NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 4T
THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỂ DUY TRÌ
VÀ PHÁT TRIỂN
NGHỀ SƠN QUANG
_ Ở CÁT ĐẰNG
(YÊN TIỀN, Ý YÊN, NAM ĐỊNH)
NGUYÊN LAN HƯƠNG?)
I. THỰC TRẠNG NGHỀ SƠN CÁT
ĐĂNG HIỆN NAY
Sau khi hoà bình lập lại (1954), nghề
sơn quang Cát Đằng còn duy trì các hình
thức sản xuất được một thời gian thì bị
suy giảm, một phần do trong Cải cách
ruộng đất, hầu hết các gia đình ở đây
được chia ruộng. Những người thợ sơn
Cát Đăng có nguồn sống khác là nông
nghiệp tuy thu nhập chưa hẳn đã cao hơn
so với nghề sơn, nhưng ổn định hơn và
nhất là họ không phải xa quê hàng năm
trời để kiêm sống. Một nguyên do khác là
những nhận thức tả khuynh về sự tổn tại
của các thành phần kinh tế tư nhân,
trong đó có cả các nghề thủ công trong
một xã hội mà nền kinh tế đang được cải
tạo theo mô hình "chủ nghĩa xã hội", "tập
thể hoá". Rồi trong bối cảnh của phong
trào hợp tác hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên toàn miền Bắc từ cuối thập kỷ 60, ở
Cát Đảng cũng đã thành lập các hợp tác
xã nông nghiệp. Trong hợp tác xã nông
°”) Thạc sĩ, giảng viên Trường Đại học kiến
trúc.
48
NGUYỄN LAN HƯƠNG
———ễEEễEỄỀễEEEE==ễ===
nghiệp, có ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp và một bộ phận xã viên hợp tác xã
được chuyển sang làm các đồ thủ công mỹ
nghệ, các mặt hàng sản xuất ra được Nhà
nước bao tiêu sản phẩm và xã viên được
bán đối lưu gạo cùng các hàng hoá thiết
yếu khác. Đến năm 1968, bộ phận thủ
công trong nông nghiệp được tách ra
thành hợp tác xã Sơn mài, chuyên làm
các sản phẩm có tính nghệ thuật trang
trí, với kỹ thuật sơn quang, sơn mài, nùn,
khảm trai. Nhà nước bao tiêu các sản
phẩm này để xuất khẩu đi các nước, chủ
yếu là thị trường Đông Âu.
Sau 30 năm tồn tại, đến cuối thập kỷ
80, khi đất nước chuyển sang kinh tế thị
trường, cũng như ở các nơi khác trên
toàn vùng châu thổ Bắc Bộ, ở Cát Đăng,
các hợp tác nông nghiệp và thủ công
nghiệp đứng trước những khó khăn và
thử thách to lớn. Những chính sách mới
của Đảng và Nhà nước đã kịp thời giúp
cho sản xuất nông nghiệp vượt qua được
những khó khăn và thử thách đó. Đối với
các ngành nghề thủ công, các làng nghề,
những chính sách của Nhà nước cũng tạo
ra những khởi sắc trong việc khôi phục
lại những nghề truyền thống. ở Cát
Đằng, từ những năm cuối thập kỷ 80, đầu
thập kỷ 90, nghề sơn quang được phục
hồi mạnh mẽ. Hợp tác xã Sơn mài được
chuyển thành Công ty Mỹ nghệ sơn mài
làm ăn khá phát đạt, sản xuất hàng cho
nhiều nước như Pháp, Ý, Xinh- ga- po,
Đài Loan, Thái Lan, Úc...Sản phẩm xuất
đi khá đa dạng, chủ yếu là đồ gia dụng và
trang sức (hộp, khay, bàn phấn, lẵng quả,
giá gương, va ly...). Ngoài ra, hầu hết các
hộ gia đình trong làng cũng được mở rộng
làm nghề, tự hạch toán mua nguyên vật
liệu về làm nghề và bán cho các đại lý,
hay bán tự do trên thị trường. Mặt khác,
thời kỳ này, nhu cầu dùng đồ sơn trên thị
trường tăng vọt (do việc thờ cúng trong
các đình chùa, việc tu sửa di tích được
phục hồi, việc thờ cúng trong nhân dân
phát triển hơn trước...) nên đồ sơn Cát
Đằng tiêu thụ rất chạy. Nhiều người
nhận được gia công đồ, làm ngay tại nhà,
để khách hàng từ khắp các nơi đến lấy;
hoặc làm mới, tân trang các đồ phục vụ
thờ cúng trong các đình chùa, đền miếu,
nhà thờ họ của các làng quê trong vùng.
Đối với việc tân trang các đồ cũ, người
Cát Đằng được dân các làng mang đô về
tận nhà (trừ tượng, vì “tượng bất ly tự",
nghĩa là, tượng không rời khói chùa). Khi
các hợp đồng vãn việc, các gia đình lại
chủ động làm các hàng thờ, đồ gia dụng
để bán ngay tại nhà hoặc phục vụ hội
Phủ Giày như trước đây. Chỉ riêng xóm
Hùng Vương hiện nay có hơn 10 hộ bám
dọc theo đường 57 B vừa mở xưởng làm
nghề, kết hợp mở cửa hiệu để bán hàng
của nhà mình làm ra và hàng thu mua,
ký gửi. Ngoài ra, nhiều tốp thợ sơn Cát
Đăng lại đi hành nghề khắp các làng quê
trên mọi miền đất nước. Cũng như trước
đây, dưới thời phong kiến, đã hình thành
các thợ cả chiêu tập thợ đi làm ăn lưu
động ở các làng quê trong vùng, sáng đi
tối về hoặc đi trong thời gian ngắn lại về;
xa hơn là các thành phố, thị xã, các vùng
quê ở các tỉnh ngoài, đi hàng tháng, thậm
chí hàng vài tháng. Theo tính toán sơ bộ,
hiện nay có hàng vài chục tốp thợ hành
nghề ở các thành phố, thị xã. Nhiều
người trực tiếp nhận được các hợp đồng
lớn, như trùng tu tân trang lại các di tích
lịch sử, các đình chùa đền miếu chưa
được xếp hạng, làm mới các đình chùa
hay từng bộ phận của các công trình
đó..Nhiều hợp đồng trị giá vài trăm triệu
đồng, thu hút hàng vài chục thợ đến làm
và thợ được trả công tương đối cao. Một
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
========ễễỶễỶễễỶễỶễỄễễE=EEEEEỶẼỶEẼEETTTETETEỄ=——>ễ—
số người có xưởng thợ, mua được đất đai,
xây được nhà tại Hà Nội, chẳng hạn, ông
Trương Đức Thanh có xưởng làm nghề,
thường xuyên thu hút 9ã thợ đi làm, mức
lương cho thợ có tay nghề thấp nhất là
300.000 đồng một tháng (đã trừ tiền ăn
uống), thợ có mức lương cao nhất bình
quân 1.200.000 đồng.. Ông Bùi Văn Hùng
cũng thường xuyên huy động 20 thợ làm
cùng. Điều đáng lưu ý là, giờ đây, người
Cát Đằng làm hàng "đa năng" hơn, ví dụ,
đồ mộc trước đây phải mua của La
Xuyên, nhưng giờ đây, người Cát Đằng
cũng đục chạm được, trình độ kỹ thuật,
mỹ thuật không thua kém thợ La Xuyên.
Đồ đan trước đây người Cát Đăng ít làm,
nhưng giờ đây làm nhiều hơn. Có thể nói,
bước qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế
cuối thập kỷ 80, người Cát Đằng với nghề
sơn truyền thống của mình đã ăn nên
làm ra, tạo ra những đổi thay tích cực
trong cuộc sống của hầu hết các gia đình
trong làng. Theo tính toán sơ bộ, thì mức
sống hiện nay của các hộ làm nghề sơn
tăng 10 lần so với mức sống trước thời kỳ
đổi mới và bằng 1, lần so với các hộ
chuyên làm nông nghiệp. Số hộ giàu
(mức thu nhập trừ chi phí sản xuất đạt
từ 10 triệu đến 90 triệu một năm) tuy còn
chiếm tỷ lệ khiêm tốn (1%), nhưng số hộ
khá và trung bình tăng lên rõ rệt. Số hộ
nghèo chỉ còn khoảng 5%.
Tuy nhiên, từ năm 1994 đến nay,
nghề sơn quang Cát Đằng đứng trước
những khó khăn rất lớn. Một trong
những nguyên nhân đầu tiên là do sự
làm đối làm ẩu, trước hết của Công ty mỹ
nghệ sơn mài. Một số người lãnh đạo của
Công ty đã cho làm hàng theo kỹ thuật
sơn Nhật Bản, bỏ sơn ta truyền thống. Kỹ
thuật sơn Nhật Bản là nhanh vì có thể
"trốn" được một số công đoạn, nguyên
liệu rẻ, nên giá thành sản phẩm hạ, hàng
lại bóng đẹp bên ngoài, nhưng các sản
phẩm đó chỉ thích hợp khi làm ở xứ ôn
đới, còn nếu làm tại xứ nhiệt đới như ta
thì chỉ sau một thời gian ngắn, mặt sản
phẩm lộ rõ những vết nứt của sơn, mặt
sân sùi rồi bong lớp sơn bên ngoài nên
các khách hàng giảm dần và chấm dứt
hợp đồng làm ăn với công ty, làm cho
công ty puải phá sản (cuối 1996). Hiện
nay trụ sở của công ty bị bỏ hoang nhưng
tài sản chưa thanh lý được. Số xã viên
của công ty không còn công ăn việc làm,
mất nguồn thu nhập chính, đời sống rất
khó khăn. Ngoài công ty làm ăn đối ẩu,
bỏ kỹ thuật truyền thống, cũng có nhiều
tư nhân đi theo con đường đó.
Cũng như đối với bất cứ nghề và làng
nghề nào, nghề sơn quang và làng nghề
sơn quang Cát Đằng đang đứng trước
nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp cần
được các cơ quan chính sách, các cấp
chính quyền quan tâm giải quyết:
- Một tà, việc duy trì nghề hiện nay
rất khó khăn do mấy nguyên nhân:
+ Tình trạng thời gian nhàn rỗi (nông
nhàn) quá nhiều do không tìm được công
ăn việc làm. Hiện nay, trong làng có hai
loại hộ. Một loại là những hộ làm nông
nghiệp trước đây (chiếm khoảng 3/3 số hộ
trong làng), thì cũng có bình quân ruộng
đất đầu người rất thấp (1 sào 4 thước).
Với số ruộng đó, thời gian làm việc trên
đồng ruộng của mỗi hộ (với 2 lao động và
2 nhân khẩu ăn theo) ước tính chỉ được
khoảng ð tháng, còn 7 tháng nữa là "nông
nhàn”, Thêm nữa, dù có lao động cật lực
và tính mọi cách làm ăn thì số ruộng trên
không thể tạo ra nguồn thu nhập bảo
đảm cho cuộc sống của từng hộ gia đình.
Do vậy họ phải đi làm thuê để kiếm sống.
Loại hộ thứ hai, vốn là các hộ xã viên của
50
NGUYỄN LAN HƯƠNG
—— __———
hợp tác xã sơn mài, chiếm khoảng 1/3 số
hộ trong làng. Sau khi công ty xuất nhập
khẩu sơn mài phá sản, số xã viên của
công ty này không có công ăn việc làm,
đời sống rất khó khăn. Để tháo gỡ khó
khăn trên cho bà con, được sự đồng ý của
huyện, xã đã tạm chia cho mỗi khẩu của
các gia đình thuộc diện này 4 thước
ruộng. Cũng như các hộ nông nghiệp ở
trên, số ruộng quá ít ó1 trên đây không
bảo đảm việc làm, đời sống cho mỗi hộ gia
đình nên họ phải đi làm thuê để có thêm
thu nhập. Như vậy, gần hết số hộ trong
làng hiện nay thuộc diện đi làm thuê.
Tuy nhiên, việc đi làm thuê này cũng
không thuận lợi vì không dễ tìm được
việc làm.
+ Đời sống người làm nghề rất khó
khăn do nguồn thu nhập không ổn định.
Chỉ có một số ít người thường xuyên tìm
kiếm được những hợp đồng gia công có
giá trị lớn nên có thu nhập cao và trả
công cho thợ đến làm thuê có thể chấp
nhận được (25- 30.000 đồng một ngày
công), còn đa số các chủ thuê thợ không
tìm được những hợp đồng làm hàng
thường xuyên để có thể thu hút được
nhiều thợ nhà rỗi đến làm. Do vậy số thời
gian làm việc thực tế ở làng nghề hàng
năm không cao.
+ Từ sau khi có chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước
và từ sau khi nền kinh tế đi vào cơ chế
thị trường, không chỉ Cát Đằng, Thượng
Thôn và Trung Thôn làm nghề sơn quang
với các sản phẩm truyền thống của mình
mà còn có nhiều làng khác trong huyện
và ngoài huyện cũng học và làm nghề
này. Cho nên, người Cát Đằng chỉ làm ăn
được trong vài ba năm đầu tiên, khi cơ
chế mới "bung ra". Còn từ khi hình thành
nhiều "làng nghề sơn", việc làm nghề
cùng với thu nhập của người Cát Đằng
bắt đầu bị chững lại và vài năm nay, gặp
rất nhiều khó khăn, thu nhập giảm sút vì
"sung đã vượt cầu", tiêu thụ sản phẩm
rất chậm, không nhận được nhiều hợp
đồng gia công hàng vì có nhiều nhóm thợ
cạnh tranh nhau gay gắt. Một số cán bộ
xóm
năm nay, số lượng thợ sơn Cát Đằng đi
làm ở các tỉnh ngoài giảm hẳn; hầu hết
các nhà mái bằng hiện nay trong làng là
của những thợ sơn làm ăn phát đạt từ 4-ð
năm trước, còn một hai năm nay, số nhà
mái bằng làm mới giảm hẳn. Thợ sơn các
nơi mượn tiếng "Cát Đằng" để làm nghề,
tạo ra những sản phẩm kém chất lượng,
bán rất rẻ. Một vài ví dụ, trước hết, đối
với hàng đan, kinh nghiệm từ xưa của
các cụ cho hay, để đồ đan sau khi sơn
xong được bền lâu dài, không bị mọt thì
phải ngâm nứa trong 6 tháng, nhưng thợ
các nơi chỉ ngâm 3 tháng, rồi rút xuống
một tháng, thậm chí có người chỉ ngâm
vài ngày hoặc không ngâm, làm cho "da"
nứa không "chết", nước ngâm không
thấm vào *hịt nứa để có thể diệt chết các
loại vi khuẩn gây mọt, nên hàng làm
xong, dù được sơn một lớp dày, bóng và
trông hình thức cũng đẹp, nhưng chỉ ít
ngày sau là mọt đùn từ phía trong ra,
hoặc các đường nối bị hở do ngót nứa, do
không ăn sơn. Có chủ hàng nhận đồ gia
công của người khác để xuất khẩu do
không kiểm tra cẩn thận từ khâu làm
hàng đến khi nhận hàng nên đã phải
ngậm "quả đắng": hàng xuất chưa ra khỏi
biên giới mà đã bị mọt đùn từ trong ra;
hoặc đối với hàng gỗ thì bị nứt sơn, sân
sùi mặt, bị khách hàng trả lại, lỗ tới 4
triệu đồng. Vào dịp hội Phủ Giày hàng
năm, người các nơi làm ra những hàng
thuộc làng Cát Đằng cho rằng, õ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ö]
“===———————_—ỄỄEEE——_
không đúng quy trình kỹ thuật, nguyên
liệu kém, mang ra chợ bán rất rẻ để đánh
lừa khách hàng. Một chiếc ấm ủ nếu làm
đúng quy trình, đủ nguyên liệu và đúng
chất liệu thì giá thành phải bán được
14.000 đồng trở lên, người làm hàng mới
có lãi chút ít, nhưng hàng của thợ các nơi
khác chỉ bán có 9.000 đồng, khách hàng
hám rẻ hoặc không biết nên mua loại
hàng này, chứ không mua hàng của
người Cát Đăng có giá thành cao. Một ví
dụ khác, đối với hàng đồ gỗ, thợ các nơi
thường làm không đúng chủng loại gỗ,
giảm chất lượng sơn, bán ra với giá thành
hạ hơn nhiều so với hàng đặt làm đúng
chất liệu và quy trình kỹ thuật, ví dụ,
chênh lệch bình quân giá của một cỗ ÿ
lên tới hàng vài trăm nghìn đồng trở lên.
Mặt hàng càng nhiều tiền thì giá chênh
lệch giữa hàng đặt và hàng chợ càng cao.
Trên thực tế, nhiều khách hàng không
biết nên mua phải các loại hàng gia công
này; còn những người thông hiểu, họ trực
tiếp đến các gia đình làm nghề ở Cát
Đằng đặt hàng theo chất liệu gỗ, sơn,
hình thức..., dù giá có cao hơn nhiều,
nhưng là hàng bảo đảm chất lượng.
Sự "bung ra" của nghề sơn cùng với
việc làm đối, làm ẩu của "thợ sơn" ở các
làng mới học được nghề này đã ảnh
hưởng xấu tới việc tiêu thụ sản phẩm,
việc ký kết các hợp đồng, đến uy tín và
đến cả việc duy trì nghề của người Cát
Đằng. Một số thợ Cát Đằng khi đi bán
hàng hay đi các nơi nhận việc cũng bị
những "lời ra tiếng vào" phàn nàn về chất
lượng hàng sơn hiện nay, mà trên thực
tế, họ đã chịu oan từ sự làm dối, làm ẩu
của thợ "Cát Đằng dởm". Tình hình trên
đây cũng ít nhiều tác động tiêu cực, tạo
ra những mâu thuẫn trong tâm tư của
người thợ sơn Cát Đằng. Trong ý thức
sâu thăm của người thợ sơn Cát Đằng
hiện nay, thấy cần phải duy trì nghề
truyền thóng của cha ông, cần phải làm
ra những sản phẩm có chất lượng theo
đúng "phong cách Cát Đằng", nhưng như
thế thì lại không có lãi, vì đầu tư công sá,
nguyên vật liệu rất nhiều, mà giá thành
sản phẩm lại cao, rất khó tiêu thụ. Ngược
lại, nếu làm dối, làm ẩu, miễn là có sản
phẩm để bán được, dù rẻ nhưng có lãi,
giao hàng xong là "sống chết mặc bay,
tiền thầy bỏ túi" thì lương tâm bị cắn dứt,
lòng tự ái nghề nghiệp bị động chạm...Đối
với một bộ phận lớp trẻ Cát Đằng hiện
nay còn có một hiện tượng đáng lưu ý là,
trình độ nhận thức và khả năng tay nghề
đều cao hơn so với cha ông xưa kia (ví dụ
rõ rệt nhất là ở khâu mờm), nhưng họ
chịu những tác động tiêu cực từ bên
ngoài nên cũng làm ẩu để có tiền tiêu.
Thành thử, hiện nay, không dễ dàng tìm
được những nghệ nhân cao tuổi có tay
nghề cao, từng "vang bóng một thời", như
nghệ nhân Bùi Văn Vệ. Nhiều bậc nghệ
nhân cao tuổi nói với chúng tôi bằng
giọng buồn phiền và nuối tiếc rằng, nghề
sơn Cát Đằng hiện nay, "tre già mà măng
chẳng mọc".
- Hai là, tình trạng ô nhiễm môi
trường do làm nghề gây ra. Ở Cát Đằng,
ô nhiễm môi trường thể hiện ở cả ô nhiễm
nguồn nướe và ô nhiễm không khí. Theo
tính toán sơ bộ của một số cán bộ các đội,
xóm thuộc làng Cát Đằng cũ, thì bình
quân mỗi ngày cả làng có 3 ô tô nứa từ
các nơi chở về, ngâm xuống các ao trong
làng, các mương, rạch ven làng. Nứa
ngâm làm cho nguồn nước bị ô nhiễm
trầm trọng: màu nước đen ngòm, mùi
thối nồng nặc, ngay cả trâu bò cũng
không uống được. Không chỉ nước ở các
giếng cũ mà cả nước ở 7 giếng khoan của
7ï gia đình mới khoan, sâu trên 80 mét
52
NGUYỄN LAN HƯƠNG
“=————— CC ắn
cũng không thể dùng được. Hiện nay dân
làng chủ yếu dùng nước mưa. Trong tình
hình khí hậu và thời tiết diễn biến phức
tạp như hiện nay thì việc trữ nước mưa
dùng trong mùa khô cũng không phải lúc
nào cũng thuận lợi. Ngoài ô nhiễm nước
ao hồ, vấn đề chất thải, nước thải cũng
đang rất bức bách. Đường làng ngõ xóm
hiện nay tuy đã được nâng cấp, nhưng
nước thải và chất thải sinh hoạt, làm
nghề của mấy trăm hộ dân không qua xử
lý, trực tiếp chảy ra các cống rãnh, tiêu
không kịp, tràn lên cả mặt đường, gây
mất vệ sinh lớn, làm đường nhanh bị
xuống cấp. Bên cạnh ô nhiễm nguồn
nước là ô nhiễm không khí. Mùi thối do
gỗ, nứa ngâm, đặc biệt là những khi vớt
lên để phơi, thường xuyên bốc lên khắp
xóm làng. Muỗi và các loại côn trùng gây
bệnh hiện nay cũng nhiều hơn xưa kia.
Dân làng còn có một mối lo khác là rồi
đây, khi dân số trong làng đông lên, nhu
cầu về nhà ở cũng theo đó gia tăng, diện
tích ao hồ sẽ dần dần bị thu hẹp, chẳng
những không có nơi để ngâm gỗ, nứa làm
nghề mà còn không có nơi tiêu thoát nước
thải, nước mưa trong mùa mưa bão. Ô
nhiễm môi trường đang ảnh hưởng lớn
đến sức khoẻ của dân làng là một trong
những vấn để bức bách nhất, cả trước
mắt cũng như về lâu dài của Cát Đằng,
cũng như ở các làng nghề hiện nay. Rất
tiếc, chúng tôi chưa có trong tay một con
số chính thức về tình hình các loại bệnh
tật do làm nghề gây ra đối với nhân dân
địa phương để minh chứng cụ thể cho
nhận định trên.
Ba là, việc làm nghề ảnh hưởng lớn
đến học tập của con cái, thể hiện ở điểm
sau:
+ Nhà ở và khuôn viên của phần đông
gia đình làm nghề rất chật, nhà của bà
con lại hầu hết là nhà cấp 4, kiến trúc
theo lối cổ nên rất chật, chưa thể đáp ứng
yêu cầu cầu về nhu cầu ở của từng hộ gia
đình (cã về diện tích, ánh sáng, độ
thoáng mát.... Trong tình hình đó, con em
của đa số các gia đình không có chỗ học ở
nhà đạt tiêu chuẩn.
+ Tiếng ổn do làm nghề cũng ảnh
hưởng lớn đến việc học tập ở nhà của các
chấu.
+ Điều đáng lưu ý nhất, cũng là tình
hình chung ở nhiều làng nghề khác là
việc làm nghề có "lợi thế" là trẻ nhỏ từ 9-
10 tuổi trở lên cũng có thể kiếm được tiền
ngay, nên một bộ phận trẻ nhỏ lao vào
kiếm tiền, sao nhãng việc học hoặc không
chú trọng đúng mức vào việc học hàng
ngày, chất lượng học tập giảm sút. Trong
khi đó, một số bậc cha mẹ do hoàn cảnh
khó khăn, không đáp ứng kịp thời việc
mua sắm các khoản phục vụ học tập và
các khoản đóng góp cho nhà trường nên
đã bắt con em lao động thêm để "đỡ gánh
nặng cho bố mẹ". Những dịp làm nghề
bận rộn, để kịp giao hàng đúng hạn,
nhiều gia đình bắt con em nghỉ học để
làm hàng. Những gia đình không bắt con
nghỉ học nhưng khi chúng đi học về lại
bắt phụ làm, nên trẻ không có thời gian
học bài. Hậu quả là, kiến thức cơ bản của
một bộ phận lớn học sinh làng Cát Đằng
không chắc. Trong hai năm học vừa qua,
có tới một nửa số học sinh không vào
được lớp 10 do thi trượt, sau đó, chúng ở
nhà làm nghề luôn, không tiếp tục theo
học nữa. Số học tiếp cấp III đến năm lớp
12 cũng có tới một nửa trượt tốt nghiệp.
Tình hình đó làm cho một số không ít
phụ huynh nhận thức rằng, đi học vất vả,
tốn kém mà chưa chắc đã thành đạt, thôi
thì cứ cho con em học để biết chữ là được
rồi, còn để cho chúng ở nhà làm nghề
nuôi thân, nghề này cũng không cần học
cao làm gì Œ?). Do những nguyên nhân và
những nhận thức trên, mà một bộ phận
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Dổ
—==————EEEEEE
lớn trẻ con trong làng chỉ học hết cấp II
(Trung học cơ sở) rồi theo nhau bỏ học.
Qua trò chuyện với một số cán bộ các xóm
trong làng Cát Đằng, chúng tôi được biết,
từ năm học 1996-1997 trở về trước, mỗi
năm, có khoảng 50% số học sinh tiếp tục
theo học cấp III (Phổ thông trung học),
nhưng từ 2 năm nay, con số đó giảm đi
đáng kể, chỉ còn khoảng 30%. Số học sinh
vào được đại học cũng rất ít.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ
KHUYÊN NGHỊ
Trên cơ sở tìm biểu về lịch sử của
nghề sơn quang Cát Đằng, chúng tôi thấy
nghề sơn quang Cát Đằng là một nghề
độc đáo và có truyền thống lâu đời ở nước
ta. Tính truyền thống biểu hiện trên các
mặt chất liệu, kỹ thuật và nghệ thuật chế
tác. Nghề sơn quang Cát Đằng ngày nay
vẫn giữ nguyên giá trị truyền thống vốn
có của nó đặc biệt là đáp ứng được nhu
cầu thiết yếu của xã hội hiện tại. Chăng
hạn như việc trùng tu các di tích, như có
thể sử dụng các chất liệu tre nứa vốn có
của Việt Nam, nguồn nhân lực đổi dào
vừa cần cù, vừa khéo léo như nhân dân
vùng Cát Đăng hiện nay. Theo chúng tôi
nghề Sơn Quang Cát Đằng cần được duy
trì không phải đơn thuần với ý nghĩa giữ
øìn truyền thống vốn có, mà còn có nhiều
khả năng cung ứng những mặt hàng để
sử dụng trong tiêu dùng xã hội và đặc
biệt những mặt hàng trong trang trí nội
thất trong sản xuất các đồ lưu niệm.
Để có thể góp phần vào việc giúp
nghề sơn quang và làng nghề sơn quang
Cát Đằng thoát ra khỏi những khó khăn
và vướng mắc đã trình bày ở trên, với
lòng biết ơn bà con nhân dân Cát Đằng,
từ góc độ của người nghiên cứu, chúng tôi
xin được nêu bốn khuyến nghị đối với
Đảng bộ chính quyền xã Yên Tiến cùng
các ngành, các cấp có thẩm quyền:
1. Cát Đằng nằm trong một vùng
trung tâm văn hoá của non Côi sông VỊ,
ở đây hàng năm có hội Phủ Giây, có
phiên chợ Viềng độc đáo, đồng thời nó lại
nằm trong một tuyến có thể tổ chức tham
quan du lịch cùng nhiều di tích nghệ
thuật danh lam thắng cảnh khác. Tuyến
đường có thể đi từ Hà Nội đến Bích Động
Ninh Bình, qua cố đô vua Định, chùa
Non Nước, làng chạm gỗ La Xuyên, Phủ
Giây, đến làng sơn quang Cát Đằng...
chùa Phổ Minh Nam Định. Để đáp ứng
được điều này địa phương xã, huyện, tỉnh
và ngành du lịch cần tổ chức thành một
làng nghề - văn hoá du lịch vừa có môi
trường thẩm mỹ theo một quy hoạch
khoa học, giảm tối đa sự ô nhiễm môi
trường, vừa đáp ứng nhu cầu tham quan
vừa phát triển được nghề truyền thống.
2. Nghề sơn quang Cát Đăng từ các
hình thức trang trí, cách vẽ nét, những
mảng mầu tương phản của chất liệu sơn
quang, dát vàng, bạc đều sử dụng các loại
chất liệu như tre nứa gỗ rất phù hợp với
quan niệm thẩm mỹ của người nông dân
Việt Nam. Nghề này trong tiến trình lịch
sử của nó đã để lại nhiều vật phẩm có
những hình dáng và những mô típ trang
trí phong phú với những kỹ thuật sản
xuất có tính chất gia truyền nên cần được
nghiên cứu và đánh giá sâu sắc.
Ví dụ: Để hệ thống hoá sự phát triển
những đồ dùng sơn và các hình thức
trang trí trên đồ dùng qua các hiện vật
còn lưu giữ trong bảo tàng, trong nhân
dân. đặc biệt qua sự tái hiện lại của các
nghệ nhân già có tay nghề cao. Nếu có
thể được, địa phương nên thành lập một
phòng trưng bày chuyên đề các hiện vật
quý của sơn quang Cát Đăng.
54
NGUYỄN LAN HƯƠNG
=———ễ—————————————————____ ..VẮ
3. Trong việc øìn giữ nghề truyền
thống không phải chỉ bảo tổn mà không
nghĩ đến sự phát triển các sản phẩm sơn
quang Cát Đăng có khả năng đáp ứng
việc trang trí nội thất trong những ngôi
nhà hiện đại có hiệu quả cao. Một trong
những hiệu quả ấy không thể phủ nhận
được đó là khả năng thích ứng cho một
không gian. Đặc biệt đối với vùng nhiệt
đới trong sự điều hoà của khoa học vật lý
thích ứng với môi trưởng (ánh sáng, âm
thanh, nhiệt độ...). Mặt khác nghề sơn
quang Cát Đăng lại có tính ưu việt trong
thị trường của các mặt hàng lưu niệm
(hàng nhẹ dễ mang lại có nhiều khả năng
biểu đạt nghệ thuật). Vì vậy để có thể
phát triển được nghề sơn quang, Nhà
nước cần có chính sách tạo điều kiện cho
địa phương huyện Ý Yên tổ chức lớp đào
tạo thợ trẻ chuyên ngành sơn quang để có
thể làm ra được các sản phẩm theo kỹ
thuật truyền thống. Đồng thời chế tác
được những sản phẩm mới đáp ứng được
những nhu cầu hiện đại.
4. Để phát triển được nghề sơn
quang, không thể để mãi một lề thói sản
xuất bảo thủ như hiện nay. Sản xuất cần
được cải tiến, có thể áp dụng một số khâu
công nghệ như ngâm cây, vót nan chẻ
nan, ép cốt, cải tiến tư thế làm việc của
người lao động. Duy trì các thao tác cần
có độ khéo léo tỉnh tế của bàn tay người
thợ.
Cuối cùng cần có một hệ thống tổ
chức làm sao tránh được những việc làm
hàng giả, việc tu bổ các di tích không
đúng với kỹ thuật sơn quang. Và cũng
trong việc này việc ký kết hợp đồng nên
hạn chế các khâu trung gian để người
sản xuất được hưởng những đãi ngộ xứng
đáng với họ để không phải trả những chỉ
phí không cần thiết cho những khâu
trung gian dưới danh nghĩa của tổ chức
xuất khẩu mua bán côta (giấy xuất hàng)
cho những người làng nghề. Nếu tình
trạng này còn tiếp diễn thì cũng không
thể có sản phẩm tốt vì thù lao rẻ người
thợ lại phải bớt công đoạn f
N.L.H
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1l. Các sắc phong của các triều 0uua
phong cho các uị thành hoàng làng Cát
Đăng (1601- 1924), lưu tại đình làng Cát
Đăng.
2. Nguyễn Đức Cường. "Về ngành nghề
sơn mài và sơn quang dầu của ta". Tạp chí
Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3-1986.
3. Nguyễn Ngọc Dũng. "Làng nghề
truyền thống Việt Nam, nghề sơn quang
Cát Đăng". Tạp chí Văn hoá nghệ thuật,
Hà Nội, số 1-1996.
4. Truyền Đăng: "Đôi nét về tranh sơn
mài", Tạp chí Mỹ thuật thơi nay, Hà Nội,
số 5-1991.
ö. Hồ sơ di tích đình Cát Đằng, Sở Văn
hoá thông tin tỉnh Nam Hà, bản đánh máy
- lưu tại Vụ bão tồn bão tàng, Bộ văn hóa.
6. Lê Huyên: Nghề sơn cổ truyền Việt
Nam, Nxb Mỹ thuật. Hà Nội 1995,
7ï. Nguyễn Nhã: "Tìm về cội nguồn
nghề sơn, Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội, số
1-1991.
8. Sổ hương ước xã Cát Đăng năm
1942, bản chữ Việt, chép tay, lưu tại Viện
Thông tin khoa học xã hội ký hiệu
Hư.2454.
=9. Tài liệu Hán Nôm đỉnh làng Cát
Đằng, bản đánh máy, lưu tại Sở Văn hóa
thông tin tỉnh Nam Định.
10. Thần phả làng Cát Đăng, bản chũ
Hán, chép năm Tự Đức 10 (1857), lưu tại
đình làng Cát Đăng.