ĐÔI DÒNG VỀ TỤC NGỮ CA DAO

G.S.Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC

Một nhà biên khảo gọi Tục ngữ, Ca dao là Kinh Thi Việt Nam

Với chúng ta,Tục ngữ và Ca dao là kho tàng kiến thức của tiền nhân ta chung góp

lại, truyền miệng từ một người sang nhiều người, nhiều nhóm người, qua nhiều

thời đại cho đến nay. Vì vậy Tục ngữ, Ca dao không chỉ rõ tác giả hay tác giả là

tòan thể dân tộc.

Giáo sư Dương quảng Hàm trong Việt Nam Văn học sử yếu định nghĩa Tục ngữ

như sau: “Tục: thói quen đã có lâu đời; ngữ: lời nói.” Tục ngữ là những câu nói

gọn ghẽ và có ý nghĩa lưu hành tự đời xưa, rồi do cửa miệng người đời truyền đi.

Tục ngữ còn gọi là ngạn ngữ vì chữ ngạn nghĩa là lời nói của người xưa truyền

lại.”

Giáo sư Dương quảng Hàm cũng chia tục ngữ ra làm hai lọai:

Những câu vốn là tục ngữ, tức những câu nói thường do một người phát ra trước

tiên rồi vì nó xác đáng, nó gọn ghẽ, người khác nghe đến nhớ ngay cứ thế nhắc lại

mà truyền đến bây giờ.

Những câu vốn là thơ ca.Thí dụ:Thương người như thể thương thân, vốn là một

câu trong Gia Huấn ca của Nguyễn Trãi.(hết trích).

Còn Ca dao là những bài hát ngắn, có vần có điệu, theo thể thơ lục bát, lục bát biến

thức hay thơ bốn chữ, thơ năm chữ, cũng là truyền khẩu, mô tả tình cảm, tính tình

hay phong tục của người dân quê.

Trong bài lược khảo này, người viết trước tiên chú ý đến những câu Tục ngữ, Ca

dao giúp nhà nông làm ruộng vì nước ta từ hồi lập quốc, sau thời kì du mục, vốn là

một nước lấy nông nghiệp làm căn bản (dĩ nông vi bản).

Nền nông nghiệp còn phôi thai nên trông cậy vào thời tiết rất nhiều. Mưa thuận gió

hòa thì được mùa, người người no ấm; nhà nhà vui tươi. Mưa giông bão dữ hay lụt

lội, mùa màng thất bát, đói khổ trông thấy. Vì vậy thời tiết là câu cửa miệng mọi

người trao đổi những khi gặp nhau:

Gió này ngày mai mưa không?

Coi trăng buổi tối, điềm này có lẽ hạn hán mất!

Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.

Dưa gang, dưa hồng, dưa hấu, dưa chuột (leo) chỉ cần một lượng nước vừa phải,

nước nhiều sẽ làm thối rễ. Trái lại, lúa thì càng nhiều nước càng tốt. Có những lọai

lúa, nước dâng cao tới đâu, lúa trồi lên tới đó.

Muốn cho lúa tốt, thu họach khá, ông bà ta dạy con cháu:

Ăn kĩ no lâu

Cày sâu tốt lúa.

Khi xưa, một năm cấy được hai vụ lúa, vụ chiêm tháng 5 và vụ mùa tháng 10. Sau

vụ mùa, muốn cho ruộng lấy lại mầu mỡ như trước, ngòai phân bón, nông dân phải

cày vỡ xong xếp những tảng đất ấy lên như ta xếp gạch, hòn nọ chồng trên hòn kia,

cao khỏang 80-100cm, kéo dài suốt chiều dọc hay chiều ngang của ruộng, gọi là

xếp ải. Mặt trời rọi ánh nắng mùa Đông qua những chồng ải và gió heo may hun

hút thổi làm đất khô đi, mềm tơi ra, lấy lại những chất mầu mỡ nhất là khi ải gặp

nước liền tan ra dễ dàng vì đất trở nên xốp, cây lúa gặp đất này là bắt rễ nhanh

chóng, phát triển mau lẹ. Nếu không xếp ải, đất bị chai, quánh, cứng như đá cây

lúa khó lòng bắt rể và nẩy nở được.

Ải đã phơi kĩ, đủ nắng nhưng khi đổ ải không nhiều nước thì cũng không tốt:

Ải thâm không bằng dầm ngấu.

Việc chọn giống thóc tốt rất ảnh hưởng đến cây lúa sau này:

Tốt giống, tốt mạ.

Tốt mạ, tốt lúa.

Nhà nông phải biết những nguyên nhân làm cây lúa không phát triển, như mùa

Đông heo may se lạnh quá lúa co cụm lại, mùa Hè ruộng thường thiếu nước:

Đông chết se

Hè chết nước.

Làm ruộng phải đúng thời tiết mới mong có kết quả tốt. Làm trái thời tiết dễ thất

bại:

Bươn chải không bằng phải thì.

Có nhiều người cứ nghĩ mỗi cụm lúa là một lượm lúa nên cố cấy dày. Cấy dày quá

cây lúa chen chúc không đủ đất ăn sẽ không cho thóc:

Cấy thưa thừa thóc

Cấy dày cóc được ăn.

Cấy thưa hơn bừa kĩ..

Thừa mạ thì bán, chớ có cấy dày ăn rơm. Theo kinh nghiệm, người thợ cấy biết

phải đặt cây lúa cách khỏang bao nhiêu, thí dụ hai gang tay một cây thì cứ con mắt

họ nhìn cũng y khỏang cách, không sai biệt bao nhiêu.

Vụ lúa mùa, phải cấy sâu cây lúa mới vững. Còn vụ chiêm, vì đã xếp ải lại nhiều

nước, cấy nông hơn cây lúa cũng dễ bắt rễ.

Tháng sáu thì cấy cho sâu

Tháng chạp cấy nhảy mau mau mà về.

Khi cây lúa đã cấy xong rồi, có hai việc cần làm thường xuyên để săn sóc ruộng

lúa là cào cỏ và tát nước. Ruộng không thể để khô, nếu thấy ruộng kém nước là

phải tát nước vào. Cây lúa mọc lên, cỏ cũng cứ thế mọc theo, tranh đất với lúa. Lúc

này các cô thôn nữ phải cầm mỗi người một cái cào ra ruộng, đi từng luống cào

cho cỏ bật gốc và cỏ sẽ chềt. Những dúm cỏ đó, các cô dùng chân đạp dúi sâu

xuống bùn, cỏ thối ra lại thành phân bón lúa.

Nắm cỏ, giỏ thóc.

Như đã nói, làm nghề nông ở xứ ta dựa vào thời tiết rất nhiều. Nếu không đóan

được thời tiết nhiều khi hư hỏng cả vụ lúa đã đến lúc được ăn:

Xanh nhà hơn già đồng

nghĩa là thà gặt non một chút đưa về nhà còn hơn để ở ngòai đồng lỡ mưa gió

giông bão đến bất ngờ, lúc đó không kịp gặt thì gần như mất trắng.

Lúa gặt về sân rồi, phải qua nhiều công đọan mới thành ra những thúng thóc. Ngày

mùa, mưa gió là đại họa cho nông dân:

Cơn mưa đằng đông vừa trông vừa chạy

Cơn mưa đằng tây mưa dây bão giật

Cơn mưa đằng nam vừa làm vừa chơi

Cơn mưa đằng bắc đổ thóc ra phơi

Thời khóa biểu phải sắp cho đâu vào đó:

Nắng sớm trồng cà

Mưa sớm ở nhà phơi thóc

Mưa sớm tức lúc còn đêm thì sáng sẽ tạnh, sẽ có mặt trời, ở nhà đem thóc ra phơi

Nửa đêm thấy hiện tượng trên trời nhà nông cũng đóan được ngày hôm sau ra sao:

Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.

Nhưng cũng đừng chểnh mảng với công việc, hãy chuẩn bị khi trời lại đẹp trở lại:

Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.

Ngọ là giữa trưa, Mùi là sau đó một giờ. Khi xưa, tiền nhân chúng ta chỉ dùng âm

lịch như người Hoa nên mặt trăng lấy làm căn cứ và rất quan trọng trong cách tính

này. Người nông dân cứ theo câu ca sau đây mà biết hình dáng mặt trăng lớn nhỏ

sẽ như thế nào, bởi nhiều ngày mùa hè, tối vẫn còn phải làm khi có ánh trăng soi

sáng:

Mồng một không trăng

Mồng hai lá lúa (rất nhỏ)

Mồng ba câu liêm

Mồng bốn lưỡi liềm

Mồng năm liềm giật

Mồng sáu thật trăng

----------

Mười rằm trăng náu

Mười sáu trăng treo

Mười bảy sảy giường chiếu

Mười tám trăng lẹm

Mười chín dụn dịn

Hai mươi giấc tốt

Hăm mốt nửa đêm

Hăm hai bằng tai

Hăm ba bằng đầu

Hăm bốn ở đâu

Hăm lăm ở đấy

Hăm sáu đã vậy

Hăm bảy làm sao

Hăm tám thế nào

Hăm chín thế ấy

Ba mươi không trăng.

Người nhà nông thường nhìn trăng mỗi tối để đóan thời tiết cho ngày hôm sau:

Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.

Muốn ăn lúa tháng năm, trông trăng rằm tháng tám.

Muốn ăn lúa tháng mười, trông trăng mồng tám tháng tư.

Mùa hè, nhìn sao dễ biết nhất, nhìn mây dễ nhận ra trời sẽ nắng hay mưa:

Dày sao thì nắng, vắng sao thì mưa.

Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.

Không phải những nhà thiên văn học có thiên lí kính, người nông dân vẫn biết sao

to hơn trăng nhiều:

Ông trăng một sào, ông sao một mẫu.

Nước mưa từ trời rơi xuống vào đúng lúc cần cho cây lúa thì quan trọng vô cùng:

Mồng tám tháng tư không mưa

Bỏ cả cày bừa mà lấp (vất) lúa đi

Bao giờ cho đến tháng mười

Lúa tốt bời bời nhà đủ người no.

Mưa quan trọng bậc nhất vì dẫn thủy nhập điền còn quá thô sơ, máy móc không có,

sức người có hạn trong khi cây lúa thiếu nước là chết khô:

Mồng chín tháng chín không mưa

Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn

Mồng chín tháng chín có mưa

Mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng.

Phải thì, phải tiết, không gió bão là điều nhà nông mong mỏi:

Ơn trời mưa nắng phải thì

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu

Công lênh chẳng quản ai đâu

Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

Cảnh tượng đầm ấm và yên vui, trời và người cùng hòa một điệu:

Tháng chạp cày vỡ ruộng ra

Tháng giêng làm mạ mưa sa đây đồng

Ai ơi cùng vợ cùng chồng

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Cầu vồng ngũ sắc cũng cho những tin tức về mưa gió. Cầu vồng rạp (thấp) khác

với cầu vồng cao:

Vồng rạp mưa rào, vồng cao gió táp

Cầu vồng có đọan chân gọi là mống. cũng có thể cho tin tức:

Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.

Ngòai cầu vồng và mống, nông dân còn nhìn ráng - do ánh mặt trời rọi vào mây

mà thành ra . Ráng cũng cho tin tức về thời tiết:

Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa.

Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa.

Mỡ gà mầu vàng nhạt, mỡ chó mầu trắng bệch.

Mùa hè, mây đen hay trắng thường cuốn lên như cái vòi hay như một cây cột cao ở

chân trời. Nông dân gọi là vòi rồng đang lấy (hút) nước.

Rồng đen lấy nước thì nắng

Rồng trắng lấy nước thì mưa.

Thời tiết luôn luôn quan trọng nhưng nó nằm ngòai tầm tay của con người: Cau

không ưa nước lắm:

Được mùa cau, đau mùa lúa

Nước mưa rót xuống ngọn cau, theo thân cau chảy xuống, ngươi ta bắt vòi bằng

một tầu cau để hứng nước mưa vào bể nước, dùng để nấu nướng vì nước giọt cau

sạch trong khi nước sông, nước ao chỉ để rửa ráy, giặt giũ.

Tre ngà trổ hoa, lúa mùa rồi hỏng

Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.

Trai đây có lẽ là trai sò dưới sông được dịp sinh sôi. Mùa đông gió bấc từ hướng

bắc thổi xuống, khô và se lạnh. Mưa phùn, gió bấc hay mưa dầm gió bấc cho biết

thời tiết khó chịu. Miền Bắc Việt có khi mưa suốt cả tuần. Trồng tỉa cũng phải

tránh gió bấc:

Bốc mả kiêng ngày trùng tang

Trồng lang kiêng ngày gió bấc

Trùng tang là hai cái tang một lúc. Trồng dây lang ngày gió bấc, lang dễ bị héo bị

khô, dễ chết. Cây cỏ cũng cho những điềm báo thời tiết:

Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.

Cỏ gà mầu trắng, điềm nắng đã hết.

Cỏ gà là lọai cỏ ăn lan rất mạnh, khi già cho những cái dây đầu nở phình to như cái

đầu con gà, trẻ nhỏ vẫn thường lấy chọi vào nhau xem cỏ anh nào dai. Rễ cây si

nếu tự nhiên đâm ra trắng thay vì nâu cũng là:

Rễ xi đâm trắng phau phau

Mưa to gió lớn rủ nhau cùng về.

Khi nghe những con diều hâu rít lên trên không trung hay thấy kiến cánh bay ra,

chuồn chuồn bay nhiều ắt là có thay đổi thời tiết:

Diều hâu rít lưỡi, lạnh giá tới nơi

Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa gần tới.

Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.

Tục ngữ cũng dạy cách trồng cây sao cho hợp lí, như cau chỉ lưa thưa mấy cành lá

nhỏ, ít bóng râm, nên trồng ở sân trước vì cần ánh nắng phơi phóng lúa thóc, vải

sồi; còn chuối đẻ ra từng bụi, nhiều bóng râm thì nên trồng ở vườn sau:

Chuối đàng sau, cau đàng trước.

Nhiều thứ cây phải dùng vồ đập gọi là “khảo” như ăn cướp khảo của khổ chủ, nó

mới chịu đâm bông kết trái. Mít là lọai này, người ta lấy vồ đập mạnh vào gốc mít

ngáy tết Đoan ngọ hay cắt bớt cành để nó “bói” trái. Còn chanh thì phải xới đất

xung quanh cho xốp nhiên hậu mới nhiều quả.

Mít chạm cành, chanh chạm rễ.

Hình thù các trái cũng cho biết nó ngon hay không:

Mít tròn, dưa méo, thị vẹn trôn.

Thị là quả thị cùng họ với hồng, có mùi thơm ngào ngạt khi chín, thịt nhão hơn

hồng và có hột khá to. Vẹn trôn là phần dưới quả thị hơi dẹt, để đứng không

nghiêng.

Người con trai khi xưa “tam thập nhi lập” ba mươi tuổi là đứng vững một mình. Ba

việc quan trọng của anh ta, ba việc khó nhất trong đời người con trai:

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy lo là khó thay!

Việc tậu trâu có ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình của anh sau này nên:

Con trâu là đầu cơ nghiệp.

Chẳng vậy mà có người cưới được vợ, làm được nhà nhưng suốt đời không tậu

được một con trâu (Con trâu - Trần Tiêu).

Ở những vùng đất xốp, pha cát, thí dụ một số vùng ở Thanh Hóa, người nhà nông

chỉ cần sắm bò. Nhưng nếu đất sét nhiều, dai, quánh, cứng hoặc có pha sỏi đá thì

phải mua trâu mới chịu nổi vì trâu khỏe hơn bò nhất là những con trâu mộng to lớn

dềnh dàng sức khỏe không thua gì voi.

Muốn tậu trâu, tậu bò phải học một mớ kinh nghiệm của tiền nhân: Đây là tướng

trâu tốt:

Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi.

Mồm gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn.

Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu. Chẳng tậu thì sao?

Đây là tướng trâu xấu:

- Xa sừng, mắt lại nhỏ con,

Vụng đàn, chậm đẽo ai còn nuôi chi!

- Chân to, bàn nặng kéo cày làm sao?

Lại thêm tiền thấp hậu cao

Đuôi chùng quá gối đi nào được đâu!

Nhìn dọc con trâu, phía đầu cao, phía đuôi thấp mới là trâu tốt. Còn trái lại là trâu

xấu.

Hàm nghiến lưỡi đốm hoa cà

Vểnh sừng, tóc chóp cửa nhà không yên.

Người nông dân xưa nay chỉ thích trâu đen:

Trâu trắng đi đâu mất mùa đấy.

Con trâu trong khỏang từ 4-8 tuổi là sung sức nên được ưa chuộng hơn trâu quá

non hoặc quá già:

Trâu năm sáu tuổi còn nhanh

Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già

Đồng chiêm xin chớ nuôi bò

Mùa đông tháng giá bò dò làm sao?

Đồng chiêm thường đất xấu, nước phèn, nước lợ rò vào, làm cực mà có ăn ít chứ

không như đồng đất đã thuần. Bò dò là bò dò dẫm bước đi.

Trâu quá sá, mạ quá thì

Quá sá là quá tuổi. Mạ quá thì là mạ già quá không cấy được nữa. Nông dân khi

ngâm thóc cho nảy mầm phải ghi nhớ từng ngày. Thóc đã nảy mầm đem ra ruộng

gieo vãi. Chỉ dăm ngày là cây lúa đã hình thành, nông dân đếm từ lúc gieo đến lúc

nhổ mạ đem đi cấy là đúng bao nhiêu ngày, để quá ngày mạ quá thì không cấy

được nữa mà phải gieo mẻ thóc khác. Trước khi cấy cũng cần phải giũ cho sạch đất

bám ở gốc mạ và cắt ngọn mạ, xong mới cấy. Những kinh nghiệm chung để tậu

trâu bò:

Trâu hoa tai, bò gai sừng.

Trâu tóc chóp, bò mũ mấn.

Ngòai trâu bò, nhà nông cũng nuôi gà vịt để ăn thịt và chó để giữ nhà. Gà đẻ sai

trứng rất được ưa chuộng:

Nuôi gà phải chọn giống gà

Gà dù bé giống nhưng mà đẻ sai.

Thứ nhất là giống gà nâu

Lòng to, thịt béo về sau đẻ nhiều.

Gà nâu chân thấp mình to

Đẻ nhiều trứng lớn con vừa khéo nuôi

Chả nên nuôi giống pha mùi

Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về.

Nuôi chó để giữ nhà, phòng trộm đạo. Chó giống phải có tiêu chuẩn sau đây:

Chó khôn tứ túc huyền đề

Tai thì hơi cúp, đuôi thì hơi cong

Giống nào mõm nhọn đít vòng

Ăn càn, cắn bậy ấy không ra gì.

Về kinh nghiệm chế tạo nông cụ, người nông dân cũng làm theo ca. Thí dụ: mua

hoặc đẽo bắp cày dài 9 gang (mỗi gang là 20cm) là vừa. Nếu dài đến 10 gang thì

tốn sức trâu vô ích vì bắp càng dài thì lưỡi cày càng ăn sâu xuống đất, trâu khó

nhọc mới kéo đi được.

Chín gang trâu cười, mười gang trâu khóc.

Dân cư ở vùng đồng bằng nước ta làm nông nghiệp nhưng những vùng ven biển,

người dân đa số làm nghề đánh cá. Ngư phủ phải kinh nghiệm về nước lên, nước

ròng để trù liệu chính xác những chuyến ra khơi hoặc trở về đất liền mà không bị

trở ngại.

Tháng giêng tháng bảy phân minh

Mồng năm, mồng chín, thìn sinh tị hồi.

Tháng tám cho lẫn tháng đôi

Mồng ba mười bảy tị lai, ngọ hòan

Tam cửu tòng như nguyệt tiền

Ngày hai mươi chín nước liền thụ thai

Mười ba sinh con thứ hai

Tuất thăng, mão giáng chẳng sai chút nào.

Tháng tư đối với tháng mười.

Sinh con mười một cùng thời hăm lăm

Tháng một chi khác tháng năm

Đã tường mồng chín, chớ nhằm hăm ba

Tháng sáu, tháng chạp suy ra

Mồng bảy, hăm mốt ấy là nước sinh.