NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



AẠ1Ê 3Ô 24 Ở THỪA THIÊN - HUÊ
LÊ VĂN KINHŸ)
"mM.:)


NGHỆ NHÂN DÂN GIAN LỄ VĂN KINH
Ñ bức thư gửi một người bạn tên là Germain được dùng làm để tựa của cuốn giáo trình Nghề thêu An Nam, sách viết dành cho nữ sinh của các trường học thời thuộc Pháp vùng Nam Bộ, Việt Nam,
IF
có đoạn Gabrille Dain viết: “.. Nhiều nơi truyền lại cho con cháu nghề lạ lùng là uẽ hình bằng chỉ lụa, làm cho bông sen uà bông tử đang nở trên tấm lụa, làm cho bươm bướm rạng ngời bay liệng trên Uuững nước trong xanh. Từ đời thứ 16, thì chúng nó truyền cho nhau cái cách thúc nghề của Lê Công Hành đã học ở Trung Quốc uề đường kim mối chỉ uà cách cho màu... ""”” Cũng trong cái nhìn ấy, một tác phẩm khác của Hocquard từ cuối thế kỉ 19 nhận định: ".. Người thợ Việt Nam tỏ ra rất bhéo lóo trong uiệc điều động các màu sắc thâm sậm trên hình lụa, để có những bức thêu hoà hợp bhông chút chúa...
ri
. Ông còn nhận ra rằng: phần lớn hàng thêu Việt Nam bấy giờ xuất bhẩu sang Trung Quốc đã chiếm mội
P' Nghệ nhân thêu ở thành phố Huế, sinh
năm 1931.
lộ
Uai trò quan trọng uà là một ngành thương mãi trọng yếu ở đây.
Chúng tôi muốn trích dẫn những nhận xét trên như là một cách giới thiệu nghề thêu Việt Nam, một trong những nghề thủ công truyền thống, đã dược thừa nhận và ca ngợi trên bình điện quốc tế.
Như chúng ta đã biết, nghề dệt ở Việt Nam vốn có từ lâu đời. Các thư tịch cổ nhắc đến người xưa đã từng sản xuất và dùng các loại vải từ tơ chuối, vỏ cây mang chất nguyên sơ cho đến những tấm lụa, gấm lượt là. Văn học dân gian nói về nghề dệt ghi lại được trên khắp đất nước, tuy không thống nhất nhưng lại rất phong phú, giúp chúng ta có thể nhận ra những huyền tích, sự tích của rất nhiều thần nhân có công khai sáng nghề đệt ở Việt Nam mà không liên quan gì với tổ nghề Trung Quốc !”.
Tất nhiên, nghề thêu đã xuất hiện muộn hơn, khi mà sản phẩm dệt được hoàn thiện. Thêu như một bước nâng cao giúp cho sản phẩm dệt có mặt nhiều hơn trong cuộc sống vật chất và tỉnh thần con người. Tuy nhiên, thêu không đơn thuần làm đẹp hàng dệt, mà nó còn liên quan mật thiết đến lễ nghĩ, tăng phần trang trọng trong những không gian và hoàn cảnh cần thiết. Phần lớn các đồ trang trí, trần thiết ở cung điện, đền đài phong kiến như các loại tắn, lọng, nghi, cờ, áo bào, hia'”, mão”, hài... các đồ nghi lễ dùng nơi thờ tự, hoành phi, áo mũ của chủ tế, tư văn... đều có đóng góp quan trọng của nghề thêu. Thợ thêu ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam đều thống nhất một ông tổ nghề là ngài Lê Công Hành, tuy đó là một hiện tượng không phải phổ biến khi tìm hiểu sự tích tổ nghề nghiệp trên bình diện quốc gia (xem chú thích 3).
Ông Lê Công Hành tên thật là Trần Quốc Khải sinh ngày 12 tháng Giêng 20
LÊ VĂN KINH


năm Bính Ngọ (1606) tại thôn Nguyên Bì, xã Quất Động, tổng Bình Lăng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là thôn Quất Động, xã Hồng Thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây), từ trần ngày 4 tháng 6 năm Tân Sửu (1661). Trong thần phả ghi tổ tiên ông vốn họ Mạc, đổi sang họ ngoại là Trần ””. Vì eó công lớn với nước, ông được ban quốc tính họ Lê để trở thành Lê Công Hành.
Dù gia cảnh gặp nhiều uẩn khúc, cha mất sớm, không thân thích, mang họ mẹ, nhưng ông nổi tiếng hiếu học và thông minh"”. Năm Bính Tuất (1640) đời Lê Chân Tông, ông đỗ tiến sĩ và được cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong thời gian nhiều lần đi sứ, ông chứng tỏ tài năng và ý chí, bảo vệ phương danh cho đất nước mình khỏi bị xúc phạm nên đã bị nhốt trên một lầu cao, cầu thang bị rút và không người lui tới. Ngồi trên lầu cao, ông tỉ mỉ lấy tấm nghi môn xuống, tháo từng sợi chỉ ra quan sát, chiêm nghiệm, nhớ kĩ cách thêu thùa như thế nào. Sau đó, ông lại quan sát mấy chiếc lọng thờ, suy ngẫm về kĩ thuật như cán, gọng, vải lợp... chỉ trong thời gian ngắn ông đã học được kĩ thuật thêu và làm lọng xứ người, đối chiếu với cách làm của thợ trong nước, thấy được cái hay cái đổ của mỗi bên”. Mãi không thấy người đem thang xuống, ông đã nghĩ ra cách dùng hai chiếc lọng kẹp bên mình làm phương tiện cần không khí để đưa ông từ lầu cao xuống đất một cách an toàn. Triều đình nhà Minh vì cảm tài phải để cho ông về nước.
Với kinh nghiệm thu được trong thời gian ở Trung Quốc, ông đã truyền lại cho dân làng Quất Động và nhiều làng khác. Dân thợ thêu tôn ông làm tổ sư và dựng Tú Đình Thị ở phố Yên Thái, Hà Nội để ghi nhớ công đức.
Ông cũng truyền nghề làm lọng cho đân, phố Hàng Lọng, Hà Nội ngày trước đã lập đền thờ và xem Lê Công Hành cũng là vị tổ sư của nghề mình.
Không phải đến thế kỉ 17, sau chuyến đi sứ của ông Lê Công Hành, Việt Nam mới có nghề thêu. Sử sách eũ trong nước từng nhắc đến sinh hoạt thời Lý, Trần đã quen dùng đồ thêu và các loại lọng, tàn và tán. Sau chiến thắng quân Nguyên (thế kỉ 13), vì mong muốn giữ hoà khí với phương Bắc, vua Trần đã tặng trong số vật phẩm triều cống “mội tấm thảm đó thêu chủ uàng uà một tấm gấm uiền nhiễu"? Tháng Giêng năm Quý Tị (1293) một sứ giả nhà Nguyên đã nhận xét khi được nhà Trần đón tiếp: "... uề phẩm hàm của các quan Đại Việt cứ nhìn uào lọng để phân biệt. Nếu là bhanh tướng đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn được dùng hai lọng, hạng dưới đL một lan n6,
Ông Lê Công Hành đã trỏ thành ông tổ nghề thêu vào một thời điểm muộn hơn nhiều so với sự xuất hiện sản phẩm thêu ở Việt Nam. Tuy nhiên, chẳng có gì phi lí khi một mặt hàng, một kĩ thuật thủ công thực sự hiện hữu phổ biến trong dân gian, vượt qua thành trì độc tôn, đặc quyền sử dụng của giới quý tộc để tồn tại và trở thành sản phẩm của những làng nghề dân gian. Ông Lê Công Hành đã có công phổ biến nghề thêu, thợ làm lọng suy tôn thành thần tổ nghề của mình trong trưởng hợp đó.
Các dụng cụ và nguyên liệu như: kim, chỉ dùng để thêu thùa vá may là công việc thường tình của mọi phụ nữ Việt Nam. Nhưng dù vậy, nghề thêu vẫn tồn tại độc lập và có tính chất chuyên nghiệp ở Huế từ lâu, nhất là từ khi xây dựng triều đình Nguyễn. Không chỉ thợ thêu từ nôi Quất Động, Bắc Hà mà nhiều nơi khác đến Huế để phục vụ cho nhu cầu của giới quý tộc thượng lưu.
Gắn liền với đặc điểm tinh tế, tỉ mỉ của đội người thợ Huế cùng với những nghệ nhân nổi tiếng khắp nơi tập trung NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Z1
—X X X ————— XX————_—__—
lại, hàng thêu ở Huế, nhất là vào thời Nguyễn đã có những sản phẩm mang tính tỉnh lọc nâng cao để có thể đáp ứng các yêu cầu trên.
Trong quá trình phát triển nghề thêu ở Huế, với sự du nhập của kĩ thuật, hàng thêu đã được chia làm hai hệ: Hàng thêu màu 0uè hàng thêu trắng.
Hàng thêu màu theo kĩ thuật cổ truyền nhằm phục vụ cung đình và dân gian. Hàng thêu trắng hay còn gọi là hàng nhật dụng gồm các loại khăn, màn, tranh, áo `! dựa trên nguyên tắc rút sợi vải, thay vào đó bằng chỉ thêu với nhiều kĩ thuật khác nhau. Nghề thêu trắng du nhập từ Pháp, sản phẩm nhằm phục vụ đời sống ngoại kiều và một số người Việt thượng lưu sống theo kiểu Tây phương trong thời Pháp thuộc.
Thực hiện một tác phẩm thêu không đơn thuần ở đường kim mũi chỉ. Một người được công nhận là thợ thêu thực thụ phải tự đảm trách được ít nhất những công đoạn như: sáng tác mẫu hoặc biết biến một mẫu đề tài ưng ý trên một chất liệu khác vào nền vải. Đây là kĩ thuật cần đến sự quy định nghề nghiệp như bố cục mảng màu, đơn gian những chỉ tiết rườm rà, chồng chéo nhiều lớp trong không gian đề tài, đơn giản nhưng không đơn sơ khiến bức thêu thêm vẻ sống động. Sau khi đã phân mẫu trên giấy, người thợ phải vẽ lại hoặc đồ lại (ngày xưa người ta dùng bút lông uà mực Tàu) bằng viết chì trên nền thêu. Trong trường hợp này, đòi hỏi người thợ phải rất khéo tay trong từng chi tiết vì rất nhiều chỗ phải cắt lọng hoặc giữ đúng vị trí những phần rời, để sau khi thêu người ta không nhìn thấy dấu vết của hình vẽ nét bút hoặc giấy dán trên vải.
Bằng khả năng thể hiện trình độ thẩm mĩ, người thợ phải tự nhuộm chỉ
bằng màu tự chọn với những sắc độ theo yêu cầu của để tài. Phần còn lại là sử dụng các dạng thêu. Khéo léo đôi tay là yếu tố quan trọng đã đành và trong mỗi cách thêu đều có sở trường thể hiện riêng. Không chỉ những đường nét, hình dáng mà thần thái, phong cách từ đấy cũng đóng vai trò quan trọng tạo nên giá trị và sức biểu cảm của tác phẩm.
Dụng cụ của người thợ thêu tuy đơn gian nhưng rất quy cách. Chủ yếu là khung thêu (bàn £hêu), kim và chỉ.
Khung thêu trong ngành thêu của các đân tộc trên thế giới mà trong Grand bLarousse Encyclopédiqgue chia thành năm loại tiêu biểu”. Khung thêu ở Huế là loại dùng thanh gỗ dài hoặc tre ghép thành hình vuông hoặc hình chữ nhật, hai thanh ngắn xuyên qua hai mộng của hai thanh dài, từ đó người ta có thể co giãn chiều ngang dọc bằng các chốt khoá (nêm). Nền vải được căng thẳng trên khung bằng các dây buộc từ biên nền vải đến thành khung. Với kĩ thuật này, người ta có thể căng rất thẳng nền thêu, tránh bị nhăn cũng như sự xê dịch vị trí của đường kim làm lệch lạc mâu vẽ.
Trước thời thuộc Pháp, người thợ thêu Huế dùng kim được rèn từ làng Mậu Tài, thuộc huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, với hai loại: Kim cái dùng cho chỉ lớn và kim con cho loại bình thường. Kim mới rèn thường nhám và lớn so với yêu cầu. Khắc phục nhược điểm này, chỉ có cách người thợ thêu tự mài chuốt cho láng kim. Tuy nhiên, để có được một chiếc kim như ý thời ấy, điều quyết định là kim phải dùng nhiều, dùng lâu, dùng thường xuyên để tránh rỉ sét và kim do cọ sát với vải ngày càng nhỏ lại, trở nên láng bóng. Thợ thêu gọi đó là kim nghề và họ luôn luôn bảo vệ kĩ như một báu 22
LÊ VĂN KINH
——ềềễềễằễễ
vật. Kim nghề ngoài ưu thế là làm cho đường chỉ thêu trở lên sắc sảo, còn là một dụng cụ mà người thợ đã quen tay, tạo nên sự đễ dàng và thuận lợi khi thêu.
Khi người Pháp đến Việt Nam, nghề thêu ở Huế phổ biến với các loại kim do họ mang đến với nhiều kích cõ khác nhau: kim số 5 dùng cho sợi chỉ to, số 12 sử dụng trong khi thêu sợi chỉ chằm và kim thường dùng là kim số 8, kim nghề mới, phần xâu chỉ thường có màu vàng nên thợ thường gọi là kim khu vàng.
Toàn bộ chỉ trong ngành thêu cổ truyền đều bằng tơ tằm. Huế có vùng chợ Cống (nay thuộc phường Xuân Phú), chuyên sản xuất các loại chỉ cho ngành thêu!"”. Chỉ tơ mảnh, sợi mịn, nhiều sơ, có tên gọi là "chỷ /ơi" bằng phương thức thủ công người ta xe lại lớn hay nhỏ tuỳ theo phương thức xe đôi, xe ba, xe tư hay xe sáu. Chỉ thêu được làm từ loại tơ nõn (chỉ lơi) bóng mịn. Độ bóng của chỉ góp phần quan trọng trong việc tạo thành độ đậm nhạt, tối sáng của bức thêu.
Ngoài chỉ tơ, ở những loại hàng cao cấp hoặc những chi tiết cần thiết của mẫu thêu, người ta còn sử dụng chỉ kim tuyến (màu vàng óng) hoặc ngân tuyến (màu bạc). Sợi chỉ kim ngân tuyến cũng có nhiều loại to nhỏ khác nhau, để tuỳ theo hình thể thêu thích hợp.
Phần lón những mẫu thêu ngày xưa thường thể hiện trên một số chủ đề nhất định. Ngoài những quy c6 tính nguyên tắc ở đồ dùng lễ nghi của triều đình phong kiến triều Nguyễn như hoàng bào, bộ lễ phục của các cấp quan lại, hia, mão, tán, lọng... các loại khác như quần bàn“? ` trướng liễn đều phổ biến một số môtip như lưỡng long triều nguyệt, song phụng triều thọ, sư tử hí cầu, bát tiên,... trúc lâm thất hiền, phúc
định
, nghi môn
lộc thọ, tứ quý, cổ đồ bát bửu. Hoặc một số đề tài cổ điển phổ biến như tùng hạc, liên áp, trúc điểu, liễu mã... hay những dạng chủ đề thay lời chúc lành trên các bức trướng thêu: Trúc báo bình an, phước duyên thiện khánh, long phụng trình tường, bách niên hoà hợp, liên sinh quý KẾ.
Quà tặng cũng như vật kỉ niệm trong hầu hết những sinh hoạt hiếu hỉ, ai điếu của người Huế phần lớn là những bức trướng thêu. Nội dung cũng như hình thức bức thêu biếu tặng biểu hiện sự đồng cảm chia xẻ, có khi là sự mỉa mai nhẹ nhàng, lăng nhục kín đáo. Có những câu hoa văn trong nội dung trướng liễn thêu thích hợp với từng đối tượng có gốc gác về tôn giáo (Nho, Phật, Lão, Kitô), thân phận (guân đội, công chức, thầy giáo, cha mẹ nuôi, cấp trên, người goá bụa, thông gia, bằng hữu, thợ thuyền... ). hoàn cảnh (điểu tang, mừng thọ, cưới 0ợ, gủ chồng, tân gia, thăng chức 0.u... ).
Người tiêu dùng sản phẩm thêu trong một số trường hợp vẫn có thể đưa mẫu thêu mới, chọn để tài theo sở thích (nhiều hhi không phải hình hoạ mà là thư pháp), đề nghị kích cỡ phù hợp. Lúc này, người thợ thêu phải sáng tác mâu hoặc thể hiện đề tài theo yêu cầu của khách.
Nắm tỉnh thần đề tài, kết thúc phần thể hiện bản vẽ mẫu, người thêu tiến hành việc nhuộm chỉ theo yêu cầu để tài. Nhuộm chỉ trước tiên pnải khử mỡ trên tơ nõn bằng vôi và nước sôi để chỉ ăn màu nhuộm, người thợ phải tự tay ngâm tơ, vuốt chỉ trong nước vôi và nước nóng nhiều lần sau đó mới đem hong khô.
Trong thời kì phong kiến triều Nguyễn, người thợ thêu Huế ngoài việc mua một số phẩm nhuộm của Trung Quốc, họ còn tự nhuộm theo công thức NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23
—===ễE=EễETEE=ễ==ễ=E=EEEEE=ễ _—ễ_ >>
tiêng với màu sắc khai thác trong thiên nhiên như từ củ nâu, cây chàm, vỏ bàng, nước điệp, lá vông, đá mài, hoa hoè, lá bàng... Có khi để có một màu mới, người thợ nhúng chỉ phủ lên hai màu khác nhau. Chẳng hạn như để có chỉ đen chàm, người ta nhuộm màu lục rồi sau đó phủ thêm màu đỏ, màu lục lá cây có từ việc phủ chỉ màu xanh dương rồi đến nước nhuộm vàng, màu lục và nước đen chàm loãng, màu đỏ tươi nhuộm từ việc dùng chỉ cánh sen nhúng trong nước nhuộm vàng rồi lại nhúng thêm lần nữa vào nước nhuộm điều...
Khi chỉ thêu đã ổn định, người thợ lại nhúng nó vào nước chanh chua hoặc nước chè xanh để giữ bền màu. Cứ mỗi màu nhuộm, người ta lại pha nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau. Con chỉ đầu được nhúng vào nước nhuộm đâm nhất, sau đó người ta pha thêm nước ấm vào chất nhuộm cho loãng bớt, tiếp tục nhúng con chỉ thứ hai và cứ như vậy họ sẽ có những con chỉ cùng màu và nhạt dần sắc độ. Trung bình mỗi màu chỉ có năm sắc đậm nhạt, tuy nhiên, đây không phải là mẫu thức cứng nhắc, người thợ còn nhúng chỉ nhiều lần vào nước nhuộm pha, để có những sắc độ phong phú hơn nữa. Có trường hợp, trên một con chỉ, người ta nhúng vào nước nhuộm theo tính toán mà người thợ đã hình dung cho từng mảng thêu muốn thể hiện. Người thợ thêu Huế tổng kết rằng: “Chỉ càng dồi dào sắc độ thì đường nét, hình bhối thêu càng sinh động thần tình". thủ công này, những màu thêu xưa vẫn giữ được nét
Bằng cách nhuộm
độc đáo qua thời gian khiến người nước ngoài cũng phải cảm phục: “Thuở xưa thì dùng tỉnh những màu cây có, mà bền không phai, bóng láng cho nên hàng thêu
xưa được quy đẹp “”°.
Ngồi vào khung thêu, tuỳ theo đặc điểm của đề tài, cũng như cách phân bổ bố cục của từng chỉ tiết trong bức thêu, người thợ ngoài việc chọn chỉ còn phải chọn phương pháp thật phù hợp.
Trong kĩ thuật thêu người thợ ít nhất phải thông thạo bảy phương pháp căn bản sau;
1. Thêu nối đầu: Trong kiểu thêu này có ba dạng khác nhau: nối đầu uốn lượn, nối đầu đường thẳng và nối đầu cong vòng. Nguyên tắc căn bản của lối thêu này là mũi chỉ sau nối vào đầu mũi chỉ trước, cứ thế tạo thành từng hàng cho đầy nét vẽ. Mỗi mũi chỉ có độ dài không quá 5 l¡. Nếu gặp những chi tiết cong hay uốn lượn, người thợ phải thêu ngắn mũi chỉ hơn để đường thêu không bị gãy khúc”. Thêu nối đầu thể hiện thế mạnh trong khi diễn tả các chi tiết như thảm có, lá tre, lá trúc, hoặc những khoảng cần đến sự thể hiện từng mảng màu hay sự liên tục của đường nét.
2. Thêu chăng chặn: Là kĩ thuật giăng một sợi chỉ dài theo chi tiết quy định của bản vẽ, sau đó cố định vị trí của sợi chỉ bằng cách lên và xuống kim (với loại chỉ nhỏ hơn cùng màu) cùng một điểm ôm chắn sợi chỉ giăng, mỗi mũi chỉ chặn cách nhau từ 3 đến 5 mm, phải chắc sát để chỉ giăng khỏi xê dịch nhưng cũng không quá chặt gây sự gãy khúc. Ngoài lối thêu chăng chặn thẳng như đã nêu, còn có chăng chặn chéo chữ thập trong khi thêu những chi tiết mái ngói, nhuy hoa... chăng chặn cong trong khi thêu mây trời, sóng nước. Điều cốt yếu trong lối thêu chăng chặn là người thợ phải biết đặt mũi chỉ chăng rồi sau đó mới chặn theo vị trí nét vẽ.
3. Thêu lướt uặn: Bắt đầu bằng một mũi thêu dài chừng 5mm, mũi thứ hai 24
LÊ VĂN KINH
=5... “"¬näằặằẳằẳằ>TẫẳẩẳẩễẩTẩ>=>œ>œœs=nnnuasansasasanauauau,u.uếễnunuắua.u.,.,.,.,.,.arnanananananaannnann
cắm sát vào nửa mũi thứ nhất, mũi thứ ba cắm chớm vào đuôi mũi thứ nhất. Đây là kiểu thêu tương đối đơn giản, sử dụng trong lúc thêu nhánh cây, sống và cuống lá, nét chữ, các đường viền, hoạ tiết mây trời.. Thêu lướt vặn cũng có nhiều lối khác nhau, lướt vặn đường thẳng. lướt vặn vòng lượn, lướt vặn cong tròn. Trong hai trường hợp sau người thợ phải thêu mũi chỉ ngắn hơn, để bảo đảm sự liên tục của đường nét một cách tự nhiên.
Nguyên tắc thêu lướt vặn tuy đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự khéo tay, bởi với cách thêu này điều chính yếu là diễn tả sự mềm mại, sống động của những họa tiết cần thể hiện. Chẳng hạn như thêu cây, gốc phải liền thớ với thân. thân phải trổ cành một cách tự nhiên. Lướt vặn giỏi cho thân cây cành lá nằm trong bố cục của không gian ba chiều. Đó là sức sống của một bức tranh thêu, gọi là canh chỉ.
4. Thêu bó bạt: Kĩ thuật thêu gần giống với thêu lướt vặn, tuy nhiên, nét thêu to, rộng hơn. Điều bắt buộc khi thêu bó bạt là giữ thật chặt bằng chân chỉ, không được để lệch theo kiểu răng cưa, mũi chỉ đều, mặt chỉ thật láng. Có những kiểu thêu bó bạt khác nhau như bó bạt cành mềm, bó bạt thắng ngang, bó bạt cành cứng, bó bạt hoa cúc. Sở trường kĩ thuật thêu này là tạo nên những đường viền lớn, những nét nhấn mạnh trong bố cục, các dạng đường tròn, những loại hoa có cánh đài, các cành lá phần đầu ngọn...
5. Thêu đâm xô (thêu trùm): Qua cách phối hợp màu sắc trong bức thêu, kĩ thuật thêu đâm xô đóng một vai trò quan trọng. Cách thêu này có khả năng tạo nền hay giải quyết các mảng màu lén mà với cách thêu bó bạt hay gối đầu đều không có thế mạnh thể hiện. Những sắc độ đậm nhạt, tạo khoảng sáng tối cho bức
thêu có chiều sâu, đều từ cách thể hiện điêu luyện lối thêu đâm xô.
Thợ thêu Huế nhận xét: Các canh chỉ (đường đi của sợi chỉ thêu) của thể loại đâm xô giống như nét bút trong hội hoạ, tô bóng đậm nhạt, cho nổi hình khối và cách cấu trúc của hoạ tiết trên mâu hàng. Bằng kĩ thuật dùng canh chỉ phủ kín lớp màu nền, sau đó tiếp tục tạo những đường chỉ so le chen vào khe giữa những sợi chỉ nằm trong lớp thêu trước, tuỳ theo để tài, các chi tiết thể hiện mà mũi chỉ của lớp chen thứ hai dài ngắn khác nhau. Chính nhờ lóp chen so le này trên nền thêu thứ nhất, có cùng màu nhưng khác sắc độ với nền đã tạo cho người xem ấn tượng sáng tối, đậm nhạt, nông sâu... của từng phần hoặc toàn bố cục tranh thêu.
Nhìn chung. trong cách thêu này, người thợ có thể chủ động tạo được hình khối trong đề tài, những mảng chuyển tự nhiên của màu sắc từ đậm đến nhạt dần hay ngược lại trong những mảng cần thiết. Sự đa dạng trong đề tài, mà mỗi đối tượng cần diễn tả đều đòi hỏi một cách thể hiện riêng. Cho nên trong kì thuật thêu đâm xõ, tuy tài hoa, suy tính tỉnh tế và sự khéo tay, họ phải chọn những lối thêu phù hợp, cũng như đòi hỏi sự sáng tạo cụ thể, trước những tổng kết của người đi trước, để cải tạo nên cái riêng trong quá trình thực hiện và hoàn tất sản phẩm của mình.
Có ít nhất là 12 lối thêu đâm xô căn bản để sử dụng mà người thợ thêu phải nắm. Thêu xô ngang, xô dọc, xô vát, xô toả, xô lượn, xô xoay, xô cong gãy, xô gấp khúc, xô toa lượn, xô lượn xoay, xô lượn toa và xô tỉa lượn. Nếu chỉ tiết hơn người thợ thêu còn có những phương pháp riêng cho từng hoạ tiết cụ thể như: đâm xô lá có, đâm xô lá hồng, đâm xô lá cúc, đâm xô NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25
—=------———— —————— _—_ ...........
phù dung, đâm xô lá tùng, đâm xô trớn mũi, đâm xô ẩn mũi... Trong những lối thêu trên, việc pha màu, chen màu, chồng màu, cách màu, cũng như thực hiện đường nét, canh chỉ, chân chỉ... trên những nguyên tắc căn bản, người thợ có thể chủ động ứng dụng và góp phần sáng tạo, hoặc thực hiện đúng theo yêu cầu người đặt hàng trong bản mâu quy định. Sự kết hợp trên một mảng màu thêu nhiều lối đâm xô khác nhau, sẽ tạo cho bức thêu những giá trị nghệ thuật, phản anh tài năng, tính cách và trình độ của người thợ thêu.
6. Thêu đột: Đây là kĩ thuật sử dụng màu thêu phối hợp trên cùng một múi chỉ. Người thợ dùng 2, 3 màu chỉ khác nhau, xe thành một sợi. Đặc điểm của phương pháp này là tạo sự điểm xuyết cần thiết cho một số mảng đã thêu rồi. Cho nên múi chỉ thường ngắn, cách khoảng, chỉ được giấu phần lớn trong nền thêu. Với cách thêu đột, người sử dụng điểm nhụy cho các đoá hoa lớn hoặc những chi tiết ẩn hiện từ xa của một dải đất, rặng đất hay khóm lau... trong bố cục thêu. Lối thêu này cũng có nhiều dạng như đột ngang, đột dọc, đột toả, đột cong lượn, đột cong khum. Ứng dụng bằng sự phối hợp các dạng thêu trên người thợ có thể diễn tả được hình ảnh của những đám mây thấp thoáng cuối chân trời, những đám cỏ dại ẩn mình bên góc đổi ven suối. Trên thực tế, lối thêu đột còn thể hiện trong nhiều chỉ tiết tỉ mỉ hơn như cỏ lá dài, cổ ngắn lá đứng mình, có lún phún, cổ trong rêu... ứng dụng lúc thêu đất trong đó cũng có cách thêu đất dăm, đất bãi, đất cục.
Thế mạnh của lối thêu đột còn thể hiện trong khi tu chỉnh lần cuối sản phẩm đã thêu. Thợ thêu Huế gọi đây là kĩ thuật bắc cầu, mục đích là làm dịu lại
một cách tự nhiên các mảng màu tiếp cận thiếu sự hài hoà, phủ kín những khiếm khuyết trong quá trình thêu, dằn lại những múi chỉ bị lỏng làm lộ nền vải... cũng trong lối thêu này, còn có kĩ thuật thêu vờn hay thêu tách, khi muốn nhấn mạnh một số chi tiết đã thể hiện hoặc tăng độ sáng tối, gần xa của hình khối muốn diễn tả.
7. Thêu sa hạt: Bằng kĩ thuật quấn nhiều vòng chỉ vào đầu kim và bằng những múi kế cố định các vòng chỉ, tạo cho chỉ thành những hạt tròn, gắn chặt vào nền vải. Cái khó của lối thêu này là làm sao cho nút chỉ thật tròn và đều nhau, để trang trí hoàn hảo những nhuy hoa nhỏ như mai, đào, cúc, huệ... nổi lên trên nền những cánh hoa. Ngoài ra thêu sa hạt thường được sử dụng rất nhiều lúc thêu vào áo Kimono của Nhật như trên thân chim, đôi cánh bướm v.v...
8. Thêu hoán udy: Khoán vảy gồm có hai cách là: khoán vảy chìm và khoán vảy nổi. Công dụng chủ yếu của lối thêu này là để thể hiện lông của các loại cầm thú. Đầu tiên, bằng kĩ thuật thêu đâm xô dài mũi, người thợ pha chỉ đậm nhạt, tối sáng phủ hết mình thú, sau đó mới thêu khoán vảy. Để diễn tả những khoảng mờ nhạt của những đoạn lông tơ trắng, hoặc các mảng sáng trên mình chim, bồ câu, công, cò, trĩ... bằng dạng khoán vảy chìm. Bằng nhiều mũi đột chặn kế cận sẽ tạo nên một canh chỉ có hình bán nguyệt, những vòng cung ấy tiếp tục chồng lên nhau theo dạng vảy cá. Độ lớn nhỏ của những vòng khoán vảy tuỳ thuộc vào kích thước thân hình của từng loại thú. Khoán vảy nổi thể hiện trên mình thú, rồng, CÁ V.V.. việc sử dụng đường kim mũi chỉ như đã trình bày trong ngành thêu
Ngoà: 26
LÊ VĂN KINH
————>ằ
còn có sự đóng góp của một số kĩ xảo, hoặc để nhấn mạnh, hoặc để tôn tạo, hay trang trí cho bức thêu trở nên lộng lẫy, kiêu kì.
Trong những bức thêu cổ truyền ở Huế, chúng ta thấy người thợ còn áp dụng một số kĩ thuật như:
- hàm độn (đồi nổi): Trong trường hợp bức thêu muốn nhấn mạnh những phần của bố cục chính nổi hẳn trên nền, trở thành một dạng phù điêu vải như trong khi thêu khuôn mặt, tay chân nhân vật hay các dạng mình rồng, mây, ngọn lửa... phần lớn người ta dùng giấy đó cắt thành từng dải, rộng từ 1 đến 2em. Bằng đôi tay, thợ thêu vê lại thật chặt, chia lại thành ba loại con độn nhất, nhì, ba tuỷỳ theo giấy độn dày hay móng. Những phần độn nổi để thêu, người thợ dùng chỉ mảnh đính chặt dần con độn vào mẫu nền, theo thứ tự con độn dày đính trước và sau đó chồng con thứ hai, thứ ba cũng theo nguyên tắc dùng chỉ khâu chặt. Đầu độn phải hót chéo để phần nổi sau này
được tròn gọn'!?),
- Thêu bim tuyến: Đây là kĩ thuật đính sợi kim tuyến hay ngân tuyến vào nền hàng bằng những loại tơ mỏng. Sợi kim tuyến được xếp khít và dính sát vào nhau cho đến lúc phủ kín phần mẫu nền. Lối thêu này sử dụng chủ yếu khi thể hiện các dạng chữ lớn trên các loại trướng liễn, hoặc các chi tiết hình rồng, mặt trăng, ngọn lửa trên những bức nghỉ môn, quần bàn. Dùng kim tuyến trong bức thêu tạo nên sự lộng lẫy, óng ánh, tăng thêm giá trị cho bức thêu.
- Kim bình uà chân chỉ hạt bột: Ö các dạng đồ thêu dùng trong nghi lễ như tán, lọng, nghi môn, những bức trướng liễn biếu nhau trong các dịp lễ long trọng, hàng thêu còn được điểm trang bằng
những dạng kim kỉnh và chân chỉ hạt bột ngũ sắc để tăng thêm chất uy nghĩ, trang trọng nơi thờ tự hoặc trang trí.
Kim kỉnh là những mảnh gương hay kim loại có màu sáng, hình tròn hoặc đa giác, người ta dùng chỉ kèm nó vào nền thêu theo dạng những đường viền. Hiện nay, người ta dùng các mảnh nhựa nhỏ hình tròn hay đa giác nhiều màu thay cho kim kỉnh. Sau khi kết kim kỉnh xong, thường là phải bọc lót phía sau tấm tranh bằng một lớp vải để che kín các mũi chỉ và bảo vệ tấm tranh. Những đường nẹp của vải lót sau được lật ngược kẹp lên phía ngoài chung quanh tấm tranh thêu, do đó chúng thường được đính thêm các đường lan can đệt bằng chỉ hoặc bằng kim tuyến đè lên che kín đương may và làm tăng thêm vẻ sang trọng của tấm tranh thêu. Ngoài nét rực rỡ của kim tuyến, ngân tuyến, các mảnh gương tạo nên sự lấp lánh do phân quang. Bên cạnh đó, người ta còn dùng các tua viền được kết lại như mạng lưới với những dải tơ ngũ sắc kết thành từng lọn, buông thõng dưới tán, lọng, nghi môn. Tất cả phối hợp với nền thêu như một cái khung tôn tạo và làm tăng thêm vẻ đẹp cho hàng thêu.
Nghề thêu ở Huế hoạt động từ thời phong kiến triều Nguyễn cho đến nay không hội tụ thành làng nghề, một số thợ thêu giỏi được triều đình trưng tập từ khắp nơi đến Huế, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu lễ nghỉ, sinh hoạt của giới quý tộc, quan lại.. Một số nghệ nhân nổi tiếng ở hắn trong nội cung, cống hiến tài năng qua đường kim mũi chỉ suốt cä đời mình, một số khác sống độc lập với đám học trò, nhận lãnh hàng thêu theo yêu cầu của vua quan hoặc phục vụ tầng lớp thượng lưu còn phần lón hàng thêu cho đại chúng đơn giản và sản xuất hàng loạt thì do những người thợ thêu bình thường đảm trách. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27
——-————ễễ=ễễ== = DD___— _-
Trong nội thất của phần lớn những ngôi nhà Huế, chúng ta có thể hình dung những bức nghỉ môn thêu như cánh cửa của gian thờ tự, quần bàn thêu là loại ”y phục” không thể thiếu của chiếc bàn thờ gia tiên. Trong cuộc sống người Huế, từ giới quý tộc cho đến bình dân, hàng thêu gắn bó với sinh hoạt mọi người, thể hiện phong cách, tính chất Huế ngày xưa. Chính vì vậy mà nhu cầu hàng thêu rất lớn, đội ngũ thợ thêu phát triển nhanh.
Tuy nhiên, do tính chất độc lập nghề nghiệp và sự tự đảm đương của từng người khi ra nghề, khiến chất liên kết cũng như sự tập trung với tính cách bảo vệ và tương trợ không nhất thiết phải chặt chẽ. Ở Huế, chúng tôi không thấy hình thành một làng thêu truyền thống nào. Nói như vậy không có nghĩa là Huế thiếu những dòng họ nổi tiếng, truyền đời về nghề thêu. Các nghệ nhân như ông Lê Văn Höði'”, Nguyễn Quang Hùng là những bàn tay vàng trong đường kim mũi chỉ thời phong kiến. Ông Lê Di, Lê Văn Kinh, Lê Thị Bích Đàn”” là những thợ thêu hiện đại mà khi nói tới nghề này thì ai cũng biết danh tiếng của họ. Từ tiếng vang ấy, nhiều gia đình gửi con đến học, không đơn thuần với lí do kiếm kế sinh nhai, mà học thêu có khi chỉ để hoàn thiện tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh) theo quan niệm của người xưa:
Trai thì đọc sách ngâm thơ Gái thì bim chỉ thêu thùa uá may.
Điều đáng lưu ý là, trong số lượng những người học thêu vào thời phong kiến Nguyễn thì nam giới tham gia không phải là ít. Thiếu niên nam nữ từ khắp nơi đến các thầy giỏi xin học nghề ngày càng nhiều, đến nỗi nơi nhận dạy nghề phải đặt ra những điều kiện khắt khe. Chẳng hạn như trước khi thực sự
cầm kim thêu, người học nghề phải phục vụ gia đình thầy hoặc để những người thợ đã ra nghề sai vặt. Ngoài ra, người học nghề phải nạp gạo, đóng học phí và các chi phí khác khi ở nhà thầy. Những dịp tết Đoan Ngọ, Nguyên Đán, gia đình của người học nghề phải có lễ vật cho thầy. Thời gian học nghề kéo dài từ 5 đến 10 năm tuỳ theo năng khiếu của từng người.
Từ thời gian học, người học nghề phải theo đõi, quan sát đến làm theo rồi làm thử. Người học nghề bắt đầu từ đơn giản đến phức tạp dần dưới sự hướng dẫn của thầy, cho đến khi có thể đảm đương một cách độc lập. Khi nào ngươi học tự sang ' mâu lên nền vải, phân màu, nhuộm chỉ, ứng dụng một cách thích hợp những kĩ thuật thêu đã học trong từng mảng bố cục, biết cách sửa sang, điều chỉnh, trang trí, tôn tạo sản phẩm, thầy dạy sẽ báo cho gia đình người học nghề chuẩn bị buổi lễ ra nghề. Đây là mốc quan trọng trong đời người học thêu, kết thúc thân phận kẻ sai vặt trong mối quan hệ với gia đình thầy, bản thân và đồng nghiệp.
Trong buổi lễ ra nghề, gia đình người thợ phải lo lễ vật cúng tổ, tạ ơn thầy, tiệc mừng với đồng nghiệp. Vào dịp này, thầy sẽ ra một đề tài và người thợ phải đảm đương mọi khâu kĩ thuật cho đến lúc bức thêu hoàn chỉnh. Tác phẩm thêu xong, thầy sẽ có nhận xét riêng và đồng nghiệp có thể được phép thầy góp ý kiến một cách dân chủ. Bức thêu “còn mã” hay “còn dại”, có nghĩa là cái tỉnh thần thêu đang còn yếu. Cho nên, tác phẩm đầu tiên nhưng lại là cuối cùng để chấm dứt thân phận người sai vặt, đứt khoát phải tránh chất mã, chất dại mà mỗi đường kim mũi chỉ đều góp phần quyết định bức tranh và sự khẳng định tài năng, tính cách của một người đang thực sự đứng 28
LÊ VĂN KINH
=——————————————_——— ——— ˆˆˆ—————— —ˆ ˆ ˆ ——— — — — E———————————————————=—=—————————
vào đội ngũ của những người thợ thêu chính thống.
Vào những triều đại cuối Nguyễn, nhất là thời vua Khải Định (1916 - 1925) đội ngũ thợ thủ công không chỉ riêng ngành thêu, mà hàng loạt các ngành nghề khác rất phát triển'”'. Phố Cẩm Tú, nơi quy tụ những người thợ thêu Huế vào giai đoạn này có đến trên dưới 300 người. Các hoạt động có tính chất phong tục và nghi lễ của nghề đều tập trung ở nhà ông phố trưởng. Mỗi năm các thành viên trong phố Cẩm Tú (Huế) tổ chức lễ hội vào ngày 19 tháng Giêng (âm lịch) để kỉ niệm ngày sinh nhật ngài Lê Công Hành (tổ nghề) và ngày 4 tháng 6 (âm lịch) là
(33)
ngày giỗ tổ ““” tại nhà ông trưởng phố.
Trong bài văn cúng tổ sư, người thợ thêu đã hết lời tôn kính dựa vào sắc phong vua ban: “Tiên sư tài cao xuếốt loại, trí mại tiên tri, Nam triều bhúnh nguyệt, bắc địa thiệu tỉnh, tú bhẩu cẩm tâm, kí dĩ uăn chương thanh thế, đạt châm tỉ tuyến, phục truyền tình xảdo dân li phương, năng thuận u¡ mình, đấu sơn tại uọng, hữu công tắc tụ, tang hải bất uong".
Sắc tặng của vua ban cho tổ sư nghề thêu: Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Công Bộ Tả Thị Lang, Thanh Lương Hầu, tặng Công Bộ Thượng thư, Thái Bảo Lương Quận công, Thượng Trụ Quốc, thượng trật, Bùi Tướng công tứ tánh: Lê Bao phong: Thông tục, Trung Chánh - Tình Tuý - Huy Công Đại Vương. Gia phong: Tuấn Mại Cương Trung, Trung Đẳng thần. Tái gia phong: Nhựt Bảo Trung Hưng - Chi Thần.
Đặc tấn: Phục Quốc Thượng Tướng quân, Lễ Phiên Thị, Cạn Thị Nội giám tỉ lễ. Tổng Thái giám, Đô Đốc phú, Tả Đô đốc, Thái tế Đoàn Trung Hầu. Trí sĩ: Khởi phục Đại Tư Đồ Đoàn Quận công
Thượng Trụ Quốc, thượng trật: Thái tướng công tử Huy đơn chánh. Bao phong: Ôn Hậu Đại vương.
Tục truyền, trong lần đi sứ sang Trung Quốc, ngài Lê Công Hành còn xẻ thịt, giấu hạt bắp nếp (ngô nếp) và đậu xanh mang giống về nước cho dân. Hai loại nông sản này từ đấy mới được người nông dân Việt Nam nhân giống sản xuất cho đến ngày nay. Nhớ công ơn ấy, trong lễ cúng tổ, người thợ thêu Huế không bao giờ dùng bắp nếp và đậu xanh trong khi nấu nướng hoặc chế biến các loại bánh trái để cúng tế.
Trong hàng thêu Huế ngày nay, những chất liệu như kim, chỉ và nền thêu nhập khẩu từ các nước phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản... đã tạo cho những bức thêu một sắc thái mới, thuận tiện cho người thêu, cũng như đề tài và bố cục ngày càng phong phú. bức khỏi những quy định có tính nguyên tắc của những thợ thêu xưa. Người thợ hôm nay có giấy carbone để đồ mẫu đề tài lên nền vải, có đủ các loại kim để thể hiện sỏ trường của từng kiểu thêu, chỉ màu đã được nhuộm sẵn đủ các sắc độ... Tất nhiên, không phải vì những điều kiện thuận lợi của vật liệu công nghiệp mà làm hạn chế sự thể hiện tài nghệ, kĩ xảo hoặc mất phần chủ động của người thợ thêu trong quá trình thực hiện sản phẩm. Nhưng rõ ràng, người thợ thêu hôm nay không còn biết nhuộm chỉ theo phương thức cổ truyền bằng những màu tự nhiên. Các sắc độ đậm nhạt trong quá trình nhuộm của người thợ xưa, đã góp cái riêng của mình một cách trọn vẹn trong bức thêu. Ngoài sự điêu luyện của đôi tay trong việc sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các lối thêu cổ truyền, màu chỉ tơ nhuộm đã có thể tạo mảng, độ tối sáng, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐiẾi
====---——————EE
đậm nhạt một cách hoàn toàn hài hoà mà người xem không thể tìm được ranh giới của màu chỉ thêu nếu như người thợ muốn thay thế. Bởi chỉ thêu hiện đại mà người thợ thêu Huế sử dụng hôm nay, mỗi màu chỉ có 5 sắc độ từ đậm đến nhạt, trong lúc người thợ tự nhuộm bằng chỉ tơ tằm cho bức tranh thêu của mình hoàn toàn chủ động trong việc chọn số lượng các sắc độ mình sẽ dùng qua cách làm nhạt dần nước nhuộm cho từng đoạn tơ. Mảng thêu từ đấy tiến gần đến sự thể hiện của màu sắc hội hoạ hài hoà linh động giữa màu và nét.
Cái chất đằm thắm, nhu hoà và độc đáo của những dạng màu khai thác trong thiên nhiên mà người thợ đã từng sử dụng trong khi nhuộm chỉ tơ vẫn là một tính cách truyền thống mà những bức thêu hiện đại khó lòng thể hiện.
L.V.K
(1) Gabriell Dain: Nghề thêu An Nam (cách dạy trên thiệp - có kiểu vở và hình anh vẽ phóng lược). Sách có cỡ 20 x 30, tập thứ nhất in bằng tiếng Việt từ trang 50 đến 90. Tài liệu in đương thời dành cho các nữ sinh Việt Nam (không ghi rõ nơi và năm xuất bản, hiện đang lưu giữ tại Thư viện Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh).
(2) Hocquard: UỦne campagne au Tonkin, Librairie Hachette, Paris, 1892.
(3) Theo truyền thuyết thì nghề dệt lụa và thêu thùa xuất hiện ở Trung Quốc trước nhất, do bà Tây Lăng Thi (Si-Ling- Chì) vợ vua Hoàng đế vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Bà đã dạy dân nuôi tằm, dệt lụa và thêu thùa nên được suy tôn là Luy tổ (Le1-tsou).
Thời xưa, ở Trung Hoa, nghề nuôi tằm, đệt lụa được coi là một trong những hoạt động tôn quý và quan trọng nhất. Hàng năm và đầu mùa xuân, trong khi Hoàng đế
ra đồng cày ba luống đất trong lễ Tịch điền (thường chọn ngày Hợi, nhắm 12 tháng Giêng âm lịch) thì Hoàng hậu ở trong cung cũng làm lễ dâng cúng mấy bó lá dâu để tỏ lòng tôn kính những nghi thức tằm tang mà tiền nhân đã truyền lại. Họ giữ kín những bí quyết về cách nuôi tằm, dệt lụa. Kẻ nào tiết lộ hoặc bán trứng tằm cho người ngoại quốc đều bị xử tội hình.
(RE. Teulières: La sérleleulture au Sud VN Extralt du B.S.E.I No I, 1962).
(Trích từ Nguyễn Văn Luận: "Một ngành tiểu công nghiệp cổ truyền Việt Nam: nghề thêu tay". Sài Gòn Việt Nam khảo cổ tập san, 1970, tr.13).
Ở Việt Nam, dạng truyền thuyết về tổ nghề dệt lụa phong phú, đa dạng và không thống nhất. Chẳng hạn sự tích công chúa Thiều Hoa (tổ nghề dệt lụa ở Cổ Đô, Vân Sa; sự tích công chúa Ngọc Hoa; sự tích My Châu; bà chúa Bông ở Yên Định, Thanh Hoá; sự tích Phạm Thị Ngọc Đô bà chúa dệt lĩnh ở Tích Sài, Hà Nộc; sự tích bà chúa Tằm Quỳnh Hoa ở Nghi Tàm, Hà Nội; sự tích tổ nghề tằm tơ ở Gia Lộc, Hải Dương; sự tích tổ nghề dệt thao làng Triều Khúc, Thanh Trì, Hà Nội).
(4) Hia là một loại giày ngày nay, được làm bằng gỗ vông nhẹ. Tuy nhiên, phần thể hiện chính vẫn là những mảng thêu trên lớp vải bọc phía ngoài.
(5) Mão được dệt kết từ lông đuôi ngựa cho thoáng hơi, bền; thắng mình (Cục mã 0ï thường phụ trách thực hiện sản phẩm này). Tuy nhiên, một số thợ thêu giỏi thời Nguyễn trong phố Cẩm Tú - Huế đã làm được mù mã vĩ và thêu mão một cách hoàn hao.
(6) Thần tích tại nhà thờ phố Cẩm Tú ở Huế ghi họ ngoại của ông là Bùi tại 15 Đào Duy Từ, Phú Hoà, Huế.
(7) Giai thoại kể vào thời niên thiếu, có lần đi đắp đê chống lũ, ông không mang nổi tảng đất to nên chân ngập lún sâu dưới bùn, quan quản đề đốc Thị lang thấy vậy gọi người kéo ông lên và hỏi chuyện. Ông giãi bày vì học trò sức yếu. Viên quan nghe vậy ra vế đối thử tài: 30
LÊ VĂN KINH
=——— ễŸEễ----------—
"Ông quan Thị, cắm đường cái, tiêu trị hồng thuỷ cho dân được cậy". Trần Quốc Khải (tức Lê Công Hành) đối lại ngay: “Trai Quốc Động, thị đỗ bảng nhãn, phù quân uương phỉ chí mới cam. ˆ
Đặc điểm của vế đối trên có bốn thứ quả gồm: thị, tiêu, hồng và cậy. Trong về đáp cũng có bốn loại quả: quất, nhãn, bồ quân và cam.
Quan Thị tuy vỗ ngực kể công trị thuỷ thì cậu học trò địa phương bày tỏ chí khí hiên ngang. (trích: Sự tích ông Lê Công Hành, do ông Lê Văn Einh soạn, thở tại nhà thờ phố Cẩm Tú, Huế).
(3) Vũ Ngọc Khánh Lược truyện thần tổ
các ngành nghề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.63-64.
(9), (10) Từ Minh Thiện viết trong Thiên Nam hành bí và Trần Phu để cập trong An Nam tức sự. Trích theo tài liệu sự tích ông Lê Công Hành, sdd, tr.9.
(11) Các loại như khăn trải bàn ăn (service de table), trải giường (drap), phủ giường (couvre de li, rèm (devant cheminé), khăn phủ bàn (chemin de table), áo gối, các loại khăn ăn, khăn trang trí, áo ngủ (robe de chambre) khăn uống nước (service à thé) v.v...
(12) Ngoài loại khung thêu đã trình bày trong bài viết còn có các loại:
- Khung thêu bằng ống trụ tròn được người thợ dùng làm phương tiện căng nền thêu băng chân.
- Khung thêu được cấu tạo bởi hai vòng tròn gỗ đồng tâm có đường kính gần bằng nhau, nền vải được căng từ Rholus tiếp giáp của hai vòng khung.
- Khung thêu bằng thép với những hình dạng khác nhau (tròn, vuông, chữ nhật, thoi...), có tấm lưới căng để đố nền vải.
- Khung thêu gồm các loại móc đan dùng trong khi thêu găng, tất, túi xách...
(13) Nơi đây, người ta dùng tơ để sản xuất nhiều loại chỉ khác nhau. Ngoài việc phục vụ ngành thêu, người thợ còn sản xuất chỉ đàn (dùng cho các loại đàn cổ truyền như đàn nguyệt, đàn tì, đàn nhị... ), chỉ câu, chỉ lưới (cho ngư nghiệp, chỉ chằm nón... )
(14) Quần bàn: Phần hàng thêu bọc quanh bàn thờ.
(15) Nghi môn: Phần hàng thêu treo trên đầu khung phía trên của gian thờ tự.
(16) Gabriell Dain: Nghề thêu An Nam, sảd, tr.61.
(17) Nếu múi thêu không chồng khít lên nét vẽ sẽ tạo cho người xem ấn tượng của sự gãy khúc. Nếu mũi sau không khít thì hở khe vải. Không lòng tay khi ép múi chỉ vào nền vải, để tránh chỉ hở nền.
(18) Có khi người ta đồi nổi bằng rơm hay bông vải cũng theo nguyên tắc như giấy bản, giấy dó. Điều cốt yếu là làm sao phần độn được tròn đều và gắn chặt vào nền vai một cách tự nhiên.
(19) Trong bản tiểu sử mà gia đình đang phụng thờ có nhắc đến việc vua Thành Thái (1889 - 1907) triệu ông vào đại nội truyền thêu trực tiếp chân dung ngài, không qua bản vẽ. Bức thêu đang đỏ dang thì xảy ra biến cố, vua bị người Pháp lưu đày. Ông được triều Khải Định phong hàm Hàn lâm viện nên mọi ngưởới thường gọi ông là nghè Tư.
(20) Vào những năm từ 1960 - 1975 ở Huế đã xuất hiện một thiểu nữ mà đường kim mũi chỉ của cô đã làm cho những người trong và ngoài nước thán phục thông qua 18 cuộc triển lãm về tranh thêu ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ đã có hàng trăm bài báo trong và ngoài nước hết lời ca ngợi. Bộ sưu tập của cô hiện nay về mẫu thêu và những mầu báo chí viết về cô cũng như những lời nhận xét của các nhà mi thuật, phê bình, khách thưởng ngoạn trong và ngoài nước ở số lưu niệm triển lãm có đến hàng ngàn trang (hiện nay tác gia đang ø10).
Tuần báo Đời, số 1924, năm 1972 viết: “Bích Đàn đã dùng chỉ màu quá đúng, nên tất cả đều lồng trong đó như một ảnh chụp. Nhờ sự khéo léo của thiếu nữ đất Thần Kinh, các bức tranh hầu như đạt đến múc tuyệt đỉnh trong ngành mĩ nghệ hiện đang mai một này... ˆ
Khởi Hành Magazine N° 194 viết: "Beleuing in the ouerÌasting beqauty and in the beautHfUul souls oƑ her homeland. Bich Dan has depicted uiutdly these striRhing ƒeaqtures In her series of. embroidered picture. The cxhibilon of her tuorỀ has merLt repressenting contemporary themes ïn a tradtHonadl art form”.
Le Journal dđEỀxtrême Orient NẺ 6695 du 17 Mars 1972: “Sur le pÌan artisanal, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 31 nể des broderies óxecuteés àÌa main quec đes matẻrtans sotgneusement choisis d qutant plus remarquables qu elles nous apportent la preuue de patience de précision et de minutie souuent oublieés, héÌlas! Dans le fracas des bouleuersements sociaux actuels”.
Cô Lê Thị Bích Đàn nguyên là nữ sinh trường Trung học Đồng Khánh, sinh viên Trường Quốc, gia Âm nhạc, sinh viên Trường Cao đẳng Mĩ thuật Huế. Đây là môi trưởng đã đào tạo và nâng cao nhận thức nghệ thuật và những tri thức văn hoá cần thiết cho cô. Biệt tài của cô đã tạo nên những bức tranh thêu sống động, có chiều sâu, có cá tính và thần thái đặc biệt. Son thân cô cũng đều là những thợ thêu nối tiếng ở Huế, dòng họ cô đã có bốn đời làm thợ thêu nhưng cái quyết định vẫn là tài hoa bẩm sinh, sự khổ luyện và lòng thiết tha yêu nghề.
(21) Bởi nhiều nguyên nhân, nhưng theo chúng tôi vua Khải Định trên ngai vàng những năm đầu thế kỉ 20 là nhân vật chính trong bị kịch đau thương của đất nước lẫn cuộc đời riêng tư. Vua không có thực quyền vì đất nước trong tay người Pháp, cá nhân lại gặp những bất trắc và bất thường về thế lực ngoài ý muốn. Vì vậy, vua Khải Định hướng đến nghệ thuật như là một cứu cánh để quên đi thực tế phũ phàng. Nghệ thuật thời Khải Định tất nhiên có nhiều điều phải bàn, nhưng có điều ai cũng nhận ra là chính sách ưu đãi cũng như đội ngũ những thợ thủ công (trong đó có những nghệ nhân đặc biệt nổi tiếng ở nghề trang trí xây dựng như các ông Kiểm Khả, Cửu Tánh...) phát triển và đã để lại nhiều tác phẩm, tạo nên dấu ấn, nét đặc thù của một giai đoạn trong quá trình phát triển mĩ thuật Huế. Hiện nay còn lưu giữ một khăn phủ bàn để đỉnh trầm thêu 7 con sư tử vờn quanh quả cầu: Thất sư hí cầu, do chính cụ Lê Văn Hỡi chỉ đạo và cùng với các nghệ nhân dương thời thực hiện dùng vào dại lễ Tứ tuần đại khánh vua Khải Định. Kèm theo còn có một mảnh gấm, thất thể được thêu thêm kim tuyến dùng để may đại bào cho vua Khải Định dùng trong đại lễ đó, nay còn lưu giữ tại nhà số 82, Phan Đăng Lưu, Huế.
(22) Những ngày kỉ niệm này không trùng với thời điểm tổ chức của người thợ thêu ở miền Bắc Việt Nam, cho dù họ đều thờ chung một tổ nghề.