NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
AẠ1Ê 3Ô 24
Ở THỪA THIÊN - HUÊ
LÊ VĂN KINHŸ)
"mM.:)
NGHỆ NHÂN DÂN GIAN LỄ VĂN KINH
Ñ bức thư gửi một người bạn tên là
Germain được dùng làm để tựa của
cuốn giáo trình Nghề thêu An Nam, sách
viết dành cho nữ sinh của các trường học
thời thuộc Pháp vùng Nam Bộ, Việt Nam,
IF
có đoạn Gabrille Dain viết: “.. Nhiều nơi
truyền lại cho con cháu nghề lạ lùng là uẽ
hình bằng chỉ lụa, làm cho bông sen uà
bông tử đang nở trên tấm lụa, làm cho
bươm bướm rạng ngời bay liệng trên Uuững
nước trong xanh. Từ đời thứ 16, thì chúng
nó truyền cho nhau cái cách thúc nghề của
Lê Công Hành đã học ở Trung Quốc uề
đường kim mối chỉ uà cách cho màu... ""””
Cũng trong cái nhìn ấy, một tác phẩm khác
của Hocquard từ cuối thế kỉ 19 nhận định:
".. Người thợ Việt Nam tỏ ra rất bhéo lóo
trong uiệc điều động các màu sắc thâm sậm
trên hình lụa, để có những bức thêu hoà
hợp bhông chút chúa...
ri
. Ông còn nhận ra
rằng: phần lớn hàng thêu Việt Nam bấy giờ
xuất bhẩu sang Trung Quốc đã chiếm mội
P' Nghệ nhân thêu ở thành phố Huế, sinh
năm 1931.
lộ
Uai trò quan trọng uà là một ngành thương
mãi trọng yếu ở đây.
Chúng tôi muốn trích dẫn những
nhận xét trên như là một cách giới thiệu
nghề thêu Việt Nam, một trong những
nghề thủ công truyền thống, đã dược thừa
nhận và ca ngợi trên bình điện quốc tế.
Như chúng ta đã biết, nghề dệt ở Việt
Nam vốn có từ lâu đời. Các thư tịch cổ
nhắc đến người xưa đã từng sản xuất và
dùng các loại vải từ tơ chuối, vỏ cây mang
chất nguyên sơ cho đến những tấm lụa,
gấm lượt là. Văn học dân gian nói về
nghề dệt ghi lại được trên khắp đất nước,
tuy không thống nhất nhưng lại rất
phong phú, giúp chúng ta có thể nhận ra
những huyền tích, sự tích của rất nhiều
thần nhân có công khai sáng nghề đệt ở
Việt Nam mà không liên quan gì với tổ
nghề Trung Quốc !”.
Tất nhiên, nghề thêu đã xuất hiện
muộn hơn, khi mà sản phẩm dệt được
hoàn thiện. Thêu như một bước nâng cao
giúp cho sản phẩm dệt có mặt nhiều hơn
trong cuộc sống vật chất và tỉnh thần con
người. Tuy nhiên, thêu không đơn thuần
làm đẹp hàng dệt, mà nó còn liên quan
mật thiết đến lễ nghĩ, tăng phần trang
trọng trong những không gian và hoàn
cảnh cần thiết. Phần lớn các đồ trang trí,
trần thiết ở cung điện, đền đài phong
kiến như các loại tắn, lọng, nghi, cờ, áo
bào, hia'”, mão”, hài... các đồ nghi lễ
dùng nơi thờ tự, hoành phi, áo mũ của
chủ tế, tư văn... đều có đóng góp quan
trọng của nghề thêu. Thợ thêu ở cả ba
miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam đều
thống nhất một ông tổ nghề là ngài Lê
Công Hành, tuy đó là một hiện tượng
không phải phổ biến khi tìm hiểu sự tích
tổ nghề nghiệp trên bình diện quốc gia
(xem chú thích 3).
Ông Lê Công Hành tên thật là Trần
Quốc Khải sinh ngày 12 tháng Giêng
20
LÊ VĂN KINH
năm Bính Ngọ (1606) tại thôn Nguyên
Bì, xã Quất Động, tổng Bình Lăng, huyện
Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông cũ (nay là thôn Quất Động, xã Hồng
Thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây), từ
trần ngày 4 tháng 6 năm Tân Sửu (1661).
Trong thần phả ghi tổ tiên ông vốn họ Mạc,
đổi sang họ ngoại là Trần ””. Vì eó công lớn
với nước, ông được ban quốc tính họ Lê để
trở thành Lê Công Hành.
Dù gia cảnh gặp nhiều uẩn khúc, cha
mất sớm, không thân thích, mang họ mẹ,
nhưng ông nổi tiếng hiếu học và thông
minh"”. Năm Bính Tuất (1640) đời Lê Chân
Tông, ông đỗ tiến sĩ và được cử đi sứ sang
Trung Quốc. Trong thời gian nhiều lần đi
sứ, ông chứng tỏ tài năng và ý chí, bảo vệ
phương danh cho đất nước mình khỏi bị
xúc phạm nên đã bị nhốt trên một lầu cao,
cầu thang bị rút và không người lui tới.
Ngồi trên lầu cao, ông tỉ mỉ lấy tấm nghi
môn xuống, tháo từng sợi chỉ ra quan sát,
chiêm nghiệm, nhớ kĩ cách thêu thùa như
thế nào. Sau đó, ông lại quan sát mấy chiếc
lọng thờ, suy ngẫm về kĩ thuật như cán,
gọng, vải lợp... chỉ trong thời gian ngắn ông
đã học được kĩ thuật thêu và làm lọng xứ
người, đối chiếu với cách làm của thợ trong
nước, thấy được cái hay cái đổ của mỗi
bên”. Mãi không thấy người đem thang
xuống, ông đã nghĩ ra cách dùng hai chiếc
lọng kẹp bên mình làm phương tiện cần
không khí để đưa ông từ lầu cao xuống đất
một cách an toàn. Triều đình nhà Minh vì
cảm tài phải để cho ông về nước.
Với kinh nghiệm thu được trong thời
gian ở Trung Quốc, ông đã truyền lại cho
dân làng Quất Động và nhiều làng khác.
Dân thợ thêu tôn ông làm tổ sư và dựng Tú
Đình Thị ở phố Yên Thái, Hà Nội để ghi
nhớ công đức.
Ông cũng truyền nghề làm lọng cho
đân, phố Hàng Lọng, Hà Nội ngày trước
đã lập đền thờ và xem Lê Công Hành
cũng là vị tổ sư của nghề mình.
Không phải đến thế kỉ 17, sau
chuyến đi sứ của ông Lê Công Hành, Việt
Nam mới có nghề thêu. Sử sách eũ trong
nước từng nhắc đến sinh hoạt thời Lý,
Trần đã quen dùng đồ thêu và các loại
lọng, tàn và tán. Sau chiến thắng quân
Nguyên (thế kỉ 13), vì mong muốn giữ
hoà khí với phương Bắc, vua Trần đã
tặng trong số vật phẩm triều cống “mội
tấm thảm đó thêu chủ uàng uà một tấm
gấm uiền nhiễu"? Tháng Giêng năm
Quý Tị (1293) một sứ giả nhà Nguyên đã
nhận xét khi được nhà Trần đón tiếp: "...
uề phẩm hàm của các quan Đại Việt cứ
nhìn uào lọng để phân biệt. Nếu là bhanh
tướng đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn
được dùng hai lọng, hạng dưới đL một
lan n6,
Ông Lê Công Hành đã trỏ thành ông
tổ nghề thêu vào một thời điểm muộn hơn
nhiều so với sự xuất hiện sản phẩm thêu
ở Việt Nam. Tuy nhiên, chẳng có gì phi lí
khi một mặt hàng, một kĩ thuật thủ công
thực sự hiện hữu phổ biến trong dân
gian, vượt qua thành trì độc tôn, đặc
quyền sử dụng của giới quý tộc để tồn tại
và trở thành sản phẩm của những làng
nghề dân gian. Ông Lê Công Hành đã có
công phổ biến nghề thêu, thợ làm lọng
suy tôn thành thần tổ nghề của mình
trong trưởng hợp đó.
Các dụng cụ và nguyên liệu như:
kim, chỉ dùng để thêu thùa vá may là
công việc thường tình của mọi phụ nữ
Việt Nam. Nhưng dù vậy, nghề thêu vẫn
tồn tại độc lập và có tính chất chuyên
nghiệp ở Huế từ lâu, nhất là từ khi xây
dựng triều đình Nguyễn. Không chỉ thợ
thêu từ nôi Quất Động, Bắc Hà mà nhiều
nơi khác đến Huế để phục vụ cho nhu cầu
của giới quý tộc thượng lưu.
Gắn liền với đặc điểm tinh tế, tỉ mỉ
của đội người thợ Huế cùng với những
nghệ nhân nổi tiếng khắp nơi tập trung
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Z1
—X X X ————— XX————_—__—
lại, hàng thêu ở Huế, nhất là vào thời
Nguyễn đã có những sản phẩm mang
tính tỉnh lọc nâng cao để có thể đáp ứng
các yêu cầu trên.
Trong quá trình phát triển nghề thêu
ở Huế, với sự du nhập của kĩ thuật, hàng
thêu đã được chia làm hai hệ: Hàng thêu
màu 0uè hàng thêu trắng.
Hàng thêu màu theo kĩ thuật cổ
truyền nhằm phục vụ cung đình và dân
gian. Hàng thêu trắng hay còn gọi là
hàng nhật dụng gồm các loại khăn, màn,
tranh, áo `! dựa trên nguyên tắc rút sợi
vải, thay vào đó bằng chỉ thêu với nhiều
kĩ thuật khác nhau. Nghề thêu trắng du
nhập từ Pháp, sản phẩm nhằm phục vụ
đời sống ngoại kiều và một số người Việt
thượng lưu sống theo kiểu Tây phương
trong thời Pháp thuộc.
Thực hiện một tác phẩm thêu không
đơn thuần ở đường kim mũi chỉ. Một
người được công nhận là thợ thêu thực
thụ phải tự đảm trách được ít nhất
những công đoạn như: sáng tác mẫu hoặc
biết biến một mẫu đề tài ưng ý trên một
chất liệu khác vào nền vải. Đây là kĩ
thuật cần đến sự quy định nghề nghiệp
như bố cục mảng màu, đơn gian những
chỉ tiết rườm rà, chồng chéo nhiều lớp
trong không gian đề tài, đơn giản nhưng
không đơn sơ khiến bức thêu thêm vẻ
sống động. Sau khi đã phân mẫu trên
giấy, người thợ phải vẽ lại hoặc đồ lại
(ngày xưa người ta dùng bút lông uà mực
Tàu) bằng viết chì trên nền thêu. Trong
trường hợp này, đòi hỏi người thợ phải
rất khéo tay trong từng chi tiết vì rất
nhiều chỗ phải cắt lọng hoặc giữ đúng vị
trí những phần rời, để sau khi thêu người
ta không nhìn thấy dấu vết của hình vẽ
nét bút hoặc giấy dán trên vải.
Bằng khả năng thể hiện trình độ
thẩm mĩ, người thợ phải tự nhuộm chỉ
bằng màu tự chọn với những sắc độ theo
yêu cầu của để tài. Phần còn lại là sử
dụng các dạng thêu. Khéo léo đôi tay là
yếu tố quan trọng đã đành và trong mỗi
cách thêu đều có sở trường thể hiện
riêng. Không chỉ những đường nét, hình
dáng mà thần thái, phong cách từ đấy
cũng đóng vai trò quan trọng tạo nên giá
trị và sức biểu cảm của tác phẩm.
Dụng cụ của người thợ thêu tuy đơn
gian nhưng rất quy cách. Chủ yếu là
khung thêu (bàn £hêu), kim và chỉ.
Khung thêu trong ngành thêu của
các đân tộc trên thế giới mà trong Grand
bLarousse Encyclopédiqgue chia thành năm
loại tiêu biểu”. Khung thêu ở Huế là
loại dùng thanh gỗ dài hoặc tre ghép
thành hình vuông hoặc hình chữ nhật,
hai thanh ngắn xuyên qua hai mộng của
hai thanh dài, từ đó người ta có thể co
giãn chiều ngang dọc bằng các chốt khoá
(nêm). Nền vải được căng thẳng trên
khung bằng các dây buộc từ biên nền vải
đến thành khung. Với kĩ thuật này, người
ta có thể căng rất thẳng nền thêu, tránh
bị nhăn cũng như sự xê dịch vị trí của
đường kim làm lệch lạc mâu vẽ.
Trước thời thuộc Pháp, người thợ
thêu Huế dùng kim được rèn từ làng Mậu
Tài, thuộc huyện Phú Vang, Thừa Thiên
- Huế, với hai loại: Kim cái dùng cho chỉ
lớn và kim con cho loại bình thường. Kim
mới rèn thường nhám và lớn so với yêu
cầu. Khắc phục nhược điểm này, chỉ có
cách người thợ thêu tự mài chuốt cho
láng kim. Tuy nhiên, để có được một
chiếc kim như ý thời ấy, điều quyết định
là kim phải dùng nhiều, dùng lâu, dùng
thường xuyên để tránh rỉ sét và kim do
cọ sát với vải ngày càng nhỏ lại, trở nên
láng bóng. Thợ thêu gọi đó là kim nghề
và họ luôn luôn bảo vệ kĩ như một báu
22
LÊ VĂN KINH
——ềềễềễằễễ
vật. Kim nghề ngoài ưu thế là làm cho
đường chỉ thêu trở lên sắc sảo, còn là một
dụng cụ mà người thợ đã quen tay, tạo
nên sự đễ dàng và thuận lợi khi thêu.
Khi người Pháp đến Việt Nam, nghề
thêu ở Huế phổ biến với các loại kim do
họ mang đến với nhiều kích cõ khác
nhau: kim số 5 dùng cho sợi chỉ to, số 12
sử dụng trong khi thêu sợi chỉ chằm và
kim thường dùng là kim số 8, kim nghề
mới, phần xâu chỉ thường có màu vàng
nên thợ thường gọi là kim khu vàng.
Toàn bộ chỉ trong ngành thêu cổ
truyền đều bằng tơ tằm. Huế có vùng chợ
Cống (nay thuộc phường Xuân Phú),
chuyên sản xuất các loại chỉ cho ngành
thêu!"”. Chỉ tơ mảnh, sợi mịn, nhiều sơ,
có tên gọi là "chỷ /ơi" bằng phương thức
thủ công người ta xe lại lớn hay nhỏ tuỳ
theo phương thức xe đôi, xe ba, xe tư hay
xe sáu. Chỉ thêu được làm từ loại tơ nõn
(chỉ lơi) bóng mịn. Độ bóng của chỉ góp
phần quan trọng trong việc tạo thành độ
đậm nhạt, tối sáng của bức thêu.
Ngoài chỉ tơ, ở những loại hàng cao
cấp hoặc những chi tiết cần thiết của
mẫu thêu, người ta còn sử dụng chỉ kim
tuyến (màu vàng óng) hoặc ngân tuyến
(màu bạc). Sợi chỉ kim ngân tuyến cũng
có nhiều loại to nhỏ khác nhau, để tuỳ
theo hình thể thêu thích hợp.
Phần lón những mẫu thêu ngày xưa
thường thể hiện trên một số chủ đề nhất
định. Ngoài những quy c6 tính
nguyên tắc ở đồ dùng lễ nghi của triều
đình phong kiến triều Nguyễn như hoàng
bào, bộ lễ phục của các cấp quan lại, hia,
mão, tán, lọng... các loại khác như quần
bàn“? ` trướng liễn đều phổ
biến một số môtip như lưỡng long triều
nguyệt, song phụng triều thọ, sư tử hí
cầu, bát tiên,... trúc lâm thất hiền, phúc
định
, nghi môn
lộc thọ, tứ quý, cổ đồ bát bửu. Hoặc một
số đề tài cổ điển phổ biến như tùng hạc,
liên áp, trúc điểu, liễu mã... hay những
dạng chủ đề thay lời chúc lành trên các
bức trướng thêu: Trúc báo bình an, phước
duyên thiện khánh, long phụng trình
tường, bách niên hoà hợp, liên sinh quý
KẾ.
Quà tặng cũng như vật kỉ niệm trong
hầu hết những sinh hoạt hiếu hỉ, ai điếu
của người Huế phần lớn là những bức
trướng thêu. Nội dung cũng như hình
thức bức thêu biếu tặng biểu hiện sự
đồng cảm chia xẻ, có khi là sự mỉa mai
nhẹ nhàng, lăng nhục kín đáo. Có những
câu hoa văn trong nội dung trướng liễn
thêu thích hợp với từng đối tượng có gốc
gác về tôn giáo (Nho, Phật, Lão, Kitô),
thân phận (guân đội, công chức, thầy
giáo, cha mẹ nuôi, cấp trên, người goá
bụa, thông gia, bằng hữu, thợ thuyền... ).
hoàn cảnh (điểu tang, mừng thọ, cưới 0ợ,
gủ chồng, tân gia, thăng chức 0.u... ).
Người tiêu dùng sản phẩm thêu trong
một số trường hợp vẫn có thể đưa mẫu
thêu mới, chọn để tài theo sở thích (nhiều
hhi không phải hình hoạ mà là thư
pháp), đề nghị kích cỡ phù hợp. Lúc này,
người thợ thêu phải sáng tác mâu hoặc
thể hiện đề tài theo yêu cầu của khách.
Nắm tỉnh thần đề tài, kết thúc phần
thể hiện bản vẽ mẫu, người thêu tiến
hành việc nhuộm chỉ theo yêu cầu để tài.
Nhuộm chỉ trước tiên pnải khử mỡ trên
tơ nõn bằng vôi và nước sôi để chỉ ăn màu
nhuộm, người thợ phải tự tay ngâm tơ,
vuốt chỉ trong nước vôi và nước nóng
nhiều lần sau đó mới đem hong khô.
Trong thời kì phong kiến triều
Nguyễn, người thợ thêu Huế ngoài việc
mua một số phẩm nhuộm của Trung
Quốc, họ còn tự nhuộm theo công thức
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23
—===ễE=EễETEE=ễ==ễ=E=EEEEE=ễ _—ễ_ >>
tiêng với màu sắc khai thác trong thiên
nhiên như từ củ nâu, cây chàm, vỏ bàng,
nước điệp, lá vông, đá mài, hoa hoè, lá
bàng... Có khi để có một màu mới, người
thợ nhúng chỉ phủ lên hai màu khác
nhau. Chẳng hạn như để có chỉ đen
chàm, người ta nhuộm màu lục rồi sau đó
phủ thêm màu đỏ, màu lục lá cây có từ
việc phủ chỉ màu xanh dương rồi đến
nước nhuộm vàng, màu lục và nước đen
chàm loãng, màu đỏ tươi nhuộm từ việc
dùng chỉ cánh sen nhúng trong nước
nhuộm vàng rồi lại nhúng thêm lần nữa
vào nước nhuộm điều...
Khi chỉ thêu đã ổn định, người thợ lại
nhúng nó vào nước chanh chua hoặc nước
chè xanh để giữ bền màu. Cứ mỗi màu
nhuộm, người ta lại pha nhiều sắc độ đậm
nhạt khác nhau. Con chỉ đầu được nhúng
vào nước nhuộm đâm nhất, sau đó người ta
pha thêm nước ấm vào chất nhuộm cho
loãng bớt, tiếp tục nhúng con chỉ thứ hai và
cứ như vậy họ sẽ có những con chỉ cùng
màu và nhạt dần sắc độ. Trung bình mỗi
màu chỉ có năm sắc đậm nhạt, tuy nhiên,
đây không phải là mẫu thức cứng nhắc,
người thợ còn nhúng chỉ nhiều lần vào nước
nhuộm pha, để có những sắc độ phong phú
hơn nữa. Có trường hợp, trên một con chỉ,
người ta nhúng vào nước nhuộm theo tính
toán mà người thợ đã hình dung cho từng
mảng thêu muốn thể hiện. Người thợ thêu
Huế tổng kết rằng: “Chỉ càng dồi dào sắc
độ thì đường nét, hình bhối thêu càng sinh
động thần tình".
thủ công này,
những màu thêu xưa vẫn giữ được nét
Bằng cách nhuộm
độc đáo qua thời gian khiến người nước
ngoài cũng phải cảm phục: “Thuở xưa thì
dùng tỉnh những màu cây có, mà bền
không phai, bóng láng cho nên hàng thêu
xưa được quy đẹp “”°.
Ngồi vào khung thêu, tuỳ theo đặc
điểm của đề tài, cũng như cách phân bổ
bố cục của từng chỉ tiết trong bức thêu,
người thợ ngoài việc chọn chỉ còn phải
chọn phương pháp thật phù hợp.
Trong kĩ thuật thêu người thợ ít nhất
phải thông thạo bảy phương pháp căn
bản sau;
1. Thêu nối đầu: Trong kiểu thêu này
có ba dạng khác nhau: nối đầu uốn lượn,
nối đầu đường thẳng và nối đầu cong
vòng. Nguyên tắc căn bản của lối thêu
này là mũi chỉ sau nối vào đầu mũi chỉ
trước, cứ thế tạo thành từng hàng cho
đầy nét vẽ. Mỗi mũi chỉ có độ dài không
quá 5 l¡. Nếu gặp những chi tiết cong hay
uốn lượn, người thợ phải thêu ngắn mũi
chỉ hơn để đường thêu không bị gãy
khúc”. Thêu nối đầu thể hiện thế mạnh
trong khi diễn tả các chi tiết như thảm
có, lá tre, lá trúc, hoặc những khoảng cần
đến sự thể hiện từng mảng màu hay sự
liên tục của đường nét.
2. Thêu chăng chặn: Là kĩ thuật
giăng một sợi chỉ dài theo chi tiết quy
định của bản vẽ, sau đó cố định vị trí của
sợi chỉ bằng cách lên và xuống kim (với
loại chỉ nhỏ hơn cùng màu) cùng một
điểm ôm chắn sợi chỉ giăng, mỗi mũi chỉ
chặn cách nhau từ 3 đến 5 mm, phải chắc
sát để chỉ giăng khỏi xê dịch nhưng cũng
không quá chặt gây sự gãy khúc. Ngoài
lối thêu chăng chặn thẳng như đã nêu,
còn có chăng chặn chéo chữ thập trong
khi thêu những chi tiết mái ngói, nhuy
hoa... chăng chặn cong trong khi thêu
mây trời, sóng nước. Điều cốt yếu trong
lối thêu chăng chặn là người thợ phải
biết đặt mũi chỉ chăng rồi sau đó mới
chặn theo vị trí nét vẽ.
3. Thêu lướt uặn: Bắt đầu bằng một
mũi thêu dài chừng 5mm, mũi thứ hai
24
LÊ VĂN KINH
=5... “"¬näằặằẳằẳằ>TẫẳẩẳẩễẩTẩ>=>œ>œœs=nnnuasansasasanauauau,u.uếễnunuắua.u.,.,.,.,.,.arnanananananaannnann
cắm sát vào nửa mũi thứ nhất, mũi thứ
ba cắm chớm vào đuôi mũi thứ nhất. Đây
là kiểu thêu tương đối đơn giản, sử dụng
trong lúc thêu nhánh cây, sống và cuống
lá, nét chữ, các đường viền, hoạ tiết mây
trời.. Thêu lướt vặn cũng có nhiều lối
khác nhau, lướt vặn đường thẳng. lướt
vặn vòng lượn, lướt vặn cong tròn. Trong
hai trường hợp sau người thợ phải thêu
mũi chỉ ngắn hơn, để bảo đảm sự liên tục
của đường nét một cách tự nhiên.
Nguyên tắc thêu lướt vặn tuy đơn
giản nhưng lại đòi hỏi sự khéo tay, bởi
với cách thêu này điều chính yếu là diễn
tả sự mềm mại, sống động của những họa
tiết cần thể hiện. Chẳng hạn như thêu
cây, gốc phải liền thớ với thân. thân phải
trổ cành một cách tự nhiên. Lướt vặn giỏi
cho thân cây cành lá nằm trong bố cục
của không gian ba chiều. Đó là sức sống
của một bức tranh thêu, gọi là canh chỉ.
4. Thêu bó bạt: Kĩ thuật thêu gần
giống với thêu lướt vặn, tuy nhiên, nét
thêu to, rộng hơn. Điều bắt buộc khi thêu
bó bạt là giữ thật chặt bằng chân chỉ,
không được để lệch theo kiểu răng cưa,
mũi chỉ đều, mặt chỉ thật láng. Có những
kiểu thêu bó bạt khác nhau như bó bạt
cành mềm, bó bạt thắng ngang, bó bạt
cành cứng, bó bạt hoa cúc. Sở trường kĩ
thuật thêu này là tạo nên những đường
viền lớn, những nét nhấn mạnh trong bố
cục, các dạng đường tròn, những loại hoa
có cánh đài, các cành lá phần đầu ngọn...
5. Thêu đâm xô (thêu trùm): Qua
cách phối hợp màu sắc trong bức thêu, kĩ
thuật thêu đâm xô đóng một vai trò quan
trọng. Cách thêu này có khả năng tạo
nền hay giải quyết các mảng màu lén mà
với cách thêu bó bạt hay gối đầu đều
không có thế mạnh thể hiện. Những sắc
độ đậm nhạt, tạo khoảng sáng tối cho bức
thêu có chiều sâu, đều từ cách thể hiện
điêu luyện lối thêu đâm xô.
Thợ thêu Huế nhận xét: Các canh chỉ
(đường đi của sợi chỉ thêu) của thể loại
đâm xô giống như nét bút trong hội hoạ,
tô bóng đậm nhạt, cho nổi hình khối và
cách cấu trúc của hoạ tiết trên mâu hàng.
Bằng kĩ thuật dùng canh chỉ phủ kín lớp
màu nền, sau đó tiếp tục tạo những
đường chỉ so le chen vào khe giữa những
sợi chỉ nằm trong lớp thêu trước, tuỳ theo
để tài, các chi tiết thể hiện mà mũi chỉ
của lớp chen thứ hai dài ngắn khác nhau.
Chính nhờ lóp chen so le này trên nền
thêu thứ nhất, có cùng màu nhưng khác
sắc độ với nền đã tạo cho người xem ấn
tượng sáng tối, đậm nhạt, nông sâu... của
từng phần hoặc toàn bố cục tranh thêu.
Nhìn chung. trong cách thêu này,
người thợ có thể chủ động tạo được hình
khối trong đề tài, những mảng chuyển tự
nhiên của màu sắc từ đậm đến nhạt dần
hay ngược lại trong những mảng cần
thiết. Sự đa dạng trong đề tài, mà mỗi
đối tượng cần diễn tả đều đòi hỏi một
cách thể hiện riêng. Cho nên trong kì
thuật thêu đâm xõ, tuy tài hoa, suy tính
tỉnh tế và sự khéo tay, họ phải chọn
những lối thêu phù hợp, cũng như đòi hỏi
sự sáng tạo cụ thể, trước những tổng kết
của người đi trước, để cải tạo nên cái
riêng trong quá trình thực hiện và hoàn
tất sản phẩm của mình.
Có ít nhất là 12 lối thêu đâm xô căn
bản để sử dụng mà người thợ thêu phải
nắm. Thêu xô ngang, xô dọc, xô vát, xô
toả, xô lượn, xô xoay, xô cong gãy, xô gấp
khúc, xô toa lượn, xô lượn xoay, xô lượn
toa và xô tỉa lượn. Nếu chỉ tiết hơn người
thợ thêu còn có những phương pháp riêng
cho từng hoạ tiết cụ thể như: đâm xô lá
có, đâm xô lá hồng, đâm xô lá cúc, đâm xô
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25
—=------———— —————— _—_ ...........
phù dung, đâm xô lá tùng, đâm xô trớn
mũi, đâm xô ẩn mũi... Trong những lối
thêu trên, việc pha màu, chen màu,
chồng màu, cách màu, cũng như thực
hiện đường nét, canh chỉ, chân chỉ... trên
những nguyên tắc căn bản, người thợ có
thể chủ động ứng dụng và góp phần sáng
tạo, hoặc thực hiện đúng theo yêu cầu
người đặt hàng trong bản mâu quy định.
Sự kết hợp trên một mảng màu thêu
nhiều lối đâm xô khác nhau, sẽ tạo cho
bức thêu những giá trị nghệ thuật, phản
anh tài năng, tính cách và trình độ của
người thợ thêu.
6. Thêu đột: Đây là kĩ thuật sử dụng
màu thêu phối hợp trên cùng một múi
chỉ. Người thợ dùng 2, 3 màu chỉ khác
nhau, xe thành một sợi. Đặc điểm của
phương pháp này là tạo sự điểm xuyết
cần thiết cho một số mảng đã thêu rồi.
Cho nên múi chỉ thường ngắn, cách
khoảng, chỉ được giấu phần lớn trong nền
thêu. Với cách thêu đột, người sử dụng
điểm nhụy cho các đoá hoa lớn hoặc
những chi tiết ẩn hiện từ xa của một dải
đất, rặng đất hay khóm lau... trong bố
cục thêu. Lối thêu này cũng có nhiều
dạng như đột ngang, đột dọc, đột toả, đột
cong lượn, đột cong khum. Ứng dụng
bằng sự phối hợp các dạng thêu trên
người thợ có thể diễn tả được hình ảnh
của những đám mây thấp thoáng cuối
chân trời, những đám cỏ dại ẩn mình bên
góc đổi ven suối. Trên thực tế, lối thêu
đột còn thể hiện trong nhiều chỉ tiết tỉ mỉ
hơn như cỏ lá dài, cổ ngắn lá đứng mình,
có lún phún, cổ trong rêu... ứng dụng lúc
thêu đất trong đó cũng có cách thêu đất
dăm, đất bãi, đất cục.
Thế mạnh của lối thêu đột còn thể
hiện trong khi tu chỉnh lần cuối sản
phẩm đã thêu. Thợ thêu Huế gọi đây là
kĩ thuật bắc cầu, mục đích là làm dịu lại
một cách tự nhiên các mảng màu tiếp cận
thiếu sự hài hoà, phủ kín những khiếm
khuyết trong quá trình thêu, dằn lại
những múi chỉ bị lỏng làm lộ nền vải...
cũng trong lối thêu này, còn có kĩ thuật
thêu vờn hay thêu tách, khi muốn nhấn
mạnh một số chi tiết đã thể hiện hoặc
tăng độ sáng tối, gần xa của hình khối
muốn diễn tả.
7. Thêu sa hạt: Bằng kĩ thuật quấn
nhiều vòng chỉ vào đầu kim và bằng
những múi kế cố định các vòng chỉ, tạo
cho chỉ thành những hạt tròn, gắn chặt
vào nền vải. Cái khó của lối thêu này là
làm sao cho nút chỉ thật tròn và đều
nhau, để trang trí hoàn hảo những nhuy
hoa nhỏ như mai, đào, cúc, huệ... nổi lên
trên nền những cánh hoa. Ngoài ra thêu
sa hạt thường được sử dụng rất nhiều lúc
thêu vào áo Kimono của Nhật như trên
thân chim, đôi cánh bướm v.v...
8. Thêu hoán udy: Khoán vảy gồm có
hai cách là: khoán vảy chìm và khoán vảy
nổi. Công dụng chủ yếu của lối thêu này
là để thể hiện lông của các loại cầm thú.
Đầu tiên, bằng kĩ thuật thêu đâm xô dài
mũi, người thợ pha chỉ đậm nhạt, tối
sáng phủ hết mình thú, sau đó mới thêu
khoán vảy. Để diễn tả những khoảng mờ
nhạt của những đoạn lông tơ trắng, hoặc
các mảng sáng trên mình chim, bồ câu,
công, cò, trĩ... bằng dạng khoán vảy chìm.
Bằng nhiều mũi đột chặn kế cận sẽ tạo
nên một canh chỉ có hình bán nguyệt,
những vòng cung ấy tiếp tục chồng lên
nhau theo dạng vảy cá. Độ lớn nhỏ của
những vòng khoán vảy tuỳ thuộc vào kích
thước thân hình của từng loại thú. Khoán
vảy nổi thể hiện trên mình thú, rồng,
CÁ V.V..
việc sử dụng đường kim mũi
chỉ như đã trình bày trong ngành thêu
Ngoà:
26
LÊ VĂN KINH
————>ằ
còn có sự đóng góp của một số kĩ xảo,
hoặc để nhấn mạnh, hoặc để tôn tạo, hay
trang trí cho bức thêu trở nên lộng lẫy,
kiêu kì.
Trong những bức thêu cổ truyền ở
Huế, chúng ta thấy người thợ còn áp
dụng một số kĩ thuật như:
- hàm độn (đồi nổi): Trong trường
hợp bức thêu muốn nhấn mạnh những
phần của bố cục chính nổi hẳn trên nền,
trở thành một dạng phù điêu vải như
trong khi thêu khuôn mặt, tay chân nhân
vật hay các dạng mình rồng, mây, ngọn
lửa... phần lớn người ta dùng giấy đó cắt
thành từng dải, rộng từ 1 đến 2em. Bằng
đôi tay, thợ thêu vê lại thật chặt, chia lại
thành ba loại con độn nhất, nhì, ba tuỷỳ
theo giấy độn dày hay móng. Những
phần độn nổi để thêu, người thợ dùng chỉ
mảnh đính chặt dần con độn vào mẫu
nền, theo thứ tự con độn dày đính trước
và sau đó chồng con thứ hai, thứ ba cũng
theo nguyên tắc dùng chỉ khâu chặt. Đầu
độn phải hót chéo để phần nổi sau này
được tròn gọn'!?),
- Thêu bim tuyến: Đây là kĩ thuật
đính sợi kim tuyến hay ngân tuyến vào
nền hàng bằng những loại tơ mỏng. Sợi
kim tuyến được xếp khít và dính sát vào
nhau cho đến lúc phủ kín phần mẫu nền.
Lối thêu này sử dụng chủ yếu khi thể
hiện các dạng chữ lớn trên các loại
trướng liễn, hoặc các chi tiết hình rồng,
mặt trăng, ngọn lửa trên những bức nghỉ
môn, quần bàn. Dùng kim tuyến trong
bức thêu tạo nên sự lộng lẫy, óng ánh,
tăng thêm giá trị cho bức thêu.
- Kim bình uà chân chỉ hạt bột: Ö các
dạng đồ thêu dùng trong nghi lễ như tán,
lọng, nghi môn, những bức trướng liễn
biếu nhau trong các dịp lễ long trọng,
hàng thêu còn được điểm trang bằng
những dạng kim kỉnh và chân chỉ hạt bột
ngũ sắc để tăng thêm chất uy nghĩ, trang
trọng nơi thờ tự hoặc trang trí.
Kim kỉnh là những mảnh gương hay
kim loại có màu sáng, hình tròn hoặc đa
giác, người ta dùng chỉ kèm nó vào nền
thêu theo dạng những đường viền. Hiện
nay, người ta dùng các mảnh nhựa nhỏ
hình tròn hay đa giác nhiều màu thay cho
kim kỉnh. Sau khi kết kim kỉnh xong,
thường là phải bọc lót phía sau tấm tranh
bằng một lớp vải để che kín các mũi chỉ và
bảo vệ tấm tranh. Những đường nẹp của
vải lót sau được lật ngược kẹp lên phía
ngoài chung quanh tấm tranh thêu, do đó
chúng thường được đính thêm các đường
lan can đệt bằng chỉ hoặc bằng kim tuyến
đè lên che kín đương may và làm tăng
thêm vẻ sang trọng của tấm tranh thêu.
Ngoài nét rực rỡ của kim tuyến, ngân
tuyến, các mảnh gương tạo nên sự lấp
lánh do phân quang. Bên cạnh đó, người
ta còn dùng các tua viền được kết lại như
mạng lưới với những dải tơ ngũ sắc kết
thành từng lọn, buông thõng dưới tán,
lọng, nghi môn. Tất cả phối hợp với nền
thêu như một cái khung tôn tạo và làm
tăng thêm vẻ đẹp cho hàng thêu.
Nghề thêu ở Huế hoạt động từ thời
phong kiến triều Nguyễn cho đến nay
không hội tụ thành làng nghề, một số thợ
thêu giỏi được triều đình trưng tập từ
khắp nơi đến Huế, phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu lễ nghỉ, sinh hoạt của giới quý
tộc, quan lại.. Một số nghệ nhân nổi
tiếng ở hắn trong nội cung, cống hiến tài
năng qua đường kim mũi chỉ suốt cä đời
mình, một số khác sống độc lập với đám
học trò, nhận lãnh hàng thêu theo yêu
cầu của vua quan hoặc phục vụ tầng lớp
thượng lưu còn phần lón hàng thêu cho
đại chúng đơn giản và sản xuất hàng loạt
thì do những người thợ thêu bình thường
đảm trách.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27
——-————ễễ=ễễ== = DD___— _-
Trong nội thất của phần lớn những
ngôi nhà Huế, chúng ta có thể hình dung
những bức nghỉ môn thêu như cánh cửa
của gian thờ tự, quần bàn thêu là loại ”y
phục” không thể thiếu của chiếc bàn thờ
gia tiên. Trong cuộc sống người Huế, từ
giới quý tộc cho đến bình dân, hàng thêu
gắn bó với sinh hoạt mọi người, thể hiện
phong cách, tính chất Huế ngày xưa.
Chính vì vậy mà nhu cầu hàng thêu rất
lớn, đội ngũ thợ thêu phát triển nhanh.
Tuy nhiên, do tính chất độc lập nghề
nghiệp và sự tự đảm đương của từng
người khi ra nghề, khiến chất liên kết
cũng như sự tập trung với tính cách bảo
vệ và tương trợ không nhất thiết phải
chặt chẽ. Ở Huế, chúng tôi không thấy
hình thành một làng thêu truyền thống
nào. Nói như vậy không có nghĩa là Huế
thiếu những dòng họ nổi tiếng, truyền
đời về nghề thêu. Các nghệ nhân như ông
Lê Văn Höði'”, Nguyễn Quang Hùng là
những bàn tay vàng trong đường kim mũi
chỉ thời phong kiến. Ông Lê Di, Lê Văn
Kinh, Lê Thị Bích Đàn”” là những thợ
thêu hiện đại mà khi nói tới nghề này thì
ai cũng biết danh tiếng của họ. Từ tiếng
vang ấy, nhiều gia đình gửi con đến học,
không đơn thuần với lí do kiếm kế sinh
nhai, mà học thêu có khi chỉ để hoàn
thiện tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh)
theo quan niệm của người xưa:
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Gái thì bim chỉ thêu thùa uá may.
Điều đáng lưu ý là, trong số lượng
những người học thêu vào thời phong
kiến Nguyễn thì nam giới tham gia
không phải là ít. Thiếu niên nam nữ từ
khắp nơi đến các thầy giỏi xin học nghề
ngày càng nhiều, đến nỗi nơi nhận dạy
nghề phải đặt ra những điều kiện khắt
khe. Chẳng hạn như trước khi thực sự
cầm kim thêu, người học nghề phải phục
vụ gia đình thầy hoặc để những người thợ
đã ra nghề sai vặt. Ngoài ra, người học
nghề phải nạp gạo, đóng học phí và các
chi phí khác khi ở nhà thầy. Những dịp
tết Đoan Ngọ, Nguyên Đán, gia đình của
người học nghề phải có lễ vật cho thầy.
Thời gian học nghề kéo dài từ 5 đến 10
năm tuỳ theo năng khiếu của từng người.
Từ thời gian học, người học nghề phải
theo đõi, quan sát đến làm theo rồi làm
thử. Người học nghề bắt đầu từ đơn giản
đến phức tạp dần dưới sự hướng dẫn của
thầy, cho đến khi có thể đảm đương một
cách độc lập. Khi nào ngươi học tự sang '
mâu lên nền vải, phân màu, nhuộm chỉ,
ứng dụng một cách thích hợp những kĩ
thuật thêu đã học trong từng mảng bố
cục, biết cách sửa sang, điều chỉnh, trang
trí, tôn tạo sản phẩm, thầy dạy sẽ báo
cho gia đình người học nghề chuẩn bị
buổi lễ ra nghề. Đây là mốc quan trọng
trong đời người học thêu, kết thúc thân
phận kẻ sai vặt trong mối quan hệ với gia
đình thầy, bản thân và đồng nghiệp.
Trong buổi lễ ra nghề, gia đình người
thợ phải lo lễ vật cúng tổ, tạ ơn thầy, tiệc
mừng với đồng nghiệp. Vào dịp này, thầy
sẽ ra một đề tài và người thợ phải đảm
đương mọi khâu kĩ thuật cho đến lúc bức
thêu hoàn chỉnh. Tác phẩm thêu xong,
thầy sẽ có nhận xét riêng và đồng nghiệp
có thể được phép thầy góp ý kiến một
cách dân chủ. Bức thêu “còn mã” hay
“còn dại”, có nghĩa là cái tỉnh thần thêu
đang còn yếu. Cho nên, tác phẩm đầu
tiên nhưng lại là cuối cùng để chấm dứt
thân phận người sai vặt, đứt khoát phải
tránh chất mã, chất dại mà mỗi đường
kim mũi chỉ đều góp phần quyết định bức
tranh và sự khẳng định tài năng, tính
cách của một người đang thực sự đứng
28
LÊ VĂN KINH
=——————————————_——— ——— ˆˆˆ—————— —ˆ ˆ ˆ ——— — — — E———————————————————=—=—————————
vào đội ngũ của những người thợ thêu
chính thống.
Vào những triều đại cuối Nguyễn,
nhất là thời vua Khải Định (1916 - 1925)
đội ngũ thợ thủ công không chỉ riêng
ngành thêu, mà hàng loạt các ngành
nghề khác rất phát triển'”'. Phố Cẩm Tú,
nơi quy tụ những người thợ thêu Huế vào
giai đoạn này có đến trên dưới 300 người.
Các hoạt động có tính chất phong tục và
nghi lễ của nghề đều tập trung ở nhà ông
phố trưởng. Mỗi năm các thành viên
trong phố Cẩm Tú (Huế) tổ chức lễ hội
vào ngày 19 tháng Giêng (âm lịch) để kỉ
niệm ngày sinh nhật ngài Lê Công Hành
(tổ nghề) và ngày 4 tháng 6 (âm lịch) là
(33)
ngày giỗ tổ ““” tại nhà ông trưởng phố.
Trong bài văn cúng tổ sư, người thợ
thêu đã hết lời tôn kính dựa vào sắc
phong vua ban: “Tiên sư tài cao xuếốt loại,
trí mại tiên tri, Nam triều bhúnh nguyệt,
bắc địa thiệu tỉnh, tú bhẩu cẩm tâm, kí
dĩ uăn chương thanh thế, đạt châm tỉ
tuyến, phục truyền tình xảdo dân li
phương, năng thuận u¡ mình, đấu sơn tại
uọng, hữu công tắc tụ, tang hải bất uong".
Sắc tặng của vua ban cho tổ sư nghề
thêu: Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Công Bộ
Tả Thị Lang, Thanh Lương Hầu, tặng
Công Bộ Thượng thư, Thái Bảo Lương
Quận công, Thượng Trụ Quốc, thượng
trật, Bùi Tướng công tứ tánh: Lê Bao
phong: Thông tục, Trung Chánh - Tình
Tuý - Huy Công Đại Vương. Gia phong:
Tuấn Mại Cương Trung, Trung Đẳng
thần. Tái gia phong: Nhựt Bảo Trung
Hưng - Chi Thần.
Đặc tấn: Phục Quốc Thượng Tướng
quân, Lễ Phiên Thị, Cạn Thị Nội giám tỉ
lễ. Tổng Thái giám, Đô Đốc phú, Tả Đô
đốc, Thái tế Đoàn Trung Hầu. Trí sĩ:
Khởi phục Đại Tư Đồ Đoàn Quận công
Thượng Trụ Quốc, thượng trật: Thái
tướng công tử Huy đơn chánh. Bao
phong: Ôn Hậu Đại vương.
Tục truyền, trong lần đi sứ sang
Trung Quốc, ngài Lê Công Hành còn xẻ
thịt, giấu hạt bắp nếp (ngô nếp) và đậu
xanh mang giống về nước cho dân. Hai
loại nông sản này từ đấy mới được người
nông dân Việt Nam nhân giống sản xuất
cho đến ngày nay. Nhớ công ơn ấy, trong
lễ cúng tổ, người thợ thêu Huế không bao
giờ dùng bắp nếp và đậu xanh trong khi
nấu nướng hoặc chế biến các loại bánh
trái để cúng tế.
Trong hàng thêu Huế ngày nay,
những chất liệu như kim, chỉ và nền thêu
nhập khẩu từ các nước phương Tây,
Trung Quốc, Nhật Bản... đã tạo cho
những bức thêu một sắc thái mới, thuận
tiện cho người thêu, cũng như đề tài và
bố cục ngày càng phong phú. bức khỏi
những quy định có tính nguyên tắc của
những thợ thêu xưa. Người thợ hôm nay
có giấy carbone để đồ mẫu đề tài lên nền
vải, có đủ các loại kim để thể hiện sỏ
trường của từng kiểu thêu, chỉ màu đã
được nhuộm sẵn đủ các sắc độ... Tất
nhiên, không phải vì những điều kiện
thuận lợi của vật liệu công nghiệp mà
làm hạn chế sự thể hiện tài nghệ, kĩ xảo
hoặc mất phần chủ động của người thợ
thêu trong quá trình thực hiện sản
phẩm. Nhưng rõ ràng, người thợ thêu
hôm nay không còn biết nhuộm chỉ theo
phương thức cổ truyền bằng những màu
tự nhiên. Các sắc độ đậm nhạt trong quá
trình nhuộm của người thợ xưa, đã góp
cái riêng của mình một cách trọn vẹn
trong bức thêu. Ngoài sự điêu luyện của
đôi tay trong việc sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ các lối thêu cổ truyền, màu chỉ tơ
nhuộm đã có thể tạo mảng, độ tối sáng,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐiẾi
====---——————EE
đậm nhạt một cách hoàn toàn hài hoà mà
người xem không thể tìm được ranh giới
của màu chỉ thêu nếu như người thợ
muốn thay thế. Bởi chỉ thêu hiện đại mà
người thợ thêu Huế sử dụng hôm nay,
mỗi màu chỉ có 5 sắc độ từ đậm đến nhạt,
trong lúc người thợ tự nhuộm bằng chỉ tơ
tằm cho bức tranh thêu của mình hoàn
toàn chủ động trong việc chọn số lượng
các sắc độ mình sẽ dùng qua cách làm
nhạt dần nước nhuộm cho từng đoạn tơ.
Mảng thêu từ đấy tiến gần đến sự thể
hiện của màu sắc hội hoạ hài hoà linh
động giữa màu và nét.
Cái chất đằm thắm, nhu hoà và độc
đáo của những dạng màu khai thác trong
thiên nhiên mà người thợ đã từng sử
dụng trong khi nhuộm chỉ tơ vẫn là một
tính cách truyền thống mà những bức
thêu hiện đại khó lòng thể hiện.
L.V.K
(1) Gabriell Dain: Nghề thêu An Nam
(cách dạy trên thiệp - có kiểu vở và hình
anh vẽ phóng lược). Sách có cỡ 20 x 30, tập
thứ nhất in bằng tiếng Việt từ trang 50 đến
90. Tài liệu in đương thời dành cho các nữ
sinh Việt Nam (không ghi rõ nơi và năm
xuất bản, hiện đang lưu giữ tại Thư viện
Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí
Minh).
(2) Hocquard: UỦne campagne au
Tonkin, Librairie Hachette, Paris, 1892.
(3) Theo truyền thuyết thì nghề dệt lụa
và thêu thùa xuất hiện ở Trung Quốc trước
nhất, do bà Tây Lăng Thi (Si-Ling- Chì) vợ
vua Hoàng đế vào khoảng năm 3000 trước
Công nguyên. Bà đã dạy dân nuôi tằm, dệt
lụa và thêu thùa nên được suy tôn là Luy tổ
(Le1-tsou).
Thời xưa, ở Trung Hoa, nghề nuôi tằm,
đệt lụa được coi là một trong những hoạt
động tôn quý và quan trọng nhất. Hàng
năm và đầu mùa xuân, trong khi Hoàng đế
ra đồng cày ba luống đất trong lễ Tịch điền
(thường chọn ngày Hợi, nhắm 12 tháng
Giêng âm lịch) thì Hoàng hậu ở trong cung
cũng làm lễ dâng cúng mấy bó lá dâu để tỏ
lòng tôn kính những nghi thức tằm tang mà
tiền nhân đã truyền lại. Họ giữ kín những
bí quyết về cách nuôi tằm, dệt lụa. Kẻ nào
tiết lộ hoặc bán trứng tằm cho người ngoại
quốc đều bị xử tội hình.
(RE. Teulières: La sérleleulture au Sud
VN Extralt du B.S.E.I No I, 1962).
(Trích từ Nguyễn Văn Luận: "Một
ngành tiểu công nghiệp cổ truyền Việt
Nam: nghề thêu tay". Sài Gòn Việt Nam
khảo cổ tập san, 1970, tr.13).
Ở Việt Nam, dạng truyền thuyết về tổ
nghề dệt lụa phong phú, đa dạng và không
thống nhất. Chẳng hạn sự tích công chúa
Thiều Hoa (tổ nghề dệt lụa ở Cổ Đô, Vân
Sa; sự tích công chúa Ngọc Hoa; sự tích My
Châu; bà chúa Bông ở Yên Định, Thanh
Hoá; sự tích Phạm Thị Ngọc Đô bà chúa dệt
lĩnh ở Tích Sài, Hà Nộc; sự tích bà chúa
Tằm Quỳnh Hoa ở Nghi Tàm, Hà Nội; sự
tích tổ nghề tằm tơ ở Gia Lộc, Hải Dương;
sự tích tổ nghề dệt thao làng Triều Khúc,
Thanh Trì, Hà Nội).
(4) Hia là một loại giày ngày nay, được
làm bằng gỗ vông nhẹ. Tuy nhiên, phần thể
hiện chính vẫn là những mảng thêu trên
lớp vải bọc phía ngoài.
(5) Mão được dệt kết từ lông đuôi ngựa
cho thoáng hơi, bền; thắng mình (Cục mã 0ï
thường phụ trách thực hiện sản phẩm này).
Tuy nhiên, một số thợ thêu giỏi thời
Nguyễn trong phố Cẩm Tú - Huế đã làm
được mù mã vĩ và thêu mão một cách hoàn
hao.
(6) Thần tích tại nhà thờ phố Cẩm Tú ở
Huế ghi họ ngoại của ông là Bùi tại 15 Đào
Duy Từ, Phú Hoà, Huế.
(7) Giai thoại kể vào thời niên thiếu, có
lần đi đắp đê chống lũ, ông không mang nổi
tảng đất to nên chân ngập lún sâu dưới
bùn, quan quản đề đốc Thị lang thấy vậy
gọi người kéo ông lên và hỏi chuyện. Ông
giãi bày vì học trò sức yếu. Viên quan nghe
vậy ra vế đối thử tài:
30
LÊ VĂN KINH
=——— ễŸEễ----------—
"Ông quan Thị, cắm đường cái, tiêu trị
hồng thuỷ cho dân được cậy". Trần Quốc
Khải (tức Lê Công Hành) đối lại ngay:
“Trai Quốc Động, thị đỗ bảng nhãn, phù
quân uương phỉ chí mới cam. ˆ
Đặc điểm của vế đối trên có bốn thứ
quả gồm: thị, tiêu, hồng và cậy. Trong về
đáp cũng có bốn loại quả: quất, nhãn, bồ
quân và cam.
Quan Thị tuy vỗ ngực kể công trị thuỷ
thì cậu học trò địa phương bày tỏ chí khí
hiên ngang. (trích: Sự tích ông Lê Công
Hành, do ông Lê Văn Einh soạn, thở tại
nhà thờ phố Cẩm Tú, Huế).
(3) Vũ Ngọc Khánh Lược truyện thần tổ
các ngành nghề, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1990, tr.63-64.
(9), (10) Từ Minh Thiện viết trong
Thiên Nam hành bí và Trần Phu để cập
trong An Nam tức sự. Trích theo tài liệu sự
tích ông Lê Công Hành, sdd, tr.9.
(11) Các loại như khăn trải bàn ăn
(service de table), trải giường (drap), phủ
giường (couvre de li, rèm (devant
cheminé), khăn phủ bàn (chemin de table),
áo gối, các loại khăn ăn, khăn trang trí, áo
ngủ (robe de chambre) khăn uống nước
(service à thé) v.v...
(12) Ngoài loại khung thêu đã trình bày
trong bài viết còn có các loại:
- Khung thêu bằng ống trụ tròn được
người thợ dùng làm phương tiện căng nền
thêu băng chân.
- Khung thêu được cấu tạo bởi hai vòng
tròn gỗ đồng tâm có đường kính gần bằng
nhau, nền vải được căng từ Rholus tiếp
giáp của hai vòng khung.
- Khung thêu bằng thép với những hình
dạng khác nhau (tròn, vuông, chữ nhật,
thoi...), có tấm lưới căng để đố nền vải.
- Khung thêu gồm các loại móc đan
dùng trong khi thêu găng, tất, túi xách...
(13) Nơi đây, người ta dùng tơ để sản
xuất nhiều loại chỉ khác nhau. Ngoài việc
phục vụ ngành thêu, người thợ còn sản
xuất chỉ đàn (dùng cho các loại đàn cổ
truyền như đàn nguyệt, đàn tì, đàn nhị... ),
chỉ câu, chỉ lưới (cho ngư nghiệp, chỉ chằm
nón... )
(14) Quần bàn: Phần hàng thêu bọc
quanh bàn thờ.
(15) Nghi môn: Phần hàng thêu treo
trên đầu khung phía trên của gian thờ tự.
(16) Gabriell Dain: Nghề thêu An Nam,
sảd, tr.61.
(17) Nếu múi thêu không chồng khít
lên nét vẽ sẽ tạo cho người xem ấn tượng
của sự gãy khúc. Nếu mũi sau không khít
thì hở khe vải. Không lòng tay khi ép múi
chỉ vào nền vải, để tránh chỉ hở nền.
(18) Có khi người ta đồi nổi bằng rơm
hay bông vải cũng theo nguyên tắc như
giấy bản, giấy dó. Điều cốt yếu là làm sao
phần độn được tròn đều và gắn chặt vào
nền vai một cách tự nhiên.
(19) Trong bản tiểu sử mà gia đình
đang phụng thờ có nhắc đến việc vua
Thành Thái (1889 - 1907) triệu ông vào đại
nội truyền thêu trực tiếp chân dung ngài,
không qua bản vẽ. Bức thêu đang đỏ dang
thì xảy ra biến cố, vua bị người Pháp lưu
đày. Ông được triều Khải Định phong hàm
Hàn lâm viện nên mọi ngưởới thường gọi ông
là nghè Tư.
(20) Vào những năm từ 1960 - 1975 ở
Huế đã xuất hiện một thiểu nữ mà đường
kim mũi chỉ của cô đã làm cho những người
trong và ngoài nước thán phục thông qua
18 cuộc triển lãm về tranh thêu ở Huế, Đà
Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ đã có hàng trăm
bài báo trong và ngoài nước hết lời ca ngợi.
Bộ sưu tập của cô hiện nay về mẫu thêu và
những mầu báo chí viết về cô cũng như
những lời nhận xét của các nhà mi thuật,
phê bình, khách thưởng ngoạn trong và
ngoài nước ở số lưu niệm triển lãm có đến
hàng ngàn trang (hiện nay tác gia đang
ø10).
Tuần báo Đời, số 1924, năm 1972 viết:
“Bích Đàn đã dùng chỉ màu quá đúng, nên
tất cả đều lồng trong đó như một ảnh chụp.
Nhờ sự khéo léo của thiếu nữ đất Thần
Kinh, các bức tranh hầu như đạt đến múc
tuyệt đỉnh trong ngành mĩ nghệ hiện đang
mai một này... ˆ
Khởi Hành Magazine N° 194 viết:
"Beleuing in the ouerÌasting beqauty and in
the beautHfUul souls oƑ her homeland. Bich
Dan has depicted uiutdly these striRhing
ƒeaqtures In her series of. embroidered
picture. The cxhibilon of her tuorỀ has
merLt repressenting contemporary themes ïn
a tradtHonadl art form”.
Le Journal dđEỀxtrême Orient NẺ 6695
du 17 Mars 1972: “Sur le pÌan artisanal,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 31
nể
des broderies óxecuteés àÌa main quec đes
matẻrtans sotgneusement choisis d qutant
plus remarquables qu elles nous apportent
la preuue de patience de précision et de
minutie souuent oublieés, héÌlas! Dans le
fracas des bouleuersements sociaux actuels”.
Cô Lê Thị Bích Đàn nguyên là nữ sinh
trường Trung học Đồng Khánh, sinh viên
Trường Quốc, gia Âm nhạc, sinh viên
Trường Cao đẳng Mĩ thuật Huế. Đây là môi
trưởng đã đào tạo và nâng cao nhận thức
nghệ thuật và những tri thức văn hoá cần
thiết cho cô. Biệt tài của cô đã tạo nên
những bức tranh thêu sống động, có chiều
sâu, có cá tính và thần thái đặc biệt. Son
thân cô cũng đều là những thợ thêu nối
tiếng ở Huế, dòng họ cô đã có bốn đời làm
thợ thêu nhưng cái quyết định vẫn là tài
hoa bẩm sinh, sự khổ luyện và lòng thiết
tha yêu nghề.
(21) Bởi nhiều nguyên nhân, nhưng
theo chúng tôi vua Khải Định trên ngai
vàng những năm đầu thế kỉ 20 là nhân vật
chính trong bị kịch đau thương của đất
nước lẫn cuộc đời riêng tư. Vua không có
thực quyền vì đất nước trong tay người
Pháp, cá nhân lại gặp những bất trắc và
bất thường về thế lực ngoài ý muốn. Vì vậy,
vua Khải Định hướng đến nghệ thuật như
là một cứu cánh để quên đi thực tế phũ
phàng. Nghệ thuật thời Khải Định tất
nhiên có nhiều điều phải bàn, nhưng có
điều ai cũng nhận ra là chính sách ưu đãi
cũng như đội ngũ những thợ thủ công
(trong đó có những nghệ nhân đặc biệt nổi
tiếng ở nghề trang trí xây dựng như các ông
Kiểm Khả, Cửu Tánh...) phát triển và đã để
lại nhiều tác phẩm, tạo nên dấu ấn, nét đặc
thù của một giai đoạn trong quá trình phát
triển mĩ thuật Huế. Hiện nay còn lưu giữ
một khăn phủ bàn để đỉnh trầm thêu 7 con
sư tử vờn quanh quả cầu: Thất sư hí cầu, do
chính cụ Lê Văn Hỡi chỉ đạo và cùng với các
nghệ nhân dương thời thực hiện dùng vào
dại lễ Tứ tuần đại khánh vua Khải Định.
Kèm theo còn có một mảnh gấm, thất thể
được thêu thêm kim tuyến dùng để may đại
bào cho vua Khải Định dùng trong đại lễ
đó, nay còn lưu giữ tại nhà số 82, Phan
Đăng Lưu, Huế.
(22) Những ngày kỉ niệm này không
trùng với thời điểm tổ chức của người thợ
thêu ở miền Bắc Việt Nam, cho dù họ đều
thờ chung một tổ nghề.