
MƠB ĐÂDU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI
Hiện nay, Chính phủ các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với việc ngày càng gia
tăng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cu@ng
như ưBng phoB vơBi caBc thách thức trong nhu cầu đô thị hóa. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào
cũng có đủ nguồn lực để giải quyết nhiệm vụ này, đặc biệt là các nhóm nước đang phát triển.
Ngân sách nhà nước không đủ để đáp ứng được các yêu câu phục vụ cho công tác xây dựng
cơ sở hạ tầng, vì vậy các quốc gia này xem hình thức đối tác công tư (PPP) là một giải pháp
hữu hiệu trong việc giải quyết với sự thách thức trên đây của sự phát triển.
TaNi ViêNt Nam hiện nay, các tổ chức tài chính quốc tế ADB, WB và IMF cũng đã khuyến
nghị về vai trò quan trọng của đầu tư cơ sở hạ tầng đối với phát triển bền vững và công cuộc
chống đói nghèo. Mặc dù ngân sách nhà nước đã phân bổ trung bình khoảng 9%-10% GDP
cho đầu tư cơ sở hạ tầng hàng năm, tuy nhiên, việc cân đối vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng
ngày càng khó khăn và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của phát triển đề ra. Tổ chức Ngân
hàng thế giới (WB) chỉ ra rằng Việt Nam cần tăng đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng lên khoảng
11-12% thì mới có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng hiện tại. Vì vậy, thông qua bài học kinh
nghiệm về đầu tư hạ tầng của các quốc gia trong khu vực và thế giới, mô hình hợp tác Công-
tư (PPP) đã và đang được quan tâm cả về lý luận, thực tiễn và được triển khai mạnh mẽ.
Bên caNnh đoB, thực tế việc phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư cơ sơd
haN tâeng hiêNn nay đang phải đối mặt với những khó khăn cả trên khía cạnh lý luận khoa học,
khuôn khổ pháp lý, chính sách và năng lực triển khai, cụ thể là:
Thứ nhất, khái niệm và các nội hàm liên quan đến quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực
cơ sở hạ tầng vẫn còn khá mới mẻ với Việt Nam, đặc biệt coen thiếu các định nghĩa thống nhất
trong giới nghiên cứu cũng như nhà hoạch định chính sách. Một số nghiên cứu cho rằng hợp
tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng chỉ dừng lại ở ở một số hình thức như BOT, BTO, BT
giữa nhà nước và tư nhân khi triển khai kí kết các hợp đồng xây dựng các công trình. Một số
nghiên cứu lại cho rằng, đây là hình thức cùng góp vốn để thực hiện một công trình nào đó,
theo mô hình chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đây là lí do dẫn tới những khoảng trống cần được
nghiên cứu và lấp đầy nhằm tạo cơ sở thống nhất cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thể chế PPP trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, các kinh nghiệm quốc tế thành công cũng như thất bại trong phát triển mô hình
PPP về đầu tư cơ sở hạ tângg vẫn chưa được hệ thông hóa một cách khoa học nhất để đúc rút
ra những bài học thực tiễn áp dụng trong điều kiện của Việt Nam. Mặt khác, hầu hết các nghiên
cứu mới chỉ tập trung vào khu vực công mà còn bỏ sót khu vực tư nhân, bao gồm các chủ đầu
tư và nhà thầu xây dựng dự án.
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến mô hình PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ
tầng đã được bổ sung tuy nhiên vẫn còn thiếu và chưa phù hợp với tình hình cũng như nhu cầu
phát triển của mô hình PPP trong đầu tư cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, thể chế
quản lý nhà nước đối với các dự án cơ sở hạ tầng đầu tư theo mô hình PPP chưa đáp ứng yêu