Luận văn
Một số giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả chuyển giao công nghệ
qua các dự án đầu tư nước ngoài
Lời nói đầu
Kể từ khi Amstrong- người đầu tiên bước chân lên mặt trăng
(1969), “một bước chân của tôi nhưng là cả một bước tiến vĩ đại của loài
người”, đã đánh dấu một thời kỳ phát triển như vũ bão của nền khoa học
công nghệ trên thế giới. Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế
giới có nhiều thay đổi , cuộc chiến tranh lạnh kết thúc , thay vào đó là xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra sôi động , tác động đến
mọi mặt của nền sản xuất xã hội , làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của
nền kinh tế . Trước tình hình đó, để rút ngắn khoảng cách về mọi mặt, đặc
biệt về kinh tế với các nước phát triển, các quốc gia đang phát triển phải
tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là giai đoạn phát
triển tất yếu của mọi quốc gia từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
tiên tiến hiện đại.
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước ở các quốc gia có trình
độ khoa học - công nghệ kém phát triển không còn con đường nào khác là
coi trọng việc tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. Đó
cũng chính là bí quyết thành công của Nhật Bản, các nước NIC và nhiều
nước khác. Nó chứng tỏ vai trò to lớn của công nghệ đối với nền sản xuất
vật chất trên quy mô toàn cầu nói chung và mỗi quốc gia nói riêng .
Nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế
khu vực và quốc tế , Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi
mới , mở cửa nền kinh tế vào năm 1986 ; đồng thời đề cao vai trò công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, coi đây là giai đoạn phát triển tất yếu.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định chủ trương “lấy ứng dụng và chuyển
giao công nghệ là chính “ là hoàn toàn đúng đắn. Trước tình hình nền
2
kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là
chính, nền khoa học công nhgệ chưa phát triển... Chuyển giao công nghệ ,
đặc biệt là chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài sẽ
góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng sản xuất, nâng cao khả năng
cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp ... thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Từ ý nghĩa trên , em đã chọn đề tài “Một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước
ngoài”.
Đề án gồm các nội dung chính như sau:
Chương I : Những vấn đề chung về chuyển giao công nghệ
Chương II : Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chương III : Phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
3
Chương I: những vấn đề chung về
chuyển giao công nghệ
I. Công nghệ
1. khái niệm và nội dung công nghệ
a. khái niệm
Hiện nay, người ta vẫn chưa đi đến một khái niệm thống nhất về
công nghệ. Thực tế cho thấy, tồn tại nhiều quan niệm không đầy đủ về
công nghệ song nhận thức được sự cần thiết của việc đưa ra một định
nghĩa khái quát được bản chất của công nghệ, các tổ chức quốc tế đã đưa
ra một số khái niệm khá tiêu biểu như sau:
- Theo tổ chức phát triển công nghiệp của LHQ(United
Nation’s Industrial Development Organization – UNIDO):
“Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách
sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nói một cách có hệ thống và có
phương pháp”.
- Theo tổ chức ESCAP(Economic And Social
Commision For ASIA And The Pacific – Uỷ ban kinh tế và xã hội Châu á
- Thái Bình Dương):
“Công nghệ là một hệ thống kiến thức về quy trình và kĩ thuật
dùng để chế biến vật liệu và thông tin”. Sau đó, định nghĩa này được mở
rộng “nó bao gồm tất cả các kĩ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp
sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin”.
Nếu như định nghĩa về công nghệ của UNIDO nhấn mạnh tính
khoa học và tính hiệu quả khi xem xét việc sử dụng công nghệ cho một
mục đích nào đó thì định nghĩa của ESCAP đã tạo ra một bước ngoặt
trong các quan niệm về công nghệ. định nghĩa này đã mở rộng khái niệm
4
công nghệ sang lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Trên cơ sở tiếp thu những
kiến thức của thế giới và thực tế hoạt động khoa học ở Việt Nam, định
nghĩa có tính chất chính thức trong văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành
tại thông tư số 28/TTQLKH ngày 22/01/1994 của Bộ khoa học công nghệ
và môi trường được tóm tắt như sau:
Công nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng
dụng các kiến thức khoa học, được sử dụng để giải quyết một hoặc một
số nhiệm vụ thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh được thể hiện dưới
dạng:
+ Các bí quyết kĩ thuật, phương án công nghệ, quy trình công
nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kĩ thuật.
+ Các đối tượng sở hữu công nghiệp(sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá)
+ Các giải pháp nói trên có thể bao gồm máy móc thiết bị có hàm
chứa nội dung công nghệ.
+ Các dịch vụ hỗ trợ về tư vấn.
Có thể đứng trên các giác độ nghiên cứu khác nhau, người ta có
những định nghĩa công nghệ khác nhau. Song một cách khái quát “ công
nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra”.\
b. Nội dung của công nghệ.
Bất cứ một công nghệ nào, từ đơn giản đến phức tạp đều bao gồm
bốn thành phần: trang thiết bị(Technoware – T), kĩ năng của con
người(Humanware – H), thông tin(inforware – I), tổ chức(Organware –
O) có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Điều đó được thể
hiện qua sơ đồ sau:
5
T(cid:0) ch(cid:0)c
Con ng(cid:0)(cid:0)i
Trang thi(cid:0)t b(cid:0) Thông tin
Các yếu tố cấu thành công nghệ:
*.Phần cứng: Bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, kết cấu nhà
xưởng...Phần cứng tăng năng lực cơ bắp và trí lực con người.
*.Phần mềm: Bao gồm
+ Phần con người: Là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kĩ năng, kĩ
xảo, kinh nghiệm sản xuất, làm việc có trách nhiệm và năng suất ca. Một
trang thiết bị hoàn hảo nhưng nếu thiếu con người có trình độ chuyên
môn tốt và kỉ luật lao động cao sẽ trở nên vô tích sự.
+ Phần thông tin: Bao gồm các dữ liệu, thuyết minh, dự án, mô tả
sáng chế, chỉ dẫn kĩ thuật, điều hành sản xuất.
+ Phần tổ chức: Bao gồm những liên hệ, bố trí,sắp xếp đào tạo đội
ngũ cán bộ cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới,
lập kế hoạch, kiểm tra, điều hành.
+ Phần bao tiêu:nghiên cứu thị trường đầu ra là nhiệm vụ quan
trọng và cũng nằm trong phần mềm của hoạt động chuyển giao công
nghệ.
6
2.Phân loại công nghệ.
Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay, trên thế giới tồn tại một số lượng rất lớn các công
nghệ. Vì vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu, sử dụng khác nhau, người ta
phân chia công nghệ theo các tiêu thức sau:
2.1 Theo tính chất
Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ, công nghệ thông tin, công
nghệ đào tạo.
2.2 Theo ngành nghề.
Công nghệ công nghiệp, nông nghiệp; công nghệ sản xuất hàng
tiêu dùng; công nghệ vật liệu...
2.3 Theo đặc tính công nghệ
Công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục.
2.4 Theo sản phẩm.
Phân theo sản phẩm mà công nghệ sản xuất ra: công nghệ ximăng,
ô tô...
2.5 Theo mức độ hiện đại.
Công nghệ cổ điển, công nghệ trung gian, công nghệ tiên tiến.
2.6 Theo đặc thù.
Công nghệ then chốt, công nghệ truyền thống, công nghệ mũi
nhọn.
2.7 Theo mục tiêu.
7
Công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy, công nghệ phát triển.
2.8 Theo sự ổn định công nghệ.
Công nghệ cứng, công nghệ mềm
II. Chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ như một tất yếu khách quan của quy luật
phát triển của nền kinh tế thế giới, cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ
của nền công nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng trở nên phong
phú và đa dạng hơn. Bởi vậy, việc đưa ra một hệ thống lí luận chung về
chuyển giao công nghệ là hoàn toàn cần thiết.
1. Khái niệm và đối tượng chuyển giao công nghệ
a. Khái niệm
Bất kì một quốc gia, một địa phương, một ngành, một cơ sở,
một tổ chức, một cá nhân nào cũng cần có một hay nhiều công nghệ để
triển khai. Đó có thể là công nghệ nội sinh(công nghệ tự tạo) hay công
nghệ ngoại sinh(công nghệ có được từ nước ngoài). Trong một số điều
kiện nhất định, nhu cầu chuyển giao công nghệ được đặt ra. Vậy chuyển
giao công nghệ là gì? Theo quan niệm cuả nhiều quốc gia, nhiều tổ chức
quốc tế “ chuyển giao công nghệ là chuyển và nhận công nghệ qua biên
giới ”. Điều đó có nghĩa, công nghệ được chuyển và nhận qua con đường
thương mại quốc tế, qua các dự án đầu tư nước ngoài, qua chuyển và
nhận tự giác hay không tự giác(tình báo kinh tế, hội thảo khoa học...).
Bài viết này cũng xin giới thiệu một định nghĩa mớivề chuyển
giao công nghệ của nhà nghiên cứu Nhật Bản Prayyoon Shiowattana: “
chuyển giao công nghệ là một quá trình học tập trong đó tri thức về công
nghệ được tích luỹ một cách liên tục và nguồn tài nguyên con người đang
được thu hút vào các hoạt động sản xuất; một sự chuyển giao công nghệ
8
thành công cuối cùng sẽ đưa tới sự tích luỹ tri thức sâu hơn và rộng hơn”.
Cách nhìn nhận mới về chuyển giao công nghệ đứng trên góc độ của một
quốc gia đã và đang có những hoạt động chuyển giao công nghệ tích cực
vào các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cho ta thấy sự đánh
giá của họ về hiệuquả chuyển giao công nghệ, đặc biệt là nhân tố con
người. Như vậy, trong một khuôn khổ nhất định, định nghĩa về chuyển
giao công nghệ chính là việc làm cần thiết đầu tiên.
b. Đối tượng chuyển giao công nghệ.
Công nghệ gồm có hai phần: phần cứng và phần mềm. Sự phức
tạp, khó khăn không thể hiện nhiều ở phần cứng mà tập trung vào phần
mềm. Bởi phần mềm rất trừu tượng, bí ẩn, giá cả không ổn định. Về vấn
đề này, bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam quy định hoạt động
chuyển giao công nghệ bao gồm:
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Chuyển giao thông qua mua bán, cung cấp các đối tượng(giải
pháp kĩ thuật, bí quyết kĩ thuật, phương án công nghệ, quy trình
công nghệ, phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kĩ
thuật).
- Các hình thức hỗ trợ tư vấn.
- Các giải pháp hợp lý hoá sản xuất.
2. Các hình thức chuyển giao công nghệ.
a. Phân theo luồng
Theo cách phân loại này, có hai luồng chuyển giao công nghệ là
chuyển giao dọc và chuyển giao ngang.
- Chuyển giao dọc: là sự chuyển giao các công nghệ hoàn
toàn mới mẻ, đòi hỏi các bước đi khá đồng bộ từ nghiên cứu, thử
9
nghiệm, triển khai sản xuất thử đến sản xuất hàng loạt để đảm bảo
độ tin cậy về kinh tế và kĩ thuật.
- Chuyển giao ngang: là sự chuyển giao công nghệ đã
hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, từ nước
này đến nước khác. So với chuyển giao dọc, kiểu chuyển giao này
ít rủi ro hơn song thường phải tiếp nhận một công nghệ dưới tầm
người khác, không hoàn toàn mới mẻ.
b. Phân theo quyền lợi và trách nhiệm của người mua và người
bán.
Phân loại theo kiểu này áp dụng trong trường hợp đánh giá mức
độ tiên tiến và giá cả của công nghệ; gồm các hình thức sau:
- Chuyển giao giản đơn: là hình thức người chủ công nghệ
trao cho người mua quyền sử dụng công nghệ trong một thời gian
và phạm vi hạn chế.
- Chuyển giao đặc quyền: người bán trao quyền sử dụng công
nghệ cho người mua giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ .
- Chuyển giao độc quyền: là hình thức người bán trao toàn bộ
quyền sở hữu công nghệ cho người mua trong suốt thời gian có
hiệu lực của hợp đồng.
c. Phân theo kiểu chuyển giao hay chiều sâu của chuyển giao
công nghệ.
- Trao kiến thức: việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức truyền đạt
kiến thức bằng cách đưa công thức, hướng dẫn, tư vấn về kĩ thuật.
- Chuyển giao công nghệ dưới dạng chìa khoá giao tay: người
bán phải thực hiện các công việc như lắp đặt máy móc, hướng dẫn
quy trình, hoàn tất toàn bộ quá trình sản xuất.
10
- Trao sản phẩm: người bán không những có trách nhiệm hoàn tất
toàn bộ dây chuyền sản xuất mà còn giúp người mua sản xuất
thành công sản phẩm sử dụng kĩ thuật chuyển giao.
- Trao thị trường: ngoài trách nhiệm như ở mức độ “trao sản
phẩm” người bán còn phải bàn giao một phần thị trường đã xâm
nhập thành công cho bên mua công nghệ.
2. cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ
Ngày nay , sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ , xu hướng
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới , áp lực cạnh tranh gia tăng cùng với sự
phát triển không đồng đều giữa các nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hoạt
động chuyển giao công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Mặt khác, công nghệ
có một thuộc tính quan trọng là tính sinh thể, tức có giai đoạn phát triển
và diệt vong. Để thu được nhiều lợi nhuận, các nhà nghiên cứu , nhà kinh
doanh, các hãng đều muốn kéo dài vòng đời công nghệ. Cùng với quá
trình phát triển khoa học – công nghệ trên thế giới, các công nghệ cũng
phải luôn được cải tiến được đổi mới. Hơn nữa, tranh thủ sự đầu tư nước
ngoài, các quốc gia tận dụng chuyển giao công nghệ như một giải pháp
hữu hiệu để cải tiến nền sản xuất trong nước. Đó là những cơ sở quan
trọng của hoạt động chuyển giao công nghệ trong điều kiện hiện nay.
3. Vai trò của chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ có vai trò to lớn đối với nền kinh tế thế
giới nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Chuyển giao
công nghệ có lợi cho cả hai bên, bên chuyển giao và bên nhận chuyển
giao. Đối với bên tiếp nhận, họ có được công nghệ mới, có trình độ kĩ
thuật cao hơn, trong khi đó lại tiết kiệm được nguồn lực. Đối với bên
chuyển giao, họ có thể thu lợi từ việc chuyển giao công nghệ, kéo dài
vòng đời công nghệ, tạo điều kiện xâm nhập thị trường nước ngoài. Ngày
11
nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cùng với trình độ phân
công lao động, chuyên môn hoá đã ở tầm chuyên sâu đến từng chi tiết sản
phẩm, hoạt động chuyển giao công nghệ góp phần thúc đẩy thương mại
quốc tế phát triển, cho phép khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia.
Mặt khác, nó làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới theo hướng gia tăng
tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp. Cgcông nghệ tạo năng suất lao động cao
hơn cùng sự phong phú về chủng loại sản phẩm, phục vụ cho nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng. Nó là vũ khí cạnh tranh của các
doanh nghiệp, các nền kinh tế và có vai trò to lớn đối với vấn đề môi
trường trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và quá
trình chế tác sử dụng.
III. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một số nước.
1.thế nào là một công nghệ thích hợp
Cn thích hợp là những công nghệ phù hợp với khả năng và trình độ
phát triển của quốc gia trong một thời kì nhất định, tạo điều kiện khai
thác tối đa những lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước và đưa lại
hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
Như vậy, một công nghệ thích hợp phải thoả mãn 3 tiêu chuẩn sau:
Có hiệu quả kinh tế -
Có hiệu quả xã hội -
Có tính thích dụng với trình độ phát triển kinh tế của mỗi -
quốc gia trong từng thời kì
Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, đòi hỏi bên tiếp nhận
công nghệ phải nắm vững các thông tin để lựa chọn được công nghệ thích
hợp theo những tiêu chuẩn nêu trên. Đó là các thông tin liên quan đến bên
cung cấp và bên nhận công nghệ (lịch sử và kinh nghiệm ; địa vị hiện tại;
12
chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp ); các thông tin về mức độ tiên
tiến của công nghệ cũng như về tình hình công nghệ thế giới. Thật vậy,
lựa chọn công nghệ phải trên cơ sở chủ động tích cực và xuất phát từ đòi
hỏi của bản thân doanh nghiệp.
2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một số nước.
Để bắt đầu quá trình tìm hiểu kinh nghiệm chuyển giao công nghệ
của một số quốc gia tiêu biểu, chúng ta hãy cùng xem xét biểu đồ sau:
Biểu đồ : những mô hình đuổi kịp về công nghệ của Nhật Bản và
các nước đang phát triển ở Châu á, so sánh với các nước phát triển.
Nguồn: Institute Of Developing Economies, Study on Technology
And Trade Friction Between Japan And Developing Nations(Tokyo: IDE,
195).
Biểu đồ cho thấy những nỗ lực vươn lên để đuổi kịp nền công
nghệ tiên tiến ở các nước phát triển của Nhật Bản và một số nước đang
phát triển ở Châu á. Trong đó, chuyển giao công nghệ là một nhân tố
quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ngay từ
thời kỳ những năm 60. Vậy, chúng ta có thể rút ra được những kinh
nghiệm gì từ quá trình chuyển giao công nghệ đó?
Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện chính trị xã hội
nghiêm ngặt đã bắt rễ sâu trong thời đại phong kiến và đặc biệt là những
13
thiệt hại lớn lao do chiến tranh gây ra, người Nhật Bản đã rút ra bài học
quý giá trong quá trình chuyển giao công nghệ của mình là: “Tinh thần
Nhật Bản cộng kỹ thuật phương tây”. Người Nhật Bản đánh giá cao bốn
năng lực trong các giai đoạn chuyển giao công nghệ: năng lực lĩnh hội;
năng lực thao tác; năng lực thích ứng và năng lực đổi mới. Họ đặc biệt
coi trọng nguồn tài nguyên con người với tư cách là nhân tố tích luỹ tri
thức công nghệ. Từ những kinh nghiệm về chuyển giao công nghệ, các
nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng: các nước đang phát triển nói chung
và Việt Nam nói riêng có thể trước tiên phải làm chủ công nghệ ở phần
ngoại vi của kĩ thuật, là phần mà hầu hết đầu tư nước ngoài có thể đem
vào, và dần dần họ phải mở rộng việc học tập để bao trùm lên phần cốt
lõi của kĩ thuật.
Các NIE Châu á thì sao? Nhận thức được rằng chuyển giao công
nghệ có vai trò to lớn trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước, khi mà
cuộc cách mạng công nghệ phát triển như vũ bão, khoảng cách giữa các
nước phát triển và đang phát triển ngày càng cách xa nhau, lợi dụng kĩ
thuật tiên tiến của nước ngoài là việc làm cần thiết để thúc đẩy kinh tế
phát triển. Cgcông nghệ đã giúp các NIE Châu á trở thành “ những con
rồng” với tốc độ tăng trưởng cao, FDI tăng liên tục, hoà nhập vào thị
trường thế giới và đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể… Trong thời
gian qua, các NIE Châu á rất chú trọng việc nghiên cứu, phân loại, xác
định tính chất, đặc điểm các kênh chuyển giao công nghệ trên thế giới.
Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát
triển, các NIE thông qua các công ty xuyên quốc gia(TNCs), cụ thể là
thông qua các chi nhánh đặt tại nhiều nước để tiếp cận với công nghệ hiện
đại. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển với các
nước đang phát triển, các NIE tập trung ưu đãi về tài chính, tạo điều kiện
thuận lợi để nhập và sử dụng công nghệ cho phù hợp điều kiện cụ thể.
14
Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển, họ
luôn ý thức được ưu thế của mình, tiến hành đầu tư và chuyển giao công
nghệ sang nhiều nước, đặc biệt là sang các nước ASEAN. Các NIE Châu
á cũng thường sử dụng các hình thức tiếp thu chuyển giao công nghệ như:
qua liên doanh, tiếp nhận chuyển giao trọn gói, qua mua bản quyền sở
hữu công nghệ, thuê chuyên gia hướng dẫn, trao đổi thông tin và đào tạo
cán bộ kĩ thuật. Thông qua các hình thức tiếp thu công nghệ như trên
cùng với khả năng ứng dụng và đổi mới công nghệ , các NIE châu á đã
đạt được những thành công rực rỡ, đặc biệt là trong phát triển công
nghiệp.
Mặt khác, các NIE châu á đã thực hiện phương châm “ đón đầu, đi
tắt trong công nghệ”. Thời kỳ đầu, với trình độ kỹ thuật còn thấp, họ chỉ
tiến hành chuyển giao dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp
hoặc qua gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài. Sau khi đã đổi
mới cơ cấu ngành, tăng sản xuất những thành phẩm có hàm lượng công
nghệ cao, không chỉ nhà nước quan tâm mà cả các công ty tư nhân cũng
quan tâm thực hiện đuổi bắt tiếp thu và làm chủ công nghệ như chính
nước xuất khẩu công nghệ. Các NIE cũng đưa ra những chính sách ưu đãi
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc trực tiếp mua máy móc trên thị
trường.Trên thực tế, tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội của riêng mình, mỗi
NIE châu á đều có những chính sách chuyển giao công nghệ hết sức thận
trọng để mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các
quốc gia nói trên cho ta những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu: cải
thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) có hiệu quả, gắn đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển giao công
nghệ thích hợp; các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được chú
trọng, được tính toán cẩn thận cả trong hiện tại và tương lai; chú trọng
15
phát triển công nghệ truyền thống công nghệ truyền thống trong nước tạo
cơ sở để tiếp nhận một cách hợp lý có chọn lọc, thích hợp với công nghệ
mới ; xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của khu công nghệ cao là nơi thu
hút các hoạt động chuyển giao công nghệ, đóng vai trò động lực, đầu tàu
trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ quốc gia; chuyển giao công
nghệ không được tách rời việc nâng cao đời sống của nhân dân - đây
cũng là mục tiêu “ xã hội công bằng văn minh ”của Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra; ở đây nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo,
điều tiết giúp cho hoạt động chuyển giao công nghệ có hiệu quả.
Trong quá trình học tập kinh nghiệm của các nước khác, không có
một mô hình nào là thước đo vạn năng, phổ biến rộng khắp, cần chú trọng
điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể sẽ giúp chúng ta có được những bước đi
thích hợp cho hoạt động chuyển giao công nghệ, góp phần thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt , con người là
nhân tố quyết định đối với mọi thành quả kinh tế – xã hội. Tri thức được
tích luỹ bởi tài nguyên con người là bài học kinh nghiệm không bao giờ
cũ cho chúng ta.
16
Chương II. thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư nước ngoài
tại việt nam thời gian qua
I. Đặc điểm kinh tế – xã hội và trình độ công nghệ tại việt nam
1. Đặc điểm kinh tế –xã hội việt nam
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng đề cập đến những đặc
điểm cơ bản nhất của nền kinh tế – xã hội Việt Nam, đã và đang tạo ra
những khó khăn, thuận lợi đối với quá trình chuyển giao công nghệ.
Từ năm 1990-1995,cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích
cực; nông nghiệp tăng 4,4% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chung là
8,2 % nên tỷ trọng trong GDP giảm 9,0% và từ chỗ là ngành có tỷ trọng
cao nhất trở thành nhóm ngành có tỷ trọng thấp nhất; ngành công nghiệp
có tỷ trọng trong GDP tăng từ 22,7 % ( 1990) lên 29,9%(1995) ; nhóm
ngành dịch vụ có tốc độ tăng khá cao 9,0%/năm cao hơn tốc độ chung
nên tỷ trọng trong GDP thời kỳ này là cao nhất, chiếm 41,9%(1995). Sự
chuyển biến tích cực về cơ cấu kinh tế tạo điều kiện cho sự tăng trưởng
nhanh của nền kinh tế nước nhà.Điều này cũng tạo ra sự hấp dẫn cao hơn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài, giúp cho việc đảm bảo vốn để đổi mới
công nghệ, đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động chuyển giao
công nghệ.
Sự ổn định về chính trị tạo cho các nhà đầu tư cảm giác an toàn, ít
rủi ro khi đầu tư vào nước ta, qua đó họ có thể an tâm tiến hành chuyển
giao công nghệ qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước
ngoài. Bên cạnh đó, việc mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế,
tham gia vào ASEAN, tiến tới là WTO , đặc biệt hiệp định thương mại
17
Việt – Mỹ được kí kết…đã giúp chúng ta có nhiều cơ hội thu hút công
nghệ mới chuyển giao vào Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng đang từng bước được hoàn thiện có thể đáp ứng một
cách đồng bộ nhu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ trong
thời gian tới. Nền công nghệ nước nhà cũng đã có được một số cơ sở vật
chất nhất định và đặc biệt là đội ngũ những nhà khoa học có trình độ cao
cũng là một nhân tố thúc đẩy nền công nghệ phát triển.
Bên cạnh những mặt thuận lợi nói trên, chúng ta cũng gặp phải
không ít những khó khăn . Với xuất phát điểm quá thấp, trình độ hiện tại
của nền kinh tế nước ta còn kém xa so với các nước trong khu vực(mức
thu nhập bình quân của nước ta dưới 1000 USD/người/năm ). Là một
nước nông nghiệp với 60 triệu dân sống ở nông thôn, tỷ lệ đói nghèo của
Việt Nam tập trung tới 90% ở nông thôn và miền núi, đây thực sự là một
khó khăn lớn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước .
Mặt khác cơ sở hạ tầng kém phát triển, cùng với sự hoành hành của thiên
tai ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra những
trở ngại trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong
khi đó, phát huy nội lực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế là con
đường đúng đắn để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế nói chung và nguy cơ
tụt hậu của nền khoa học công nghệ nói riêng.
2. Trình độ công nghệ tại các doanh nghiệp việt nam .
a. đánh giá chung
Để đánh giá trình độ công nghệ của một quốc gia nói chung,
người ta thường dựa vào các tiêu chí như: khả năng phục vụ của công
nghệ đối với nền kinh tế;khả năng thay thế và nâng cấp trong thời gian
tới; khả năng thay mới các công nghệ hiện có; khả năng hội nhập với khu
vực và thế giới. Dựa trên những cơ sở đánh giá này, chúng ta có thể đưa
18
ra một số nhận định khách quan về trình độ công nghệ tại các doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, các doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu từ 15 đến 20
năm. Do vậy, sự đóng góp của công nghệ trong giá trị gia tăng của sản
phẩm còn thấp, tuỳ theo từng ngành mà tỷ lệ này từ 15 đến 20%.Còn cụ
thể thì sao ? Theo đánh giá của Bộ khoa học – công nghệ và môi trường
thì thiết bị và công nghệ Việt Nam lạc hậu từ 50 đến 100 năm so với các
nước có công nghệ trung bình tiên tiến trên thế giới đối với ngành cơ khí
chế tạo , lạc hậu từ 1-2 thế hệ ở ngành lắp ráp điện tử , ôtô, máy xây dựng
…Bức tranh về một nền công nghệ lạc hậu, tồi tàn cho thấy trình độ công
nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp kém .
Trình độ cơ khí hoá của nền kinh tế còn thấp. Theo điều tra, hệ số
cơ khí hoá chung trong nền kinh tế chỉ vào khoảng 20%, trong ngành
công nghiệp tỷ lệ này có cao hơn nhưng trong nông nghiệp tỷ lệ này thấp
hơn rất nhiều. Mức hao mòn hữu hình của máy móc, thiết bị phổ biến
khoảng 40-60%, có nơi còn hơn thế nữa. Mức tiêu hao năng lượng , nhiên
liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ và kỹ thuật quá
cao. Mức tiêu hao năng lượng để sản xuất một đơn vị sản phẩm ở một số
ngành như sau: hoá chất-138%; sơn – 195%; xăm lốp cao su- 204%; quần
áo xuất khẩu – 127%; luyện kim đen- 250%.Với độ tuổi trung bình của
máy móc thiết bị cao, tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại tiên tiến
cũng rất thấp, tập trung chủ yếu ở một số ngành như: bưu chính viễn
thông, hàng không . Cộng với hệ số sử dụng thiết bị thấp, chất lượng sản
phẩm kém, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài,
đặc biệt trong xu thế tự do hoá thương mại hiện nay.
Sự đánh giá của các chuyên gia nước ngoài cũng không mấy sáng
sủa hơn so với sự tự đánh giá của các chuyên gia trong nước. Chỉ tính
riêng trong khu vực ASEAN, trình độ công nghệ của Việt Nam vẫn còn
19
nhiều điều đáng lo ngại. Với thang điểm 5 (5 là cao nhất), bức tranh công
nghệ Việt Nam đặt trong sự tương quan so sánh với các nước trong khu
Malaysia philipin Thái lan Brune
IIndonesiaViệt Nam Myanma Lào Campuchia
vực ASEAN như sau:
y 2,6
Điểm
3,8
3,0
2,8
2,6
2,2
1,9
1,8
1,5
1,3
BảNG 1 : Đánh giá công nghệ ở 10 nước ASEAN Nước Singapor e
b. Nguyên nhân
Có thể nói một số nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng trên là :
công nghệ không đồng bộ , mất cân đối làm cho nhiều loại thiết bị ít hoặc
không được sử dụng ; máy móc thiết bị cũ kỹ, hay bị hư hỏng, thời gian
phải ngừng việc để sửa chữa lớn ; tổ chức sản xuất bất hợp lý, thời gian
chờ đợi để gia công lớn; sức ép từ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài
khiến một số doanh nghiệp phải giảm hoặc ngừng sản xuất; hoạt động
chuyển giao công nghệ chưa thực sự hiệu quả ; cơ cấu nhân lực bất hợp lý
; mức độ và trình độ tin học hoá và xử lý thông tin còn thấp và chậm.Một
loạt các nguyên nhân nói trên đã và đang tác động tới nền công nghệ Việt
nam.Nhằm khắc phục tình trạng trên, đề án này đã đề cập tới “chuyển
giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài” như một giải pháp tích
cực để cải thiện nền công nghệ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
II. Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra như vũ bão đã tạo
sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế thế giới, làm cho sự tăng trưởng kinh
tế toàn thế giới đạt mức chưa từng có.Ngày nay, tổng sản phẩm của thế
giới ước tính khoảng 30 000 tỷ USD nghĩa là gấp khoảng trên 23 lần so
với tổng sản phẩm thế giới tính theo USD vào cuối những năm 1950
20
(1300 tỷ USD). Mặc dù trong thế kỉ XX khủng hoảng kinh tế song kinh tế
thế giới vẫn tăng 15 lần (3%/ năm), đó là một con số kì lạ. Điều kì lạ ấy
chủ yếu do việc tăng năng suất, tức do khoa học công nghệ tạo ra(60-70%
của tăng trưởng kinh tế ). Nhưng việc này hầu hết chỉ diễn ra ở các nước
công nghiệp phát triển nơi có trình độ công nghệ cao. Trong khi đó,
khoảng cách giữa các nước kém phát triển và nước phát triển ngày càng
gia tăng. Làm thế nào để rút ngắn được khoảng cách này? Đây là câu hỏi
đặt ra cho tất cả các nước kém phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng.
Trong xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, một số quốc gia
như Nhật Bản, Hàn Quốc… đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ , thu hút
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào trong nước có hiệu quả, nhằm đẩy
mạnh nền công nghệ trong nước phát triển, tăng năng suất lao động… và
họ đã thành công. Học tập kinh nghiệm của các quốc gia này, trước yêu
cầu hội nhập nền kinh tế thế giới và quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đát nước, Việt Nam nhất thiết phải đẩy mạnh hoạt động chuyển giao
công nghệ, đặc biệt là chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước
ngoài . Sự hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ góp phần
nâng cao trình độ công nghệ, dần dần đổi mới và thay thế các công nghệ
lạc hậu.Là quốc gia đi sau, chúng ta có những lợi thế riêng nếu biết tận
dụng những lợi thế đó trong việc tiếp thu, đón đầu những công nghệ tiên
tiến, hiện đại trên cơ sở phù hợp với điều kiện trong nước.
Ngày nay, các công ty xuyên quốc gia nắm giữ tới 90% thị trường
công nghệ. Các công ty này càng ngày càng có tầm hoạt động trên quy
mô rộng lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư, xâm nhập thị trường nước
ngoài. Các hoạt động đầu tư thường gắn liền với chuyển giao công
nghệ.Vì vậy, thị trường chuyển giao công nghệ toàn cầu đã và đang diễn
ra rất sôi động,không chỉ qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài mà
21
có thể qua nhiều con đường khác. Nằm trong xu thế vận động của các
dòng công nghệ đó, một lần nữa ta khẳng định : Chuyển giao công nghệ
là quá trình tất yếu ở Việt Nam.
III. Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
1. Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua.
a. Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Cho đến hết tháng 8 – 1997 đã có 2137 dự án đầu tư nước ngoài
được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 32,341 tỷ USD, trong đó
khoảng trên 70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ. Còn năm
nay( kể từ 01/01/2000 đến 15/09/2000), khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp 69000 tỷ VND cho tổng sản lượng công nghiệp, tăng
65,38% so với năm 1995 (26000 tỷ VND). Như vậy, vấn đề chuyển giao
công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng không
chỉ ở tầm vi mô mà còn cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế. Trước khi đi vào
đánh giá thực trạng của vấn đề, người ta đã tổng kết lại một số đặc điểm
của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài
như sau:
- Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ. -
Công nghệ được sử dụng trong dự án đầu tư do nhà đầu tư -
nước ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu.
22
- Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài
không nhất thiết phải chuyển từ công ty ở chính quốc mà được chuyển
giao từ một công ty khác.
Đây cũng chính là cơ sở để đánh giá chung về hoạt động chuyển
giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian
qua.
b. Đánh giá chung.
Nhìn chung, công nghệ chuyển giao vào Việt Nam được chia
thành bốn nhóm:
Nhóm 1: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn mức
trung bình của thế giới khoảng 1 – 2 thế hệ, đang phổ biến tại các ngành
lắp ráp điện tử, ôtô, lắp máy xây dựng, thuỷ sản đông lạnh…
Nhóm 2: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu khoảng 2 –
3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới; tồn tại trong các ngành điện,
giấy, đường, chế biến thực phẩm…
Nhóm 3: Bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 3 – 5 thế hệ
so với mức trung bình của thế giới; chủ yếu trong các ngành đường sắt,
đường bộ, cơ khí, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng…
Nhóm 4: Bao gồm các loại thiết bị và công nghệ có độ lạc hậu cao
hơn.
Trong những năm qua, hoạt động chuyển giao công nghệ đã và
đang diễn ra trên hầu hết các ngành, các lĩnh vực nhưng với mức độ, trình
độ khác nhau. Bước đầu chuyển giao công nghệ đã gắn với phương
hướng kinh doanh và được định hướng theo thị trường. Đây là đòi hỏi tất
yếu của quá trình cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh: hoàn thiện sản
phẩm trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngành dệt may,
23
giày da là một trong những ngành thực hiện đổi mới công nghệ theo
hướng này, gắn đơn đặt hàng lớn với việc khai thác thị trường tương đối
ổn định. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được tự do kinh
doanh trên cơ sở sự điều chỉnh của Nhà nước. Do vậy, bản thân các
doanh nghiệp đã chủ động nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất thông qua
chuyển giao công nghệ. Mặc dù còn nhiều hạn chế song chính họ là
người quyết định hiệu quả của chuyển giao công nghệ thông qua quá
trình tìm tòi, lựa chọn, đàm phán và kí kết các hợp đồng chuyển giao
công nghệ. Đồng thời, chuyển giao công nghệ đã thực hiện một cách có
trọng điểm gắn với đầu tư chiều sâu và nâng cao hiệu quả kinh tế. Qua
khảo sát, các doanh nghiệp đều tiến hành lần lượt từng dây chuyền, từng
sản phẩm hoặc một số giai đoạn trong toàn bộ dây chuyền, sau đó triển
khai tiếp. Trong xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện
nay, cùng với sự mở rộng các quan hệ kinh tế song phương và đa phương,
chuyển giao công nghệ cũng được thực hiện chủ yếu qua con đường này.
ở đây, phần chủ động thường thuộc về phía nước ngoài. Phía Việt Nam
dễ phải chịu thua thiệt, đặc biệt là nếu người chịu trách nhiệm đàm phán
lại thiếu kiến thức về công nghệ và chuyển giao công nghệ. Thực tế cho
thấy, nhiều dự án gặp vướng mắc trong vấn đề chuyển giao công nghệ mà
hai bên phải đàm phán, thảo luận đi lại nhiều lần, phải bổ sung, điều
chỉnh lại các văn bản liên quan… khiến các bên tốn kém thời gian, tiền
của mà hiệu quả rất hạn chế. Bên cạnh đó, chuyển giao công nghệ gắn với
hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội khác như : việc làm người lao động,
mức sống, nền văn hoá dân tộc… Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nói
riêng và các cơ quan quản lý nói chung phải lưu tâm trong việc lựa chọn
công nghệ thích hợp. Một vấn đề mà chúng ta đặc biệt quan tâm trong
giai đoạn hiện nay là: chuyển giao công nghệ phần nhiều là yếu tố kĩ
thuật( máy móc, thiết bị ) mà những bí quyết kĩ thuật, phương pháp quản
24
lý… lại ít được chuyển giao. Phải chăng đây là một trong những vấn đề
bức xúc và rất có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc vào nền công nghệ chính
quốc tại các nước đang phát triển?
Đánh giá chung về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài, người ta không thể không đánh giá chất lượng công nghệ
được chuyển giao thông qua chính nhà đầu tư nước ngoài – người đóng
vai trò quyết định trong việc đưa công nghệ nào vào nước sở tại. Đến nay,
chưa có một số liệu thống kê chính xác cho biết cơ cấu đối tác chuyển
giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. Nhưng nhìn vào bảng
số liệu sau, người ta cũng có thể nhận thấy được một phần điều băn
khoăn trên:
STT
Tên nước
Số dự án
Tỷ trọng(%)
Vốn đăng ký (triệu USD)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Singapore Đài Loan Nhật Bản Hồng Kông Hàn Quốc Pháp Aixlen LB Nga Hoa Kỳ Anh
5750 4700 3490 3340 3090 2150 1690 1520 1300 1130
15,7 12,8 9,5 9,1 8,5 5,9 4,6 4,2 3,5 3,1
241 562 311 317 274 152 83 61 112 327
Bảng 2: Cơ cấu đối tác nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. (Tính cho đến hết năm 1999)
Nguồn: Viet Nam Economic Times
Chúng ta đã biết mối quan hệ mật thiết giữa các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đây không những
là mong muốn được tiếp nhận những công nghệ mới, tiên tiến của các
nước sở tại mà còn là mong muốn kéo dài vòng đời công nghệ, thải hồi
những công nghệ lạc hậu ở các quốc gia phát triển của nhà đầu tư thông
qua các dự án đầu tư trực tiếp. Bởi vậy nhìn vào bảng số liệu trên, người
25
ta có thể thấy rằng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam những năm qua
chủ yếu là từ các nước trong khu vực ASEAN, mà đứng đầu là Singapore
và Đài Loan. ở phần “ đánh giá trình độ công nghệ của Việt Nam”, đề án
cũng đưa ra một bảng điểm về trình độ công nghệ của 10 quốc gia trong
khu vực ASEAN. Các nước này có trinhf độ công nghệ không phải là cao
trên thế giới. Vởy thì làm sao chúng ta có thể hy vọng công nghệ chuyển
giao vào Việt Nam là hiện đại, tiên tiến nếu như không tăng cường các
biện pháp chuyển giao công nghệ từ các nước có nền công nghệ phát triển
như EU, Mỹ... Một cách khái quát, có thể nói rằng, chuyển giao công
nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian
qua đã đáp ứng được phần nào yêu cầu phát triển nền kinh tế song chưa
thực sự hiệu quả và phát huy tác dụng .
2. Những kết quả đạt được.
Kể từ năm 1986, nền kinh tế nước ta bắt đầu mở cửa, hội nhập với
nền kinh tế khu vực nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung, hoạt
động đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu được đẩy mạnh. Hoạt động này đã
thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển và đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Mặc dù còn nhiều thua kém so với các nước trong khu vực
nhưng bước đầu, bức tranh về một nền công nghệ tồi tàn, lạc hậu đã được
cải thiện. Đay là những cơ sở, những định hướng để chúng ta xây dựng
một nền công nghệ hiện đại trong tương lai.
a. Về trình độ công nghệ:
Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài đã góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất. Trong hầu hết các ngành,
công nghệ tiên tiến của nước ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới
đồng bộ hay từng dây chuyền công nghệ. Thực tiễn “ chiến lược đón đầu
công nghệ” – một ưu thế của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn thông,
26
thăm dò, khai thác dầu khí đã tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến
so với khu vực và thế giới. Một số ngành khác cũng cải thiện được phần
lớn dây chuyền sản xuất, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong
nước như : may mặc, giầy da, chế biến thuỷ sản... Ngoài ra còn phải kể
đến sự vực dậy của Công ty gang thép Thái Nguyên thông qua một loạt
các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài
của Trung Quốc, Đài Loan... Như vậy, sự nâng cao trình độ công nghệ tại
một số ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân cũng như tại các doanh
nghiệp trung ương và địa phương đã góp phần nâng cao trình độ của nền
công nghệ Việt Nam thời gian qua.
b. Về trang thiết bị.
Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu là phần
cứng của công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với
thế giới, các công nghệ này có độ lạc hậu ít nhất từ 1 – 2 thế hệ. Nhưng
so với nền công nghệ Việt Nam, đây là những trang thiết bị tương đối
đồng bộ và có trình độ cơ khí hoá cao hơn công nghệ trong nước. Các nhà
đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự
động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài
kỹ thuật số... Nhìn chung, các trang thiết bị khá phù hợp với giai đoạn
đầu của tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và góp phần
tăng thu nhập quốc dân, đổi mới công nghệ sản xuất và giải quyết công
ăn việc làm cho người lao động.
c. Bố trí lại cơ cấu kinh tế.
Theo thống kê, vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp. Tính đến tháng 9 năm 2000, đóng góp của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài vào tổng sản lượng công nghiệp là 69000 tỷ
VND, trong khi đó khu vực quốc doanh là 77000 tỷ VND và khu vực
27
ngoài quốc doanh là 39000 tỷ VND. Như vậy, sự tăng cường đầu tư nhiều
hơn, nhất là việc trang bị máy móc, thiết bị và công nghệ, nền sản xuất
công nghiệp thời gian qua đã đạt tốc độ tăng nhanh và đóng góp ngày
càng lớn trong GDP. Đồng thời, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch nhanh
theo hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng nông
nghiệp. Theo văn kiện của Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII
trang 82, năm 2000, cơ cấu kinh tế sẽ thay đổi với tỷ trọng: công nghiệp –
95%; nông nghiệp – 25% và dịch vụ – 45%. Năm 2000 sắp khép lại, liệu
chúng ta có đạt được kết quả này không? Điều này còn đòi hỏi phần đóng
góp đáng kể của việc đổi mới công nghệ tại chính các doanh nghiệp sản
xuất trong nền kinh tế nước nhà.
d.Chất lượng sản phẩm
Nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, nói chung chất lượng sản
phẩm đã được nâng cao rõ rệt. Người tiêu dùng trong nước bớt đi tâm lý “
sính dùng hàng ngoại”. Một số sản phẩm đã chiếm được cảm tình của
khách hàng trong và ngoài nước như : hàng may mặc, giày da, quạt điện,
bánh kẹo, bàn ghế... Việc đầu tư chuyển giao công nghệ từ nước ngoài đã
hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu một khối lượng lớn các sản phẩm:
bia, gạch ốp lát, ximăng, sắt thép xây dựng... Đồng thời cũng giảm nhập
khẩu các sản phẩm, linh kiện, bộ phận, chi tiết cho các sản phẩm có công
nghệ chế tạo phức tạp( đèn hình, xe máy, tổng đài điện tử số...). Đến nay,
chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đã được thế giới
biết đến và công nhận thông qua việc cấp chứng chỉ ISO cho một số
doanh nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng giúp sản phẩm của các doanh
nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt khi hàng rào
thuế quan được xoá bỏ vào năm 2003.
e.Trình độ quản lý của các doanh nghiệp
28
Trình độ quản lý là một trong những mặt còn yếu kém của Việt
Nam. Những năm qua, việc tiến hành hợp tác làm ăn với các nhà đầu tư
nước ngoài đã giúp chúng ta tiếp cận được với phương thức quản lý mới.
Đó là quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra
ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Đây cũng chính là mục tiêu quan trọng
mà Đảng và Nhà nước ta khuyến khích trong chuyển giao công nghệ.
f. Về bảo vệ môi trương.
Theo thống kê của Bộ khoa học - công nghệ và môi trường, hiện
nay có trên 50% số dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
và có trên 520 báo cáo đã được thẩm định. So với công nghệ hiện có
trong nước, công nghệ được chuyển giao qua các dự án đầu tư nước ngoài
đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Đây là một
trong những yêu cầu “ phát triển bền vững” đang được đặt ra trên phạm vi
toàn cầu.
Chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để đổi mới công
nghệ, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chúng ta không thể không
công nhận những đóng góp to lớn của hoạt động chuyển giao công nghệ
qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua. Nó đã góp
phần nâng cao trình độ công nghệ, tăng thu nhập quốc dân, tiết kiệm chi
phí sản xuất, bố trí lại hợp lý lực lượng lao động và nâng cao trình độ
người lao động, đưa họ tiếp cận với trình độ của các nước trong khu vực
và trên thế giới.
1. Những mặt còn tồn tại.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hoạt động
chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn
còn nhiều vấn đề đáng phải nghiên cứu, phải tìm các biện pháp khắc
phục.
29
a. Công nghệ chuyển giao chưa thuộc loại tiên tiến, hiện đại
trong khi đó giá lại quá cao.
Mới đây, một cuộc khảo sát công nghệ được chuyển giao tại 42
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho thấy: trong 727 thiết bị và 8
dây chuyền sản xuất thì có đến 76% thiết bị được sản xuất từ những năm
50 – 60, 50% máy móc đã qua sử dụng. Nhận định trên một lần nữa lại
được minh chứng qua kết quả điều tra, đánh gía trình độ công nghẹ trong
ngành công nghiệp nhẹ:
46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình -
khá, có thể duy trì trong vòng 3 đến 5 năm sau nếu thị trường ổn định.
40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, cần -
phải được cải tiến, phải nâng cao mới đáp ứng được yêu cầu.
14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp cần phải được -
đổi mới.
Trong số những công nghệ được khảo sát trên, có những công
nghệ lạc hậu mà thế giới đã loại bỏ lại được chuyển giao vào nước ta như:
công nghệ sản xuất các chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng DBSA.
Một số công nghệ bị thanh lý ở chính quốc được đưa vào Việt Nam sau
khi đã tân trang, cải tiến ít nhiều( dây chuyền sợi dệt, sản xuất thuốc lá,
dây chuyền sơn mạ tôn lợp...).
Mặt khác, công nghệ chuyển giao lại có giá quá cao so với giá trị
thực tế của nó. Một phòng tư vấn Thụy Sĩ cho biết, trung bình các hợp
đồng chuyển giao công nghệ đã tăng từ 10 – 15%, đôi khi tới 40% so với
giá thực trên thị trường quốc tế.
Phần lớn công nghệ được chuyển giao có trình độ lạc hậu so với
thế giới. Nhiều dây chuyền sản xuất còn sử dụng nhiều lao động thủ
công, có trình độ cơ khí hoá thấp. Trong khi đó, nhiều công trình, dự án
30
bị phía nước ngoài nâng giá lên gấp 2 – 2,5 lần. Vậy đâu là nguyên nhân
của sự mâu thuẫn này ?
Lợi dụng sự kém hiểu biết của phía Việt Nam, đối tác nước ngoài
không chuyển giao loại công nghệ hiện đại, chủ yếu vì mục tiêu tìm kiếm
lợi nhuận cao và nhanh. Những công nghệ có trình độ tiên tiến thường đắt
tiền, thời gian hoàn vốn lâu. Bên cạnh đó, phía Việt Nam lại có tâm lý ỷ
lại, trông chờ nhiều vào Nhà nước, trình độ hiểu biết về công nghệ mới
còn rất hạn chế, động cơ trục lợi cá nhân, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên
môn, thụ động trong việc tìm kiếm công nghệ và đàm phán, kí kết hợp
đồng. Sự hạn chế này một phần là do những điều kiện về môi trường kinh
tế – xã hội chưa đầy đủ; thiếu hệ thống thông tin về công nghệ và các
dịch vụ hỗ trợ khác; năng lực nghiên cứu, triển khai công nghệ còn yếu
kém, chưa đủ “nội lực” để làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển công
nghệ được chuyển giao... Hàng loạt các nguyên nhân khách quan và chủ
quan trên cho thấy sự bất cập trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là vấn đề đáng được quan
tâm thoả đáng .
b. Những công nghệ được chuyển giao chưa tạo được lực đẩy
cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự
đổi mới công nghệ.
Từ thực tế đáng lo ngại: công nghệ được chuyển giao phần lớn có
trình độ yếu kém, lạc hậu so với thế giới thì hậu quả tất yếu của nó sẽ là:
chưa tạo được lực đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công
nghệ và tự đổi mới công nghệ. Bởi trong thời kì công nghiệp hoá - hiện
đại hoá hiện nay, đổi mới công nghệ diễn ra dưới hai hình thức chủ yếu:
thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài tiếp nhận chuyển giao công
nghệ mới và tự đầu tư để đổi mới công nghệ. Những năm qua, hệ số đổi
mới thiết bị chỉ đạt 7%/năm(chỉ bằng một nửa mức tối thiểu của các nước
31
khác). Sự chuyển giao công nghệ được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực
sản xuất hàng tiêu dùng( dệt may, giầy dép, chế biến lương thực, thực
phẩm...). Các ngành khác, quá trình chuyển giao chưa thực sự diễn ra sâu
rộng. Tại các doanh nghiệp ngành điện tử, công nghệ lắp ráp chiếm ưu
thế (80% CKD). Tại các doanh nghiệp ôtô, công nghệ hầu như là lắp ráp
(100% ootoo được lắp ráp dưới dạng CKD); tỷ lệ khai thác năng lực máy
móc, thiết bị thấp... Không những công nghệ được chuyển giao chủ yếu là
phần cứng, chủ yếu trong các lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến mà chỉ
dừng lại ở khâu tiếp nhận - vận hành. Mặt khác, sự tiếp thu công nghệ
một cách thụ động đã khiến các doanh nghiệp khó nâng cấp và tự đổi mới
công nghệ đó khi cần thiết. Chuyển giao công nghệ cũng chưa tạo ra
được mối quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các
doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tiến bộ kĩ thuật –
công nghệ. Đây là điểm yếu của chúng ta nhưng lại là bí quyết thành
công ở các nước tiên tiến trên thế giới và ở ngay cả nước trong khu vực
như : Singapore, Malaysia.
c. Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ
tẻ, thiếu quy hoạch và chiến lược, thiếu sự gắn bó giữa
phương hướng đổi mới chuyển giao công nghệ với chiến
lược phát triển cũng như chiến lược kinh doanh.
Trước sức ép của thị trường, các doanh nghiệp đua nhau chuyển
giao công nghệ. Phải chăng đây là “cái mốt” mà các doanh nghiệp tìm
mọi cách để chạy theo mà không hề chú ý tới việc công nghệ được
chuyển giao có thực sự phù hợp với bản thân doanh nghiệp hay không ?
Có thể kể ra đây một trường hợp điển hình về việc nhập khẩu thiết bị từ
FLS, Đan Mạch của nhà máy ximăng Hoàng Thạch . Quá hiện đại, quá
rộng so với yêu cầu của địa phương, thiết bị phải ngừng hoạt động 6
tháng vì thiếu than đá. Vấn đề đặt ra ở đây lại không phải là trình độ công
32
nghệ mà chính là sự phù hợp của công nghệ, hay sự gắn bó chặt chẽ giữa
chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển, chiến lược sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh đó còn tồn tại tình trạng công nghệ được chuyển giao
phần lớn do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải tự các doanh
nghiệo tìm kiếm, tự nghiên cứu, thiết kế.Hơn nữa, nhập máy móc thiết bị
lẻ nhiều và phổ biến hơn là các dây chuyền đồng bộ và khép kín... Một
lần nữa, vấn đề hiệu quả của chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài lại được đặt ra như một bài toán chưa có lời giải .
d. Thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ.
Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài được thực hiện không theo quy định của pháp luật về chuyển
giao công nghệ: không lập và ký kết hợp đồng hay chỉ ký kết hợp đồng
giữa bên giao và bên nhận mà không trình để phê duyệt ; nhiều hợp đồng
do bên nước ngoài soạn thảo với điều kiện có lợi cho họ hoặc trái với quy
định của pháp luật Việt Nam; phí chuyển giao công nghệ quá cao... Nhà
Nước ta khuyến khích chuyển giao công nghệ với mức phí chuyển giao là
5% giá bán tinh hay 25% lợi nhuận sau thuế trong thời hạn 7 năm ( theo
quy định số 49- HDBT ). Nhưng bên giao tìm cách không trình duyệt hợp
đồng chuyển giao công nghệ ( chỉ có dự án đầu tư nước ngoài có hợp
chuyển giao công nghệ trình Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường
xét duyệt theo đúng pháp luật).
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do các bên tham
gia chuyển giao công nghệ không am hiểu pháp luật Việt Nam ; các đối
tác Việt Nam không có đủ thông tin về công nghệ , về thị trường; một số
cán bộ có trình độ kém, không quan tâm đến lợi ích chung. Một phần
khác là do hệ thống pháp Việt Nam chưa thực sự ổn định và chặt chẽ .
33
e.Sự thiếu đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật
cho hoạt động chuyển giao công nghệ.
Công nghệ chuyển giao vào trong nước phải có những điều kiện
nhất định về cơ sở hạ tầng kỹ thuật để chọn lựa cho phù hợp cũng như
phát huy được hiệu quả, tác dụng . Trong khi đó, sự thiếu đồng bộ, thiếu
hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện nay đã khiến các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn:Thiếu thông tin, thiếu năng lực quản lý, đổi
mới công nghệ...Chúng ta đang từng bước xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng nhưng vẫn còn nhiều thua kém so với các quốc gia khác .
f. Bảo vệ môi trường.
Một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình “ phát triển bền
vững ” đối với mọi quốc gia là yêu cầu về bảo vệ môi trường. Cùng với
việc chuyển giao các công nghệ cũ , lạc hậu thì nỗi lo về môi sinh cũng
được đặt ra. Khảo sát ở một số cơ sở sản xuất dưới đây cho thấy:Nhà máy
phân lân Văn Điển có lượng bụi tới 1100 mg/m3, chiếm 90% lượng chất
thải vào không khí. Nhà máy cao su Hà Nội , hơi xăng có nồng độ cao
vượt tiêu chuẩn cho phép tới 40 lần. Một số cơ sở chế biến thuỷ sản ở Hải
Phòng, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh,lượng khí Freon và amoniac
từ hệ thống cấp động bị rò rỉ vào không khí lớn là tác nhân phá huỷ tầng
ozon của khí quyển...Bên cạnh tình trạng ô nhiễm không khí là sự ô
nhiễm nguồn nước sinh hoạt do các nhà máy dệt , nhuộm , thuộc da, hoá
chất thải ra.Tiếng ồn, độ rung của máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới sức khoẻ người công nhân và nhân dân lao động. Tình
trạng báo động này là nguyên nhân từ phía các nhà đầu tư hay pháp luật
Việt Nam chưa có những điều khoản quy định rõ ràng, những biện pháp
xử lý cứng rắn đối với các thiết bị gây ô nhiễm; những công nghệ xử lý
chất thải không hiệu quả .Dù sao chăng nữa, chúng ta cần những công
nghệ tiên tiến và phù hợp để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
34
song không thể trở thành “ bãi thải công nghệ ” của các quốc gia phát
triển.
Chương III Phương hướng và một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các
dự án đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
I. Nhận định chung về tình hình chuyển giao công nghệ trong
thời gian sắp tới
Trong thời gian sắp tới, Đảng và Nhà nước ta vẫn hết sức coi
trọng việc đổi mới công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công
nghệ, đặc biệt là chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài.
Bởi chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để chúng ta thúc đẩy
35
nền công nghệ quốc gia phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước. Vì vậy, một số nhận định chung nhất về tình hình
chuyển giao công nghệ trên quy mô toàn cầu nói chung và tại Việt nam
nói riêng sẽ giúp chúng ta đề ra những phương hướn và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước
ngoài.
Thống trị nền kinh tế toàn cầu, nắm trong tay 2/3 tổng giá trị mậu
dịch thế giới, các công ty xuyên quốc gia của các nước công nghiệp đang
chi phối tới 90% thị trường công nghệ cao. Thời gian sắp tới, Việt Nam
phải tạo cho mình sức hút đối với hoạt động đầu tư trực tiếp từ các công
ty này để chuyển giao một cách đồng bộ các công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Bên cạnh đó, phương thức chuyển giao sẽ thay đổi : công nghệ – công
nghệ nhiều hơn là công nghệ – tiền. Đây là một bài toán hết sức khó khăn
đặt ra không chỉ với các doanh nghiệp mà còn đối với các nhà hoạch định
chính sách. Mặt khác, nhiều vấn đề đang phát sinh gây cản trở cho các
quốc gia có trình độ công nghệ kém như: giá công nghệ cao hơn, điều
kiện chuyển giao ngặt nghèo, hạn chế thị trường xuất khẩu, không chuyển
giao hết các bí quyết công nghệ... Nhiều công nghệ không được phép
chuyển giao dưới bất kỳ hình thức nào vì bị coi là bí mật quốc gia. Như
đã nói trên, đầu tư nước ngoài là nhân tố căn bản quyết định số lượng và
chất lượng công nghệ được chuyển giao. Nhưng thời gian qua, do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á, sự cạnh tranh thu hút
đầu tư nước ngoài của Trung Quốc, sự chuyển hướng sang các nước phát
triển của dòng vốn đầu tư nước ngoài... đã khiến tổng vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam giảm đi đáng kể.
Từ những nhận định chung về tình hình chuyển giao công nghệ
như trên, một số giải pháp và kiến nghị sau sẽ góp phần nâng cao hiệu
36
quả chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời
gian sắp tới.
II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ
qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1. Giải pháp đổi mới từ phía Nhà nước.
Có thể ví von “Nhà nước” giống như một người “nhạc trưởng” giữ
vai trò chỉ đạo, điều tiết nền kinh tế quốc dân; còn hệ thống các doanh
nghiệp giống như những “nhạc công” trong dàn giao hưởng. Bản giao
hưởng có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào tài năng của mỗi
nhạc công song một phần quan trọng lại phụ thuộc vào người chỉ huy dàn
nhạc. Cũng như vậy, Nhà nước hoạch định chiến lược phát triển tổng thể
của quốc gia, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động,
giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đủ sức mạnh làm chủ
công nghệ mới, cải tiến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp, từng bước sáng tạo công nghệ để đưa đất nước ngày càng phát
triển bền vững.
Nhằm nâng cao hiẹu quả chuyển giao công nghệ,đa dạng hoá các
đối tác đầu tư cũng như các đối tác chuyển giao công nghệ, tăng cường
hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN trong đầu tư - chuyển giao
công nghệ tại Việt Nam, đặc biệt là hợp tác với các quốc gia có tiềm lực
công nghệ mạnh như : Nhật Bản, Mỹ, các nước Tây âu... Không có một
quốc gia nào có đầy đủ mọi nguồn lực để phát triển. Vì vậy, xu hướng
khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đã ra đời như một quy luật
tất yếu của quá trình phát triển kinh tế. Cùng với việc mở rộng các quan
hệ quốc tế: là thành viên của ASEAN, sắp tới sẽ là thành viên của hiệp
hội Thương mại quốc tế( WTO ),và đặc biệt là sự ra đời của hiệp định
thương mại Việt – Mỹ (07/2000)... Nhà nước Việt Nam ngày càng có
37
nhiều cơ hội mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa
phương. Các quan hệ này sẽ mở đường cho hoạt động đầu tư nước ngoài
và quá trình chuyển giao những công nghệ tiên tiến thích hợp từ các nước
có trình độ công nghệ cao.
Bên cạnh đó, đa dạng hoá các đối tượng chuyển giao công nghệ
bao gồm: phần cứng sản xuất, phần cứng tổ chức, tài liệu sản xuất, tài liệu
tổ chức, kỹ năng sản xuất giải pháp này khắc phục những lỗ hổng trong
chuyển giao công nghệ tại nước ta hiện nay. Đó là tình trạng chuyển giao
công nghệ chỉ đơn thuần là chuyển giao các máy móc thiết bị, dây chuyền
sản xuất mà thiếu những phần mềm có tính chất quyết định trong sản xuất
kinh doanh như: bí quyết kĩ thuật, phương thức quản lý... Đa dạng hoá
các đối tượng chuyển giao công nghệlaf điều kiện cần và đủ để từng bước
giúp các doanh nghiệp làm chủ được công nghệ chuyển giao. Trên cơ sở
đó, thúc đẩy nền công nghệ quốcgia phát triển làm động lực cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Một giải pháp đặc biệt quan trọng là Nhà nước phải tạo môi
trường đầu tư thuạn lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Việc tạo
môi trường đầu tư thuận lợi bao gồm hàng loạt các vấn đề như: hoàn
thiện cơ sở hạ tầng về tài chính, giao thông vận tải, luật pháp; đào tạo
nguồn nhân lực; xây dựng mạng lưới thông tin thông suốt... Hiện nay, các
văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật quy định về hoạt
động đầu tư nước ngoài, hoạt động chuyển giao công nghệ nói riêng còn
hay thay đổi, chưa thực sự có hiệu quả. Một môi trường đầu tư an toàn, ít
biến động sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn. Trong việc tạo
môi trường đầu tư thuận lợi, xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của các
khu công nghiệp, khu chế xuất là đièu cần thiết. Học tập kinh nghiệm của
Trung Quốc,Singapore, các đặc khu kinh tế này sẽ trở thành trung tâm thu
hút hoạt động chuyển giao công nghệ có hiệu quả.
38
Với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế,Nhà nước ta cũng cần xây
dựng một quy hoạch chiến lược phát triển tổng thể.Đây sẽ là định hướng
giúp các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh đúng đắn .Mặt khác một
chiến lược tổng thể về đổi mới công nghệ làm cơ sở cho việc thiết kế cụ
thể chiến lược phát triển công nghệ gắn với chiến lược sản phẩm của các
doanh nghiệp. Chiến lược đó bao gồm :
- Các quan điểm và mục tiêu đổi mới công nghệ .
- Các định hướng ưu tiên trong phát triển công nghệ .
- Các giải pháp chiến lược đổi mới và phát triển công nghệ.
- Lộ trình đổi mới công nghệ .
Đây sẽ là giải pháp nhằm tránh tình trạng chuyển giao công
nghệ một cách ồ ạt,thiếu đồng bộ và không hiệu quả.
Một mặt tăng cường công tác tư vấn chuyển giao công nghệ, Nhà
nước ta cũng khuyến khích các dự án đầu tư nước ngoài gắn với chuyển
giao công nghệ.Một vấn đề đặt ra ở đây là : Lựa chọn công nghệ thích
hợp như thế nào? Phần trên của đề án đã khá đầy đủ về cách thức lựa
chọn một công nghệ thích hợp. Tuỳ từng doanh nghiệp mà có thể thực
hiện phương châm “ đi trước đón đầu” , tiếp nhận những công nghệ tiên
tiến, hiện đại hay chỉ tiếp nhận những công nghệ có trình độ phù hợp với
điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Để tiếp nhận công nghệ được chuyển giao một cách hiệu quả, nền
công nghệ nội sinh cũng phải khẳng định được vai trò của mình. Phát
triển nền công nghệ nội sinh là nền tảng để thực hiện chuyển giao công
nghệ. Không có khả năng tìm hiểu, tiếp thu thông tin công nghệ - đây là
một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự thất bại trong chuyển
giao công nghệ. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ sự yếu kém của nền
công nghệ trong nước.
39
Ngoài ra, Nhà nước ta nên tạo một cơ chế mở đối với sự phát triển
khoa học – công nghệ trong nước. Một mặt, tạo điều kiện để đội ngũ các
nhà khoa học học tập và nghiên cứu. Mặt khác, gắn hoạt động của họ
với cơ chế thị trường, tức gắn kết nhu cầu đổi mới công nghệ với công tác
nghiên cứu triển khai công nghệ ở các viện, các trung tâm công nghệ.
Đây cũng là một giải pháp tốt đối với vấn đề thiếu nguồn lực cho đầu tư
đổi mới công nghệ và thiếu công nghệ thích hợp để triển khai ở các doanh
nghiệp hiện nay.
Trên đây là số giải pháp đổi mới từ phía Nhà nước nhưng một
phần rất quan trọng lại phụ thuộc vào bản thân các doanh nghiệp – người
trực tiếp tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ.
Vậy, giải pháp nào để nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ
từ phía các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay?
b. Giải pháp đổi mới từ phía doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp cần phải nhận thức được vai trò, tầm quan
trọng của công tác đổi mới công nghệ. Đặc biệt, quan tâm đến vấn đề
chuyển giao công nghệ bằng cách: khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào
Nhà nước. Trong một thời gian quá dài chịu ảnh hưởng của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, đến khi chuyển sang cơ chế thị trường, hầu hết
các doanh nghiệp đều tỏ ra lúng túng, kém năng động. Sự chậm chạp
trong việc nắm bắt nhu cầu không ngừng gia tăng của thị trường và trong
đổi mới công nghệ đã khiến không ít các doanh nghiệp rơi vào tình trạng
làm ăn thua lỗ triền miên. Điển hình ở đây là một số doanh nghiệp Nhà
nước như: Nhà máy dệt Nam Định, các nhà máy cơ khí đóng tàu...
Mặt khác, các doanh nghiệp phải tự nâng cao trình độ quản lý, xây
dựng chiến lược kinh doanh trung và dài hạn của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp Việt Nam thường có bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động
40
kém hiệu quả. Thời gian qua, thông qua liên doanh, liên kết với nước
ngoài, thông qua các chương trình đào tạo... nhìn chung, trình độ quản lý
đã được nâng cao một phần đáng kể. Song, sự nâng cao này vẫn chưa
theo kịp với trình độ của thế giới cũng như sự đổi mới về phương thức
quản lý chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện nay.
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thông tin đóng vai trò
đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đào tạo được một đội ngũ người
lao động có trình độ, có khả năng thu thập và xử lý thông tin một cách
nhanh gọn, chính xác. Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, doanh
nghiệp không những phải nắm bắt thông tin về thị trường và thực lực của
doanh nghiệp, của đối thủ cạnh tranh để lựa chọn công nghệ thích hợp;
mà doanh nghiệp còn phải nắm bắt được thông tin vè thị trường công
nghệ thế giới để tránh tình trạng : mua quá đắt so với giá trị thực tế của
công nghệ như hiện nay.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải thực sự coi trọng vấn đề
nhânh sự, kĩ năng quản lý và phẩm chất đạo đức của họ. Điều này có ý
nghĩa lớn trong khâu chuẩn bị và kí kết hợp đồng. Thứ nhất là giai đoạn
chuẩn bị đàm phán: doanh nghiệp phải xác định rõ mục tiêu, kết quả đạt
được sau khi đưa công nghệ vào sản xuất ; đánh giá và phân tích công
nghệ một cách cẩn thận; tìm hiểu các thông tin về đối tác để biết được
thực lực công nghệ của họ. Thứ hai là giai đoạn thảo luận hợp đồng
chuyển giao công nghệ với các điều khoản của hợp đồng. Các điều khoản
này phải được xem xét kĩ lưỡng và kết hợp lợi ích của cả hai bên trong
quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ. Người đại diện cho doanh
nghiệp tham gia kí kết hợp đồng chuyển giao công nghệ phải có ý thức
đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Kí kết hợp đồng chuyển
41
giao công nghệ là công việc hết sức quan trọng giúp doanh nghiệp nhận
được công nghệ phù hợp mà tiết kiệm được chi phí tối đa.
ở trên, chúng ta đã đề cập đến vấn đề Nhà nước tạo cơ chế thông
thoáng cho mối liên kết giữa doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu triển
khai công nghệ. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi
doanh nghiệp nên chủ động tìm cho mình cách đổi mới công nghệ thích
hợp, hiệu quả mà ít tốn kém. Gắn kết hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình với các viện, các trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ sẽ
giúp doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, khả năng
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Một số giải pháp đổi mới từ phía các doanh nghiệp không thể bao
quát toàn bộ những vấn đề đã và đang tồn tại. Nhưng phần nào, các giải
pháp này đã dựa trên thực tế khách quan tại các doanh nghiệp hiện nay.
Hy vọng, các doanh nghiệp có thể tìm ra được hướng đi phù hợp với điều
kiện của bản thân mình.
3. Những kiến nghị
Trên cơ sở thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ qua
các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua, em xin mạnh dạn
đưa ra một số những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chuyển giao công
nghệ trong thời gian tới.
Thứ nhất, Nhà nước nên tiếp tục ban hành, sửa đổi, bổ sung các
văn bản liên quan để cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay các nhà đầu tư rất quan tâm đến tiến
trìng cổ phần hoá các doanh nghiệp. Họ hy vọng trong một tương lai
không xa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được cổ phần hoá và được niêm yết tại thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, có nhiều
ý kiến cho rằng giá thuê đất ở Việt Nam quá cao... Hoàn thiện môi trường
đầu tư liên quan chặt chẽ với luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Vì
42
vậy, chính phủ nên sớm ban hành nghị định quy định chi tiết việc thực
hiện chương III, phần 6 của bộ luật dân sự về chuyển giao công nghệ với những ưu đãi rộng rãi hơn cho các nhà đầu tư có chuyển giao công nghệ;
xúc tiến việc hướng dẫn điều 65- luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
khuyến khích hoạt động nghiên cứu - triển khai công nghệ trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực khác nhau, các vùng kém phát triển... thông qua ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác.
Thứ hai, Nhà nước cần tăng cường quản lý các hoạt động dịch vụ
tư vấn chuyển giao công nghệ để tránh những phiền hà trung gian không
cần thiết. Mặt khác, sự kiểm soát chặt chẽ này sẽ tạo điều kiện cho các
hoạt động dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ hiệu quả hơn. Nguồn
thông tin do họ cung cấp cũng nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Thứ ba, ban hành danh mục các công nghệ được ưu tiên chuyển
giao. Danh mục này giúp Nhà nước thực hiện hiệu quả chiến lược phát
triển công nghệ quốc gia như đã định. Đồng thời, giúp các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn, phù hợp với sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước có các biện pháp kiểm soát, ngăn chặn việc
chuyển giao các máy móc, thiết bị cũ được tân trang lại và các công nghệ
lạc hậu. Về lâu dài, Nhà nước nên ban hành chính sách công nghệ quốc
gia.
Thứ năm, áp dụng các biẹn pháp kiểm tra về bảo vệ môi trường
trong các dự án đầu tư nước ngoài. Các công nghệ được chuyển giao
trong các dự án đầu tư phải trình duyệt với Bộ khoa học – công nghệ và
môi trường. Công nghệ gây ô nhiễn có thể bị phạt, bị đánh thuế nặng hay
trả về cho nhà đầu tư.
Thứ sáu, Nhà nước có chính sách ưu đãi, khuyến khích hoạt động
nghiên cứu- triển khai trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
43
Phần kết thúc
“Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài” vốn
không phải là một đề tài mới. Nhưng đây cũng là một vấn đề đã cũ đối
với các nhà quản lý vĩ mô nền kinh tế và ngay cả đối với mọi doanh
nghiệp. Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài đã và
đang đặt ra nhiều vướng mắc cần giải quyết bên cạnh những ưu điểm
đáng được học tập, được phát huy. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước
cần tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động chuyển giao công nghệ, đưa
ra những biện pháp, chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp tiến hành
chuyển giao công nghệ. Mặt khác, các doanh nghiệp phải nhận thức được
vai trò và tầm quan trọng của chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển
giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. Bởi đây là một trong
những con đường thuận lợi và ngắn nhất để doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Hiểu
được vị trí của chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài
trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cho ta thấy sự
cần thiết phải tháo gỡ những vướng mắc của quá trình thực hiện đó.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, em xin đưa ra một số giả pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư nước ngoài. Do một số hạn chế nhất định, có thể chưa thật đầy đủ
nhưng đây là các giải pháp chung nhất dưới góc độ của một người nghiên
cứu khoa học.
Hy vọng chuyển giao công nghệ trong thời gian tới sẽ là một phần
quan trọng của các dự án đầu tư nước ngoài. Chuyển giao công nghệ hiệu
quả là nhân tố thúc đẩy nền công nghệ quốc gia phát triển, giảm sự chênh
lệch về trình độ công nghệ so với thế giớ. Công nghệ mạnh giúp các
44
doanh nghiệp có đủ nguồn lực để tham gia cạnh tranh, đặc biệt khi hàng
rào thuế quan được xoá bỏ vào năm 2003.
Danh mục tài liệu tham khảo
Công nghệ và quản lý công nghệ – Trường Đại Học Kinh Tế 1.
Quốc Dân – Bộ môn quản lý công nghệ – 1999.
2.
Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Đại Học Kinh Tế Quốc Dân – Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế – Nhà xuất bản Thống kê - 1998.
Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường, vận 3.
dụng vào Việt Nam – Nhà xuất bản Nông nghiệp – 1994.
Chuyển giao công nghệ và quản lý của Nhật Bản sang các 4.
nước ASEAN( nhiều tác giả Nhật Bản).
Suy nghĩ về cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta 5.
– PGS. TS Nguyễn Tiến Đích – Tạp chí hoạt động khoa học số 4/2000.
6.
Tác động của khoa học và công nghệ đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn – Chu Tuấn Nhạ - Tạp chí hoạt động khoa học số 3/2000. 7. Cơ sở và lợi ích của chuyển giao công nghệ quốc tế – Những
vấn đề kinh tế kinh tế thế giới số 6 (62)/1999.
8.
Kinh nghiệm tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các NIE Châu á - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam – Hoàng Thị Bích Loan – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Kinh tế Châu á Thái Bình Dương số 4(21)/2000.
9.
Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Thực trạng vấn đề và giải pháp – Danh Sơn – Nghiên cứu kinh tế số 264, tháng 05/2000.
10. Đầu tư - chuyển giao công nghệ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam – Phạm Thị Tuý – Kinh tế Châu á Thái Bình Dương số 1(18). 11. Technology Assessment In Viet Nam: Concept and
Practices.
Technology Transfer To a Developing Country – Some
Experiences From Viet Nam.
Tran Ngoc Ca – The National Institute for Science and Technology Policy and Strategy Studies(NISTPASS), Ministry of Science, Technology and Environment(MOSTE).
45