 năm từ 1900 - 1945 có 18 năm vỡ đê ở đồng
bằng Bắc Bộ, trung bình cứ 2 năm có một năm vỡ đê, mất mùa. Trận lũ tháng 8 -
1945 (được coi là trận lũ lịch sử lúc bấy giờ) làm vỡ 79 quảng đê, gây ngập 160.000
ha sản xuất, góp phần làm cho gần 2 triệu người chết đói. Trận lũ năm 1957 làm vỡ
đê Mai Lâm. Trận lũ năm 1971, vỡ 3 quảng đê lớn, làm ngập 200.000 ha.
Hình 2.7: Đường phố Hà Nội trong trận lụt tháng 11/2008
Với tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, Hà Nội liên tục được mở rộng trên bề mặt
nhưng chưa được củng cố theo chiều sâu như các đô thị văn minh khác trên Thế giới,
nhiều ao, hồ, vùng trũng là nơi điều hòa nước mưa hình thành tự nhiên đã phải nhường
chỗ cho các công trình xây dựng. Vì vậy, những trận ngập, lụt đã xảy ra hang năm
62
Đồ Án Tốt Nghiệp
sau những cơn mưa có vũ lượng lớn, như trận lụt lịch sử tháng 11/2008 đã để lại tổn
thất nặng nề làm cho 38 người chết và thiệt hại hơn 3.000 tỷ đồng kèm theo những
dư chấn về xã hội và môi trường (Hình 2.7).
2.4.3 Lũ trên các hệ thống sông miền Trung và lụt ở Cố đô Huế
Ở miền Trung, năm 1980 lũ lịch sử trên sông Mã (Thanh Hoá); năm 1978 lũ
lịch sử trên sông Cả, sông La (Nghệ An, Hà Tĩnh); năm 1964 lũ lịch sử ở hầu hết các
sông từ Quảng Trị đến Bình Thuận, các tỉnh khu 5 cũ đều có lụt gây nhiều thiệt hại
về người và của. Năm 1999, 2014 lũ đặc biệt lớn trên lưu vực sông Hương. Năm
2016, 2017 xuất hiện lũ trên các sông từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế, Bình Định, Phú
Yên. Đặc biệt hiện tượng lũ, chồng lũ trên nhiều tuyến hạ lưu công trình thủy lợi,
thủy điện đã gây thiệt hại vô cùng lớn cho tính mạng và tài sản trong vùng ngập lũ.
Đặc biệt Thành phố Huế, một di sản văn hóa của thế giới nhưng năm nào cũng
bị ngập từ 3 đến 4 trận lụt, ngập sâu nhất có nơi trên 4m, ít nhất cũng 1 đến 2 m, làm
cho các cung điện xuống cấp nghiêm trọng. Trận đại hồng thủy năm 1999 ở Huế đã
nhấn chìm 20 huyện, thị xã, làm 595 người chết, tổng thiệt hại ước tính hơn 3.800 tỷ
đồng.
2.4.4 Lũ, lụt ở Đà Nẵng
Tại Đà Nẵng, mỗi khi có mưa lớn, thành phố lại có hơn 30 điểm bị ngập úng
nặng; bão lũ đã làm thiệt hại 1,5% giá trị GDP đối với các tỉnh, thành phố khu vực
miền Trung, trong đó có Đà Nẵng. Hàng năm cứ vào mùa mưa lũ, người dân thành
phố Đà Nẵng phải hứng chịu nhiều trận lụt, gây tổn thất nặng nề về kinh tế - xã hội
của Thành phố.
63
Đồ Án Tốt Nghiệp
Hình 2.8 : Nước ngập tại đường phố Đà Nẵng
2.4.5 Lũ trên các hệ thống sông
Ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ, lũ tháng 10 năm 1952 là trận lũ lớn lịch sử
chưa từng có đối với các sông Đồng Nai, Sài Gòn gây thiệt hại đáng kể. Sau trận lũ
lịch sử năm 1952, lũ lớn cũng xuất hiện trên hệ thống Đồng Nai vào năm 2000, nhưng
quy mô nhỏ hơn trận lũ năm 1952.
2.5 Tìm hiểu lịch sử, phân tích nguyên nhân và đặc điểm lũ, lụt ở ĐBSCL
2.5.1 Tổng quan về lịch sử lũ, lụt ở ĐBSCL
Mạng lưới các trạm quan trắc thủy văn trên LVSMK được người Pháp lắp đặt
từ đầu thế kỷ 20, như 2 trạm Tân Châu và Châu Đốc được xây dựng trong năm 1908
- 1909. Tuy nhiên số liệu của 2 trạm này được quan trắc và lưu trữ từ năm nào chỉ
người Pháp mới biết. Ủy ban sông Mekong MRC được thành lập từ năm 1957, nhưng
số liệu hiện có ở MRC hiện nay chỉ có từ năm 1979. Số liệu trước đó (1968 - 1978)
bị gián đoạn do chiến tranh cục bộ ở 3 nước Đông dương. Có lẽ cơ sở dữ liệu của tổ
chức ESCAP của Liên Hợp Quốc (UN) sẽ lưu trữ số liệu quan trắc của LVSMK dài
hơn.
Lịch sử lũ, lụt của vùng ĐBSCL được tìm hiểu dựa trên các nguồn tư liệu của
MRC, ESCAP, các báo cáo nghiên cứu về tài nguyên nước LVSMK của các tác giả
64
Đồ Án Tốt Nghiệp
trong và ngoài nước. Thậm chí lịch sử còn ghi nhận các sự kiện về lũ, lụt qua lời kể
của các nhân chứng sống trong cộng độngg cư dân vùng ĐBSCL.
Trong 50 năm qua, bình quân 2 năm có 1 năm lũ vượt mức báo động cấp 3
(ứng với mực nước 4,2 m tại Tân Châu). Đã có nhiều thời kỳ lũ lớn xảy ra nhiều năm
liền như các năm 1937 - 1940, 1946 - 1949, 1952 - 1953, 1994 - 1996 và 2000 - 2002.
Theo tài liệu quan trắc được thì trận lũ năm 1961 với đỉnh lũ 5,28 m (MSL Hà Tiên)
tại Tân Châu là trận lũ lớn nhất, lũ năm 1966 có mực nước đỉnh lũ là 5,27 m (MSL
Hà Tiên), đứng thứ 2 và lũ năm 2000 mực nước đỉnh lũ là 5,23 m (MSL Hà Tiên),
đứng thứ 3. Trên sông Mekong, trong 36 năm gần đây, đã xuất hiện các trận lũ lụt
lớn vào các năm 1961, 1966, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996 gây ra ngập lụt kéo dài
nhiều ngày ở châu thổ trong đó có ĐBSCL, nhất là ở ĐTM và TGLX, thậm chí đã
xảy ra trường hợp lũ ngoài sông chỉ ở mức trung bình nhưng vẫn lụt lớn ở ĐTM, như
năm 1978, 1995, 1996 gây ra thiệt hại nghiêm trọng về người và của cải, vật chất.
ĐBSCL là vùng phải chuyển tải và chịu tác động mạnh nhất của dòng chảy lũ
sông Mekong. Do hệ thống sông hạ lưu không đủ khả năng tải hết nước lũ trong thời
gian ngắn nên khi mực nước tại Kratie lên trên 17,0 m, nước lũ sẽ tràn bờ từ dưới
Kông Pông Chàm. Thông thường, đoạn sông giữa Kông Pông Chàm đến Phnom
Penh, lượng tràn có thể chiếm tới 5 – 11% tổng dòng chảy, trong đó 2/3 lượng nước
này chảy vào Biển Hồ. 1/3 lượng nước tràn qua vùng sông Tonle Toch sau đó đổ về
ĐTM. Biển Hồ đóng 1 vai trò quan trọng trong điều tiết lũ tự nhiên cho phần hạ lưu,
trước hết là vùng ngập lụt dưới Phnom Penh đến ĐBSCL. Biển Hồ có thể chứa
khoảng 19 – 20% lượng nước của sông Mekong (khoảng 100 tỷ m3). Tại Phnom Penh,
sông Mekong chia làm 2 nhánh chảy vào địa phận của Việt Nam là Tiền Giang và
Hậu Giang. Phân phối dòng chảy qua sông Tiền và sông Hậu rất khác nhau.
Dòng chảy tại trung, hạ lưu sông Mekong chủ yếu do mưa nên quá trình dòng
chảy phản ánh sự phân bố mưa trong năm. Vùng thượng lưu nằm trong miền ôn đới
và cận nhiệt đới, nguồn cung cấp nước cho sông Mekong ở phần lưu vực này 1 phần
do tuyết tan, 1 phần do mưa. Lượng mưa năm ở đây nhỏ, xấp xỉ 1.000 mm. Phần
trung lưu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam
65
Đồ Án Tốt Nghiệp
(mùa mưa) và Đông Bắc (mùa khô). Thời kỳ gió mùa Tây Nam là thời kỹ có mưa lớn
trong vùng, lượng mưa thường chiếm 75 - 95% lượng mưa cả năm. Lượng mưa trong
năm phân bố không đều, từ 1.000 mm ở vùng Đông Bắc Thái Lan đến 3.500 mm tại
vùng cao nguyên Boloven thuộc Nam Lào và Tây Nguyên của Việt Nam, vùng
Campuchia chỉ mưa khoảng 1600 mm, ĐBSCL mưa khoảng 1800 mm. Từ tháng 5,
lưu vực sông chịu ảnh hưởng ngày càng tăng của gió mùa Tây Nam, mang hơi ẩm từ
biển đến, mạnh nhất là tháng 8, 9, 10. Cũng trong thời gian này, các nhiễu động thời
tiết gây ra mưa lớn. Thông thường, tháng 5, khi gió mùa Tây Nam hoạt động thì mực
nước sông tại Lào, Thái Lan bắt đầu tăng và đạt đỉnh vào giữa tháng 8 hoặc đầu tháng
9, tại Campuchia và ĐBSCL, đỉnh lũ xuất hiện vào cuối tháng 9, đầu tháng 10, cũng
là khi vùng ĐTM, TGLX ngập lụt rộng và sâu nhất.
Sông Tiền và Hậu nối với hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo thành mạng lòng
dẫn chuyển nước lũ từ sông vào vùng trũng ĐTM, TGLX và ngược lại. Các sông
Vàm Cỏ, Mỹ Thanh, Gành Hào, Bảy Háp, Ông Đốc, Cái Lớn v.v... là những sông lớn
nội địa có khả năng tiêu thoát nước lũ, lụt sông Mekong. Ba mặt của đổng bằng bao
bọc bởi biển với chế độ bán nhật triều không đều ở biển Đông và nhật triều của biển
Tây, làm cho hầu như toàn bộ ĐBSCL quanh năm phải chịu tác động của thủy triều.
Dưới đây sẽ mô tả chi tiết các trận lũ lịch sử điển hình ở ĐBSCL.
2.5.1.1 Diễn biến lũ, lụt ở ĐBSCL trước năm 1975:
Theo số liệu thu thập từ nhiều nguồn cho thấy trước năm 1975, vùng ĐBSCL
có 4 trận lũ lịch sử (mực nước trạm Tân Châu đạt mức trên cao độ +5,0 m (MSL Hà
Tiên). Đó là các năm 1904, 1937 (1939), 1961 và 1966). Hai năm 1904 và 1937 không
có nhiều thông tin.
a. Trận lũ năm 1961
Có đỉnh cao nhất trong vòng 45 năm qua, hình thành do mưa của 5 cơn bão đổ
bộ vào Việt Nam, đặc biệt là hai cơn bão số 8 và số 10, gây ra mưa lớn tại hạ Lào và
Campuchia. Lượng mưa tháng VIII và IX nhiều nơi đạt từ 500 – 700 mm/tháng. Tại
Kratie, lưu lượng đỉnh lũ là 62.400 m3/s và tại Phnom Penh khoảng 43.400 m3/s. Tổng
lưu lượng lũ trung bình tháng X trên sông Tiền tại Mỹ Thuận và sông Hậu tại Vàm
66
Đồ Án Tốt Nghiệp
Cống là 42.200 m3/s. Tại Tân Châu, Châu Đốc, lũ có dạng một đỉnh, xuất hiện hơi
muộn hơn trung bình. Đường quá trình lũ lên xuống nhịp nhàng, trơn đều. Từ đầu
tháng VII đến giữa tháng VIII, mực nước chỉ giao động ở mức từ 2,5 – 3,0 m tại Tân
Châu và 2,0 m tại Châu Đốc. Cuối tháng VIII, mực nước lũ lên nhanh, cường suất 7
– 10 cm/ngày, liên tục trong gần 10 ngày. Sau đó, dao động ở mức 4,5 m trong 10
ngày rồi lên chậm trở lại trong vòng 1 tháng để đạt đến đỉnh lũ cao nhất. Đỉnh lũ tại
Tân Châu là 5,12 m vào ngày 10/X, tại Châu Đốc là 4,9 m vào ngày 13/X, xuất hiện
cùng kỳ đỉnh triều tháng X. Thời gian duy trì mực nước trên 4,5 m là 53 ngày. Lũ rút
muộn hơn trung bình 10 – 15 ngày.
b. Trận lũ năm 1966
Có đỉnh lũ tại Tân Châu cao thứ 2 trong vòng 45 năm qua. Lũ do mưa 2 trận
bão độ bộ vào Việt Nam gây ra. Lượng mưa tại một số trạm thượng lưu trong các
tháng VII, VIII là từ 500 – 800 mm. Tổng lượng lũ tại Kratie thấp hơn lũ 1961, lưu
lượng đỉnh lũ là 58.600 m3/s. Tháng VI (thay vì chỉ đến tháng IV hay tháng V như
hàng năm), Biển Hồ vẫn còn bổ sung nước cho sông chính để chuyển về ĐBSCL.
Tổng lượng nước từ Biển Hồ chảy ra trong mùa lũ 1966 lớn hơn so với mùa lũ 1961.
Vào ĐBSCL, lũ năm 1966 có dạng một đỉnh trơn đều, lên đều từ giữa tháng VII với
cường suất trung bình 4 cm/ngày để đạt đỉnh 5,11 m tại Tân Châu vào ngày 27/IX và
4,85 m tại Châu Đốc vào ngày 28/IX sớm hơn lũ 1961 nửa tháng. Phần đỉnh lũ 1966
khá nhọn, thời gian duy trì trên 4,5 m ngắn, chỉ 38 ngày.
2.5.1.2 Diễn biến lũ, lụt ở ĐBSCL sau năm 1975 đến nay
a. Trận lũ năm 1978
Là một trong những trận lũ lớn cả về lưu lượng, tổng lượng và diễn biến thất
thường. Năm 1978, có 3 cơn bão, trong đó có 2 cơn liên tiếp vào miền Trung (số 8
ngày 20/IX và số 9 ngày 26/IX) gây mưa lớn ở trung hạ Lào và Đông Bắc Thái Lan
trong 3 tháng VII, VIII, IX. Lượng mưa tháng thường 400 – 800 mm, thậm chí trên
900 mm (tháng VIII, tại Pakse). Tại Pakse, lưu lượng đỉnh lũ là 56.000 m3/s (lớn
nhất), vượt các trận lũ lớn khác khoảng 10.000 m3/s (trên 12%). Đỉnh lũ tại Kratie
được ước tính là 68.000 – 70.000 m3/s, cũng vượt xa các trận lũ lớn khác. Tại thượng
67
Đồ Án Tốt Nghiệp
lưu, lũ 1978 có hai đỉnh, xuất hiện cách nhau hơn 1 tháng và đỉnh sau thấp hơn đỉnh
trước rất nhiều. Về đồng bằng, sau khi qua Biển Hồ, lũ vẫn có dạng hai đỉnh. Đầu
tháng VIII, khi mực nước ở Tân Châu trên 3,0 m và Châu Đốc trên 2,0 m đã lên nhanh
do lũ thượng nguồn và đạt đỉnh thứ nhất là 4,46 m tại Tân Châu ngày 30/VIII và 4,15
m tại Châu Đốc ngày 5/IX. Lũ lên nhanh, có những ngày đạt 13 cm tại Tân Châu và
14 cm tại Châu Đốc. Sau đỉnh lũ thứ nhất, lũ rút chậm khoảng 2 tuần và lên lại để đạt
đỉnh lũ thứ hai vào ngày 9/X là 4,78 m tại Tân Châu và 4,46 m tại Châu Đốc. Cuối
tháng X, lũ đã xuống đến mức an toàn, không khác so với hàng năm. Lũ đến sớm,
đỉnh lũ cao ngay cuối tháng VIII đã gây thiệt hại lớn. Thời gian duy trì mực nước trên
4,33 m là 60 ngày. Đỉnh lũ vào tháng X trùng kỳ triều cường và mưa lớn nội đồng
nên gây ngập lụt lớn.
c. Trận lũ năm 2000
Lũ năm 2000 về sớm, đạt mức lớn nhất trong 75 năm gần đây ở ĐBSCL và
diễn biến phức tạp với hai đỉnh kế tiếp nhau, gây ngập lụt nghiêm trọng trên lưu vực
sông Mekong, đặc biệt là vùng ĐBSCL. Lũ lụt về sớm nhất, đổ về đồng bằng nhanh
hơn, đỉnh lũ vào ngày 2/VIII là 4,22 m tại Tân Châu, cao hơn mực nước cùng kỳ tới
1 – 1,5 m và sớm hơn trung bình khoảng 1 tháng trên dòng chính đã gây ra ngập lụt
sớm nhất từ trước đến nay. Sau đỉnh lũ đầu tháng VIII, mực nước lũ luôn ở mức cao
làm ngập lụt lớn nhất, dài nhất. Đỉnh lũ sông Mekong tại Kratie đứng thứ 3 sau năm
1996 và năm 2001, nhưng tổng lượng lũ 90 ngày là 367 tỷ m3, 120 ngày (tháng VII –
X) hơn 449 tỷ m3, lớn nhất trong 76 năm qua (1926 - 2002); tổng lượng lũ năm 2000
vào ĐBSCL trong thời kỳ từ tháng VII đến hết tháng XI đạt trên 425 tỷ m3.
Đỉnh lũ cao nhất tại Tân Châu năm 2000 là 4,78 m xuất hiện ngày 20/IX, tại
Châu Đốc là 4,48 m xuất hiện ngày 23/IX, cao hơn đỉnh lũ năm 1996 khoảng 19 - 45
cm và tương đương đỉnh lũ cao nhất trong chuỗi số liệu quan trắc trong 76 năm gần
đây. Đỉnh lũ chính vụ năm 2000 cũng xuất hiện sớm hơn trung bình khoảng 5 - 6
ngày. Mực nước lớn nhất hầu hết các trạm trong ĐTM đều đạt mức cao nhất từ trước
đến nay.
68
Đồ Án Tốt Nghiệp
Lũ năm 2000 ở ĐBSCL tập trung nhanh, thời gian ngập kéo dài nhất trong 75
năm gần đây. Lũ lụt đạt mức cao nhất khá đồng bộ ở đồng bằng (từ 23 - 30/IX), truyền
lũ về trung tâm Đồng Tháp Mười, TGLX nhanh hơn trước đây 2 – 5 ngày. Triều rất
cao (4,05 – 4,16 m) trong cuối tháng IX đầu tháng X đã làm tăng mức độ ngập lụt.
Tại ĐTM và gần phía tây TGLX cao hơn lụt năm 1996 khoảng 20 - 60 cm, có nơi
hơn. Thời gian duy trì mực nước tại Tân Châu trên 3,5 m là 124 ngày, dài hơn các
trận lũ trước đây 30 - 40 ngày; trên 4,5 m là 56 ngày. Tại vùng ĐTM, thời gian ngập
lụt kéo dài nhất từ trước đến nay. Tại TGLX tuy có kiểm soát lũ nhưng thời gian duy
trì mức lũ cao cũng hiếm thấy, do tác động của các công trình kiểm soát lũ mà cơ cấu
phân bổ nước lũ truyền và tràn theo các hướng vào và thoát ra khỏi ĐBSCL đã có
nhiều thay đổi.
Những thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2000 ở khu vực ĐBSCL là rất
nghiêm trọng 539 người chết (hơn 300 là trẻ em), 212 người bị thương, hơn 890.000
căn nhà, 13.793 phòng học, 383 cơ sở y tế bị ngập trong nước; hơn 9.457 căn nhà bị
sập hoàn toàn; hơn 62.000 hộ dân phải di dời nhà ở, trong đó nhiều hộ phải di chuyển
chỗ ở 2 - 3 lần, hơn nửa triệu người phải cứu trợ khẩn cấp, hơn 80 vạn học sinh phải
nghỉ học từ 1 - 3 tháng; hơn 224.580 ha lúa, gần 86.000 ha hoa màu, cây ăn trái, cây
công nghiệp bị hư hại; hơn 14.000 ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; hơn 668.000
gia súc và gia cầm bị chết; hơn 12.000 km đường giao thông các loại bị ngập, hư
hỏng; gần 5.000 cầu, cống các loại bị ngập, hư hỏng nặng, có một số bị sập. Hệ thống
kênh mương thủy lợi, bờ bao bị sạt lở hơn 37 triệu m3. Đây là những thiệt hại vật chất
trực tiếp, còn những thiệt hại về cơ sở hạ tầng xã hội, môi trường sinh thái cũng rất
lớn, chưa đánh giá hết được và phải có thời gian mới khôi phục được. Tổng thiệt hại
do thiên tai gây ra ở khu vực ĐBSCL trong năm 2000 ước tính khoảng 3.780 tỷ đồng
69
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Bộ TNMT, Trung tâm dự báo Quốc gia
Hình 2.9: Phân vùng độ sâu ngập lụt ở ĐBSCL trong trận lũ năm 2000
2.5.2 Nguyên nhân chủ yếu gây ra lũ, lụt ở ĐBSCL
Nguyên nhân gây ra lũ, lụt rất đa dạng và khác nhau trên mỗi lưu vực sông
hay mỗi vùng phụ thuộc vào lượng mưa tập trung và kéo dài ở những vùng nhạy cảm
hay ở thượng nguồn các con sông; sự xâm nhập của nước biển do triều cường, sóng
thần hoặc do vỡ các đập hồ chứa có dung tích lớn v.v… Có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến hình thức và quy mô, mức độ của lũ, lụt, nhưng về cơ bản vẫn là do đặc
trưng khí hậu của vùng, đặc điểm mạng lưới thủy văn trong khu vực và các yếu tố
mặt đệm khác (lớp phủ thực vật, đặc điểm địa chất – tân kiến tạo, các hoạt động kinh
tế - xã hội của con người…).
2.5.2.1 Những hình thế thời tiết chủ yếu gây mưa sinh lũ lớn trên sông Mekong
Trong thời kỳ 1961 - 2017, lũ lớn chủ yếu do mưa bão, áp thấp nhiệt đởi, dải
hội tụ nhiệt đới với sự hoạt động mạnh của gió mùa Tây Nam. Mưa lớn ở phía Tây
Trường Sơn thuộc trung và hạ Lào - Việt Nam thường xảy ra vào cuối tháng VII,
VIII, đầu tháng IX là khi các hình thế thời tiết nêu trên ảnh hưởng mạnh nhất đến lưu
vực gây ra trận lũ lớn nhất năm, dẫn đến lụt ở ĐBSCL.
70
Đồ Án Tốt Nghiệp
Rõ ràng năm 1996 số cơn bão và áp thấp nhiệt đới tác động đến lưu vực sông
Mekong nhiều hơn các năm đã xảy ra lũ lớn trước đây. Song có một số năm, mưa lớn
có thể tập trung gây lũ lớn lại có thể xảy ra sớm hơn hoặc muộn hơn do tác động của
các hình thế thời tiết khác nhau.
Cần lưu ý rằng, chính những trận lũ lớn, lũ sớm, lũ muộn dị thường mới gây
khó khăn cho phòng tránh, gây thiệt hại nghiêm trọng nhất. Trong số những năm quan
trắc được, mưa lớn sinh lũ năm 1981 xảy ra sớm khác thường (đầu tháng VII); mưa
10 năm 1978 đạt mức kỷ lục, gây lũ lịch sử trên sông tại Pakse do tác động của bão
số 4 vào giữa tháng VIII rồi lại bổ sung mưa dưới tác động của bão số 7, 8 vào giữa
tháng IX, làm ngập lụt rất lớn, kéo dài, nghiêm trọng nhất tại ĐBSCL; mưa lớn, tập
trung trong thời gian ngắn (10 ngày, ngắn hơn hẳn các trận mưa lũ lớn chính vụ khác)
gây lũ chính vụ năm 1996 xảy ra vào nửa cuối tháng IX là trường hợp bất thường,
sau đó trong tháng XI còn mưa lớn ở trung lưu, mưa rất lớn ở đồng bằng (hiếm thấy)
làm ngập lụt tại ĐBSCL càng nghiêm trọng, lại kéo dài thêm nhiều ngày, kết thúc
muộn.
2.5.2.2 Mưa và tuyết tan
Đây là nguyên nhân chính gây lũ ở ĐBSCL. Sông Mekong là một dòng sông
lớn, dài 4.880 km, lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km nằm trong vùng có khí
hậu nhiệt đới với lượng mưa hàng năm cao. Ở ĐBSCL lượng mưa trung bình hàng
năm 1500 - 2000 mm. Nguồn nước tạo nên dòng Mekong bởi: 10% tuyết tan từ
thượng nguồn Tây Tạng, 20% mưa ở trung Lào, 40 - 45% hạ Lào và 10% mưa ở
Campuchia. Mưa là nguyên nhân hàng đầu gây lũ ở ĐBSCL.
Hàng năm những trận bão trên biển Đông và gió mùa Tây Nam đã gây nên
những trận mưa lớn làm mực nước sông Mekong dâng cao. Đặc biệt vào năm 2000,
gió mùa bắt đầu sớm hơn đến 6 - 8 tuần. Những trận mưa lớn vào tháng VII ở phía
Bắc Lào và vùng Tây Nam Trung Hoa đã nâng cao mực nước sông Mekong ở Vạn
Tượng. Mực nước cứ dâng cao trong vòng hai tháng tiếp theo. Đến cuối tháng VIII,
sông chính và các sông phụ ở Nam Lào đã tràn bờ. Cộng thêm những cơn bão biển
Đông đã liên tiếp mang đến những trận mưa lớn ở miền Trung Việt Nam, những tỉnh
71
Đồ Án Tốt Nghiệp
thành miền Đông nước Campuchia, và vùng ĐBSCL. Đến đầu tháng X đã có một
vùng biển nội địa sâu đến 2,0 m, phá hoại các đê đập và cô lập hóa nhiều khu vực ở
các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Tiền Giang.
Nước lũ do mưa (hay băng, tuyết ở những nước vùng vĩ độ cao) sinh ra nên
mùa lũ thường đi đôi với mùa mưa. Mùa lũ ở Bắc bộ từ tháng V - VI đến tháng IX -
X, Bắc Trung bộ từ tháng VI -VII đến tháng X - XI, Trung và Nam Trung bộ: tháng
X - XII, Tây nguyên: tháng VI - XII, Nam bộ: tháng VII - XII. Tuy vậy đầu mùa mưa
cũng có thể có lũ sớm, như lũ "tiểu mãn", thường xảy ra vào "tiết tiểu mãn" (tháng
V) hàng năm ở vùng núi phía Bắc nước ta. Song mùa lũ hàng năm cũng biến động
cùng với mùa mưa, thậm chí sớm muộn 1 - 2 tháng so với trung bình nhiều năm.
2.5.2.3. Các đập thủy điện ở thượng nguồn
Nếu các hồ thủy điện xả tối đa công suất có thể làm cho lưu lượng nước tăng
đột biến gây lũ.
Theo một số tài liệu dẫn chứng, Trung Quốc đã dự kiến 14 - 15 bậc nước tương
ứng với hồ chứa tương ứng cho mục tiêu thủy điện kéo dài dọc theo khu vực Vân
Nam, trên thượng nguồn sông Mekong và đã hoàn thành hai đập thủy điện là đập
Dachaoshan - Đại Triều Sơn (dung tích sử dụng/dung tích tối đa là 240 triệu m3/ 890
triệu m3, công suất phát điện xấp xỉ 1350 MW/năm) và đập Manwan - Mạn Loan
(dung tích sử dụng/dung tích tối đa là 258 triệu m3/ 920 triệu m3, công suất phát điện
xấp xỉ 1500 MW/năm). Tên 14 con đập theo thứ tự từ bắc xuống nam đó là 1/
Liutongsiang, 2/ Jiabi, 3/ Wunenglong, 4/ Tuoba, 5/ Huangdeng, 6/ Tiemenkan, 7/
Guongguoqiao / Công Quả Kiều, 8/ Xiaowan / Tiểu Loan_ khởi công 2001, 9/
Manwan / Mạn Loan_ hoàn tất 1993, 10/ Daichaoshan / Đại Triều Sơn, 11/ Nuozhado
/ Nọa Trát Độ, 12/ Jinhong / Cảnh Hồng, 13/ Ganlanba / Cảm Lãm Bá, 14/ Mengsong
/ Mãnh Tòng.
Những hồ chứa vĩ đại do các đập nước giữ lại đã có tác dụng tạo nên những
trận động đất, đập nước càng cao, xác suất càng lớn. Người ta đều đã ghi nhận các
trận động đất tạo nên bởi các hồ nước của các đập Hoover, Aswan (Ai Cập), Tân
Phong Giang (Trung Quốc) và Koina (Ấn Độ)... Đáng lo hơn nữa là vùng Vân Nam
72
Đồ Án Tốt Nghiệp
lại là vùng có hoạt động địa chấn cao, động đất do hồ chứa tạo nên sẽ còn mạnh hơn
nữa và có nguy cơ làm vỡ con đập. Đập nước có thể bị vỡ do các nguyên nhân như
nước lũ dồn về quá lớn vượt qua khả năng xả của đập tràn, áp lực nước lớn có thể
phá vỡ kết cấu công trình của đập nước, hoặc do các tác nhân khác như thấm ngang
quá lớn gây sạt lở mái đập, các công trình dẫn nước qua đập bị phá hủy, hoặc do động
đất tại chỗ hoặc các chấn động địa chất tạo sóng cường trong hồ chứa làm trượt mái
đập. Khi một con đập đột ngột bị vỡ, lúc đó, một khối lượng nước lớn tức thời vỡ oà
gây một trận lũ xoáy ập tràn xuống các vùng trũng hạ lưu, có thể làm ngập và phá vỡ
nhanh chóng các công trình, cuốn trôi nhiều sinh mạng, hoa màu, gia súc.
Vào mùa mưa, khi mực nước trong các đập nước dâng cao thì các đập buộc
phải xả nước làm cho ở hạ nguồn bị lũ nặng nề hơn, khó kiểm soát hơn.
2.5.2.4. Phá rừng đầu nguồn
Rừng phòng hộ đầu nguồn có vai trò rất quan trọng trong việc giữ đất, giữ
nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông
ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn
cho các nhà máy thủy điện. Tán rừng làm giảm bớt dòng chảy lũ do một phần lượng
nước mưa sinh lũ trên tán lá. Nên việc phá rừng làm cho nước lũ chảy về hạ nguồn
nhanh hơn, gây thiệt hại nhiều hơn.
Các hoạt động liên quan đến trồng rừng hoặc khai thác rừng như xây dựng
đường, cống, các kênh tiêu nước, chặt cây và phát quang sẽ làm nén đất và như vậy
làm giảm độ thấm của đất. Điều này có khả năng ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với sự
có mặt hay không có mặt của rừng. Ảnh hưởng của nạn phá rừng đối với lũ lụt đã và
đang đuợc tranh luận trên khắp thế giới. Theo FAO, mức độ phá rừng cao nhất xảy
ra ở Á Châu, từ 9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980. Dựa theo
nghiên cứu của FAO, diện tích rừng được ước tính khoảng 37% trong hạ lưu vực
sông Cửu Long. Rừng vẫn chiếm hơn phân nửa diện tích của Lào và Campuchia, nơi
cung cấp 60 - 75% lưu lượng lũ của sông Cửu Long tại Kratie, Campuchia. Dữ kiện
thủy học đo được tại Kratie từ năm 1924 đến 1986 cho thấy chu kỳ tái diễn, lưu lượng
lũ cao nhất, và khối lượng lũ cao nhất của các trận lụt lớn trong khoảng thời gian này
73
Đồ Án Tốt Nghiệp
đã không vượt qua các con số của các những trận lụt lớn xảy ra trong thập niên 1930.
Các cuộc nghiên cứu và điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã
chứng minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra trong
một số điều kiện thuận lợi, và việc phá rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với
những trận lũ lụt nhỏ trong các lưu vực hạn hẹp.
Hiện trạng phá rừng, khai hoang thiếu kiểm soát dọc theo các vùng rừng núi
hai bên thượng và hạ lưu đang là một điều báo động. Hàng ngày có hàng đoàn xe tải
chở đầy các thân gỗ lớn từ Lào nối đuôi nhau qua Cửa khẩu biên giới Thái – Lào.
Trong khi đó, công tác trồng và săn sóc rừng tiến triển rất chậm chạp. Ở Campuchia,
tình trạng khai thác gỗ rừng cũng đã và đang diễn ra tương tự như ở Lào. Hằng năm,
vào mùa mưa lũ, có sự xói lở nghiêm trọng bờ sông Mekong và bào mòn mãnh liệt
các lớp thổ nhưỡng trên các triền dốc nơi mà những năm về trước còn là những cách
rừng phong phú. Nước lũ trên sông Mekong đầy ắp bùn cát và các thân cây lớn bị đổ
ngã cuốn trôi theo dòng chảy.
2.5.2.5. Hệ thống kênh thủy nông và đê, cống ngăn mặn ở ĐBSCL
Từ giữa thập niên 1980, các kênh, rạch hiện có đã được nới rộng. Một số lớn
kênh chính và một mạng lưới kênh phụ đã được đào xuyên qua vùng Đồng Tháp
Mười, Tứ Giác Long Xuyên và các vùng khác trên khắp ĐBSCL với mục đích chính
là thủy nông. Hệ thống kinh này đã trở thành những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ
từ Campuchia chảy vào Việt Nam sớm hơn, nhiều hơn và nhanh hơn. Đồng thời, một
hệ thống đê đập ngăn mặn đã được xây dựng ở cuối đường thoát lũ ở hạ lưu cùng với
một hệ thống đường giao thông được nâng cao. Vì không đủ khả năng thoát lũ, hệ
thống đê đập ngăn mặn và đường giao thông này đã làm cản trở nước lũ trong vùng
ĐBSCL thoát ra biển Đông và vịnh Thái Lan. Hậu quả là mực nước ngập trong vùng
ĐBSCL ngày càng sâu hơn và thời gian ngập ngày càng dài hơn.
2.5.2.6. Phát triển đô thị và giao thông không hợp lý
Những năm gần đây các đô thị lớn của vùng ĐBSCL thường xuyên bị ngập
khi có trận mưa lớn. Trong đó mạng lưới giao thông đường bộ các cấp không tạo
74
Đồ Án Tốt Nghiệp
thuận lợi cho dòng chảy lũ tu. Nhiều tuyến đường chính, như Quốc lộ N1, N2, Tân
Thành – Lò Gạch v.v… đã cản lũ gây ngập trong nội đồng.
2.5.2.7. Sự điều tiết của Biển Hồ
Trước khi chảy vào ĐBSCL, lũ đã được Biển Hồ và các đồng ngập lụt ở
Campuchia điều tiết. Vào đầu mùa lũ, nước lũ sông Mekong luôn luôn chảy vào Biển
Hồ, sau khi đạt đỉnh lũ nước Biển Hồ lại chảy trở lại sông Mekong làm tăng dòng
chảy lũ ở hạ lưu. Do có sự điều tiết của Biển Hồ và các cánh đồng ngập lụt ở
Campuchia mà lũ châu thổ Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng hiền hòa hơn,
nhưng kéo dài hơn, có nghĩa là đỉnh lũ thấp hơn, biên độ nhỏ hơn, cường suất nhỏ
hơn, tốc độ truyền lũ về hạ lưu nhỏ hơn nhưng thời gian ngập lũ kéo dài hơn.
2.5.3 Các đặc điểm lũ, lụt tại ĐBSCL
Lũ và lụt tại ĐBSCL là 2 hiện tượng đặc biệt, có mối quan hệ nhất định với
nhau, nhưng cũng cần có sự phân định rõ mỗi hiện tượng, để có cách tiếp cận đúng
trong điều tra, khảo sát, nghiên cứu bản chất, tìm biện pháp phù hợp để phòng tránh.
Lũ ngoài sông (trên sông Tiền, Hậu) do mực nước sông Mekong chảy theo dòng
chính về nên chịu tác động chủ yếu của cường suất, đỉnh lũ, tổng lượng lũ, thời gian
truyền lũ từ trung hạ lưu (đối với Tân Châu, Châu Đốc) sau đó là tác động của thủy
triều biển Đông (đối với các trạm từ Cao Lãnh, Long Xuyên trở ra biển).
Lụt tại ĐTM, TGLX tùy theo từng khu vực mà vai trò của các yếu tố tác động
như nước lũ từ ngoài sông đổ vào, nước lụt từ Campuchia tràn sang, triều từ biển
Đông và biển Tây, lượng mưa tại khu ngập, tình trạng cơ sở hạ tầng (kênh, đê bao,
đường giao thông, khu dân cư,...) mỗi năm, vị trí của mỗi vùng, ô ngập trong đồng...
cũng khác nhau.
Trên căn bản, lụt trong đồng liên quan chặt chẽ với chế độ nướcc sông và thủy
triều, cơ sở hạ tầng tại mỗi vùng, ô ngập và cả 2 vùng ĐTM, TGLX. Dưới đây, tóm
tắt những đặc điểm chính lũ, lụt ở ĐBSCL.
Trước khi chảy vào ĐBSCL lũ đã được sự điều tiết của Biển Hồ và các đồng
ngập lụt ở Campuchia. Suốt thời gian từ đầu mùa lũ cho đến đỉnh lũ, nước lũ sông
Mekong luôn luôn chảy vào Biển Hồ làm giảm lượng lũ chảy về hạ lưu, nhưng sau
75
Đồ Án Tốt Nghiệp
đỉnh lũ nước Biển Hồ lại chảy trở lại sông Mekong làm tăng dòng chảy lũ ở hạ lưu.
Vào thời kỳ lũ cao, khi mức nước ở Kratie vượt quá cao trình 13,0 m (so với mức
nước biển) và ở Phnom Penh vượt qua 7,0 m, sau Kratie lũ bắt đầu tràn bờ chảy vào
các đồng trũng ở 2 bên bờ, làm ngập các cánh đồng này. Do có sự điều tiết của Biển
Hồ và các cánh đồng ngập lụt ở Campuchia mà lũ châu thổ nói chung và ĐBSCL nói
riêng hiền hòa hơn, nhưng kéo dài hơn, có nghĩa là đỉnh lũ thấp hơn, biên độ nhỏ hơn,
dạng lũ bè hơn, cường suất nhỏ hơn, tốc độ truyền lũ về hạ lưu nhỏ hơn nhưng thời
gian ngập lũ kéo dài hơn.
Hàng năm, ĐBSCL bị ngập lụt với một diện tích rộng lớn ở phía Bắc do lũ
sông Mekong tràn về. Diện tích ngập lụt khoảng 1,4 triệu ha vào năm lũ nhỏ và
khoảng 2 triệu ha vào năm lũ lớn, với độ sâu ngập lũ từ 0,5 - 4,0 m, thời gian ngập
lụt từ 3 - 6 tháng. Các đặc điểm chính của lũ ĐBSCL như sau:
(i) Mùa lũ ĐBSCL kéo dài khoảng 6 tháng, từ tháng VII-XII muộn hơn so với
thượng lưu khoảng 1 tháng.
(ii) So với thượng lưu, lũ ĐBSCL hiền hòa hơn; biên độ lũ tại Tân Châu - Châu
Đốc khoảng 3,5 - 4,0 m.
(iii) Lũ ĐBSCL có cường suất nhỏ, trung bình 5 - 7 cm/ngày, lúc cực đại (xãy ra
trong vài ngày) có thể đạt 20 - 30 cm/ngày.
(iv) Tốc độ truyền lũ vào ĐBSCL khá bé, thời gian truyền lũ từ Phnom Penh đến
Tân Châu khoảng 2 - 3 ngày (tốc độ khoảng 1,5 - 2,0 km/h). Tốc độ truyền lũ
còn chậm hơn khi gặp triều cường.
(v) Lũ ĐBSCL thường là lũ 2 đỉnh. Đỉnh lũ lớn nhất thường xãy ra vào cuối tháng
9, đầu tháng 10 và vào tháng 8 thường xãy ra 1 đỉnh phụ, đỉnh phụ thấp hơn
đỉnh chính.
(vi) Lũ sông Mekong chảy vào ĐBSCL theo dòng chính và từ các vùng ngập lụt
Campuchia tràn xuống. Tổng lưu lượng trung bình khoảng 38.000 m3/s (ứng
với mức nước Tân Châu 4,40 m, Châu Đốc 3,88 m). Những năm lũ lớn có thể
đạt 40.000 - 45.000 m3/s, trong đó qua dòng chính khoảng 32.000 - 34.000
m3/s, chiếm khoảng 75 - 80%, lũ tràn qua biên giới 8.000 - 12.000 m3/s, chiếm
76
Đồ Án Tốt Nghiệp
tỷ lệ 20 - 25%, trong đó vào TGLX khoảng 2.000 - 4.000 m3/s, vào ĐTM
khoảng 6.000 - 9.000 m3/s. Trên dòng chính lưu lượng qua Tân Châu 23.000
- 25.000 m3/s (chiếm 82 - 86%), qua Châu Đốc khoảng 7.000 - 9.000 m3/s
(chiếm 14 - 18%). Tổng lượng lũ vào ĐBSCL khoảng 350 - 400 tỷ m3, trong
đó theo dòng chính khoảng 80 - 85%, tràn qua biên giới khoảng 15 - 20%. Về
mức nước, có sự chênh lệch giữa sông Tiền và sông Hậu. Trong cùng thời
điểm mức nước Tân Châu cao hơn Châu Đốc khoảng 40 - 60 cm. Vì vậy, luôn
luôn có sự chuyển nước từ sông Tiền sang sông Hậu qua các kênh nối giữa 2
sông này như Tân Châu - Châu Đốc, Vàm Nao... trong đó Vàm Nao là lớn
nhất. Do có hướng chuyển nước này mà tỷ lệ phân phối nước giữa sông Tiền,
sông Hậu tại Mỹ Thuận - Cần Thơ là tương đối cân bằng (51% và 49%). Phần
lớn lượng lũ ở ĐBSCL theo sông chính chảy ra biển Đông, một phần theo hệ
thống kênh rạch thoát ra biển Tây và sông Vàm Cỏ.
(vi) Lũ ở ĐBSCL có thể chia làm 3 thời kỳ: Thời kỳ đầu mùa lũ (từ tháng 7, tháng
8), nước lũ trên sông chính lên nhanh, nước lũ theo các sông rạch chảy vào
đồng rồi chứa đầy trong các ô ruộng. Trong thời kỳ này nước lũ vào đồng chứa
nhiều phù sa. Thời kỳ thứ 2 là khi nước lũ đã lên cao (Tân Châu vượt quá 4,0
m, Châu Đốc vượt quá 3,8 m) lũ vào theo 2 hướng là từ sông chính vào và từ
biên giới Việt Nam - Campuchia tràn xuống ĐTM và TGLX. Dòng chảy tràn
chứa ít phù sa từ các vùng ngập lụt Campuchia vào ĐTM, TGLX đã lấn át
dòng nước lũ giàu phù sa từ sông Tiền, sông Hậu vào đồng làm ảnh hưởng đến
việc gia tăng độ phì nhiêu cho các vùng này. Thời kỳ thứ 3 là thời kỳ lũ rút,
thường bắt đầu từ hạ tuần tháng 10 khi dòng chảy tràn Campuchia đã giảm,
mức nước lũ ĐBSCL xuống dần cho đến tháng 12 thì đại bộ phận diện tích hết
ngập lụt.
(viii) Theo sự phân cấp lũ của Tổng cục Khí tượng - Thủy văn, với mức nước tại
Tân Châu nhỏ hơn 4,0 m là lũ nhỏ, 4,0 - 4,5 m là lũ trung bình và lớn hơn 4,5
m là lũ lớn. Theo tần số xuất hiện thì lũ nhỏ là 13,2%, lũ trung bình là 46,2%,
lũ lớn là 40,6%. Tài liệu thống kê cho thấy trong 60 năm qua, bình quân cứ 2
77
Đồ Án Tốt Nghiệp
năm thì có 1 năm lũ vượt báo động cấp III (mức nước Tân Châu vượt 4,2 m);
trong khoảng thời gian 16 năm từ năm 1937 - 1952 mức nước các năm đều
bằng hoặc vượt báo động cấp III; đã có những thời kỳ 4 năm liên tục xẩy ra lũ
lớn như các năm 1937 - 1940, mực nước đỉnh lũ tại Tân Châu vượt 4,85 m,
1946 - 1949 mực nước đỉnh lũ tại Tân Châu vượt 4,60 m, 3 năm liền 1994,
1995, 1996 mực nước đỉnh lũ tại Tân Châu vượt 4,60 m và gần đây, 3 năm
liền 2000 - 2001 đều có mực nước đỉnh lũ tại Tân Châu vượt qua 4,75 m. Như
vậy, sự uy hiếp của lũ ở ĐBSCL là rất lớn. Mực nước đỉnh lũ và thời gian xuât
hiện tại Tân Châu và Châu Đốc của một số năm lũ lớn.
(ix) Lũ sông Mekong đã gây ngập lụt sâu và thời gian kéo dài ở ĐBSCL. Vào các
năm lũ trung bình, các khu vực Châu Đốc, Bắc kênh Vĩnh An, Hồng Ngự, Tân
Hồng có độ sâu ngập lớn nhất trên 3,0 m; các khu vực Đông Trà Sư, trung tâm
ĐTM; Thần Nông - Chợ Mới có độ sâu ngập 2,0 - 3,0 m; các khu vực Bo Bo
- Đức Huệ, Lấp Vò, Thoại Sơn có độ sâu ngập 1,5 - 2,0 m; các khu vực Nam
kênh Nguyễn Văn Tiếp, Bắc Bến Tre, Vĩnh Long, Tây sông Hậu, Tây TGLX
có độ sâu ngập 0,5 - 1,5 m. Thời gian xẩy ra đỉnh lũ lớn nhất ở khu vực phía
Bắc là cuối tháng 9 đầu tháng 10, các khu vực phía Nam và ven biển Tây chậm
hơn 15 - 20 ngày.
Châu Đốc
Tân Châu
Tổng
Năm
Hmax
Qmax
Hmax
Qmax
Qmax
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
(cm)
(m3/s)
(cm)
(m3/s)
(m3/s)
1961
477
14/X
7.840
512
12/X
28.900
36.740
1978
433
09/X
7.160
03/IX 478
09/X
25.900 23/VIII 33.060
1991
427
16/IX 7.590
13/IX 464
15/IX
24.300 10/IX
31.890
1994
409
03/X
7.097
03/X
450
03/X
23.243 14/IX
30.340
1996
454
06/X
8.150
04/X
487
05/X
23.600 01/X
31.750
2000
490
23/IX 7.660
22/IX 506
23/IX
25.500 25/IX
33.160
2001
448
23/IX 7.160
20/IX 478
20/IX
23.800 18/IX
30.960
Bảng 2.1: Mực nước (Hmax) và lưu lượng đỉnh lũ (Qmax) tại Tân Châu và Châu Đốc
78
Đồ Án Tốt Nghiệp
Châu Đốc
Tân Châu
Tổng
Năm
Hmax
Qmax
Hmax
Qmax
Qmax
Ngày
Ngày
Ngày
Ngày
(cm)
(m3/s)
(cm)
(m3/s)
(m3/s)
2002
442
01/X
6.950
30/IX 482
30/IX
24.500 28/IX
31.450
2003
350
29/IX 5.270
27/IX 406
28/IX
18.600 25/IX
23.870
2004
401
30/IX 6.750
28/IX 440
29/IX
20.250 27/IX
27.000
2005
390
21/IX 6.560
18/IX 435
20/IX
21.990 17/IX
28.550
2006
370
19/X
6.350
18/X
417
18/X
20.670 14/X
27.020
2007
356
24/X
6.470
24/X
406
23/X
21.100 15/X
27.557
2008
320
02/X
5.980
30/IX 377
02/X
19.900 29/IX
25.880
2009
352
16/X
6.640
10/X
409
12/X
21.700 09/X
28.340
2010
278
27/X
5.560
23/X
320
24/X
19.100 23/X
24.660
29,30/IX,
2011
427
12/X
8.370
29/IX 486
26.100 29/IX
34.470
01/X
2012
290
17/X
5.610
30/IX 325
02/X
20.300 30/IX
25.910
(Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn Quốc gia)
(x) Về thời gian ngập lụt, phần lớn diện tích bị ngập từ 4 - 5 tháng (từ tháng VIII
- X/XI), một số nơi thấp trũng cục bộ như trung tâm ĐTM, Đông kênh Trà Sư
có thể đến 6 tháng (từ tháng VIII - XII); các triền đất cao ven sông Tiền, sông
Hậu, khu vực phía Nam và ven biển Tây lũ đến muộn hơn và thời gian ngập
ngắn hơn, thường kéo dài khoảng 3 tháng (IX - XI). Tuy nhiên, thủy triều có
ảnh hưởng lớn đến thời gian ngập lũ, vào các năm lũ muộn và gặp triều cường
thì lũ rút chậm và kéo dài thêm 15 ngày đến 1 tháng. Điều này có ảnh hưởng
rất lớn đến việc sản xuất lúa Đông - Xuân và lúa Hè - Thu năm sau.
2.5.4 Tác động của lũ ĐBSCL
2.5.4.1 Tác động tiêu cực của lũ
ĐBSCL là một vùng châu thổ mới có nền móng chưa ổn định. Sự hình thành
trong tự nhiên những vùng kiến tạo với những tính chất riêng có thể ảnh hưởng lớn
đến chế độ ngập lụt, chế độ chảy, sự lún, sạt lở.
79
Đồ Án Tốt Nghiệp
Mặt hại của lũ lụt ở ĐBSCL là do địa hình đồng bằng thấp, độ dốc lòng sông
bé, sông lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thủy triều nên trong thời kỳ lũ lớn sông
không chuyển tải kịp lượng nước lớn ra biển nên gây ra hiện tượng chảy tràn và ngập
lụt diện rộng. Thời gian ngập kéo dài có nơi đến trên 6 tháng. Mặt khác, khi lũ đến
sớm, rút muộn thì gây ảnh hưởng xấu cho sản xuất và cơ sở hạ tầng. Dòng chảy của
lũ gây xói mòn đất, xói mòn bờ sông, công trình.
Lũ lụt ở ĐBSCL có ảnh hưởng hai mặt rất rõ rệt đến kinh tế - xã hội và môi
trường. Tuy cường suất lũ không lớn nhưng gây ngập sâu và kéo dài trên một diện
tích rộng lớn. Tình trạng này, gây nhiều cản trở cho việc phát triển kinh tế xã hội, sản
xuất nông nghiệp, việc định cư và xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời làm cho đời
sống nhân dân không an toàn và ổn định, việc đi lại, học hành, chữa bệnh bị hạn chế.
Có thể nói ngập lụt đã hạn chế khả năng khai thác tiềm năng đất đai, hạn chế quá
trình phát triển nông thôn và đô thị hóa, cũng như mở mang dân trí và xây dựng xã
hội văn minh. Hàng năm, lũ gây nhiều thiệt hại về tính mạng, tài sản của nhân dân,
cũng như gây xói lở bờ sông, bồi lấp và làm hư hỏng các công trình công cộng như
đường sá, cầu, cống, trường học, bệnh viện v.v…
Lũ và ngập lụt là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất ở ĐBSCL, ảnh
hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội và phát triển sản xuất nông nghiệp trên một
vùng rộng lớn và trong một thời gian dài, với mức độ ngày càng nguy hiểm. Trước
đây, khi kinh tế xã hội vùng ngập lũ chưa phát triển, lũ ĐBSCL luôn được xem là
nguồn lợi lớn đối với cư dân vùng ngập lũ, mà sản phẩm chính là lúa trời và tôm cá.
Khi ấy lũ hầu như là vô hại với cuộc sống chỉ biết dựa vào thiên nhiên. Tuy nhiên,
với các chương trình phát triển trên quy mô lớn ở vùng ĐTM và TGLX bắt đầu từ
năm 1980, lũ và ngập lũ dần trở nên là nguy hiểm ở vùng đồng bằng trù phú này.
Thiệt hại do các trận lũ 1991 và 1994 đã khởi lên hồi chuông báo động về nguy
cơ lũ, lụt ở ĐBSCL. Lúc này, một số vùng bắt đầu công cuộc lên bờ bao chống lũ
tháng 8 và vài nơi đã lên đê chống lũ triệt để. Cộng đồng dân cư bắt đầu lấn dần lên
vùng ngập lũ sâu, rải theo các bờ hay tụ lại ở các ngã tư kênh. Một số trung tâm dân
cư mới hình thành ngay trong các vùng ngập lũ, thậm chí ngập lũ sâu. Diện tích lúa
80
Đồ Án Tốt Nghiệp
2 vụ cần đến sự bảo vệ trước lũ muộn và lũ sớm được mở rộng. Rồi vườn cây ăn quả
tăng dần diện tích, lấn lên vùng ngập sâu. Bên cạnh đó, các công trình kết cấu hạ tầng
cũng phát triển nhanh, đôi khi vượt cả sự kiểm soát quy hoạch lũ. Những năm gần
đây, thiệt hại do lũ lớn gây ra đối với tính mạng người dân đã lên đến hàng trăm, đối
với của cải vật chất đã lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Trận lũ năm 1996 bắt đầu cho
thấy sự thiệt hại lớn về người mà hậu quả một phần từ các phát triển không kiểm soát
trong vùng ngập lũ. Đặc biệt, những thiệt hại của trận lũ lịch sử năm 2000 càng chỉ
rõ rằng nếu các phát triển trong vùng lũ không tuân thủ theo một sự quản lý lũ mang
tính chiến lược cao hơn ở vùng ngập lũ thì thiệt hại là sẽ không thể lường hết được.
Những thập kỷ qua, ĐBSCL đã phải chịu đựng nhiều trận lũ lụt lớn chưa từng thấy,
trong đó các năm 1961, 1966, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000, 2001, 2002 và
2011 là những năm lụt lớn.
Xu thế trong các năm gần đây là thiệt hại do lũ gây ra về nông nghiệp giảm,
nhưng về cơ sở hạ tầng tăng lên. Trong sản xuất nông nghiệp, thiệt hại về lúa và hoa
màu giảm nhưng thiệt hại về cây ăn trái lại tăng lên.
2.5.4.2 Tác động tích cực của lũ
Lũ ĐBSCL cũng mang lại một số mặt có lợi ích. Nước lũ đã mang nguồn phù
sa phong phú vào bồi đắp cho đồng ruộng. Hàng năm, ĐBSCL được bồi đắp một
lượng phù sa hàng chục triệu tấn. Chính nhờ có nhiều phù sa bồi đắp mà giải đất ven
sông Tiền sông Hậu rất màu mỡ, thích hợp cho các loại cây ăn trái, hoa màu và lúa.
Dòng chảy lũ cũng có tác dụng tốt trong việc cải tạo môi trường nước và cải
tạo đất. Nước lũ có tác dụng vệ sinh đồng ruộng, bao gồm hòa tan các độc tố và đưa
về hạ lưu, diệt trừ chuột, côn trùng, sâu bọ.
Lũ sông Mekong đã tạo ra một “mùa nước nổi” trên diện tích rộng lớn của
ĐBSCL, tạo ra môi trường thích hợp cho cá nước ngọt phát triển. Sự sinh trưởng của
cá tôm gắn liền với chế độ lũ. Các loài thủy sản sinh trưởng nhanh trong mùa lũ nhờ
môi trường sống được mở rộng, và thường lũ càng lớn thì cá càng nhiều. Hàng năm,
sông Tiền, sông Hậu cho phép khai thác khoảng 35 triệu con cá giống với nhiều loài
có giá trị.
81
Đồ Án Tốt Nghiệp
Xu hướng chung là mức phát triển kinh tế càng cao thì thiệt hại càng lớn. Tuy
nhiên, khi có sự chỉ đạo tốt trong phòng chống lũ thì giải được thiệt hại do lũ gây ra.
Lũ năm 1996 cao hơn lũ 1978, nhưng số người chết ít hơn, thiệt hại về mùa màng
cũng ít hơn nhờ có sự chuyển dịch thời vụ và có sự chỉ đạo phòng chống lũ tốt. Tóm
lại lũ ở ĐBSCL có những mặt tích cực như sau:
Cung cấp nước ngọt cho đời sống con người;
Góp phần cải tạo chất lượng đất, nước;
Cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, vật nuôi;
Bảo tồn và phát triển môi trường nuôi trồng, đánh bắt thủy sản;
Vệ sinh đồng ruộng, điều hòa thời tiết, khí hậu;
Cung cấp nước ngầm.
Mặt khác, lũ lại có vai trò thiết yếu trong sự hình thành những vùng sinh thái
ngập nước có lợi nhiều mặt. Sự ngập lụt kéo dài, dòng chảy mang theo bùn cát, muối
khoáng là những nhân tố quan trọng tạo nên nền cơ bản môi trường vật lý vùng này,
trên đó là hệ thống động – thực vật thủy sinh thích hợp. Các vùng sinh thái ngập nước
này là một bộ phận quan trọng của ĐBSCL.
82
Đồ Án Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG
TRÁNH LŨ, LỤT Ở ĐBSCL VÀ TỈNH ĐỒNG THÁP
3.1 Phân tích hiện trạng các giải pháp kiểm soát lũ, lụt ở ĐBSCL
3.1.1 Vai trò của ĐBSCL
ĐBSCL chiếm khoảng 12% diện tích cả nước. Năm 2015, nơi đây đã sản xuất
hơn 25 triệu tấn thóc, tức 50% tổng sản lượng của toàn quốc. Với dân số 17,2 triệu
người (2015), tức khoảng 22% tổng dân số Việt Nam. ĐBSCL góp phần đáng kể
trong lĩnh vực xuất khẩu gạo và thủy sản chế biến, đóng góp 27% tổng sản phẩm
trong nước (GDP). Đây cũng là vùng có tiềm năng phát triển kinh tế đa dạng, không
chỉ đối với chính bản thân vùng mà còn góp phần thực hiện ước muốn đạt mức độ
tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc của cả nước.
ĐBSCL là một trong những những vùng có hệ sinh thái phong phú nhất của
lưu vực. Về mặt thủy văn và sinh thái ĐBSCL có vị trí rất dễ bị ảnh hưởng bởi sự
phát triển ở thượng lưu. Việc lấy nước nhiều hơn ở thượng lưu sẽ làm cho xâm nhập
mặn sâu hơn vào nội địa. Ngược lại việc xây dựng các hồ chứa ở thượng lưu có thể
giảm lưu lượng trong mùa lũ và tăng lưu lượng trong mùa khô do đó đẩy mặn về hạ
lưu xa hơn. Những mối lo ngại khác cho ĐBSCL là khả năng ô nhiễm nước xuất phát
từ thượng nguồn hoặc do việc khai thác dầu ở ngoài khơi và hiện tượng giảm dòng
chảy phù sa là yếu tố quan trọng đối với hệ sinh thái của ĐBSCL.
Mối quan hệ giữa phần đồng bằng sông Mekong ở Việt Nam và Campuchia
đòi hỏi phải thận trọng đối với mọi hậu quả có thể gây ra do sự phát triển ở mỗi nước.
Biên giới giữa hai nước được coi là nơi mà công tác chống lũ cũng như việc lấy nước
gia tăng không được làm thay đổi chế độ dòng chảy hiện nay. Để phát triển tối ưu
dòng sông vốn không có ranh giới quốc gia này, cần phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa
2 nước láng giềng.
Hiện nay, ĐBSCL là một vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của cả
nước, đã và đang đóng vai trò thiết yếu cho nền kinh tế ở Việt Nam. ĐBSCL đang
được nghiên cứu các mặt môi trường, nơi mà lịch sử lâu đời của con người tới khai
phá đã để lại dấu ấn đậm nét lên môi trường thiên nhiên. Trong những thập kỷ tới,
83
Đồ Án Tốt Nghiệp
ĐBSCL sẽ là một trong những trung tâm phát triển Quốc tế và Quốc gia. Hy vọng
quá trình phát triển này sẽ dựa trên việc sử dụng lâu bền tài nguyên thiên nhiên gắn
với việc bảo vệ môi trường.
3.1.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng thủy lợi vùng ĐBSCL:
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, 2017
Hình 3.1: Bản đồ hiện trạng công trình thủy lợi vùng ĐBSCL, năm 2017
Tưới tiêu, cấp nước: Toàn ĐBSCL hiện có trên 15.000 km kênh trục và kênh cấp I,
gần 27.000 km kênh cấp II, khoảng 50.000 km kênh cấp III và nội đồng, 80 cống rộng
trên 5 m (lớn nhất là cống - đập Láng Thé 100 m và cống - đập Ba Lai 84 m), trên
800 cống rộng 2 - 4 m và hàng vạn cống, bộng nhỏ, trên 1.000 trạm bơm điện lớn và
vừa, hàng vạn máy bơm nhỏ để chủ động tưới, tiêu.
Kiểm soát lũ: Để kiểm soát lũ, hiện vùng ngập lũ ĐBSCL đã hình thành hệ thống đê
và bờ bao với tổng chiều dài khoảng 37.000 km, trong đó có 7.000 km bờ bao chống
lũ tháng 8 để bảo vệ lúa Hè - Thu. Ngoài ra còn có hơn 200 km đê bao giữ nước
chống cháy cho các Vườn Quốc gia và rừng tràm sản xuất tập trung. Hình 3.2 mô tả
vùng ngập lũ và các công trình kiểm soát lũ.
84
Đồ Án Tốt Nghiệp
Kiểm soát mặn và triều cường: Vùng ven biển ĐBSCL đã xây dựng 450 km đê
biển, 1.290 km đê sông và khoảng 7.000 km bờ bao ven các kênh rạch nội đồng để
ngăn mặn, triều cường và sóng bão cho vùng ven biển.
Cấp nước sinh hoạt: Hầu hết dân cư ở các thị trấn, thị xã, thành phố ở ĐBSCL hiện
đều được cấp nước sạch (tuy có lúc, có nơi chưa đủ về mặt số lượng). Trong khi đó,
dân cư vùng nông thôn chỉ được cấp nước hợp vệ sinh với tỷ lệ khoảng 40%.
Hiện trạng đê bao, bờ bao vùng ngập lũ: Theo số liệu thống kê, vùng lũ ĐBSCL
hiện có hơn 23.687 km (2005) đê bao và bờ bao với mật độ khoảng 1,24 km/km2.
Nhiệm vụ của hệ thống này là vừa phục vụ cho việc ngăn mặn, kiểm soát lũ và bảo
vệ cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống đê, bờ bao có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp tới năng suất, sản lượng của các mùa vụ trong vùng lũ, đặc biệt là lúa Hè -
Thu (đê bao kiểm soát tháng VIII - đê bao lửng) và lúa Thu - Đông (đê bao kiểm soát
lũ cả năm). Chi tiết xem bảng 3.1 dưới đây:
Chiều dài
Chiều rộng mặt
Cao trình bờ
TT
Tỉnh
(km)
(m)
(m)
Bảng 3.1: Tổng hợp hiện trạng đê, bờ bao vùng lũ ĐBSCL.
Toàn vùng lũ
23.687
1 An Giang
4,0 ÷ 6,0
+4,0 ÷ +5,0
3.778
2 Đồng Tháp
2,0 ÷ 6,0
+2.5 ÷ +5.5
10.580
3
Long An
2,0 ÷ 4,0
+1,5 ÷ +3,2
1.670
4 Kiên Giang
2,0 ÷ 5,0
+2,5 ÷ +4,0
1.100
5 Cần Thơ
2,0 ÷ 6,0
+1,5 ÷ +3,0
244
6 Hậu Giang
3,0 ÷ 6,0
+1,1 ÷ +1,8
1.148
7 Vĩnh Long
2,0 ÷ 6,0
+0,8 ÷ +2,0
2.541
8
Tiền Giang
2,0 ÷ 4,0
+1,3 ÷ +2,5
2.500
9 Bến Tre
2,0 ÷ 5,0
+1,3 ÷ +2,5
126
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, 2005
Tuy nhiên, hệ thống đê, bờ bao chống lũ cả năm và đê bao chống lũ tháng VIII
về cơ bản chỉ mới khép kín cho diện tích canh tác ở một số vùng như An Phú, Châu
85
Đồ Án Tốt Nghiệp
Thành, Chợ Mới, Tịnh Biên, các huyện vùng giữa sông Tiền và sông Hậu của Đồng
Tháp, các huyện Long Hồ, Măng Thít, Tam Bình (Vĩnh Long), Cái Bè, Tân Phước
(Tiền Giang)… Phần lớn đê, bờ bao có quy mô bao nhỏ, đắp bằng đất tại chỗ nên
hàng năm sau mỗi mùa lũ đều bị sạt lở, xuống cấp, cần phải bồi đắp, tu sửa thường
xuyên.
Các tỉnh đầu nguồn trong vùng lũ ĐBSCL như Đồng Tháp, An Giang, Kiên
Giang… thường bị ảnh hưởng nặng nề của các trận lũ lớn, và đã được chứng minh
trong thực tế (như trận các lũ đã xảy ra vào năm 1996, 2000, 2001, 2002 và 2011).
3.1.3 Các giải pháp công nghệ đã thực hiện
3.1.3.1 Giải pháp kiểm soát lũ vùng TGLX:
Xây dựng hệ thống công trình kiểm soát lũ vào An Giang: (1) Bịt 7 cầu dọc
tuyến đường Châu Đốc – Tịnh Biên và xây dựng tuyến đường Quốc lộ N1 theo bờ
Nam kênh Vĩnh Tế; (2) Xây 2 đập tràn cao su: Tha La (L = 70 m, H = 2,3 m), Trà Sư
(L = 92 m, H = 2,3 m); (3) Xây dựng các cống đầu kênh Cần Thảo, Tri Tôn, Mười
Châu Phú, Ba Thê, Chắc Năng Gù v.v… để kiểm soát nước từ sông Hậu vào.
Xây dựng hệ thống công trình đưa lũ sang Kiên Giang và thoát ra biển Tây:
(1) Xây cầu cạn Xuân Tô và mở rộng kênh Vĩnh Tế; (2) Mở rộng kênh thoát lũ Trà
Sư – Tri Tôn; (3) Đào mới và mở rộng các kênh T4, T5, T6, Luỳnh Quỳnh v.v… nối
kênh Vĩnh Tế với kênh Rạch Giá – Hà Tiên; (4) Mở rộng các cửa thoát lũ Tuần
Thống, Lung Lớn v.v… qua đường QL80.
Xây các cống ngăn mặn tại các cửa thoát lũ qua đường QL80.
Thời kì đầu lũ (đầu tháng VIII) dâng 2 đập cao su Tha La, Trà Sư không cho
nước tràn vào An Giang, toàn bộ nước lũ tràn đồng từ Campuchia được dẫn về Tứ
Giác Hà Tiên. Vào lũ chính vụ các đập trên được hạ xuống cho lũ tràn qua nhưng với
lưu lượng ít hơn một nửa so với trước đây, phần còn lại được dẫn qua Tứ Giác Hà
Tiên. Cuối lũ lại dâng các đập lên tạo khả năng rút nước nhanh ở An Giang. Cách
điều kiển lũ này bảo vệ được việc thu hoạch lúa Hè Thu an toàn cho An Giang, đưa
được nhiều nước phù sa sông Hậu vào sâu hơn, nước lũ dẫn về Tứ Giác Hà Tiên có
86
Đồ Án Tốt Nghiệp
tác dụng cải tạo đất ở đây, mực nước ngập ở An Giang hạ thấp hơn 0,3 – 0,6 m, An
Giang có thể giao sạ sớm lúa Đông Xuân.
3.1.3.2 Giải pháp kiểm soát lũ vùng ĐTM
Xây dựng tuyến đường N1 (bờ Nam kênh Tân Thành – Lò Gạch) cùng hệ
thống cống kiểm soát nước lũ từ Campuchia tràn sang.
Xây dựng các cống đầu kênh Hồng Ngự, Đồng Tiến, An Phong – Mỹ Hòa
v.v… để kiểm soát nước vào từ sông Tiền
Mở rộng cầu, cống cùng kênh thoát lũ xuống phía Nam sông Tiền và ra sông
Vàm Cỏ.
Vận hành các cống dưới đường Quốc lộ N1 cũng tương tự các đập cao su Tha
La, Trà Sư trên tuyến Châu Đốc Tịnh Biên thuộc vùng TGLX.
3.1.2.3 Giải pháp lũ vùng Tây sông Hậu
Đây là vùng ngập nông được chống lũ triệt để. Các hạng mục công trình chính
được liệt kê dưới đây:
Xây dựng các cống dưới đường QL80 (Lộ Tẻ – Rạch Sỏi) và ven đường QL91
(Cần Thơ – Lộ Tẻ) để kiểm soát lũ từ sông Hậu vào.
Xây dựng các cống ngăn mặn, tiêu úng, giữ ngọt ven sông Cái Lớn.
3.1.2.4 Giải pháp lũ vùng kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu
Vùng phía Nam kênh Vĩnh An được chống lũ triệt để bởi hệ thống đê bao và
cống bộng.
87
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, 2017
Hình 3.2: Hiện trạng hệ thống đê bao, bờ bao chống lũ ở ĐBSCL, 2017
3.1.3 Phân tích hiện trạng môi trường các giải pháp kiểm soát lũ vùng ĐBSCL
Từ trước đến nay việc khai thác tài nguyên ở ĐBSCL phần lớn dựa vào kinh
nghiệm dân gian, phát triển tự nhiên dưới sức ép của nhu cầu cuộc sống con người.
Khái niệm về môi trường còn chưa rõ và chưa phổ biến. Các quan điểm về phát triển
kinh tế vùng của nhiều người cũng không giống nhau. Chính vì vậy, một số dự án về
phát triển cơ sở hạ tầng thủy lợi, giao thông và phát triển khu vực 1 (nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản) đã không tránh khỏi những tác động bất lợi về môi trường,
chẳng hạn như nạn chặt phá trừng ngập mặn, chiến dịch nuôi tôm vùng ven biển, thiệt
hại do lũ, lụt gây ra. Môi trường ở ĐBSCL đã, đang và ngày càng suy thoái và cạn
kiệt.
Chính vì những lý do trên, nghiên cứu môi trường trở nên vô cùng quan trọng và
cần thiết nhằm định ra chiến lược phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường cho ĐBSCL,
nơi mà lịch sử lâu đời của con người khai phá đã để lại dấu ấn lên môi trường thiên
nhiên. Một trong những yếu tố nóng bỏng nhất về môi trường hiện nay là vấn đề xây
dựng hạ tầng kiểm soát lũ, lụt ở ĐBSCL, một hiệu ứng thủy văn làm nhiều chuyên
gia quản lý, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã và đang bỏ nhiều công sức để
88
Đồ Án Tốt Nghiệp
nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp tối ưu khai thác tiềm năng cũng như giảm thiểu
thiệt hại của dòng chảy lũ sông Mekong cho vùng ĐBSCL.
3.1.3.1 Xác định tác động tích cực
Nhìn chung các giải pháp kiểm soát lũ hiện nay đã có những tác động tích cực như
sau:
• Bảo vệ sản xuất, giảm được thiệt hại do lũ gây ra, đảm bảo an toàn tính mạng
của nhân dân sống trong vùng ngập lũ tương ứng với các trận lũ trung bình (mực
nước ở Tân Châu nhỏ hơn 4,5 m MSL Hà Tiên).
• Kiểm soát được chế độ mực nước, lưu lượng ở vùng ngập nông và vùng giữa
sông Tiền, sông Hậu (phần phía Nam kênh Tân Châu, Châu Đốc). Đảm bảo cho các
vùng này có điều kiện thuận lợi để khai thác tốt tiềm năng đất đai, nhân lực để phát
triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống mọi mặt cùa nhân dân.
• Đáp ứng được nhu cầu tưới, cải thiện điều kiện tiêu cho vùng ngập sâu nên
góp phần làm ổn định hơn việc sản xuất hai vụ lúa Đông Xuân - Hè Thu. Các vùng
kiểm soát lũ cả năm, theo NEDECO có thể giảm chi phí bơm từ 20 đến 30%.
• Giảm được mức ngập cho vùng TGLX, ĐTM và do đó giảm được phần nào
khối lượng xây dựng, chi phí đầu tư, duy tu, sửa chữa hàng năm, tăng độ ổn định các
hạng mục công trình hạ tầng cơ sở. Riêng trong lĩnh vực giao thông, đã mang lại hiệu
quả kinh tế liên vùng.
• Cải tạo thổ nhưỡng cho các vùng đất phèn là vùng Tứ giác Hà Tiên và ĐTM.
• Cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở nông thôn (hệ thống nhà ở, đường sá v.v…)
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho cư dân trong
vùng ngập lũ.
• Tăng sản phẩm, tạo thêm nhiều công ăn việc làm từ phát triển sản xuất thâm
canh tăng vụ ở vùng ngập nông và ổn định ở vùng ngập sâu và nhờ đó thu nhập của
cư dân gia tăng, đời sổng được cải thiện và kinh tế hộ phát triển.
• Góp phần mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp đảm bảo mức sản xuất lương
thực, giữ vững an ninh lương thực cho cả nước và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên Thế
giới.
89
Đồ Án Tốt Nghiệp
3.1.3.2 Phân tích rủi ro môi trường do các giải pháp lũ hiện nay
Trong 3 thập kỷ vừa qua con người đã tác động mạnh mẽ lên vùng ngập lụt
của châu thổ sông Mekong. Nhiều kênh mới đã được đào, nhiều kênh cũ đã được nạo
vét, mạng lưới kênh cấp II ngày càng được đan dày đã làm tăng khả năng chuyển lũ
qua các vùng ngập. Mặt khác các hệ thống giao thông đường bộ cũng được đan dày
và tôn cao nhưng khẩu độ cầu cống chưa đủ đã làm ách tắc việc thoát lũ, làm dâng
mực nước lũ một số vùng, trong đó đáng chú ý ở vùng ÐTM và TGLX. Sau các trận
lụt năm 1978, 1984, 1991, 1994, 1996 hệ thống thủy lợi kiểm soát lũ được điều chỉnh
theo quyết định số 99/TTg của Thủ tướng ngày 9 tháng 2 năm 1996 nhằm nạo vét sâu
hơn, đào nhiều kênh hơn, đấp đê bao nhiều và cao hơn. Kết quả là nước lũ nội đồng
trong trận lụt 1996 và 2000 ở vùng ÐTM và TGLX. Trận lũ năm 2000 đã trở thành
lịch sử, mặc dù mực nước tại Tân Châu và Châu Ðốc vẫn thấp hơn mực nước của hai
trận lụt 1961 và 1966.
Những vấn đề do hệ thống thủy lợi kiểm soát lũ hiện nay ở ÐBSCL phát sinh
có liên quan đến nhiều phương diện. Đó là thủy lực và môi trường, có ảnh hưởng đến
các ngành khác, như nông, ngư nghiệp.
Về phương diện thủy lực, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL đã làm thay đổi chế độ
thủy lực (flow regime) tự nhiên của ÐBSCL, mà hậu quả là (1) thay đổi tình trạng lũ,
lụt ở ÐBSCL, (2) gia tăng mức độ sạt lở và bồi lắng ở lòng lạch và cửa sông, và có
khả năng ảnh hưởng đến việc xói mòn của bán đảo Cà Mau, và (3) giúp cho nước
mặn xâm nhập vào đất liền xa hơn, lâu hơn, và cao hơn.
Hệ thống kênh đào hiện nay ở ÐBSCL sâu hơn, rộng hơn, và dày đặc hơn so
với hệ thống kinh đào trước năm 1975 đã tạo thành những lòng lạch thuận lợi khiến
cho nước lũ từ Campuchia và sông Tiền và sông Hậu chảy vào ÐTM và TGLX sớm
hơn, nhiều hơn, và nhanh hơn. Ở thượng nguồn, hệ thống đê đập làm giảm diện tích
của đường thoát lũ khiến mực nước lụt dâng cao hơn. Ở hạ nguồn, lượng nước lũ này
đã bị hệ thống đường giao thông được nâng cao hoặc hệ thống đê đập cống ngăn mặn
ngăn chặn khiến cho mực nước lụt ở ÐBSCL sâu hơn và thời gian ngập sẽ kéo dài
hơn trước (Hình 3.2).
90
Đồ Án Tốt Nghiệp
Việc nâng cao trình đập cao su Trà Sư từ cao độ 3,8 m như hiện nay lên cao
độ 4,2 hoặc 4,5 m; nâng cao trình các quốc lộ 62, 30, 91 và hệ thống đê bao cao hơn
mực nước lụt năm 2000. Việc nạo vét các kênh hiện có như Hồng Ngự và kênh 79
sâu hơn và rộng hơn để thoát nước lũ. Hậu quả là:
• Làm gia tăng mực nước tại thượng lưu các vùng đê bao, bờ bao.
• Làm thay đổi, phức tạp thêm chế độ dòng chảy lũ và vì vậy có thể gây nên các
diễn biến xấu về bồi lắng, xói lở cục bộ ở một số khu vực.
• Điều kiện cấp, thoát nước, kiểm soát lũ, hệ thống hạ tầng cơ sở được cải thiện,
sản xuất nông nghiệp có nhiều cơ hội phát triến sẽ tạo nên một sức ép lớn cho những
khu vực đất ướt còn sót lại và như vậy tính đa dạng sinh học trong vùng bị giảm sút,
một số nguồn gen quý hiếm có nguy cơ bị mất.
• Giảm đáng kế nguồn lợi thủy sản tự nhiên trong vùng ngập nông và một phần
ở vùng ngập sâu.
• Hạn chế giao thông thủy.
• Mất một diện tích khá lớn đất đai canh tác cũng như một số diện tích cây trồng
hàng năm, lâu năm của dân, một số lớn các hộ gia đình phải di dời chỗ ở. Ví dụ khi
thực hiện điều tra sơ bộ cho ba tiếu vùng dự án Ồ Môn - Xà No, Nam Măng Thít,
Quản Lộ Phụng Hiệp thuộc dự án phát triển thủy lợi ĐBSCL do WB tài trợ đã có
khoảng 2.400 ha đất bị mất, 13.000 gia đình, 65.000 dân bị ảnh hưởng.
• Sẽ có một bộ phận dân mất hết, hoặc một phần đất đai, một bộ phận khác bị
giảm hoặc mất nguồn kiếm sông (dân làm nghề cá trong nội vùng) và như vậy tạo
nên một số bất bình đẳng trong sự hưởng lợi từ dự án.
Chúng ta đều biết các trận lũ những năm 2000, 2001 và 2002 đã gây tổn thất to
lớn về người và của ở ĐBSCL. Tuy nhiên các trận lũ ấy cũng là một đợt tổng duyệt
về nhận thức và hiệu quả của giải pháp kiểm soát lũ đã thực hiện trong hơn một thập
kỷ qua để chung sống với lũ. Về ý nghĩa khoa học, các cơn lũ này như một mô hình
vật lý thực tiễn kiểm chứng toàn diện và đồng loạt các công trình hạ tầng thủy lợi,
giao thông, xây dựng v.v… về khả năng thích ứng với lũ cũng như ảnh hưởng qua lại
của các công trình ấy trong lũ lụt như thế nào.
91
Đồ Án Tốt Nghiệp
Tóm lại từ trận lũ năm 2000 cho thấy giải pháp lũ cho ĐBSCL vẫn còn nhiều
bất cập. Vì vậy chúng ta cần phân tích chi tiết trên các mặt: kỹ thuật, kinh tế, chính
trị, xã hội và môi trường (xem chi tiết trong mục 3.2).
3.2 Phân tích hiện trạng các giải pháp kiểm soát lũ, lụt ở Đồng Tháp
3.2.1 Đặc điểm hệ thống kênh rạch tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Đồng Tháp có hệ thống kênh, rạch dày đặc bao gồm các sông, rạch tự
nhiên và hệ thống kênh đào.
3.2.1.1 Hệ thống sông, kênh, rạch chính
a. Sông Tiền: Độ rộng bình quân sông Tiền khoảng 900 m, cao trình đáy -15
m, cá biệt có nơi – 38 m như khu vực cầu Mỹ Thuận. Đoạn đầu chảy vào Việt nam,
sông Tiền tải tới 77 - 78% lượng lũ trên sông chính, sau Vàm Nao lưu lượng được
phân phối lại thì còn khoảng 51 - 52% cho sông Tiền và 48 - 49% cho sông Hậu.
Sông Tiền chảy qua địa phận tỉnh Đồng Tháp 123 km Từ Hồng Ngự tới Châu Thành.
b. Sông Hậu: Sông Hậu chảy qua địa phận của tỉnh 40 km, cũng theo hước
Tây Bắc - Đông Nam từ Lấp Vò tới Châu Thành, chiều rộng sông từ 1,2 km đến 2,0
km, độ sâu từ -18 ÷ -35,0 m MSL. Dọc sông có các cù lao nhưng không thuộc tỉnh
Đồng Tháp.
c. Sông Hồng Ngự: Là đoạn cuối của sông Sở Thượng, là cửa thoát nước tốt
nhất cho toàn vùng giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, bao gồm sông Sở Thượng,
Sở Hạ, toàn khu trũng kéo dài dọc biên giới. Kích thước sông Hồng Ngự lớn, chiều
rộng lớn nhất vào thời kỳ lũ tại Tân Hội là 135 m, chiều sâu tới -14 m MSL. Ở tuyến
cửa ra rạch Hồng Ngự, chiều sâu đạt đến -17 m MSL. Ngược về phía biên giới độ sâu
giảm nhanh chóng -5,0 ÷ -8,0 m MSL. Lòng sông có dạng phức tạp, nhiều sình lầy
do quá trình bồi tụ. Lưu lượng lớn nhất qua sông Hồng Ngự mùa lũ 1996 là 1.880
m3/s với tổng lượng lũ tiêu thoát là 7,49 x109 m3. Hồng Ngự có 2 nhánh là sông Sở
Thượng là nhánh chính của sông Hồng Ngự đổ nước từ phía Tây, chiều rộng sông Sở
Thượng từ 60 ÷ 120 m (tính từ biên giới), cao trình đáy sông khoảng -10,0 m MSL
và sông Sở Hạ là nhánh phía Đông có chiều rộng trung bình 45 m; đáy 20 m; cao
trình đáy ≥ -4,17 m MSL là đoạn đầu của kênh Sở Hạ - Cái Cỏ.
92
Đồ Án Tốt Nghiệp
d. Rạch Cái Cái: Là một rạch tự nhiên, được nối với sông TraBek phía
Campuchia và chạy thẳng tới khu trung tâm ĐTM. Đây là một rạch lớn có chiều rộng
115 m; cao trình đáy từ (-3) ÷ (-5). Vì được nối với thượng lưu, Rạch Cái Cái có
thung lũng tập trung nước lớn, trong mùa lũ lưu lượng chảy vào ĐTM qua rạch này
chiếm tỷ trọng khá (khoảng 100 m3/s), rạch Cái Cái có vị trí quan trọng trong việc
kiểm soát lũ vùng ĐTM.
3.2.1.2 Hệ thống kênh, rạch trục ngang
Ngoài hệ thống kênh dọc, vùng ĐTM có một hệ thống kênh ngang chạy theo
hướng Bắc - Nam khá dầy, những kênh này có tác dụng phân phối nước tưới, góp
phần tiêu chua, cải tạo đất và cả phân phối lũ tới các cửa thoát lũ dọc tuyến TT - LG.
Vùng có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng lũ tràn từ biên giới vào ĐTM là dải đất
phía Bắc Đồng Tháp Mười chạy dài suốt từ sông Tiền bao gồm các huyện Hồng Ngự,
Tân Hồng qua các huyện Tân Hưng rồi Vĩnh Hưng, Thạnh Hóa, Đức Huệ (Long An)
có các kênh rạch lớn chính chạy ngang, đó là:
a. Kênh Sở Hạ - Cái Cỏ: Kênh tiếp nối với sông Sở Hạ chạy dài tới Bình Tứ,
tỉnh Long An, dài 66 km, đoạn trên địa phận Đồng Tháp 34 km (Bđáy = 20 m; - 4,17),
đoạn còn lại (Bđáy = 10 m; - 3,17). đã được Trung ương đầu tư nạo vét và nâng cấp
phía bờ Nam, có tác dụng cấp nước (khoảng 1,7 m3/s - mùa Kiệt, tại Thông Bình) và
điều hòa dòng chảy lũ tràn biên giới vào ĐTM.
b. Kênh Tân Thành - Lò gạch: dài 51,40 km đầu kênh nối với sông Hồng
Ngự, đoạn đầu là rạch Sam Sai cũ nên không thẳng, tới Bình Thành kênh được thiết
kế thẳng Bđáy = 16 ÷ 24 m cao trình đáy = (-3,17) ÷ (-4,17). Là kênh dẫn nước tưới
quan trọng và lại được nối với hệ thống kênh dọc nên kênh Tân Thành - Lò Gạch còn
có nhiệm vụ tham gia phân phối lũ tới các cửa thoát lũ. Trong tương lai, kênh được
mở rộng theo yêu cầu tưới và góp phần đẩy mặn trên hệ thống sông Vàm Cỏ.
c. Kênh Hồng Ngự: đầu kênh nối trực tiếp với sông Tiền cuối kênh là rạch
Ràm Rưng (nối với sông Vàm Cỏ Tây) dài 42 km. Kênh có kích thước Bđáy = 40 m,
cao trình đáy (-4,17), có tác dụng lớn trong việc dẫn nước tưới, tiêu chua và tiêu lũ
93
Đồ Án Tốt Nghiệp
cho vùng phía Bắc ĐTM. Trong những năm qua, kênh Hồng Ngự đã góp phần quan
trọng trong việc cải thiện và phát triển KT - XH vùng ĐTM. Kênh qua địa phận tỉnh
Đồng Tháp 28 km từ TX Hồng Ngự tới kênh Phước Xuyên.
d. Kênh Đồng Tiến - Dương Văn Dương: Kênh nối với sông Tiền tại xã An
Long huyện Tam Nông theo hướng Tây - Đông, đoạn từ sông Tiền đến kênh Phước
Xuyên gọi là kênh Đồng Tiến, từ đó đến Kênh 12 là Dương Văn Dương, đoạn cuối
gọi là Lagrange, kênh có Bđáy = 20 m; Cao trình đáy = (-3,17) ÷ (-3,67) .
e. Kênh trục ngang Nguyễn Văn Tiếp: Đây là kênh lớn, chạy suốt từ sông
Tiền tại cửa Phong Mỹ và nối với VCT với mục đích phục vụ chủ yếu cho giao thông
thủy và buôn bán thương mại, kênh có Bđáy = 20 m; Cao trình đáy = (-3,17) ÷ ( -3,67).
Ngoài ra còn các kênh khác như An Bình, An Phong Mỹ Hòa – Năm ngàn – Bắc
Đông, kênh Đường Thét - Cần Lố, Kênh Số 1 làm nhiệm vụ tạo nguồn dẫn nước vào
vùng ĐTM. Phân bố các kênh trục đã đảm bảo khoảng cách 8 ÷ 10 km/kênh. Kênh
trục Phước xuyên song song với sông Tiền có nhiệm vụ như kênh trục.
3.2.1.3 Hệ thống kênh trục vùng kẹp giữa hai sông
Hệ thống kênh, rạch chính hình thành 2 tuyến rõ nét: Tuyến các kênh nối sông
Tiền - sông Hậu; Tuyến các kênh hướng song song với sông Tiền - sông Hậu.
a) Các kênh nối sông Tiền – sông Hậu
a. Kênh Lấp Vò: Kênh được đào năm 1901 và được nạo vét năm 1957 phục vụ cho
giao thông thủy và cung cấp nước, kênh nối sông Tiền (tại Sa Đéc) và sông Hậu (tại
Vàm Cống), dài khoảng 30 km, tại Vàm Cống rộng khoảng 200 m, cao trình đáy (-
7,5); tại Sa Đéc rộng khoảng 100 m, cao trình đáy (-9).
b. Kênh Mương Khai: dài 20,21 km, nối với sông Tiền qua rạch Cần Thơ, đoạn đầu
mặt rộng 40 m, cao trình đáy (-4,2); đoạn giáp sông Hậu rộng 40 ÷ 50 m, cao trình
đáy (-3,2) ÷ (-4,2); đoạn giữa mặt rộng 30 m, cao trình đáy (-1,2).
c. Kênh Cần Thơ - Huyện Hàm: dài 22,083 km, cửa vào phía sông Tiền mặt rộng
50 m, cao trình đáy (-4,8); đoạn giữa kênh mặt rộng 35 m, cao trình đáy (-0,9); đoạn
cuối ra sông Hậu rộng và sâu, mặt rộng 50 ÷ 60 m, cao trình đáy (-7) ÷ (-8).
94
Đồ Án Tốt Nghiệp
d. Kênh Xẻo Mát - Cái Vồn: dài 30,1 km, đoạn giáp sông Tiền rộng và sâu, Bmặt =
70 ÷ 80 m, cao trình đáy (-7) ÷ (-11); đoạn giữa kênh chiều mặt rộng 30 m, cao trình
đáy (-2,1) ÷ (-2,5); đoạn cửa ra, mặt cắt giáp sông Hậu rộng 100 m, cao trình đáy (-
9).
e. Kênh Nha Mân - Tư Tải: dài 26,013 km, đoạn giáp sông Tiền mặt rộng (60 ÷ 65)
m, cao trình đáy (-7); đoạn gữa kênh mặt rộng 20 ÷ 25 m cao trình đáy (-1,2); đoạn
cuối ra sông Hậu mặt rộng 60 ÷ 65 m, cao trình đáy (-4,5).
b) Các kênh, rạch hướng song song với sông Tiền – sông Hậu
Kênh Tầm Vu: là kênh đào trước năm 1975, được nạo vét và mở rộng năm 1978,
nối kênh Mương Khai với kênh Xẻo Mát - Cái Vồn, kênh dài 16 km, rộng 20 ÷ 30 m,
cao trình đáy (-1,2) ÷ (-1,5). Kênh có hiện tượng bối lắng do nằm trong vùng giáp
nước, sâu rộng ở 2 đầu, nông hẹp ở giữa. Mặt cắt giáp kênh Huyện Hàm có B mặt rộng
38 m, cao trình đáy (-2,2), đoạn giữa rộng 25 m, cao trình đáy (-1,3), đoạn cuối chảy
vào kênh Xẻo Mát - Cái Vồn rộng 38 m, cao trình đáy (-2,0).
Các trục kênh lớn như: Mương Khai, Cần Thơ - Huyện Hàm có cửa ra vào nối với
sông Tiền, sông Hậu là các trục cấp nước tưới, thoát lũ, tiêu úng rất quan trọng.
Bảng 3.2: Đặc điểm chính của hệ thống sông, kênh, rạch khu kẹp giữa hai sông
L Độ sâu (m) Bmặt Sông, kênh Từ...đến
(km) (đầu - giữa - (đầu - giữa -
cuối) cuối)
Sông Tiền Tân Châu – V.Long 122 -29; -35 1.500
Sông Hậu Vàm Cống - Cần Thơ -25; -26 40 1.000
Xáng Lớn 80÷250 -3,5; -7,5 30
Mương Khai S.Hậu - S.Sa Đéc 50 ; 10; 40 -4; -0.4; -5 19
Bông Súng S.Hậu - rạch Cái Mít 60; 10; 40 1; -0.5; -2,6 7
95
Đồ Án Tốt Nghiệp
Cái Tắc – K.Xáng - S.Hậu 12 20; 10; 200 -2; -1; -8
L.Vung
Cái Bường Sa Đéc - Vĩnh Thạnh 6 15; 3; 3 -1.7; -0.1; -
0.1
Ông Phú K.Xáng - S.Hậu 10; 4; 10 -1; 0; -1 9
Họa Đồ K.Xáng - Hòa Long 40; 10; 5 -4; 0; 0 13
Hộ Trụ ; 10; 25 1; -1; -4 5
Cái Dầu Bé 1; 8; 10 0.5; 0; -1 9
Cái Tầu – Xẻo Sa Đéc - K. Tầm Vu 16 66; 24; 18 -11; -1; -1
Mát
Nha Man K.Sa Đéc - Sông Hậu 96; 28; 22 -12; -5; -1 14
Cái Vồn – Tầm Đốc Phủ Hiền - Nha 74; 22; 28 -9; -1; -3 29
Vu Mân
Tư Tải R. Cần Thơ - K.Tâm 11 58; 26; 16 -7; 0; -1
Vu
Cầu dụng - M. R. Cần Thơ - K.Tầm 9 32; 20; 21 -4; -2; -1
Thới Vu
3.2.2 Diễn biến lũ, lụt tỉnh Đồng Tháp:
Diễn biến lũ trong các vùng ngập ở ĐBSCL nói chung, tỉnh Đồng Tháp nói
riêng phụ thuộc vào đỉnh lũ, lượng lũ, dạng lũ (tức độ cao, thời gian xãy ra đỉnh lũ
và thời gian duy trì lũ theo các cấp mực nước), phụ thuộc vào khả năng đưa lũ vào
nội đồng và khả năng thoát lũ, phụ thuộc vào thủy triều và mưa nội đồng.
Từ tháng VII ÷ XI hàng năm, lũ trên sông Tiền, sông Hậu được hình thành do
mưa ở thượng nguồn sông Mekong và mưa khu vực gây ra. So với thượng nguồn, lũ
ở đây thường chậm hơn 1 tháng, và kết thúc trễ hơn 1 tháng. Lưu lượng lớn nhất trên
96
Đồ Án Tốt Nghiệp
sông Tiền tại Mỹ Thuận khoảng 16.000 ÷ 18.000 m3/s, trên sông Hậu tại Cần Thơ
21.000 m3/s.
Lũ đẹp (hiền hòa) khi mực nước lũ tại Tân Châu khoảng 3,50 ÷ 4,50 m. Cường
suất lũ nhỏ, thường 5 ÷ 10 cm/ngày (tại các vị trí thuộc phía Bắc kênh Hồng Ngự).
Khi lũ sông Mekong chảy tràn vào ĐBSCL. Mặt khác, kết hợp với mưa tại chỗ
lớn sẽ gây nên lũ lớn và thường xuyên ở Đồng Tháp nói riêng và ĐBSCL nói chung.
Mùa lũ thường bắt đầu từ tháng VII và kết thúc vào tháng XI.
Đến tháng VIII, khi mực nước Tân Châu đạt 3,0 ÷ 3,5 m, lưu lượng tràn vào
các kênh tăng nhanh và bắt đầu tràn bờ. Lúc này ngoài lũ trên sông chính còn lũ tràn
dọc theo tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia vào vùng ĐTM.
Vượt khỏi biên giới Việt Nam – Campuchia, sông Tiền phân lũ qua sông Hậu
bởi kênh Tân Châu – Châu Đốc, tuy kênh này đang ngày càng mở rộng, nhưng lưu
lượng lũ sông Tiền ở Tân Châu vẫn chiếm khoảng 80 ÷ 84% tổng lưu lượng của hai
sông. Ở đỉnh lũ tỷ lệ này còn 73 ÷ 75%.
Khả năng tải nước của sông Tiền trong những năm gần đây bị giảm sút. So với
30 - 40 năm trước đây, lưu lượng sông Tiền chảy qua Tân Châu hiện nay ở mực nước
khoảng 5,0 m, giảm đi từ 4.000 ÷ 5.000 m3/s.
Bảng 3.3: Thời gian duy trì lũ theo các cấp mực nước (ngày) CẤP TÂN CHÂU HƯNG THẠNH
(Cao trình mặt đất 170 cm) (Cao trình mặt đất 110 cm) MỰC
NĂM NĂM
NƯỚC
61 66 78 84 00 04 61 66 78 84 00 04
90 84 95 90 137 55 75 60 75 59 6 0 > 350
cm
80 63 75 71 126 25 63 46 56 21 0 0 > 400
cm
97
Đồ Án Tốt Nghiệp
52 40 60 34 100 0 36 22 1 0 0 0 > 450
cm
3.2.2.1 Diễn biến lũ đoạn sông Tiền từ Hồng Ngự đến Mỹ Tho
Ở bờ trái sông Tiền là vùng ĐTM, đã được đầu tư phát triển trên hai thập kỷ
vừa qua. Các hệ thống thủy lợi và giao thông phát triển trong nhiều năm làm cho
đặc điểm thủy văn mùa lũ ở vùng này cũng biến đổi rất mạnh.
Từ biên giới Việt Nam – Campuchia đến Sa Đéc, xu thế chung là mực
nước sông Tiền luôn cao hơn mực nước sông Hậu, nên nước lũ sông Tiền theo các
kênh rạch và các bờ thấp chảy sang sông Hậu. Lưu lượng này và lưu lượng phân
qua Vàm Nao đã đưa tỷ lệ giữa sông Tiền và sông Hậu trong mùa lũ ở biên giới là
80% và 20% xuống tới Mỹ Thuận và Cần Thơ lưu lượng đã xấp xỉ nhau.
3.2.2.2 Lũ tràn biên giới vào Đồng Tháp Mười
Nước lũ chảy vào ĐTM theo 2 hướng: (a) từ vùng ngập lụt Campuchia qua
kênh Sở Hạ – Cái Cỏ chiếm 75 ÷ 80% (gọi là lũ tràn) và (b) từ sông Tiền theo các
kênh Tân Thành – Lò Gạch, Hồng Ngự, Mương Lớn, An Bình chiếm 24 ÷ 25% tổng
lượng nước lũ vào ĐTM.
Nước lũ từ ĐTM chủ yếu thoát ra sông Tiền qua Quốc lộ 30 từ Phong Mỹ
đến An Hữu và qua Quốc lộ 1 từ Cổ Cò đến Long Định, một phần được thoát ra 2
sông Vàm Cỏ.
Mực nước lũ: Cuối tháng VIII và đầu tháng IX, mực nước Tân Châu ngày càng dâng
cao (trên mức 3m), dòng tràn qua biên giới xuất hiện, dòng chảy trên sông Trabek đã
mạnh và đẩy vào ĐTM. Càng xa sông Tiền thời gian lũ lên càng chậm lại. Mực nước
trên sông VCT tại Mộc Hóa vào cuối tháng VIII vẫn còn ở mức thấp hơn sông Tiền
tại Tân Châu từ 2,5 ÷ 3,2 m (lũ 1984 ngày 31/VIII ở Tân Châu là 4,76 m) và Mộc
Hóa là 1,50 m, lũ 1996 ngày 31/VII tại Tân Châu 3,72 m, Mộc Hóa 1,06 m.
Cuối tháng IX hoặc đầu tháng X, với những năm lũ trung bình và lớn thì lượng
lũ tràn qua biên giới vào ĐTM chiếm ưu thế. Kết quả thực đo lũ năm 1996, cho thấy,
98
Đồ Án Tốt Nghiệp
khu vực phía Bắc kênh Tân Thành – Lò Gạch từ rạch Cái Cái trở về sông Tiền mực
nước đều cao hơn Tân Châu (mực nước ngày 30/IX trong đồng là 5,03 đến 5,10 m,
Tân Châu 4,85 m). Nước lũ từ sông Tiền theo rạch Sở Thượng, có xu hướng đổ vào
ĐTM, nhưng phía ĐTM đã “no nước” nên một lượng nước khá lớn chảy ra sông Tiền
qua rạch Hồng Ngự. Mực nước lũ dâng nhanh tràn mạnh từ biên giới vào gặp Quốc
lộ N1, nước thoát qua các cầu dưới lộ này.
Cuối tháng X và đầu tháng XI, nước lũ tiêu mạnh về phía sông Tiền, nhất là
đoạn Cao Lãnh – Cổ Cò, một phần đáng kể được tiêu về phía hai sông Vàm Cỏ qua
kênh Hai Tám, Sông Trăng và các cửa từ Vĩnh Hưng đến Tuyên Nhơn. Thời gian
truyền đỉnh lũ trong nội đồng từ phía Bắc xuống phía Nam khoảng 12 đến 15 ngày
(Tân Hồng 3/X đến Mỹ An 11/X, Mỹ Trung 15/X, Mỹ Phước 16/X và Mỹ Phước Tây
17/X ÷ 18/X). Vùng Nam Quốc lộ 1 do ảnh hưởng mạnh của thủy triều nên thời gian
đạt đỉnh lũ cao nhất lại vào những ngày cuối tháng X (ngày 30/X đến 1,2/XI).
Xu thế chung, mực nước trong nội đồng cao hay thấp tương ứng với mực nước
của sông chính, có nghĩa là năm nào lũ sông lớn thì mực nước trong đồng cũng lớn.
Điều này khẳng định lũ trong nội đồng là do lũ sông Mekong quyết định , song trong
thời gian gần đây mực nước trong nội đồng gia tăng đáng kể nhưng ngoài sông sự gia
tăng không nhiều.
Sơ bộ đánh giá rằng: lượng nước tràn qua biên giới ngày càng nhiều hơn, hệ
thống kênh mương nội đồng thông thoáng dẫn lũ vào nhiều hơn, các đường giao
thông, cơ sở hạ tầng phát triển gây nên hiện tượng dâng cao mực nước nội đồng.
Lưu lượng lũ: Trong các năm lũ lớn 1978, 1991,1994, 1996 và năm 2000 có nhiều
cơ quan đơn vị tổ chức đo lưu lượng tràn vào vùng Đồng Tháp Mười và Tứ Giác
Long Xuyên. Nhưng do các tuyến chảy tràn khá phức tạp, do tốc độ qua các cầu gần
biên giới khá lớn, do có nhiều đơn vị chịu trách nhiệm đo đạc, do sử dụng các phương
pháp đo đạc khác nhau, nên cho đến nay rất khó đánh giá độ chính xác của các số liệu
(Bảng 3.4).
99
Đồ Án Tốt Nghiệp
Bảng 3.4: Lưu lượng bình quân ngày lớn nhất tràn vào vùng ĐTM (m3/s)
NĂM
1961 1991 1994 1996 2000
42.600 40.120 39.220 42.100 QSWAYRIENG-
PNOMPENH
28.800 23.400 22.500 22.600 25.500 QTÂN CHÂU
5.000 5.600 8.500 9.690 QTRÀN
3.2.2.3 Diễn biến lũ trong nội đồng ở Đồng Tháp
Nguyên nhân ngập lũ ở vùng ĐTM là do nước lũ sông Mekong, thủy triều
ở Biển Đông, mưa ở nội đồng, địa hình, địa mạo, mạng lưới sông ngòi kênh rạch, các
đường giao thông và các tác động khác của con người.
Mức độ ngập lũ ở ĐTM tùy theo không gian và thời gian trong mùa lũ. Độ
ngập sâu giảm dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đối với từng năm lũ lớn độ
duy trì cấp mực nước khác nhau, thời gian duy trì cấp mức nước cũng khác nhau.
Ngay từ cuối tháng VII, đầu tháng VIII hàng năm, trong khi mực nước tại
Tân Châu còn ở mức 3,0 m và nếu gặp thời kỳ triều cường, nước lũ bị dồn ứ và gây
ngập ở những nơi gần sông và các lòng lạch đã đầy ắp nước (chân triều đã bị dâng
cao) các đầm đìa, khu trũng đã bị ngập nước. Điển hình như trận lũ 1978, 1984. Nhìn
chung, dòng chảy theo hướng Tây – Đông qua các kênh Sở Hạ - Long Khốt, Tân
Thành – Lò Gạch, Hồng Ngự, Đồng Tiến chuyển nước vào trong nội đồng ĐTM và
tiêu ra phía sông VCT. Thời kỳ đầu lũ này là thời gian tiêu nước chua phèn thuận lợi
nhất.
Trước đây, hàng năm khi mực nước sông Tiền bắt đầu dâng cao thì nước lũ
theo các kênh rạch chủ yếu là hướng Tây – Đông vào ĐTM. Đầu tháng VII, VIII lúc
mực nước ở Tân Châu lên đến 3,0 m, nước lũ tràn bờ trái rạch Sở Hạ và đến mức lũ
cao, dòng tràn này kìm hãm dòng chảy vào từ sông Tiền. Nước lũ vào ĐTM được
thoát theo hai hướng: (i) Hướng Nam trở lại sông Tiền đoạn từ Thanh Bình đến Mỹ
Tho và (ii) Hướng Đông chảy về sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông đổ ra Biển Đông.
100
Đồ Án Tốt Nghiệp
Khi mực nước lũ sông Tiền bắt đầu dâng cao thì nước lũ qua các hệ thống
kênh rạch tràn vào ĐTM theo hai hướng Tây và Bắc. Ở hướng Tây nước lũ theo các
kênh có hướng Tây – Đông chảy vào đồng. Ở hướng Bắc trên bờ kênh Sở Hạ, nước
lũ không phải bắt đầu tràn khi mực nước Tân Châu lên 2,5 m như trước đây, mà nước
lũ theo các kênh từ biên giới đổ vào đồng ngay khi mực nước bắt đầu lên. Điều đó
làm cho mực nước ở nội đồng vùng ĐTM các tháng VII, VIII dâng cao hơn, như mực
nước bình quân tháng VII, VIII các năm 1991 ÷ 1994, ở Mộc Hóa cao hơn các năm
1984 ÷ 1985 là 0,25 ÷ 0,35 m. Mặc dầu mực nước bình quân các tháng VII, VIII ở
Tân Châu các năm 1991 ÷ 1994 đều thấp hơn các năm 1984 ÷ 1985 khoảng 0,35 ÷
0,40 m.
Khả năng tiêu thoát nước lũ của từng kênh trục có khác nhau, song hướng
chuyển lũ ra phía Tây và phía Nam mạnh hơn sang phía Đông. Tổng lưu lượng thoát
về phía Tây (qua Quốc lộ 30): 2.158 m3/s, khoảng 9,3 tỉ m3 nước, qua Quốc lộ I ở
phía Nam: 2.157 m3/s khoảng 10,8 tỉ m3. Lưu lượng thoát về phía Tây (Tân An):
1.700 m3/s, khoảng 10,2 tỉ m3. Các cửa Cần Lố, Thông Lưu, Cổ Cò là những cửa
thoát lũ lớn nhất ở phía Nam. Các kênh nối sông Tiền với sông VCT theo hướng Tây
– Đông như Đồng Tiến – Lagrange, Nguyễn Văn Tiếp A… tiêu thoát kém hơn, vì
phụ thuộc vào khả năng tiêu thoát lũ của sông VCT.
Bảng 3.5: Mực nước và thời gian xuất hiện đỉnh lũ một số trạm nội đồng
Năm Hồng Ngự Tràm Chim Mỹ An H.Thạnh Mộc Hoá
2000 468 (23/IX) 412 (24/IX) 272 (26/IX) 354 (24/IX) 327 (25/IX)
2001 448 (20/IX) 371(23/IX) 235 (27/IX) 322 (28/IX) 287 (28/IX)
2002 451 (30/IX) 376 (06/X) 242 (8/X) 328 (07/X) 289 (08/X)
2003 153 211 (17/X) 176 (21/X)
2004 411(01/X) 339 (02/X) 174 (04/X) 270 (05/X) 232 (06/X)
2005 423 (21/IX) 327 (23/IX) 182 (28/IX) 258 (04/X) 239 (04/X)
2006 394 (18/X) 312 (24/X) 173 (25/X) 254 (28/X) 217 (28/X)
2007 235 (31/X) 199 (31/X)
101
Đồ Án Tốt Nghiệp
Tân Châu
Hưng Thạnh
Mộc Hóa
Kiên Bình
Trạm
170 cm
110 cm
95 cm
70 cm
M.đất
Năm
98
00
04
98
00
04
98
00
04
98
00
04
96
159
105
H>70
64
152
94
21
134
67
H>95
H>10
52
149
91
12
128
63
0
H>11
80
180
109
25
142
73
5
120
49
0
H>15
0
135
71
0
115
49
0
78
27
0
H>17
100
212
143
119
54
98
41
61
9
0
H>20
94
184
119
108
43
70
27
53
0
0
H>25
35
158
97
63
21
48
0
15
0
H>30
0
148
74
33
0
15
0
0
H>35
137
55
6
0
0
H>40
126
25
0
0
Bảng 3.6: Thời gian (ngày) duy trì cấp mực nước lũ (cm) vùng ĐTM
102
Đồ Án Tốt Nghiệp
H>45
100
0
0
Tháng
Trạm T.đoạn
I
II
III
IV
V
VI VII VIII
IX
X
XI XII
90-97
1,12 0,74 0,50 0,37 0,35 0,75 1,69 2,92 3,71 3,80 2,78 1,73
Tân
00-07
1,27 0,89 0,67 0,50 0,56 1,09 2,03 3,19 4,03 3,97 2,85 1,81
Châu
C.Lệch 0,15 0,15 0,17 0,13 0,21 0,34 0,34 0,27 0,32 0,18 0,06 0,08
90-97
0,67 0,42 0,32 0,19 0,18 0,31 0,69 1,11 1,85 2,24 1,74 1,09
Hưng
00-07
0,85 0,62 0,50 0,36 0,38 0,52 0,82 1,26 2,19 2,50 1,89 1,21
Thạnh
C.Lệch 0,18 0,20 0,18 0,17 0,21 0,20 0,13 0,15 0,34 0,26 0,15 0,12
Bảng 3.7: Mực nước bình quân tháng qua các thời đoạn (Đơn vị: m)
Bảng 3.8: Lưu lượng bình quân tháng (1996 - 2007)
Tân Châu Châu Đốc Vàm Nao TC+CĐ
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tháng Q (m3/s) Q (m3/s) Q (m3/s) Q (m3/s) (%) (%) (%)
I 6.335 82,2 1.373 17,8 2.503 39,5 7.708
II 4.110 84,1 778 15,9 1.615 39,3 4.889
III 2.563 84,1 485 15,9 1.072 41,8 3.048
IV 2.174 83,9 417 16,1 893 41,1 2.590
V 3.249 83,7 633 16,3 1.287 39,6 3.882
103
Đồ Án Tốt Nghiệp
VI 6.954 83,3 1.397 16,7 2.637 37,9 8.351
VII 12.389 81,3 2.846 18,7 4.824 38,9 15.235
VIII 18.449 79,3 4.820 20,7 7.102 38,5 23.269
IX 20.142 77,5 5.850 22,5 8.355 41,5 25.991
X 19.214 76,8 5.796 23,2 7.773 40,5 25.010
XI 15.093 78,5 4.139 21,5 5.852 38,8 19.232
XII 10.225 80,3 2.511 19,7 3.956 38,7 12.736
Bảng 3.9: Mực nước và lưu lượng bình quân ngày lớn nhất (m3/s) một số năm
Sông Hậu (Châu Sông Tiền (Tân
Tràn vào ĐTM Đốc) Châu) Năm
Q (m3/s) Q H (cm) H (cm) Q (m3/s) (m3/s)
1991 430 7.590 480 24.300 6.200 ÷ 6.500
1994 426 7.097 467 23.243 5.300 ÷ 5.600
1996 454 8.150 486 23.600 8.400 ÷ 8.800
2000 490 7.660 506 25.500 9.500 ÷ 10.000
2001 448 7.160 478 23.800 7.500 ÷ 8.000
2002 442 6.950 482 24.500 7.800 ÷ 8.300
2003 351 5.270 406 18.600 2.400 ÷ 2.500
2005 390 6.570 435 21.500 4.000 ÷ 4.300
104
Đồ Án Tốt Nghiệp
3.2.3 Phân tích rủi ro môi trường hiện trạng các giải pháp lũ ở Đồng Tháp
3.2.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng tới ngập lũ, ngập, úng và vận chuyển lũ
a. Ảnh hưởng của mùa mưa đến ngập lũ, ngập úng: Các tháng trong mùa mưa,
trong các năm đều có khả năng cho mưa gây úng. Khả năng xảy ra mưa ngày > 50
mm, mưa 3 ngày max > 75 mm, mưa 5 ngày max > 100 mm vẫn có thể xảy ra, làm
tăng mực nước lũ, tháng X là thường xuyên, tháng V ÷ VII ít khả năng xảy ra nhất.
Đợt mưa úng thường kéo dài 1 ÷ 5 ngày.
b. Ảnh hưởng của thủy triều đến ngập lũ và tiêu nước: Trường hợp lũ lớn, đỉnh
lũ lớn nhất xuất hiện sớm vào khoảng cuối tháng VIII hay đầu tháng IX, nhưng đến
cuối tháng IX hay đầu tháng X chỉ có lũ nhỏ. Mặc dầu lũ ở thượng lưu lớn, nhưng
gặp thời kỳ thủy triều thấp thì mực nước sông Tiền và sông Hậu sẽ không lớn lắm,
như các trận lũ năm 1984, 1991.
Trường hợp lũ có hai đỉnh đều lớn, đỉnh lũ đầu xuất hiện vào khoảng cuối
tháng VIII, và sau đó có trận lũ thứ hai lớn xuất hiện vào cuối tháng IX hay đầu tháng
X, gặp lúc thủy triều dâng cao thì lũ ở hạ du sẽ rất lớn như lũ năm 1961, 1978, 1996
và 2000.
Trường hợp trong tháng VII, VIII chỉ có lũ nhỏ, đến cuối tháng IX đầu tháng
X mới có lũ lớn. Đỉnh lũ xãy ra gặp lúc thủy triều lớn thì mực nước ở hạ du sẽ lớn.
Hai trận lũ năm 1978 và 1984 có mực nước Tân Châu và Hồng Ngự tương
đương nhau, nhưng do trận lũ năm 1978 có thời gian giữ lũ gần gấp đôi trận lũ năm
1984 và đỉnh lũ lớn nhất lại xuất hiện vào lúc thủy triều cao, nên mực nước cao nhất
ở các trạm hạ du năm 1978 đều lớn hơn năm 1984 từ 0,10 ÷ 0,40 m.
Trận lũ năm 2000 là lũ lịch sử bởi các trị số Q, H đều lớn và thời gian lũ kéo
dài.
c. Ảnh hưởng cơ sở hạ tầng đến ngập lũ: Các đường giao thông, các tuyến dân
cư ngày càng được phát triển và cao độ các công trình này cũng được nâng cao hơn,
đặc biệt là các tuyến theo hướng Đông - Tây đã hình thành các tuyến ngăn lũ.
105
Đồ Án Tốt Nghiệp
Các bờ bao chống lũ tháng VIII được củng cố làm giảm khả năng tích lũ, trong
khi đó các kênh thoát lũ ra sông Tiền ở phía Nam vùng ĐTM không được nạo vét và
mở rộng, đã làm cho mực nước trong đồng ngày càng dâng cao.
d. Thời gian nước rút: Trên sông Tiền vào cuối tháng X lũ đã bắt đầu hạ thấp
dần, đến cuối tháng XII và đầu tháng I xem như hết ảnh hưởng lũ. Trong nội đồng
tùy theo từng nơi, nhưng thông thường từ cuối tháng X, đầu tháng XI lũ đứng lại và
xuống dần. Do khối lượng nước trong đồng quá nhiều, các cửa thoát có khẩu độ nhỏ
và do ảnh hưởng của thủy triều Biển Đông làm cho lũ rút chậm và đều.
3.2.3.2 Phân tích sự thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực mùa lũ
Trong mục này chỉ đề cập tới sự thay đổi có thể nhận thấy liên quan tới chế độ
thủy văn, thủy lực dòng chảy mùa lũ ở ĐBSCL mà tỉnh Đồng Tháp là đầu nguồn bao
gồm: Gia tăng lưu lượng đỉnh lũ đến, năng lực thoát lũ của dòng chính giảm, thay đổi
cơ chế dẫn lũ vào Đồng Tháp Mười (ĐTM) và hiện tượng lũ nội đồng.
1. Gia tăng lưu lượng đỉnh lũ đến ĐBSCL:
Bảng 3.13 dưới đây mô tả trị số lưu lượng đỉnh lũ các năm lũ lớn xảy ra ở ĐBSCL.
Bảng 1 cho thấy tổng lưu lượng đỉnh lũ đến ĐBSCL có xu thế gia tăng, nhưng không
phải tăng đồng đều trên mọi tuyến mà có sự biến đổi tăng, giảm giữa các tuyến. Theo
Bảng 1, nếu như lũ đến năm 1961 theo tỉ lệ: sông Tiền tại Tân Châu chiếm 65,4%;
sông Hậu tại Châu Đốc 18,5%; tràn biên giới đến ĐTM khoảng 10,4%; tràn biên giới
đến TGLX chỉ có 4,4%. Thì năm 1996, tỉ lệ đó là: 48,9%; 17,3%; 26,6%; 6,6%. Và
hiện nay, đối với lũ 2000 tỉ lệ là: 46,1%; 13,8%; 32,3% và 7,7%. Các con số phân
tích trên cho thấy dòng chảy lũ theo tuyến biên giới đến TGLX và nhất là đến ĐTM
có xu hướng tăng rất lớn.
Bảng 3.10: Lũ đến ĐBSCL theo các tuyến và tỷ lệ của chúng.
Lưu lượng lũ lớn nhất đến Đồng bằng sông Cửu Long Q (m3/s)
Tổng Q T. Châu Ch. Đốc TGLX V. giữa ĐTM Năm
44.558 29.120 8.229 1.971 599 4.639 1961
47.033 23.000 8.140 3.100 293 12.500 1996
106
Đồ Án Tốt Nghiệp
2000 55.313 25.500 7.660 17.840 4.234 79
Tỉ lệ lũ vào Đồng bằng sông Cửu Long theo các tuyến (%)
Năm Tổng Q T. Châu Ch. Đốc ĐTM TGLX V. giữa
100 65,4 18,5 10,4 4,4 1,3 1961
100 48,9 17,3 26,6 6,6 0,6 1996
100 46,1 13,8 32,3 7,7 0,1 2000
2. Năng lực tải lũ dòng chính giảm:
Sự suy giảm khả năng thoát lũ trên sông Tiền, kéo theo chênh lệch mực nước giữa
sông Tiền tại Tân Châu và sông Hậu tại Châu Đốc giảm đáng kể so với những năm
lũ lớn trước đây. Trên Bảng 3.10 cho thấy rằng các năm lũ lớn trước đây, chênh lệch
mực nước lớn nhất giữa Tân Châu và Châu Đốc từ 40 - 50 cm, thì năm 1996 và 2000
còn có 33 cm. Bảng 3.10 cũng cho thấy năng lực tải lũ của dòng chính ngày càng
giảm từ 83,9% (1961) chỉ còn 59,9% (2000). Trong khi đó cơ chế dẫn lũ vào vùng
ĐTM và TGLX cũng thay đổi rõ rệt (Bảng 3.11).
Bảng 3.11: Mực nước và lưu lượng lớn nhất ở Tân Châu và Châu Đốc
Năm Tân Châu Châu Đốc H (m)
Hmax (m) Qmax(m3/s) Hmax(m) Qmax(m3/s) TC - CĐ
1961 5,11 (5,28) 29.120 4, 90 (4,94) 8.229 0,34
1962 4,54 (4,70) 24.810 4,27 (4,31) 6.741 0,49
1963 4,23 (4,39) 24.398 3, 89 (3,93) 6.351 0,46
1964 4,46 (4,62) 25.446 4,01 (4,05) 6.712 0,57
1978 4,78 (4,94) 25.600 4,46 (4,50) 7.160 0,54
1991 4,64 (4,81) 24.300 4,27 (4,31) 7.660 0,50
107
Đồ Án Tốt Nghiệp
1994 4,53 (4,67) 23.920 4,23 (4,27) 7.290 0,40
1996 4,87 (4,87) 23.000 4,54 (4,54) 8.140 0,33
2000 5,06 (5,23) 25.500 4,90 (4,90) 7.660 0,33
Chú thích: Số trong ngoặc là mực nước theo hệ cao độ chuẩn Mũi Nai, Hà Tiên
3. Thay đổi cơ chế dẫn lũ vào ĐTM:
Nếu như trước 1975, tỉ lệ dòng chảy lũ tràn vào ĐTM qua Hồng Ngự - Thông
Bình chiếm đến hơn 85% và qua Thông Bình - Long Khốt nhỏ hơn 15% (năm 1961),
thì nay con số tỉ lệ này đã thay đổi 71 - 77% và 23 - 29% (xem Bảng 4.3). Hệ quả của
việc làm gia tăng mạnh mẽ quá trình lũ tràn từ biên giới về đã tạo một áp lực lớn, lấn
át khả năng chuyển nước lũ từ sông Tiền vào. Theo đánh giá của Phân viện
KSQHTLNB dựa trên số liệu đo đạc mùa lũ 1996 thì lưu lượng lớn nhất từ sông Tiền
vào ĐTM chỉ có khoảng 130 m3/s (chiếm 1,3%) và năm 2000, con số này bằng 0.
Trước 1975, lưu lượng vào từ sông Tiền xấp xỉ 1000 m3/s, chiếm gần 25% tổng lưu
lượng lũ vào ĐTM kèm theo lượng phù sa vào đồng ruộng nhiều hơn (Bảng 3.12).
Bảng 3.12: Phân phối lưu lượng lớn nhất vào ĐTM.
Năm Qua tuyến biên giới Qua sông Tiền
Q (m3/s) % Q (m3/s) %
1961 2.909 75,2 961 24,8
1996 10.011 98,7 130 1,3
2000 12.800 100,0 0 0,0
3.2.3.3 Phân tích rủi ro cho hệ thống đê bao vùng ngập lũ của Đồng Tháp
Hiện nay do mật độ đê, bờ bao, đường các lọai ngày càng dày đặc ở vùng ĐBSCL
(trên 37.000 km các loại) nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng (10.580 km) đã biến
vùng ngập lũ trước kia có chức năng vừa chứa nước vừa thoát nước lũ thì nay trở
thành một vùng đệm nhốt nước, cản trở dòng tràn từ Campuchia sang, từ sông Tiền
và sông Hậu chảy vào. Hiệu ứng kho nước đệm gây hậu quả làm dâng mực nước hai
108
Đồ Án Tốt Nghiệp
phía ngoài sông và phía thượng lưu. Sự trao đổi nước giữa sông, kênh và vùng ngập
lũ đã thay đổi cơ chế thủy lực từ hình thức tràn tự do sang chảy ngập qua các cống
ngầm dưới đê, bờ bao. Dẫn đến trị số lưu lượng tháo qua cống ngầm thấp thua nhiều
so với lưu lượng chảy tràn đồng. Mặt khác vùng giữa sông Tiền và Vàm Cỏ Tây ảnh
hưởng của thủy triều biển Đông có cùng pha dao động đã tạo ra nhiều vùng giáp nước
khó tiêu khi gặp đỉnh triều (hai lần trong ngày) gây hậu quả bồi lắng trong hệ thống
kênh tiêu như Phước Xuyên và các kênh dọc theo hướng Bắc - Nam.
Rủi ro do chất lượng thiết kế và thi công đê:
Một trong những giải pháp công trình cho vùng ngập lũ ở Đồng Tháp và vùng
ĐBSCL là đê bao bảo vệ các khu vực dân cư tập trung, như: thị tứ, thị trấn v.v…
Trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư xây dựng thí điểm 2 cổng trình là đê bao
thị trấn Sa Rài và đê bao thị trấn Tân Hưng của tỉnh Đồng Tháp. Kết quả là trong trận
lũ năm 2000 cả 2 đoạn đê trên đều bị lún và nứt nhiều đoạn phải sửa chữa và gia cố
nhiều lần do chất lượng thi công và thiết kế chưa tốt. Tuy nhiên khác với điều kiện
của đê và lũ của sông Hồng, đê bao vùng ngập lũ ĐBSCL có những đặc thù riêng của
vùng, mang tính rủi ro thường xuyên và cao hơn. Do vậy việc nghiên cứu biện pháp
giảm thiểu rủi ro là rất cần thiết và bức bách nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và tài
sản của nhân dân trong phạm vi đê bao. Hình 3.3 mô tả hiện trạng kỹ thuật và chất
lượng thiết kế và thi công hệ thống đê bao, bờ bao vùng ngập lũ của tỉnh Đồng Tháp
nói riêng và ĐBSCL nói chung.
109
Đồ Án Tốt Nghiệp
Nguồn: Quy hoạch Thủy lợi tỉnh Đồng Tháp, 2015
Hình 3.3: Hiện trạng kỹ thuật và phương pháp thi công đê bao ở Đồng Tháp
Độ sâu ngập và thời gian ngập lũ ở Đồng Tháp tác động tới sự ổn định
của đê bao:
Độ ngập và thời gian ngập ở từng nơi có khác nhau, phía Bắc tỉnh (trên lộ
đi Tân Hồng) gồm khu Sở Hạ và Sở Thượng đến Tân Châu khi lũ về do bị chắn ngang
bởi tuyến lộ N1 nên thời gian ngập sớm hơn thường từ tháng VIII, độ ngập trong
đồng nói chung trên 2,5 m. Khoảng đầu hoặc cuối tháng XII nước mới rút, thời gian
ngập kéo dài trên 4 tháng.
Từ kênh Hồng Ngự trở xuống đến kênh Nguyễn Văn Tiếp do có đê của các
kênh Hồng Ngự, An Long, Nguyễn văn Tiếp nên dòng chảy bị cản lại và thời gian
ngập chậm dần. Phía cuối phải đến cuối tháng IX mới bị ngập, cuối tháng XII đầu
tháng I nước mới rút, thời gian ngập khoảng 3 – 4 tháng, độ ngập phía trên lớn hơn
2,5 m và phía dưới trên 2,0 m.
Phía Nam kênh Nguyễn văn Tiếp, khu kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu do
ảnh hưởng mạnh của triều nên tiêu thoát tốt hơn, độ ngập 1,0 ÷ 2,0 m, thời gian ngập
dưới 3 tháng. Khu vực huyện Châu Thành có độ ngập nhỏ hơn dưới 1,50 m.
110
Đồ Án Tốt Nghiệp
Bảng 3.13: Mực nước (cm) bình quân tháng nhiều năm
Đặc Tháng
Vị trí
Trưng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hbq.max 163 132 114 98 112 176 259 362 407 411 353 251
Tân Châu 113 76 53 40 46 95 185 298 369 374 281 177 Htb
50 5 -26 -37 -29 1 100 210 340 327 221 114 Hbq.min
Hbq.max 144 123 106 92 100 134 193 281 348 358 309 207
Châu Đốc 102 70 51 37 39 73 142 232 318 337 256 159 Htb
23 -20 -48 -58 -56 -34 43 157 271 295 189 79 Hbq.min
Hbq.max 144 136 124 101 127 129 158 164 205 217 194 171
Cao Lãnh 81 61 46 34 29 40 73 109 151 175 147 106 Htb
-22 -55 -80 -87 -90 -74 -33 8 76 115 66 17 Hbq.min
Hbq.max 145 128 115 104 112 134 152 182 210 222 198 163 Long
74 53 38 26 23 39 79 121 165 187 154 104 Htb Xuyên
-20 -55 -76 -83 -83 -66 -27 44 107 146 86 20 Hbq.min
Ghi chú: Hbq.max : Mực nước bình quân đỉnh triều cao nhất tháng
Mực nước trung bình tháng Htb :
Hbq.min : Mực nước bình quân chân triều thấp nhất tháng.
Bảng 3.14: Mực nước (cm) bình quân tháng giai đoạn 2005 - 2009
Đặc Tháng
Vị trí
Trưng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hbq.max 156 132 120 120 126 134 186 301 327 338 295 214 Tràm
147 126 114 107 110 121 156 243 272 306 274 200 Hmax Chim
137 112 106 96 81 108 131 188 233 277 253 176 H.min
111
Đồ Án Tốt Nghiệp
Hbq.max 100 90 80 96 70 72 73 131 182 191 180 114
Mỹ An 85 76 66 75 62 61 65 108 141 176 171 109 Hmax
68 64 40 64 52 54 59 96 100 156 162 102 H.min
Ghi chú: Hbq.max: Mực nước bình quân đỉnh triều cao nhất tháng
Hmax : Mực nước trung bình cao nhất tháng
H.min : Mực nước bình quân chân triều thấp nhất tháng.
3.2.3.4 Phân tích rủi ro môi trường và chất lượng nước ở Đồng Tháp
Về phương diện môi trường, hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL (1) làm nhiều vùng
ở hạ nguồn bị nhiễm nước phèn (acid water) nhiều hơn, nhất là ở cuối vùng ÐTM,
(2) là một trong những tác nhân làm suy thoái chất lượng nước ở ÐBSCL, và (3) góp
phần không nhỏ trong việc xâm lấn vào những vùng sinh thái tự nhiên còn lại trong
vùng ÐTM và TGLX và có thể làm cho chúng suy thoái trong tương lai.
Làm giảm tác dụng của lũ trong việc bồi đắp phù sa và vệ sinh đồng ruộng ở
những vùng kiểm soát lũ cả năm. Riêng trong lĩnh vực phù sa theo ước tính thiệt hại
từ việc giảm năng suất vụ Đông Xuân.
Tăng mức độ ô nhiễm (chua phèn) cho các vùng đất phèn được khai thác, các
vùng phụ cận - và nước biến ven bờ trong mùa tiêu chua trong một thời gian
khoảng 3 - 5 năm và do vậy có thể ảnh hưởng tới sự phát triển một số loài sinh
vật.
Có khả năng gây ô nhiễm, phát sinh dịch bệnh sau lũ trong các khu dân cư
được bảo vệ.
Tăng khả năng ô nhiễm hóa chất nông nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống, sức
khoẻ và môi trường đất, nước ở các vùng được kiểm soát lũ cả năm.
Các vùng kiểm soát lũ sẽ làm ứ đọng các chất thải, các độc tố trong đất và
trong nước. Đặc biệt là các chất như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.
Việc phát triển nuôi trồng thủy sản sẽ gây ô nhiễm tổng hợp nguồn nước nếu
không có các biện pháp hữu hiệu xử lý nước trước khi xả thải vào nguồn.
112
Đồ Án Tốt Nghiệp
3.2.3.5 Phân tích rủi ro môi trường khi xảy ra tình trạng xói lở bờ sông, kênh,
rạch
Tình trạng sạt lở và bồi lắng đang diễn ra ở một mức độ chưa từng thấy ở khắp
nơi trong ÐBSCL. Sạt lở diễn ra liên tục trong mùa lũ lẫn mùa cạn, từ thượng nguồn
đến hạ nguồn sông Tiền và sông Hậu, trong các sông rạch nội đồng, và ngay cả vùng
ven biển.
Theo khoa học sông ngòi, một dòng sông chỉ ổn định khi chế độ thủy lực của
nó cân bằng với điều kiện địa chất ở nơi mà nó chảy qua. Khi sự cân bằng ấy mất đi,
dòng sông sẽ tự điều chỉnh để lập lại sự cân bằng đã mất qua hiện tượng sạt lở, bồi
lắng, hoặc mãnh liệt hơn là di chuyển lòng lạch. Sạt lở xảy ra khi bờ hoặc đáy sông
mất cân bằng do dòng chảy trong sông đổi hướng hoặc gia tăng vận tốc. Khi vận tốc
dòng chảy giảm đi, phù sa sẽ lắng xuống gây bồi lắng. Hệ thống thủy lợi hiện nay ở
ÐBSCL đã làm cho cơ chế và chế độ thủy lực của sông Mekong mất cân bằng, không
những trong lãnh thổ Việt Nam mà cả trong lãnh thổ Campuchia, nhất là vùng dọc
theo biên giới Việt Nam - Campuchia. Ở đầu nguồn, hệ thống đê, cống ngăn không
cho nước lũ chảy tràn qua biên giới mà tập trung vào sông rạch làm cho chiều sâu và
vận tốc dòng chảy gia tăng. Ở hạ nguồn, việc lấy nước canh tác cùng với hệ thống đê,
đập ngăn mặn và đê biển làm giảm vận tốc dòng chảy, mà có nhiều nơi, nước không
còn luân lưu được nữa. Đó chưa kể đến sự giao thoa giữa các dòng triều từ các nhánh
sông, kênh tạo ra các vùng giáp nước.
Theo tài liệu đo đạc của Viện Quy Hoạch Thủy lợi miền Nam (VQHTLMN),
sự gia tăng lưu lượng qua biên giới Việt Campuchia từ 6.300 m3/s trong trận lụt 1991
đến 8.270 m3/s trong trận lụt 1996, so với lưu lương 2.930 m3/s trong trận lụt 1961 -
là do các kênh cấp I và II nối từ rạch Cái Cỏ - Long Khốt vào ÐTM. Thời gian truyền
lũ từ Tân Châu đến Mộc Hóa, thường mất từ 15 - 17 ngày trong thập niên 1970, chỉ
còn khoảng 3 đến 5 ngày trong thập niên 1990. Trong trận lụt 2000, mực nước nội
đồng trong vùng ÐTM và TGLX cao hơn mực nước cao nhất các năm 1978 và 1996
từ 20 - 50 cm.
113
Đồ Án Tốt Nghiệp
Việc kiên cố đê dọc theo bờ phía Nam của kênh Tân Thành – Lò Gạch có cao
độ từ 5,5 m đến 6,5 m để ngăn lũ tràn qua biên giới Việt – Campuchia làm cho tình
hình lũ lụt ở ÐBSCL ngày càng thêm nghiêm trọng. Thí dụ như trong mùa nước nổi
2005 vừa qua, mặc dù mực nước lũ cao nhất trong sông Tiền và Hậu chỉ đạt mức 4,32
m ở Tân Châu và 3,87 m ở Châu Ðốc (thấp hơn mực nước lũ cao nhất 4,82 m ở Tân
Châu và 4,42 m ở Châu Ðốc trong trận lụt năm 2002), mực nước lụt trong vùng ÐTM
đã tăng nhanh hơn và vượt quá mực nước cao nhất trong năm 2002. Thí dụ như ở tỉnh
Ðồng Tháp, có 89 khu vực sạt lở thuộc 42 xã, phường, thị trấn ven sông Tiền và Hậu
với chiều dài khoảng 162 km, mà nghiêm trọng nhất là ở TP.Sa Ðéc. Hình 3.4 mô tả
tình trạn xói lở bờ sông sông Tiền.
Hình 3.4. Hình ảnh xói lở cù lao Long Khánh
3.2.3.6 Phân tích rủi ro về mặt xã hội và tác động xuyên biên giới:
a. Rủi ro cho quan hệ Quốc tế do hệ thống đê bao làm dâng nước phía thượng lưu
Bảng 3.15: Thông số kỹ thuật của kênh Cái Cỏ - Long Khốt (Dự án thủy lợi Bắc
H. Mục
C. dài (km) C.rộng(m) C.độ đáy Cao độ đỉnh bờ
C.độ mặt ruộng
đê
Tân Hồng)
114
Đồ Án Tốt Nghiệp
Ko - K33
33,0
20,0
- 4,0 m
6,5 m
1,0 - 2,5 m
K33 - K57
24,1
20,0
- 3,0 m
6,5 m
1,0 - 3,0 m
Tràn
19,0
3,0
+3,5 m
6,5 m
1,0 - 3,0 m
K.C ấp 1
132,8
14/20/40
-2,5 m
5,0 m
1,0 - 2,0 m
K.C ấp 2
200,0
5/10/12
-1,5 m
4,2 m
1,0 - 2,0 m
Bờ bao cho
400,0
2,0
1,0 m
2,5 - 3,5 m
1,0 - 2,0 m
42 ô s. xuất
Nguồn: Trịnh Hoàng Ngạn, Nâng cao hiệu quả nghiên cứu lũ ĐBSCL, Luận án tiến
sỹ Thủy lợi, Viện Cơ học Ứng dụng, 2007
Từ kết quả nêu trong Bảng 3.15 cho thấy việc cải tạo bờ nam kênh Cái Cỏ -
Long Khốt và kênh Tân Thành – Lò Gạch của Dự án Bắc Tân Hồng, hình thành tuyến
đường Quốc lộ N1 có cao độ đỉnh đê (+6,5 m MSL Hà Tiên) cao hơn cao độ trung
bình mặt ruộng từ 1,5 - 4,0 m (của Campuchia), nhằm ngăn cản dòng chảy lũ sẽ làm
dâng mực nước (tạo độ chênh mực nước) phía biên giới Campuchia để dẫn lũ chảy
qua sông Vàm Cỏ Tây (Hình 3.5). Điều này dẫn đến cản dòng chảy lũ từ phía thượng
lưu (Campuchia) và làm dâng mực nước phía thượng lưu là vi phạm Hiệp định
Mekong 1995 có thể tác động tới quan hệ giữa 2 nước Việt Nam và Campuchia.
Hình 3.5: Mực nước phía thượng lưu cao hơn nhiều so với mực nước ở hạ lưu đê
115
Đồ Án Tốt Nghiệp
Làm tăng mực nước khu vực phía Bắc kênh Tân Thành - Lò Gạch và Cái Cỏ -
Long Khốt vào thời gian đỉnh lũ 8 – 25 cm và gây ngập lụt sớm hơn 10 - 15
ngày. Điều này dẫn tới nhân dân sống trong khu vực phải thay đổi tập quán canh
tác, điều kiện sống. Các vụ lúa phải bố trí lại thời vụ và do vậy có khả năng giảm
năng suất, sản lượng. Đặc biệt cần chú ý là nạn chuột. Ở một khía cạnh khác, việc
bố trí sớm thời vụ, bắt buộc phải lấy nước tưới trên sông vào giai đoạn kiệt nhất
(tháng IV, V) sẽ phần nào làm ảnh hưởng đến sự xâm nhập mặn trên dòng chính.
Làm ảnh hưởng tới chế độ dòng chảy trên dòng chính (đặc biệt là các công trình
ở khu vực Tứ Thường và các kênh thoát lũ ra sông Tiền ở phía Bắc Hồng Ngự)
và như vậy có thể gây nên tình trạng xói lở cho đoạn bờ sông mà vốn dĩ hiện nay
hiện tượng xói lở đang xảy ra hàng năm trở nên trầm trọng hơn.
b. Rủi ro cho đê bao vùng ngập lũ khi xảy ra vỡ đê
Tại các vùng dân cư được bảo vệ sẽ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, đặc
biệt là tính mạng và tài sản của cư dân trong vùng bao đê.
Việc xây dựng các khu tái định cư của bà con sống trong vùng ngập lũ là rất
nhân văn, nhưng hầu hết các khu này xa với nơi ở của họ. Do đó đã thay đổi tập quán
sinh sống, canh tác cho nhân dân tại một số khu vực. Mặt khác khả năng sinh kế giảm
đi rõ rệt làm cho đời sống và thu nhập của họ giảm đánh kể. Hậu quả là phần lớn các
hộ dân không về nơi tái định cư sinh sống. Hoặc có số ít dân về sống trong khu tái
định cư, nhưng vẫn kiếm sống ở nơi ngập lũ. Mặt khác các khu tái định cư đã không
hoàn thiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội dẫn đến kết quả là những người bị tác
động do việc tái định cư không chấp nhận di dời mà vẫn cố sống tại vùng ngập lũ rất
nguy hiểm tới tính mạng của họ. Ngoài ra còn nhiều rủi ro liên quan tới các giải pháp
chống lũ như sau ở ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp, như: (i) Giảm lượng thủy sản tự nhiên
vào sống trong vùng đồng ruộng (ii) Mất đất, đền bù và tái định cư cũng là một hạn
chế (đặc biệt là đối với cụm kênh thoát lũ ra sông Tiền, nơi có mật độ dân cư rất cao,
giá trị đất đai lớn); (iii) Tạo nên sự bất bình đẳng về hưởng lợi giữa những người dân
sống ở khu vực Bắc và Nam kênh Tân Thành - Lò Gạch; (iv) Ảnh hưởng giao thông
thủy, nhất là vùng Bắc và Nam kênh Tân Thành - Lò Gạch.
116
Đồ Án Tốt Nghiệp
3.2.3.7 Phân tích rủi ro do sụt, lún mặt đất:
Giải pháp chống lũ hiện nay đã xây dựng hệ thống đê bao, bờ bao khổng lồ
(37.000 km) gây ra tình trạng sụt, lún mặt đất ở Đồng Tháp nói riêng và ĐBSCL nói
chung do địa chất nền mềm yếu phải chịu tải trọng của hệ thống đê chất tải lên cùng
với các công trình xây dựng đô thị, đường sá siêu trọng kết hợp với tình trạng khai
thác nước ngầm và khai thác cát quá mức, trong khi lượng phù sa bị chặn lại trong
các hồ chứa thủy điện, thủy lợi trên thượng nguồn. Tổng hòa các yếu tố rủi ro trên
đây dẫn đến những cảnh báo về sự biến mất của vùng ĐBSCL trên bản đồ Thế giới.
117
Đồ Án Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH THỦY LỢI
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, TRÁNH LŨ, LỤT CHO TỈNH ĐỒNG THÁP
4.1 Quy hoạch thủy lợi tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030
4.1.1 Nguyên tắc:
Bản quy hoạch này do Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp soạn thảo được yêu cầu
bố trí, tính toán công trình thủy lợi đến năm 2020 phải dựa trên cơ sở lấy nền kiểm
soát lũ toàn vùng ĐBSCL 2012 đã được Chính phủ duyệt, có xem xét đến tình hình
BĐKH và NBD nhằm mục tiêu phục vụ chuyển đổi sản xuất, xây dựng và phát triển
nông thôn mới, kết hợp chặt trẽ phục vụ đa mục tiêu. Quy hoạch thủy lợi kiếm soát
lũ tỉnh Đồng Tháp có những đặc điểm chính như sau:
4.1.1.1 Đồng bộ giữa kiểm soát lũ, chống ngập và thủy nông
Thiết kế quy hoạch Thủy lợi tỉnh Đồng Tháp lần này trong điều kiện hệ thống
kênh tạo nguồn đã tương đối đủ và đồng đều. Trên cơ sở phân tích tình hình hiện tại
thấy rằng tồn tại lớn nhất của công tác thủy lợi là vần đề kiểm soát ngập lũ và hệ
thống công trình thủy nông. Do đó để nâng cấp và hoàn thiện phát triển cơ sở hạ tầng
cần thiết phải quy hoạch và xây dựng đồng bộ giữa kiểm soát lũ, chống ngập và thủy
nông. Trong đó lấy biện pháp công trình kiểm soát lũ làm cơ sở để nghiên cứu xây
dựng các công trình khác.
Căn cứ vào các điều kiện đơn tính như đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, đặc
điểm thủy văn, thủy lực và mức độ phát triển của các khu vực cũng như định hướng
phân vùng phát triển của tỉnh, căn cứ vào Quy hoạch lũ ĐBSCL giai đoạn ngắn hạn
đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và kết quả Nghiên cứu tiền thi hệ thống công
trình kiểm soát lũ tràn biên giới phía Bắc ĐTM đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn thông qua. Có thể phân thành 5 vùng phát triển thủy lợi dưới đây (Bảng
4.1 và 4.2):
118
Đồ Án Tốt Nghiệp
Bảng 4.1 Vùng kiểm soát lũ có thời gian.
Vùng phát triển thủy lợi Diện tích TN (ha)
1. Bắc kênh Tân Thành - Tứ Thường 26.000
2. Bắc K. Nguyễn Văn Tiếp A (trừ vùng 138.700
Cồn)
Tổng 164.700
Bảng 4.2 Vùng kiểm soát lũ cả năm.
Vùng phát triển thủy lợi Diện tích TN (ha)
1. Nam K. Nguyễn Văn Tiếp A 56.000
2. Vùng kẹp giữa sông Tiền, sông Hậu 76.000
3. Vùng Cồn (Long Phú Thận và Mã Trường) 13.000
Tổng 145.000
4.1.1.2. Chủ động kiểm soát lũ tràn qua biên giới vào Đồng Tháp Mười
Xuất phát từ tình trạng hiện nay, nước lũ từ cánh đồng trũng Campuchia chảy
tự do qua biên giới vào ĐTM với lượng nước hàng năm khá lớn. Trận lũ năm 1996
lưu lượng đo được 10.660 m3/s với tổng lượng 32,6 tỉ m3 chiếm 75% lượng nước lũ
làm ngập ĐTM. Tuyến tràn dài 50 km chạy từ Hồng Ngự đến Vĩnh Hưng, trong đó
lượng lũ tràn tập trung chủ yếu trong đoạn từ Hồng Ngự - Thông Bình. Vì vậy cần
phải kiểm soát hữu hiệu lượng nước này nhằm mục đích:
Ngăn dòng lũ tràn qua biên giới không cho vào trung tâm ĐTM ở thời gian
đầu và cuối vụ để giảm ngập cho nội đồng ĐTM đảm bảo sản xuất ổn định 2 vụ lúa
ĐX và HT ở vùng ngập sâu và vụ 3 ở vùng ngập nông. Giảm bớt sự thiệt hại về người,
tài sản và kinh phí xây dựng công trình hạ tầng cơ sở, nền dân cư. Đảm bảo an toàn
tính mạng và tài sản của nhân dân đối với lũ chính vụ, nghĩa là giảm được mực nước
từ 20 - 30 cm trong nội đồng. Điều đó có nghĩa giảm quy mô các trận lũ lớn trở thành
trận lũ trung bình. Từ đó có thể giảm giá thành các công trình hạ tầng, ổn định dân
cư lâu dài, không làm gia tăng độ ngập ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ, bao gồm đỉnh lũ
119
Đồ Án Tốt Nghiệp
và thời gian ngập lũ nên phù hợp với khả năng đầu tư của nhà nước trong giai đoạn
tới.
4.1.1.3. Lợi dụng thủy triều tại các cửa lấy nước từ sông Tiền, sông Hậu vào
trong đồng phục vụ tưới, tiêu tự chảy, gạn tháo sau lũ và thau chua cải tạo đất
Hiện tượng ngập đỉnh triều vào mùa Xuân ở Đồng Tháp không gay gắt. Tuy
nhiên khi gạn tháo sau lũ để xuống giống vụ Đông Xuân sớm thì vấn đề này phải
được đề cập. Hệ thống bờ bao kiểm soát lũ đương nhiên phải làm nhiệm vụ đó.
Tại vùng kẹp giữa sông Tiền, Sông Hậu, do có bị ảnh hưởng của sự đồng pha,
đồng biên độ triều, nên ở khu vực trung tâm có nhiều vùng giáp nước gây tình trạng
trầm thủy, nước bị ứ đọng nguồn nước có chất lượng kém cả về sinh học và lý hóa.
4.1.1.4. Tận dụng lấy phù sa vào sâu trong nội đồng bằng các biện pháp công
trình thích hợp với chế độ quản lý, vận hành công trình.
Trong các đợt đo đạc phù sa và độ đục trên tuyến tràn biên giới đã chỉ ra rằng
dòng lũ này có hàm lượng phù sa rất thấp so với dòng chính, vì vậy phải tăng cường
dòng chảy từ sông Tiền, sông Hậu có hàm lượng phù sa cao để cải tạo đất và tăng
dinh dưỡng cho cây trồng. Đồng thời hạn chế sự lây nhiễm bệnh do nguồn nước tràn
bị ô nhiễm vi sinh nhiều hơn nguồn nước trên dòng chính.
Kết quả đo đạc hàm lượng phù sa dọc sông Sở Hạ - Cái Cỏ - Long Khốt từ
tháng VIII đến tháng XII năm 1996 tại 12 vị trí lũ tràn vào, mỗi tháng lấy 3 mẫu, đã
chỉ ra rằng: hàm lượng phù sa này rất nhỏ (khoảng 20 - 30 g/m3) trong khi đó trên
sông Tiền hàm lượng phù sa đạt 250 – 1000 g/m3, hàm lượng phù sa lớn nhất vào đầu
mùa lũ. Lượng phù sa này không vào sâu trong nội đồng vì bị cản trở bởi dòng chảy
tràn qua biên giới quá lớn gấp nhiều lần và vuông góc với dòng chảy từ sông Tiền
vào. Do đó, kiểm soát được dòng chảy tràn qua biên giới là tạo được dòng chảy từ
sông Tiền có nhiều phù sa vào sâu trong nội đồng.
4.1.1.5. Kết hợp đồng bộ giữa công trình thủy lợi, giao thông thủy, bộ và phân
bố dân cư nhằm tránh sự trùng lặp, lãng phí và các mâu thuẫn không đáng có
Kết hợp bố trí hài hòa, vừa bảo đảm được yêu cầu giao thông vận tải, vừa bảo
đảm yêu cầu kiểm soát lũ, tránh chồng lẫn lãng phí không cần thiết. Tuyến ngăn lũ đi
120
Đồ Án Tốt Nghiệp
qua vùng lũ ngập sâu chạy qua 3 trung tâm thị trấn Hồng Ngự, Tân Hồng, Vĩnh Hưng.
Do đó, tạo ra được 1 tuyến phân bố dân cư an toàn và ổn định cho vùng này là một
trong những yêu cầu cấp bách.
Quy hoạch giao thông và dân cư được 2 Bộ Giao thông vận tải và Xây dựng
thiết lập đã hoàn thành.
Các tuyến đê bao cần đảm bảo tính đa mục tiêu. Sự kết hợp chặt chẽ và nhuần
nhuyễn 3 hạng mục công trình trong 1 tổng thể kiểm soát lũ, giao thông, dân cư là
thực hiện đầy đủ quyết định 84/2006/TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Quy hoạch tổng hợp vùng ĐBSCL.
4.1.1.6. Nghiên cứu, xem xét giải pháp kiểm soát lũ tỉnh Đồng Tháp thích ứng
và phù hợp giải pháp phòng tránh lũ toàn vùng ĐBSCL
Các Hình 4.1 tới 4.4 dưới đây mô tả mặt cắt điển hình chung sống với lũ trong
vùng ngập lũ tỉnh Đồng Tháp.
Hình 4.1. Mô hình phát triển vùng ngập lũ trung bình, kiểm soát lũ tháng VIII
Hình 4.2. Mô hình phát triển vùng ngập lũ nông, kiểm soát lũ triệt để
121
Đồ Án Tốt Nghiệp
Hình 4.3. Mô hình kiểm soát lũ triệt để khu dân cư tập trung
Hình 4.4. Mô hình kiểm soát lũ triệt để cho vườn cây ăn quả
4.1.1.7. Xem xét, cân nhắc các tác động do biến đổi khí hậu và nước biển dâng
& khai thác thượng nguồn liên quan đến Tỉnh Đồng Tháp
- Về giải pháp tăng cường hệ thống kiểm soát lũ, phối hợp xây dựng hệ thống
kiểm soát lũ tràn biên giới VN – Campuchia do Trung ương đầu tư theo Quy hoạch
thổng thể phát triển thủy lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH - NBD do Bộ NN&PTNT
trình Chính Phủ đã được thống nhất đưa vào phương án phát triển đến 2020.
- Về cao trình kiểm soát lũ: Đối với đê, bờ bao hiện nay được xây dựng bằng
đất, phải duy tu bảo dưỡng theo chu kỳ hàng năm, do vậy quy hoạch giai đoạn đến
năm 2020 cao trình bờ bao nên vẫn giữ ở mức thiết kế theo quy phạm. Đối với công
trình xây đúc, mức độ quan trọng, khi luận chứng xây dựng có thể dự phòng thêm
một độ cao an toàn qua tính toán cụ thể về kỹ thuật – kinh tế. Đối với công trình đê
bao mặt cứng hóa kết hợp giao thông nông thôn, những tuyến được xây dựng bằng
bê tông có thể dự phòng độ cao an toàn khi lập báo cáo đầu tư cần xem xét đến cơ sở
dữ liệu về BĐKH - NBD.
122
Đồ Án Tốt Nghiệp
4.1.2. Các phương án bố trí công trình Thủy lợi
4.1.2.1 Bố trí công trình theo phương án bao lớn
- Xây dựng hệ thống công trình KSL tràn từ biên giới Việt Nam – Campuchia
vào ĐTM.
- Nạo vét mở rộng các kênh trục chính đảm bảo thoát lũ và cấp nước tưới tiêu
theo định hướng kiểm soát lũ vùng ĐBSCL. Đồng thời tiếp tục nạo vét các kênh cấp
I, cấp II, theo định kỳ 5 - 6 năm để chủ động cấp nước tưới tiêu, khai thác khả năng
tự chảy, kết hợp tôn cao bờ bao KSL và bố trí giao thông nông thôn.
+ Kênh trục chính: Nạo vét 22 trục, dài 593 km.
+ Kênh cấp I: nạo vét 215 kênh, dài 1.857 km.
+ Kênh cấp II: Nạo vét 563 kênh, dài 1.593 km.
- Đối với đê bao kiểm soát lũ: Xây dựng 96 ô bao theo tiêu chuẩn KSL cho
từng vùng, trong đó:
+ Xây dựng các ô bao KSL tháng đến 30 tháng VII theo kênh cấp II ở Tiểu
vùng Bắc Hồng Ngự - Tứ Thường (bao vừa).
+ Xây dựng các ô bao KSL tháng VIII theo kênh cấp I ở các tiểu vùng bắc
Kênh Nguyễn Văn Tiếp A (bao lớn).
+ Bao đê KSL cả năm cho các Tiểu vùng Nam Cao Lãnh, Bắc Lấp Vò, Nam
Lấp Vò, Châu Thành và tiểu vùng các Cồn (bao lớn).
Bảng 4.3: Dự kiến bố trí các ô bao trong các tiểu vùng
TT Tiểu vùng Số ô bao dự kiến Chiều dài (km)
1 Từ Thường 13 78
2 Bắc Hồng Ngự 24 370
Bắc K. Nguyễn 3 40 562
Văn Tiếp
4 Nam Cao Lãnh 08 190
123
Đồ Án Tốt Nghiệp
5 Bắc Lấp Vò 01 74
6 Nam Lấp Vò 01 76
7 Châu Thành 04 87
Các Cồn (Long 8 05 110
Phú Thuận, Mã
Trường)
Tổng 96 1.547
- Xây dựng thêm 248 trạm bơm điện có quy mô tưới từ 150 - 300 ha, nâng
tổng số trạm bơm điện lên 950 trạm, đảm bảo 80% diện tích tưới tiêu chủ động
(171.000 ha) và duy tu, bảo dưỡng 4000 máy bơm dầu quy đổi cho các diện tích phải
bơm còn lại.
- Xây dựng 291 cống dưới đê có khẩu độ từ 3 - 15 m làm nhiệm vụ kiểm soát
lũ, lấy nước tưới và tiêu nước.
- Xây dựng 353 cầu giao thông qua kênh cấp I, cấp II. Cấp tải trọng từ H30
đến cầu thô sơ.
- Hoàn chỉnh các công trình mặt ruộng theo công thức tưới tăng sản (240.500
ha) và theo hướng thâm canh cơ giới.
- Xây dựng công trình thủy lợi nội đồng phục vụ 17.000 ha sang nuôi trồng
thủy sản hoặc áp dụng mô hình canh tác kết hợp Lúa - Tôm.
4.2 Cơ sở khoa học điều chỉnh quy hoạch thủy lợi tỉnh Đồng Tháp
4.2.1 Vì sao phải điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ tỉnh Đồng Tháp
Hai lý do cần phải điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi như sau:
Chương 3 đã phân tích chi tiết những rủi ro/hiểm họa của các giải pháp kiểm
soát lũ hiện trạng của vùng ĐBSCL nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng. Kết quả
phân tích đã chỉ ra những rủi ro chính như sau:
124
Đồ Án Tốt Nghiệp
1. Làm thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực mùa lũ ở ĐBSCL nói chung và tỉnh
đồng Tháp nói riêng (Giảm lưu lượng thoát lũ ở 2 sông chính; Gia tăng lưu
lượng tràn qua biên giới; Gia tăng lũ nội đồng);
2. Hạn chế lượng phù sa vào nội đồng làm nghèo chất dinh dưỡng cho cây
trồng;
3. Gia tăng mức độ sạt lở bờ sông, kênh, rạch;
4. Gia tăng ô nhiễm chất lượng nước do nạo vét kênh rạch vùng đất phèn hoạt
động;
5. Gia tăng sụt, lún đất mặt do khai thác nước ngầm quá mức kết hợp hệ thống
đê bao, bờ bao, các công trình đô thị, giai thông siêu trọng chất tải lên lớp đất
mặt có chỉ tiêu cơ lý mềm yếu;
6. Rủi ro vỡ đê trong các khu dân cư, công nghiệp do chất lượng thiết kế và thi
công đê hiện nay.
Tất cả những rủi ro và tồn tại của giải pháp kiểm soát lũ hiện trạng ở Đồng Tháp
nói riêng và ĐBSCL nói chung vẫn còn đó.
Quy hoạch đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 vẫn chỉ tập trung vào các giải
pháp công trình truyền thống (xây dựng thêm đê bao, bờ bao, cầu, cống, nạo vét thêm
kênh rạch v.v…) chỉ đảm bảo an toàn khi gặp các trận lũ vừa tương ứng với mực
nước Tân Châu nhỏ hơn +4,5 m (MSL Hà Tiên), không an toàn khi gặp các trận lũ
lịch sử có mực nước lớn hơn +5,0 m MSL (MSL Hà Tiên).
Ngoài ra chưa kể đến những rủi ro và hiểm họa khác do thiên nhiên và con người
gây ra trước bối cảnh BĐKH và NBD. Mặt khác nhận thức về “Chung sống với lũ”
còn nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau, thậm chí đối nghịch trong quá trình thực hiện.
Đồng thời các nghiên cứu quy hoạch, thiết kế, thi công và quản lý các dự án phát triển
hạ tầng thủy lợi, giao thông, đô thị v.v… đều đồng loạt sử dụng cô cụ mô hình toán.
Trong khi cơ sở dữ liệu sử dụng cho mô hình chưa kiểm chứng về độ tin cậy.
125
Đồ Án Tốt Nghiệp
4.2.2 Cơ sở khoa học điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ tỉnh Đồng
Tháp
4.2.2.1. Bài học từ trận lũ năm 2000 đến nhận thức chung sống với lũ:
Tổn thất do trận lũ năm 2000 gây ra (hơn 500 người chết, tổn thất về kinh tế
ước tính khoảng trên 250 triệu USD) đã cho chúng ta những bài học thực tiễn sâu sắc.
Hơn nữa trận lũ lịch sử trên lưu vực sông Chaophraya của Thái Lan cũng như những
thiệt hại do lũ, lụt gây ra trên Thế giới thúc đẩy các nhà khoa học và quản lý nhận
thức rằng cần phải nghiên cứu nhằm khắc phục những hạn chế và tồn tại của giải
pháp kiểm soát lũ hiện nay ở Đồng Tháp nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung. Hình
4.5 mô tả trận lũ 2000 và 2011 trên vùng CTSMC và ĐBSCL của Việt Nam.
Nguồn: Ủy hội Mekong MRC
Hình 4.5: Hình ảnh vùng ngập lũ trong 2 trận lũ xảy ra năm 2000 và 2011
126
Đồ Án Tốt Nghiệp
Đối với vùng ngập lũ của Đồng Tháp và ĐBSCL để đảm bảo được các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội cần phải có quan điểm đúng và trên cơ sở này đề ra
các giải pháp thực hiện. Quan điểm mà các nhà khoa học nghiên cứu và người
nông dân ĐBSCL dầy dặn kinh nghiệm thực tiễn đã xác định là cần “chung sống
với lũ”. Chung sống với lũ nghĩa là hoạt động của lũ và của con người cùng song
song tồn tại. Song sự chung sống với lũ không phải là trạng thái để hoành hành
ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của con người, mà con người cần cải tạo
hướng hoạt động của lũ vào hoạt động của con người ngày càng tốt, có nghĩa là
chung sống với lũ một cách chủ động và có kiểm soát. Để chung sống với lũ, chúng
ta cần:
- Xây dựng và hình thành hệ thống thủy lợi vùng, đảm bảo điều tiết lũ và tiêu
thoát nước nhanh, cung cấp nước ngọt và phát triển giao thông thủy bộ thuận
tiện.
- Phát triển mạng lưới giao thông vùng cần thiết phải kết hợp chặt với bố trí
dân cư và hình thành hệ thống thủy lợi, khai thác triệt để các mặt tốt của lũ,
hạn chế các mặt phá hoại của lũ, góp phần điều tiết lũ vào và tiêu thoát lũ
ra một cách có lợi nhất cho trường sinh thái của vùng.
- Bố trí các đô thị, các cụm dân cư vùng theo hướng tôn cao nền, xây dựng
đê bao, làm nhà dọc theo giao thông không ảnh hưởng đến lũ vào và thoát
lũ ra khỏi vùng.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó lấy phát triển công nghiệp nông
thôn làm điểm tựa.
Những khó khăn tồn tại:
- Các hiện tượng thời tiết nguy hiểm và thiên tai xảy ra ngày càng bất
thường trong những năm gần đây như giông, lốc làm sập đổ nhiều nhà cửa, đặc biệt
là vấn đề sạt lỡ bờ sông gây thiệt hại rất lớn.
- Công tác truyền thông nâng cao kiến thức về biến đổi khí hậu, phòng,
chống thiên tai và TKCN còn thiếu thường xuyên.
127
Đồ Án Tốt Nghiệp
- Nguồn kinh phí thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH còn
hạn chế. Một số công trình phục vụ phòng ngừa giảm nhẹ thiên tai thi công còn
chậm, do thiếu vốn.
- Cán bộ ở cấp cơ sở còn thiếu, thường xuyên thay đổi và năng lực trong
công tác phòng, chống thiên tai ứng phó với biến đổi khí hậu còn hạn chế.
4.2.2.2 Nhận thức quan hệ giữa ĐBSCL với các nước thượng lưu:
ĐBSCL là một trong những vùng có hệ sinh thái phong phú nhất của lưu vực
và có vị trí rất dễ bị ảnh hưởng bởi sự phát triển ở thượng lưu. Việc lấy nước nhiều
hơn ở thượng lưu sẽ làm cho xâm nhập mặn xâu hơn vào nội địa. Ngược lại việc xây
dựng các hồ chứa ở thượng lưu có thể giảm lưu lượng trong mùa lũ và tăng lưu lượng
trong mùa khô do đó đẩy mặn về hạ lưu xa hơn. Nhưng mối lo ngại khác cho ĐBSCL
là khả năng ô nhiễm nước xuất phát từ thượng nguồn hoặc do việc khai thác dầu ở
Biển Hồ và hiện tượng giảm dòng chảy phù sa là yếu tố quan trọng đối với hệ sinh
thái của ĐBSCL.
Về mặt thủy văn, LVSMK là một thực thể thống nhất. Bất kỳ một tác động
nào đối với chế độ thủy văn của con sông này đều ảnh hưởng đến toàn lưu vực. Theo
nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế và Hiệp định Mekong 1995, không một nước
ven sông nào được gia tăng lấy nước nhiều trên dòng sông này, đặc biệt trong mùa
khô, khi chưa có sự chấp thuận cuả các nước ven sông khác. Tính chất phức tạp của
mọi tác động qua lại này đòi hỏi phải thận trọng khi tiến hành quy hoạch kiểm soát
lũ và phát triển tài nguyên nước LVSMK.
Nhận thức về quan hệ giữa vùng ĐBSCL với Campuchia:
Từ sự phân tích vai trò của Biển Hồ và vùng ngập lũ của Campuchia với
ĐBSCL cho thấy mối quan hệ giữa phần đồng bằng sông Mekong của Việt Nam và
Campuchia đòi hỏi phải thận trọng đối với mọi hậu quả có thể gây ra do sự phát triển
ở mỗi nước. Trong Dự án Quy hoạch tổng thể ĐSBCL (Mekong Delta Master Plan,
VE87/031, 1993) đã lưu ý rằng: “Biên giới giữa hai nước được coi là nơi mà công
tác chống lũ cũng như việc lấy nước gia tăng không được làm thay đổi chế độ dòng
128
Đồ Án Tốt Nghiệp
chảy hiện nay. Để phát triển tối ưu dòng sông vốn không có ranh giới quốc gia này,
cần phải cổ sự hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Campuchia”.
Việc xây dựng tuyến đường N1 dọc biên giới với cao độ đỉnh 6,0 - 6,5 m MN
sẽ có tác động rất nhạy cảm tới quan hệ của hai nước. Thủ tướng Hun Sen đã đề cập
vấn đề này khi tiếp xúc với các đoàn đại biểu Việt Nam trong các hội nghị của MRC.
Trong đó Ông đã lưu ý phía Việt Nam phát triển thế nào đừng để dâng nước phía
Campuchia. Để đối phó với lũ lụt, phía Campuchia cũng có phương án lên đê dọc
theo hai sông Mekong và Bassac và sử dụng kênh chuyển nước sông Mekong từ vị
trí bến phà (cầu) Neak Luong sang sông Vàm Cỏ Tây. Hậu quả lượng nước lũ sông
Mekong trực tiếp đổ xuống lưu vực sông Vàm Cỏ sẽ gây ngập cho TP.HCM và vùng
phụ cận
Như vậy mối quan hệ hai nước không chỉ đơn thuần về kỹ thuật, kinh tế mà
còn mang ý nghĩa chính trị đặc biệt. Do đó để phát triển tối ưu dòng sông vốn không
có ranh giới quốc gia này, cần phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước, thông qua
Ủy hội sông Mekong Quốc tế MRC và Ủy ban sông Mekong của Việt Nam (VNMC)
và Ủy ban sông Mekong Campuchia (CMC).
4.2.2.3 Kinh nghiệm phòng tránh lũ ở Việt Nam:
Người Việt Nam có hàng ngàn năm kinh nghiệm chống trọi với thủy tai mà
truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh là một minh chứng biểu đạt cho cuộc đấu tranh
không mệt mỏi với thiên nhiên để tồn tại. Hàng ngàn km đê trong hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình được xây dựng, cho ta thấy công sức vĩ đại của nhân dân ta kiềm
chế lũ lụt như thế nào. Tuy nhiên trong lịch sử hiện đại đã không thiếu những trận
thủy tai ghê gớm như trận lũ lụt xảy ra năm 1945 trên lưu vực sông Hồng gây ra nạn
đói làm 2 triệu người thiệt mạng. Trận lụt năm 1957 xảy ra do vỡ đê Mai Lâm và cơn
lũ năm 1971 làm vỡ đê Cống Thôn đã gây thiệt hại to lớn cho cư dân sống trong vùng
ngập lụt ven sông Hồng.
a. Phòng tránh lũ trên lưu vực sông Hồng:
Đối với lưu vực sông Hồng, con sông lớn nhất ở phía Bắc Việt Nam, có lưu
lượng lũ đo được tại Hà Nội vào năm 1971 là 22.200 m3/s và diện tích lưu vực là
129
Đồ Án Tốt Nghiệp
87.400 km2 (không kể diện tích vùng đồng bằng). Đây là một lưu vực sông điển hình
sinh lũ vùng núi: Thời gian truyền lũ nhanh (5 – 7 ngày), mực nước sông dâng cao
đột ngột (0,4 - 1,0 m/ngày), vận tốc dòng chảy lớn (2 – 3 m/s). Giải pháp kiểm soát
lũ trên lưu vực đã và đang thực hiện là:
Thiết lập hệ thống đê ngăn lũ các cấp trên sông chính và sông nhánh,
Xây dựng các hồ chứa điều tiết thượng nguồn: Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu
v.v.
Phân lũ sông Hồng qua sông Đuống sang sông Thái Bình.
Chứa lũ ở một số vùng đệm ven sông: Tam Nông, Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên;
Chậm lũ trong khu vực cống và đê Vân Cốc (Hà Tây);
Chuyển nước lũ khẩn cấp qua sông Đáy chảy về Hà Nam Ninh;
Trải qua 60 năm quy hoạch và phát triển thủy lợi, phòng tránh lũ, lụt hàng năm
vẫn còn là mối đe doạ thường xuyên cho hệ thống đê toàn lưu vực (gần đây là trận lũ
2002, 2017). Đặc biệt là đê bảo vệ Thủ đô Hà Nội.
Giải pháp kiểm soát lũ cho lưu vực sông Hồng là hợp lý cho đến nay nhưng
chưa phải là giải pháp duy nhất bền vững. Bởi vì việc kiên cố hoá đê bối cấp 3, bao
đê các cù lao và đô thị hoá các vùng bãi ngoài sông Hồng đã thu hẹp mặt cắt dòng
chảy, làm giảm đáng kể năng lực thoát lũ trên dòng chính, trong khi các khu chứa lũ
quá nhỏ (khoảng 200 - 300 trăm triệu m3), trong khi hạ lưu tuyến phân lũ sông Đáy
cho Hà Nội đã phát triển toàn diện. Như vậy mức độ rủi ro về lũ, lụt cho Thủ đô Hà
Nội là rất tiềm tàng, cho dù nhà nước đang xây dựng các hồ chứa lớn tổng hợp lớn
như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang v.v… thì cũng chỉ có tác dụng giảm
bớt nguy cơ chứ không thể triệt tiêu hoàn toàn rủi ro và hiểm họa lũ, lụt cho Thủ đô.
130
Đồ Án Tốt Nghiệp
b. Phòng tránh lũ ở các lưu vực sông Miền Trung:
Nguồn: Ảnh trên internet
Hình 4.6: Lụt Chùa Cầu ở Hội An
Lũ lụt đã xảy trên lưu vực các tỉnh miền Trung vừa qua như hai trận lũ quét ở
Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên, xảy ra vào cuối
năm 1999, 2004, gần nhất là mùa mưa bão trong năm 2016, 2017 đã cho thấy tổn thất
to lớn về người và tài sản của dân cư sống trong vùng lũ, lụt. Hình ảnh Thị xã Hội An
chìm trong biển nước, nhiều khu vực trên đường thoát lũ bị chia cắt thành các đảo
nhỏ ngập nước, phải cứu hộ bằng máy bay trực thăng, nhiều người phải bám vào nóc
nhà để sống sót. Tất cả đã cho thấy quy hoạch lũ vùng này rõ ràng còn nhiều việc
phải làm (Hình 4.6). Rõ ràng giải pháp phòng tránh lũ, lụt ở miền Trung còn nhiều
việc phải làm.
4.2.2.4 Kinh nghiệm quản lý và giảm nhẹ lũ, lụt ở các nước trên Thế giới:
a. Kinh nghiệm của Hà Lan:
Vương quốc Hà Lan có diện tích và dân số xấp xỉ bằng ĐBSCL của Việt
Nam (16 triệu dân và khoảng 4 triệu ha). Là một nước có 2/3 diện tích với địa hình
chủ yếu thấp hơn mực nước biển tới 3 - 4 m, trừ phía Đông Nam là vùng trung du và
miền núi, nơi giáp Bỉ và Đức thuộc lưu vực sông RHEIN, bắt nguồn từ dãy núi Alps,
131
Đồ Án Tốt Nghiệp
diện tích lưu vực là 185.000 km2, chảy qua 9 nước Châu Âu, rồi đổ ra biển trên lãnh
thổ Hà Lan, nơi được biết đến với kinh nghiệm tuyệt vời về cải tạo đất và lấn biển.
Các hệ thống đê biển, cửa điều tiết tự động ngăn triều và các trạm bơm chuyển nước
nhiều cấp bằng năng lượng gió. Đó sẽ là những bài học tốt cho vùng ĐBSCL của Việt
Nam.
Vào thế kỷ thứ 11, đê được xây dọc các bờ sông Rhine, Maas, và Waal. Mãi
đến năm 1932, nhiều đê bao được hình thành. Tuy nhiên, trong lịch sử hình thành đê
bao (dikes), bờ bao (polders) của Hà Lan có những thành công và cũng có những thất
bại cần được xem xét.
Đề cập tới trận lũ lớn trên lưu vực sông RHINE xảy vào năm 1993 (lũ lịch
sử đo được tại Lobith ngày 3/1/1926 là 12.000 m3/s), đã gây tổn thất nghiêm trọng về
người và của cải cho Hà Lan. Tổn thất do trận lũ 1993 đem lại cho người Hà Lan một
bài học sâu sắc về giải pháp lũ và khai thác tổng hợp lưu vực sông RHINE, tuyến
đường thủy quốc tế quan trọng của Châu Âu, nơi cung cấp nguồn nước ngọt chính
của đất nước và phù sa cho vùng đồng bằng.
Một trong những nguyên nhân chính làm mực nước lũ ngày càng cao là do
nhiều bờ bao được xây dựng, thiếu không gian tự nhiên để chứa nước lũ, dẫn đến lũ
cục bộ và ngập ở diện rộng ở Hà Lan. Tuy nhiên chỉ đến sau cơn lũ 1993, mọi người
mới đi đến kết luận cần phải trả lại lòng sông thiên nhiên của nó, mà trước đó đã bị
thu hẹp để phát triển kinh tế xã hội. Giải pháp kiểm soát lũ cho vùng hạ lưu sông
RHINE là:
Có hai lòng dẫn mùa hè và mùa đông. Mặt cắt sông đủ chống lũ cực hạn
(10.000 năm);
Lòng dẫn mùa hè với đê mùa hè với các công trình chỉnh trị đảm bảo dòng
chảy ổn định cho giao thông thủy;
Lòng dẫn mùa đông với đê mùa đông nhằm ngăn lũ cực hạn;
Tuyệt đối không được xây dựng các công trình cản trở dòng chảy lũ;
Thiết lập hệ thống cảnh báo lũ, cứu hộ hiện đại và rộng khắp;
Xây dựng mô hình toán dự báo lũ, kể cả các sự cố bất thường.
132
Đồ Án Tốt Nghiệp
Quan niệm về rủi ro trong quản lý lũ ở Hà Lan không chỉ dựa vào xác suất lũ
xuất hiện, thay vào đó rủi ro được xác định bởi một hàm số gồm xác suất lũ xuất hiện
(như lũ 100, 1.000, 10.000 năm) x hệ quả của lũ (thiệt hại do lũ rây ra). Đặc biệt, khi
đê bao và bờ bao được hình thành, đầu tư vào nông nghiệp, nhà ở, công nghiệp càng
nhiều, do đó rủi ro thiệt hại sẽ càng cao.
Chính quyền Hà Lan đã nhận ra được giải pháp kỹ thuật dùng đê bao, bờ bao
khép kín không hiệu quả về lâu dài, đặc biệt là trong những trận lũ lớn. Từ đó, chính
sách nới rộng không gian cho sông “rooms for river” được ra đời vào đầu thập niên
2000. Chính sách này là giải pháp thay thế cho giải pháp truyền thống như nâng cao
các đê bao và bờ bao, nhằm tạo nhiều không gian để chứa nước trong trường hợp lũ
lớn, đồng thời là giải pháp để thích ứng với biến đổi khí hậu. Mục đích của chính
sách này là nới rộng không gian để chứa nước lũ bằng việc chuyển đổi một số vùng
đất nông nghiệp không hiệu quả, ít dân cư trở về trạng thái nguyên thủy (đất ngập
nước), đồng thời khai thác du lịch sinh thái trên các vùng đất trên. Chính sách này đã
giúp Hà Lan kết hợp cả giải pháp kỹ thuật và sinh thái để quản lý lũ. Trong khi các
nước có truyền thống lâu đời trong quản lý lũ điển hình là Hà Lan có xu hướng đẩy
mạnh sang giải pháp phi công trình.
b. Kinh nghiệm của Pháp:
Khi còn cai trị Việt Nam, đối với lưu vực sông Hồng, điều đặc biệt là trong
phạm vi lòng dẫn và bãi sông, người Pháp đã cấm tuyệt đối không được canh tác hoặc
xây cất các công trình, cho dù là công trình tạm. Vì sao vậy? Chắc không phải họ
kém trình độ kỹ thuật hoặc thiếu kinh phí để xây dựng các công trình chống lũ. Thực
chất họ áp dụng giải pháp duy trì lòng dẫn tự nhiên, đảm bảo mặt cắt thủy lực an toàn
mùa lũ.
Pháp là những người có tầm nhìn sâu rộng, giàu kinh nghiệm trong quy hoạch
kiến trúc các công trình công cộng. Thành quả xây dựng các công trình kiến trúc và
thủy lợi ở nước Pháp và ở Việt Nam vẫn tồn tại như những tượng đài không bao giờ
mai một. Hệ thống tiêu nước ngầm cho thủ đô Paris có từ mấy thế kỷ trước. Dưới
thời Hoàng đế Napoleon Đệ nhất, người ta đã đi thuyền trong hệ thống kênh tiêu thoát
133
Đồ Án Tốt Nghiệp
nước mưa, nước thải sinh hoạt và công nghiệp dưới lòng đất Thủ đô Paris. Đến nay
hệ thống ấy vẫn hoạt động bình thường, mặc dù dân số đã tăng gấp nhiều lần.
c. Kinh nghiệm của Campuchia:
Campuchia cũng chịu chung cảnh ngộ lũ, lụt như ĐBSCL của Việt Nam. Dọc
hai bờ sông Mekong và khu giữa hai sông Mekong và Bassac là những khu đất thấp,
cũng là nơi chứa lượng nước lũ lớn khi tràn bờ. Kinh nghiệm của người dân
Campuchia chung sống với lũ được thể hiện qua kiến trúc nhà cửa của họ. Hầu hết
các căn nhà vùng nông thôn đều là nhà sàn trên cọc gỗ hoặc bê tông. Ngay tại Thủ đô
Phnom Penh, những khu vực thấp thì các loại nhà kể cả biệt thự đều xây dựng trên
cọc bê tông cốt thép. Chỉ những khu đất cao, nhà cửa mới xây dựng theo kiến trúc
bình thường.
d. Kinh nghiệm của Nhật Bản:
Người Nhật rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình khái thác và
phát triển tài nguyên nước thể hiện qua khuôn khổ pháp lý trong công tác kiểm soát
lũ ngày nay là:
Chiến lược kiểm soát lũ, sử dụng nước và bảo vệ môi trường sinh thái phải là
một chiến lược chung thống nhất, tổng hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Hình 4.7 mô tả quá
trình phát triển về pháp lý sử dụng nước ở Nhật Bản. Đối với các vùng đô thi chịu áp
lực của lũ lụt, người ta áp dụng phương thức giao thông nhiều tầng, kết hợp công
trình xây dựng nhà và đường giao thông.
Nguồn: Trịnh Hoàng Ngạn, Luận án tiến sĩ, 2007
Hình 4.7: Quá trình phát triển Luật về sông ngòi ở Nhật Bản
134
Đồ Án Tốt Nghiệp
4.3 Đề xuất điều chỉnh quy hoạch kiểm soát lũ cho ĐBSCL và Đồng Tháp
4.3.1 Đề xuất điều chỉnh quy hoạch thủy lợi kiểm soát lũ vùng ĐBSCL
4.3.1.1 Thuận lợi và thách thức cho công tác phòng tránh lũ ĐBSCL:
a. Những thuận lợi cơ bản:
Cường suất mực nước trong ngày thay đổi rất nhỏ (4,0 – 10,0 cm), mặc dù
lưu lượng dòng chảy lũ sông Mekong rất lớn (hơn 60.000 m3/s tại Kratie,
2000).
Thời gian truyền lũ trên các đoạn sông rất dài: trận lũ năm 2000, đỉnh lũ
xuất hiện trên các trạm thủy văn chính: Luang Prabang (7/9), Vientiane (8/9),
Pakse (15/9), Kratie (17/9), Phnom Penh (20/9) và Tân Châu (23/9).
Sự điều tiết của Biển Hồ đã cắt 20% lưu lượng đỉnh lũ cho ĐBSCL.
b. Những thách thức:
Sự phát triển của các nước thượng lưu sẽ có thể làm giảm lượng nước ngọt về
hạ lưu, đồng nghĩa với tăng cường xâm nhập mặn và thiếu nước sản xuất trong mùa
khô, ô nhiễm môi trường nước do các chất thải từ thượng lưu. Do đó việc cân bằng
nước cho phát triển ĐBSCL là ưu tiên hàng đầu trong quy hoạch thủy lợi có quan hệ
chặt chẽ với quy hoạch lũ.
Quy hoạch sử dụng đất là một bài toán khó cho phát triển ở ĐBSCL, nơi mà
địa hình thấp, lại bằng phẳng, chịu ảnh hưởng trực tiếp thủy triều từ hai phía Biển
Đông và Biển Tây, điều kiện thổ nhưỡng cũng không thuận lợi khi 50% diện tích bị
xâm nhập mặn và 50% là đất phèn, lại phải hứng chịu lượng nước lũ khổng lồ (300 -
400 tỷ m3) liên tục xảy ra lũ lớn (1991; 1994; 1996; 2000; 2001 và 2002) và lũ lịch
sử chu kỳ 30 năm (1936; 1966 và 2000).
Tập quán canh tác độc canh cây lúa đòi hỏi nhu cầu dùng nước lớn. Mâu thuẫn
giữa nhu cầu dùng nước và lịch thời vụ: Mùa khô ít nước nhưng nhu cầu dùng nước
lại tăng và mùa mưa thì ngược lại. Điều đó ảnh hướng lớn cho việc chuyển đổi cơ
cấu và đa dạng hoá cây trồng. Bài toán phát triển ở ĐBSCL cần phải giải quyết hài
hòa cùng lúc 4 yếu tố là: lũ, hạn, phèn, mặn. Do đó quy hoạch lũ để phát triển không
đơn thuần chỉ là ngăn nước, chống ngập, tiêu thoát lũ mà phải là khai thác mặt lợi của
135
Đồ Án Tốt Nghiệp
dòng chảy lũ một cách khôn ngoan, phòng tránh từ xa, nhận biết sớm để đưa ra các
giải pháp giảm thiểu thiệt hại do lũ gây ra.
Một câu hỏi đặt ra là biện pháp công trình hiện nay có đảm bảo an toàn cho
cuộc sống và sản xuất khi gặp các trận lũ sắp tới có quy mô bằng hoặc lớn hơn trận
lũ năm 2000? Để trả lời câu hỏi trên, hơn lúc nào hết việc điều chỉnh quy họach lũ
của ĐBSCL là nhu cầu cấp bách và cần thiết, phối hợp các quy họach trong nước với
các chương trình của Ủy hội sông Mekong nhằm đề ra chiến lược quản lý và giảm
nhẹ thiệt hại do lũ gây ra, thông qua việc am hiểu tường tận hơn bản chất dòng chảy
lũ sông Mekong. Từ đó cần phải xây dựng chiến lược quản lý và giảm nhẹ lũ cho
Đồng Tháp và ĐBSCL với mục tiêu là:
Mục tiêu lâu dài và tổng quát: là phòng tránh, giảm nhẹ đến mức tối đa các
tổn thất về người và của cải vật chất do lũ lụt gây ra, đồng thời lợi dụng những
mặt tích cực về môi trường của dòng chảy lũ, kết hợp với Ủy hội Mekong
Quốc tế tiến tới kiểm soát chủ động trên toàn lưu vực.
Mục tiêu trước mắt: là trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, các công trình
kiểm soát lũ ở Đồng Tháp và ĐBSCL thật không dễ gì thay đổi được ngay mà
chúng ta phải chấp nhận, nhưng điều quan trọng là làm sao không để xấu hơn
nữa hiện trạng môi trường sinh thái, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Ủy hội
Mekong Quốc tế MRC thực hiện tốt Chương trình quản lý và giảm nhẹ lũ
(Flood Management and Mitigation Program – FMMP).
Đề xuất điều chỉnh Giải pháp kiểm soát lũ cho ĐBSCL như sau:
Vùng ngập sâu : Phân lô và áp dụng hình thức chứa lũ luân phiên. Ngăn lũ
không triệt để bằng hệ thống đê thấp để vẫn có thể rửa phèn và duy trì tác dụng
bồi đắp phù sa tự nhiên, quá trình di cư và sinh sản của cá sẽ bị gián đoạn ở
một số vùng và trong một thời gian ngắn.
Vùng ngập nông : Hầu như đã ngăn lũ triệt để, quanh năm nhưng cần phải tính
toán lại khẩu độ thoát lũ để đảm bảo mức độ ngập trong đồng không vượt quá
độ sâu 1,0 m. Cần xem lại khẩu độ tiêu trên Quốc lộ 1.
136
Đồ Án Tốt Nghiệp
Vùng giữa hai sông : Quy hoạch phát triển hợp lý các cù lao. Vùng Thần nông
và Bảy xã nên điều chỉnh diện tích ngập lũ.
Vùng TGLX: Tính toán lại khẩu diện thoát lũ, cần tận dụng cả các cống dưới
7 cầu trên đường Châu Đốc Tịnh Biên khi lũ lớn hơn năm 2000.
Vùng ĐTM: Đánh giá lại hiệu quả thoát lũ qua sông Vàm Cỏ và tác động dâng
mực nước vùng ven T.p Hồ Chí Minh trong mùa lũ.
Quy hoạch bảo vệ bờ sông chính và đê bao các thành phố, thị xã chính. Áp
dụng kinh nghiệm của Nhật Bản và Campuchia: Kết cấu nhà trên cọc ở các
vùng thấp và trong thành phố kết hợp đường và nhà mặt tiền. Nhà khu nông
thôn khuyến khích xây dựng nhà trên cọc.
Cải tạo lòng dẫn sông chính: Nạo vét các cửa bị bồi lắng phục vụ giao thông
thủy và tăng cường năng lực thoát lũ. Xác định hai đáy sông mùa khô và mùa
lũ.
Đánh giá tác động của hệ thống đê, bờ bao, đường và cụm tuyến dân cư.
c. Đề xuất bổ sung quy phạm phân cấp đê: Hiện nay, Quy phạm Phân cấp đê
QP TL.A.6.77, do Vụ Kỹ Thuật, Bộ Thủy Lợi trước đây (nay là Bộ NN & PTNT)
soạn thảo, vẫn còn được lưu hành. Tuy nhiên, quy phạm này chỉ mới đề cập tới
các loại đê sông, đê phân lũ và đổ biển. Các loại đê được phân loại trên được áp
dụng cho công tác lập dự án đầu tư, thiết kế các công trình nắn dòng và bảo vệ bờ
tương đối phù hợp đối với các cồng trình tương ứng ở các vùng thuộc các lưu vực
sông và bờ biển miền Bắc và miền trung của Việt Nam.
d. Đề xuất bổ sung:
1. Cần phân loại thêm cho đê bao vùng ngập lũ và bờ bao tạm thời.
2. Phân cấp đê dựa trên diện tích bảo vệ là hợp lý, song tiêu chí đó chưa phản
ánh đúng mục tiêu bảo vệ của từng khu vực được bảo vệ. Nên chăng cần xem xét
tới tầm quan trọng cuả các khu vực dân cư, biên giới nhạy cảm tới độ an toàn và
an ninh của nhà nước và của dân cư trong vùng ngập lũ như ở ĐBSCL, thậm chí
đối với đê bao bảo vệ thủ đô Hà Nội.
137
Đồ Án Tốt Nghiệp
3. Qua các vấn đề đã phân tích rủi ro trong Chương 3 cho thấy rằng việc đắp đê
bao chống lũ cho khu dân cư vùng thị trấn, thị tứ là vô cùng bất đắc dĩ, là gỉải
pháp tạm thời trước mắt, không nên duy trì lâu dài và phải tính toán cân nhắc cho
từng khu bao cụ thể. Nếu trong quá trình khảo sát, thiết kế, hay trong quá trình thi
công thấy có vấn đề nảy sinh cần phải xem xét thật nghêm túc, phải lập hồ sơ tài
liệu cơ bản và các sự cố xảy ra trong quá trình thi công và đề ra phương án giải
quyết cụ thể cho quá trình quản lý vận hành sau này.
4.3.2 Điều chỉnh quy hoạch Thủy lợi kiểm soát lũ ở Đồng Tháp:
4.3.2.1 Đề xuất các biện pháp giảm thiểu:
Việc tăng mực nước phía Bắc kênh Tân Thành - Lò Gạch, các kênh dẫn có thể
được giải quyết thông qua việc xem xét lại khả năng tiêu thoát của sông Vàm
Cỏ và các trục thoát Nam kênh Tân Thành - Lò Gạch. Diễn biến xói lở trên
dòng chính là việc hết sức phức tạp. Để giải quyết vấn đề này cần có một
chương trình nghiên cứu chuyên sâu riêng.
Hạn chế về giao thông thủy: tại những nơi có lượng thông thuyền cao, nên lắp
đặt các thiết bị nâng thuyền hoặc bố trí các cống hộp để lưu thông thủy thuận
lợi hơn.
Phát triển diện nuôi trồng thủy sản, để khắc phục hạn chế về nguồn thủy sản
tự nhiên.
Nghiên cứu bố trí cơ cấu giống cây trồng, lịch thời vụ hợp lý để vừa đảm bảo
thu nhập của nhân dân khu vực phía bắc kênh Tân Thành - Lò Gạch không bị
giảm và nhu cầu nước trong giai đoạn kiệt nhất không gia tăng.
Cần có chế độ đền bù thích đáng, hợp lý cho các đối tượng bị ảnh hưởng bởi
dự án. Riêng đối với cư dân sống ở khu vực Bắc Tân Thành - Lò Gạch cần có
chính sách riêng.
Nghiên cứu chế độ vận hành hệ thống cống hợp lý để kiểm soát và tăng tác
dụng pha loãng nồng độ phèn, vi sinh và các độc tố, đồng thời tăng cường
lượng phù sa cải tạo đất.
Vận động, tuyên truyền nhân dân không xả trực tiếp chất thải vào nguồn nước.
138
Đồ Án Tốt Nghiệp
4.3.2.2 Điều chỉnh nhiệm vụ chống lũ cho dự án kiểm soát lũ Bắc Tân Hồng
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Hình 4.8: Dự án kiểm soát lũ biên giới Bắc Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp
Bắc Tân Hồng là dự án kiểm soát lũ của Đồng Tháp án ngữ dọc biên giới giữa
2 nước Việt Nam và Campuchia với mục tiêu làm chậm lượng lũ tràn quan biên giới
xuống Đồng Tháp. Dự án gồm diện tích nông nghiệp được bao bởi tuyến đê ngăn lũ
dài 57 km, cao độ đỉnh đê là +6,5 m (MSL Hà Tiên) ở phía thượng lưu và tuyến
đường bờ Nam kênh Tân Thành – Lò Gạch phía hạ lưu có cao độ đỉnh đường là +5,5
m (MSL Hà Tiên). Bảng 3.14 của Chương 3 mô tả thông số của đỉnh đê dọc theo bờ
Nam kênh Cái Cỏ - Long Khốt và Tân Thành – Lò Gạch. Theo đề xuất trong nghiên
cứu khả thi có bố trí tuyến tràn 19 km không liên tục có đỉnh tràn ở cao độ +3,5 m,
nhằm đưa nhanh lượng nước vào nội đồng và giảm mực nước phía thượng lưu. Tuy
nhiên hiện nay, tuyến tràn này đã hoàn thiện mà không xây dựng tuyến tràn. Chính
vì vậy khi lũ lớn xảy ra như năm 2011 mực nước phía bạn đã dâng cao gây ngập nhiều
vùng của nước bạn.
Đề xuất tỉnh Đồng Tháp sửa chữa theo thiết kế ban đầu là giữ nguyên các
tuyến tràn 19 km để không làm dâng mực nước phía bạn, tuân thủ Hiệp định Mekong
1995.
139
Đồ Án Tốt Nghiệp
4.3.3 Các khuyên cáo trên quan điểm bảo vệ môi trường
4.3.3.1 Chung sống hòa hợp với lũ
Trong các giải pháp lũ cho tỉnh Đồng Tháp và ĐBSCL, việc bảo vệ an toàn
khu dân cư, cây ăn trái, các tuyến đường giao thông lớn là vô cùng cần thiết để tạo
điều kiện phát triển kinh tế xã hội ổn đinh trong vùng ngập lũ. Đối với khu vực sản
xuất lúa nên tôn trọng khuynh hướng phát triển như hiện nay. Nhà nước cần hỗ trợ
phát triển những hệ thống tưới tiêu, giải quyết những công trình lớn có tính chất chiến
lược, tạo điều kiện tiên quyết trong phong trào xây dựng đồng ruộng nhằm phát triển
mùa vụ tối ưu trong từng tiểu khu, ô bao.
Tôn trọng xu hướng phát triển chung sống với lũ, khai thác các khía cạnh tích
cực của lũ nhằm cải tạo các vùng đất phèn, bảo đảm phát triển nông nghiệp ổn định,
duy trì sự phát triển cân bằng của các hệ sinh thái tự nhiên.
Tôn trọng nguyên tắc càng bao nhỏ, càng bao thấp, thời gian ngập càng nhiều
thì càng tránh được tác động biến đổi đột ngột khó thích ứng trong vùng ngập, mức
độ tiêu cực càng giảm thấp.
4.3.3.2 Quan hệ quốc tế:
Tính chất phức tạp của con sông Quốc tế này đòi hỏi phải có một công cụ có
hiệu lực để hỗ trợ các nước ven sông trong việc trao đổi thông tin và thảo luận về
những vấn đề liên quan đến tất cà các bên. Chính vì mục đích này mà UB Mekong
quốc tế và các Ủy Ban Mekong Quốc gia đã được thành lập. Ban thư ký Mekong là
cơ quan điều hành của Ủy Ban Mekong Quốc tế. Hiện nay, cơ cấu hợp tác của Ủy
Ban Mekong đang được các nước ven sông xem xét.
ĐBSCL là một trong những vùng có hệ sinh thái phong phú nhất của lưu vực.
Mối quan hệ qua lại của ĐBSCL với các khu vực ở thượng lưu phải được xem xét
trên các khía cạnh khác nhau của một hệ thống thống nhất trên toàn lưu vực đặc biệt
là khía cạnh sinh thái và thủy văn. Về mặt thủy văn, ĐBSCL có vị trí rất dễ bị ảnh
hưởng bởi công tác phát triến ở thượng lưu. Việc lấy nước nhiều hơn ở thượng lưu sẽ
ảnh hưởng đến dòng chảy mùa kiệt ở ĐBSCL và chắc chắn sẽ làm nước mặn xâm
nhập sâu hơn vào nội địa. Ngược lại, việc xây dựng các hồ chứa ở thượng lưu có thể
140
Đồ Án Tốt Nghiệp
làm giảm lưu lượng trong mùa lũ cho ĐBSCL và tăng lưu lượng vào mùa kiệt do đó
mặn bị đẩy xuống phía hạ lưu xa hơn. Những mối lo ngại khác đối với ĐBSCL là khả
năng ô nhiễm nước xuất phát từ thượng nguồn hoặc do việc khai thác dầu ngoài khơi
và hiện tượng giảm dòng chảy phù sa là yếu tố quan trọng đối với hệ sinh thái ĐBSCL.
Trong thực tế do mối quan hệ thủy văn trong lưu vực cho nên mọi tác động lớn có
ảnh hưởng đến toàn lưu vực.
ĐBSCL là vùng sinh sản quan trọng của nhiều loài thủy sinh và sau đó di cư
lên thượng nguồn. Rừng ngập mặn và đồng bằng ngập lũ là những vùng phong phú
nhất, việc bảo vệ những vùng này sẽ có lợi cho cả Việt Nam và Campuchia. Tương
tư như vậy, việc quản lý nguồn lợi thủy sản một cách hợp lý ở hai quốc gia cuối nguồn
sẽ cho phép sử dung tối ưu nguồn nước cũng như các nguồn tài nguyên có liên quan
trong lưu vực sông Mekong.
4.3.3.3 Những điều cần lưu ý khi khai thác tài nguyên ở Đồng Tháp
Nhiều vùng đất phèn rộng lớn vẫn bị tràm và lau sậy bao phủ hoặc mới chỉ
trồng một vụ lúa địa phương trong mùa mưa. Áp lực dân số buộc phải khai thác số
này nhiều hơn nữa, đây sẽ là thách thức lớn để đảm bảo việc phát triển các vùng đất
phèn này được bền vững và phù hợp về mặt môi trường. Các loại đất phèn trung bình
đã được khai thác trên quy mô lớn, chủ yếu ở ĐTM. Mặc dù việc phát triển nhìn
chung là thành công, song các tác động lâu dài của nó hiện nay chưa biết hết được,
do đó cần được theo dõi kỹ lưỡng, cần hết sức thận trọng khi mở rộng canh tác các
vùng đất phèn nặng.
Một khi vật liệu sinh phèn tiếp xúc với không khí sẽ dẫn tới việc hình thành
một số lượng lớn các chất acid hòa tan trong nước mặt và tạo nên độ chua thường
xuyên trong đất. Nguyên nhân có thể do: Đào kênh; Lên liếp trồng màu và Hạ thấp
mực nước ngầm.
Trong số 3 nguyên nhân phát sinh chua hóa này, thì nguyên nhân thứ nhất ít
nghiêm trọng hơn cả và nguyên nhân thứ 3 là tác động lâu dài nhất. Kinh nghiệm ở
ĐTM cho thấy nếu cung cấp đủ nước ngọt để ém và đẩy phèn, thì việc đào kênh hoặc
đắp đê chỉ gây ra tình trạng chua hóa nghiêm trọng trong 2 năm đầu, nhưng sau đó
141
Đồ Án Tốt Nghiệp
thì độ chua sẽ giảm nhanh. Lượng acid từ các liếp đất phụ thuộc vào khối lượng các
vật liệu phèn tiềm tàng bị đào lên. Nhìn chung, cần một khoảng thời gian ít nhất là
10 năm đế loại bỏ phần lơn lượng acid hòa tan.
Việc hạ thấp mực nước ngầm sẽ dẫn tới việc oxy hóa khoáng sinh phèn trong
các lớp đất bên dưới. Ở những vùng có tầng phèn, lượng acid hòa tan sẽ được rửa trôi
vào lớp nước mặt và khi lan truyền sẽ tạo nên vùng nước chua rộng lớn. Ở những nơi
táng phèn xuất hiện gần mặt đất như ở các khu trũng nhất ở ĐTM, nếu định cải tạo
toàn bộ, sẽ phải cần một vài thập kỷ để rửa và đẩy phèn trong đất. Các khu vực này
dành để phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là trồng tràm.
Trong vùng đất phèn trung bình, việc cải tạo đất chỉ nên thực hiện khi có đủ
nước ngọt để đẩy phèn và với điều kiện mực nước ngầm duy trì ngang bằng hoặc trên
mực nước hiện nay. Hơn nữa, trong các khu vực đất phèn trung bình, chỉ nên dừng
lớp đất bề mặt để lên liếp. Việc đào sâu cũng sẽ nguy hiểm đối với vùng đất phèn
nặng.
142
Đồ Án Tốt Nghiệp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
ĐATN “Tìm hiểu nguyên nhân gây lũ – lụt và phân tích hiện trạng các giải
pháp phòng, tránh lũ – lụt ở tỉnh Đồng Tháp thuộc vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long” đã được hoàn thành với nội dung tuân thủ theo mục tiêu của đề cương đã được
phê duyệt và yêu cầu nội dung của một ĐATN. Kết quả của ĐATN cho phép đi đến
một số kết luận như sau:
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐATN:
ĐATN đã đề cập những vấn đề mà chưa được nghiên cứu. Đó là:
1. ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp có địa hình trũng, thấp và bằng phẳng nên dễ bị tác
động bởi thủy triều (cường), dòng chảy lũ trên sông Mekong, mưa tại chỗ và sự điều
tiết của Biển Hồ. Đặc biệt Đồng Tháp là tỉnh đầu nguồn trực tiếp nhật lũ từ sông Tiền
và từ phía Campuchia đổ xuống. Nguyên nhân gây lũ, lụt ở ĐBSCL và tỉnh Đồng
Tháp là sự kết hợp của cả thiên nhiên và con người. Trong đó con người là tác nhân
gây lũ, lụt chính.
2. Giải pháp kiểm soát lũ, lụt hiện nay ở ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp chỉ chủ động
phòng tránh cho các trận lũ nhỏ và vừa, sẽ không bền vững khi xảy ra các trận lũ lơn
có quy mô như năm 2000 và lớn hơn trong tương lai.
3. Khác với các nghiên cứu lũ trước đây là dựa vào hiện tượng tự nhiên của cơ chế
dòng chảy lũ, trong khi ĐATN đi sâu nghiên cứu bản chất dòng chảy lũ sông Mekong.
Từ đó có thể chủ động cảnh báo các trận lũ lớn cục bộ hoặc toàn lưu vực, dựa trên
các số liệu khí tượng, thủy văn và quy luật thủy văn của lưu vực sông Mekong.
4. Trên cơ sở phân tích quan hệ giữa bồi lắng, xói lở bờ sông chính và giải pháp lũ,
đã phát hiện việc xây dựng hồ chứa thủy điện thượng lưu vực làm cho tải lượng phù
sa về vùng hạ lưu giảm thiểu (đói phù sa) kết hợp với tình trạng khai thác cát quá mức
ở ĐBSCL và Đồng Tháp dẫn đến hiệu ứng sạt lở bờ sông, kênh và bờ biển nghiêm
trọng. Từ đó cảnh báo rủi ro và hiểm họa về khả năng biến mất của vùng ĐBSCL
trong tương lai trước bối cảnh BĐKH và NBD.
143
Đồ Án Tốt Nghiệp
5. Phân tích sự thay đổi cơ chế thủy văn, thủy lực mùa lũ ở ĐBSCL và tỉnh Đồng
Tháp đã phát hiện hiệu ứng lũ nội đồng ở tỉnh Đồng Tháp và vùng ĐTM.
6. Cảnh báo về quan hệ nhạy cảm liên quan tới tác động xuyên biên giới giữa Việt
Nam và Campuchia do các giải pháp phòng tránh lũ ở ĐTM và TGLX.
7. Chủ động sống chung với lũ ở ĐBSCL là vấn đề quan trọng, có tính chất chiến
lược nhằm xây dựng và phát triển mạnh nền kinh tế của vùng ĐBSCL và Đồng Tháp,
vựa lúa lớn nhất của cả nước theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2. KIẾN NGHỊ:
Lũ lụt ở ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp ngày càng trở thành vấn đề cấp bách, nhạy
cảm, khiến chúng ta cần xem xét và đánh giá lại hiệu quả đầu tư các công trình kiểm
soát lũ ở ĐBSCL nói chung và Đồng Tháp nói riêng. Việc cần làm ngay là không để
xấu hơn hiện trạng, nghĩa là không để tác động tiêu cực lấn át tác động tích cực do
giải pháp lũ hiện nay. Vì vậy ĐATN có các kiến nghị sau:
1. Kiến nghị điều chỉnh quy hoạch lũ vùng ĐBSCL nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói
riêng. Trước mắt, kiến nghị Chính phủ không khuyến khích các địa phương bao đê
triệt để trồng lúa 3 vụ trên toàn bộ diện tích vùng ngập lũ như đã diễn ra ở các tỉnh
An Giang (khoảng 100.000 ha) và Đồng Tháp (khoảng 50.000 ha).
2. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành Thủy lợi, Giao thông và Xây dựng trong
việc giải quyết tiêu, thoát lũ cho vùng ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp. Thoát lũ quyết
định trước hết ở luồng thoát qua hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch, bảo đảm các yêu
cầu nhất định về:
- Mặt cắt sông, kênh, nhất là tại các cửa sông ra biển;
- Độ dốc dọc sông, kênh;
- Không có chướng ngại trên đường thoát
3. Có kế hoạch thực hiện sống chung với lũ một cách chủ động.
4. Việc nạo vét sẽ tạo điều kiện tốt cho thoát lũ, tạo điều kiện dễ dàng cho việc đi lại
của tàu thuyền, sử dụng đất nạo vét để tôn cao các khu dân cư, đồng thời có thể giúp
bờ sông, kênh thêm ổn định, bớt sạt lở.
144
Đồ Án Tốt Nghiệp
5. Áp dụng kết cấu công trình nhẹ, nổi có tính cơ động là hướng nghiên cứu giải quyết
đầy triển vọng cho ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp, vùng đất yếu, có chế độ thủy văn
phức tạp.
145
Đồ Án Tốt Nghiệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt :
[1] Bộ NN&PTNT, Viện QHTL Miền Nam, Quy hoạch lũ ĐBSCL đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030, 2013
[2] Bộ NN&PTNT, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, Lún sụt đất và xói lở vùng
ĐBSCL: Thực trạng, nguyên nhân và định hướng giải pháp, Báo cáo tại Hội nghị
chuyển đổi mô hình phát triển Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững và
thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ, 27-28/9/2017,
[3] Bộ NN&PTNT, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, Đề tài khoa học KC08.13/11-
15; Nghiên cứu dự báo xói lở, bồi lắng lòng dẫn và đề xuất các biện pháp phòng
chống cho hệ thông sông ở ĐBSCL
[4] Bộ NN&PTNT, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, Quy hoạch lũ ĐBSCL đên
2020, tầm nhìn 2030 thích ứng với BĐKH, 2017;
[5] Bộ NN&PTNT, Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp, Quy hoạch Thủy lợi tỉnh Đồng
Tháp, 2015
[6] Bộ TN&MT, Kế hoạch phát triển ĐBSCL 2013 (Mekong Delta Plan 2013), Đoàn
chuyên liên chính phủ Việt Nam và Hà Lan;
[7] Bộ KHĐT, Trịnh Hoàng Ngạn, Rủi ro và hiểm họa cho phát triển bền vững vùng
ĐBSCL, Tham luận tại Hội thảo Dự án Phát triển bền vững vùng ĐBSCL trong điều
kiện BĐKH – Cơ hội & thách thức, Tiểu dự án WB6, tổ chức tại Cần Thơ 14/7/2017.
[8] Bộ KHĐT, Trịnh Hoàng Ngạn, Chia sẻ kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước tổng
hợp LVSMK và ĐBSCL, Tham luận tại Hội thảo Dự án Phát triển bền vững vùng
ĐBSCLtrong điều kiện BĐKH – Cơ hội & thách thức, Tiểu dự án WB6, tổ chức tại
Cần Thơ 26 - 27/11/2017.
[9] Ngô Thế Vinh, Mekong – Cửu Long, nhìn xa nửa thế kỷ tới, 2011
[10] Trịnh Hoàng Ngạn – Lê Hữu Thanh, Ngập, úng ở Thành phố Hồ Chí Minh,
những điều chưa công bố, bài viết trong kỷ yếu Hội thảo Khoa học - Công nghệ,
trường Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH), ngày 9/7/2016.
146
Đồ Án Tốt Nghiệp
[11] Trịnh Hoàng Ngạn, bài trình bày “Vì sao TP.HCM bị ngập” tại Hội thảo Khoa
học - Công nghệ, trường Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH), ngày 9/7/2016
[12] Trịnh Hoàng Ngạn, “Giảm ngập ở Tp. Hồ Chí Minh không mấy khả thi”, Báo
Tuổi trẻ cuối tuần, trang 4, mục Bạn đọc & TTCT, số 28 - 2010, ngày 18/7/2010.
[13] Trịnh Hoàng Ngạn, “Mưa bão và úng, ngập ở Tp. Hồ Chí Minh”, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Viện Chiến lược phát triển, Kỷ yếu hội thảo: “Những tác động tích cực và
những hạn chế của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công đến phát triển kinh tế - xã hội
vùng Thành phố Hồ Chí Minh”, tổ chức tại Trung tâm Kinh tế Miền Nam, ngày
05/9/2012.
[14] Trịnh Hoàng Ngạn (2013). “Đánh giá khả năng hạn chế lũ, lụt và úng, ngập cho
TP.HCM và một số khu vực lân cận dưới ảnh hưởng của Dự án đê biển Vũng Tàu –
Gò Công”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược Phát triển, Trung tâm Kinh tế
Miền Nam, bài trình bày tại Hội thảo lần 2, Đề tài cấp Quốc gia: “Những tác động
tích cực và những hạn chế của dự án đê biển Vũng Tàu - Gò Công đến phát triển kinh
tế - xã hội vùng Thành phố Hồ Chí Minh”, tổ chức tại Trường Đại học Thủy lợi, Phân
hiệu phía Nam, ngày 30/10/2013.
[15] Trịnh Hoàng Ngạn. “Nâng cao hiệu quả nghiên cứu kiểm soát lũ ĐBSCL bằng
phương pháp phân tích số liệu/Ứng dụng phương pháp phân tích số liệu nghiên cứu
lũ ĐBSCL”, Luận án tiến sỹ Thủy lợi (Thủy lực ứng dụng, Cơ học chất lỏng), Viện
Cơ học Ứng dụng, Viện KH&CN Việt Nam.
[34] Trịnh Hoàng Ngạn, “Sự thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực mùa lũ ở ĐBSCL ”,
Tập san kỹ thuật NN&PTNT, số ra ngày 27/7/2005.
[16] Trịnh Hoàng Ngạn, “Hệ thống hóa số liệu phục vụ nghiên cứu tài nguyên nước
ĐBSCL”, Tập san kỹ thuật NN&PTNT, số ra ngày 27/7/2005
[17] Trịnh Hoàng Ngạn (2015). Cảnh báo thảm họa lũ, lụt cho Tp.HCM và ĐBSCL
(Phản biện Kế hoạch ĐBSCL - Mekong Delta Plan, 2013, do Đoàn chuyên gia của
Chính phủ Hà Lan soạn thảo), Hội thảo Quốc tế do các nhà tài trợ Quốc tế WB, ADB,
JICA, Ausaid, GIZ… Tổ chức tại KS. Intercontinental, 82 Hai Bà Trưng, Tp.HCM,
ngày 2 - 3/3/2015.
147
Đồ Án Tốt Nghiệp
Tiếng Anh :
[18] Edward J. Anthony & ccs, Lingking rapid erosion of the Mekong River delta to
human activities - Liên hệ giữa xói lở nhanh ở ĐBSCL và các hoạt động của con
người”, 2017
[19]. Manh, N. V. et al. Future sediment dynamics in the Mekong Delta floodplains:
Impacts of hydropower development, climate change and sea level rise. Global &
Planet. Change 127, 22 – 23 (2015).
[20] MRC, Council Study, The Study on Sustainable Management and Development
of the Mekong River, including Impacts by Mainstream Hydropower Projects, 2011
- 2017
[21] MRC, ICEM, Strategic Environmental Assessment (SEA) of Hydropower on the
Mekong, 2010
[22] MRC, Mekong River Commission. State of the Basin Report. (Vientiane, Lao
PDR), 232 pp, 2010
[23] NEDECO, Mekong Delta Master Plan, 1993.
148