NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI




TỪ HAI BÀI CA ĐẾN HAI PHONG CÁCH DÂN GIAN
LÊ ĐỨC LUẬN!)

I1. Phong cách dân gian chính là đặc điểm ngôn ngữ, âm điệu, cách tiếp cận hiện thực cuộc sống, cách biểu lộ tình cảm của tác giả đân gian. Các nhà nghiên cứu tiêu chí folklore đã đề xuất tiêu chí phân vùng văn nghệ dân gian trên cơ sở xác định phong cách dân °® ` Phong cách dân gian gồm có nhiều cấp độ: Cấp độ dân tộc, cấp độ vùng miền, cấp độ địa phương. Trên đại thể, có thể chia ra năm vùng văn nghệ dân gian tương ứng với năm phong cách đân gian: Vùng văn nghệ dân gian các
gian
tỉnh đồng bằng miền Bắc, vùng văn nghệ dân gian các tỉnh miền núi phía Bắc, vùng văn nghệ dân gian các tỉnh ven biển miền Trung, vùng văn nghệ dân gian miền Nam, vùng văn nghệ dân gian các tỉnh cao nguyên. Tuy nhiên, việc xác định đặc điểm phong cách dân gian mỗi vùng vẫn còn chờ những công trình nghiên cứu qui mô hơn. Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra cảm nhận bước đầu trên cơ sở hai bài ca đao phổ biến ở hai vùng: Miền Bắc và miền Trung.
2. Vùng văn nghệ dân gian miền Bắc từ Ninh Bình trở ra, vùng văn nghệ dân gian miền Trung từ Thanh Hoá trở
”' Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Đà Năng.
vào Bình Thuận. Vùng miền Trung có thể chia thành hai khu vực, khu vực bắc miền Trung từ Bình Trị Thiên đến Thanh Hoá và khu vực nam miền Trung từ Quảng Nam Đà Nẵng trở vào Bình Thuận. Bài ca dao "Xin áo" nhưng thực chất là "Xin cưới" bắt nguồn từ văn nghệ dân gian miền Bắc nhưng phổ biến toàn quốc và đã được đem vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Còn bài ca dao "Trèo lên cây khế - ngã ngang" sưu tầm được ở Quảng Nam Đà Nẵng tuy chưa phổ biến nhưng khá độc đáo và là một dạng dị bản của bài ca dao "xin áo” nhưng có cách nói hoàn toàn khác. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi cung cấp nguyên văn toàn bài ca như sau: Trèo lên cây bhế ngã ngang Anh chưa có Uợ cậy người uú may Áo anh rách nách, rách tay Cậy người xe chủ uá may cho cùng Vá rồi anh hồi đền công Mai sau có chồng anh giúp của cho Giúp cho một thúng xôt 0ò Một con lợn béo một uò rượu tăm Giúp cho người búc chiếu người nằm Bức mềên người đắp đôi uòng người đeo Giúp cho người quan mối tiên cheo Quan hai tiền cưới lại đèo bông tai Giúp cho người ba bốn sắc bhoai Một ang muối nho lại hai ang mè Giúp cho người ba bốn cân chè Một cân đường cát, một ghè tiêu hhô Giúp cho người một chuối cá rô Một hủ nước mắm, một bồ than săn Giúp cho người một gói lá uằng Một đứa nấu nước, một thằng giữ con Mai sau đăng chữ uuông tròn
vã * ~.. + 7 x..(3) Anh uô gũ ngãi đâu non ở đời “. 48
LÊ ĐỨC LUẬN


3. Hai bài ca dao rõ ràng là có hai phong cách khác xa nhau dù nó cùng chung chủ đề là "xin cưới". Bài ca dao lưu hành phổ biến hiện nay xuất phát từ vùng văn nghệ dân gian miền Bắc có cách nói theo cấu trúc thu hẹp dần hình tượng” từ việc dựng lên chuyện mất áo để lấy cớ xin áo, nhờ khâu áo rồi trả công cho người khâu áo. Bài ca dao này ở Quảng Nam Đà Năng có hai xu hướng tiếp nhận. Xu hướng thứ nhất vẫn giữ nguyên cách nói, chỉ thay các từ "trên cành hoa sen" thành các từ "trên cành hoa mai" vì vùng này hoa mai là phổ biến. Tuy nhiên, các dị bản hoa mai, hoa sim dù tỏ ra thật thì đó vẫn là chuyện nói dối một trăm phần trăm vì anh ta đâu có mất áo. Bản ghi "trên cành hoa sen" là nói dối trong nói dối, cái điều phi lí lại thành có lí nếu xét theo lí thuyết tâm lí giao tiếp. Anh chàng muốn tìm cớ nói chuyện với cô gái nên dựng nên chuyện mất áo nhưng nếu anh ta nói không để lộ yếu tố dối, thì có thể cô gái nghe lại tưởng chuyện mất áo là có thật và trả lời "Em không được, anh đi hỏi người khác" và bỏ đi thì mục đích của anh ta sẽ tan tành mây khói. Chính vì thế mà anh cố tình nói sai một chi tiết về chỗ vắt áo. Mặt khác, nói đến hoa sen là nói đến hình anh thân quen, là bông hoa có vẻ đẹp tỉnh khiết rất xứng tượng trưng cho tình yêu cao cả”, Xu hướng tiếp nhận thứ hai là sáng tác lại theo phong cách miền Trung. Bài "Trèo lên cây khế ngã ngang" không dùng cách nói vòng vo mà trực tiếp đi thẳng vào vấn để. Câu mở đầu gợi lên một sự chua xót, côi cút qua hình tượng cây khế ngã ngang.
Chàng trai xứ Quảng tô ra đáng thương hơn khi anh chưa vợ mà quần áo thì "sứt chỉ đường tà" mà "rách nách, rách tay". Đến đây bài ca lưu hành ở Quảng Nam Đà Năng đã hoà vào cách nói tình nghĩa là chịu ơn và trả ơn. Tuy nhiên, cách xưng hô của chàng trai Quảng mộc mạc hơn, không có cách đổi xưng hô lắt léo như chàng trai miền Bắc là anh - em, anh - cô ấy và trở lại anh - em mà xưng anh - người. "Người" là một từ xưng hô lâm thời xuất hiện ở vùng Quảng Nam, Đà Năng vừa dùng cho tự xưng: "Người ta nói rứa mà cũng giận" và cho ngôi thứ hai trong trường hợp nói tránh, nói những điều khó nói như kiểu "cô ấy" ở bài ca dao "xin áo". Anh chàng xứ Quảng cũng trả công cho người khâu áo như chàng trai miền Bắc nhưng có khác đôi chút, "đôi chiếu" thành "bức chiếu", "đôi chăn" thành "bức mền", "đôi trằm" thành "đôi vòng". Tiền cưới cũng nhẹ hơn: "quan tám" thành "quan mốt", "quan năm" thành "quan hai", "buồng cau" đổi thành "bông tai". Cách gọi tên lễ vật cưới phù hợp với phong tục tập quán của vùng đất nam miền Trung. Nhưng điều đặc biệt là bài "Xin áo" dừng ở chỗ "xin cưới", còn bài "Trèo lên cây khế ngã ngang" lại kéo dài hơn, chàng trai xứ Quảng không chỉ dừng ở việc đóng vai chàng rể mà còn đóng vai người chồng tận tâm, chu đáo chăm sóc vợ khi vợ sinh nở. Anh ta tỏ ra là người rất am hiểu, tỉnh tường về phong tục, tập quán, cách chăm sóc "người đẻ". Những vật phẩm anh ta cho đây đủ mọi phương diện nào là thức ăn thì có: Nước mắm, tiêu, muối nhỏ (muối rang giã NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49


nhỏ), mè là thức ăn kiêng khem cho người sinh nở theo thời xưa quan niệm. Khoai lang khô nấu trộn với gạo ăn cho khói táo bón, cá rô ăn mát và lành. Nào là thức uống thì có: "chè", "đường cát", "lá vàng". Nước lá vằng là nước chuyên dùng cho người sinh nở ở vùng miền Trung. Lại thêm "một bồ than săn" dùng cho việc "hơ háp nằm nơi", của người sinh nở, mà thứ than săn là than tốt, than của loại gỗ chắc, đốt lên than đó đượm lâu và nóng hơn. Chưa hết, hai thứ anh ta cho lại đặc biệt hơn: "Một đứa nấu nước, một thằng giữ con". Ngoài các vật phẩm, đồ dùng thì còn cho cả người chăm sóc "nấu nước" và "giữ con". Anh lấy tiền đâu mà thuê những hai đứa nhỏ phục vụ cho em. Không đâu, đây là cách nói sang, nói ngông của người Quảng trong cảnh nghèo túng. Anh là chàng trai nghèo rót đến nỗi áo "rách nách, rách tay" thì làm gì có tiền mà thuê nuôi những hai người nữa. "Một đứa nấu nước, một thằng giữ con" cũng chính là anh đấy thôi. Anh chính là người chăm sóc cho em, là người giữ con chúng mình. Hai câu cuối cùng kết lại:
Mai sau đặng chữ Uuuông tròn
Anh uô gá ngãi đầu non ở đời
Hai câu cuối nói đến chữ "vuông tròn" là nói đến sự thuy chung trọn đời, son sắt, nói đến nghĩa vợ chồng trăm năm hạnh phúc, một chàng trai tận tình, tận tâm với vợ con như thế thì không cô gái nào mà lại không yêu.
4. Rõ ràng hai bài ca thể hiện hai phong cách dân gian khác nhau. Bài ca "Xin áo" theo phong cách tó tình vòng
vo, rào đón theo kiểu cấu trúc thu hẹp dần hình tượng, còn bài ca "Trèo lên cây khế ngã ngang" có phong cách tổ tình chất phác, thắng thắn, đi ngay vào vấn để cần nói, chân tình, chí tình, chu đáo và căn cơ. Những cô gái nghe chàng trai Quảng "tán" mà ấm lòng và tin tưởng, có gì đó rất chân thật, thực tế của một con người từng trải, làm cho người nghe không cần phải băn khoăn do dự mà quyết lòng theo anh trọn đời. Ngoài ra, bài ca còn lưu giữ một lớp từ ngữ nam miền Trung và phong tục tập quán dân tộc, tập quán phong tục miền Trung trong các vật phẩm, đồ dùng, món ăn, cách chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.
Hai bài ca, hai phong cách dân gian đã làm phong phú phong cách dân gian dân tộc, phản ánh những nét riêng, đa dạng của văn hoá dân tộc. Bài ca "Trèo lên cây khế ngã ngang" mang dấu ấn của một phong cách Quảng nói riêng và phong cách miền Trung nói chung.Ø
L.Đ.L
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Tiến Tựu: Mấy uấn đề phương pháp giảng dạy nghiên cứu uăn học dân gian, Nxb Giáo dục, H, 1983.
2. Tư liệu lưu giữ tại Sở Văn hoá Thông tin Đà Nẵng.
3. Bùi Mạnh Nhị: Công thức truyền thống uà đặc trưng cấu trúc của ca đao - dân ca trữ tình, Tạp chí văn học, số 1/1997.
4. Lê Đức Luận: Dạng tham thoại hãng trong bài ca dao “Xin áo”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, H, số tháng 2/1998.