NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 4T


THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ SƠN QUANG
_ Ở CÁT ĐẰNG
(YÊN TIỀN, Ý YÊN, NAM ĐỊNH)
NGUYÊN LAN HƯƠNG?)
I. THỰC TRẠNG NGHỀ SƠN CÁT ĐĂNG HIỆN NAY
Sau khi hoà bình lập lại (1954), nghề sơn quang Cát Đằng còn duy trì các hình thức sản xuất được một thời gian thì bị suy giảm, một phần do trong Cải cách ruộng đất, hầu hết các gia đình ở đây được chia ruộng. Những người thợ sơn Cát Đăng có nguồn sống khác là nông nghiệp tuy thu nhập chưa hẳn đã cao hơn so với nghề sơn, nhưng ổn định hơn và nhất là họ không phải xa quê hàng năm trời để kiêm sống. Một nguyên do khác là những nhận thức tả khuynh về sự tổn tại của các thành phần kinh tế tư nhân, trong đó có cả các nghề thủ công trong một xã hội mà nền kinh tế đang được cải tạo theo mô hình "chủ nghĩa xã hội", "tập thể hoá". Rồi trong bối cảnh của phong trào hợp tác hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn miền Bắc từ cuối thập kỷ 60, ở Cát Đảng cũng đã thành lập các hợp tác xã nông nghiệp. Trong hợp tác xã nông
°”) Thạc sĩ, giảng viên Trường Đại học kiến trúc. 48
NGUYỄN LAN HƯƠNG
———ễEEễEỄỀễEEEE==ễ===
nghiệp, có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và một bộ phận xã viên hợp tác xã được chuyển sang làm các đồ thủ công mỹ nghệ, các mặt hàng sản xuất ra được Nhà nước bao tiêu sản phẩm và xã viên được bán đối lưu gạo cùng các hàng hoá thiết yếu khác. Đến năm 1968, bộ phận thủ công trong nông nghiệp được tách ra thành hợp tác xã Sơn mài, chuyên làm các sản phẩm có tính nghệ thuật trang trí, với kỹ thuật sơn quang, sơn mài, nùn, khảm trai. Nhà nước bao tiêu các sản phẩm này để xuất khẩu đi các nước, chủ yếu là thị trường Đông Âu.
Sau 30 năm tồn tại, đến cuối thập kỷ 80, khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, cũng như ở các nơi khác trên toàn vùng châu thổ Bắc Bộ, ở Cát Đăng, các hợp tác nông nghiệp và thủ công nghiệp đứng trước những khó khăn và thử thách to lớn. Những chính sách mới của Đảng và Nhà nước đã kịp thời giúp cho sản xuất nông nghiệp vượt qua được những khó khăn và thử thách đó. Đối với các ngành nghề thủ công, các làng nghề, những chính sách của Nhà nước cũng tạo ra những khởi sắc trong việc khôi phục lại những nghề truyền thống. ở Cát Đằng, từ những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, nghề sơn quang được phục hồi mạnh mẽ. Hợp tác xã Sơn mài được chuyển thành Công ty Mỹ nghệ sơn mài làm ăn khá phát đạt, sản xuất hàng cho nhiều nước như Pháp, Ý, Xinh- ga- po, Đài Loan, Thái Lan, Úc...Sản phẩm xuất đi khá đa dạng, chủ yếu là đồ gia dụng và trang sức (hộp, khay, bàn phấn, lẵng quả, giá gương, va ly...). Ngoài ra, hầu hết các hộ gia đình trong làng cũng được mở rộng làm nghề, tự hạch toán mua nguyên vật liệu về làm nghề và bán cho các đại lý, hay bán tự do trên thị trường. Mặt khác,
thời kỳ này, nhu cầu dùng đồ sơn trên thị trường tăng vọt (do việc thờ cúng trong các đình chùa, việc tu sửa di tích được phục hồi, việc thờ cúng trong nhân dân phát triển hơn trước...) nên đồ sơn Cát Đằng tiêu thụ rất chạy. Nhiều người nhận được gia công đồ, làm ngay tại nhà, để khách hàng từ khắp các nơi đến lấy; hoặc làm mới, tân trang các đồ phục vụ thờ cúng trong các đình chùa, đền miếu, nhà thờ họ của các làng quê trong vùng. Đối với việc tân trang các đồ cũ, người Cát Đằng được dân các làng mang đô về tận nhà (trừ tượng, vì “tượng bất ly tự", nghĩa là, tượng không rời khói chùa). Khi các hợp đồng vãn việc, các gia đình lại chủ động làm các hàng thờ, đồ gia dụng để bán ngay tại nhà hoặc phục vụ hội Phủ Giày như trước đây. Chỉ riêng xóm Hùng Vương hiện nay có hơn 10 hộ bám dọc theo đường 57 B vừa mở xưởng làm nghề, kết hợp mở cửa hiệu để bán hàng của nhà mình làm ra và hàng thu mua, ký gửi. Ngoài ra, nhiều tốp thợ sơn Cát Đăng lại đi hành nghề khắp các làng quê trên mọi miền đất nước. Cũng như trước đây, dưới thời phong kiến, đã hình thành các thợ cả chiêu tập thợ đi làm ăn lưu động ở các làng quê trong vùng, sáng đi tối về hoặc đi trong thời gian ngắn lại về; xa hơn là các thành phố, thị xã, các vùng quê ở các tỉnh ngoài, đi hàng tháng, thậm chí hàng vài tháng. Theo tính toán sơ bộ, hiện nay có hàng vài chục tốp thợ hành nghề ở các thành phố, thị xã. Nhiều người trực tiếp nhận được các hợp đồng lớn, như trùng tu tân trang lại các di tích lịch sử, các đình chùa đền miếu chưa được xếp hạng, làm mới các đình chùa hay từng bộ phận của các công trình đó..Nhiều hợp đồng trị giá vài trăm triệu đồng, thu hút hàng vài chục thợ đến làm và thợ được trả công tương đối cao. Một NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
========ễễỶễỶễễỶễỶễỄễễE=EEEEEỶẼỶEẼEETTTETETEỄ=——>ễ—
số người có xưởng thợ, mua được đất đai, xây được nhà tại Hà Nội, chẳng hạn, ông Trương Đức Thanh có xưởng làm nghề, thường xuyên thu hút 9ã thợ đi làm, mức lương cho thợ có tay nghề thấp nhất là 300.000 đồng một tháng (đã trừ tiền ăn uống), thợ có mức lương cao nhất bình quân 1.200.000 đồng.. Ông Bùi Văn Hùng cũng thường xuyên huy động 20 thợ làm cùng. Điều đáng lưu ý là, giờ đây, người Cát Đằng làm hàng "đa năng" hơn, ví dụ, đồ mộc trước đây phải mua của La Xuyên, nhưng giờ đây, người Cát Đằng cũng đục chạm được, trình độ kỹ thuật, mỹ thuật không thua kém thợ La Xuyên. Đồ đan trước đây người Cát Đăng ít làm, nhưng giờ đây làm nhiều hơn. Có thể nói, bước qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế cuối thập kỷ 80, người Cát Đằng với nghề sơn truyền thống của mình đã ăn nên làm ra, tạo ra những đổi thay tích cực trong cuộc sống của hầu hết các gia đình trong làng. Theo tính toán sơ bộ, thì mức sống hiện nay của các hộ làm nghề sơn tăng 10 lần so với mức sống trước thời kỳ đổi mới và bằng 1, lần so với các hộ chuyên làm nông nghiệp. Số hộ giàu (mức thu nhập trừ chi phí sản xuất đạt từ 10 triệu đến 90 triệu một năm) tuy còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn (1%), nhưng số hộ khá và trung bình tăng lên rõ rệt. Số hộ nghèo chỉ còn khoảng 5%.
Tuy nhiên, từ năm 1994 đến nay, nghề sơn quang Cát Đằng đứng trước những khó khăn rất lớn. Một trong những nguyên nhân đầu tiên là do sự làm đối làm ẩu, trước hết của Công ty mỹ nghệ sơn mài. Một số người lãnh đạo của Công ty đã cho làm hàng theo kỹ thuật sơn Nhật Bản, bỏ sơn ta truyền thống. Kỹ thuật sơn Nhật Bản là nhanh vì có thể "trốn" được một số công đoạn, nguyên liệu rẻ, nên giá thành sản phẩm hạ, hàng
lại bóng đẹp bên ngoài, nhưng các sản phẩm đó chỉ thích hợp khi làm ở xứ ôn đới, còn nếu làm tại xứ nhiệt đới như ta thì chỉ sau một thời gian ngắn, mặt sản phẩm lộ rõ những vết nứt của sơn, mặt sân sùi rồi bong lớp sơn bên ngoài nên các khách hàng giảm dần và chấm dứt hợp đồng làm ăn với công ty, làm cho công ty puải phá sản (cuối 1996). Hiện nay trụ sở của công ty bị bỏ hoang nhưng tài sản chưa thanh lý được. Số xã viên của công ty không còn công ăn việc làm, mất nguồn thu nhập chính, đời sống rất khó khăn. Ngoài công ty làm ăn đối ẩu, bỏ kỹ thuật truyền thống, cũng có nhiều tư nhân đi theo con đường đó.
Cũng như đối với bất cứ nghề và làng nghề nào, nghề sơn quang và làng nghề sơn quang Cát Đằng đang đứng trước nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp cần được các cơ quan chính sách, các cấp chính quyền quan tâm giải quyết:
- Một tà, việc duy trì nghề hiện nay rất khó khăn do mấy nguyên nhân:
+ Tình trạng thời gian nhàn rỗi (nông nhàn) quá nhiều do không tìm được công ăn việc làm. Hiện nay, trong làng có hai loại hộ. Một loại là những hộ làm nông nghiệp trước đây (chiếm khoảng 3/3 số hộ trong làng), thì cũng có bình quân ruộng đất đầu người rất thấp (1 sào 4 thước). Với số ruộng đó, thời gian làm việc trên đồng ruộng của mỗi hộ (với 2 lao động và 2 nhân khẩu ăn theo) ước tính chỉ được khoảng ð tháng, còn 7 tháng nữa là "nông nhàn”, Thêm nữa, dù có lao động cật lực và tính mọi cách làm ăn thì số ruộng trên không thể tạo ra nguồn thu nhập bảo đảm cho cuộc sống của từng hộ gia đình. Do vậy họ phải đi làm thuê để kiếm sống. Loại hộ thứ hai, vốn là các hộ xã viên của 50
NGUYỄN LAN HƯƠNG
—— __———
hợp tác xã sơn mài, chiếm khoảng 1/3 số hộ trong làng. Sau khi công ty xuất nhập khẩu sơn mài phá sản, số xã viên của công ty này không có công ăn việc làm, đời sống rất khó khăn. Để tháo gỡ khó khăn trên cho bà con, được sự đồng ý của huyện, xã đã tạm chia cho mỗi khẩu của các gia đình thuộc diện này 4 thước ruộng. Cũng như các hộ nông nghiệp ở trên, số ruộng quá ít ó1 trên đây không bảo đảm việc làm, đời sống cho mỗi hộ gia đình nên họ phải đi làm thuê để có thêm thu nhập. Như vậy, gần hết số hộ trong làng hiện nay thuộc diện đi làm thuê. Tuy nhiên, việc đi làm thuê này cũng không thuận lợi vì không dễ tìm được việc làm.
+ Đời sống người làm nghề rất khó khăn do nguồn thu nhập không ổn định. Chỉ có một số ít người thường xuyên tìm kiếm được những hợp đồng gia công có giá trị lớn nên có thu nhập cao và trả công cho thợ đến làm thuê có thể chấp nhận được (25- 30.000 đồng một ngày công), còn đa số các chủ thuê thợ không tìm được những hợp đồng làm hàng thường xuyên để có thể thu hút được nhiều thợ nhà rỗi đến làm. Do vậy số thời gian làm việc thực tế ở làng nghề hàng năm không cao.
+ Từ sau khi có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước và từ sau khi nền kinh tế đi vào cơ chế thị trường, không chỉ Cát Đằng, Thượng Thôn và Trung Thôn làm nghề sơn quang với các sản phẩm truyền thống của mình mà còn có nhiều làng khác trong huyện và ngoài huyện cũng học và làm nghề này. Cho nên, người Cát Đằng chỉ làm ăn được trong vài ba năm đầu tiên, khi cơ chế mới "bung ra". Còn từ khi hình thành
nhiều "làng nghề sơn", việc làm nghề cùng với thu nhập của người Cát Đằng bắt đầu bị chững lại và vài năm nay, gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập giảm sút vì "sung đã vượt cầu", tiêu thụ sản phẩm rất chậm, không nhận được nhiều hợp đồng gia công hàng vì có nhiều nhóm thợ cạnh tranh nhau gay gắt. Một số cán bộ xóm năm nay, số lượng thợ sơn Cát Đằng đi làm ở các tỉnh ngoài giảm hẳn; hầu hết các nhà mái bằng hiện nay trong làng là của những thợ sơn làm ăn phát đạt từ 4-ð năm trước, còn một hai năm nay, số nhà mái bằng làm mới giảm hẳn. Thợ sơn các nơi mượn tiếng "Cát Đằng" để làm nghề, tạo ra những sản phẩm kém chất lượng, bán rất rẻ. Một vài ví dụ, trước hết, đối với hàng đan, kinh nghiệm từ xưa của các cụ cho hay, để đồ đan sau khi sơn xong được bền lâu dài, không bị mọt thì phải ngâm nứa trong 6 tháng, nhưng thợ các nơi chỉ ngâm 3 tháng, rồi rút xuống một tháng, thậm chí có người chỉ ngâm vài ngày hoặc không ngâm, làm cho "da" nứa không "chết", nước ngâm không thấm vào *hịt nứa để có thể diệt chết các loại vi khuẩn gây mọt, nên hàng làm xong, dù được sơn một lớp dày, bóng và trông hình thức cũng đẹp, nhưng chỉ ít ngày sau là mọt đùn từ phía trong ra, hoặc các đường nối bị hở do ngót nứa, do không ăn sơn. Có chủ hàng nhận đồ gia công của người khác để xuất khẩu do không kiểm tra cẩn thận từ khâu làm hàng đến khi nhận hàng nên đã phải ngậm "quả đắng": hàng xuất chưa ra khỏi biên giới mà đã bị mọt đùn từ trong ra; hoặc đối với hàng gỗ thì bị nứt sơn, sân sùi mặt, bị khách hàng trả lại, lỗ tới 4 triệu đồng. Vào dịp hội Phủ Giày hàng năm, người các nơi làm ra những hàng
thuộc làng Cát Đằng cho rằng, õ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ö]
“===———————_—ỄỄEEE——_
không đúng quy trình kỹ thuật, nguyên liệu kém, mang ra chợ bán rất rẻ để đánh lừa khách hàng. Một chiếc ấm ủ nếu làm đúng quy trình, đủ nguyên liệu và đúng chất liệu thì giá thành phải bán được 14.000 đồng trở lên, người làm hàng mới có lãi chút ít, nhưng hàng của thợ các nơi khác chỉ bán có 9.000 đồng, khách hàng hám rẻ hoặc không biết nên mua loại hàng này, chứ không mua hàng của người Cát Đăng có giá thành cao. Một ví dụ khác, đối với hàng đồ gỗ, thợ các nơi thường làm không đúng chủng loại gỗ, giảm chất lượng sơn, bán ra với giá thành hạ hơn nhiều so với hàng đặt làm đúng chất liệu và quy trình kỹ thuật, ví dụ, chênh lệch bình quân giá của một cỗ ÿ lên tới hàng vài trăm nghìn đồng trở lên. Mặt hàng càng nhiều tiền thì giá chênh lệch giữa hàng đặt và hàng chợ càng cao. Trên thực tế, nhiều khách hàng không biết nên mua phải các loại hàng gia công này; còn những người thông hiểu, họ trực tiếp đến các gia đình làm nghề ở Cát Đằng đặt hàng theo chất liệu gỗ, sơn, hình thức..., dù giá có cao hơn nhiều, nhưng là hàng bảo đảm chất lượng.
Sự "bung ra" của nghề sơn cùng với việc làm đối, làm ẩu của "thợ sơn" ở các làng mới học được nghề này đã ảnh hưởng xấu tới việc tiêu thụ sản phẩm, việc ký kết các hợp đồng, đến uy tín và đến cả việc duy trì nghề của người Cát Đằng. Một số thợ Cát Đằng khi đi bán hàng hay đi các nơi nhận việc cũng bị những "lời ra tiếng vào" phàn nàn về chất lượng hàng sơn hiện nay, mà trên thực tế, họ đã chịu oan từ sự làm dối, làm ẩu của thợ "Cát Đằng dởm". Tình hình trên đây cũng ít nhiều tác động tiêu cực, tạo ra những mâu thuẫn trong tâm tư của người thợ sơn Cát Đằng. Trong ý thức
sâu thăm của người thợ sơn Cát Đằng hiện nay, thấy cần phải duy trì nghề truyền thóng của cha ông, cần phải làm ra những sản phẩm có chất lượng theo đúng "phong cách Cát Đằng", nhưng như thế thì lại không có lãi, vì đầu tư công sá, nguyên vật liệu rất nhiều, mà giá thành sản phẩm lại cao, rất khó tiêu thụ. Ngược lại, nếu làm dối, làm ẩu, miễn là có sản phẩm để bán được, dù rẻ nhưng có lãi, giao hàng xong là "sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi" thì lương tâm bị cắn dứt, lòng tự ái nghề nghiệp bị động chạm...Đối với một bộ phận lớp trẻ Cát Đằng hiện nay còn có một hiện tượng đáng lưu ý là, trình độ nhận thức và khả năng tay nghề đều cao hơn so với cha ông xưa kia (ví dụ rõ rệt nhất là ở khâu mờm), nhưng họ chịu những tác động tiêu cực từ bên ngoài nên cũng làm ẩu để có tiền tiêu. Thành thử, hiện nay, không dễ dàng tìm được những nghệ nhân cao tuổi có tay nghề cao, từng "vang bóng một thời", như nghệ nhân Bùi Văn Vệ. Nhiều bậc nghệ nhân cao tuổi nói với chúng tôi bằng giọng buồn phiền và nuối tiếc rằng, nghề sơn Cát Đằng hiện nay, "tre già mà măng chẳng mọc".
- Hai là, tình trạng ô nhiễm môi trường do làm nghề gây ra. Ở Cát Đằng, ô nhiễm môi trường thể hiện ở cả ô nhiễm nguồn nướe và ô nhiễm không khí. Theo tính toán sơ bộ của một số cán bộ các đội, xóm thuộc làng Cát Đằng cũ, thì bình quân mỗi ngày cả làng có 3 ô tô nứa từ các nơi chở về, ngâm xuống các ao trong làng, các mương, rạch ven làng. Nứa ngâm làm cho nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng: màu nước đen ngòm, mùi thối nồng nặc, ngay cả trâu bò cũng không uống được. Không chỉ nước ở các giếng cũ mà cả nước ở 7 giếng khoan của 7ï gia đình mới khoan, sâu trên 80 mét 52
NGUYỄN LAN HƯƠNG
“=————— CC ắn
cũng không thể dùng được. Hiện nay dân làng chủ yếu dùng nước mưa. Trong tình hình khí hậu và thời tiết diễn biến phức tạp như hiện nay thì việc trữ nước mưa dùng trong mùa khô cũng không phải lúc nào cũng thuận lợi. Ngoài ô nhiễm nước ao hồ, vấn đề chất thải, nước thải cũng đang rất bức bách. Đường làng ngõ xóm hiện nay tuy đã được nâng cấp, nhưng nước thải và chất thải sinh hoạt, làm nghề của mấy trăm hộ dân không qua xử lý, trực tiếp chảy ra các cống rãnh, tiêu không kịp, tràn lên cả mặt đường, gây mất vệ sinh lớn, làm đường nhanh bị xuống cấp. Bên cạnh ô nhiễm nguồn nước là ô nhiễm không khí. Mùi thối do gỗ, nứa ngâm, đặc biệt là những khi vớt lên để phơi, thường xuyên bốc lên khắp xóm làng. Muỗi và các loại côn trùng gây bệnh hiện nay cũng nhiều hơn xưa kia. Dân làng còn có một mối lo khác là rồi đây, khi dân số trong làng đông lên, nhu cầu về nhà ở cũng theo đó gia tăng, diện tích ao hồ sẽ dần dần bị thu hẹp, chẳng những không có nơi để ngâm gỗ, nứa làm nghề mà còn không có nơi tiêu thoát nước thải, nước mưa trong mùa mưa bão. Ô nhiễm môi trường đang ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của dân làng là một trong những vấn để bức bách nhất, cả trước mắt cũng như về lâu dài của Cát Đằng, cũng như ở các làng nghề hiện nay. Rất tiếc, chúng tôi chưa có trong tay một con số chính thức về tình hình các loại bệnh tật do làm nghề gây ra đối với nhân dân địa phương để minh chứng cụ thể cho nhận định trên.
Ba là, việc làm nghề ảnh hưởng lớn đến học tập của con cái, thể hiện ở điểm sau:
+ Nhà ở và khuôn viên của phần đông gia đình làm nghề rất chật, nhà của bà con lại hầu hết là nhà cấp 4, kiến trúc
theo lối cổ nên rất chật, chưa thể đáp ứng yêu cầu cầu về nhu cầu ở của từng hộ gia đình (cã về diện tích, ánh sáng, độ thoáng mát.... Trong tình hình đó, con em của đa số các gia đình không có chỗ học ở nhà đạt tiêu chuẩn.
+ Tiếng ổn do làm nghề cũng ảnh hưởng lớn đến việc học tập ở nhà của các chấu.
+ Điều đáng lưu ý nhất, cũng là tình hình chung ở nhiều làng nghề khác là việc làm nghề có "lợi thế" là trẻ nhỏ từ 9- 10 tuổi trở lên cũng có thể kiếm được tiền ngay, nên một bộ phận trẻ nhỏ lao vào kiếm tiền, sao nhãng việc học hoặc không chú trọng đúng mức vào việc học hàng ngày, chất lượng học tập giảm sút. Trong khi đó, một số bậc cha mẹ do hoàn cảnh khó khăn, không đáp ứng kịp thời việc mua sắm các khoản phục vụ học tập và các khoản đóng góp cho nhà trường nên đã bắt con em lao động thêm để "đỡ gánh nặng cho bố mẹ". Những dịp làm nghề bận rộn, để kịp giao hàng đúng hạn, nhiều gia đình bắt con em nghỉ học để làm hàng. Những gia đình không bắt con nghỉ học nhưng khi chúng đi học về lại bắt phụ làm, nên trẻ không có thời gian học bài. Hậu quả là, kiến thức cơ bản của một bộ phận lớn học sinh làng Cát Đằng không chắc. Trong hai năm học vừa qua, có tới một nửa số học sinh không vào được lớp 10 do thi trượt, sau đó, chúng ở nhà làm nghề luôn, không tiếp tục theo học nữa. Số học tiếp cấp III đến năm lớp 12 cũng có tới một nửa trượt tốt nghiệp. Tình hình đó làm cho một số không ít phụ huynh nhận thức rằng, đi học vất vả, tốn kém mà chưa chắc đã thành đạt, thôi thì cứ cho con em học để biết chữ là được rồi, còn để cho chúng ở nhà làm nghề nuôi thân, nghề này cũng không cần học cao làm gì Œ?). Do những nguyên nhân và những nhận thức trên, mà một bộ phận NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Dổ
—==————EEEEEE
lớn trẻ con trong làng chỉ học hết cấp II (Trung học cơ sở) rồi theo nhau bỏ học. Qua trò chuyện với một số cán bộ các xóm trong làng Cát Đằng, chúng tôi được biết, từ năm học 1996-1997 trở về trước, mỗi năm, có khoảng 50% số học sinh tiếp tục theo học cấp III (Phổ thông trung học), nhưng từ 2 năm nay, con số đó giảm đi đáng kể, chỉ còn khoảng 30%. Số học sinh vào được đại học cũng rất ít.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYÊN NGHỊ
Trên cơ sở tìm biểu về lịch sử của nghề sơn quang Cát Đằng, chúng tôi thấy nghề sơn quang Cát Đằng là một nghề độc đáo và có truyền thống lâu đời ở nước ta. Tính truyền thống biểu hiện trên các mặt chất liệu, kỹ thuật và nghệ thuật chế tác. Nghề sơn quang Cát Đằng ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị truyền thống vốn có của nó đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của xã hội hiện tại. Chăng hạn như việc trùng tu các di tích, như có thể sử dụng các chất liệu tre nứa vốn có của Việt Nam, nguồn nhân lực đổi dào vừa cần cù, vừa khéo léo như nhân dân vùng Cát Đăng hiện nay. Theo chúng tôi nghề Sơn Quang Cát Đằng cần được duy trì không phải đơn thuần với ý nghĩa giữ øìn truyền thống vốn có, mà còn có nhiều khả năng cung ứng những mặt hàng để sử dụng trong tiêu dùng xã hội và đặc biệt những mặt hàng trong trang trí nội thất trong sản xuất các đồ lưu niệm.
Để có thể góp phần vào việc giúp nghề sơn quang và làng nghề sơn quang Cát Đằng thoát ra khỏi những khó khăn và vướng mắc đã trình bày ở trên, với lòng biết ơn bà con nhân dân Cát Đằng, từ góc độ của người nghiên cứu, chúng tôi xin được nêu bốn khuyến nghị đối với
Đảng bộ chính quyền xã Yên Tiến cùng các ngành, các cấp có thẩm quyền:
1. Cát Đằng nằm trong một vùng trung tâm văn hoá của non Côi sông VỊ, ở đây hàng năm có hội Phủ Giây, có phiên chợ Viềng độc đáo, đồng thời nó lại nằm trong một tuyến có thể tổ chức tham quan du lịch cùng nhiều di tích nghệ thuật danh lam thắng cảnh khác. Tuyến đường có thể đi từ Hà Nội đến Bích Động Ninh Bình, qua cố đô vua Định, chùa Non Nước, làng chạm gỗ La Xuyên, Phủ Giây, đến làng sơn quang Cát Đằng... chùa Phổ Minh Nam Định. Để đáp ứng được điều này địa phương xã, huyện, tỉnh và ngành du lịch cần tổ chức thành một
làng nghề - văn hoá du lịch vừa có môi
trường thẩm mỹ theo một quy hoạch khoa học, giảm tối đa sự ô nhiễm môi trường, vừa đáp ứng nhu cầu tham quan vừa phát triển được nghề truyền thống.
2. Nghề sơn quang Cát Đăng từ các hình thức trang trí, cách vẽ nét, những mảng mầu tương phản của chất liệu sơn quang, dát vàng, bạc đều sử dụng các loại chất liệu như tre nứa gỗ rất phù hợp với quan niệm thẩm mỹ của người nông dân Việt Nam. Nghề này trong tiến trình lịch sử của nó đã để lại nhiều vật phẩm có những hình dáng và những mô típ trang trí phong phú với những kỹ thuật sản xuất có tính chất gia truyền nên cần được nghiên cứu và đánh giá sâu sắc.
Ví dụ: Để hệ thống hoá sự phát triển những đồ dùng sơn và các hình thức trang trí trên đồ dùng qua các hiện vật còn lưu giữ trong bảo tàng, trong nhân dân. đặc biệt qua sự tái hiện lại của các nghệ nhân già có tay nghề cao. Nếu có thể được, địa phương nên thành lập một phòng trưng bày chuyên đề các hiện vật quý của sơn quang Cát Đăng. 54
NGUYỄN LAN HƯƠNG
=———ễ—————————————————____ ..VẮ
3. Trong việc øìn giữ nghề truyền thống không phải chỉ bảo tổn mà không nghĩ đến sự phát triển các sản phẩm sơn quang Cát Đăng có khả năng đáp ứng việc trang trí nội thất trong những ngôi nhà hiện đại có hiệu quả cao. Một trong những hiệu quả ấy không thể phủ nhận được đó là khả năng thích ứng cho một không gian. Đặc biệt đối với vùng nhiệt đới trong sự điều hoà của khoa học vật lý thích ứng với môi trưởng (ánh sáng, âm thanh, nhiệt độ...). Mặt khác nghề sơn quang Cát Đăng lại có tính ưu việt trong thị trường của các mặt hàng lưu niệm (hàng nhẹ dễ mang lại có nhiều khả năng biểu đạt nghệ thuật). Vì vậy để có thể phát triển được nghề sơn quang, Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho địa phương huyện Ý Yên tổ chức lớp đào tạo thợ trẻ chuyên ngành sơn quang để có thể làm ra được các sản phẩm theo kỹ thuật truyền thống. Đồng thời chế tác được những sản phẩm mới đáp ứng được những nhu cầu hiện đại.
4. Để phát triển được nghề sơn quang, không thể để mãi một lề thói sản xuất bảo thủ như hiện nay. Sản xuất cần được cải tiến, có thể áp dụng một số khâu công nghệ như ngâm cây, vót nan chẻ nan, ép cốt, cải tiến tư thế làm việc của người lao động. Duy trì các thao tác cần có độ khéo léo tỉnh tế của bàn tay người thợ.
Cuối cùng cần có một hệ thống tổ chức làm sao tránh được những việc làm hàng giả, việc tu bổ các di tích không đúng với kỹ thuật sơn quang. Và cũng trong việc này việc ký kết hợp đồng nên hạn chế các khâu trung gian để người sản xuất được hưởng những đãi ngộ xứng
đáng với họ để không phải trả những chỉ phí không cần thiết cho những khâu trung gian dưới danh nghĩa của tổ chức xuất khẩu mua bán côta (giấy xuất hàng) cho những người làng nghề. Nếu tình trạng này còn tiếp diễn thì cũng không thể có sản phẩm tốt vì thù lao rẻ người thợ lại phải bớt công đoạn f
N.L.H
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1l. Các sắc phong của các triều 0uua phong cho các uị thành hoàng làng Cát Đăng (1601- 1924), lưu tại đình làng Cát Đăng.
2. Nguyễn Đức Cường. "Về ngành nghề sơn mài và sơn quang dầu của ta". Tạp chí Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3-1986.
3. Nguyễn Ngọc Dũng. "Làng nghề truyền thống Việt Nam, nghề sơn quang Cát Đăng". Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, số 1-1996.
4. Truyền Đăng: "Đôi nét về tranh sơn mài", Tạp chí Mỹ thuật thơi nay, Hà Nội, số 5-1991.
ö. Hồ sơ di tích đình Cát Đằng, Sở Văn hoá thông tin tỉnh Nam Hà, bản đánh máy - lưu tại Vụ bão tồn bão tàng, Bộ văn hóa.
6. Lê Huyên: Nghề sơn cổ truyền Việt Nam, Nxb Mỹ thuật. Hà Nội 1995,
7ï. Nguyễn Nhã: "Tìm về cội nguồn nghề sơn, Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội, số 1-1991.
8. Sổ hương ước xã Cát Đăng năm 1942, bản chữ Việt, chép tay, lưu tại Viện Thông tin khoa học xã hội ký hiệu Hư.2454.
=9. Tài liệu Hán Nôm đỉnh làng Cát Đằng, bản đánh máy, lưu tại Sở Văn hóa thông tin tỉnh Nam Định.
10. Thần phả làng Cát Đăng, bản chũ Hán, chép năm Tự Đức 10 (1857), lưu tại đình làng Cát Đăng.