VĂN MẪU LỚP 11
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA BÀI CA NGẮN ĐI
TRÊN BÃI CÁT
BÀI MẪU SỐ 1:
I TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
II GIÁ TRỊ NỘI DUNG
1 Nghĩa tả thực và nghĩa biểu tượng của hình tượng người đi trên cát
- Nghĩa thực của bài thơ là hình ảnh người đi trên bãi cát mà tác giả có thể đã từng
chứng kiến, đã từng trải qua trên hành trình đi thi Hội, thi Đình từ Hà Nội vào Huế, qua
các tỉnh miền Trung Quảng Bình, Quảng Trị. Dải đất hẹp này có nhiều bãi cát trắng mênh
mông, bằng mắt thường có thể nhìn thấy một phía là dãy núi Trường Sơn, một phía là
biển Đông. Vì vậy hình ảnh bãi cát dài, núi muôn trùng, sóng dào dạt là những hình ảnh
có thực đã gợi ý tác giả sáng tác bài thơ.
- Tuy nhiên, hình ảnh không dừng lại ở nghĩa tả thực, nghĩa cụ thể mà đã được
nâng lên tầm khái quát, mang ý nghĩa biểu tượng.
+ Hình ảnh người đi trên bãi cát gian nan, vất vả “đi một bước như lùi một bước”
mà con đường vẫn mờ mịt phía trước mang ý nghĩa biểu tượng về con người vất vả, gian
nan trên con đường thi cử, làm quan, rộng hơn là con đường đời mịt mù, bế tắc.
+ Cũng có cách hiểu cho rằng trong hoàn cảnh Cao Bá Quát viêt bài thơ này thì
hình ảnh “cùng đồ” còn mang ý nghĩa tượng trưng cho con đường bê tắc của xã hội.
2. Tầm nhìn và nhân cách của Cao Bá Quát
- Qua tâm trạng bi phẫn và thất vọng của nhân vật trữ tình trong bài thơ, có thể
thấy Cao Bá Quát đã nhận ra sự bảo thủ, lạc hậu của chế độ khoa cử nói riêng, chế độ nhà
Nguyễn nói chung. Người trí thức hoài nghi và chán nản, bế tắc trước con đường công
danh truyền thông. Câu hỏi như tự vấn: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” đã thôi thúc họ
Cao cần phải làm được việc gì lớn lao hơn, có ích hơn cho đời. Phải chăng vì vậy mà Cao
Bá Quát đã đến với cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn?
- Qua bài ca ngắn đi trên bãi cát, người đọc thấy dược nhân cách cao đẹp cúa
người anh hùng họ Cao. Ông chán ghét và phê phán những kẻ bon chen trên con đường
danh lợi. Ông tự vấn đồng thời cũng tư thức tỉnh bản thân trước con đường khoa cử đã lỗi
thời, con đường công danh đầy cám dỗ. Chỉ riêng điều này có thể thấy ông là một con
người đầy khí phách. Cao Bá Quát có ý thức trách nhiệm của một kẻ sĩ, muốn sống có ích
cho đời. Ông là người có tầm nhìn tiến bộ và sự lựa chọn sáng suốt: từ bỏ cái cũ đã lỗi
thời, khởi nghĩa phản kháng lại triều đình nhà Nguyễn.
III GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1. Sáng tạo độc đáo về hình tượng nghệ thuật: hình tượng bãi cát và người di
trên bãi cát với sự kết hợp giữa nghĩa thực và nghĩa biểu tượng.
Tác giả sử dụng hình ánh Đầu gió hơi men thơm quán rượu Người say vô số.tỉnh
bao người để nói về sự cám dỗ của bả công danh đối với người đời vừa đúng. vừa dễ
hiểu. Hình tượng con đường (chữ Hán: lộ, đồ, đạo) khá phổ biến trong thơ ca trung đại.
Tuy nhiên, hình tượng bãi cát và người đi trên bãi cát là mộ: sáng tạo nghệ thuật độc đáo,
không vay mượn, không công thức, ước lệ mà bắt nguồn từ sự quan sát hiện thực.
2.Đặc điểm thơ cổ thể và những thành công nghệ thuật
- Bài ca ngắn đi trên bãi cát thuộc loại thơ cổ thể. Người ta dùng khái niệm cổ thể
để phân biệt với thơ cận thể là thơ Đường luật – thể thơ được đặt ra từ thời Đường. Thơ
cổ thể (còn được gọi là ca, hành, từ) là thơ tự do hơn thơ Đường luật. Tự do về số chữ
trong câu (3, 4, 5, 7 chữ không hạn định), thể tạp ngôn các câu có sô chữ nhiều ít đan xen
nhau (3 chữ xen 7 chữ, hoặc 3, 5, 7 chữ xen nhau…). Tự do về sô câu trong bài (không
hạn định số câu). Tự do về vần (một vần xuyên suốt toàn bài, hoặc thay đổi nhiều vần, có
thể gieo vần bằng hoặc vần trắc). Tự do về nhịp điệu (ngắt nhịp linh hoạt, không gò bó).
- Trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát, các câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, từng cặp
đôi xứng với số lượng chữ không đều nhau. Bài thơ khá tự do về vần điệu, vần bằng, vần
trắc đan xen nhau. Nhịp thơ cũng thay đổi linh hoạt. Nhịp điệu câu thơ trúc trắc, gồ ghề,
diễn tả con đường gập ghềnh, khó đi của những bước chân trên bãi cát dài – tượng trưng
cho con đường công danh đáng chán ghét, con đường đời nhọc nhằn, vất vả.
BÀI MẪU SỐ 2:
1. NỘI DUNG
a)Bốn câu đầu:Những yếu tố tả thực và tượng trưng trong lời thơ:
“Bãi cát,bãi cát dài!
…….
Khách bộ hành nước mắt tuôn rơi”
-Bốn dòng thơ trên tả thực cảnh đi trên bãi cát.Đi trên cát đã khó, xét về hông gian
thì đường xa, xung quanh thì lại bị vây bởi núi, sông, biển; xét về thời gian thì mặt trời đã
lặn mất mà vẫn tất tả đi .Như vậy bãi cát là hình ảnh tả thực, gợi lên một không gian và
thời gian đầy khó khăn, nhọc nhằn.Đó không chỉ là con đường thực mà còn là con đường
hiểu theo nghĩa tượng trưng. Nóp biểu tượng cho con đường xa xôi, mờ mịt và còn biểu
trưng cho con đường đời, con đường công danh nhọc nhằn của tác giả và của biết bao trí
thức đương thời.
- Trên bãi cát ấy là hình ảnh một con người-nhà thơ , người đi trên bãi cát dài.Hình
ảnh người đi trên bãi cát cũng là hình ảnh mang tính chất biểu trưng.Đó là hình ảnh của
người đi tìm chân lí giữa cuộc đời.
- Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh con đường cùng.Đó là hình ảnh “đường
ghê sợ” , “Phía Bắc, núi Bắc núi muôn trùng. Phía Nam, núi Nam, sóng dào dạt”. Đó
cũng là hỉnh ảnh tượng trưng cho con đường đời không lối thoát.
b)Sáu câu tiếptheo:Suy nghĩ của Cao Bá Quát về danh lợi.
-Hai dòng thơ: “Không học được tiên ông phép ngủ-Trèo non, lội suối giận không
nguôi” thể hiện nỗi chán nản của tác giảvì tự mình phải hành hạ thân xácđể theo đuổi
công danh.
-Bốn dòng tiếp theo: “Xưa nay phường danhlợi-Bôn tẩu trên đường đời-Gió
thoảng hơi men trong quán rượu-Say cả hỏi tỉnh được mấy người” nói về sự cám dỗ của
bả công danh đối với người đời. Hình ảnh người đời thấy ở đâu có quán rượu ngon đều
đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo thoát khỏi sự cám dỗ của rượu.Danh lợi cũng là một thứ rượu
dễ làm say lòng người.
=> Sáu dòng thơ này chuẩn bị cho kết luận của tác giả là cần phải thoát ra khỏi
cơn say danh lợi vô nghĩa. Cái nhìn xa rộng của Cao Bá Quát chính là ở chỗ đã nhận thấy
rõ tính chấtvô nghĩa của lối học hkoa cử, con đường công danh theo lối cũ:Học- thi-làm
quan.Với tầm nhìn xa trông rộng đó Cao Bá Quát đã thấy được sự lạc hậu của học thuật
đương thời nói riêng, sự bảo thủ, trì trệ của nhà Nguyễn nói chung. Với nhân cacxh1 cao
đẹp, CBQ đã thể hiện thái độ phê phán những kẻ tất tả trên con đường danh lợi, đồng thời
cũng tự cảnh tỉnh mình trước cái bả công danh.
c) Phần còn lại:Tâm trang- tầm tư tưởng của CBQ.
- Bên cạnh ý nghĩa tả thực, bãi cát còn có ý nghĩa biểu tượng, thể hiện tâm trạng
của nhà thơ. Đó là tâm trạng đầy mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa khát vọng công danh, phú
quý với thực chất của bả vinh hoa. Qua hình tượng thơ, tác giả cho người đọc thấy được
tính chất vô nghĩa của con đường khoa cử, con đường công danh theo lối cũ. Con đường
mà nhà thơ đang đi ấy được gọi là con đường cùng.Copn đường ấy lhông thể giúp ông
đạt được lý tưởng cao đẹp của mình. Nếu đi tiếp, rất có thể ông cũng chỉ là một phường
danh lợimà ông từng khinh miệt.Nhưng nếu dừng lại, ông cũng không biết mình sẽ đi
đâu, về đâu. Có cả một khối mâu thuẫn đang đè nặng lên tâm hồn tác giả lúc này. Nuối
tiếc vì con đường đau khổ, mờ mịt nhưng lại quá đẹp đẽ, cao sang. Thôi thì đành đứng
chôn chân trên bãi cát.
- Qua những câu thơ cuối, nhà thơ như muốn nhắn nhủ với người đời: hãy dũng
cảm dứt bỏ con đường công danh vô nghĩa, tự tìm cho mình một con đường đi đúng để
thực hiện lí tưởng cao đẹp.
2. NGHỆ THUẬT:
a) Xây dựng hình ảnh vừa có nghã tả thực vừa có nghĩa tượng trưng:
-Hình ảnh bãi cát dài mênh mông.
-Hình ảnh người đi trên bãi cát.
-Hính ảnh con đường cùng.
b)Nghệ thuật sử dụng các đại từ xưnmg hô:
“Khách”, “Quân”, “Ngã”, “Anh”; tất cả đều để chỉ bản thân tác giả.
* Khi gọi là “khách’ nhà thơ nhìn mình như một người khác.
*Khi gọi là “anh” nhà thơ như đối thoại với mình.
*Khi gọi là “ngã”, tác giã như muốn trực tiếp thổ lộ.
- Các cách xưng hô thể hiện thái độ trăn trở, bức xúc trên con đường công danh ,
sự nghiệp.
c) Nhịp điệu bài thơ: Cách ngắt nhịp thơ rất tự do, có thể là:
-2/3: “Trường sa/ phục trường”
-3/5: “Quân bất học/ tiên nga mĩ thụy ông”
-4/3: “Phong tiền tửu điếm/ hữu mĩ tửu”
=>Nhịp thơ thay đổi như vậy để diễn đạt sự gập ghềnh, trúc trắc của những người
bước đi trên bãi cát dài, tượng trưng cho con đường công danh đầy nhọc nhằn, chông gai.
Nhịp điệu ấy cũng thể hiện được tâm trạng trĩu nặng suy tư của nhà thơ về con đường
danh lợi mà nhà thơ đang đi.