Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2016

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ

TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Hoàng Quy

Thành viên: TS. Vũ Thị Thu Hằng

Ths. Nguyễn Thị Tình

Ths. Phan Minh Nguyệt

Ths. Nguyễn Thị Ngọc Mai

Ths. Vũ Thị Bích Ngọc

Thư ký:

Ths. Nguyễn Hồng Trang

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI

Hiện nay, Chính phủ các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với việc ngày càng gia tăng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cũng như ứng phó với các thách thức trong nhu cầu đô thị hóa. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng có đủ nguồn lực để giải quyết nhiệm vụ này, đặc biệt là các nhóm nước đang phát triển. Ngân sách nhà nước không đủ để đáp ứng được các yêu câu phục vụ cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, vì vậy các quốc gia này xem hình thức đối tác công tư (PPP) là một giải pháp hữu hiệu trong việc giải quyết với sự thách thức trên đây của sự phát triển.

Tại Việt Nam hiện nay, các tổ chức tài chính quốc tế ADB, WB và IMF cũng đã khuyến nghị về vai trò quan trọng của đầu tư cơ sở hạ tầng đối với phát triển bền vững và công cuộc chống đói nghèo. Mặc dù ngân sách nhà nước đã phân bổ trung bình khoảng 9%-10% GDP cho đầu tư cơ sở hạ tầng hàng năm, tuy nhiên, việc cân đối vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng ngày càng khó khăn và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của phát triển đề ra. Tổ chức Ngân hàng thế giới (WB) chỉ ra rằng Việt Nam cần tăng đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng lên khoảng 11-12% thì mới có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng hiện tại. Vì vậy, thông qua bài học kinh nghiệm về đầu tư hạ tầng của các quốc gia trong khu vực và thế giới, mô hình hợp tác Công- tư (PPP) đã và đang được quan tâm cả về lý luận, thực tiễn và được triển khai mạnh mẽ.

Bên cạnh đó, thực tế việc phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư cơ sở hạ tầng hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn cả trên khía cạnh lý luận khoa học, khuôn khổ pháp lý, chính sách và năng lực triển khai, cụ thể là:

Thứ nhất, khái niệm và các nội hàm liên quan đến quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng vẫn còn khá mới mẻ với Việt Nam, đặc biệt còn thiếu các định nghĩa thống nhất trong giới nghiên cứu cũng như nhà hoạch định chính sách. Một số nghiên cứu cho rằng hợp tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng chỉ dừng lại ở ở một số hình thức như BOT, BTO, BT giữa nhà nước và tư nhân khi triển khai kí kết các hợp đồng xây dựng các công trình. Một số nghiên cứu lại cho rằng, đây là hình thức cùng góp vốn để thực hiện một công trình nào đó, theo mô hình chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đây là lí do dẫn tới những khoảng trống cần được nghiên cứu và lấp đầy nhằm tạo cơ sở thống nhất cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.

Thứ hai, các kinh nghiệm quốc tế thành công cũng như thất bại trong phát triển mô hình PPP về đầu tư cơ sở hạ tângg vẫn chưa được hệ thông hóa một cách khoa học nhất để đúc rút ra những bài học thực tiễn áp dụng trong điều kiện của Việt Nam. Mặt khác, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào khu vực công mà còn bỏ sót khu vực tư nhân, bao gồm các chủ đầu tư và nhà thầu xây dựng dự án.

Thứ ba, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến mô hình PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được bổ sung tuy nhiên vẫn còn thiếu và chưa phù hợp với tình hình cũng như nhu cầu phát triển của mô hình PPP trong đầu tư cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, thể chế quản lý nhà nước đối với các dự án cơ sở hạ tầng đầu tư theo mô hình PPP chưa đáp ứng yêu

cầu đề ra, chưa đưa ra được những chính sách phù hợp và kịp thời cho phát triển mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Thư tư, hiện vẫn chưa có nhiều các công trình khảo sát, phân tích đánh giá tổng thể về các yếu tố tác động đến phát triển mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, cũng như đánh giá thực trạng đối các dự án đầu tư theo mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam nhằm làm cơ sở thực tiễn cho ban hành chính sách và bổ sung văn bản pháp lý.

Từ những lí do trên, kết hợp với phân tích hạn chế của các nghiên cứu trong nước và nhu cầu phát triển hiệu quả mô hình PPP trên các lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam” làm đề tài cho công trình nghiên cứu của mình.

2. CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, đề tài tập trung trả lời các các câu hỏi sau:

(cid:0)

Những yếu tố tác động đến sự thành công hoặc hạn chế của công tác hoàn thiện hệ

thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam?

(cid:0)

Thực trạng thể chế và công tác hoàn thiện thể chế PPP cơ sở hạ tầng tại Việt Nam?

(cid:0)

Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể

chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng?

(cid:0)

Các nhân tố thuộc môi trường trong nước ảnh hưởng đến kết quả công tác xây dựng

và hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng là gì?

(cid:0)

Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế ảnh hưởng đến kết quả công tác xây dựng và

hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng là gì?

(cid:0)

Các nguyên tắc trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối

tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng nhân tại Việt Nam là gì?

(cid:0)

Kinh nghiệm của một số nước và bài học cho Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện

hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư nhằm phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam là gì?

(cid:0)

Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể

chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài hướng đến các mục đích sau:

(cid:0)

Nghiên cứu lý luận khoa học, kinh nghiêm quốc tế về mô hình công - tư PPP trong

lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng;

(cid:0)

Phân tích và đánh giá thực trạng các công trình được xây dựng theo mô hình hợp tác

công tư và thực trạng xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế PPP đã triển khai tại Việt Nam;

(cid:0)

Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới (nước phát triển và nước

đang phát triểntrong vận dụng mô hình PPP vào đầu tư cơ sở hạ tầng;

(cid:0)

Nhận diện các yếu tố tác động đến kết quả xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng như: thực trạng áp dụng, thực trạng nội dung và mô hình xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng;

(cid:0)

Từ các kết quả thu được, nghiên cứu hướng đến các giải pháp hành động cho các bên liên quan trong dự án và đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế

PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam tại các cơ quan quản lí lĩnh vực tại Trung Ương và Địa phương trong việc thực hiện quy trình xây dựng và hoàn thiện chính sách, thể chế.

Về thời gian: Nghiên cứu sử dụng các số liệu, dữ liệu thống kê trong 5 năm (từ năm 2011 đến năm 2015) về hoạt động đầu tư công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam và các dữ liệu điều tra phỏng vấn thực hiện trong năm 2016.

Về nội dung: Nghiên cứu tập trung làm rõ các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Qua đó xác định thành công, hạn chế và các nguyên nhân của thành công; hạn chế công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Từ đó tác giả đề xuất quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5.1. Phương pháp phân tích tài liệu và số liệu thống kê

Nghiên cứu thực tiễn là một trong những mục tiêu quan trọng của đề tài, để từ những kết quả phân tích thực tiễn, nghiên cứu đưa ra những giải pháp phù hợp, hữu ích và thiết thực nhằm hoàn thiện công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Do vậy, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích phân tài liệu và số liệu thống kê để tìm hiểu về thực tiễn của đề tài nghiên cứu. Những kết quả có được được sau khi phân tích tài liệu và số liệu thống kê trở thành những căn cứ và luận chứng đáng tin cậy, quan trọng và có giá trị, ý nghĩa về mặt khoa học cho những đánh giá, kết luận của nghiên cứu.

Nghiên cứu đã tiến hành thu lập tài liệu và số liệu thống kê hàng năm của Việt Nam cũng như một số tỉnh có các dự án PPP lớn trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Các tài liệu và số liệu được thu thập tập trung vào các nội dung về thực trạng phát triển của các dự án PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Cụ thể, nghiên cứu đã thu thập và nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ cung cấp tài liệu của các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư; người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư, và các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công tư.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng thu thập bổ sung thêm các tài liệu sách, báo, tạp chí, các nghiên cứu, các báo báo, các số liệu thống kê khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Các tài liệu sau khi thu thập về được phân loại, và loại bỏ những số liệu không phù hợp, không đáng tin cậy. Các số liệu thống kê được sắp xếp theo từng năm nhằm hỗ trợ phân tích rõ hơn những biến đổi theo thời gian của thực tiễn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu điển hình

Tác giả nghiên cứu kinh nghiệm điển hình trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng của một số quốc gia trên thế giới, trong đó chia làm 2 nhóm: (1) Các quốc gia phát triển bao gồm: Vương quốc Anh; Hàn Quốc; Hoa Kỳ; Singapore Australia. Và (2) các nhóm nước đang phát triển gồm: Philippin; Ấn Độ; Indonesia; Trung Quốc.

Dựa trên căn cứ ví dụ thực tiễn trong việc xây dựng và phát triển hệ thống thể chế PPP cơ sở hạ tầng tại các quốc gia này, nghiên cứu chỉ ra các bài học cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Đây là tiền đề để tác giả xây dựng các giải pháp cũng như các kiến nghị tới các cơ quan nhà nước tại trung ương tại địa phương, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

5.3. Phương pháp khảo sát điều tra bảng hỏi

Cũng với mục đích nhằm tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu cũng đã sử dụng phương pháp khảo sát điều tra bảng hỏi. Qua phương pháp này, tác giả tiến hành thu thập ý kiến đánh giá của các đơn vị, cá nhân có liên quan đến hoạt động xây dựng tại các công trình theo hình thức PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Các đối tượng được thu thập ý kiến bằng bảng hỏi gồm: các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư; các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công tư và người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Để tiến hành điều tra bảng hỏi, tác giả đã sử dụng 3 bảng hỏi dành cho 3 đối tượng cần được điều tra khác nhau là các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư; người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư, và các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Do các nhóm đối tượng này có những đặc điểm khác nhau nên việc thiết kế các bảng hỏi khác nhau để thu thập dữ liệu là hoàn toàn cần thiết nhằm thu thập được dữ liệu phản ánh tổng thể, khách quan thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng cũng như thực trạng công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay.

Các bảng hỏi trước khi đưa vào điều tra chính thức đã được tiến hành điều tra thử, qua đó rút ra những hạn chế và điều chỉnh lại phù hợp hơn. Về cách thức phân phát bảng hỏi điều tra, bảng hỏi được phân phát trực tiếp và gửi qua email đến các đối tượng điều tra; trong một số trường hợp có thể hẹn được gặp trực tiếp, tác giả tiến hành giải thích và hướng dẫn chi tiết các nội dung cần điền; một số trường hợp khác tác giả hướng dẫn qua điện thoại và các công cụ hô trợ khác để tiết kiệm chi phí.

Từ danh sách các đơn vị quản lý nhà nước và các nhà thầu tư nhân đã tham gia công trình dự án hợp tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam mà tác giả thu thập được từ nguồn Bộ Giao thông Vận tải, tác giả tiến hành gửi đến tất cả các bên tham gia có thông tin đầy đủ qua email. Một số khác không có hoặc bị sai, nhưng có đầy đủ các thông tin khác, tác giả liên hệ trực tiếp để xin lại thông tin cần để gửi bảng hỏi hoặc hẹn gặp phỏng vấn trực tiếp.

Sau khoảng 1 đến 2 tuần, tác giả tiến hành gọi điện thoại nhắc lại và hướng dẫn bổ sung đến một số nhất định các đói tượng chưa trả lời bảng hỏi. Cuối cùng, thu được bảng hỏi hoàn thiện của 56 đơn vị nhà nước và 142 nhà thầu tư nhân tham gia các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao thông tại Việt Nam. Mẫu khảo sát 2 đối tượng này được trình bày như csac bảng dưới đây.

Bảng : Mẫu khảo sát điều tra đối với các đơn vị nhà nước tham gia các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng

Slg

%

Slg

%

Năm thành lập

Loại hình

< 1 năm

Bộ, cơ quan trực thuộc CP

10

17.86%

23.21 %

13

1 - 3 năm

Sở, cơ quan trực thuộc tỉnh

9

16.07%

19.64 %

11

3 – 5 năm

Cty MTV Nhà nước

11

19.64%

32.14 %

18

4 - 10 năm

Công ty CP vốn nhà nước

2

3.57%

16

28.57%

> 10 năm

Khác

17.86%

10

21.43 %

12

Tổng

56

100%

Tổng

100%

56

Quy mô lao động

Doanh Thu

< 100 LĐ

< 50 tỷ

10.71 %

6

14

25.00%

100 - 500 LĐ

50 - 100 tỷ

21.43 %

12

9

16.07%

500 - 1000 LĐ

Từ 100 - 500 tỷ

33.93 %

19

22

39.29%

1000-2000

Từ 500 - 1000 tỷ

23.21 %

13

11

19.64%

> 2000 LĐ

Trên 1000 tỷ

10.71 %

6

00.00%

0

100%

56

56

Tổng

100%

Tổng

Bảng : Mẫu khảo sát điều tra đối với các nhà thầu tư nhân tham gia các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng

Slg

%

Slg

%

Năm

Loại hình

thành lập

< 1 năm

14

9.86%

Tổ chức tài chính

30

21.13%

1 - 3 năm

18

12.68%

Cty cổ phần

36

25.35%

3 – 5 năm

32

22.54%

Cty TNHH

29

20.42%

4 - 10 năm

58

40.85%

Cty hợp danh

22

15.49%

> 10 năm

20

14.08%

Công ty FDI

25

17.61%

Tổng

142

100%

Tổng

142

100%

Quy mô lao động

Doanh Thu

< 100 LĐ

87

16.20%

< 50 tỷ

14

9.86%

100 - 500 LĐ

64

18.31%

50 - 100 tỷ

36

25.35%

500 - 1000 LĐ

20

38.73%

Từ 100 - 500 tỷ

39

27.46%

1000-2000

15

26.76%

Từ 500 - 1000 tỷ

33

23.24%

> 2000 LĐ

0

0.00%

Trên 1000 tỷ

20

14.08%

Tổng

142

100%

Tổng

142

100%

Đối với đối tượng là người sử dụng các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao thông, tác giả tiến hành điều tra trực tiếp tại một số điểm thu phí giao thông hoặc bán vé. Cụ thể, tác giả tiếp cận hỏi và tự điền trực tiếp vào bảng hỏi đối với người sử dụng trong lúc xếp hàng đợi mua vé hoặc đến lượt mình. Kết quả cuối cùng thu được 232 người sử dụng các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao thông.

Bảng : Mẫu khảo sát điều tra đối với người sử dụng các công trình xây dựng theo hình thức PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng

Slg

%

Slg

%

Tuổi

Loại hình công trình sử dụng

< 30 tuổi

24

10.34%

Cơ sở y tế

21

9.05%

30-39 tuổi

33

14.22%

Cơ sở giáo dục

57

24.57%

40-49 tuổi

53

22.84%

Đường Quốc lộ

57

24.57%

50-59 tuổi

84

36.21%

Trụ sở cơ quan nhà nước

57

24.57%

≥ 60 tuổi

38

16.38%

Hình thức khác

40

17.24%

Tổng

232

100%

Tổng

232

100%

Giới tính

Thời gian sử dụng

Nam

116

47.93%

Vừa sử dụng

30

12.93%

1 năm

44

18.97%

5 năm

93

40.09%

Nữ

126

52.07%

Khác

65

28.02%

Tổng

232

100%

Tổng

232

100%

Các bảng hỏi sau khi thu thập về được xem xét và loại bỏ những bảng hỏi không đạt yêu cầu nghiên cứu, sau đó, dữ liệu bảng hỏi được nhập SPSS. Các dữ liệu của điều tra bảng hỏi trong quá trình nghiên cứu được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS và excel.

6. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ

6.1. Các nghiên cứu quan trọng trong nước

Trong bài viết “Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam” (2015) trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 217, tác giả Nguyễn Quang Vinh đã chỉ ra thực trạng và vai trò phát triển của kết cấu cơ sở hạ tầng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay. Trong đó khẳng định: “Hệ thống kết cấu hạ tầng là “cốt vật chất” của các lĩnh vực kinh tế, x. hội ở mỗi quốc gia. Thực tế phát triển của các nước trên thế giới đều chứng minh vị trí, vai trò quan trọng của việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát triển. Đặc biệt tác giả cũng đưa ra các biện pháp để thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, theo đó, Chính phủ Việt Nam cần xây dựng các quy định, chính sách thu hút mạnh các thành phần kinh tế, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm lợi ích thỏa đáng của nhà đầu tư. Sửa đổi. bổ sung các quy định về chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, giá, phí, lệ phí, nhượng quyền... để tăng tính thương mại của dự án và sự đóng góp của người sử dụng. Đồng thời hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư theo các hình thức PPP, BT, BOT, ... trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2013) với nghiên cứu “Hợp tác công tư trong phát triển các dự án hạ tầng thành phố Hồ Chí Minh” đã thiết kế một mô hình hợp tác công tư dựa trên các điều kiện Việt Nam về thể chế, khung pháp lý. Mô hình này bao gồm đơn vị kế hoạch phát triển hạ tầng PPP, đơn vị quản lý dự án PPP, quỹ đầu tư phát triển hạ tầng PPP, đơn vị hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân PPP. Đơn vị kế hoạch phát triển hạ tầng sẽ thiết lập chính sách, chiến lược phát triển, kế hoạch phát triển và quản lý sự phối hợp các dự án hạ tầng theo PPP. Đơn vị quản lý dự án PPP sẽ quản lý việc triển khai thực hiện dự án PPP. Quỹ đầu tư phát triển hạ tầng PPP sẽ quản lý việc đầu tư tài chánh cho các dự án PPP cũng như phát triển nguồn quỹ này thông qua đầu tư cho các dự án khác. Đơn vị hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân sẽ phân tích đánh giá năng lực khu vực tư nhân, xây dựng, triển khai các chiến lược hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân về tài chánh, nguồn nhân lực, trang thiết bị. Các đơn vị này sẽ thuộc các Sở có liên quan về mặt chức năng và phối hợp nhau trong việc phát triển hạ tầng. Để thu hút đầu tư tư nhân, một số phương án đã được đề xuất. Nền tảng cho việc xác định các nguồn thu là nguyên tắc mọi đối tượng hưởng lợi từ cơ sở hạ tầng đều phải có nghĩa vụ đóng góp phát triển cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu đã đóng góp cho việc phát triển một mô hình PPP trong điều kiện Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu vẫn còn mang tính chất nguyên tắc và cần có những nghiên cứu tiếp theo để chi tiết hóa từng hợp phần của mô hình này cũng như áp

dụng mô hình này vào các lĩnh vực khác ngoài hạ tầng để hoàn chỉnh và tổng quát hóa mô hình này.

Trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Thúy Giang (2012) về Hình thức hợp tác công tư (Public Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam, tác giả đã chỉ ra các nhân tố tác động đến sự thành công của một dự án PPP cơ sở hạ tầng bao gồm: Vai trò của chính phủ; Việc lựa chọn đối tác đầu tư; Phân bố các rủi ro của dự án và cấu trúc tài trợ của các dự án PPP cơ sở hạ tầng, trong đó nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong việc thiết lập hệ thống thể chế mang tính đầy đủ, đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động liên quan đến quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông.

Nghiên cứu phân bổ rủi ro trong hình thức hợp tác công tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ việt nam của tác giả Thân Thanh Sơn (2015). Nghiên cứu đã hệ thống hóa góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về rủi ro và phân bổ rủi ro trong hình thức PPP phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng quan các tài liệu nghiên cứu có liên quan và sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng nghiên cứu thực trạng xác định và phân bổ rủi ro trong các dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP trong bối cảnh ở việt Nam. Đề tài đã phát hiện, lựa chọn, tổng hợp và bổ sung, điều chỉnh danh mụccác yếu tố rủi ro trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP phù hợp với điều kiện phát triển và môi trường chính trị - luật pháp - kinh tế - xã hội ở việt nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tương lai. thể hiện cụ thể, đề tài đã xác định (nhận diện) được danh mục 51 yếu tố rủi ro trong các dự án phát triển csht giao thông theo hình thức PPP ở việt nam. trong đó, đề tài bổ sung thêm được 6 yếu tố rủi ro phù hợp với hình thức PPP trong phát triển csht giao thông trong điều kiện việt nam vào danh mục các yếu tố rủi ro đã được đề cập trong các nghiên cứu trước đây. 51 yếu tố rủi ro trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trong hình thức PPP ở Việt Nam cho (nhà nước và tư nhân) các bên tham gia bằng phương pháp nghiên cứu định lượng phù hợp việc thực tế hiện nay và tương lai (theo nguyên tắc “rủi ro nên được quản lý bởi bên có khả năng quản lý rủi ro đó tốt nhất”). Cuối cùng nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất kiểm soát một số yếu tố rủi ro cơ bản từ kết quả nghiên cứu nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở Việt Nam.

Liên quan đến chủ đề này có thỏa thuận giữa Ngân hàng thế giới và chính phủ Việt Nam thông qua dự án hỗ trợ kỹ thuật “ Thành lập và hoạt động văn phòng phát triển chương trình hợp tác nhà nước và tư nhân (PPP) tại Việt Nam” được triển khai năm 2009 nhưng đến nay chỉ dừng lại ở mức độ tổ chức các cuộc hội thảo tư vấn nghiệp vụ cho các Bộ, ngành có liên quan. Một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố thường gắn kết với một dự án cụ thể, không có tính đại diện và nhận thức về PPP cũng chưa chuẩn xác.

6.2. Các nghiên cứu quan trọng nước ngoài

Các công trình nghiên cứu thực nghiệm về PPP trên thế giới rất phong phú, nhiều kết

quả quan trọng đã được công bố:

Trong một nghiên cứu của Li và các cộng sự (2005) về các dự án PPP giao thông đường bộ ở Anh, tập trung nghiên cứu về vấn đề phân bổ rủi ro đã cho thấy: Các rủi ro liên quan đến môi trường vĩ mô sẽ được phân bổ cho Chính phủ, là các rủi ro chịu tác động bởi chính trị (như thay đổi chính sách, năng lực của Chính phủ…), bởi tình hình kinh tế vĩ mô (như lạm phát, lãi suất…), bởi luật pháp (thay đổi luật, thực thi pháp luật kém…). Còn các rủi ro liên quan đến dự án (như rủi ro kỹ thuật, rủi ro quản lý…) sẽ được chuyển giao cho tư nhân. Các rủi ro nằm trong

sự kiểm soát của hai bên (như rủi ro do cung – cầu…) được chia sẻ giữa tư nhân và Chính phủ.

Nghiên cứu này cũng nêu rằng, mặc dù tư nhân có khả năng xử lý rủi ro tốt hơn Nhà nước nhưng việc chuyển giao rủi ro cho tư nhân có thể làm cho họ e ngại đầu tư. Vì thế, tính hiệu quả ở đây cần được hiểu là không phải chuyển giao càng nhiều rủi ro càng tốt, mà rủi ro cần được chuyển giao một cách hợp lý ở mức tối ưu. Có thể nói, Anh là quốc gia đứng đầu châu Âu về dự án PPP trong cung cấp dịch vụ công. Ban đầu, động cơ chính của Chính phủ Anh là thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm hỗ trợ ngân sách Chính phủ. Tuy nhiên theo thời gian, mục đích thực hiện dự án PPP dần thay đổi. Chính phủ Anh chỉ lựa chọn những dự án PPP nếu tạo ra giá trị vượt trội so với hình thức đầu tư truyền thống.

Nghiên cứu của Qiao và các cộng sự (2001) về các dự án PPP được thực hiện tại Trung Quốc đã chỉ ra rằng trong thời gian qua thì các nhân tố sau đây đã tạo nên tính thành công cho các dự án: Dự án phù hợp, kinh tế – chính trị ổn định, mức thuế phù hợp, phân bổ rủi ro hợp lý, lựa chọn các nhà thầu phụ phù hợp, kiểm soát và quản lý các dự án một cách chặt chẽ, chuyển nhượng công nghệ mới. Tuy nhiên, cơ cấu tài trợ của nhiều dự án đường bộ theo hình thức PPP ở Trung Quốc là dựa trên các khoản vay và trái phiếu quốc tế. Điều này tạo ra rủi ro tỷ giá cho Chính phủ. Mức phí thu cao so với thu nhập bình quân đầu người. Do đó, các lợi ích kinh tế và tài chính để tạo tính hấp dẫn cho đầu tư vẫn chưa đạt được. Đây là hai bài học kinh nghiệm rất đáng suy ngẫm cho Việt Nam khi áp dụng mô hình PPP để phát triển giao thông đô thị.

Cũng tại Trung Quốc, Yelin Xu và các cộng sự (2010) đã thực hiện một nghiên cứu về các dự án PPP đường cao tốc, sử dụng mô hình phân bổ rủi ro mờ (Fuzzy Risk Allocation Model – FRAM) để xác định mức phân bổ rủi ro giữa chính phủ và tư nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức rủi ro tổng thể của các dự án đường cao tốc ở Trung Quốc nằm trong khoảng trung bình đến cao. Nghiên cứu này cũng tiết lộ rằng sự can thiệp của Chính phủ và tham nhũng là trở ngại lớn nhất cho sự thành công của mô hình PPP ở Trung Quốc, nguyên nhân là do các quy định pháp luật chưa đầy đủ, hệ thống giám sát yếu, chưa công khai trong quá trình ra quyết định.

Nghiên cứu của tác giả Young (2009) đã chỉ ra răng việc hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ, tạo sự thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng theo hình thức đối tác công tư. Một khung pháp lý đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của PPP nhằm gia tăng niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo dự án đạt hiệu quả, phân chia rủi ro phù hợp và tránh những rủi ro tiềm tang. Tuy nhiên, mặc dù đối với các dự án PPP, khu vực tư nhân tham gia và chịu trách nhiệm là chủ yếu nhưng Chính phủ cần tích cực tham gia suốt vòng đời dự án để đảm bảo dự án đáp ứng các mục tiêu, cụ thể là thành lập các bộ phận giám sát quá trình thực hiện dự án, xử lý các vấn đề phát sinh, quản lý chất lượng dự án.

Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác của tác giả Akintoye và các cộng sự (2003), Zhang (2005) nghiên cứu về các nhân tố tác động đến sự thành công của PPP đã kết luận không có sự khác biệt về các nhân tố này giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các bằng chứng từ các nghiên cứu của Plumb và các tác giả (2009), Michael (2010), khẳng định các điều kiện thị trường hiện nay không nhưng không hạn chế sự phát triển của quan hệ đối tác công tư PPP, ngược lại đã tạo cơ hội để các nước phát triển PPP ngày càng phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh sau khủng hoảng. Ngoài ra, các bài nghiên cứu và

tài liệu về PPP của các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) rất đa dạng, có giá trị khoa học, đặc biệt có thể ứng dụng các bài học rút ra từ thực tiễn các nước đang phát triển có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.

6.3. Một số kết luận rút ra về tình hình nghiên cứu có liên quan

Trong những năm gần đây, hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng trở thành một lĩnh vực thu hút được sự chú ý của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Như một nhu cầu thực tiễn tất yếu, việc mở rộng hình thức hợp tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã đã làm nảy sinh những yêu cầu về vấn đề lý luận, nghiên cứu tìm hiểu nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nói riêng và quan hệ đối tác công tư nói riêng. Ở phạm vi quốc tế hay trong nước, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác phẩm nghiên cứu về hoạt động du lịch.

Về cơ bản, Các nghiên hiện nay đã đưa ra phần nào hệ thống cơ sở lý luận về các dự án PPP và công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay. Các tác giả hướng đến tìm kiếm các phương thức, chiến lược, các cấu trúc và giải pháp phù hợp để phát triển mô hình quan hệ đối tác PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng ở những lĩnh vực cụ thể nghiên cứu. Từ những phân tích từ thực trạng, các nghiên cứu đã đưa ra những định hướng phát triển, những giải pháp cần phải thực hiện để thúc đẩy sự phát triển của mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng vượt qua những khó khăn, thích ứng với những biến đổi của tình hình kinh tế - chính trị mới của thế giới nhằm đạt được mục tiêu phát triển.

Tuy nhiên các nghiên cứu này mới tập trung nhiều vào các dự án PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông mà thiếu cái nhìn khái quát về vai trò, tác động của quan hệ đối tác công tư với cả hệ thống cơ sở hạ tầng Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu mới chỉ tiếp cận chủ đề dưới góc độ sự thành công của các dự án nói chung, vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư vẫn chưa được tập trung nghiên cứu, hoặc chỉ là một phần nhỏ, trong khi hiện nay, môi trường pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng tới sự phát triển của các dự án PPP cơ sở hạ tầng nói riêng và toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam nói chung.

Ngoài ra, mặc dù các nghiên cứu trên thế giới rất nhiều, nhưng bối cảnh của các nghiên cứu này đều xảy ra ở những quốc gia có thị trường PPP đã hình thành (dù mức độ trưởng thành của các thị trường khác nhau) và chưa có nghiên cứu nào về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng được thực hiện trong điều kiện thị trường PPP chưa ra đời, đặc biệt là tiếp cận theo quan điểm khám phá mức độ sẵn lòng đầu tư của khu vực tư nhân.

7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài khi hoàn thành có những đóng góp chính quan trọng sau:

Một là, kết quả nghiên cứu cho thấy sự hoàn thiện trong thể chế quan hệ đối tác công tư PPP có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự thành công của các dự án cũng như sự phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam

Hai là nghiên cứu đã xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về quan hệ hợp tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và công tác hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với quan hệ

đối tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố của môi trường trong nước và các yếu tố môi trường quốc tế tác động với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam.

Ba là, thông qua nghiên cứu một số kinh nghiệm thành công cũng như không thành công của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore... nghiên cứu rút ra một số bài học cho Việt Nam như: Trong công tác nghiên cứu phương pháp hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phải được nghiên cứu xây dựng theo hướng tạo cơ sở pháp lý thuận lợi tối đa cho công tác huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân tư nhân.

Bốn là, trên cơ sở phân tích thực trạng thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm: Thực trạng áp dụng thể chế; thực trạng nội dung và mô hình hoàn thiện, tác giả đưa ra các đánh giá chung về thành công, hạn chế và các nguyên nhân trong thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Năm là, trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, định hướng phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, định hướng công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, nghiên cứu đã đề xuất hệ thống giải pháp từ phía các nhà thầu, nhà đầu tư cũng như phía các cơ quan nhà nước trong việc nâng cao chất lượng hệ thống thể chế, cũng như khắc phục các tồn tại bất cập hiện nay.

8. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, và các danh mục bảng biểu, danh mục hình vẽ, tài liệu

tham khảo, phụ lục, đề tài gồm có 3 chương như sau:

Chương 1: Lý luận cơ bản và kinh nghiệm thực tiễn về thể chế về đối tác công tư trong

phát triển cơ sở hạ tầng

Chương 2: Thực trạng thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt

Nam;

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển

cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG

1.1. KHÁI LUẬN VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ VÀ THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại của hình thức đối tác công tư

1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm đối tác công tư

Trong những khái niệm trước đây, việc cung cấp hạ tầng cơ sở, dịch vụ công là hoạt động được thực hiện phần lớn bởi các cơ quan nhà nước bằng ngân sách nhà nước và mộy số nguồn hỗ trợ chính thức khác. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các áp lực từ việc phải phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng ngày càng đè nặng lên nguồn ngân sách quốc gia, khiến nhà nước gặp khó khăn trong khả năng hỗ trợ cho toàn bộ hoạt động phát triển của nền kinh tế. Điều này đã thúc đẩy sự ra đời của hình thức đối tác công - tư (PPP) đã ra đời, nhằm thay thế và bổ sung cho các kênh hỗ trợ cũ.

Khái niệm đối tác công - tư viết tắt là PPP (Public - Private – Partnership đã được hình thành và áp dụng hơn 50 năm tại hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển trên thế giới. Theo Yescombe (1950), thuật ngữ đối tác công - tư xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1950 tại Hoa Kỳ trong các chương trình giáo dục được cả khu vực công và khu vực tư cùng tài trợ. Sau đó, khái niệm này được sử dụng rộng rãi để nói đến sự hợp tác giữa các nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân trong việc cùng hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng hay cung cấp các dịch vụ công cộng. Các nghiên cứu xoay quanh “đối tác công - tư” của một số học giả nổi tiếng trên thế giới cũng nêu rất rõ định nghĩa của khái niệm này. Theo HM Treasury (1998) định nghĩa PPP là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều thực thể, hợp tác hướng đến mục tiêu chia sẻ quyền hạn và trách nhiệm, rủi ro và lợi ích, kết nối các nguồn lực đầu tư. Nghiên cứu năm 2008 của tác giả Khulumane lại định nghĩa PPP là một giao kết bằng hợp đồng giữa một đơn vị nhà nước và một đơn vị tư nhân, theo đó đơn vị tư nhân. Ngoài ra, một số tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực PPP như Hội đồng PPP của Canada (Canadian Council for Public Private Partnership), Hội đồng quốc gia về PPP của Mỹ (National Council for Public Private Partnership) cũng đưa ra những khái niệm riêng của mình về PPP, theo đó “PPP là một liên doanh hợp tác giữa khu vực công và tư, dựa trên lợi thế của mỗi bên nhằm xác định nhu cầu của cộng đồng thông qua việc phân bố hợp lý nguồn lực, rủi ro và lợi ích”.

Mặc dù được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng về bản chất, đối tác công - tư PPP được hiểu là một hình thức hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa Nhà nước và khu vực tư nhân trong việc thực hiện một dự án nào đó, trong đó, phía Nhà nước bao gồm Chính phủ, cơ quan trực thuộc Chính phủ như Bộ ngành, thành phố, doanh nghiệp nhà nước, còn khu vực tư nhân bao gồm doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài, các nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài (có thể là cá nhân, tổ chức có chuyên môn về kỹ thuật, tài chính). Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ.

Theo khái niệm trên, đối tác công - tư PPP mang các đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất: đây là sự cộng tác giữa khu vực công và khu vực tư dựa trên một hợp đồng dài hạn để cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ; Thứ hai, sự kết hợp trong đối tác công – tư là Phân bổ hợp lý về lợi ích, chi phí, rủi ro và trách nhiệm giữa hai khu vực; Thứ ba, hiệu quả về chất lượng hàng hóa/dịch vụ và sử dụng vốn là mục đích của mối quan hệ PPP; Thứ tư: nhiệm vụ của đối tác tư nhân thực hiện việc thiết kế, xây dựng, tài trợ vốn và vận hành; Thứ năm: quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về khu vực công và khu vực tư nhân sẽ chuyển giao tài sản lại cho khu vực công khi kết thúc thời gian hợp đồng. Với các đặc điểm ưu việt này, PPP đã được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới chỉ trong 2 thập kỷ vừa qua, được khẳng định là một kênh hiệu quả để cung cấp cơ sở hạ tầng cho sự phát triển bền vững của các quốc gia.

1.1.1.2. Phân loại hình thức và mô hình đối của tác công - tư

Các hình thức PPP phổ biến trên thế giới hiện nay có thể kể đến như: (1) Nhượng quyền khai thác (Franchise): đây là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao cho tư nhân vận hành và khai thác (thường là thông qua đấu giá); (2) Hình thức thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO (Design - Build - Finance - Operate), theo hình thức này, khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước; (3) Xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT (Build - Operate - Transfer), trong mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước, đây là mô hình này khá phổ biến ở Việt Nam; (4) hình thứ BTO xây dựng - chuyển giao - vận hành (Build - Transfer - Operate), theo đó, quyền sở hữu cơ sở hạ tầng được chuyển giao ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình; (5) hình thức xây dựng - sở hữu - vận hành BOO (Build - Own - Operate), đây là hình thức phổ biến đối với các nhà máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới, các công ty thực hiện dự án bao gồm khu vực nhà nước và tư nhân sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận hành nó. Ngoài ra để đảm bảo hoạt động hỗ trợ, tích hợp tính ưu việt của khu vực nhà nước và tư nhân trong việc đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, các hình thức đối tác công - tư tại các nước được xây dựng chặt chẽ, phù hợp với đặc điểm phát triển của từng quốc gia. Tựu chung lại, hiện nay, hình thức mô hình đối tác côn g- tư trên thế giới có 5 mô hình chủ yếu, đó là: Hợp đồng dịch vụ; hợp đồng quản lý; hợp đồng thuê; hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) và hợp đồng nhượng quyền.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hình thức đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng

Trong nhiều năm gần đây đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng đã được sử dụng và đóng vai trò quan trọng trong phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp ở các nước nhất là các nước đang phát triển.

Cơ sở hạ tầng là một thuật ngữ được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam, theo đó cơ sở hạ tầng là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật được hình thành theo một cấu trúc nhất định, đóng vai trò làm nền tảng và điều kiện chung đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ trong mỗi giai đoạn hay thời kỳ phát triển nhất định (ADB - JBIC - WB, 2005). Theo Viện quản lý trung ương (2009), cơ sở hạ tầng là một bộ phận đặc thù và riêng biệt của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân có nhiệm vụ đảm bảo những điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng của một quốc gia. Cơ sở hạ tang có ý nghĩa quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho họaht động sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường, góp phần phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia (Robbins, 2004).

Kết hợp với khái niệm đối tác công tư đã nêu ở trên, khái niệm đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng có thể hiểu một cách chung nhất là một thỏa thuận pháp lý về vốn thuộc về trách nhiệm của nhà nước để thực hiện một phương thức đầu tư nhằm huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để tài trợ và kinh doanh dự án cơ sở hạ tầng, để phục vụ các lợi ích công cộng. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về hợp đồng PPP phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận hợp đồngvà đặc điểm của từng quốc gia, cụ thể như sau: Dưới góc độ là một quá trình, khái niệm đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng được hiểu là hình thức pháp lý để nhà đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng và sử dụng công trình đó để thu hồi vốn và lãi. Sau đó, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho chính phủ. Ở góc độ này, hợp đồng PPP luôn đi kèm với một dự án cụ thể và dự án đó kết thúc khi chấm dứt hợp đồng. Dưới góc độ chủ thể, đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng được coi là thỏa thuận đầu tư giữa nhà đầu tư và nhà nước trong việc đầu tư xây dựng công trình thuộc trách nhiệm của nhà nước. Các định nghĩa này nêu bật mối quan hệ giữa nhà đầu tư và chính phủ, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai chủ thể là nhà nước và tư nhân trong hợp đồng. Dưới góc độ tài chính, hợp đồng đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng là cách thức tài trợ dự án theo đó bên cho vay đối với dự án không dựa trên tài sản của bên đi vay như các hợp đồng tín dụng truyền thống thông thường khác mà chỉ xem xét nguồn thu của dự án như là toàn bộ hoặc phần lớn việc bảo đảm cho các khoản vay.

Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra các đặc điểm của đối tác công - tư trong phát triển cơ

sở hạ tầng như sau:

Về mối quan hệ của các chủ thể tham gia: Đặc điểm riêng biệt của đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng thể hiện một khuôn khổ có sự tham gia của khu vực tư nhân nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập vai trò của Chính phủ đảm bảo đáp ứng các nhu cầu về cơ sở hạ tầng của xã hội, và là một mô hình dài hạn vì vậy phải phù hợp nhất với lĩnh vực cơ sở hạ tầng có sự ổn định lâu dài. Trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện dự án phát triển hạ tầng và khai thác vận hành cơ sở hạ tầng được phân chia rõ rang, phù hợp giữa phía nhà nước và phía tư nhân dựa trên khả năng, kiến thức kinh nghiệm, tiềm lực của các bên. Phía đối tác nhà nước trong quan hệ đối tác có thể là các tổ chức Chính phủ, bao gồm các bộ ngành, các chính quyền địa phương hoặc các doanh nghiệp nhà nước còn đối tác tư nhân có thể là đối tác trong nước hoặc đối tác nước ngoài, và có thể là các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư có chuyên môn về tài chính hoặc kỹ thuật xây dựng liên quan đến cơ sở hạ tầng. Mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân cũng có thể bao gồm cả các tổ chức phi Chính phủ (NGO) và/hoặc các tổ chức cộng đồng (CBO) đại diện cho những tổ chức và cá nhân mà dự án có tác động trực tiếp. Trong mối quan hệ công - tư, nhà nước đóng góp dưới dạng vốn đầu tư (có được thông qua đánh thuế), chuyển giao tài sản, hoặc các cam kết hay đóng góp hiện vật khác hỗ trợ hoặc đảm bảo các yếu tố về trách nhiệm xã hội, ý thức môi trường, kiến thức bản địa và khả năng huy động sự ủng hộ chính trị phục vụ cho hoạt động thực hiện các dự án. Còn khu vực tư nhân trong mối quan hệ đối tác bằng chuyên môn về thương mại, quản lý, điều hành và sáng tạo của mình giúp vận hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả, đây là mối quan hệ hợp tác, tích hợp những lợi thế tương đối nhất định so với khu vực còn lại để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể phục vụ lợi ích xã hội.

Sự phân chia rủi ro: Các nghiên cứu của Forward và Aldis (2009), Kappeler và Nemoz (2010), Quium (2011) và Planning Commission (2004) đều nhận định rằng: việc chia sẻ rủi ro là

vấn đề trung tâm và là đặc điểm nổi bật nhất trong mối quan hệ công - tư. Mối quan hệ đối tác này được thiết lập với mục tiêu phân bổ các rủi ro cho đối tác nào có khả năng giải quyết rủi ro đó một cách tốt nhất và vì thế giảm thiểu được chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong vòng đời phát triển dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, các rủi ro có thể xảy ra trong các giai đoạn như rủi ro trong giai đoạn lập nghiên cứu khả thi, rủi ro trong giai đoạn giải phóng mặt bằng, rủi ro trong giai đoạn triển khai thi công, rủi ro trong giai đoạn khai thác vận hành và rủi ro trong việc phát triển các sản phẩm/dịch vụ cộng sinh để tăng doanh thu, lợi nhuận. Một số rủi ro thường gặp như việc không khả thi về mặt tài chính hay kinh tế xã hội, rủi ro trong giai đoạn giải phóng mặt bằng có thể xảy ra do sự không thống nhất được giá đền bù giải tỏa với người dân, hay do giá đền bù giải tỏa cao hơn giá dự kiến ban đầu trong nghiên cứu khả thi; rủi ro do thiếu hụt vật tư, máy thiết bị, tổ chức quản lý thi công; rủi ro trong việc thu phí sử dụng cơ sở hạ tầng thấp hơn so với kế hoạch trong nghiên cứu khả thi. Các rủi ro này sẽ được phân chia giữa phía nhà nước và phía tư nhân theo đúng nguyên tắc rủi ro sẽ được chuyển cho bên có khả năng quản lý rủi ro tốt nhất.

1.1.3. Khái niệm và yêu cầu hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia

Để hiểu rõ hơn về thể chế về đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết, tác giả xin đưa ra khái niệm về thể thế. Theo đó, thể chế bao gồm toàn bộ các cơ quan Nhà nước với hệ thống quy định do Nhà nước xác lập trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập kỷ cương xã hội, giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ hữu cơ với cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng xử của mọi công dân, tác động trực tiếp hay gián tiến đến mọi hoạt động xã hội có vai trò đặc biệt trong đời sống kinh tế - xã hội nhằm phản ánh bản chất, chức năng của Nhà nước đương quyền. Thể chế bao gồm 2 loại chính là thể chế nhà nước và thể chế tư, theo đó, thể chế Nhà nước là toàn bộ các văn kiện pháp luật như Hiến pháp, luật, Bộ luật, văn bản dưới luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, tạo nên một hành lang pháp lý giúp nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với toàn xã hội. Còn chủ thể ban hành trong thể chế tư không phải là các cơ quan nhà nước, chúng không mang tính quy phạm chung, tính cưỡng chế thấp, chủ yếu được đảm bảo thực hiện bằng kỷ luật, điều lệ của tổ chức. Công tác hoàn thiện thể chế là hoạt động của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong việc làm luật xây dựng mới hoặc bổ sung, sửa đổi, loại bỏ các quy định pháp luật đã cũ, gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội (Đoàn Minh Huấn, 2012).

Theo đó, khái niệm thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng được hiểu là hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ công - tư giữa Nhà nước với tổ chức tư nhân trong việc thiết lập và đảm bảo vai trò của 2 bên tham gia trong việc cung cấp, đảm bảo duy trì, xây dựng, và quản lí các cơ sở hạ tầng vì mục tiêu chung của xã hội. Tựu chung lại, hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng được hiểu là hoạt động của các cá nhân, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân có thẩm quyền trong việc xây dựng mới hoặc bổ sung, sửa đổi, loại bỏ các quy định pháp luật, các quy định, điều lệ của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia.

Để thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng diễn ra đúng hướng đồng thời thu lại được hiệu quả cao trong việc đảm bảo quá trình xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia, hoạt

động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phải thực hiện theo một số yêu cầu nhất định, cụ thể:

(cid:0)

Hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia không được đi ngược lại với đường lối, mục tiêu phát triển chung của đất nước và phải phù hợp thực tế khách quan của sự phát triển của thế giới. Điển hình như một số văn bản: các luật áp dụng và thể chế hiện tại đối với việc quy định thẩm quyền và đưa ra các tiêu chuẩn hoạt động; các thoả thuận giám sát, cơ quan quản lý nhà nước, các quy định; các chính sách về trợ cấp và về biểu phí dịch vụ; các quy định về sức khoẻ và môi trường; các luật lệ và quy định về lao động có liên quan; giới hạn về sở hữu/mức độ tham gia trong lĩnh vực của nhà đầu tư nước ngoài, hạn chế về hối đoái và giới hạn về việc chuyển lợi nhuận, chẳng hạn như được qui định trong luật đầu tư nước ngoài; …

(cid:0)

Yêu cầu xây dựng một quy hệ thống quy định điều tiết thống nhất cho các đối tượng

khác nhau thuộc PPP;

(cid:0)

Phải xác định rõ ràng hình thức, cấu trúc các cơ quan quản lý hoạt động PPP để phù hợp với công tác hoàn thiện thể chế và tạo thuận lợi cho việc chuyển dịch từ hình thức dịch vụ hoàn toàn do chính phủ cung cấp sang hình thức dịch vụ do tư nhân cung cấp.

(cid:0)

Khuôn khổ về các quy định kinh tế cần phải rõ ràng, minh bạch. Các điều khoản hợp đồng cần được cụ thể, trong đó thiết lập các nghĩa vụ, mục tiêu hoạt động, cơ cấu biểu phí dịch vụ và mức phí dịch vụ, quy tắc thay đổi biểu phí, thủ tục giải quyết tranh chấp, sẽ giúp khu vực tư nhân dự đoán chính xác hơn mức lợi nhuận khi đầu tư và quyết định xem liệu hợp đồng đó có giá trị hay không.

(cid:0)

Cần phải có các khuôn khổ pháp lý và khuôn khổ thể chế hỗ trợ hiệu quả cho việc cải cách lĩnh vực và cụ thể để thiết lập mối quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân, giải quyết những khúc mắc, trở ngại theo bộ chủ quản, người sử dụng hoặc đơn vị cung cấp dịch vụ. Đồng thời có khả năng nâng cao mức độ tự chủ và trách nhiệm giải trình của các bên liên quan có tương ứng với các nghĩa vụ được đề xuất dành cho các bên.

(cid:0)

Các quy định được hoàn thiện phải thực sự có ý nghĩa, vai trò trong việc thúc đẩy sự phát triển, ổn định các yếu tố trong tổ chức như nguồn vốn, nhân lực, kiến thức và thiết bị cần thiết, để phục vụ cho hoạt động hỗ trợ, xây dựng và sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng. (6) việc hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cần có tính linh hoạt để có thể sửa đổi và cập nhật kịp thời các vai trò thể chế để phù hợp với sự phát triển và hoàn thiện của nền kinh tế - xã hội. Khi có thêm các nhiệm vụ mới, việc phân quyền trong mối quan hệ đối tác công - tư cần phải xác định được cấp độ thực hiện vai trò của mỗi bên.

1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG

1.2.1. Các cơ sở lý luận hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia

Trong nghiên cứu của mình, các tác giả Weihe (2008), Hodge và Greve (2007) và Vrangbaek (2008) đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các lý luận hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia. Tổng hợp lại, các tác giả tiến hành tiếp cận phân biệt dưới năm hướng tiếp cận khác nhau, với mỗi một cách tiếp cận sẽ cho ta thấy

các nhóm lý thuyết trọng tâm và cách thực hiện việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng trên thực tế. Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng bởi nó nhấn mạnh tính quyết định của việc hoàn thiện các chính sách và các quy định liên quan trực tiếp đến các giai đoạn hoạt động hoặc các giai đoạn hình thành của PPP (Koppenjan, 2005). Theo đó, nhằm hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, việc xây dựng hệ thống cách quy định, chính sách cần được nghiên cứu theo các hướng tiếp cận sau:

Cách tiếp cận dưới góc độ chính sách: nghiên cứu việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng dưới cách tiếp cận mô hình PPP trong một lĩnh vực chính sách cụ thể thường hướng tới mục tiêu có thể đánh giá quan hệ đối tác hiện có và tạo điều kiện cho việc xây dựng các chính sách sau này (Hurst và Reeves, 2004). Theo góc độ này, công tác hoàn thiện thể chế tập trung vào các mối quan hệ chính thức cũng như sự tương tác giữa chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức phi lợi nhuận trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng (Deakin, 2002). Những bài học rút ra từ nghiên cứu thực nghiệm trong phương pháp này chỉ ra rằng, trong hoạt động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện thể chế liên quan đến đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng trước hết cần phải tập trung vào việc đánh giá, kiếm tra trên thực tế những loại công trình có sự hợp tác liên ngành và giữa các khu vực của nền kinh tế.

Cách tiếp cận dưới góc độ quản trị: Theo cách tiếp cận này, trong hoạt động hoàn thiện hể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, các nhà làm luật cần quan tâm đến các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là từ phía nhà nước để phục vụ tốt hơn cho hoạt động quản lý các dự án (Rhodes, 1996). Theo đó, để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia trong hoạt động đầu tư, khai thác và quản lý các dự án, hoạt động hoàn thiện thể chế trước hết cần tập trung vào hoạt động quản lý nhà nước của dự án PPP ngay từ khi dự án thành lập, các vấn đề chính cần được kiểm tra bao gồm các chỉ đạo trong việc xử lý các rủi ro, cấu trúc hợp đồng chính thức và hệ thống khuyến khích xây dựng (Ysa, 2007), và các vấn đề liên quan đến lợi ích tài chính và hệ thống thanh toán (Johnston và Gudergan, 2007). Trong giai hoàn thiện các dự án viêc xây dựng chính sách cần được tính toán kỹ lưỡng và bao quát toàn bộ các vấn đề xung quanh dự án, góp phần tạo ra một môi trường lành mạnh cho hoạt động sử dụng các dự án.

Cách tiếp cận dưới góc độ quản lý nhà nước: Dưới góc độ này, công tác hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cần đặc biệt chú trọng tới việc đảm bảo hài hòa lợi ích trong mối quan hệ đối tác giữa các địa phương nhau và với lợi ích chung của quốc gia liên quan đến việc phát triển và nâng cấp các dự án phát triển địa phương như các kế hoạch đổi mới đô thị, các dự án nhà ở và văn phòng kết hợp, vv (Ysa, 2007). Việc xây dựng pháp luật cần đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các địa phương trong hoạt động xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất phát triển kinh tế, đồng thời phải phù hợp với các quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển dài hạn của quốc gia.

Cách tiếp cận dưới góc độ hội nhập: theo đó, hoạt động hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng cần tập trung vào quan hệ đối tác giữa các quốc gia, các tổ chức tài trợ quốc tế và cơ quan công quyền ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt trong các dự án cần một lượng lớn đầu tư từ các tổ chức, các quốc gia nước ngoài. Ngoài ra, các quy định, thể chế cũng cần khuyến khích sự tiếp thu, ứng dụng, nhập khẩu các khoa học công nghệ tiên tiến trong xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng (Fife và Hosman, 2007).

Cách tiếp cận dưới góc độ tài chính: Theo cách tiếp cận này, công tác hoàn thiện thể chế đối tác công tư thường tập trung vào các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật và pháp lý, các vấn đề quan trọng liên quan đến tài chính như chia sẻ rủi ro, nhà đấu thầu nhà thầu hoặc mua sắm (Zitron, 2006), và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến nguồn vốn. Vốn đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng thường rất lớn nên ít có nhà đầu tư có đủ tài sản bảo đảm, ngoài ra các tài sản hình thành từ khoản vay là cơ sở hạ tầng, một loại tài sản phục vụ lợi ích công cộng và sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nhà nước. Các nhà làm luật không thể bỏ qua các yếu tố tài chính, bởi đây là yếu tố quyết định lớn nhất trong sự thành công của một sự án.

Dựa vào cách hướng tiếp cận này, đối với mỗi giai đoạn phát triển và với mỗi vấn đề cụ thể, công tác hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng cần lựa chọn các hương nghiên cứu phù hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia.

1.2.2. Các nguyên tắc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia

Nhằm đảm bảo tính khả thi trên thực tế, hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia cần phải được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định, các nguyên tắc này có thể hỗ trợ việc ra quyết định lập pháp liên quan đến khu vực tư nhân trong các doanh nghiệp truyền thống của khu vực công cung cấp cơ sở hạ tầng. Kết quả của dự án NCSL Partners đã chỉ ra 9 nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, bao gồm:

Nguyên tắc 1: Công khai minh bạch trong việc cung cấp thông tin. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong suốt quá trình hoàn thiện thể chế cho cả các nhà lập pháp và cơ quan hành pháp. Theo đó, thể chế phải được xây dựng theo hướng đảm bảo tất cả các bên tham gia vào mối quan hệ đối tác công tư tong xây dựng cơ sở hạ tầng đều có quyền được biết và truy cập vào thông tin của dự án, bao gồm các thông tin về bối cảnh, mục tiêu, doanh thu tài chính và các phương án lựa chọn thay thế cho cơ sở hạ tầng cũ, và các rủi ro có thể có khi thực hiện triển khai dự án. Ngoài ra, ngay từ những khâu lựa chọn dự án, đấu thầu cho tới ký kết hợp đồng và quản lý hợp đồng và giám sát, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần cung cấp công khai đầy đủ thông tin về các chương trình PPP cơ sở hạ tầng tới phía các đối tác tiềm năng trong mối quan hệ đối tác công tư, nhằm đảm bảo tính công bằng trong hệ thống pháp luật, thể chế. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, các nhà lập pháp có thể tận dụng các nguồn lực hiện có hoặc tạo ra một ủy ban độc lập để tư vấn cho các bên tham gia.

Nguyên tắc 2: Xác định trọng số. Trong hoạt động xây dựng thể chế đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, các nhà làm luật cần xác định các vấn đề quan trọng, cần thiết và trọng số thực hiện các vấn đề đó phụ thuộc vào tình hình thực tế để tránh các cuộc tranh luận các phương pháp tiếp cận PPP trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế có thể có những vấn đề gây tranh cãi từ các bên tham gia như các doanh nghiệp, tổ chức, ... và tranh cãi có thể trở nên nhiều hơn nếu câu hỏi khi không xác định được trọng số các vấn đề cần thực hiện và loại bỏ các vấn đề không cần thiết. Ngoài ra, với mỗi gian đoạn khách nhau của một dự án lại phát sinh các vấn đề cụ thể nhiều vấn đề thực sự có thể có liên quan đến một dự án hoặc một phần của dự luật cụ thể vì vậy, với mỗi giai đoạn, các nhà làm luật cần xác định lại một lần nữa các vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo tính khả thi của chính sách, thể chế đối tác công tư trên thực tế (Pew, 2008).

Nguyên tắc 3: Đảm bảo hài hòa lợi ích. Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia trong việc đảm bảo lợi ích của các bên tham gia quan hệ đối tác công tư. Trên thực tế, khu vực công và khu vực tư nhân hướng tới các mục tiêu khác nhau về lợi ích, mục tiêu của khu vực nhà nước là tập trung vào lợi ích của cộng đồng, quốc gia, trong khi mục đích khu vực tư nhân là lợi nhuận thu được. Như vậy, trong quá trình hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cần cân bằng giữa lợi ích của cộng đồng và lợi ích của khu vực tư nhân nhằm đảm bảo tính bền vững của mối liên kết đối tác công tư. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích cộng đồng trong suốt quá trình thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời phải có các quy định, chính sách đảm bảo lợi ích của các bên tham gia dự án.

Nguyên tắc 4: Có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế đối các công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nội dung chính của nguyên tắc này nhấn mạnh vào ý nghĩa sự tham gia của các bên liên quan đến việc đảm bảo các lợi ích của đối tác công tư, góp phần giảm thiểu rủi ro chính trị, tài chính gặp phải trong quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng. Cả hai nhà lập pháp và cơ quan hành pháp có thể bảo vệ tốt hơn lợi ích công cộng, được sự hỗ trợ và giải quyết rủi ro chính trị bằng khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan trong suốt quá trình hợp tác PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Nhiều nhà phân tích đã chỉ ra rằng, quá trình giáo dục, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và của các bên liên quan cộng đồng là một cách để bảo vệ lợi ích công cộng, tăng cường trách nhiệm của chính phủ và tối đa hóa lợi ích đem lại cho khu vực tư nhân trong đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia. Theo đó, cộng đồng là chìa khóa để đạt được sự hỗ trợ cho các dự án PPP và giải quyết các quan niệm sai lầm trong quá trình hoạch định chính sách và lựa chọn dự án giai đoạn của các dự án xây dựng, đồng thời sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc hoàn thiện thể chế PPP cơ sở hạ tầng như hoàn thiện các chính sách liên quan đến việc loại bỏ các rủi ro chính trị,tài chính, nghề nghiệp giúp các nhà lập pháp có thể truyền đạt mục tiêu của họ cho quá trình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, giúp các thể chế trở nên khách quan, phù hợp và hiệu quả hơn.

Nguyên tắc 5: Xây dựng các chiến lược dài hạn. Trong công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, các nhà lập pháp nên tiếp cận các quyết định về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng với lợi ích công cộng theo hướng lâu dài chứ không chỉ tập trung giải quyết những nhu cầu, vấn đề trước mắt. Theo đó, hoạt động xây dựng thể chế có thể kết hợp với một hoặc một vài quan điểm dài hạn trong các giai đoạn của PPP cơ sở hạ tầng, đồng thời cần có các kế hoạch đánh giá tác động tích cực và tiêu cực lâu dài của dự án tới tác động tiềm ẩn trên các hệ thống giao thông tổng thể, môi trường và các lợi ích công cộng, lạm phát, … Ngoài ra, một số vấn đề trong các thỏa thuận hợp đồng cũng được xây dựng theo quan điểm dài hạn, các quy định có liên quan có thể bao gồm cạnh tranh hạn chế hoặc điều khoản, bảo hộ lao động, phân bổ rủi ro dài hạn, hoạt động và tiêu chuẩn bảo dưỡng, tiêu chuẩn hiệu suất môi trường, điều khoản chấm dứt trong hợp đồng PPP cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng cần đảm bảo có tính ứng phó với sự thay đổi của nền kinh tế kinh tế, và giải quyết các vấn đề trong tương lại như vấn đề việc làm, chuyển giao rủi ro hay kéo dài giá trị sử dụng của các dự án cơ sở hạ tầng.

Nguyên tắc 6: Đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động phân tích dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Trước khi ban hành một quy định, thể chế liên quan đến đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, các nhà lập pháp cần tiến hành phân tích toàn diện dự án, cũng

như các tác động xung quanh. Để có thể hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, thì ngay từ hoạt động đấu thầu và đàm phán, nhà lập pháp đã phải xây dựng một nền tảng vững chắc làm cơ sở cho việc ban hành các quy định, chính sách sau này liên quan đến đối tác công tư PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Để cung cấp một dự án PPP cơ sở hạ tầng cần phải dựa trên sự phân tích thận trọng về vai trò trong một dựa án xây dựng cơ sở hạ tầng tổng thể, các giá trị đem lại và rủi ro tài chính trong những hoàn cảnh và các yếu tố khác nhau của một phân tích dự án toàn diện. Những kết quả điều tra ban đầu sẽ là các định hướng cho công tác hoàn thiện thể chế để đem lại hiệu quả cao nhất trong hạot động thực thi và quản lý các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.

Nguyên tắc 7: Đảm bảo minh bạch tài chính. Quan hệ đối tác công tư PPP về cơ sở hạ tầng là giao dịch phức tạp với nhiều dự án lớn trị giá hàng tỷ đô la, vì vậy các vấn đề tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích công cộng và đảm bảo một thỏa thuận công bằng giữa các dối tác tham gia. Các nhà lập pháp cần thảo luận, đánh giá cụ thể, chi tiết vấn đề này khi đưa ra các quyết định liên quan đến khả năng tham gia đầu tư của nhà nước. Tính minh bạch tài chính phải được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình từ khâu thẩm định dự án tới lựa chọn và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...

Hệ thống các nguyên tắc trên chủ yếu liên quan đến các giai đoạn của quá trình thực hiện quan hệ đối tác PPP trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó cơ quan lập pháp là chủ thể trực tiếp tham gia nhiều nhất trong việc: xây dựng, và hoàn thiện một thể chế đối tác công tư. Bên cạnh đó, một số bên khác có liên quan đến việc tham gia xây dựng pháp luật như cộng đồng, các doanh nghiệp, tổ chức tuy nhiên chỉ mang tính chất gián tiếp. Những nguyên tắc này được xác định nhằm giúp các cơ quan nhà nước định hướng nhà trong quá trình đưa ra quyết định chính sách quan trọng về PPP, đây là những nguyên tắc quản trị cốt lõi nói chung, có thể hỗ trợ việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia.

1.2.3. Mô hình hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia

Nhà nước cần phải thực hiện tốt vai trò bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thực hiện điều tiết, giám sát, duy trì trật tự kỷ luật thị trường; bù đắp những hạn chế, bất cập, khắc phục mặt trái của thị trường; bảo đảm công bằng xã hội và phát triển bền vững trong đối tác công tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo đó, các quốc gia cần sớm hoàn thiện hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng theo mô hình cụ thể trong các dự án PPP cơ sở hạ tầng dựa trên các lý luận về đối tác công tư trong phân tích các chính sách và quy chế hoạt động PPP của quốc gia mình (Koch và Buser, 2006).

Hình 1: Mô hình hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia

Nguồn: Koch và Buser (2006)

Về cơ bản, đây là mô hình chung nhất cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau sẽ có một số điểm khác biệt trong mô hình này nhằm phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế.

Để pháp luật, thể chế thực sự có ý nghĩa trong thực tiễn, nhà nước cần tham mưu, hướng dẫn thực hiện các quyền, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như của các đối tác trong khu vực tư nhân và cộng đồng. Bởi nếu thể chế không được hiểu và áp dụng chính xác sẽ không đem lại hiệu quả và không thể làm căn cứ cho hoạt động tiếp theo trong mô hình hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng là theo dõi, đánh giá hiệu quả, bất cập, hạn chế của các chính sách, quy định trên thực tế trong việc thực hiện các yêu cầu về quy hoạch, mục tiêu, quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng công trình, tiến độ huy động vốn và thực hiện dự án, bảo vệ môi trường và các vấn đề khác theo thỏa thuận trong hợp đồng dự án. Trong đó, đặc biệt vốn đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng thường rất lớn nên ít có nhà đầu tư có đủ tài sản bảo đảm, ngoài ra các tài sản hình thành từ khoản vay là cơ sở hạ tầng, một loại tài sản phục vụ lợi ích công cộng và sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nhà nước, vì vậy các nhà làm luật không thể bỏ qua các yếu tố tài chính, bởi đây là yếu tố quyết định lớn nhất trong sự thành công của mối quan hệ đối tác PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Trong mô hình này, toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương cần tập trung các nguồn lực thiết yếu nhằm đảm bảo hiệu quả của việc thực hiện mô hình trên thực tế. Trước hết, phụ thuộc vào mức độ quan trọng của dự án, các quốc gia cần tiến hành phân chia trách nhiệm trong việc phân tích các điều kiện, tình hình, đặc điểm của mối quan hệ PPP trong xây dựng cơ sở hạ tầng, dựa trên kết quả đó làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ công theo hình thức đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Theo đó, trong mô hình này, phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các dự án PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, các quốc gia cần phân định trách nhiệm, quyền hạn trong hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng được thể hiện như sau:

(cid:0)

Đối với cơ quan nhà nước tại trung ương

Hình 2: Phân cấp trách nhiệm hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại trung ương

Nguồn: Koch và Buser (2006)

Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, bộ máy quản lý nhà nước tại trung ương, cao nhất là chính phủ và cơ quan tương đương giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế mang tính định hướng chung về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt đối với các dự án, chương trình cấp quốc gia, thể hiện trong việc thực hiện một loạt các nội dung thể chế bao gồm: hoàn thiện khung pháp lý, thành lập cơ quan giám sát và hợp tác, tích cực tham gia trong suốt vòng đời dự án và thiết lập các chính sách hỗ trợ tạo sự thuận lợi cho nhà đầu tư (Young, 2009). Một thể chế đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của quan hệ đối tác PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nhằm gia tăng niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo dự án đạt hiệu quả, phân chia rủi ro phù hợp và tránh những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế của quốc gia mình, chính phủ cũng như các cơ quan nhà nước tại trung ương của quốc gia đó cần xác định cụ thể, chi tiết các rủi ro và mức độ của các rủi ro đó có thể xảy ra trong các dự án PPP cơ sở hạ tầng, làm cơ sở cho công tác xây dựng, hoạch định các phương hướng, giải pháp khắc phục, góp phần ổn định môi trường vĩ mô cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Một số rủi ro cơ bản có thể xảy ra như: rủi ro chính trị; rủi ro xây dựng; rủi ro pháp lý; rủi ro kinh tế; rủi ro vận hành; rủi ro hợp tác; (ix) rủi ro tài chính…

Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước tại trung ương tiến hành thiết lập các cơ chế góp phần tạo môi trường thuận lợi cho hình thức PPP xây dựng cơ sở hạ tầng trong việc thu hút đầu tư tư nhân bởi sự hài lòng của các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế vĩ mô tại khu vực mà dự án được triển khai (Akintoye, 2001), cụ thể bằng các nội dung hành động như: xây dựng khuôn khổ luật pháp phù hợp đảm bảo tính hiệu quả và công bằng được tôn trọng trong suốt vòng đời dự án; xây dựng các chính sách hỗ trợ của để hấp dẫn khu vực tư nhân tham gia; giám sát và đánh giá các dự án PPP cơ sở hạ tầng thường xuyên để liên tục nâng cao hiệu quả các quy định, chính sách; đồng thời xây dựng bộ tiêu chuẩn khoa học để đánh giá chính xác các dự án PPP cơ sở hạ tầng; duy trì các chính sách vĩ mô ổn định tạo sự yên tâm cho khu vực tư nhân. Ngoài ra, các quy định, thể chế cũng cần khuyến khích sự tiếp thu, ứng dụng, nhập khẩu các khoa học công nghệ tiên tiến trong xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng.

(cid:0)

Đối với cơ quan nhà nước tại địa phương

Hình 3: Phân cấp trách nhiệm hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương

Nguồn: Koch và Buser (2006)

Tương tự như cơ quan nhà nước tại Trung ương, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại chính quyền địa phương cũng được phân chia cụ thể nhằm phát huy hết vai trò của cơ quan nhà nước tại địa phương trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng theo định hướng chiến lược, quy hoạch, chính sách, tiêu chuẩn và quản lý, điều hành vĩ mô chủ yếu thông qua ngân sách và các công cụ khác. Thay vì ban hành cách quy định, chính sách, thể chế mang tính định hướng chung cho cả quốc gia như tại bộ máy các cơ quan tại trung ương, các thể chế được ban hành bởi chính quyền địa phương sẽ phải tập trung cụ thể vào các chi tiết cũng như tình hình, thực trạng của các công tình xây dung cơ sở hạ tầng trên địa bàn, từ đó bổ sung, hoàn thiện các quy định phù hợp với đặc điểm của địa phương đó nhằm phục vụ cho hoạt động phát triển và quản lý các dự án PPP cơ sở hạ tầng trên địa bàn. Phân định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong sạch, năng lực và hiệu lực hiệu quả cao, minh bạch, tinh gọn, là cơ sở triển khai vào thực tế mô hình hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả.

1.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở MỘT QUỐC GIA

1.3.1. Các yếu tố môi trường trong nước

Thứ nhất, môi trường chính trị

Trong xã hội, mặc dù Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhưng việc đề ra các chủ trương, đường lối và quyết định vấn đề nhân sự cao cấp trong bộ máy của các cơ quan nhà nước lại phụ thuộc khá nhiều vào chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền. Ở các quốc gia phát triển, mặc dù không trực tiếp ra quyết định về quản lý nhà nước nhưng thông qua việc thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực của đảng cầm quyền chi phối cơ chế tổ chức vận hành quyền lực nhà nước (Felix và các cộng sự, 2015). Đường lối chính sách Đảng cầm

quyền của một quốc gia là cơ sở để định ra mục tiêu, phương hướng và các phương pháp cách thức cơ bản để phát triển thể chế kinh tế - xã hội của nói chung và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng của đất nước. Những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế, vì thế đường lối chính sách của Đảng là một trong những yếu tố có sức ảnh hưởng lớn nhất đến nội dung hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia, các nội dung này đều phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Nếu như đảng cầm quyền có sự quyết tâm và khả năng đề ra được những hướng đi đúng đắn trong trong việc xây dựng, hoàn thiện thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng thì nhà nước mới có điều kiện , cơ sở để thực hiện các hoạt động. Ngược lại, nếu đảng cầm quyền không thực sự có năng lực, thờ ơ với việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật thì nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ này. Chính ý chí, sự quyết tâm và tầm nhìn chiến lược của đảng cầm quyền sẽ được các cơ quan quyền lực nhà nước thể chế hoá thành pháp luật về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đồng thời, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, chính sách khi được ban hành.

Thứ hai, công tác tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng thể chế

Xây dựng và hoàn thiện thể chế là hoạt động do các cơ quan hoặc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành như cơ quan hành chính, nghị viện, tòa án, viện kiểm sát, ... Do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt này nên chủ thể xây dựng có thể được hưởng lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi nên trong pháp luật luôn có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục... của chủ thể trong quá trình xây dựng hoàn thiện hệ thống các quy định, chính sách, pháp luật (Felix và Champika, 2016). Chính vì vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần được tổ chức, có sự phân công rõ ràng, khoa học về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn cản trở nhau trong công việc xây dựng hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của cơ quan này. Sự không thống nhất, không phân định rõ ràng phạm vi, lĩnh vực hoạt động hoặc thẩm quyền của các cơ quan sẽ dẫn đến việc đùn đẩy nhận trách nhiệm giải quyết khi có những tình huống, bất cập phát sinh trong quá trình triển khai các dự án cơ sở hạ tầng.

Thứ ba, các yếu tố thuộc về các cá nhân có thẩm quyền xây dựng thể chế

Ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Thông qua ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền áp đặt hay tác động đến quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia (Felix và các cộng sự, 2015). Tính hiệu quả của công tác hoàn thiện sẽ được quyết định bởi ý thức, tư tưởng tiên tiến của các nhà làm luật.Ý thức pháp luật và hành vi của các cá nhân có thẩm quyền xây dựng thể chế có ảnh hưởng sâu rộng, trực tiếp đến nhiều cá nhân khác nhất là hoạt động pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp bởi một trong những thẩm quyền quan trọng của họ là có thể ban hành những nghị quyết làm pháp sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quyền hạn hay nhiệm vụ pháp lí, có thể đưa lại lợi ích hoặc thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần cho các tổ chức, cá nhân khác. Mọi sai sót trong quá trình xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ hoặc cá biệt hóa chế tài pháp luật đều có nguy cơ phá vỡ tính đúng đắn của thể chế quan hệ đối tác công tư

PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng chỉ có ý nghĩa và hiệu quả khi ý thức của các cá nhân có thẩm quyền được bảo đảm (Felix và Champika, 2016).

Trình độ, năng lực: Bên cạnh ý thức pháp luật, trình độ, năng lực nhận thức của các nhà làm luật cũng là yếu tố quan trọng trong hoạt động hoàn thiện thể chế của một quốc gia. Tri thức, trình độ là yếu tố tác động mạnh mẽ đến hệ thống thể chế được ban hành, nó là cơ sở để các chủ thể nêu lên các sáng kiến pháp luật, phân tích hình thức, nội dung, cấu trúc của các dự thảo quy phạm pháp luật, chỉ ra tính hợp hiến hay không hợp hiến, sự trùng lặp hay không trùng lặp với những văn bản đã được ban hành; đã bao quát được hết các khả năng có thể có hay còn bộc lộ những khe hở trong các quy định, chính sách và các biện pháp triển khai về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (Jicai và các cộng sự, 2016). Những điểm này, khi được chú trọng xem xét trong quá trình soạn thảo dự án luật sẽ cho ra đời văn bản pháp luật tốt, có chất lượng cao. Cùng với đó, sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ hay thiếu sót sẽ quy định thái độ tích cực hay tiêu cực, sự hăng hái, nhiệt tình hay thờ ơ, lãnh đạm của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động xây dựng, hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, sự nhận thức này tác động đến kỹ năng soạn thảo và chất lượng các văn bản luật được ban hành đối với công tác xây dựng và quản lý các công trình, hạ tầng. Ngoài ra, trình độ hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật về lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh có tác động rất quan trọng. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các mặt, các khía cạnh cụ thể của quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đang cần đến sự điều chỉnh của pháp luật thì họ sẽ đưa ra được các quy phạm, chuẩn mực pháp luật sát với thực tế, dự liệu được những khả năng, tình huống có thể phát sinh trong tương lai mà đưa ra các quy phạm pháp luật đón trước. Ngược lại, sự hiểu biết hời hợt, nông cạn là nguyên nhân làm cho văn bản pháp luật có thể bị xa rời thực tiễn, làm cản trở quá trình phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia.

Thứ tư, các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc

Văn hóa được hiểu là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, là yếu tố quyết định các xử sự của con người và gắn bó với con người. Yếu tố văn hoá thường chi phối và ảnh hưởng đến pháp luật, có sự tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói riêng, trong đó nhiều quy phạm pháp luật được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng của văn hoá. Mối quan hệ giữa pháp luật về thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng với các yếu tố văn hoá được thể hiện ở chỗ thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng là cơ sở pháp lý quan trọng để nuôi dưỡng các yếu tố, giá trị văn hoá trong các công trình, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, là chuẩn mực để góp phần vào việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các trường hợp lợi dụng văn hóa ứng xử để thực hiện các hành vi tham nhũng dẫn đến việc ban hành các quy định, chính sách mang tính vụ lợi cho một người hoặc một nhóm người. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần chú ý các yếu tố văn hóa để xây dựng các quy định để phù hợp với giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc, đồng thời, loại bỏ, ngăn chặn sự xâm nhập các luồng văn hóa độc hại và xử lý những trường hợp lợi dụng các ứng xử văn hóa để vụ lợi, tham nhũng làm sai lệch ý nghĩa, hiệu quả của hệ thống thể chế trong việc phát triển, thu hút các đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (Felix và các cộng sự, 2015).

Thứ năm, dư luận xã hội: Dư luận xã hội là một tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt, phải kể đến sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Điều này được lý giải bởi, sự thiếu sót trong các quy định của pháp luật về quan hệ đối tác PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (Jicai và các cộng sự, 2016). Theo đó, không pháp luật của bất kì quốc gia nào có thể đảm bảo được sự toàn vẹn trong hệ thống khung pháp luật, thể chế của quốc gia mình, và bằng thực tiễn, dư luận xã hội có thể tìm ra được những lỗ hổng này, góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, có thể đưa ra những giải pháp khắc phục các sai lầm, hạn chế mà hệ thống mắc phải khi triển khai ngoài thực tế. đây là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định của các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền. Để có được hệ thống thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng luật sát thực tế, có tính khả thi cao, trước khi xây dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết định, các cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý của các đối tượng xã hội để có thể hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ để có thể triển khai ngoài thực để. Khi đã có các dự án luật, các thông tin phản hồi lại càng quan trọng hơn cả, mọi vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó lường trước, đều được bộc lộ qua dư luận xã hội giúp Nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh một cách kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng trên thực tế (Felix và Champika, 2016).

Môi trường kinh tế - xã hội trong nước: mục tiêu lớn nhất mà hoạt động hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hướng đến là việc có thể tạo ra một môi trường thuận lợi nhằm thu hút đầu tư vào mối quan hệ đối tác này, trong khi đó, môi trường kinh tế trong nước có tác động rất lớn tới sự thành công của các dự án PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng bởi đối với một nhà đầu tư, khi bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu một dự án cụ thể tại một thị trường, tính hấp dẫn của thị trường này chính là yếu tố đầu tiên tác động tới sự lựa chọn của họ. Một số vấn đề có thể kể đến như: cơ cấu và cách phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, GDP, tốc độ tăng trưởng, lạm phát, sự biến động của các tỷ giá đều là những yếu tốt ảnh hưởng đến việc lựa chọn các mục tiêu, trọng số trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng (Felix và Champika, 2016).Vì vậy, trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, các nhà làm luật luôn luôn phải đặt lĩnh vực này trong mối quan hệ với môi trường kinh tế, xã hội để xác định mục tiêu, phương hướng của các chính sách quy định, để có thể đảm bảo việc hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng phát triển phù hợp với đặc điểm, tình hình của môi trường kinh tế - xã hội trong nước.

1.3.2. Các yếu tố môi trường quốc tế

Bên cạnh các yếu tố môi trường trong nước, các yếu tố thuộc về môi trường quốc tế hiện nay cũng có tác động rất lớn tới công tác hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Cụ thể:

Quá trình toàn cầu hóa: Hiện nay, toàn cầu hóa đang là xu hướng của tất cả các quốc gia trên thế giới, xu hướng này góp phần giúp các quốc gia mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa song phương và đa phương, tạo cơ hội tiếp cận nguồn vốn, công nghệ xây dựng (Felix và các cộng sự, 2015). Sự tác động của quá trình này tác động lên công tác hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia được thể hiện trong việc: dựa trên các mối quan hệ hợp tác với các nước, các quốc gia có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm xây dựng bộ máy, cơ chế vận hành trong trong mối quan hệ đối tác PPP và lĩnh vực cơ sở hạ tầng, từ đó tiếp cận chọn lọc các học thuyết và thực tiễn để xây dựng phương hướng, con đường hoàn thiện cho quốc gia mình, rút ngắn các khoảng cách về trình độ quản lý và pháp luật đối với các nước phát triển trên thế giới. Ngoài ra, toàn cầu hóa tạo cơ hội hợp tác, thu hút nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, vì vậy để có thể đảm bảo sự phát triển bền vững, các quốc gia phải không ngừng đổi mới, nâng cao, hoàn thiện hệ thống thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của sự hội nhập, giao lưu, đây là động lực đồng thời là mục tiêu quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia (Roumboutsos và Chiara, 2010).

Sự phát triển kinh tế thế giới: Thế kỷ XXI, nền kinh tế truyền thống trên thế giới đã dần được thay thế bởi nền kinh tế tri thức đang được hình thành và phát triển. Các quá trình lao động tay chân dần được thay thế, điều này dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn thế giới. Sự phát triển này đã tác động gián tiếp đến quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Cụ thể: để có thể rút ngắn khoảng cách lạc hậu và bắt kịp với tốc độ phát triển nền kinh tế mới, các quốc gia dù thuộc bất kì chế độ chính trị nào cũng phải có những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng theo cách riêng của mình (Plumb và các cộng sự, 2009). Tiến trình này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, do đó các quốc gia không ngừng phải tranh thủ thu hút sự đầu tư từ các đối tác nước ngoài. Đứng trước cuộc cạnh tranh này, mỗi nước đều có các chiến lược xây dựng hoàn thiện thể chế, nhằm thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi nhất cho các dự án PPP trong xây dựng cơ sở hạ tầng, tùy thuộc vào đặc điểm và thế mạnh của mình, các quốc gia có cách chiến lược riêng trong việc lựa chọn các đầu mục và trọng số trong các quy định pháp luật, các chính sách và chương trình nhằm xây dựng một hệ thống thể chế tốt nhất cho việc phát triển quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Mặt khác, sự lớn mạnh của nền kinh tế là môi trường tạo ra các “siêu công ty”, “siêu tập đoàn” lớn trên thế giới, sự phát triển của các công ty, tập đoàn này góp phần mở rộng thị trường vốn đầu tư cũng như mở rộng danh sách đối tác tiềm năng cho các quốc gia, dẫn tới việc thay đổi, bổ sung định hướng, chiến lược trong thể chế về đối tác PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các quốc gia

Sự phát triển khoa học công nghệ: Trong những năm gần đây, cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão tạo ra những cơ sở vật chất, phương tiện để các quốc gia dân tộc hiểu biết nhau hơn khắc phục khoảng cách giữa các quốc gia cụ thể như, rút ngăn khoảng cách tiếp cận cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và phương tiện quan trọng phục vụ việc thực hiện có hiệu quả chức năng của nhà nước nói chung và công tác hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia nói riêng (Plumb và các cộng sự, 2009). Trước hết, như đã trình bày ở phần trên, bước đầu tiên trong mô hình hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia là nghiên cứu, phân tích các chính sách cũ và thực trạng phát triển của các dự án PPP hiện tại, việc học tập, tiếp khu các khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới giúp các nhà làm luật có các căn cứ chính xác hơn trong

quá trình điều tra, thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu, số liệu liên quan đến đối tác công tư và trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Điều này là cơ sở vững chắc giúp các cơ quan nhà nước xây dựng hệ thống thể chế một cách chính xác, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển của quan hệ đối tác công tư cũng như của quốc gia mình. Ngoài ra, sự phát triển khoa học công nghệ cũng là thách thức và động lực của công tác hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, bởi sự thay đổi phát triển không ngừng của khoa học công nghệ dẫn đến việc thay đổi các tiêu chuẩn kĩ thuật đã cũ hoặc không còn ưu việt, đòi hỏi nhà nước cần có các biện pháp quản lí kịp thời nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong hoạt động đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng (Felix và các cộng sự, 2015). Ví dụ có thể giảm thời gian yêu cầu trong hoạt động xây dựng kế hoạch khảo sát, điều tra bởi có sự hỗ trợ của các công cụ kỹ thuật. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa học công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp để dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ như: tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học công nghệ và tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, cải cách và chấn hưng giáo dục, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa học kỹ thuật cao. Điều này không chỉ góp phần bổ sung nguồn lực cho hoạt động hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng mà còn giúp các quốc gia nâng cao khả năng thu hút đầu tư của các đối tác tư nhân trong và ngoài nước.

1.4. THỰC TIỄN HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

1.4.1. Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại một số nước điển hình trên thế giới

1.4.1.1. Tại các nước phát triển

(cid:0)

Vương quốc Anh

Vương quốc Anh là nước đi tiên phong trong công tác hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng với các chương trình tư nhân hóa nổi tiếng của Thủ tướng Margaret Thatcher và đã có nhiều trải nghiệm để thực hiện thành công các dự án PPP, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của quốc gia (Akintoye, 2007). Ban đầu, trong hệ thống luật pháp, chính sách về đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của mình, chính phủ Anh chỉ chỉ có mục tiêu thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm hỗ trợ ngân sách chính phủ, tuy nhiên theo quá trình phát triển, mục đích thực hiện dự án PPP cơ sở hạ tầng dần thay đổi kéo theo sự thay đổi của hệ thống thể chế. Trong việc lực chọn các trọng số, Chính phủ Anh chỉ lựa chọn những dự án PPP cơ sở hạ tầng nếu tạo ra giá trị vượt trội so với hình thức đầu tư truyền thống. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX Vương quốc Anh đã có những bước đi ban đầu cho việc hình thành cơ chế PPP cho các dự án cung cấp dịch vụ công và áp dụng rộng rãi từ thập niên 80. Theo đó, Chính phủ tiến hành cải cách và hiện đại hóa dịch vụ công, đồng thời cải thiện hiệu quả mua sắm các dịch vụ công cũng như tăng khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực này, cụ thể: chính phủ xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế phù hợp ở cấp quốc gia, khu vực và thành phố hoạt động như bộ phận bảo vệ cho các đối tác tiềm năng, đảm bảo chi tiêu của Chính phủ được xem xét kỹ lưỡng và công bố rộng rãi cho công chúng; có công cụ đánh giá thỏa đáng gắn với quá trình quản lý chương trình đảm bảo dự án hoàn thành đúng hạn mà không ảnh hưởng đến chất lượng; có cơ quan đặc trách, ví dụ tại Ủy ban hợp tác của Vương quốc Anh (Partnership UK) và tổ công tác của Bộ Tài chính được

thể chế hóa nhằm hỗ trợ Chính phủ giám sát hoặc hỗ trợ chuyên môn cho các bộ ngành cung cấp hạ tầng cơ sở và dịch vụ công; đồng thời trao quyền cho văn phòng Kiểm toán quốc gia để giám sát độc lập các dự án PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, Vương quốc Anh đã thiết lập liên minh các ngân hàng để giải quyết các vến đề về nguồn vốn hợp tác, đồng thời thu hút nhiều ngân hàng tham gia các dự án dài hạn. Đây là những kinh nghiệm mà Việt Nam cần tham khảo khi xây dựng, hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

(cid:0)

. Hàn Quốc

Trong nghiên cứu của mình, 2 tác giả Yooil và Yu-Min (2016) đã chỉ ra, tại Hàn Quốc, mô hình PPP và hệ thống các quy định quản lý của chính phủ Hàn Quốc được triển khai chính thức từ năm 1994 với các đạo luật Luật thúc đẩy vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Từ khi hệ thống thể chế PPP cơ sở hạ tầng được áp dụng vào thực tế, Hàn Quốc đã có hơn 100 dự án khác nhau trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở đã được triển khai theo hình thức PPP. Hệ thống thể chế hiện nay của Hàn Quốc so với những đạo luật trước đây đã được cải thiện hơn trong các hình thức hợp đồng, cách thức xử lý các dự án đơn lẻ, đồng thời thay đổi quy định bắt buộc phải nghiên cứu tính khả thi khi triển khai dự án và hệ thống xử lý rủi ro khác và thành lập một Trung tâm nghiên cứu triển khai PPP (PICKO), trung tâm này được sáp nhập với Trung tâm Quản lý đầu tư hạ tầng cơ sở tư nhân (PIMAC) sau khi Luật về Hợp tác công - tư được sửa đổi năm 2005. Theo quy định của Luật về Hợp tác công - tư, PIMAC ban hành kế hoạch thường niên về PPP, trong đó có những chỉ dẫn cụ thể và thực tế để ứng dụng các dự án PPP, đồng thời ban hành Cẩm nang hướng dẫn thực hiện PPP nhằm tạo sự minh bạch, thu hút sự quan tâm của khu vực đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Năm 2001, chính phủ hàn Quốc đã ban hành một kế hoạch 10 năm triển khai PPP, theo đó tập trung vào các dự án xây dựng quản lý cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP. Bên cạnh đó, Hàn Quốc còn thực hiện việc khuyến khích các dự án PPP bằng hình thức miễn, giảm thuế. Trong nhiều hợp đồng, Chính phủ có thể bảo lãnh doanh thu lên tới 90%, qua đó kích thích tư nhân đầu tư do họ hầu như không phải gánh chịu rủi ro doanh thu mà phần rủi ro này chuyển phần lớn sang Chính phủ.

(cid:0)

Hoa Kỳ

Cùng với vương quốc Anh, Hoa Kỳ cũng là một trong các nước triển khai và xây dựng thể chế về mô hình hợp tác công tư (PPP) trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng sớm nhất trên thế giới (Michael và các cộng sự, 2016). Từ những năm 1980, đến nay, Hoa Kỳ đã có trên 700 dự án đầu tư theo mô hình PPP với kinh phí triển khai lên tới hàng trăm tỷ USD, mô hình PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại Hoa Kỳ đã thực sự mang lại hiệu quả đối với nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng của nước này trong bối cảnh kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái những năm trở lại đây. Nguyên nhân của thành công này là do tính ưu việt trong mô hình và thể chế quản lý các dự án PPP cơ sở hạ tầng là một giải pháp quan trọng để tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng của quốc gia này, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển xã hội tương lai. Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế chính sách và luật pháp, chính quyền liên bang Hoa Kỳ một mặt chủ động xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách và các công cụ điều hành hướng dẫn triển khai mô hình này trên phạm vi toàn nước Mỹ, mặt khác phân quyền cho các bang tự quyết định việc tổ chức và triển khai mô hình PPP. Hiện nay, ở Mỹ đã có 36 bang ban hành luật và các cơ chế chính sách thực thi mô hình này, các bang đi đầu trong triển khai mô hình này là Florida, California và Texas. Điều này đã đảm bảo các quy định, chính sách, các biện pháp trong phát triển quan hệ đối tác PPP cơ sở hạ tầng mang tính thực tiễn và phù hợp

với điều kiện của từng bang, điều này đã góp phần không nhỏ trong việc thu hút các nhà đầu tư trong khu vực tư nhân quan tâm đến cách chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng tại các bang của Hoa Kỳ.

(cid:0)

Singapore

Singapore chỉ mới bắt đầu triển khai xây dựng và thực hiện các chương trình PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng từ đầu năm 2003 và chính thức vào năm 2004 khi chính phủ Singapore phát hành cuốn “Cẩm nang hợp tác công tư 2004” hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho các hoạt động trong từng giai đoạn của quan hệ hợp tác PPP nói chung và trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói riêng. Chính phủ Singapore nhấn mạnh tầm quan trọng của mô hình hợp tác công tư trong việc phát triển cơ sở hạ tầng của quốc gia này, chiến lược nổi bật của Singapore là chỉ áp dụng quan hệ đối tác công tư trong một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng như cơ sở thể thao; xử lý rác, nước thải; đường cao tốc, giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng thông tin, điều này giúp nhà nước tập trung được nguồn vốn vào sự phát triển của các lĩnh vực quan trọng bậc nhất và giải quyết nhu cầu cấp bách, tránh sự đầu tư giàn trải, không đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện nhiệm vụ này, Singapore đã giao cụ thể từng lĩnh vực cho một cơ quan quản lý nhất định, có thể kể đến như Hội đồng phát triển kinh tế (EDB), ủy ban tiện ích công cộng (PUB), cơ quan phát triển thông tin và truyền thông (IDA). Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu, chính phủ Singapore cũng rất quan tâm đến việc nghiên cứu phân tích môi trường, đặc điểm để hoàn thiện khung thể chế quản lý PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, thể hiện ở điểm, một số bộ ngành lớn và một số trường đại học được giao nhiệm vụ quản lý nghiên cứu các dự án PPP trong lĩnh vực quản lý làm cơ sở cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện thể chế, quy định về điều kiện, môi trường cho việc hợp tác giữa nhà nước và khu vực tư nhân (Meng-Kin Lim, 2004),

(cid:0)

Australia

Australia được coi là quốc gia có nhiều kinh nghiệm thành công về triển khai mô hình PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trong những năm qua. Sự thành công của quốc gia này được lý giải bởi nguyên nhân lớn nhất là sự hoàn thiện, hiệu quả trong hệ thống thể chế các quy định, chính sách được tạo lập trong hoạt động quản lý mối quan hệ hợp tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (Tingting Liu và các cộng sự, 2016). Theo đó, chính phủ Australia đã xây dựng được khung chính sách vững chắc về PPP; đặc biệt là quy trình dự thầu đối với dự án PPP rất chặt chẽ, góp phần tối ưu hóa hiệu quả kinh tế cho các dự án. Bên cạnh đó, chính phủ Australia cũng đề cao việc thực hiện xây dựng các chính sách và các biện pháp khuyến khích cắt giảm chi phí trong giai đoạn chuẩn bị đấu thầu trước khi thực hiện bất kỳ một dự án. Quá trình thực hiện các dự án PPP tại quốc gia này cũng được chuẩn hóa thông qua hợp đồng và giảm số lượng tài liệu hồ sơ cần nộp khi tham gia đấu thầu các dự án PPP cơ sở hạ tầng. Ngoài ra chính phủ Australia cũng xây dựng cách quy định theo hướng rút ngắn danh sách nhà thầu trước khi thực hiện đấu thầu dự án PPP, đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền thông tin về dự án và mời gọi các nhà thầu khác tham gia. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc thu hút, và quản trị các đối tác đầu tư khu vực tư nhân tới lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng của quốc gia này.

1.4.1.2. Tại các nước đang phát triển

(cid:0)

Philippines

Từ năm 1987, Chính phủ Philippines đã thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong các dự án cơ sở hạ tầng truyền thống như các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, nước,

cơ sở hạ tầng phát triển phi truyền thống như thông tin, công nghệ truyền thông, y tế và phát triển bất động sản, giúp chính phủ nước này góp phần giải quyết các cuộc khủng hoảng kinh tế đầu những năm 1990 và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng trong nước. Để làm được điều này, Chính phủ Philippines đã tạo ra một cơ cấu thể chế nhằm hỗ trợ chương trình cơ sở hạ tầng tư nhân. Md (Mahbubul và Rico, 2016), Theo đó, với mỗi cơ quan sẽ thành lập một trung tâm xây dựng - vận hành - chuyển giao, là nơi chịu trách nhiệm điều phối việc thiết kế và thực hiện các dự án PPP cơ sở hạ tầng. Mặc khác, cơ quan quản lý lĩnh vực tại trung ương và địa phương tiến hành lựa chọn các dự án theo khuôn khổ: tập hợp tất cả các dự án được đề cử đủ điều kiện cho sự phát triển cơ sở hạ tầng; cung cấp tư vấn cho nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tại Philippines trong lĩnh vực xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng; cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các quan chức chính quyền trung ương và địa phương về việc thiết kế và thực hiện dự án.

Ngoài ra, để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ Philippines đã xây dựng hệ thống các chương trình chiến lược truyền thông toàn diện nhằm công khai, minh bạch trong giao dịch với các đối tác đầu tư khu vực tư nhân, bởi Chính phủ Philippines cho rằng thành công của dự án chủ yếu dựa trên tính minh bạch của quá trình thiết kế một dự án đấu thầu và nhận thức giữa các bên liên quan. Theo đó, Chính phủ chuẩn bị một bài thuyết trình video về các quy tắc đấu thầu và thủ tục mở thầu, được mở cửa công khai và đảm bảo bằng các phương tiện truyền thông thực hiện các chương trình thông báo về giá thầu. Chiến dịch này được phát động trước một tháng để giải thích và đưa ra các phương hướng thực hiện tới các đối tác đầu tư. Những điều này đã góp phần không nhỏ trong sự hoàn thiện của hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của Philippines.

(cid:0)

Ấn Độ

Theo Vinod (2014), Nhận thức được các lợi ích của sự tham gia nguồn vốn và cách quản lý hiệu quả của khu vực tư nhân tư nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, từ những năm 1990 cho đến nay Ấn Độ là một trong những quốc gia Châu Á đầu tiên đã áp dụng và ban hành khung thể chế PPP rộng rãi cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn đất nước. Sự tham gia của nguồn vốn tư nhân và cách quản lý hiệu quả của họ với những kỹ thuật tiên tiến, đã thực hiện đánh giá tốt hơn về rủi ro thị trường, ước lượng được những thay đổi trong nhu cầu và đề ra những giải pháp phù hợp, do đó làm cho tính hữu dụng của các công trình, dự án tăng lên và hiệu quả hơn, giải phóng áp lực cho nguồn vốn của Chính phủ và tận dụng được các nguồn vốn khác trong xã hội. Để đạt được những điều này, không thể không kể đến vai trò của một khung thể chế hoàn thiện trong việc thực hiện PPP đối với các dự án cơ sở hạ tầng, cụ thể: Chính phủ Ấn Độ xây dựng các cam kết hỗ trợ về chính trị mạnh mẽ thúc đẩy sự tạo ra sự sáng tạo và vận hành hiệu quả của mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể là các dự án xây dựng cảng, đường sắt và đường cao tốc. Bên cạnh đó, trong các chính sách của mình, chính phủ Ấn Độ đề cao sự minh bạch trong cách quy định khi thiết kế hợp đồng PPP. Bên cạnh đó, Chính sách tài chính của chính phủ Ấn độ cho dự án PPP cơ sở hạ tầng cũng là một điểm quan trọng tạo nên sự thành công trong tính hiệu quả khung thể chế quản lý quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Theo đó, Chính phủ tiến hành trợ cấp cho một số dự án dựa trên rủi ro và lợi ích trong các giai đoạn khác nhau nhằm kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong các giai đoạn, đồng thơig góp phần khuyến khích sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

(cid:0)

Indonesia

Trong bối cảnh kinh tế thế giới liên tiếp gặp phải các cuộc khủng hoảng với các cuộc lạm phát lớn xảy ra tại nhiều quốc gia trên thế giới, Chính phủ Indonesia ý thức được tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tạo cơ sở cho việc phát triển, tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước. Theo định hướng này, ngay đầu những năm 1990, chính phủ Indonesia bằng cho phép khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án dây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, các cơ sở y tế, giáo dục... trong đó lĩnh vực giao thông dẫn đầu với 20 dự án với sự tham gia tư nhân về số dự án. Nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân Chính phủ Indonesia đã kích thích đầu tư tư nhân thông qua hợp tác công - tư (PPP) bằng cách thiết lập một khuôn khổ pháp lý, chính sách và các biện pháp thực hiện phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như sửa đổi luật liên quan đến đầu tư tư nhân ở Indonesia. Những nỗ lực đó thể hiện qua sự nhận thức của chính phủ Indonesia trong việc nhận ra sự cần thiết phải thu hút đầu tư tư nhân cho phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp bảo đảm cho khu vực tư nhân bằng cách đảm bảo cho các nhà đầu tư thông qua việc thành lập các chính sách quản lý thích hợp. Mặt khác, để tạo sự tự tin tưởng từ khu vực tư nhân đầu tư và sự tham gia tích cực của khu vực này trong phát triển cơ sở hạ tầng sau khi cuộc khủng hoảng tài chính 2008, chính phủ Indonesia đã xây dựng chính sách quản lý công bằng công khai và minh bạch, như một hình thức bảo lãnh cho khu vực tư nhân để có thể duy trì sự hợp tác lâu dài của họ.

(cid:0)

Trung Quốc

Theo nghiên cứu của Tingting và các cộng sự (2016), trong thời gian qua, sự thành công của các dự án PPP được thực hiện tại Trung Quốc, góp phần cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng của đất nước được lý giải bởi sự chính xác trong việc xây dựng, lựa chọn, xây dựng hệ thống khung pháp lý và các biện pháp triển khai phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế xã hội đất nước. Một số nhân tố có thể kể đến như sự ổn định của các chính sách kinh tế - chính trị ổn định, với các mức thuế phù hợp, phân bổ rủi ro hợp lý, chính sách lựa chọn các nhà thầu phụ phù hợp, cùng các biện pháp kiểm soát và quản lý các dự án một cách chặt chẽ, đồng thời khuyến khích đầu tư công nghệ mới trong hoạt động xây dựng và quản lý các dự án, công trình cơ sở hạ tầng.

Bên cạnh các yếu tố dẫn tới thành công, trong thể chế quản lý PPP về cơ sở hạ tầng hiện nay của Trung Quốc còn gặp một số bất cập. Cơ cấu tài trợ của nhiều dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP ở Trung Quốc là dựa trên các khoản vay và trái phiếu quốc tế, điều này tạo ra tính rủi ro cao trong tỷ giá cho chính phủ. Chính các quy định mức thu phí quá cao so với thu nhập bình quân đầu người đã dẫn đến sự thiếu hấp dẫn về các lợi ích kinh tế và tài chính cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng để tạo tính hấp dẫn cho đầu tư vẫn chưa đạt được. Đây là bài học kinh nghiệm rất đáng suy ngẫm cho Việt Nam khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

1.4.2. Kinh nghiệm rút ra đối với hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Qua kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới tong việc hoàn thiện hệ thống thể chế PPP cơ sở hạ tầng, Việt Nam có thể rút ra một số bài học trong quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện khu vực công nói chung và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng. Cùng với những công cụ của mình, Chính phủ Việt Nam cần xem xét một số bài học sau:

Bài học thứ nhất, Trong công tác nghiên cứu phương pháp hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phải được nghiên cứu xây dựng theo hướng tạo cơ sở pháp lý thuận lợi tối đa cho

công tác huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân tư nhân. Đồng thời nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện khung pháp lý về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó một số vấn đề cần được lưu ý như: tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu - tư, cam kết, đảm bảo của nhà nước, tạo linh hoạt cho quá trình đám phán và thực hiện dự án; hoàn thiện các điều khoản quy định trong quy trình triển khai PPP như quy định rõ về từng bước thực hiện, thời gian, trách nhiệm của từng cơ quan, từng bên và phương thức giải quyết vướng mắc trong quá trình đề xuất, đàm phán và triển khai dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Bài học thứ hai, hệ thống cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cần phải coi trọng phát huy tiềm năng thế mạnh nội lực, đồng thời chú trọng nắm bắt cơ hội, điều kiện thuận lợi để thực thi cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Phối kết hợp nội lực và ngoại lực trong hoạch định, thực thi cơ chế, chính sách. Theo đó, việc nghiên cứu xây dựng các chính sách hỗ trợ của Chính phủ cần phải đảm bảo theo hướng tôn trọng tính khả thi, hấp dẫn của chính sách tới các nhà đầu tư, đa dạng dưới nhiều hình thức, như hỗ trợ về: vốn đầu tư (vốn góp ban đầu hay còn gọi là vốn mồi); chi phí vận hành (phí duy tu, bảo dưỡng, thu phí…), có các chính sách ưu đãi về thuế phù hợp để tăng tính hấp dẫn cho dự án; bảo lãnh các khoản vay, bảo lãnh doanh thu tối thiểu, tỷ giá…; cam kết bù đắp những tổn thất khi rủi ro bất khả kháng xảy ra để bảo vệ nhà đầu tư (thông qua các phương thức như cho phép kéo dài thời gian nhượng quyền hoặc bù đắp chi phí bằng tiền mặt hoặc các hỗ trợ khác).

Bài học thứ ba, Quá trình nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng phải tham khảo cả kinh nghiệm thành công và hạn chế của các nước, từ đó, thông qua hợp tác quốc tế để phối hợp đào tạo, huấn luyện, nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp theo dõi, quản lý, xúc tiến các dự án PPP ở trung ương và địa phương. Trong khi nghiên cứu cần phải dựa vào những căn cứ khoa học để xây dựng các quy định, chính sách, biện pháp thực hiện các phương án đầu tư, phương án chia sẻ lợi ích/rủi ro, cần có quy định bắt buộc nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, dự báo, lượng hóa các tác động khi thực hiện dự án PPP cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro; cơ chế xác định giá/phí dịch vụ, phương án quản lý; cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp cho từng trường hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Ngoài ra, các dự án PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng mang tính đặc thù cao, có thể được tổ chức theo những mô hình khác nhau, trong đó có những hạng mục có thể là những dự án độc lập, do vậy trong hoạt động hoàn thiện thể chế cần xây dựng đầy đủ các tiêu chí để quyết định mô hình tổ chức quản lý và thực hiện các hạng mục độc lập một số vấn đề quan trọng như hình thức thu hồi vốn và lợi ích mà các nhà đầu tư được hưởng; mức lợi ích mà các nhà đầu tư được hưởng.

Bài học thứ tư, Trong giai đoạn triển khai và ban hành chính sách cần đảm bảo tính thông nhất của các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc thực hiện dự án PPP cơ sở hạ tầng theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương để đảm bảo tính khả thi và sự linh hoạt khi thực hiện dự án PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Đồng thời tăng cường việc hướng dẫn, định hướng cho các địa phương trong việc lựa chọn các trọng số nhằm xây dựng và thực hiện khung pháp lý liên quan đến việc thực hiện dự án về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng. Ông Ben Darche - Tư vấn quốc tế về PPP - cho biết: Kinh nghiệm thực hiện PPP của nhiều nước trên thế giới cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP cơ sở hạ tầng thất bại. Vì vậy, trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế

PPP cơ sở hạ tầng cẩn phải đặc biệt quan tâm đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ trợ tài chính của Chính phủ, cơ chế lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện các dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Bài học thứ năm, Trong giai đoạn thẩm định, kiểm tra các dự án cũng như việc áp dụng các chính sách quy định về thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần thành lập đơn vị quản lý PPP chuyên biệt để giám sát việc xây dựng, thực hiện các quy định liên quan tới hợp đồng và quy trình tổ chức đấu thầu. Việt Nam nên cân nhắc tiến tới thành lập một cơ quan chuyên trách nghiên cứu chính sách cũng như làm đầu mối quản lý nhà nước, đào tạo nhân lực và tư vấn, hỗ trợ các bên trong quá trình thực hiện các dự án PPP cũng như nghiên cứu chính sách liên quan đến chương trình PPP, tiêu chuẩn hóa và cung cấp các tài liệu hướng dẫn cho các dự án thực hiện theo hình thức PPP, xúc tiến các dự án đầu tư theo hình thức đầu tư PPP, đào tạo nhân lực tham gia và quản lý các dự án PPP cơ sở hạ tầng. Đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch, cạnh tranh trong xây dựng quy trình đấu thầu để đảm bảo lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực.

Bài học thứ sáu, Trong hoạt động xây dựng chính sách, thể chế, các nhà làm luật cần chú ý tới các chính sách phân bổ các rủi ro của dự án hợp lý nhất cho mỗi bên với một quy trình giám sát, phân chia, chuyển giao và kiểm soát rủi ro bằng cách: phân tích các rủi ro của dự án trước khi tiến hành đấu thầu, thành lập những đơn vị hoặc trung tâm chuyên trách về lĩnh vực phân bổ rủi ro, bởi thực tế đã chứng minh, với các quốc gia thực hiện tốt các chính sách này, công tác xem xét, theo dõi và tư vấn cho các chủ đầu tư dự án của họ diễn ra một cách thuận lợi và đem lại hiệu quả cao cho các dự án. Vì vậy cần ban hành các chính sách, quy chế mới phù hợp cho cả hai bên nhằm cân bằng lợi ích và rủi ro cũng như phân bổ đều cho cả hai bên.

Bài học thứ bảy, Theo kinh nghiệm của các nước phát triển như Anh, Hoa kỳ: để một dự án PPP có thể được thực hiện thành công, cần thu hút sự tham gia thực sự của các chủ thể liên quan ngay từ đầu và áp dụng một chế độ chia sẻ thông tin đầy đủ và có hiệu quả trong suốt chu kỳ dự án, vì vậy trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các nhà làm luật cần coi trọng các quy định nhằm thúc đẩy việc công khai, chia sẻ thông tin, điều này vừa giúp các đối tác PPP cơ sở hạ tầng có thể theo dõi, kiểm soát sự án, còn vừa giúp thu hút các nhà đầu tư đang có ý định tham gia vào quan hệ đối tác PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

2.1. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

2.1.1. Thực trạng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Sau hơn 20 năm đổi mới, từ một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém cả về số lượng và chất lượng, đến nay kết cấu hạ tầng tại Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể trong các lĩnh vực như hạ tầng giao thông, hạ tầng giáo dục, hạ tầng ý tế, hạ tầng điện lực, hạ tầng cấp thoát nước,… Theo báo cáo thường niên của Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF 2015, chỉ số cạnh tranh của cơ sở hạ tầng giao thông Việt Nam đã có bước tiến triển vượt bậc thể hiện qua thứ bậc vị trí của năng lực cạnh tranh cơ sở hạ tầng giao thông trên bảng xếp hạng. Theo đó, từ vị trí 76 vào năm 2014, chỉ số năng lực cạnh tranh về cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam đã tăng lên 9 bậc ở vị trí 67 vào năm 2015, trong đó chỉ số về chất lượng đường bộ đứng thứ 93, tăng 11 bậc, chất lượng đường sắt đứng thứ 48, tăng 4 bậc so với năm 2014, chất lượng cảng đứng thứ 76, tăng 12 bậc (năm 2014 đứng thứ 88); chất lượng hàng không đứng thứ 75, tăng 12 bậc (năm 2014 đứng thứ 87).

Theo số liệu niên giám thống kê 2015, tổng chiều dài đường bộ nước ta đến năm 2014 có trên 212151 km, đã hình thành hệ thống đường bộ toàn quốc với các trục Bắc - Nam, Đông - Tây nối liền các vùng kinh tế lớn. Việc nâng cao chất lượng hệ thống đường bộ đã rút ngắn 50% thời gian đi từ Hà Nội đến Hải Phòng, 50%, đến Thanh Hoá, Nghệ An giảm 30%; và giảm 40% từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu,… . Cùng với mạng lưới 3.143 km đường sắt trong đó 2.531 km chính tuyến, 612 km đường nhánh và đường ga; hơn 50 cảng biển, 170 bến cảng, 350 cầu cảng, năng lực thông quan khoảng 350 - 370 triệu tấn/năm và 21 sân bay trong đó có 10 cảng hàng không quốc tế được xây dựng và trang bị hiện đại có khả năng tiếp đón 60 triệu lượt khách mỗi năm, hệ thống cơ sở tạ tầng giao thông tại Việt Nam đã tạo nên mối liên kết bền vững trong hoạt động vận chuyển hàng hóa trên lãnh thổ cả nước.

Bên cạnh hệ thống hạ tầng giao thông, hệ thống cấp điện cũng đã được thống nhất chung trong cả nước, đặc biệt, hệ thống đường dây 500KV từ Bắc vào Nam là một bước tiến mới của mạng phân phối điện hiệu quả ở các vùng, bảo đảm cung cấp đáp ứng nhu cầu phụ tải điện và cung cấp điện sử dụng cho người dân. Cùng với đó, hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin phát triển nhanh, với công nghệ tiên tiến, bao phủ rộng khắp cả nước, kết nối thành công với thông lượng lớn tới các nước trong khu vực và thế giới. Đến năm 2015 số thuê bao internet/100 dân đạt 45 và số máy điện thoại/100 dân đạt 190, thuộc tốp cao trên thế giới. Song song với việc nâng cao chất lượng hệ thống hạ tầng thông tin, hệ thống cung cấp nước sạch và xử lý rác thải, đặc biệt tại các đô thị cũng được quan tâm đẩy mạnh phát triển. Hạ tầng giáo dục, đào tạo tại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể so với các giai đoạn trước với hơn 50 nghìn trường từ mầm non đến trung học với 680 nghìn phòng học; 420 trường đại học, cao đẳng; trên 2300 cơ sở dạy nghề, đã đáp ứng được nhu cầu dạy và học của người dân (niên giám thống kê sơ bộ giai đoạn 2015 – 2016).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tự đạt được, hệ thống kết cấu hạ tầng ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ, tính kết nối kém, hiện đang là điểm nghẽn của quá trình phát triển. So với các nước tiên tiến và các nước khác trong khu vực, hệ thống cơ sở hạ tầng Việt Nam ở mức trung bình với 3,7 điểm trong mức đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu về cơ sở hạ tầng của Việt Nam và một số nước trong khu vực

Hình 4: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu về cơ sở hạ tầng của Việt Nam và một số nước trong khu vực

Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2015)

Hình 5: Đánh giá chất lượng cơ sở hạ tầng Việt Nam

Nhìn chung, về cơ bản, hiện nay chất lượng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam không được đánh giá cao, đặc biệt là chất lượng kỹ thuật chỉ với 2,19 / 5 điểm đánh giá từ phía người sử dụng và 2,3; 2,32 lần lượt là điểm của đơn vị quản lí nhà nước và nhà thầu tư nhân và 2,66 điểm đánh giá mức độ hiện đại được đánh giá bởi 232 người sử dụng. Trong các yếu tố đánh giá chất lượng, tiêu chí được đánh giá cao nhất là sự gắn kết giữa người sử dụng và nhà quản lí với 3,88 điểm trung bình được đánh giá bởi đơn vị quản lí nhà nước trực tiếp tham gia vào các công trình. Các số điểm còn lại chủ yếu chỉ dừng lại ở mức trung bình từ 2,19 đến 3,13 điểm.

Hiện nay, trên thực tế, hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, dẫn tới tình trạng hiệu quả sử dụng không được như kế hoạch đề ra. Chất lượng phát triển giao thông đô thị không theo kịp tốc độ đô thị hoá, các dự án giao thông đô thị hầu thi công chậm, không đạt tiến độ, nguyên nhân lớn nhất từ khâu tái định cư, đền bù, giải phóng mặt bằng nhưng nhiều năm qua không có giải pháp hữu hiệu cũng như làm rõ trách nhiệm. Hệ thống giao thông quốc lộ và tỉnh lộ chưa đáp ứng nhu cầu giao thương hàng hóa và đi lại của nhân dân. Hệ thống cảng biển đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và thiếu tính cạnh tranh, thiếu các cảng chính, đủ khả năng cạnh tranh với các cảng biển trong khu vực và trên thế giới, mặc dù có nhiều tiềm năng và lợi thế so với các nước trong khu vực. Hệ thống đường sắt Việt Nam chủ yếu thừa hưởng hệ thống đường sắt do Pháp để lại, hiện nay đã lạc hậu. Hệ thống hàng không chưa đáp ứng được toàn bộ nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách, đặc biệt trong các mùa cao điểm như các dịp nghỉ lễ hoặc mù du lịch...

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng sản xuất điện, đặc biệt là thủy điện, tuy nhiên hạ tầng điện lực hiện nay còn chưa đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng điện phục vụ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân, nhất là vào mùa khô. Nhiều sự cố cắt điện và hư hỏng đường dây tải điện thường xuyên diễn ra không chỉ gây tổn thất kinh tế mà còn gây mất an toàn với tính mạng của người dân. Bên cạnh đó, hệ thống cấp, thoát nước hiện nay tại Việt Nam, đặc biệt là khu vực thành thị chưa được hoàn chỉnh. Trong tổng số 689 đô thị trong cả nước, hiện vẫn còn gần 400 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung. Hệ thống cấp, thoát nước đô thị chỉ mới đáp ứng 80% nhu cầu cho dân số đô thị. Hệ thống thoát nước phần lớn được sử dụng chung cho thoát nước mưa và nước thải, vẫn chưa có các trạm xử lý nước thải sinh hoạt, bên cạnh đó, các tuyến cống thường xuyên hư hỏng, dẫn đến tình trạng ngập úng, nhất là trong mùa mưa bão. Đặc biệt, công tác quản lý, khai thác, sử dụng, dịch vụ hạ tầng còn yếu, hiệu

quả thấp. Trong cơ cấu đầu tư, chưa dành tỷ lệ vốn thích đáng cho công tác bảo trì, bảo dưỡng hệ thống mạng, không bảo đảm phát triển bền vững, tình trạng xuống cấp tiếp tục diễn ra.

2.1.2. Thực trạng hệ thống pháp luật quy về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Nhận thức rõ tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển và thực trạng kết cấu hạ tầng đất nước đang kém phát triển, ngay từ đầu những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh phát triển trong các văn kiện quan trọng của Đảng như Văn kiện Đại hội VII (1991) của Đảng chỉ rõ: “Phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới giao thông vận tải, chú trọng phát triển vận tải đường biển, đường sông, đường sắt và hàng không quốc tế, phát triển giao thông nông thôn và miền núi. Tiếp tục hiện đại hoá mạng bưu chính quốc tế và trong nước; phủ sóng phát thanh và truyền hình khắp cả nước; phát triển ngành sản xuất thiết bị bưu điện”. Cho đến hiện tại, đứng trước những thách thức của quá trình phát triển, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XI lại một lần nữa khẳng định xây dựng cơ sở hja tầng là nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc phát triển đất nước, theo đó “Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước”... Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Ban chấp hành Trung ương ra Nghị quyết Trung ương 4 về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.

Thể chế hoá các chủ trương của Đảng, Chính phủ kết hợp với UBND các cấp, các ngành tiến hành xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách cụ thể nhằm phát triển kết cấu hạ tầng nói chung cũng như trong từng lĩnh vực, từng địa phương. Trong khung pháp luật điều chỉnh quan hệ đối tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu là hai văn bản có tính pháp lý cao nhất hiện nay.

Ngày 01/07/2014 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 bắt đầu có hiệu lực với các quy định pháp luật về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đối tác công - tư (PPP) (quy định tại Khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu 2013). Bên cạnh đó, Luật Ngân sách nhà nước quy định tổng thể về chi phí đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách. Luật Xây dựng quy định quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư có hoạt động xây dựng, bao gồm thẩm quyền lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng. Nhằm bổ sung một số quy định liên quan đến hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân, ngày 11/06/2014 Quốc Hội Việt Nam ban hành Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015) với quy định cụ thể về PPP cơ sở hạ tầng theo hình thức hợp đồng PPP: “Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP”.

Trước đây, văn bản quy phạm dưới luật điều chỉnh chi tiết mối quan hệ PPP cơ sở hạ tầng được sử dụng là Quyết định số 71/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư. Đây là cơ sở pháp lý để bước đầu thực hiện dự án đầu tư theo phương thức hợp tác Nhà nước và tư nhân. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện các dự án vẫn có một số khó khăn, vướng mắc. Nhằm tháo gỡ các bất cập Quyết định 71/2010/QĐ-TTG gặp phải, ngày 14/02/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư, có hiệu lực kể từ ngày 10/04/2015

quy định: Đầu tư theo hình thức đối tác công tư là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng. Theo đó, Việt Nam đang tồn tại 7 loại hợp đồng dự án theo hình thức đối tác công tư bao gồm: (1): Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT); (2) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO); (3) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT); (4) Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO); (5) Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL); (6) Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT), và (7) Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý.

Nghị định số 15/2015/NĐ-CP đã cải thiện, khắc phục các nhược điểm và là nâng tầm của Quyết định 71/2010/QĐ-TTG. Cụ thể, so với Quyết định 71/2010/QĐ-TTG, Nghị định số 15/2015/NĐ-CP đã mở rộng thêm năm lĩnh vực có thể áp dụng PPP bao gồm: công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và các dịch vụ có liên quan; hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước; hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà ở xã hội; nhà ở tái định cư; nghĩa trang; nhà máy điện, đường dây tải điện; công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao và các dịch vụ liên quan; trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; công trình kết cấu hạ tầng thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng thủy văn, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung; ứng dụng công nghệ thông tin; công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và các lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, các quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư cũng được sửa đổi, theo đó tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư không được thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư. Nghị định số 15/2015/NĐ-CP đã bổ sung điều kiện tuyển chọn dự án PPP cơ sở hạ tầng. Đồng thời bổ sung quy định Chính phủ có thể chỉ định cơ quan bảo lãnh, nhưng bản thân Chính phủ thì không phải là người bảo lãnh (Điều 46, 57), người đứng ra bảo lãnh phải là Chính phủ; còn Chính phủ chỉ chỉ định cơ quan đứng ra đại diện cho Chính phủ bảo lãnh.

Ngoài ra, Theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP, Nhà đầu tư không nhất thiết phải chuyển giao công trình cho nhà nước sau khi hoàn tất, mà có thể chọn nhiều giải pháp khác nhau, tùy yêu cầu của nhà đầu tư và bên cấp vốn cho vay dự án; quy định rõ, các dự án theo hình thức PPP sẽ được phân loại theo dự án quan trọng quốc gia, các dự án nhóm A, B và C. Nhờ đó mà các dự án nhỏ sẽ được thông qua nhanh chóng hơn. Các dự án nhóm C không phải thực hiện các bước như lập báo cáo nghiên cứu, không phải thành lập doanh nghiệp dự án và không cần thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư. Nghị định này còn cho phép chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng dự án, hoặc chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án. Điều này mở cửa cơ hội chứng khoán hóa (securitization) dự án, giải tỏa một phần lo lắng cho các nhà tài trợ hay ngân hàng đối với vấn đề tài chính dự án, nhất là khi chủ đầu tư không đủ năng lực để tiếp tục thực hiện dự án. Về việc thế chấp tài sản, quyền kinh doanh công trình dự án, Nghị định 15 quy định rõ nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được thế chấp tài sản, quyền sử dụng đất và quyền kinh doanh công trình dự án tại bên cho vay theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về dân sự, với điều kiện thời hạn thế chấp không quá thời hạn hợp đồng dự án.Tuy nhiên, thời hạn thế chấp có thể vượt quá thời hạn hợp đồng dự án nếu có thỏa thuận tại hợp đồng dự án. Về hình thức thỏa thuận thế chấp, việc thỏa thuận thế chấp tài sản, quyền kinh doanh công trình dự án phải được lập thành văn bản ký kết giữa bên cho vay và các bên ký kết hợp đồng dự án. Như vậy quyền lợi của bên cho vay đối với dự án sẽ được bảo đảm phần nào. Nhìn chung, việc vận dụng mô hình PPP trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy định tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP đã và đang góp phần nâng cao hiệu

quả quan hệ đối tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đồng xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam năng động linh hoạt, có khả năng thích nghi với xu thế phát triển chung của thế giớ trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút vốn đầu tư.

Bên cạnh đó còn một số văn bản khác như: Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/03/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư (có hiệu lực từ ngày 05/05/2015); Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 05/04/2011 sửa đổi Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao; Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.

2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

2.2.1. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong nước

Thứ nhất, môi trường chính trị

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã được Quốc hội (khóa XIII), Kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 28-11-2013, có hiệu lực từ ngày 01-01-2014 một lần nữa khẳng định Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng có vai trò trách nhiệm vô cùng to lớn đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế nói chung và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở các mục tiêu và con đường phát triển, Đảng đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng và phát triển bộ máy nhà nước, đồng thời tạo lập cơ sở và đảm bảo định hướng chính trị cho hoạt động thể chế hoá. Mặc dù Đảng không trực tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ thể chế hoá của Nhà nước nhưng những ý kiến chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng là kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế đối tác công tư hiện nay, có ý nghĩa tác động quyết định đảm bảo cho hoạt động thể chế được hoàn thiện đúng hướng.

Hình 6: Đánh giá mức độ tác động của môi trường chính trị

Theo kết quả khảo sát điều tra, có 71,72% số người được hỏi cho rằng môi trường chính trị có tác động lớn tới thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam với 4,59/5 điểm đánh giá. Trong đó, đạt được sự đồng tình cao giữa các đối tượng trong nhóm nhà thầu tư nhân cũng đánh giá với cùng mức điểm trung bình là 4,59 điềm, và những người được hỏi trong các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư (4.57 điểm). Điều này một lần nữa khẳng định sự nhận thức của mọi người về tầm quan trọng của môi trường chính trị, cụ thể là sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc xây dựng định hướng, quan điểm chỉ đạo về quan hệ đối tác công tư PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, công tác tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng thể chế

Hiện nay, công tác xây dựng và hoàn thiện và thực thi thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại Việt Nam được thực hiện bởi một hệ thống các cơ quan quản lí hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong đó, Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý chung toàn bộ mọi hoạt động xây dựng thể chế quan hệ đối tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng bao gồm việc xây dựng, hoàn thiện và thi thành thể chế trên thực tế. Trong cơ chế thể chế hoá, Nhà nước thực hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc nắm bắt nhu cầu về thể chế trong quá trình thực hiện vai trò quản lý xã hội, mặt khác, thông qua việc nghiên cứu thấu suốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, và các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hóa vào trong các văn bản pháp luật, chính sách của Nhà nước. Chính sách pháp luật của nhà nước là các quy định cụ thể, thể hiện và là cơ sở để triển khai quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên hiện nay, hệ thống bộ máy hành chính của Việt Nam đang gặp một số vấn đề làm ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Việc vừa thừa vừa thiếu trong nguồn nhân lực hiện nay tại các cơ quan hành chính đang là vấn đề khá nan giải đối với chính phủ. Việt Nam hiện đang có 2,8 triệu công chức trong khi một quốc gia phát triển như Hoa Kỳ với 320 triệu dân, gấp hơn 3 lần Việt Nam lại chỉ có 2,1 triêu công chức. Mặc dù số lượng công chức đông đảo nhưng chất lượng làm việc vẫn không đạt như mong đợi. Các cơ quan, ban ngành đùn đẩy trách nhiệm xử lí khi có vấn đề xảy ra, điều này đã tác động không nhỏ tới công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng.

Hình 7: Đánh giá mức độ tác động công tác tổ chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Tương tự như yếu tố chính trị, yếu tố công tác tổ chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng được đánh giá mạnh tới công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại việt Nam hiện nay với 4,56/5 điểm đánh giá trung bình của 2 nhóm đối tượng thuộc các đơn vị quản lý nhà nước trực tiếp tham gia dự án và các nhà thầu tư nhân. Phần lớn số người được hỏi trong 2 nhóm đối tượng đều cho rằng công tác tổ chức của các cơ quan nhà nước đặc biệt tại các cơ quan quản lí chuyên ngành như Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, Ban quản lý dự án PPP cơ sở hạ tầng tác động rất mạnh tới mức độ hoàn thiện của thể chế với 71.43% trong nhóm cơ quan nhà nước và 66.20% trong nhóm các nhà thầu, chỉ một số ít còn lại yếu tố này tác động ở mức bình thường. Kết quả này có ý nghĩa vô cùng quan trọgn trong việc xác định niềm tin của người dân đối với các nguyên nhân thành công và hạn chế của các quy định trong thể chế PPP cơ sở hạ tầng, vì vậy để tăng niềm tin của người dân đối với các quy định, trước hết các cơ quan nhà nước cần kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Thứ ba, các yếu tố thuộc về các cá nhân có thẩm quyền xây dựng thể chế

Tại Việt Nam, hoạt động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện, và triển khai thực hiện các quy định của pháp luật được thực hiện bởi hệ thống cán bộ, công chức, nhân viên trong bộ máy các cơ quan nhà nước, Về cơ bản, đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay đã có các kỹ năng thiết lập các mục tiêu, xây dựng các phương, đồng thời tổ chức thực hiện các hoạt động liên quan đến xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật quy định quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói riêng. Công chức lãnh đạo, quản

lý có khả năng xây dựng chiến lược, kế hoạch thực hiện mục tiêu của Đảng, Nhà nước và tỉnh đề ra. Có khả năng dự kiến được khó khăn, trở ngại, những vấn đề có thể xảy ra và phương án giải quyết. Hầu hết cán bộ công chức đều có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức cầu tiến, ham học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phục vụ nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy, quy chế của cơ quan. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ công chức hành chính nhà nước của tỉnh sa sút về phẩm chất, đạo đức, tham nhũng hạch sách, còn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, “vô cảm” trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân, của xã hội. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phong cách làm làm việc của đội ngũ công chức còn yếu và chậm đổi mới, nạn tham ô, tham nhũng cũng thư thiếu hụt về kiến thức quản lý cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP cơ sở hạ tầng.

Hình 8: Đánh giá mức độ tác động của các yếu tố thuộc về các cá nhân có thẩm quyền xây dựng thể chế

Theo kết quả điều tra khảo sát 198 cá nhân thuộc 2 nhóm đối tượng, về cơ bản đều cho rằng các yếu tố thuộc về các cá nhân của cán bộ công chức đều có động rất mạnh tới chất lượng của công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Trong đó, 4,56 là điểm trung bình của yếu tố trình độ năng lực với 61,11% số người được hỏi đồng ý rằng trình độ, năng lực của nhà làm luật có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và tính hiệu quả của thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, tác động của ý thức của cán bộ công chức pháp luật cũng được đánh giá ở mức cao với 4,18 điểm trung bình, tuy có thấp hơn so với yếu tố trình độ năng lực nhưng vẫn ở mức khá cao trên thang điểm đánh giá. Vì vậy trong công tác hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các cơ quan nhà nước cần chú trọng hơn nữa việc đào tạo trình độ kĩ năng, cũng như tinh thần, thái độ làm việc của các cán bộ công chức hoạt động trong lĩnh vực này.

Thứ tư, các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc

Việt Nam – đất nước với về dày hơn một ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, với hệ thống văn hóa, lịch sử đồ sộ đã tác động không hề nhỏ đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói riêng. Trước hết, yếu tố văn hóa, lịch sử dân tộc có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành, giáo dục ý thức đạo đức, phẩm chất cách mạng của các cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, bên cạnh đó, việc các quy định liên quan tới quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa giao tiếp, ứng xử của dân tộc như trong quá trình thẩm định, phê duyệt các dự án, các nhà thẩm định cũng phải dựa trên các căn cứ phù hợp với kiến trúc đặc trưng truyền thống, phù hợp với thói quen sử dụng của người dân Việt Nam.

Hình 9: Đánh giá mức độ tác động của các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc

Căn cứ vào kết quả khảo sát, các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc được đánh giá 3,58 điểm trung bình. Mặc dù được đánh giá thấp hơn các yếu tố đã kể trên như trình độ năng lực cán bộ công chức xây dựng pháp luật, chế độ chính trị hay tổ chức công tác của

các cơ quan quản lí nhà nước nhưng với mức điểm như trên, các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc cũng được đánh giá là có tác động tương đối mạnh tới quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP cơ sở hạ tầng tại Việt Nam hiện nay. Với 58,45% số người được hỏi tại các nhà thầu tư nhân tham gia quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống được đánh giá ở mức 3,64 điểm, cao hơn kết quả điều tra tại các đơn vị nhà nước với 4,41 điểm trung bình, tương ứng với chỉ có 41,07% số người được hỏi đánh giá các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc tác động mạnh mẽ tới kết quả công tác hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Căn cứ trên kết quả xác định mức độ tác động, trong quá trình hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các nhà làm luật cần chú ý các tác động của yếu tố văn hóa lịch sử, đồng thời có các biện pháp điều chỉnh phù hợp với các vấn đề phát sinh liên quan tới yếu tố này nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động triển khai thực hiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng trên thực tế.

Thứ năm, dư luận xã hội:

Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và hệ thống thể chế dối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng còn gặp khá nhiều bất cập, ảnh hưởng trục tiếp tới chất lượng của các công trình được xây dựng theo hình thức PPP. Trong những năm gần đây, đặc biệt với sự bùng nổ của các trang mạng xã hội và các tạp chí điện tử, dư luận xã hội Việt Nam đã tìm ra được những vấn đề bất cập, những lỗ hổng trong việc hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, và đưa ra các kiến nghị phục các sai lầm, hạn chế mà hệ thống mắc phải khi triển khai ngoài thực tế. Nguồn thông tin này đã đóng góp các cơ sở, chứng cứ quan trọng cho quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam.

Hình 10: Đánh giá mức độ tác động của dư luận xã hội

Với 3,23 điểm trung bình (trong đó điểm đánh giá tại các đơn vị quản lí nhà nước là 3,13; nhà thầu tư nhân 3,27), dư luận xã hội tại Việt Nam hiện nay được đánh giá tác động tương đối đến hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP cơ sở hạ tầng với 41,41% số người được hỏi đánh giá ở mức cao và 58,58% còn lại cho rằng hiện nay dư luận xã hội tại Việt Nam mới chỉ tác động từ mức trung bình trở xuống. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển như hiện nay, yếu tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát hiện các bất cập, sai phạm trong quá trình triển khai thể chế PPP cơ sở hạ tầng trên thực tế. Đây là cơ sở khách quan, hỗ trợ đắc lực cho cơ quan lập pháp trong việc đảm bảo tính hiệu quả trên thực tế của các quy định, cũng như đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động tham gia xây dựng pháp luật của người dân.

Môi trường kinh tế - xã hội trong nước

Bảng : Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước các năm 2013, 2014 và 2015

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng năm 2015 (Điểm phần trăm)

Tốc độ tăng so với năm trước (%)

Tổng số

Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

5,42

5,98

6,68

6,68

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

2,63

3,44

2,41

0,40

Công nghiệp và xây dựng

5,08

6,42

9,64

3,20

Dịch vụ

6,72

6,16

6,33

2,43

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp

6,42

7,93

5,54

0,65

Nguồn: Tổng cục Thống Kê

Hiện nay, các vấn đề kinh tế xã hội như cơ cấu và cách phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế, GDP của Việt Nam về cơ bản luôn đạt được trạng thái tăng trưởng ổn định. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014, trong đó quý I tăng 6,12%; quý II tăng 6,47%; quý III tăng 6,87%; quý IV tăng 7,01%. Mức tăng trưởng năm nay cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011- 2014, cho thấy nền kinh tế phục hồi rõ nét. Trong mức tăng 6,68% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,2 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm. Tuy nhiên trong điều kiện phát triển như hiện nay, các chỉ số này vẫn chưa đạt được như mục tiêu mong đợi. Nguồn vốn ngân sách hiện nay để đầu tư vào xây dựng của Việt Nam còn thiếu hụt khá lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP chưa cao do đó đã tác động việc lựa chọn các mục tiêu, trọng số các điều kiện trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế PPP.

Hình 11: Đánh giá mức độ tác động của môi trường kinh tế - xã hội trong nước

Nhìn chung, môi trường kinh tế - xã hội trong nước được đánh giá tác động vô cùng mạnh mẽ tới các điều kiện trong quy định về thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (4,33 điểm). Trong đó, các tại nhà thầu tư nhân yếu tố này được đánh giá cao hơn tại các cơ quan nhà nước với số điểm lần lượt là 4,37 và 4,25. Thật vậy, quá trình phát triển kinh tế xã hội trong nước tác động mạnh mẽ tới nguồn ngân sách đầu tư của nhà nước và việc tạo lập môi trường cho sự phát triển của các nhà đầu tư tư nhân, góp phần nâng cao nguồn vốn của cả 2 khu vực. Vì vậy trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật, các cơ quan lập pháp cần chú ý tới những biến động trong mối trường kinh tế xã hội nhằm có các biện pháp ứng phó, điều chỉnh kịp thời, đảm bảo hài hòa lợi ích của cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển hạ tầng quốc gia thông qua các dự án PPP.

2.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường quốc tế

Bên cạnh các yếu tố môi trường trong nước, các yếu tố thuộc về môi trường quốc tế hiện nay cũng có tác động rất lớn tới công tác hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Cụ thể:

Quá trình toàn cầu hóa: Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa đã giúp Việt Nam mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa song phương và đa phương đặc biệt với các nước có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật bản, Hàn Quốc,… tạo cơ hội tiếp cận nguồn vốn, công nghệ tiên tiến trong xây dựng cũng như học hỏi, trao đổi kinh nghiệm xây dựng bộ máy, cơ chế vận hành trong trong mối quan hệ đối tác PPP và lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội hợp tác, thu hút nhiều nhà đầu tư

vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, với nhiều dự án có số lượng đầu tư lớn như BOT cầu Cỏ May, BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ,…

Hình 12: Đánh giá mức độ tác động của quá trình toàn cầu hóa

Theo đánh giá chung, quá trình toàn cầu hóa tác động khá lớn tới công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng với 3,91 điểm đánh giá (trong đó, 3,8; 3,95 lần lượt là điểm đánh giá của đơn vị quản lí nhà nước và nhà thầu tư nhân). Có tới 42.42% những người được hỏi trong đơn vị quản lí nhà nước và nhà thầu tư nhân lựa chọn mức độ tác động cao nhất của quá trình toàn cầu hóa, chỉ một số ít còn lại cho rằng yếu tố này chỉ tác động ở mức trung bình thấp. Thật vậy, quá trình toàn cầu hóa đã ảnh hưởng không hề nhỏ tới mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung và thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng, đây vừa là động lực vừa là mục tiêu cần đạt được, các quy định được ban hành phải phù hợp với các thông lệ, điều ước quốc tế, vừa phải đảm bảo thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào các sân chơi chung của thế giới.

Sự phát triển kinh tế thế giới:

Năm 2015, nền kinh tế thế giới đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ bằng một loạt các động thái của các quá trình liên kết, hội nhập kinh tế. Cụ thể liên kết tài chính liên quốc gia - Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), thành lập theo đề nghị của Trung Quốc. Đầu tháng 12-2015, Mỹ tiếp tục đạt thành quả trong ý tưởng đối trọng với Trung Quốc về kinh tế thương mại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương với 11 nước thành viên khu vực đã được ký kết. Đây được xem là hiệp định của thế kỷ, TPP quy tụ các quốc gia đang nắm giữ tới 40% GDP toàn cầu và có thể giúp kinh tế toàn cầu gia tăng thêm 300 tỷ USD mỗi năm. TPP cũng là hiệp định thương mại mới nhất kể từ khi thành lập WTO, vượt xa khuôn khổ thương mại hàng hóa và dịch vụ, hình thành các dây chuyền sản xuất toàn cầu, tăng năng suất và khả năng cạnh tranh của các quốc gia thành viên...

Tuy nhiên, điều này làm suy yếu nền tảng WTO và có khả năng sẽ điều chỉnh các vấn đề trọng yếu của hợp tác kinh tế đương đại. Các quốc gia không nằm trong hiệp hội khu vực mới sẽ phải tuân theo luật chơi mới của các nước lớn, mặc dù điều này có thể không phù hợp với lợi ích của họ và các nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nhìn chung, phúc lợi kinh tế từ một hiệp định thương mại song phương của một nền kinh tế phát triển và đang phát triển thường không lớn nếu tính theo con số tuyệt đối. Những điều này đòi hỏi các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam phải thay đổi, bổ sung định hướng, chiến lược trong thể chế về đối tác PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng để phù hợp với tiến trình hội nhập này.

Hình 13: Đánh giá mức độ tác động của sự phát triển kinh tế thế giới

Với 3,51 điểm đánh giá, chủ yếu những người được hỏi tại các nhà thầu tư nhân đều cho rằng, yếu tố kinh tế thế giới có tác động mạnh mẽ tới hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung đầu tư triệt để cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Thấp hơn so với mức đánh giá của nhóm đối tượng này, ở mức 3,38 điểm trung bình, phần trăm những người được hỏi đánh giá cao độ tác động trong đơn vị quản lí nhà nước chỉ đạt 42,85% (ít hơn mức 47,895 so với nhà thầu tư nhân). Tựu chung lại, về cơ bản, tất cả đối tượng khảo sát đều đánh giá cao mức độ tác động của sự phát triển kinh tế thế giới, đặc biệt, đối với các nhà thầu tư nhân, họ kì vọng các quy định trong

tương lai sẽ đạt được hiệu quả trong việc thúc đẩy quá trình hợp tác, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài vào nền kinh tế Việt Nam nhằm giải quyết các vẫn đề nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp này.

Sự phát triển khoa học công nghệ: Trước hết, sự phát triển của nền khoa học công nghệ thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ thế giới phục vụ cho sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng. Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam điển hình như: công nghệ xây dựng cầu đường đã góp phần đưa các ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình độ của thế giới trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự đầu tư, liên doanh, liên kết của các nước tiên tiến có nền khoa học và công nghệ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo với các đối tác nước ngoài giúp cho các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có cơ hội tiếp cận với khoa học và công nghệ cao mà qua đó từng bước thu hẹp khoảng cách về kiến thức, kỹ năng nghiên cứu phát triển cũng như nâng cao khả năng tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ góp phần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ những người làm khoa học hiện có và phát triển đội ngũ các nhà khoa học công nghệ trẻ kế tục sự nghiệp phát triển nền khoa học và công nghệ quốc gia ngày càng hiện đại hơn. Sự phát triển này, đòi hỏi các cơ quan lập pháp phải xây dựng hệ thống các quy định phù hợp với những thay đổi trong công nghệ như thay đổi thời gian thẩm định, thay đổi quy định về tiêu chuẩn, kết cấu dự án,…

Hình 14: Đánh giá mức độ tác động của sự phát triển khoa học công nghệ

Căn cứ vào kết quả khảo sát, vơi 4,77 điểm trung bình, yếu tố phát triển khoa học công nghệ được đánh giá. Mặc dù được đánh giá có tác động rất mạnh tới quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam hiện nay. Với 80.99% số người được hỏi tại các nhà thầu tư nhân tham gia quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, yếu tố phát triển khoa học công nghệ trên thế giới được đánh giá ở mức 4,78 điểm, cao hơn kết quả điều tra tại các đơn vị nhà nước với 4,75 điểm trung bình, tương ứng với chỉ có 76.79% số người được hỏi đánh giá cao mức độ tác động của yếu tố phát triển khoa học công nghệ tới kết quả công tác hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng. Căn cứ trên kết quả xác định mức độ tác động, trong quá trình hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, cơ quan lập pháp cần chú trọng sự thay đổi của khoa học, đặc biệt là các phát minh, cải tiến trong lĩnh vực xây dựng nhằm có các biện pháp điều chỉnh phù hợp với các vấn đề phát sinh liên quan tới yếu tố này, góp phần đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động triển khai thực hiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng trên thực tế.

2.3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

2.3.1. Thực trạng áp dụng thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Trong gần 20 năm qua, kể từ khi ban hành và áp dụng hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, Việt Nam đã thực hiện rất nhiều dự án hợp tác công - tư khác nhau, chiếm

tỷ phần chủ yếu là hình thức BOT và BOO. Đặc biệt, sau khi Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP được ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 15/1/2011 và Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư, có hiệu lực kể từ ngày 10/04/2015 đã thu hút sự chú ý của giới đầu tư trong và ngoài nước vào mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Chính phủ đã giao cho Bộ Giao thông Vận tải thực hiện thí điểm mô hình PPP ở dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết thành lập tổ công tác liên ngành với sự tham gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để triển khai dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới (WB). Ngày 9/9/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Văn bản số 1482/TTg-KTN, giao Tập đoàn Bitexco lập dự án đầu tư dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết - với tổng mức kinh phí lên tới 14.355 tỉ đồng, thời gian thi công 36 tháng theo mô hình PPP. Đây là cũng là dự án trọng điểm nằm trong hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, có tổng chiều dài gần 100km. Thiết kế đường cao tốc này thuộc loại A, vận tốc thiết kế 120km/h, mặt cắt ngang đường 33 mét gồm 6 làn xe, phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 là 4 làn xe.

Việc thi hành các văn bản quy định về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trong những năm qua đã thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư công mà điển hình là chính sách BOT, BTO, BT và nhiều chính sách khác nhằm giải quyết nhu cầu lớn về vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, bởi cho đến nay một cơ chế cụ thể nào hay một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào được chỉ định đánh giá, tổng kết đầy đủ về tình hình thực hiện các dự án đầu tư đầu tư BOT, BTO, BT, vì vậy việc thu thập số liệu, tổng kết, đánh giá, diễn ra manh mún, nhỏ lẻ, gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong tiếp cận, phân loại, sử dụng số liệu và tài liệu, cũng như phản ánh đầy đủ và đúng mực thực tế loại hình dự án này. Trong một nỗ lực gần đây nhất vào năm 2012, các số liệu từ các địa phương và các bộ ngành trong lĩnh vực này mới được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành thanh kiểm tra và tổng hợp.

Theo đó tính đến thời điểm 31/12/2010 theo báo cáo từ 48 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và một số Bộ, có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và 02 Bộ có dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT. Tổng số dự án là 384 dự án đầu tư với tổng số vốn đầu tư là 1.114.663 tỷ đồng đã được cấp phép và kêu gọi đầu tư. Trong đó: Phân loại theo hình thức đầu tư: Dự án BOT: 129 dự án với tổng số vốn đầu tư 604.389 tỷ đồng; Dự án BTO: 02 dự án với tổng số vốn đầu tư 918 tỷ đồng; Dự án BT: 211 dự án với tổng số vốn đầu tư 324.129 tỷ đồng; Dự án BT kết hợp với BOT: 42 dự án với tổng số vốn đầu tư 185.227 tỷ đồng

Hình 15: Cơ cấu tổng vốn đầu tư dự án PPP

Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư

Xét về tổng số vốn đầu tư: Xây dựng công trình giao thông chiếm 50,52%; Xây dựng nhà làm việc, khu công nghiệp, khu đô thị và các dịch vụ công khác chiếm 3,76%; Xây dựng nhà máy điện, đường dây tải điện 32,81%; Xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải , chất thải và cải tạo môi trường chiếm 12,51 tổng số vốn và xây dựng hệ thống nước sạch chiếm 0,4%. Còn phân theo lĩnh vực đầu tư: Xây dựng công trình giao thông: 254 dự án với tổng vốn đầu tư 563.114 tỷ đồng; Xây dựng hệ thống cấp nước sạch: 08 dự án với tổng vốn đầu tư 4.490 tỷ đồng; Xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải và cải tạo môi trường: 50 dự án với tổng vốn đầu tư 139.403 tỷ đồng; Xây dựng nhà máy điện, đường dây tải điện: 13 dự án với tổng số vốn đầu tư 365.720 tỷ đồng; Xây dựng nhà làm việc, khu công nghiệp, khu đô thị và

dịch vụ công cộng khác: 59 dự án với tổng vốn đầu tư 41.935 tỷ đồng. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài: mặc dù khung pháp lý cho việc thu hút nguồn vốn này theo hình thức BOT, BTO, BT được ban hành không chậm hơn nhiều so với đầu tư trong nước, từ năm 1998 đến nay cũng chỉ có 10 dự án BOT được cấp phép và đang hoạt động, với tổng số vốn đầu tư 5,9 tỷ USD, một con số rất khiêm tốn so với nhu cầu.

Đặc biệt trong lĩnh vực giao thông, Chỉ riêng số vốn huy động ngoài ngân sách nhà nước cho các dự án giao thông đầu tư theo hình thức PPP thực hiện theo dạng thức hợp đồng BOT, BT tăng mạnh qua các năm và con số lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm: năm 2013 huy động được 68.563 tỷ đồng cho 24 dự án; dự kiến trong năm 2015 này, số vốn huy động được ngoài ngân sách nhà nước là 45.000 tỷ đồng và cả giai đoạn 2016 - 2020 là khoảng 235.000 tỷ đồng.

Về nguyên tắc, BOT, BT là hình thức huy động vốn tư nhân để xây dựng công trình, sau đó doanh nghiệp được phép thu phí (trường hợp BOT) hoặc được giao đất để thực hiện một dự án khác (trường hợp dự án BT) để hoàn vốn và thu lãi với mức lãi suất 6% theo quy định. Tuy nhiên hiện nay, trong quá trình triển khai các quy định vào thực tế, có đến 80% dự án BOT có quy mô lớn đã bị thay đổi so với các tiêu chuẩn. Một số dự án quan trọng lại phải chuyển sang dùng ngân sách của nhà nước, một số khác lại tuy đã thực hiện xong nhưng khi cân đối lợi ích giữa nhà đầu tư với hiệu quả xã hội thì lại phải thay đổi phương thức. Ví dụ tp Hồ Chí Minh đã phải mua lại dự án BOT cầu Phú Mỹ, dự án BOT liên tỉnh lộ 10 năm - giai đoạn 2 thay vì huy động được vốn tư nhân, thành phố Hồ Chí Minh lại phải mua lại với giá cao và gánh nợ cho nhà đầu tư. Trên thực tế, các dự án chủ yếu được chính phủ là trao cho các doanh nghiệp quốc doanh trên cơ sở đàm phán mà không phải đấu thầu cạnh tranh, các doanh nghiệp này trong nhiều trường hợp chưa thiết lập nghiên cứu khả thi cụ thể và còn dựa hoàn toàn vào bảo lãnh của chính phủ để huy động vốn. Thêm vào đó, trong các quy định, hầu hết các dự án BOT, BT đều do doanh nghiệp tự đề xuất, nên nhà nước ở vào thế bị động. Đây là những lý do khiến các dự án BOT, BT của Việt Nam không được thực hiện hiệu quả. Ngoài ra, các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT đã được triển khai từ cách đây gần 20 năm nhưng sự hưởng ứng của các nhà đầu tư tư nhân còn rất hạn chế. Đầu tư của tư nhân vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam có quy mô chưa tới 10 tỷ USD, thấp hơn rất nhiều giá trị đầu tư của tư nhân vào các nước trong khu vực. Trong tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt hợp đồng BTO, BOT, BT chỉ chiếm 0.09% (14 dự án).

Việc áp dụng các quy định trong đầu tư và phát triển các dự án PPP cơ sở hạ tầng ở Việt Nam chưa đảm bảo tính khả thi lâu dài về mặt tài chính, vốn chủ sở hữu trong nhiều dự án chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu dựa vào vốn vay, ví dụ dự án cầu Phú Mỹ, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm trên 20% tổng đầu tư, còn lại là vốn vay và huy động, trong đó phần lớn do chính phủ bảo lãnh. Tương tự, dự án mở rộng xa lộ Hà Nội, dự án cầu Rạch Chiếc mới, dự án mở rộng liên tỉnh lộ 25B... vốn tự có của công ty cũng chỉ khoảng 20%, số còn lại vay của ngân hàng, do vậy số tiền đầu tư bao gồm cả lãi vay trong thời gian thi công đội lên rất nhiều, từ 36% lên đến 250%, thời gian thu phí phải kéo dài và người dân sẽ phải đóng toàn bộ số tiền này. Hình thức đầu tư BOT, BTO, BT hiện cũng đang vấp phải nhiều khó khăn do khan hiếm quỹ đất. Thực hiện dự án BT hiện nay cũng không còn hấp dẫn như trước vì quy định thời điểm thanh toán, thời điểm xác định giá trị quyền sử dụng đất, các doanh nghiệp phải lợi dụng được vốn từ dự án khác thì mới có vốn thực hiện dự án.

Nghị định số 15/2015/NĐ-CP tuy đã khắc phục được khá nhiều hạn chế hạn chế của các văn bản pháp luật trước đây về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tuy nhiên các quy định về

cơ quan giải quyết tranh chấp giữa cơ quan Nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài chưa tạo ra được cơ chế hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia do khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia, họ cần được Chính phủ Việt Nam bảo đảm quyền lợi cũng như cần nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp minh bạch và hiệu quả khi có tránh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, việc áp dụng chủ yếu hình thức chỉ định nhà đầu tư đã ảnh hưởng đến tính minh bạch, cạnh tranh, hạn chế khả năng lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tốt nhất, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính và kinh nghiệm quản lý. Thực tế cho thấy, hầu hết nhà đầu tư trong nước được chỉ định thực hiện dự án chỉ là nhà thầu xây dựng nên năng lực về tài chính hạn chế, không có khả năng thu xếp vốn, dẫn đến tình trạng không ít dự án phải bỏ dở, trả lại cho nhà nước. Nghị định số 15/2015/NĐ-CP quy định về phương hướng giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài (Khoản 2 Điều 63) quy định rõ: Tranh chấp giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp dự án do nhà đầu tư nước ngoài thành lập theo quy định tại Điều 42 Nghị định này trong quá trình thực hiện hợp đồng dự án và các hợp đồng bảo lãnh theo quy định tại Điều 57 Nghị định này được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Tòa án Việt Nam hoặc hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập. Tuy nhiên, việc quy định hạn chế cơ quan giải quyết tranh chấp “Tòa án Việt Nam” hoặc “Trọng tài Việt Nam” hoặc “Hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập” đã có phần ưu đãi cho “cơ quan có thẩm quyền” trong quan hệ tranh chấp, từ đó làm giảm hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý định tham gia đầu tư vào quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Như vậy, Việt Nam cần cân nhắc việc tham gia vào Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền miễn trừ tài phán quốc gia và miễn trừ tài sản của quốc gia cũng như việc tự xây dựng những quy định của quốc gia về vấn đề miễn trừ tư pháp quốc gia và cách thức áp dụng phù hợp trong mối quan hệ giữa quốc gia và quốc tế ngày càng lớn mạnh và phát triển đa dạng trong các mối quan hệ dân sự, thương mại...

2.3.2. Thực trạng công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

2.3.2.1. Thực trạng thực hiện quy trình xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại Việt Nam

Phân tích chính sách hiện hành và thực trạng các dự án PPP cơ sở hạ tầng. Hiện nay, hoạt động phân tích, đánh giá quy định, chính sách đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là một trong những công đoạn quan trọng của quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong thời gian qua, hoạt động phân tích hệ thống quy định, chính sách hiện hành liên quan tới quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng. Một số quy định, chính sách quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành, đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống quy định, chính sách PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng như đường giao thông, các cơ sở dịch vụ công cộng,… Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước sự phát triển của toàn cầu và khu vực.

Hình 16: Đánh giá chất lượng công tác phân tích chính sách và thực trạng các dự án PPP

Nhìn chung, đánh giá về các yếu tố thuộc chất lượng công tác phân tích chính sách và thực trạng các dự án PPP cơ sở hạ tầng của cả 2 nhóm đối tượng đều có sự tương đồng. Trong đó, với điểm trung bình 3,92, yếu tố mức độ nhận thức tầm quan trọng của bước phân tích chính sách hiện hành trong toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách được đánh giá ở mức cao nhất. Tầm quan trọng của hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP cơ sở hạ tầng đã được nhận thức một cách đúng đắn, được thể hiện trong việc hoạt động này được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các nghị định, thông tư của Chính phủ cũng như của các bộ quản lí chuyên ngành,... Nhận thức được tầm quan trọng này, các cán bộ, công chức thực hiện hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP phát triển cơ sở hạ tầng trong bộ máy cơ quan nhà nước đã đầu tư thực hiện hoạt động một cách triệt để, kĩ lưỡng nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Yếu tố được đánh giá cao tiếp theo trong hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP là việc thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục theo luật định. Theo đó, đối với từng mức độ, phạm vi điều chỉnh, các quy định pháp luật sẽ được xây dựng bởi cơ quan nhà nước tại trung ương hay địa phương, mọi hoạt động trong quá trình phân tích, đánh giá phải đảm bảo tính khách quan và theo đúng trình tự thực hiện được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. Bên cạnh 2 yếu tố trên, tính đầy đủ, kịp thời của hoạt động phân tích, đánh giá hiện trạng chính sách và các dự án PPP cơ sở hạ tầng đang triển khai cũng được đánh giá khá cao, với 52,02% và 52,78% số người được hỏi trong nhóm các nhà thầu tư nhân và đơn vị quản lí nhà nước hoàn toàn đồng ý với nhận định hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP cơ sở hạ tầng được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động phân tích chính sách vẫn chưa được áp dụng rộng rãi, chuyên nghiệp và hiệu quả, chưa có nhiều những báo cáo phân tích chính sách đầy đủ, hoàn thiện, hay thực hiện với một quy trình chuyên nghiệp.Nhìn chung, việc thiếu sót những quy định về trình tự, thủ tục hoạch định và phân tích chính sách đã dẫn tới khó khăn trong phối hợp hành động; hoặc thậm chí xây dựng một chương trình cho một chính sách không có tính khả thi. Nhà nước không nên quyết định theo đuổi một chính sách mà không được quyết định dựa trên cơ sở một nghị trình chuẩn bị nghiêm túc, cũng như không nên quyết định đưa vào chương trình nghị sự một chính sách mà có ít khả năng được thông qua hoặc khó triển khai thực hiện.

Theo đánh giá của nhóm đối tượng thuộc nhà thầu tư nhân, tính đúng đắn và hiệu quả của hoạt động phân tích chính sách hiện nay còn khá thấp với số điểm dưới mức trung bình lần lượt là 2,99 và 2,89. Ngay tại chính các đơn vị quản lí nhà nước tham gia quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cũng chỉ đánh giá 2 yếu tố này ở mức điểm khiêm tốn là 3,2 và 3,29 điểm. Điều này cho ta thấy, mặc dù hoạt động phân tích chính sách và và dự án PPP hiện hành nhằm tìm ra các hạn chế, bất cập đã được nhận thức một cách đúng đắn, cũng như được thực hiện theo đúng quy định trình tự của pháp luật, tuy nhiên hiệu quả đem lại không được như mong đợi. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới tình trạng này?. Đây là câu hỏi đòi hỏi các nhà quản lí cần tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục, nhằm cải thiện chất lượng hoạt động chính sách nói riêng và toàn bộ hoạt động xây dựng thể chế nói chung.

Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách. Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã có nhiền tiến triển vượt bậc. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới, nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn, nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao

và phát huy trên thực tế. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản, các Bộ, ngành, các cơ quan quản lí tại địa phương đã tích cực, chủ động trong việc huy động các chuyên gia, nhà quản lý, đặc biệt là phát huy vai trò của một số thành viên Tổ biên tập dự án luật, Ban soạn thảo để tham gia xây dựng kế hoạch cũng như văn bản quy định chi tiết, đảm bảo sự thống nhất và tính tiếp nối, phù hợp của các văn bản quy định chi tiết với tinh thần của luật, pháp lệnh. Bên cạnh đó, vai trò của tổ chức pháp chế Bộ, ngành cũng đã được quan tâm, tăng cường hơn, kỹ thuật, ngôn ngữ soạn thảo cụ thể, rõ ràng.

Hình 17: Đánh giá chất lượng Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách

Theo kết quả kháo sát điều tra, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hiện nay được đánh giá ở mức khá cao, giao động từ 3,59 đến 4,14 điểm đánh giá. Đối với yếu tố đảm bảo tính thường xuyên liên tục có tới 44.95% số người được hỏi đánh giá ở mức rất cao mức độ đạt được của yếu tố này, hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng được thực hiện thường xuyên, đầy đủ, đảm bảo tính cập nhật với sự thay đổi của các yếu tố tác động thuộc môi trường trong và ngoài nước. Trong đó, đánh giá tại các đơn vị nhà nước có phần cao hơn so với các nhà thầu tư nhân với mức điểm lần lượt là 4,14 và 4,09. Tương tự bước phân tích chính sách hiện hành, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy định cũng được đánh giá đã tuân thủ theo đúng trình tự được pháp luật quy định, đảm bảo tính hệ thống, chuẩn mực của các hoạt động trong khuôn khổ công tác hoàn thiện pháp luật. Mặc dù được thấp hơn các yếu tố khác, ở mức 3,59, tuy nhiên so với mức trung bình tính kịp thời trong hoạt động này cũng đạt được mức khá cao trong sự đồng thuận của những người được hỏi cho rằng hoạt động xây dựng và hoàn thiện xây dựng chính sách hiện nay đã tương đối kịp thời.

Cũng trong nhóm các yếu tố chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, với 3,62 điểm trung bình, hầu hết những người được hỏi đều cho rằng trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện chính sách được phân chia rõ ràng, khoa học. Hiện nay, trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng được phân chia cho các cơ quan trung ương và cơ quan tại địa phương với từng mức độ và nhiệm vụ cụ thể đối với từng phạm vi và tính chất của quy định. Về cơ bản, trách nhiệm của cơ quan trung ương và địa phương đã được quy định cụ thể, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quản lí đã được khắc phục triệt để. Mỗi cấp đã tự có ý thức trong việc chủ động khắc phục những khó khăn hạn chế trong quá trình xây dựng.

Tuy nhiên, cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ.

Hướng dẫn thực hiện các quy định. Trong những năm gần đây, công tác hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lí quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được quan tâm và triển khai một cách đồng bộ. Căn cứ trên các nghị định, các văn bản luật được ban hành như Luật Đấu thầu (2013), Luật Xây dựng (2014), Nghị định 15/2015/NĐ- CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư,… Chính phủ và bộ quản lí chuyên ngành đã tiến hành xây dựng và triển khai nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết đi kèm,

một số văn bản có thể kể đến như Thông tư 06/2016/TT-BKHĐT ban hành ngày 28/06/2016 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Thông tư 02/2016/TT-BKHĐT do Bộ Kế Hoạch Đầu Tư ban hành ngày 01/03/2016 hướng dẫn lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Cùng với đó, Bộ Giao Thông Vận Tải ban hành 2 văn bản hướng dẫn bao gồm văn bản 8746/BGTVT-ĐTCT ngày 29/07/2016 nhằm hỗ trợ thực hiện thủ tục điều chỉnh dự án, điều chỉnh thiết kế cơ sở, TMĐT, điều chỉnh hợp đồng dự án BOT, BT do Bộ GTVT quản lý và văn bản 9567/BGTVT-ĐTCT ngày 17/08/2016 hướng dẫn thực hiện điều chỉnh dự án, điều chỉnh thiết kế cơ sở, TMĐT, và điều chỉnh hợp đồng dự án BOT, BT do Bộ GTVT quản lý; Nghị định 63/2014/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 26/06/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; Thông tư 166/2011/TT-BTC của Bộ Tài Chính ban hành ngày 17/11/2011 Thông tư quy định về quản lý, sử dụng chi phí chuẩn bị dự án và kinh phí hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình quản lý dự án; Quyết định 2777/QĐ-BGTVT của Bộ trưởng bộ Giao Thông vận Tải ngày 03/08/2015 Quy định V.v tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết và thực hiện các hợp đồng theo hình thức PPP, và nhiều văn bản khác. Chất lượng của văn bản quy định chi tiết thi hành so với những năm trước đây đã từng bước được nâng cao, giảm thiểu tối đa tình trạng quy định chung chung, mang tính nguyên tắc, khó thực hiện và đã tạo được cơ sở sở cho hoạt động thực thi và quản lí quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nội dung các văn bản phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; bảo đảm tính công khai, minh bạch, hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng tồn tại một số văn bản hành chính, điều hành quản lý (không phải là văn bản quy phạm pháp luật) của các Bộ, cơ quan ngang Bộ chứa đựng quy phạm pháp luật hoặc có nội dung không phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên, hay nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành chưa được giải quyết cơ bản và vững chắc.

Hình 18: Đánh giá chất lượng công tác hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định

Theo kết quả khảo sát, nhìn chung chất lượng công tác hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định không được đánh giá cao như các yếu tố khác, đặc biệt là tính hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức pháp luật của mọi người. Theo đó, yếu tố này chỉ đạt 2,94 điểm trung bình đánh giá (trong đó 3,05 và 2,9 lần lượt là điểm đánh giá của đơn vị quản lí nhà nước và nhà thầu tư nhân). Cùng tương đồng với mức đánh giá này, tính chủ động, nhiệt trình trong công tác hướng dẫn thi hành pháp luật cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình với 2,98 điểm từ nhà thầu tư nhân và 3,07 từ phía các cá nhân được hỏi trong đơn vị quản lí nhà nước. Tuy nhiên, Tính đầy đủ trong các thông báo và số lượng văn bản vẫn được đánh giá ở mức khá cao là 3,45 và 3,59 điểm trung bình đánh giá. Từ kết quả đánh giá này, ta có thể nhìn ra thực trạng, mặc dù số lượng văn bản hướng dẫn thi hành cũng như có đầy đủ thông cáo về việc áp dụng các văn bản pháp luật, tuy nhiên hiệu quả trong việc hướng dẫn thi hành các quy định vẫn chưa đạt được hiểu quả cao như mong đợi. Điều này có thể được giải thích một phần bởi sự kém hiệu quả trong công tác tuyên truyền, hướng dẫn của cán bộ quản lí cũng như công chức thực hiện nhiệm vụ trong quản lí quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện và khắc phục các nhược điểm trong hóa trình triền khai hướng dẫn thi hành pháp luật, giúp pháp luật nói chung và thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng thực sự đi vào thực tế.

Theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách. Trong thời gian qua, công tác theo dõi thi hành pháp luật được chính phủ cũng như lãnh đạo địa phương quan tâm và triển khai thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư số 03/2010/TT-BTP về Hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Qua công tác theo dõi đã đánh giá được thực trạng và hiệu quả thi hành pháp luật quản lí quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, từ đó kiến nghị xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành trong thời gian tới. Nhìn chung, công tác này đã mang lại những tác động tích cực đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đang tham gia vào quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc, tồn tại và hạn chế khi triển khai công tác này. Việc đánh giá tác động, khảo sát, tổng kết thực tiễn, lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành liên quan, lấy ý kiến đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản, hoạt động thẩm định, thẩm tra, trong một số trường hợp chưa được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Để theo dõi, đánh giá một lĩnh vực cần có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn cao trong lĩnh vực đó để có thể nghiên cứu, đánh giá, kiến nghị và tổng hợp, tuy nhiên trình độ, kĩ năng của cán bộ công chức hiện nay vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động quản lí vì vậy để theo dõi tất cả các lĩnh vực thuộc quyền quản lý là rất khó thực hiện.

Hình 19: Đánh giá chất lượng công tác theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách

Về cơ bản, các tiêu chí đánh giá chất lượng công tác theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách đều được đánh giá ở mức tương đối cao. Tương tự như các bước trên, tiêu chí tuân thủ theo đúng quy định về trình tự của hoạt động này được 198 người được hỏi đánh giá ở mức cao nhất với 3,44 điểm trung bình, trong đó mức đánh giá tại đơn vị quản lí nhà nước có phần cao hơn mức tại các nhà thầu tư nhân với số điểm lần lượt là 3,59 và 3,39. Tính chính xác cũng được đánh giá khá cao ở mức điểm trung bình 3,49 với 45,96% số người được hỏi hoàn toàn đồng ý với ý kiến hoạt động theo dõi đánh giá đã đảm bảo tính chính xác trong tiêu chuẩn, số liệu,… Tuy nhiên, trong các tiêu chí, hiện nay tính khách quan trong công tác theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách được đánh giá thấp nhất, chỉ với 3,15 điểm trung bình (trong đó 3,09; 3,18 lầm lượt là điểm đánh giá của nhóm đối tượng tại đơn vị quản lí và nước và nhà thầu tư nhân). Ở mức độ này, có thể coi tính khách quan vẫn đang là một trong những điểm hạn chế của công tác theo dõi và đánh giá. Các kết quả đánh giá vẫn còn mang đậm màu sắc chủ quan, phụ thuộc lớn vào trình độ và khả năng nhận thức vấn đề của người theo dõi. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, các đơn vị quản lí lĩnh vực quan hệ đối tác PPP cơ sở hạ tầng cần phân công công việc phù hợp với năng lực, trình độ của mỗi cán bộ công chức nhằm đảm bảo tính khách quan, cũng như tính chính xác trong việc đánh giá tình hình triển khai, thực hiện các quy định trên thực tế.

Bổ sung, khắc phục các hạn chế. So với các nhóm chỉ tiêu trên, công tác bổ sung, khắc phục các hạn chế của các văn bản hiện hành chỉ được đánh giá ở mức thấp. Trong đó, đa số những người nhận định đều cho rằng, hiện nay công tác ban hành bổ sung, khắc phục bất cập của văn bản quản lí quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng hiện hành còn diễn ra khá chậm, chưa đảm bảo tính kịp thời, điển hình như những bất cập trong quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về thí điểm đầu tư theo cơ chế đối tác công tư tồn tại suốt 4 năm, cho đến khi

nghị định 15/2014/NĐ-CP có hiệu lực. Điển hình như: Thứ nhất, tại khoản 2, Điều 9, quy chế thí điểm quy định: “Tổng giá trị phần tham gia của nhà nước không vượt quá 30% tổng mức đầu tư của dự án, trừ trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định”, trong khi đó, khoản 4, Điều 2 quy định: “Phần tham gia của nhà nước là tổng hợp các hình thức tham gia của nhà nước bao gồm: vốn nhà nước, các ưu đãi đầu tư, các chính sách tài chính có liên quan, được tính trong tổng mức đầu tư của dự án, nhằm tăng tính khả thi của dự án”. Như vậy, phần tham gia của nhà nước quá ít và lại càng ít hơn khi tính cả “các ưu đãi đầu tư, các chính sách tài chính khác có liên quan”. Thứ hai, tại khoản 8, Điều 2, quy chế thí điểm quy định: “Doanh nghiệp dự án là doanh nghiệp do nhà đầu tư thành lập theo quy định của pháp luật để quản lý và thực hiện dự án trên cơ sở giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng dự án”. Như vậy, khi ký hợp đồng dự án và được cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp mới, điều này không hợp lý. Tại sao những doanh nghiệp đã thành lập và hoạt động trong nhiều năm không được quản lý và thực hiện dự án, phải lãng phí thêm phần chi phí liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp mới và còn một số hạn chế khác. Điều này đã hạn chế rất nhiều hiệu quả hoạt động quản lí cũng như phát triển quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Hình 20: Đánh giá chất lượng công tác bổ sung, khắc phục các hạn chế

Một điểm sáng trong các tiêu chí đánh giá hoạt động này là việc về cơ bản Hạn chế, bất cập trong các văn bản đã được bổ sung, thay thế bằng các quy định khác phù hợp hơn với thực tế và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, các nhà thầu tư nhân đánh giá cao hơn mức 3,46 điểm trung bình là 3,51 điểm và tại các đơn vị quản lí nhà nước là 3,32 điểm. Tuy nhiên, các quy định mới chỉ dừng lại ở việc đáp ứng được việc khắc phục các hạn chế đã và đang tồn tại, trong khi đó, tình hình kinh tế, xã hội, khoa học trên thế giới ngày càng biến động và phát triển không ngừng. Đây chính là lí do tính toàn diện của các văn bản sau khi hoàn thiện chỉ đạt ở mức 2,96 điểm đánh giá trung bình (với 2,79 điểm đánh giá từ phía các nhà thầu tư nhân và 2,93 từ phía các cơ quan nhà nước). Vì vậy, trong hoạt động lập pháp, các cơ quan làm luật cần đảm bảo tính dự báo của các quy định, hạn chế tối đa tình trạng khi xảy ra sự cố mới xây dựng các quy định điều chỉnh.

Hiện nay, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng được quan tâm chú trọng ở hai cấp cơ quan tại trung ương và địa phương, các cơ quan soạn thảo tại hai cấp này đã chú trọng đến tính khả thi của văn bản, vì vậy về cơ bản các văn bản quy định chi tiết được ban hành đã bảo đảm sự phù hợp với thực tế. Để bảo đảm chất lượng văn bản, việc gắn kết giữa công tác tiền kiểm (kiểm soát thủ tục hành chính, thẩm định, thẩm tra) với công tác hậu kiểm (kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật) ngày càng được tăng cường.

Theo đó, đối với các cơ quan nhà nước tại trung ương tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP bao gồm Chính phủ, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, Cục quản lí đấu thầu, Văn phòng PPP cũng như sự tham gia quản lí lĩnh vực của Bộ Tài Chính và Ngân hàng nhà nước được đánh giá đã hoàn thành khá tốt các nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt cả quy trình.

Hình 21: Đánh giá chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các cơ quan nhà nước tại trung ương

Theo kết quả đánh giá, các cơ quan tại trung ương đã thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc. Cụ thể hầu hết người được hỏi đều cho rằng Chính Phủ Việt Nam đã xây dựng hệ thống thể chế đảm bảo tính định hướng chung để phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng (3,52) điểm trung bình), trong tiêu chí này, mức điểm đánh giá của nhà thầu tư nhân cao hơn mức tự đánh giá phía cơ quan nhà nước lần lượt là 3,54 và 3,48 điểm. Văn phòng PPP tại Trung ương cũng được đánh giá khá cao trong hiệu quả thực hiện công việc với 3,51 điểm đánh giá trung bình. Văn phòng PPP tại trung ương là đầu mối quan trọng trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp quốc gia, góp phần quan trọng trong bước hướng dẫn và triển khai thi hành pháp luật vào thực tế. Bên cạnh đó, Tổ công tác liên ngành PPP tại trung ương cũng được đánh giá đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp quốc gia được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư (3,3 điểm). Với 3,27 điểm đánh giá từ đơn vị quản lí nhà nước và 3,31 điểm từ các đơn vị nhà thầu tư nhân, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam được đánh quản lý và điều hành hiệu quả các quỹ tài chính hỗ trợ như PDF, VFG và IFF, góp phần tạo điều kiện vay vốn đầu tư cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Ngoài ra, các đầu tư các công trình dự án cấp quốc gia đã đảm bảo quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật, cũng như tham gia đóng góp ý kiến xây dựng trong các văn bản, đảm bảo tính dân chủ trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Theo số liệu thống kê, hiện nay các địa phương Việt Nam đang quản lý tổng cộng số 342 dự án trong đó có 38 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư là 25.675 tỷ đồng; có 79 dự án đang thẩm tra để cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư là 92.600 tỷ đồng. Để quản lí số dự án này, trong thời gian vừa qua, các cơ quan quản lí PPP tại địa phương đã không ngừng hoàn thiện hệ thống thể chế.

Hình 22: Đánh giá chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các cơ quan nhà nước tại địa phương

Theo kết quả khảo sát, về cơ bản trong các tiêu chí đánh giá chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các cơ quan nhà nước tại địa phương, các nhóm đối tượng được hỏi đều có điểm trung bình tương tự nhau và tương tự điểm trung bình và đều được đánh giá ở mức khá cao trong thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại địa phương mình. Trong đó, các cơ quan tại địa phương đã phối hợp chặt chẽ trong quy trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, từ phân tích chính sách tới bổ sung khắc phục các hạn chế của các chính sách đã ban hành. Trong đó, UBND các tỉnh, thành phố được đánh giá đã xây dựng, cụ thể hóa hệ thống thể chế phù hợp với đặc điểm và tình hình phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương với 3,76 điểm trung bình. Với 3,23 điểm đánh giá từ phía nhà thầu tư nhân và 3,21 điểm từ đơn vị quản lí nhà nước, hầu hết số người được hỏi đều cho rằng Tổ công tác liên ngành PPP tại địa phương đã đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp tỉnh được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư. Bên cạnh đó Nhà đầu tư các công trình dự án cấp tỉnh cũng được đánh giá đã chủ động, nhiệt tình tham gia vào quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật (3,63 điểm). Tuy nhiên, chỉ với 2,79 điểm, văn phòng PPP tại địa phương đang bị đánh giá chưa phát huy hết vai trò trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận

các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp tỉnh trở xuống. Căn cứ vào kết quả đánh giá này, các cơ quan quản lí chuyên ngành tại địa phương cần xác định rõ nhiệm vụ, đồng thời xây dựng cụ thể, chi tiết kế hoạch để thực hiện nhiệm vụ này.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

2.4.1. Thành công và nguyên nhân

Thành công

Tựu chung lại, trong thời gian qua, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã đạt được những thành công vượt bậc trong việc thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức khu vực tư nhân, cũng như quản lí các vấn đề liên quan tới lĩnh vực này. Cụ thể:

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam bao gồm các bộ và cơ quan quản lí chuyên ngành đã rất nỗ lực trong việc thực thi đường lối đổi mới, tạo lập môi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Thứ hai, cơ quan quản lí chuyên ngành tại địa phương đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, với các quy định phù hợp với đặc điểm và tình hình phát triển của địa phương, góp phần mở rộng nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng tại địa phương mình.

Thứ ba, xét một cách tổng thể, môi trường pháp lý được quan tâm và thường xuyên bổ sung theo hướng ngày càng đồng bộ và phù hợp với tình hình thực tế từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội đất nước. Thúc đẩy các tổ chức doanh nghiệp khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phục vụ cho các nhiệm vụ phát triển đất nước.

Thứ tư, bộ máy QLNN đã dần được kiện toàn theo hướng xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý và phân cấp mạnh hơn. Ngoài ra, cán bộ quản lý quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được quan tâm đào tạo, tiếp thu khoa học công nghệ, thực hiện dự án đạt nhiều tiến bộ.

Bên cạnh đó, các văn bản quản lí hiện hành đã đạt được thành công đáng kể trong việc khắc phục các hạn chế tồn tại của các văn bản trước đó. Điển hình như sự ra đời của nghị định số 15/2015/NĐ-CP đã giải quyết triệt để những bất cập tồn tại trong suốt 5 năm của Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg:

Thứ nhất, trong nghị định 71, Quy định phần vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư trong tổng mức đầu tư của dự án khá cao (vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư trong dự án phải đảm bảo tối thiểu bằng 30% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án), nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được.

Thứ hai, quy định giới hạn phần vốn tham gia của Nhà nước trong một dự án PPP không quá 30% tổng vốn đầu tư của dự án, mà không tính tới đặc thù của từng dự án, khiến một số dự án PPP tiềm năng, yêu cầu phần tham gia của Nhà nước vượt quá 30%, đã không được chấp nhận. Điều này đồng nghĩa với việc giới hạn phần tham gia của nhà nước không quá 30% tổng mức đầu tư của dự án, trong đó bao gồm cả giá trị của những ưu đãi đầu tư và chính sách

tài chính giành cho dự án trong khi đó, nếu chọn đầu tư theo hình thức BOT hoặc BTO theo nghị định 108, thì phần vốn của nhà nước tham gia có thể lên đến 49% tổng đầu tư của dự án. Phần vốn này của nhà nước cũng được dùng để xây dựng các công trình phụ trợ, bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư như trong quyết định 71.

Thứ ba, nghị định chưa quy định rõ phần tham gia vốn nhà nước trong dự án (nội dung, hình thức, điều kiện sử dụng) và mối quan hệ giữa phần vốn này với việc đảm bảo tính khả thi của dự án;

Thứ tư, chưa tính tới tiêu chí hấp dẫn về mặt thương mại của các dự án được xếp vào danh mục PPP để có thể đảm bảo khả năng tiếp cận tài chính từ các Bên cho vay, chưa đánh giá đúng mức, tầm quan trọng, vai trò của Bên cho vay;

Thứ năm, thủ tục, quy trình đầu tư thực hiện dự án PPP theo Quy chế thí điểm phải thực hiện nhiều khâu, nhiều bước, thông qua nhiều cấp có thẩm quyền phê duyệt hơn so với quy định của Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT;

Thứ sáu, chưa quy định về thời hạn, thời gian thực hiện các bước trình tự thủ tục; cũng như chưa tạo điều kiện ưu đãi cho Nhà đầu tư trong việc huy động vốn chưa được quan tâm, đặc biệt đối với các dự án xây dựng hạ tầng giao thông đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn.

Tất cả các hạn chế này đã được khắc phục trong các văn bản hiện hành, điều này đã góp phần không nhỏ trong việc cải tạo môi trường, thu hút sự quan tâm đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân.

Nguyên nhân thành công

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến chính là sự đối mới trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng của thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, đặc biệt trong thời kì hội nhập sâu rộng như hiện nay, việc phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia là điều kiện tất yếu và cơ bản để đáp ứng được nhu cầu của quá trình phát triển. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ chương, đường lối, chính sách hoạch định hướng đi cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nói riêng.

Nguyên nhân thứ hai, xu hướng toàn cầu hóa đã giúp Việt Nam mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa song phương và đa phương đặc biệt với các nước có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật bản, Hàn Quốc,… tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực quan hệ đối tác PPP và lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Điều này đã giúp Việt Nam rút ngắn con đường phát triển, đồng thời rút kinh nghiệm các hạn chế, từ đó tìm ra phương án phù hợp nhất với thực trạng phát triển của Việt Nam.

Nguyên nhân thứ ba, hiện nay, tính dân chủ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được mở rộng. Theo đó, trong quá trình làm luật, các nhà thầu tư nhân và cộng đồng đã chủ động và nhiệt tình hơn trong việc tham gia, xây dựng, đóng góp ý kiến. Điều này đã góp phần nâng cao tính khả thi, sát với thực tế của các quy định. Giúp các cơ quan làm luật tìm ra các bất cập, khó khăn, từ đó làm cơ sở để xây dựng phương án khắc phục kịp thời.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh các thành công đạt được, công tác hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong

phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay vẫn còn gặp một số hạn chế, bất cập. Cụ thể:

Chính sách, quy chế không ổn định hiện nay của Việt Nam khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn ái ngại, đặc biệt các hợp đồng PPP lại đòi hỏi Việt Nam phải có một khung pháp lý rõ ràng hơn, quy định chi tiết cụ thể hơn giúp các nhà đầu tư hoàn toàn yên tâm khi bỏ vốn vào lĩnh vực này. Tại các văn bản quy định về PPP đơn thuần, còn một số vấn đề liên quan đến đầu tư theo mô hình PPP dưới các dạng hợp đồng BT, BOT, BTO chưa được quy định cụ thể tại các văn bản nói trên trong việc sử dụng bảo lãnh của Chính phủ không rõ ràng; Trong nhiều lĩnh vực, thời hạn chuyển giao của các dự án PPP không được xác định; thiếu các quy định về điều kiện chuyển giao quyền sở hữu khi kết thúc thời hạn của loại hình BOT không rõ ràng; cũng như vắng bóng các quy định về vai trò của Chính phủ và của những cơ quan phát triển dự án và nhà đầu tư tư nhân trong việc chịu chi phí và rủi ro khi phát triển dự án hay việc điều chỉnh mức giá và lệ phí mà người sử dụng phải trả, mức dự trữ và quy đổi ngoại hối và chuyển ngoại tệ; Đảm bảo nợ vay và quyền được can thiệp của người cho vay trong trường hợp chậm trả nợ hoặc khi dự án hoạt động yếu.. Đến nay, Việt Nam chưa có luật về PPP nói chung và PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng như các nước khác, vì vậy Việt Nam còn thiếu các văn bản pháp lý cũng như các quy định hướng dẫn việc thực hiện PPP. Nghị định 108/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg còn nhiều vấn đề chồng chéo chưa tương thích. Chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể cho các Nghị định mới được ban hành: Nghị định số 15/2015/NĐ- CP về việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) và Nghị định 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Năng lực của cơ quan đầu mối PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng còn hạn chế: Các cơ quan này hầu như chưa đánh giá được hiệu quả và rủi ro của dự án cơ sở hạ tầng - cơ sở cho cả quá trình đàm phán và triển khai dự án sau này. Bên cạnh đó, năng lực đàm phán, quá trình ra quyết định, tổ chức và giám sát quá trình triển khai dự án chưa tốt, dẫn đến tình trạng bị nhà đầu tư dẫn dắt theo ý mình, hoặc thậm chí dẫn đến tiêu cực, tham nhũng.

Thực tế cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện thỏa đáng đã hạn chế trách nhiệm tài chính đối với các hỗ trợ tài chính của Chính phủ, cơ chế lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện các dự án PPP. Hiện nay, vấn đề mang tính quyết định đối với việc huy động các nhà đầu tư thực hiện mô hình PPP chính là cơ hội tìm kiếm lợi nhuận từ các dự án PPP. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp còn băn khoăn về ràng buộc bảo lãnh vốn vay của Chính phủ và tỷ lệ góp vốn 30-70 trong một dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Bên cạnh đó, các quy định về quy trình thực hiện: Các dự án PPP cơ sở hạ tầng có nguồn vốn đầu tư lớn và quy trình thực hiện phức tạp, đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có năng lực, kinh nghiệm trong quá trình chuẩn bị dự án tổ chức đấu thầu và đặc biệt phải có kỹ năng xây dựng hợp đồng và đàm phán hợp đồng đảm bảo rủi ro được chia sẻ công bằng cho nhà nước và tư nhân. Tuy nhiên hiện nay, công tác phân cấp, phân quyền trong xây dựng và quản lí hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng còn chưa được quy định cụ thể, vẫn còn xảy ra tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm trong công tác soạn thảo ban hành và chịu trách nhiệm khi có sự cố xảy ra.

Ngoài ra, công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập trong khâu xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, xác định tổng mức đầu tư, thẩm định dự án, lựa chọn nhà đầu tư, ký kết hợp đồng dự án, tính toán giá trị sử dụng đất, quyết toán đầu tư, theo dõi, quản lý dự án... cũng như việc thực hiện những chính sách hiện hành chưa thu hút được các nguồn vốn tư nhân

cũng như các nguồn vốn từ nước ngoài. Việc thiếu năng lực quản lý cũng như thể chế pháp luật liên quan, ví dụ chỉ khống chế thời gian thu phí mà không khống chế mức lợi nhuận của nhà đầu tư đã dẫn đến tình trạng các cơ quan nhà nước bị thua thiệt trong quá trình thương thảo hợp đồng với nhà đầu tư tư nhân dẫn đến thái độ ái ngại hay thiếu tự tin, và đây cũng là một trong những nguyên nhân cản trở huy động vốn của tư nhân trong các dự án BOT. Dự án cầu Cỏ May do công ty tư nhân Hải Châu thực hiện theo hình thức BOT trên quốc lộ 51 nối TP.HCM và Vũng Tàu được xem là một dự án “siêu lợi nhuận” trong ngành giao thông với các điều khoản không chặt chẽ ngay từ giai đoạn đàm phán (dự án không được đưa ra đấu thầu xây dựng và khai thác). Trong dự án này nhà đầu tư chỉ đầu tư một cây cầu nhưng lại được chính phủ cho thu phí cả tuyến đường với mức phí 15.000đ/lượt xe trong 15 năm. Thực tế chỉ sau 5 năm nhà đầu tư hoàn được vốn, dẫn đến nhà nước thất thu, mà người dân vẫn phải trả tiền. Năng lực quản lý yếu kém và thiếu thể chế pháp luật cũng là nguyên nhân xảy ra tình trạng doanh nghiệp tính sai làm đội giá công trình lên cao hơn thực tế nhiều, trong tổng số 1.543 tỷ đồng mức đầu tư được phê duyệt thì có đến 437 tỷ đồng do nhà nước tính sai, đội giá lên.

Ngoài ra, nhiều định chế tài chính quốc tế muốn nhà nước Việt Nam bảo lãnh cho vốn vay của các doanh nghiệp tư nhân khi thực hiện PPP, tuy nhiên Bộ KHĐT đã kiến nghị chính phủ từ chối yêu cầu này vì hai lý do: nếu chính phủ bảo lãnh với khoản vay của nhà đầu tư tư nhân trong nước sẽ gây bất bình đẳng với nhà đầu tư nước ngoài; và nếu bảo lãnh khoản vay với cả hai nhà đầu tư này sẽ không đạt được yêu cầu về giảm tỷ lệ nợ công. Nhìn chung, mặc dù ủng hộ PPP nhưng các nhà tài trợ thường có xu hướng dùng vốn tài trợ để gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình đề xuất dự án, lựa chọn tư vấn, lựa chọn nhà đầu tư không theo chương trình PPP của Việt Nam. Điều này đã cản trở rất nhiều sự đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân khi thực hiện PPP cơ sở hạ tầng hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc tế.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Nguyên nhân thứ nhất: Hàng năm, số lượng luật, pháp lệnh do Chính phủ chủ trì soạn thảo là tương đối lớn, thường chiếm trên 90% tổng số các dự án luật, pháp lệnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng phải ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đối với các luật, pháp lệnh do các chủ thể khác trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, do vậy, tạo ra sức ép công việc rất lớn cho công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Mặt khác, việc chuyển đổi tư duy pháp lý từ cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường còn chậm, chưa được triệt để, trong khi đó ở nhiều trường hợp, pháp luật cần phải đi trước để hình thành, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ xã hội, nhưng cả nhận thức và điều kiện tổ chức thực hiện trên thực tế còn rất nhiều khó khăn, hạn chế. Trong những năm gần đây, trước tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, một số Bộ, ngành phải tập trung chỉ đạo, điều hành để giải quyết, thực hiện các nhiệm vụ nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội nên mặc dù hoạt động xây dựng thể chế và thực hiện thể chế được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, nhưng trên thực tế, việc đầu tư thời gian, kinh phí và nguồn lực cho công tác xây dựng, thi hành pháp luật trong lĩnh vực PPP cơ sở hạ tầng còn chưa đáp ứng yêu cầu. Số lượng văn bản quy định chi tiết lớn, nhiều nội dung khó, phức tạp, do vậy đòi hỏi nhiều thời gian, công sức tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế nhưng thời gian vật chất dành cho việc ban hành văn bản thường chỉ từ 06 tháng đến một năm. Ngoài ra, do công tác hệ thống hóa văn bản QPPL chưa

được làm tốt vì vậy dẫn đến tình trạng các cơ quan ban hành văn bản đã không kịp thời phát hiện được những văn bản chồng chéo và cả những văn bản trái với pháp luật hiện hành.

Nguyên nhân thứ hai: Ý thức trách nhiệm, sự cương quyết để tổ chức thi hành luật, pháp lệnh ở một số ngành, lĩnh vực còn chưa thực sự cao. Kỷ luật, kỷ cương trong việc tổ chức triển khai thi hành luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết quản lí quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng còn chưa nghiêm; việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch triển khai thi hành các luật, pháp lệnh sau khi được ban hành còn chưa được chú trọng, chưa bảo đảm sự gắn kết liên tục giữa xây dựng và thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong quá trình soạn thảo, ban hành luật, pháp lệnh và triển khai thi hành, ban hành văn bản quy định chi tiết còn chưa rõ ràng, đặc biệt là trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm các điều kiện, các nguồn lực cho việc thi hành luật, pháp lệnh; trong khi đó thiếu cơ chế cụ thể để kiểm tra, giám sát việc thi hành ở từng bước, từng giai đoạn, đặc biệt là việc đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế - xã hội thực tế của văn bản được thi hành. Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ, khoa học. Một số trường hợp vẫn chưa thực sự chủ động phối hợp với các cơ quan của Quốc hội trong quá trình chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh.

Nguyên nhân thứ ba: Các Bộ, ngành còn chưa chú trọng đúng mức đến việc nghiên cứu, xây dựng chính sách pháp luật và các quan điểm, định hướng lớn của dự án luật, pháp lệnh hay các vấn đề khó, mới, liên quan nhiều ngành trong dự thảo nghị định để trình Chính phủ cho ý kiến trước khi soạn thảo và do vậy, dẫn đến kéo dài thời gian soạn thảo, thẩm định, trình ban hành văn bản. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế. Lực lượng cán bộ pháp chế tại các Bộ, ngành và địa phương còn mỏng, nhất là ở các cơ quan chuyên môn thuộccơ quan quản lí PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại cấp địa phương, năng lực trình độ còn nhiều bất cập như khả năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hay xây dựng một thiết chế thi hành pháp luật; khả năng tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước còn hạn chế. Chưa có cơ chế hợp lý cho việc đầu tư kinh phí, nguồn lực và cơ sở vật chất để triển khai các luật, pháp lệnh và xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh.Chưa triệt để áp dụng một số kỹ thuật mới trong soạn thảo, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, ví dụ như kỹ thuật một văn bản để quy định chi tiết nhiều nội dung được quy định tại một hoặc nhiều luật, pháp lệnh dẫn đến tình trạng một số cơ quan chủ trì soạn thảo phải xây dựng nhiều văn bản để quy định chi tiết thay vì chỉ cần xây dựng một văn bản.

Nguyên nhân thứ tư: Hiện nay, cơ chế giám sát ban hành văn bản chưa rõ ràng, thiếu toàn diện trong cơ chế kiểm tra, giám sát các dự án ban hành văn bản QPPL để bảo đảm không trái luật. Ví dụ, những người chịu tác động của văn bản, các cơ quan cấp dưới liên quan trong nhiều trường hợp đã không được tham gia vào quá trình thẩm định các văn bản, chính sách mà nếu áp dụng vào thực tế sẽ liên quan đến họ hoặc đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người dân nói chung đã dẫn đến việc xuất hiện nhiều văn bản thiếu tính thực tế và tính khả thi.

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

3.1.1. Định hướng phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự phát triển cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển đất nước, ngay từ đầu những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng. Chủ trương này đã được khẳng định trong các văn kiện quan trọng của nhiều kỳ Đại hội Đảng. Theo đó cần “Phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới giao thông vận tải, chú trọng phát triển vận tải đường biển, đường sông, đường sắt và hàng không quốc tế, phát triển giao thông nông thôn và miền núi. Tiếp tục hiện đại hoá mạng bưu chính quốc tế và trong nước; phủ sóng phát thanh và truyền hình khắp cả nước; phát triển ngành sản xuất thiết bị bưu điện”.

Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), Đảng tiếp tục chủ trương ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, nhất là sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thuỷ lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính- viễn thông”.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: “Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại”. Chiến lược coi đây là một trong ba đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị”; nêu rõ những công việc cần làm trong định hướng “Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XI cũng trình bày rõ: “Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước”... Tiếp sau đó, Nhiệm vụ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ là một trong ba khâu đột phá chiến lược được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI. Theo dự báo, trong vòng 10 năm tới, nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng thiết yếu tại Việt Nam... khoảng 400 tỷ USD. Trong khi đó, khả năng huy động các nguồn vốn nhà nước chỉ có thể đáp ứng khoảng 40 - 50% nhu cầu.

Theo đó, Ngày 16/1/2012, Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 cũng đã đưa ra quan điểm về KCHTKT như sau:

- Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có phân kỳ đầu tư, ưu tiên những dự án quan trọng tạo sự đột phá và có tác động lan toả lớn. Tăng cường công tác quản lý trong khai thác sử dụng công trình.

- Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý để thu hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đồng thời tiếp tục dành vốn nhà nước tập trung đầu tư vào các công trình thiết yếu, quan trọng, khó huy động các nguồn lực xã hội.

- Phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của toàn xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng góp, trước hết là trong thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa Nhà nước, người dân và nhà đầu tư.

- Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu

Trong những năm tới, nhằm mục tiêu nâng cao trình độ phát triển, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, một mặt, Việt Nam chủ trương dựa vào nội lực là chính trên cơ sở có các chiến lược và chính sách tạo được sự đồng thuận toàn xã hội để có sự tham gia đóng góp của mọi nguồn lực, nhất là các nguồn lực tư nhân. Mặt khác, tiếp tục thực hiện chính sách hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện để tranh thủ các nguồn lực.

Đồng thời phát triển các tuyến đường cao tốc, ưu tiên phát triển hệ thống đường bộ ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng trưởng, kết nối với các địa phương, vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo ra tác động lan tỏa mạnh, thúc đấy tăng trưởng của cả nước; Xây dựng mới, hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của một số cảng biển nước sâu của quốc gia; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn; Xây dựng một số sân bay quốc tế; Nâng cấp và xây mới một số tuyến đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị, kể cả metro ở một số thành phố lớn; Nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng ở các đô thị, nhất là các thành phố lớn; Phát triển nhanh hệ thống nguồn điện, lưới điện truyền tải và phân phối đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất nước và đời sống nhân dân; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời,...); hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, các công trình phòng chống thiên tai và hiện đại hóa hệ thống thông tin, để đáp ứng yêu cầu phát triển và giảm nhẹ thiên tai.

Trong đó, các dự án, chương trình tập trung vào việc hỗ trợ cải thiện đời sống và sinh kế của người dân địa phương, hỗ trợ giải quyết các vấn đề bức xúc trong quá trình đô thị hóa nhanh ở các tỉnh (cấp thoát nước, xử lý rác thải, phát triển giao thông nội đô, giải quyết nhà ở cho người nghèo...). Cùng với phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ cần coi trọng phát triển chính sách và thể chế quản lý cơ sở hạ tầng nhằm phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường, cung cấp cho xã hội các dịch vụ công có chất lượng với giá cả cạnh tranh.

3.1.2. Định hướng phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, Chính phủ Việt Nam xác định việc huy động nguồn vốn từ khối doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước là hết sức cần thiết cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Theo đó, cần xây dựng các quy định pháp

lý liên quan về chính sách xã hội hóa, kêu gọi đầu tư cũng như các quy định trong việc quản lý đầu tư xây dựng theo các hình thức đầu tư khác nhau nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng GTVT đã được ban hành, đặc biệt là theo mô hình BOT và hợp tác công - tư (PPP). Tiếp tục tạo điều kiện cho mọi tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chú trọng áp dụng hình thức hợp tác công tư (PPP) đối với dự án phát triển mới có quy mô lớn để có thể đáp ứng nhu cầu. Đồng thời các Bộ, các Cục quản lí chuyên ngành “mở cửa”, tích cực kêu gọi nhà đầu tư, ưu tiên sử dụng vốn cho các dự án theo hình thức quan hệ đối tác công tư. Đồng thời ưu tiên thu hút vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp đối với các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ giao thông vận tải, đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, … Sử dụng nguồn lực huy động từ khu vực tư nhân như nguồn vốn bổ trợ nhằm khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua nhiều mô hình và phương thức khác nhau trong đó có hợp tác công - tư (PPP).

- Đối với khối doanh nghiệp tư nhân trong nước

Nhằm thu hút các nguồn lực từ phía khu vực tư nhân trong nước, Nhà nước tiếp tục xây dựng các chính sách khuyến khích như giảm thuế, hỗ trợ chi phí,…. Đồng thời xây dựng môi trường phát triển kinh tế lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh và phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Đồng thời thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng.

+ Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các hình thức dự án PPP có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài áp dụng cho tất cả các kết cấu hạ tầng có tính chất chủ yếu phục vụ cộng đồng rộng rãi hoặc có tính chất tạo đột phá chiến lược.

Riêng đối với phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành kết hợp với bộ Giao Thông Vận tải xây dựng Đề án Tái cơ cấu ngành giao thông vận tải phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững (Quyết định số 1210/QĐ-TTg năm 2014), Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng và phê duyệt các đề án để chi tiết hóa các chủ trương, giải pháp thu hút đầu tư ngoài ngân sách vào hoạt động xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng(trong nước và nước ngoài). Cụ thể:

+ Hoàn thiện chính sách phí và giá dịch vụ tiếp cận thông lệ quốc tế, minh bạch rõ ràng, trong đó bao gồm việc xây dựng phí sử dụng hạ tầng đối với đường thủy, đường sắt, đường bộ cao tốc, luồng hàng hải để thu hút đầu tư và hoàn vốn.

+ Tăng cường năng lực cho cơ quan đầu mối quản lý hoạt động PPP tại Bộ GTVT, hướng tới xây dựng một đơn vị chuyên trách và tương đối độc lập về xúc tiến dự án PPP. Lập quỹ hoặc nghiên cứu cơ chế tạo nguồn vốn xúc tiến các dự án PPP để lập dự án đầu tư có chất lượng, phù hợp quốc tế, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.

+ Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế về triển khai dự án PPP, đặc biệt là đối với việc đa dạng hóa các hình thức hoàn trả chi phí dự án, kinh nghiệm đàm phán hợp đồng, nghiên cứu chính sách và cơ chế liên quan đến bảo lãnh doanh thu, tái cấp vốn cho giai đoạn vận hành các dự án PPP về xây dựng hạ tầng giao thông.

+ Triển khai nghiên cứu xây dựng các mô hình chuyển nhượng và quản lý sau chuyển nhượng đối với các dự án chuyển nhượng quyền quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng (O&M) đặc thù riêng từng chuyên ngành giao thông.

+ Nghiên cứu và đề xuất khả năng cho phép vốn nước ngoài được tham gia rộng hơn đối với một số lĩnh vực kinh doanh hạ tầng và dịch vụ giao thông vận tải đang có quy định về tỷ lệ nắm giữ vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành giao thông và các quy định đối với kinh doanh dịch vụ vận tải tại các cam kết WTO. Hướng nghiên cứu và kiến nghị là phân tách các hạng mục của hạ tầng, dịch vụ ra thành các nhóm yếu tố có tính chất trọng yếu và không trọng yếu về quốc phòng an ninh để có quy định phù hợp hơn đối với nhóm những yếu tố không trọng yếu, nhà nước hoặc trong nước không cần nắm giữ, kể cả đối với đường sắt, hàng hải, hàng không.

3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

3.2.1. Phương hướng hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Ngay trong hội nghị lần thứ sáu BCH T.Ư Ðảng khóa X đã bàn và thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó có thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành tăng cường kết nối với các bộ, ngành, các chuyên gia, nhà khoa học để huy động trí tuệ toàn xã hội tham mưu cho Đảng, Chính phủ; kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao năng lực dự báo; rà soát các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xác định trọng tâm lĩnh vực tái cơ cấu; sớm trình Chính phủ kế hoạch xây dựng và phát triển hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, gắn chặt với kế hoạch tài chính ngân sách theo định hướng tái cơ cấu kinh tế; chú trọng huy động mọi nguồn lực xã hội; đánh giá lại các dự án đầu tư theo các hình thức PPP; tích cực huy động nhiều nguồn vốn theo hình thức PPP có trọng tâm, trọng điểm, tạo đột phá. Đồng thời từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật quản lí, đảm bảo cho quá trình triển khai các dự án PPP cơ sở hạ tầng trên thực tế, trên cở sở phát huy tối đa vài trò chủ đạo của kinh tế nhà nước kết hợp với các loại hình doanh nghiệp khu vực tư nhân.

Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư cần đảm bảo dự án PPP đóng góp thực hiện mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng theo quy hoạch, các mục tiêu kinh tế và xã hội toàn diện của Chính phủ. Hoạt động xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế phải có các hiệu quả xác định, chuẩn bị, thực hiện và quản lý các dự án PPP, có một quy trình thực hiện nhằm đảm bảo các dự án PPP được đánh giá theo chuẩn mực và chỉ các dự án khả thi về kinh tế và tài chính mang lại hiệu quả mới được đề xuất nhằm mục tiêu, cụ thể phải đạt giá trị đồng tiền cho Nhà nước bằng việc phân bổ rủi ro cho bên nào xử lý và quản lý tốt nhất, khả thi tài chính về khía cạnh bền vững ngân sách, chuyển giao cam kết liên quan đến quyết toán công và tiềm năng thu hồi của đầu tư tư nhân và tối ưu hóa các lợi ích của hiệu quả, kiến thức, linh hoạt và sáng kiến tư nhân.

Bên cạnh đó, cùng với việc xây dựng đạo luật về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, trong thời gian tới, các đạo luật liên quan khác cũng được xem xét, sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp, tạo sự đồng bộ và nhất quán trong hành lang pháp lý nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết để dự án PPP được thực hiện trong điều kiện biến động của thị trường. Theo đó, các quy định cần bảo đảm điều kiện về ngân sách cho việc chuẩn bị và triển khai dự án đúng

cam kết và đúng tiến độ, đặc biệt là phần tham gia của Nhà nước; bảo đảm tính đồng bộ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển và triển khai các dự án thành phần, để dự án PPP đóng góp được vai trò vào quy hoạch phát triển chung.

Ngoài ra, trong thời gian tới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cần có sự tham gia của một cơ quan nhà nước như một nhà đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ, tạo các điều kiện thiết lập một mặt bằng sân chơi giữa các doanh nghiệp như vậy và các công ty tư nhân cạnh tranh. Các nội dung của quy định tập trung vào khuyến khích đấu thầu cạnh tranh cho các dự án và đàm phán hợp đồng có sự linh hoạt nhiều nhất có thể. Cũng như công nhận tính chất lâu dài của đầu tư hạ tầng và giảm thiểu các rủi ro kèm theo bằng cách đảm bảo giá trị và thực hiện hợp đồng thông qua theo quy định pháp luật. Mặt khác, phải đảm bảo phân công trách nhiệm rành mạch, rõ ràng giữa các cơ quan Chính phủ; đảm bảo xây dựng và quản lý qui hoạch để nhà đầu tư khai thác được quỹ đất dọc hành lang của dự án; đảm bảo giảm dần số dự án đầu tư 100% vốn ngân sách, sử dụng phần ngân sách này tham gia vào các dự án PPP; đồng thời đảm bảo thống nhất giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xác định, thiết kế, đánh giá, tiếp thị và quản lý các dự án PPP, hoàn thiện năng lực thực hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3.2.2. Quan điểm hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Nhằm hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đưa ra các quan điểm, chính sách nhằm cụ thể hóa các định hướng cho công tác này. Các quan điểm được thể hiện trong các văn kiện của Đảng các khóa cũng như thể hiện trong quy định, chính sách của nhà nước. Cụ thể:

Quan điểm thứ nhất: Trong công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cần nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhằm khắc phục tư tưởng chủ quan, duy ý chí, vi phạm sự vận động của quy luật khách quan, cũng như khắc phục chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc, chạy theo các chỉ tiêu kinh tế thuần túy, coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta, bắt chước nước ngoài, dẫn tới tình trạng không phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước;

Quan điểm thứ hai: Bảo đảm tính đồng bộ giữa các quy định, cũng như trong quy trình xây dựng và thoàn thiện thể chế. Theo quan điểm này cần bảo đảm đồng bộ giữa các yếu tố tác động trong và ngoài nước; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng phát triển cơ sở hạ tầng với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường.

Quan điểm thứ ba: Các cơ quan có trách nhiệm xây dựng và hoàn hiện thể chế cần chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Phải thực hiện theo đúng quy trình, được pháp luật quy định cụ thể, đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ trong việc cung cấp, sử dụng và thông báo thông tin. Quan điểm này xuất phát từ thực tế của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở nước ta là công việc mới mẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, phải vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học sau khi thực hiện.

Quan điểm thứ tư: Công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cần phải kế thừa có chọn lọc các thành tựu của các quốc gia đã thành công trong lĩnh vực này và từ kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; các quy định phải đảm bảo tính chủ động và tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Quan điểm thứ năm: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Quan điểm này xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng là mấu chốt cửa quá trình phát triển, là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng phải huy động được sự tham gia của toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo, định hướng của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện khung thể chế pháp lý chung về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Xây dựng môi trường pháp lý, qui định và chính sách thuận lợi là yếu tố quyết định sự thành công của một mối quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc phải có một môi trường pháp lý có thể hỗ trợ sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực dịch vụ quan trọng là vô cùng cần thiết. Theo đó, khung thể chế cần giảm thiểu các bất cập, đặc biệt là vấn nạn tham nhũng và đủ tin cậy để khuyến khích đầu tư và sự tham gia của khu vực tư nhân bởi các nhà đầu tư tiềm năng cần phải có sự tin tưởng luật pháp và các hợp đồng sẽ được tôn trọng và có thể được thúc đẩy thực thi tại tòa án hoặc thông qua trọng tài nếu cần thiết.

Thứ nhất: việc xây dựng các quy định trong thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng phải được thực hiện trên cơ sở luật hóa các quy định đã được áp dụng ổn định và khả thi về PPP. Luật về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là cơ sở bảo đảm cho quyền và lợi ích của nhà đầu tư tư nhân được bảo đảm cao nhất, qua đó khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực yêu cầu vốn đầu tư lớn và nhiều rủi ro tiềm ẩn, chưa được chia sẻ rõ ràng.

Thứ hai: Để thực hiện được nhiệm vụ này, trong quy trình hoàn thiện khung thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ quan quản lí phải xây dựng kèm các đề án bồi dưỡng nhận thức, kiến thức về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như hiểu biết về pháp luật và năng lực triển khai dự án, góp phần nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý đảm bảo nhận thức đúng về loại hình đầu tư này để phát huy các lợi thế của mô hình này.

Thứ ba: Nhằm đảm bảo quá trình xây dựng, giám sát và triển khai có hiệu quả, cần thành lập Ủy ban Giám sát các dự án PPP để đảm bảo các dự án được thực hiện theo đúng chuẩn của mô hình này, tránh lãng phí, tiêu cực. Ngoài ra, cần cải tổ công tác tổ chức các bộ máy vận hành, bảo dưỡng dự án thưo hướng gọn nhẹ, hệ thống, khoa học, tránh tình trạng vừa thừa vừa thiếu trong bộ máy quản lí hiện nay. Theo đó, cần liên tục tổ chức các bài kiểm tra sát hạch định kì đối với các cá nhân thực hiện công tác quản lí trong lĩnh vực quan hệ đối

tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, từ đó có biện pháp đào tạo, sắp xếp công việc phù hợp với năng lực của từng cá nhân.

Thứ tư: Cần xác lập rõ ràng căn cứ khoa học để quyết định phương án đầu tư, phương án chia sẻ lợi ích/rủi ro, cần có quy định bắt buộc nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, dự báo, lượng hóa các tác động đến việc thực hiện dự án PPP, trên cơ sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro, cơ chế xác định giá/phí dịch vụ, phương án quản lý, cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp cho từng trường hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, có như vậy mới thúc đẩy đầu tư theo PPP và thực sự mang lại hiệu quả.

Thứ năm, tiếp tục xây dựng các chính sách ưu đãi như ưu đãi về thuế, giảm thiếu các thủ tục nhằm thu hút, sử dụng nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Theo đó, các cơ quan nhà nước cần ban hành mới hoặc sửa đổi các định mức kinh tế - kỹ thuật cho phù hợp với tình hình thực tế; hướng dẫn quy trình, thủ tục thực hiện chương trình, dự án, nhất là trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng; cơ chế thẩm định giá; định mức chi tiêu; quy chế kiểm tra, kiểm toán, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và hoàn trả nợ vay nước ngoài. Khung đền bù giải phóng mặt bằng cần phù hợp với giá thị trường, các chi phí phải đảm bảo cuộc sống của người dân thuộc diện di rời. Cùng với đó, cần ban hành các quy định, quy trình cụ thể để các thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt các dự án quan trọng như giao thông, năng lượng, cấp thoát nước.

Thứ sáu, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần có sự cam kết từ các cấp lãnh đạo cấp cao nhất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự vào cuộc của các đơn vị trực thuộc với chương trình PPP để có thể triển khai các dự án tại Bộ, Ngành, địa phương, nhằm tạo điều kiện cho công tác hướng dẫn, triển khai, đánh giá các quy định trên thực tế. Theo đó;

- Xây dựng và tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đầu mối như Bộ Kế hoạch

Đầu tư, Bộ Tài chính, Văn phòng chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Trao đổi và hỗ trợ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng các biện pháp cử chuyên gia đến các đơn vị có dự án tập huấn, nâng cao năng lực cán bộ, xây dựng và hướng dẫn các tiêu chí xác định và lựa chọn dự án, hỗ trợ trong việc tuyển chọn tư vấn giao dịch trong nước và quốc tế, xây dựng hồ sơ mời thầu, tư vấn chấm thầu và các công đoạn khác trong quá trình phát triển dự án.

- Tiếp tục xây dựng năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng tại Bộ Kế hoạch và đầu tư nhằm đảm bảo khả năng quản lý, dẫn dắt và hỗ trợ hiệu quả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thành công các dự án thí điểm.

Thứ bảy, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính, công khai qui trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục liên quan đến thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn. Cần rà soát và loại bỏ những quy định về thủ tục xét duyệt không cần thiết, các thủ tục rườm rà và tốn phí thời gian, các vướng mắc về thủ tục với các nhà tài trợ trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hiệp định, trao đổi công hàm, trình tự và thủ tục rút vốn, đấu thầu và xét duyệt kết quả đấu thầu,... Các thủ tục về miễn giảm thuế, cấp vốn đối ứng cần được xem xét lại theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý. Đồng thời rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn theo hướng giảm phiền hà trong quá trình này.

3.3.2. Giải pháp về thể chế đối với chủ đầu tư tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Nhằm quản lí, khuyến khích sự tham gia của các chủ đầu tư vào quan hệ đối tác công tư PPP phát triển cơ sở hạ tầng, trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đối với chủ đầu tư, cơ quan lập pháp cần:

Một là, tập trung quy định chi tiết, trách nhiệm của chủ đầu tư tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng. Theo đó, chủ đầu tư có trách nhiệm quản lý các bên liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng, bao gồm: Nhà đầu tư thực hiện dự án; Nhà thầu xây dựng; Nhà thầu quản lý, vận hành; Nhà thầu bảo dưỡng trong đó có sự tham gia giám sát của cộng đồng trong các giai đoạn của dự án trên cơ sở tiến độ đề xuất của Nhà đầu tư.

Hai là, tiến hành xây dựng cơ chế quy định rõ ràng về mức độ và các hạng mục trong phân chia rủi ro giữa nhà đầu tư và các bên liên quan. Để thực hiện nhiệm vụ này, các quản lí cơ quan chuyên ngành cần kết hợp với các nhà đầu tư xây dựng các kế hoạch; các quy định phù hợp, kịp thời của các bên trong khả năng ứng biến với các rủi ro bất khả kháng theo hướng đảm bảo tính chặt chẽ và linh động để giải quyết các rủi ro đó.

Bảng : Phân chia rủi ro giữa nhà nước và các nhà thầu

Loại rủi ro

Nhà nước

Chủ đầu tư

x

Rủi ro từ môi trường vĩ mô: + Chính sách không phù hợp + Năng lực quản lý nhà nước yếu kém + Tính thực thi pháp luật kém

x

x

Rủi ro từ thị trường + Cung cầu thay đổi + Rủi ro doanh thu

x

Rủi ro trong quá trình thi công + Chậm tiến độ + Tai nạn nghề nghiệp + Chênh lệch giá cả + Giải tỏa + …

Rủi do phát sinh khác

x

x

Bên cạnh Nhà nước và chủ đầu tư, trong kế hoạch chi tiết của mình, các chủ đầu tư

cũng cần quy định chi tiết các rủi ro và cách khắc phục của phía các nhà thầu thi công dự án.

Ba là, trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đối với các nhà đầu tư, cần xây dựng và mở các quy định giám sát, kiểm tra thiết kế kỹ thuật nhằm nâng cao tính trách nhiệm của chủ đầu tư đối với các công trình. Theo đó, các quy định cần đảm bảo công tác giám sát, đánh giá việc tuân thủ các nghĩa vụ của nhà đầu tư trong việc thực hiện các yêu cầu về quy hoạch, mục tiêu theo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng công trình, tiến độ huy động vốn và thực hiện dự án, bảo vệ môi trường và các vấn đề khác theo thỏa thuận trong hợp đồng dự án. Xây dựng các quy định chi tiết đối với từng loại công trình dựa trên Nghị định 15/2013/NĐ- CP trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng PPP đồng thời là cơ quan

quản lý nhà nước về xây dựng. Đồng thời quy định về tổ chức kiểm định chất lượng, giá trị, tình trạng công trình theo thỏa thuận tại hợp đồng dự án, lập danh mục tài sản chuyển giao, xác định các hư hại và yêu cầu doanh nghiệp dự án thực hiện việc sửa chữa, bảo trì công trình.

Bốn là, cần xây dựng các quy định đảm bảo việc lựa chọn, đào tạo, sử dụng nhân sự phù hợp với năng lực, trình độ và yêu cầu công việc trong đơn vị chủ đầu tư, đặc biệt đối với các đơn vị nhà nước tại các địa phương. Người được chọn phải có năng lực quản lý, nắm vững những chi tiết trong hợp đồng PPP. Trong quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quyết định tới sự thành công của các dự án, ngay từ khâu bắt đầu đề án dọc theo suốt quá trình đến khi dự án hoàn thiện. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ nhân lực đầy đủ khả năng, và đạo đức, bởi từ thực trạng kém chất lượng của các công trình gần đây, vấn đề đạo đức của nhà thầu thi công đã trở nên đáng báo động hơn bao giờ hết trong việc cắt xén nguyên vật liệu, ảnh hưởng tới trách nhiệm công trình. Các chủ đầu tư cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo nâng cao kĩ năng cho cán bộ quản lí, đồng thời nâng cao mức phạt đối với các hành vi tham ô, bớt xén công trình nhằm đảm bảo tính răn đe đối với các sai phạm.

Trong một dự án PPP, nhà đầu tư không thể tự thực hiện hết mọi công việc mà cần có sự giúp đỡ, hợp tác từ các đơn vị khác. Vì vậy ngay từ giai đoạn tiền khả thi dự án, nhà đầu tư cần phải phối hợp với các đơn vị khảo sát, xem xét và đánh giá mức độ phù hợp của dự án với khả năng hiện tại của doanh nghiệp, đo lường và dự tính khả năng sinh lời của dự án trong tương lại, dự đoán những biến động của thị trường, những khả năng thay đổi của môi trường kinh tế - chính trị, những thách thức tiềm tàng đối với dự án. Vì vậy, nhằm đảm bảo tính hoàn thiện của thể chế, các cơ quan lập pháp cần xây dựng các quy định về công tác tổ chức quản lý, vận hành công trình theo chức năng, thẩm quyền hoặc giao cho nhà đầu tư quản lý vận hành theo thỏa thuận tại hợp đồng dự án sau khi tiếp nhận công trình.

3.3.3. Giải pháp về thể chế đối với các nhà thầu thực hiện tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế đối với các nhà thầu thực hiện tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, trong thời gian tới, các cơ quan lập pháp cần tập trung vào ban hành mới hoặc sửa đổi các định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chuẩn lựa chọn nhà thầu phù hợp với tình hình thực tế, cần phải lựa chọn các đối tác, đơn vị tham gia dự án có năng lực, có khả năng hỗ trợ và bổ sung những điều kiện mà doanh nghiệp còn hạn chế.

Nhằm đảm bảo tính toàn diện, cơ quan lập pháp cần xây dựng các văn bản, quy định hướng dẫn quy trình, thủ tục thực hiện chương trình, dự án, nhất là trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng; cơ chế thẩm định giá; định mức chi tiêu; quy chế kiểm tra, kiểm toán, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các nhà thầu. Khung đền bù giải phóng mặt bằng cần phù hợp với giá thị trường, các chi phí phải đảm bảo cuộc sống của người dân thuộc diện di rời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các nhà thầu thực hiện tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần có những chế tài quy định phù hợp để đảm bảo việc thực hiện dự án đúng tiến độ, chất lượng. Các chế này này phảm đảm bảo tính chặt chẽ cũng như phù hợp với thực trạng công nghệ xây dựng hiện tại. Tuy nhiên, mặt khác các quy định không nên quá khắt khe để có thể hút sự tham gia của các nhà thầu vào dự án hợp tác công tư.

Ngoài các nhà thầu chính, các nhà thầu phụ cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với nhà thầu chính và các chủ đầu tư trong thực hiện các dự án PPP. Do các nhà đầu tư, về cơ

bản chỉ bỏ vốn và huy động vốn, hoạch định chiến lược tổng thể và một số công việc chính cho dự án nên các hoạt động thi công, xây dựng các công trình của dự án phần lớn do các nhà thầu phụ đảm nhận. Vì vậy, trong cơ chế lựa chọn nhà thầu phụ cũng cần xây dựng chi tiết các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của các nhà thầu. Theo đó: Cần xây dựng cơ chế đấu thầu công khai, xây dựng cơ chế nhà thầu bắt buộc là một liên doanh giữa ít nhất một doanh nghiệp làm chru thầu chính với một tổ chức tài chính, hoặc bao gồm thêm một công ty tư vẫn pháp lý nhằm tăng cường pháp lý cho năng lực dự thầu. Chỉ chỉ định thầu trong một số các trường hợp đặc biệt như: có nhu cầu cấp bách về cơ sở hạ tầng; hay các dự án trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, … Mặt khác, khi lựa chọn nhà thầu quốc tế, phải có điều kiện ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng về năng lực, kinh nghiệm thi công. Năng lực nhà thầu trong hồ sơ thầu cần phải thực tế và kiểm định, vì nhiều khi nhà thầu nước ngoài nhưng vẫn kém năng lực.

3.3.4. Giải pháp về thể chế đối với các nhà thầu tư vấn và giám sát tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Hiện nay, các nhà thầu tư vấn và giám sát tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và đảm bảo chất lượng cho các công trình. Vì vậy, trong công tác hoàn thiện thể chế, các cơ quan lập pháp cần xây dựng các quy định, chính sách khuyến khích sự tham gia sớm của các cố vấn chuyên môn cần vào qui trình thực hiện PPP.

Bên cạnh đó, trong các quy định đối với hầu tư vấn và giám sát tham gia đối tác công tư

trong phát triển cơ sở hạ tầng cần đảm bảo:

Thứ nhất: cần sớm hình thành các quy định về công khai và mở rộng hệ thống thông tin nhằm thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành trung ương địa phương, giữa chính phủ Việt Nam và các nhà thầu. Hệ thống thông tin đầy đủ giúp đáp ứng nhu cầu về các kế hoạch, nhu cầu sử dụng vốn, tiến độ thực hiện các chương trình dự án cơ sở hạ tầng. Điều này sẽ góp phần khuyến khích những sáng kiến, tăng cường sự hiểu biết về các quy định, thủ tục, xác định những nhu cầu vay vốn trong các nhà thầu tư vấn và giám sát. Bên cạnh đó, xây dưng các quy chế và hệ thống đơn giản hoá việc thực hiện, tiến tới thống nhất các điểm chung về mẫu, nội dung và tính thường xuyên cho một báo cáo định kỳ ở mỗi chương trình, dự án. Đồng thời cần nhanh chóng xây dựng quy định về việc xây dựng và hoàn thành cơ sở dữ liệu về các dự án PPP để cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, nhất quán và có hệ thống nhằm phục vụ cho quá trình tư vấn và giám sát của các nhà thầu.

Thứ hai: Trong công tác tư vấn, giám sát của các nhà thầu, các cơ quan lập pháp cần tăng cường các quy định và tiêu chuẩn cụ thể trong khâu đánh giá sau dự án và rút ra kinh nghiệm cho các dự án sau. Các nhà thầu cần nghiêm túc nhìn nhận lại vấn đề và tiến hành rà soát toàn bộ quãng thời gian thực hiện các dự án PPP c sở hạ tầng, đánh giá lại những tiêu chí lựa chọn nhà thầu ngay từ hiệp định vay để điều chỉnh. Nếu họ đủ năng lực và kinh nghiệm, phải tạo điều kiện để các nhà thầu này tham gia, nếu không là nhà thầu chính thì cũng phải là nhà thầu trong liên danh, chứ không thể chỉ làm thầu phụ như hiện nay.

Thứ ba: Cần có cách quy định đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm toán, giám sát, chống tiêu cực, tham nhũng đối với việc thực hiện dự án và hoạt động quản lý của chủ đầu tư. Theo đó, các cơ quan lập pháp cũng như các đơn vị quản lí cần xây dựng cơ chế kiểm tra định kì, liên tục đối với các công trình cơ sở hạ tầng, cũng như xây dựng khung báo cáo đầy đủ đối với các hoạt động giám sát của các nhà thầu. Các quy định phải có sự đổi mới trong tư duy,

có sự chọn lọc, quy định chặt chẽ về trách nhiệm quy trình, thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong thực hiện các chương trình PPP cơ sở hạ tầng.

Thứ tư, Nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của hệ thống thể chế PPP phát triển cơ sở hạ tầng của các nhà thầu tư vấn và giám sát, cơ quan lập pháp cần xây dựng các quy định xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật; kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, dự toán; tăng cường quản lý tài sản theo Quy chế về quản lý tài sản Nhà nước; thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, trách nhiệm pháp lý đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận khối lượng thanh toán,… Quản lý chặt chẽ tài sản mua sắm phục vụ hoạt động dự án. Chẳng hạn, về tiêu chuẩn định mức mua sắm ô tô phục vụ cho các dự án, có thể không dùng vốn vay nước ngoài như hiện nay và sử dụng luân chuyển cho nhiều dự án cho đến khi từng chiếc xe hết giá trị sử dụng. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục để các hộ dân trong diện giải phóng mặt bằng hiểu, đồng thuận và chấp hành chủ trương thu hồi đất. Mặt khác, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng công khai, minh bạch theo đúng luật định, đảm bảo công bằng, chính xác.

Cụ thể trong một số hoạt động như: Đối với công tác quản lý đấu thầu, nội dung hồ sơ mời thầu phải phù hợp với quy định của điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế đã ký với nhà tài trợ; tuân thủ đầy đủ quy định về trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu theo đúng quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam. Đồng thời, đưa tiêu chuẩn đánh giá chi tiết phù hợp với yêu cầu của gói thầu vào hồ sơ mời thầu để tạo sự minh bạch, hiệu quả trong đấu thầu nhằm lựa chọn được nhà thầu đáp ứng đầy đủ về tư cách hợp lệ, năng lực, kinh nghiệm và có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Thực hiện nghiêm túc việc xử lý vi phạm hợp đồng đối với các hành vi chậm tiến độ, không bảo đảm chất lượng vật tư, thiết bị, công trình,... trong các công trình cơ sở hạ tầng. Hay công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư là vấn đề nan giải của các dự án PPP xây dựng cơ sở hạ tầng nên cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ; chủ trì, phối hợp với các chủ dự án, các địa phương liên quan để giải quyết kịp thời các vướng mắc, xác định cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp và có phương án xử lý, tập trung đẩy nhanh công tác bồi thường. Giải phóng mặt bằng và tái định cư theo phương án cuốn chiếu, làm đến đâu gọn đến đó, đáp ứng kịp thời tiến độ thi công.

3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM

3.4.1. Kiến nghị với Nhà nước

Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hình thành môi trường kinh tế, pháp lý, xã hội cho việc thực hiện triển khai các dự án PPP cơ sở hạ tầng trên thực tế. Vì vậy, nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ quan nhà nước cần:

Một là, trong công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, vấn đề chất lượng cán bộ công chức, quản lí còn khá hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan quản lí nhà nước cần có đề án bồi dưỡng nhận thức, cũng như tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước nhằm nâng cao kiến thức về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như hiểu biết về pháp luật và năng lực triển khai dự án, góp phần nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý đảm bảo nhận thức đúng về loại hình đầu tư này để phát huy các lợi thế của nó.

Hai là, đối với bộ máy quản lý PPP lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan tham gia vào quá trình quản lý vốn đi đôi với việc nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan có liên quan. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành chủ quản và chức năng tổ chức thực hiện dự án, nhất là trong các khâu thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và phê duyệt kết quả đấu thầu, theo dõi và giám sát thực hiện. Xây dựng một cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trung ương và các địa phương với các nhà tài trợ trong việc xây dựng dự án, cũng như cơ chế vận động thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, cơ chế điều phối, theo dõi và quy trình thực hiện giám sát. Đây chính là những cơ sở quan trọng tạo nên thành công của mỗi dự án.

Đồng thời phân cấp rộng hơn cho các đơn vị quản lý chuyên ngành tại địa phương theo hướng gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý trong việc thực hiện dự án và khi xảy ra các sai phạm bằng các quy định và kỷ luật hành chính, đồng thời ban hành các chế tài đủ mạnh trong lĩnh vực này. Cần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng khép kín các khâu trong quy trình thực hiện đầu tư ở một Bộ, ngành hoặc một địa phương, vì tình trạng này dễ dẫn đến phát sinh tiêu cực.

Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế một cửa, rút ngắn thời gian làm thủ tục đấu thầu, đầu tư. Xóa bỏ hoặc giảm bớt các quy định thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, đồng thời cần có sự thống nhất giữa các văn bản ban hành, hạn chế tối đa sự chồng chéo trong các quy định, gây khó dễ cho các chủ đầu tư và các nhà thầu tham gia dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Bốn là, xây dựng các quy định loại bỏ triệt để vấn nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí trong các đơn vị quản lí nhà nước về PPP sơ sở hạ tầng. Theo đó, cần công khai thông tin, mở rộng tính minh bạch trong các chi phí mua sắm, các hoạt động sử dụng ngân sách tài chính thông qua các báo cáo công khai. Đồng thời minh bạch trong xử lí các khiếu nại, khiếu kiện của người dân cũng như các chủ đầu tư, nhà thầu liên quan tới các quy định và hành vi của các cán bộ, công chức. Để thực hiện được nhiệm vụ này, các cơ quan nhà nước có thể sử dựng một số biện pháp cụ thể như:

+ Công khai, minh bạch tài chính của cán bộ, công chức nhà nước

+ Công khai các khoản chi tiêu công, bao gồm các nội dung: số tiền, mục đích chi, người

chi,…

+ Tăng cường chế tài xử phạt các hành vi tham ô, tham nhũng, lãng phí.

Năm là, nhằm đảm bảo các tác động tiêu cực từ quá trình phát triển kinh tế tới quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, Các nhà quản lí cần có các quy định kìm chế sự lạm phát với điều kiện vẫn đảm bảo phát triển bền vững kinh tế, xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, các cơ quan nhà nước có thể thực hiện một số giải pháp cụ thể như thực hiện một số chương trình có thể kể đến như: hỗ trợ bình ổn giá, có cơ chế quản lý chặt chẽ các nguyên liệu đầu vào như xăng, dầu, than đã, khí đốt,… Đồng thời xây dựng các quỹ dự phòng ổn định tỷ giá để đảm bảo có thể hạn chế tối đã tác động của sự biến động tỉ giá tới môi trường kinh tế trong nước.

3.4.2. Kiến nghị với các bộ, ban, ngành trung ương

Môi trường đầu tư hấp dẫn, sự hài lòng của các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào môi trường dự án được triển khai. Vì vậy Chính phủ Việt Nam cần tạo lập một môi trường đầu tư thuận lợi với điều kiện xã hội, pháp luật, kinh tế và tài chính ổn định. Cụ thể:

Thứ nhất, để tăng sức hấp dẫn cho các dự án PPP cơ sở hạ tầng, Chính phủ cần cung cấp các hỗ trợ riêng biệt, thực hiện bảo lãnh cùng các ưu đãi đặc thù riêng áp dụng cho từng dự án cụ thể. Đồng thời thiết lập khung pháp lý đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nhằm gia tăng niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo dự án hiệu quả, phân chia rủi ro phù hợp và tránh những rủi ro tiềm tàng. Cần phân chia rõ ràng tủi ro giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư giữa những rủi ro nhà nước sẵn sàng gánh chịu hoặc chia sẻ một phần với các nhà thầu, nhà đầu tư. Các quy định về phân bổ rủi ro cần tuân theo nguyên tắc “phân bổ cho phía có khả năng quản lí rủi ro tốt nhất, trên cơ sở tính toán sự biến động của thị trường trong và ngoài nước.

Thứ hai, thành lập cơ quan giám sát và hợp tác: mục tiêu trong các hợp đồng PPP rất đa dạng giữa các cơ quan công quyền khác nhau (trung ương và địa phương). Chính phủ cần thiết thành lập một cơ quan trung tâm hòa giải các xung đột, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư nước ngoài với chính quyền. Bên cạnh đó, chính phủ cũng cần tích cực tham gia trong suốt vòng đời dự án: đối với các dự án PPP, mặc dù khu vực tư nhân tham gia và chịu trách nhiệm là chủ yếu nhưng Chính phủ vẫn cần tích cực tham gia suốt vòng đời dự án để đảm bảo dự án đáp ứng các mục tiêu cũng như có các quy định kịp thời giải quyết các phát sinh, bất cập do thiếu sự đồng bộ trong các quy định của pháp luật.

Thứ ba, Đề nghị chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu và cổng thông tin điện tử về quản lý và đăng tải thông tin cho các dự án áp dụng các hình thức đầu tư: BOT, BTO, BT, PPP...nhằm công khai tạo điều kiện cho các Nhà đầu tư có thêm các thông tin trước khi quyết định đầu tư tại Việt Nam. Cũng như tạo điều kiện cho các hoạt động tư vấn, giám sát của các doanh nghiệp dự án.

Thứ tư, Bộ Tài chính cần khẩn trương hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và ban hành văn bản pháp quy về chính sách, cơ chế tài chính đối với việc sử dụng nguồn vốn và vốn vay ưu đãi phù hợp với quy định hiện hành và tình hình, khả năng vận động nguồn vốn trong xây dựng cơ sở hạ tầng theo mô hình quan hệ đối tác công tư. Chẳng hạn, nên sửa đổi điều 7, Nghị định 78/2010/NĐ-CP ngày 14/7/2010 về lãi suất cho các tổ chức tín dụng vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài (Hiện nay lãi suất cho vay lại được tính bằng rủi ro tỷ giá (6%), cộng lãi suất vay nước ngoài (đối với nguồn WB là 2,0%) và phí của Bộ Tài chính (0,2%), sau khi cộng thêm chênh lệch cho các ngân hàng (khoảng 4%) sẽ làm cho lãi suất đến người vay trở lên quá cao, khiến các dự án rất khó thực hiện, nên cần điều chỉnh hợp lý. Những quy định, chính sách cần có tính ổn định lâu dài, tiên liệu được, tránh những tác động không đáng có, gây quan ngại cho các nhà tài trợ về tính ổn định về chính sách của Việt Nam.

Thứ năm, Tăng cường bảo lãnh của chính phủ về ngoại hối bằng việc xây dựng cơ chế bảo lãnh ổn định của chính phủ là yếu tố căn bản để thu hút của các doanh nghiệp nước ngoài vào các dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức quan hệ đối tác công tư. Các bên cho vay nước ngoài đang quan ngại về việc nhà nước xem xét giảm mức bảo lãnh về ngoại hối dưới mức 100% như hiện nay. Sự lo ngại này xuất phát từ tình trạng áp dụng thiếu thống nhất các nguyên tắc bảo lãnh trong những dự án đã được cấp phép và những dự án trong quá trình đàm phán hay các dự án sau này. Trong bối cảnh thị trường tín dụng thương mại khó khăn hiện nay thì các bên cho vay nước ngoài sẽ chỉ cấp vốn cho những dự án tốt nhất ở Châu Á. Khi đó bảo lãnh ngoại hối sẽ là yếu tố quyết định khi mà các yếu tố khác là tương đồng.

Thứ sáu, Chính phủ cần đưa ra quy định về mức độ tham gia của các Nhà đầu tư thuộc khối nhà nước tùy theo mức độ cổ phần hóa và đưa vào trong nghị định PPP, dựa trên hai góc

độ: (1) Không thu hút được vốn đầu tư và (2) Hợp đồng có thể bị biến dạng sang phương thức hợp tác công - công. Giải pháp này có ý nghĩa trong trọng trong việc hoạch định, định hướng phát triển đúng đắn và có hiệu quả của các dự án PPP cơ sở hạ tầng trên thực tế. Đồng thời, ưu đãi và tạo điều kiện cho các Nhà đầu tư tư nhân đề xuất dự án. Việc tham gia của các Nhà đầu tư ngay từ giai đoạn chuẩn bị sẽ cải thiện các giải pháp về công nghệ, giải pháp tài chính, sự sáng tạo và việc nắm vững công nghệ từ phía tư nhân là yếu tố quan trọng thúc đẩy các dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Thứ bảy, Các cơ quan nhà nước tại trung ương cần xây dựng cơ chế phối hợp và chịu trách nhiệm xây dựng hoàn thiện thể chế, cũng như quản lí các dự án PPP giữa các cơ quan trung ương theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo đó, mọi cơ quan từ chính phủ tới các đơn vị quản lí chuyên ngành tại địa phương cần phân định rõ trách nhiệm quyền hạn theo mô hinh sau nhằm tránh trường hợp khi có sự cố xảy ra, các ban ngành đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Hình 23: Phân cấp trách nhiệm với dự án quan trọng quốc gia

Thứ tám, Trước thực trạng quy định hiện nay chỉ dành từ 06 tháng đến một năm cho công tác tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế không đủ cho việc đảm bảo tính thực tế cũng như chất lượng nghiên cứu, Chính phủ cần xem xét xây dựng lại các quy định về thời gian xây dựng, bạn hành cũng như tạo điều kiện về thời gian cho các công tác này, tuy nhiên cũng cần phải đảm bảo tính kịp thời của các văn bản trong việc giải quyết các bất cập, hạn chế trên thực tế. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần đẩy mạnh công tác hệ thống hóa văn bản QPPL nhằm đảm bảo các cơ quan quản lý chuyên ngành kịp thời phát hiện được những văn bản chồng chéo và cả những văn bản trái với pháp luật hiện hành.

3.4.3. Kiến nghị với sở, ban, ngành địa phương

Tương tự như các cơ quan tại Trung ương, các sở ban ngành tại địa phương cần đưa ra các cơ chế, chính sách, quy định cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm việc lập danh mục dự án tại các bộ, ngành, địa phương. Với các dự án có tính phức tạp, các bộ ngành và địa phương có thể tham vấn các bộ ngành liên quan hoặc tham vấn các nhà tư vấn, các chuyên gia và Nhà đầu tư để lấy ý kiến trước khi lập báo cáo đầu tư trình chính phủ xem xét.

Theo đó, các sở, ban, ngành địa phương cần xây dựng các quy định trên cơ sở tuân theo định hướng chung theo các văn bản có phạm vi áp dụng trên phạm vi cả nước, tuy nhiên, cần linh hoạt, chủ động trong việc thay đổi một số quy định nhằm phù hợp với tình hình phát triển và điều kiện tham gia dự án đối tác công tư của địa phương mình theo mô hình sau:

Hình 24: Phân cấp trách nhiệm tại địa phương

Trong đó, văn phòng PPP tại địa phương với vai trò là cơ quan chuyên môn quản lý nhà

nước tại địa phương về đầu tư theo hình thức đối tác công tư có các nhiệm vụ:

+ Xây dựng các cơ chế, chính sách, văn bản quản lý pháp luật về thu hút đầu tư và đầu tư theo hình thức đối tác công tư; tổ chức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

+ Xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm về đầu tư phát triển kết cấu hạ

tầng, dịch vụ công theo hình thức đối tác công tư tại địa phương để trình Chính Phủ.

+ Tổ chức xúc tiến đầu tư, huy động vốn đầu tư phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và danh mục dự án đã được phê duyệt; công bố danh mục dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư theo quy định.

+ Tham mưu thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong

lĩnh vực đầu tư theo hình thức đối tác công tư tại địa phương.

+ Theo dõi đánh giá các dự án, định kỳ tổng hợp các báo cáo về tình hình thực hiện và hiệu quả thu hút sử dụng vốn đầu tư. Giám sát, đánh giá đầu tư các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư theo quy định.

Đặc biệt hiện nay so với cơ quan nhà nước tại Trung ương, chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng nhìn chung còn khá hạn chế, nhất là các tỉnh miền núi, điều kiện khó khăn trong phát triển cơ sở hạ tầng. Vì vậy, các chính quyền tại địa phương cần quan tâm hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo và sử dụng chất lượng nguồn nhân lực. Để thực hiện nhiệm vụ này, UBND các tỉnh có thể triển khai các buổi học hỏi kinh nghiệm của các tỉnh đi trước trong quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trong nước; Cử cán bộ theo học tại các trường lí luận chính trị; hoặc tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài liên quan tới các vấn đề trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng đồng đều trong phạm vi cả nước.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lí tại địa phương cần hoàn thiện, đẩy mạnh cơ chế giám sát ban hành văn bản, bằng việc thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra, giám sát các dự án ban hành văn bản QPPL để bảo đảm việc thực thi trên thực tế phù hợp với quan điểm, định hướng của Đảng và nhà nước trong phát triển bền vững cơ sở hạ tầng.

3.4.4. Các kiến nghị khác

Ngoài các giải pháp đối với các cơ quan trong toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước trong các lĩnh vực cần khẩn trương rà soát, hoàn thiện thể chế để tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đô thị, các luật khác có liên quan và các văn bản dưới luật để tạo thuận lợi cho phát triển hạ tầng.

Đồng thời, Đẩy mạnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và phương pháp quản lý hiện đại trong việc tổ chức xây dựng, khai thác và quản lý các công trình kết cấu hạ tầng cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và cung cấp dịch vụ công, thúc đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản lý, điều hành, làm cho nội dung công tác quản lý nhà nước ngày càng minh bạch hơn, người dân dễ tiếp cận với thông tin và tri thức. Theo đó, cần phải ban hành các quy chế, quy định về quản lý, vận hành và sử dụng hệ thống thông tin đã được triển khai; xây dựng quy trình trao đổi; lưu trữ, xử lý văn bản điện tử; quy chế bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Cùng với đó, phải có cơ chế duy trì, bảo dưỡng hạ tầng công nghệ thông tin, thường xuyên rà soát, đầu tư, nâng cấp, nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin. Đồng thời, phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tiếp nhận các hệ thống phần mềm đã triển khai, nhằm đảm bảo các hệ thống thông tin đã đầu tư được hoạt động liên tục, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao hiểu biết, nhận thức

cho các cơ quan quản lý, người dân và doanh nghiệp về các lợi ích trong việc khai thác thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước.

Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước, các nhà thầu và nhà đầu tư cần làm tốt công tác tuyên truyền vận động, tạo sự đồng thuận trong xã hội để mọi người dân ủng hộ và chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của đất nước. Xây dựng chính sách khuyến khích sự tham gia hoạt động giám sát của các tổ chức đoàn thể và cộng đồng nhân dân; các cơ quan thông tấn, báo chí cần được đẩy mạnh để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các vụ tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác; ý thức của nhân dân về phòng chống tham nhũng, lãng phí, các bất cập trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như triển khai thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trên thực tế. Để cao vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng phát huy tốt vai trò và trách nhiệm, góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh của dư luận xã hội. Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia của các đối tượng thụ hưởng là điều kiện quan trọng để đảm bảo việc thực hiện tốt các dự án đầu tư công.

Cùng với sự tham gia của cộng đồng và dư luận xã hội, Các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được kiện toàn, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý. Hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý; trong đó phải công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách Nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định kiểm soát thu nhập, minh bạch tài sản, xử lý tài sản tham nhũng, đưa ra các giải pháp kiên quyết, mạnh mẽ và cứng rắn hơn. Đồng thời, cần hoàn thiện quy trình xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí, xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng; kỷ luật nghiêm những người bao che, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí. Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, việc phát huy sức mạnh của toàn hệ thống chính trị và của nhân dân có ý nghĩa to lớn, quyết định đến sự thành bại cuộc đấu tranh chống thất thoát, tiêu cực đặc biệt trong công tác quản lý nguồn vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng có nguồn vốn lớn.

KẾT LUẬN

1. TÓM TẮT NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH

PPP (Public - Private Partner) là mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, theo đó nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước. Nhà nước sẽ thiết lập hệ thống thể chế bao gồm các quy định, chính sách, các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân bởi tận dụng được nguồn lực tài chính và quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn đảm bảo lợi ích cho người dân.

Với đề tài, Hoàn thiện hệ thống thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng

ở Việt Nam, Nghiên cứu đã thực hiện những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, về mặt cơ sở lý luận, nghiên cứu đã xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về quan hệ hợp tác công tư PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và công tác hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với quan hệ đối tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm: Khái luận về đối tác công tư và thể chế về đối tác công tư, trong đó tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm, phân loại của hình thức đối tác công tư; Khái niệm và đặc điểm của hình thức đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng; cưng như khái niệm và yêu cầu hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia. Bên cạnh đó là một số vấn đề lý luận về thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm các cơ sở lý; nguyên tắc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia; mô hình hoàn thiện và các yếu tố tác động đến thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một quốc gia. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố của môi trường trong nước và các yếu tố môi trường quốc tế tác động với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Thứ hai, thông qua nghiên cứu một số kinh nghiệm thành công cũng như không thành công của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore... nghiên cứu rút ra một số bài học cho Việt Nam như: Trong công tác nghiên cứu phương pháp hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phải được nghiên cứu xây dựng theo hướng tạo cơ sở pháp lý thuận lợi tối đa cho công tác huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân tư nhân. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng phải tham khảo cả kinh nghiệm thành công và hạn chế của các nước, từ đó, thông qua hợp tác quốc tế để phối hợp đào tạo, huấn luyện, nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp theo dõi, quản lý, xúc tiến các dự án PPP ở trung ương và địa phương. Trên cơ sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro; cơ chế xác định giá/phí dịch vụ, phương án quản lý; cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù hợp cho từng trường hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Ngoài ra, trong giai đoạn triển khai và ban hành chính sách cần đảm bảo tính thông nhất của các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc thực hiện dự án PPP cơ sở hạ tầng theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương để đảm bảo tính khả thi và sự linh hoạt khi thực hiện dự án PPP. Trong giai đoạn thẩm định, kiểm tra các dự án cũng như việc áp dụng các

chính sách quy định về thể chế PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần thành lập đơn vị quản lý PPP chuyên biệt để giám sát việc xây dựng, thực hiện các quy định liên quan tới hợp đồng và quy trình tổ chức đấu thầu. Trong hoạt động xây dựng chính sách, thể chế, các nhà làm luật cần chú ý tới các chính sách phân bổ các rủi ro của dự án hợp lý nhất cho mỗi bên với một quy trình giám sát, phân chia, chuyển giao và kiểm soát rủi ro bằng cách: phân tích các rủi ro của dự án trước khi tiến hành đấu thầu, thành lập những đơn vị hoặc trung tâm chuyên trách về lĩnh vực phân bổ rủi ro, bởi thực tế đã chứng minh, với các quốc gia thực hiện tốt các chính sách này, công tác xem xét, theo dõi và tư vấn cho các chủ đầu tư dự án của họ diễn ra một cách thuận lợi và đem lại hiệu quả cao cho các dự án. Vì vậy cần ban hành các chính sách, quy chế mới phù hợp cho cả hai bên nhằm cân bằng lợi ích và rủi ro cũng như phân bổ đều cho cả hai bên.

Thứ ba, đề tài đã khái quát tình hình thực trạng cơ sở hạ tầng và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cũng như ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong nước và môi trường quốc tế tác động đến hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Đồng thời tập trung phân tích thực trạng thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm: Thực trạng áp dụng thể chế; thực trạng nội dung và mô hình hoàn thiện. Trên cơ sở đó, đưa ra các đánh giá chung về thành công, hạn chế và các nguyên nhân trong thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Những thành tựu đạt được của công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP cơ sở hạ tầng đạt được trong nhưng năm qua bao gồm: Chính phủ Việt Nam bao gồm các bộ và cơ quan quản lí chuyên ngành đã rất nỗ lực trong việc thực thi đường lối đổi mới, tạo lập môi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng; các cơ quan quản lí chuyên ngành tại địa phương đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, với các quy định phù hợp với đặc điểm và tình hình phát triển của địa phương, góp phần mở rộng nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng tại địa phương mình. Xét một cách tổng thể, môi trường pháp lý được quan tâm và thường xuyên bổ sung theo hướng ngày càng đồng bộ và phù hợp với tình hình thực tế từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội đất nước, bộ máy QLNN đã dần được kiện toàn theo hướng xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý và phân cấp mạnh hơn. Ngoài ra, cán bộ quản lý quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng đã được quan tâm đào tạo, tiếp thu khoa học công nghệ, thực hiện dự án đạt nhiều tiến bộ.Bên cạnh đó, các văn bản quản lí hiện hành đã đạt được thành công đáng kể trong việc khắc phục các hạn chế tồn tại của các văn bản trước đó. Điển hình như sự ra đời của nghị định số 15/2015/NĐ-CP đã giải quyết triệt để những bất cập tồn tại trong suốt 5 năm của Quyết định số 71/2010/QĐ- TTg.

Tuy nhiên, bên cạnh các thành công đạt được, công tác hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay vẫn còn gặp một số hạn chế, bất cập. Cụ thể: Chính sách, quy chế không ổn định với các nước đang phát triển như Việt Nam khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn ái ngại, đặc biệt các hợp đồng PPP lại đòi hỏi Việt Nam phải có một khung pháp lý rõ ràng hơn, quy định chi tiết cụ thể hơn giúp các nhà đầu tư hoàn toàn yên tâm khi bỏ vốn vào lĩnh vực này. Đến nay, Việt Nam chưa có luật về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng như các nước khác, vì vậy Việt Nam thiếu các văn bản pháp lý hướng dẫn việc thực hiện PPP. Nghị định 108/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg còn nhiều vấn đề chồng chéo chưa tương thích. Chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể cho các Nghị định mới được ban

hành: Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) và Nghị định 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Năng lực của cơ quan đầu mối PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng còn hạn chế: Các cơ quan này hầu như chưa đánh giá được hiệu quả và rủi ro của dự án cơ sở hạ tầng - cơ sở cho cả quá trình đàm phán và triển khai dự án sau này. Bên cạnh đó, năng lực đàm phán, quá trình ra quyết định, tổ chức và giám sát quá trình triển khai dự án chưa tốt, dẫn đến tình trạng bị nhà đầu tư dẫn dắt theo ý mình, hoặc thậm chí dẫn đến tiêu cực, tham nhũng. Ngoài ra, công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập trong khâu xây dựng Danh mục dự án kêu gọi đầu tư, xác định tổng mức đầu tư, thẩm định dự án, lựa chọn nhà đầu tư, ký kết hợp đồng dự án, tính toán giá trị sử dụng đất, quyết toán đầu tư, theo dõi, quản lý dự án... cũng như việc thực hiện những chính sách hiện hành chưa thu hút được các nguồn vốn tư nhân cũng như các nguồn vốn từ nước ngoài. Nghiên cứu cũng đã lý giải nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế này.

Thứ tư, trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, định hướng phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, định hướng công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế quan hệ đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, nghiên cứu đã đề xuất hệ thống giải pháp từ phía các nhà thầu, nhà đầu tư cũng như phía các cơ quan nhà nước trong việc nâng cao chất lượng hệ thống thể chế, cũng như khắc phục các tồn tại bất cập hiện nay.

2. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ ÁN

Việc vận dụng mô hình PPP trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên thế giới và tại Việt Nam không còn mới mẻ, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay thực hiện tái đầu tư công thì mô hình này vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế, bất cập. Trên cơ sở nghiên cứu mô hình vận dụng PPP trong đầu tư cơ sở hạ tầng trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Đánh giá thực trạng việc vận dụng mô hình PPP cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầngViệt Nam, nêu được kết quả thực hiện, chỉ ra các hạn chế và nguyên nhân các hạn chế để đưa ra các giải pháp thực tế. Đây là căn cứ khoa học tin cậy phục vụ cho quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện tại các nhà đầu tư, nhà thầu tư nhân cũng như các cơ quan nhà nước tại trung ương và địa phương. Theo đó: Xây dựng môi trường pháp lý, qui định và chính sách thuận lợi là yếu tố quyết định sự thành công của một mối quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc phải có một môi trường pháp lý có thể hỗ trợ sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực dịch vụ quan trọng là vô cùng cần thiết. Việc xây dựng các quy định trong thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng phải được thực hiện trên cơ sở luật hóa các quy định đã được áp dụng ổn định và khả thi về PPP. Bên cạnh các đóng góp về mặt cơ sở lý luận, đóng góp một số vấn đề về cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay, cũng như các đóng góp trong kết quả phân tích thực trạng, tác giả cũng đóng góp các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế PPP cơ sở hạ tầng. Theo đó:

Đối với chủ đầu tư tham gia đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cần tập trung quy định chi tiết, trách nhiệm của chủ đầu tư tham gia. Chủ đầu tư có trách nhiệm quản lý các bên liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng, bao gồm: Nhà đầu tư thực hiện dự án; Nhà thầu xây dựng; Nhà thầu quản lý, vận hành; Nhà thầu bảo dưỡng trong đó có sự tham gia giám sát của cộng đồng trong các giai đoạn của dự án trên cơ sở tiến độ đề xuất của Nhà đầu tư. Đồng thời xây dựng các quy định đảm bảo việc lựa chọn, đào tạo, sử dụng nhân

sự phù hợp với năng lực, trình độ và yêu cầu công việc. Người được chọn phải có năng lực quản lý, nắm vững những chi tiết trong hợp đồng PPP.

Ngoài ra, các nhà đầu tư cần xây dựng các kế hoạch chi tiết cũng như các quy định phù hợp, kịp thời của các bên và khả năng ứng biến với các rủi ro bất khả kháng. Mối quan hệ giữa chủ thầu và nhà đầu tư cần chặt chẽ và linh động để giải quyết các rủi ro đó. Bên cạnh đó, cần bổ sung và hoàn chỉnh các quy định quản lí việc tiếp nhận và kiểm tra kết quả lựa chọn nhà thầu của doanh nghiệp dự án so với yêu cầu của hợp đồng dự án và quy định của pháp luật có liên quan. Trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, cần quan tâm trú trọng tới các quy định trong việc giám sát, kiểm tra thiết kế kỹ thuật, các quy định cần đảm bảo công tác giám sát, đánh giá việc tuân thủ các nghĩa vụ của nhà đầu tư trong việc thực hiện các yêu cầu về quy hoạch, mục tiêu theo quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng công trình, tiến độ huy động vốn và thực hiện dự án, bảo vệ môi trường và các vấn đề khác theo thỏa thuận trong hợp đồng dự án.

Đối với các nhà thầu thực hiện trong thời gian tới cần tập trung vào ban hành mới hoặc sửa đổi các định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chuẩn lựa chọn nhà thầu phù hợp với tình hình thực tế. Trong giai đoạn đấu thầu, doanh nghiệp cũng cần có các đối tác tham gia hoàn thiện hồ sơ năng lực đấu thầu, lựa chọn nhà thầu phụ nếu trúng thầu…Yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp là cần phải lựa chọn các đối tác, đơn vị tham gia dự án có năng lực, có khả năng hỗ trợ và bổ sung những điều kiện mà doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, cần có những chế tài quy định phù hợp để đảm bảo việc thực hiện dự án đúng tiến độ, chất lượng. Các chế này này phảm đảm bảo tính chặt chẽ cũng như phù hợp với thực trạng công nghệ xây dựng hiện tại. Tuy nhiên, mặt khác các quy định không nên quá khắt khe để có thể hút sự tham gia của các nhà thầu vào dự án hợp tác công tư.

Đối với các nhà thầu tư vấn và giám sát tham gia. Trong công tác hoàn thiện thể chế, các cơ quan lập pháp cần xây dựng các quy định, chính sách khuyến khích sự tham gia sớm của các cố vấn chuyên môn cần vào qui trình thực hiện PPP phát triển cơ sở hạ tầng. Cần sớm hình thành hệ thống thông tin để thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành trung ương địa phương, giữa chính phủ Việt Nam và các nhà thầu để cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, nhất quán và có hệ thống nhằm phục vụ cho quá trình tư vấn và giám sát. Đồng thời cần tăng cường các quy định cụ thể trong khâu đánh giá sau dự án và rút ra kinh nghiệm cho các dự án sau. Đặc biệt trong công tác tư vấn, giám sát, các nhà thầu cần xây dựng các cơ chế khuyến khích sự tham gia giám sát của xã hội, cơ quan báo chí, truyền thông đối với các dự án. Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế để khuyến khích cộng đồng (dân cư, nhà khoa học, nhà nghiên cứu) tham gia trong các khâu từ thu hút, vận động đến triển khai thực hiện và giám sát, đánh giá các dự án. Xây dựng cơ chế minh bạch thông tin tới tất cả các bên như nhà nước, tổ chức dân sự, người dân để các đối tượng hưởng lợi hiểu rõ về vai trò, quyền lợi, trách nhiệm của mình khi tham gia vào các dự án PPP cơ sở hạ tầng.

Kiến nghị với Nhà nước. Nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong công tác hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ quan nhà nước cần có đề án bồi dưỡng nhận thức, kiến thức về PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như hiểu biết về pháp luật và năng lực triển khai dự án, góp phần nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý đảm bảo nhận thức đúng về loại hình đầu tư này để phát huy các lợi thế của nó. Đồng thời cần phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan tham gia vào quá trình quản lý vốn đi đôi với việc nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan có liên quan. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành chủ quản, giữa cơ quan nhà nước tại trung ương, địa phương, và chức

năng tổ chức thực hiện dự án, nhất là trong các khâu thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và phê duyệt kết quả đấu thầu, theo dõi và giám sát thực hiện. Xây dựng một cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trung ương và các địa phương với các nhà tài trợ trong việc xây dựng dự án, cũng như cơ chế vận động thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, cơ chế điều phối, theo dõi và quy trình thực hiện giám sát. Đây chính là những cơ sở quan trọng tạo nên thành công của mỗi dự án. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế một cửa, rút ngắn thời gian làm thủ tục đấu thầu, đầu tư. Xóa bỏ hoặc giảm bớt các quy định thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, đồng thời cần có sự thống nhất giữa các văn bản ban hành, hạn chế tối đa sự chồng chéo trong các quy định, gây khó dễ cho các chủ đầu tư và các nhà thầu tham gia dự án PPP. Ngoài ra, Bổ sung các quy định loại bỏ triệt để vấn nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí trong các đơn vị quản lí nhà nước về PPP sơ sở hạ tầng. Theo đó, cần công khai thông tin, mở rộng tính minh bạch trong các chi phí mua sắm, các hoạt động sử dụng ngân sách tài chính thông qua các báo cáo công khai. Đồng thời minh bạch trong xử lí các khiếu nại, khiếu kiện của người dân cũng như các chủ đầu tư, nhà thầu liên quan tới các quy định và hành vi của các cán bộ, công chức. Cũng như đảm bảo các tác động tiêu cực từ quá trình phát triển kinh tế tới quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các nhà quản lí cần có các quy định kìm chế sự lạm phát với điều kiện vẫn đảm bảo phát triển bền vững kinh tế, xã hội. Một số chương trình có thể kể đến như: hỗ trợ bình ổn giá, có cơ chế quản lý chặt chẽ các nguyên liệu đầu vào như xăng, dầu, than đã, khí đốt,… Đồng thời xây dựng các quỹ dự phòng ổn định tỷ giá để đảm bảo có thể hạn chế tối đã tác động của sự biến động tỉ giá tới môi trường kinh tế trong nước.

Với kết quả trên đây, nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo liên quan đến công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng cũng như làm cơ sở cho công tác nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện thể chế tại các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

3. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU TƯƠNG LAI

Tuy nhiên, với điều kiện, giới hạn về thời gian nghiên cứu và trình độ, nhất là các vấn đề thực tế, cho nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tuy đã có được những kết quả có ý nghĩa, đề tài vẫn còn nhiều hạn chế như:

Thữ nhất, nghiên cứu này có một phần lớn các dữ liệu có được thông qua thu thập và phân tích dữ liệu sơ cấp như báo chí, tài liệu, các báo cáo và thống kê từ các bộ ngành, cơ quan liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều tài liệu quan trọng liên quan đến quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng không được công bố và phổ biến rộng rãi. Vì vậy, với nguồn tiếp cận tài liệu khó khăn nên các thống kê của nghiên cứu này và tính cập nhật của các chỉ số thống kê chỉ phản ánh được thực tế ở mức độ tương đối, ở những khía cạnh và phương diện cụ thể.

Thứ hai, phương pháp khảo sát ý kiến chỉ được tiến hành với các đơn vị quản lí nhà nước trực tiếp tham gia các dự án PPP cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư và thầu tư nhân mà không được tiến hành đối với các nhà quản lý hành chính trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng như Bộ Xây Dựng; Bộ Kế Hoạch và Đầu tư; Bộ Khoa học công nghệ và thông tin, cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư PPP cơ sở hạ tầng. Ý kiến đánh giá của các đơn vị nhà nước trực tiếp tham gia các dự án PPP cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư và thầu tư nhân về thực trạng tác động của các yếu tố đến hiệu quả và thành công của dự án là rất quan trọng, nhưng cũng chưa phản

ánh đầy đủ, tổng thể ý kiến của tất cả các đối tác có vai trò quan trọng đối với hiệu quả. Giới hạn đối tượng khảo sát một phần nào đó làm hạn chế kết quả nghiên cứu, về những đánh giá cũng như những khuyến nghị được đưa ra.

Thứ ba, Việc đánh giá dựa trên ý kiến của các đơn vị nhà nước trực tiếp tham gia các dự án PPP cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư và thầu tư nhân nên chưa đảm bảo chắc chắc. Những kết quả thu được là hoàn toàn chính xác nhưng vẫn có thể xảy ra những yếu tố mang tính chủ quan. Nhất là tiến hành điều tra các nhà thầu, nhà đầu tư bằng bảng hỏi nên có thể thu được khối lượng lớn dữ liệu, song độ tin cậy lại không thực sự cao.

Thứ tư, Những giải pháp đưa ra trong đề tài mang tính định hướng nên khá chung chung. Do đó, để áp dụng vào thực hiện cụ thể tại một địa phương cần phải có một đề tài khoa học chi tiết và cụ thể hơn

Với những hạn chế như vậy, trong thời gian tiếp theo, tác giả sẽ trau dồi thêm những kiến thức khoa học để thực hiện nghiên cứu một cách sâu rộng hơn nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy cô, những nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chiến lược vĩ mô để đề tài được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

Chính phủ, Dự thảo nghị định ngày 25/02/2014 về Hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu về lựa

chọn nhà thầu.

Chính phủ, Dự thảo nghị định ngày 7/3/2014 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

Chính phủ, Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao.

Chính phủ, quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về việc ban hành quy chế thí điểm

đầu tư theo hình thưc đối tác công - tư.

Đoàn Minh Huấn (2012), Báo cáo khoa học tổng kết đề tài “Nghiên cứu xây dựngcơ chế và mô hình hợp tác công tư phục vụ quá trình phá triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội”, Mã số: 01X-10/01-2012-2 của sở Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội.

Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Hình thức hợp tác công tư (Public Private Partnership) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Quang Vinh (2015), “Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát

triển, số 217.

Quốc hội, Luật đầu tư 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.

Quốc hội, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013.

Quốc hội, Luật xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003.

Thân Thanh Sơn (2015), Nghiên cứu phân bổ rủi ro trong hình thức hợp tác công tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Giao thông vận tải.

Ủy ban kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam, ngày 10/12/2013, Phương thức đối tác công - tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam, NXB Tri Thức.

Viện nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2013), Hợp tác công tư trong phát triển các

dự án hạ tầng thành phố Hồ Chí Minh.

Vũ Thị Thu Hằng (2016), Quản lý nhà nước đối với vốn hỗ trợ Phát triển chính thức (ODA)

trong xây dựng Kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ.

Tài liệu nước ngoài:

Akintoye, A (2007), “Developments in the UK Public Private Partnerships: Lessons for the New PPP Ventures (Keynote Paper)”, Proceedings of the 2007 International Conference on Concession Public / Infrastructural Projects (ICCPIP).

Akintoye, A., Hardcastle, C., Beck, M., Chinyio, E., Asenova, D. (2003), “Achieving Best Value in Construction Management and

Private Finance Iniative Project Procurement”, Economic.

Arjun P. Gupta (2011), “Governance Mechanisms for Infrastructure Public‐Private Partnerships:

Focus on India”, Submitted to the engineering systems division.

Bernard Pasquier (2008), Restructuring the Libyan Economy in Light of the New Role of the Government and the Private Sector, Private Sector Development Workshop, Tripoli.

Czerwinski, David, R. Richard Geddes (2010), “Policy Issues in U.S. Transportation Public-

Private Partnerships: Lessons from Australia”, San Jose State University.

Donijo Robbins, 2004, Handbook of Public Sector Economic, CRC Press.

Esther Cheung (2009), “Developing a Best Practice Framework for Implementing Public Private Partnerships (PPP) in Hong Kong”, A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy.

European Commission (2003), “Guidelines for Successful Public-Private Partnerships”.

Felix Villalba-Romero, Champika Liyanage (2016), “Evaluating Success in PPP Road Projects in Europe: A Comparison of Performance Measurement Approaches”, Transportation Research Procedia, Volume 14.

Felix Villalba-Romero, Champika Liyanage, Athena Roumboutsos (2015), “Sustainable PPPs: A comparative approach for road infrastructure”, Case Studies on Transport Policy, Volume 3, Issue 2.

Iyer, K.C,

“Hierarchical structuring of PPP Risks Using Journal of construction engineering and

Mohammed Sagheer (2010), Interpretative Structural Modeling”, management.

James B. Reed. James B. Reed, Nicholas J. Farber (2010), “Public-Private Partnerships for Transportation A Toolkit for Legislators”, At the direction of the NCSL Partners Project on Public-Private Partnerships (PPPs) for Transportation

Jicai Liu, Ruolan Gao, Charles Y.J. Cheah, Jian Luo (2016), “Incentive mechanism for inhibiting investors' opportunistic behavior in PPP projects”, International Journal of Project Management, Volume 34, Issue 7.

Khulumane John Maluleka (2008), “Transport economic regulatory intervention in the transport infrastructure: a public private partnership exploratory study”, Doctor thesis, University of South Africa.

Li, B., Akintoye, A., Edwards, Hardcastle (2005), “The allocation of risk in PPP/PFI construction

projects in the UK”, International Journal of Project Management, Volume 23, Issue 1.

Md Mahbubul Hakim, Rico Merkert (2016), “The causal relationship between air transport and Journal of Transport

economic growth: Empirical evidence from South Asia”, Geography, Volume 56.

Meng-Kin Lim (2004), “Shifting the burden of health care finance: a case study of public–private

partnership in Singapore”, Health Policy, Volume 69, Issue 1.

Michael D. Wittman, Florian Allroggen, Robert Malina (2016), “Public service obligations for air transport in the United States and Europe: Connectivity effects and value for money”, Transportation Research Part A: Policy and Practice, Volume 94.

Michael J. Garvin (2010), “Enabling Development of the Transportation Public- PrivatePartnership Market in the United States”, Journal of construction engineering and managemen, Volume 136 issue 4.

Plumb Ion, Zamfir Andreea, Mina Laura (2009), “Public – private partnership – Solution or victim

of the current economic crisis?”, The Journal of the Faculty of Economics - Economic

Qiao, L., Wang, S.Q., Tiong, Chan (2001), “Framework for Critical Success Factors of BOT

Projects in China”, Journal of Project Finance, Volume 7, Issue1.

Raisbeck, P., Duffield, C., Xu, M. (2010), “Comparative performance of PPPs and traditional procurement in Australia” Construction Management and Economics, Volume 28.

Reed, James B, (2009), “Transportation Funding Outlook 2009”, LegisBrief (National

Conference of State Legislatures).

Roumboutsos, A., Chiara, N (2010). “A strategic partnering framework analysis methodology for public-private partnerships” Journal of Financial Management of Property and Construction, Volume 15, Issue 3.

Sachs, T., Tiong, R., Wang, S.Q. (2007), Analysis of political risks and opportunities in public

private partnerships (PPP) in China and selected Asian.

Tangjun Yuan, Kyoji Fukao, Harry X. Wu (2010), “Comparative output and labor productivity in manufacturing between China, Japan, Korea and the United States for ca. 1935 – A production-side PPP approach”, Explorations in Economic History, Volume 47, Issue 3.

Tingting Liu, Yan Wang, Suzanne Wilkinson (2016), “Identifying critical factors affecting the effectiveness and efficiency of tendering processes in Public–Private Partnerships (PPPs): A comparative analysis of Australia and China”, International Journal of Project Management, Volume 34, Issue 4.

Vinod N. Sambrani (2014), “PPP from Asia and African Perspective towards Infrastructure Development: A Case Study of Greenfield Bangalore International Airport, India”, Procedia - Social and Behavioral Sciences, Volume 157.

Weiwu Zou (2012), “Relationship Management in Public Private Partnership Infrastructure Projects”, A Thesis submitted in partial fulfillment of the requirements for the Degree of Doctor of Philosophy at The University of Hong Kong.

Yelin Xu; Albert P. C. Chan; John F. Y. Yeung (2010), “Developing a Fuzzy Risk Allocation Model for PPP Projects in China”, Journal Of Construction Engineering And Management.

Yescombe E (2007), Public - Private Partnerships: Principles of Policy and Finance,

Butterworth-Heinemann.

Yooil Bae, Yu-Min Joo (2016), “Pathways to meet critical success factors for local PPPs: The

cases of urban transport infrastructure in Korean cities”, Cities, Volume 53.

Young Hoon Kwak, YingYi Chih, William Ibbs, C. (2009), “Towards a comprehenshive understanding of Public Private Partnerships for Infrastructure Development”, California Management Review, vol. 51, No. 2.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng hỏi điều tra đối với đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (Mẫu phiếu dành cho các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư)

Với mục Hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành thực hiện khảo sát này. Chúng tôi mong quý vị sẽ dành chút thời gian giúp chúng tôi hoàn thành phiếu thăm dò này. Xin chân thành cảm ơn quý vị.

Địa phương:………………………………………………………………………………..

Tên đơn vị: .................................................................................................. Địa chỉ: ............

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về chất lượng cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau : Chỉ đánh dấu (☒) vào một lựa chọn cho mỗi loại tiêu chí đánh giá dưới đây:

Loại tiêu chí

Kém

Tốt

Rất kém

Trung bình

Rất tốt

1. Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng ở

Việt Nam

2. Chất lượng kỹ thuật của cơ sở hạ

tầng

3. Hình thức, kiểu dáng của cơ sở hạ

tầng

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

4. Mức độ hiện đại của cơ sở hạ tầng 5. Mức giá sử dụng phù hợp 6. Mức độ thuận tiện trong việc sử dụng 7. Sự gắn kết giữa người sử dụng và

nhà quản lý cơ sở hạ tầng

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về chất lượng quy trình xây dựng và hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau:

(1 – Hoàn toàn không đồng ý; 2 – Không đồng ý; 3 – Bình thường; 4 – Đồng ý; 5 – Hoàn

toàn đồng ý)

Điểm đánh giá

Phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP cơ sở hạ tầng 8. Tầm quan trọng của hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP cơ sở hạ tầng đã được nhận thức một

cách đúng đắn.

9. Hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án

PPP cơ sở hạ tầng được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

10. Kết quả hoạt động phân tích đã phản ánh đúng thực trạng chính

sách và các dự án PPP

11. Kết quả hoạt động phân tích góp phần nâng cao chất lượng quy

định, chính sách được xây dựng

Điểm đánh giá

12. Hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục theo luật định Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách 13. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện

thường xuyên, liên tục

14. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện theo

đúng quy trình, thủ tục theo luật định

15. Trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện chính sách

được phân chia rõ ràng, khoa học

16. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách đảm bảo tính kịp thời

trong việc giải quyết các bất cập phát sinh trên thực tế

17. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện bởi

đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, trình độ.

18. Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng hoàn thiện

chính sách đạt được hiệu quả cao

Hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định

Điểm đánh giá

19. Có thông báo đầy đủ về các văn bản pháp luật 20. Có đầy đủ văn bản hướng dẫn thi hành các quy định 21. Các cơ quan nhà nước chủ động, nhiệt tình trong công tác

hướng dẫn thi hành pháp luật

22. Công tác hướng dẫn có hiệu quả cao trong việc nâng cao nhận

thức pháp luật của mọi người

Điểm đánh giá

Theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách 23. Hoạt động theo dõi, đánh giá hiệu quả được thực hiện thường

xuyên liên tục

24. Hoạt động giám sát và kiểm soát chất lượng đem lại hiệu quả

cao trong việc phát hiện các hạn chế, sai phạm

25. Công tác theo dõi, đánh giá được thực hiện đúng trình tự theo

luật định

26. Hoạt động theo dõi đánh giá đã đảm bảo tính khách quan 27. Hoạt động theo dõi đánh giá đã đảm bảo tính chính xác

Bổ sung, khắc phục các hạn chế

Điểm đánh giá

28. Hạn chế, bất cập trong các văn bản được khắc phục kịp thời 29. Hạn chế, bất cập trong các văn bản đã được bổ sung, thay thế

bằng các quy định khác phù hợp hơn

30. Các văn bản đã đảm bảo tính toàn diện sau khi bổ sung, thay

thế

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các cơ quan nhà nước theo các tiêu chí cụ thể sau:

Cơ quan nhà nước tại trung ương

Điểm đánh giá

31. Các cơ quan tại trung ương đã thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc

32. Chính Phủ Việt Nam đã xây dựng hệ thống thể chế đảm bảo tính định hướng chung để phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng

33. Văn phòng PPP tại trung ương là đầu mối quan trọng trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp quốc gia

34. Tổ công tác liên ngành PPP tại trung ương đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp quốc gia được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư

35. Bộ Tài chính và ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý và điều hành hiệu quả các quỹ tài chính hỗ trợ như PDF, VFG và IFF 36. Nhà đầu tư các công trình dự án cấp quốc gia đã đảm bảo quá trình quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật

Cơ quan nhà nước tại địa phương

Điểm đánh giá

37. Các cơ quan tại địa phương đã thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại địa phương mình

38. UBND các tỉnh, thành phố đã xây dựng, cụ thể hóa hệ thống thể chế phù hợp với đặc điểm và tình hình phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương

39. Văn phòng PPP tại địa phương là đầu mối quan trọng trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp tỉnh trở xuống 40. Tổ công tác liên ngành PPP tại địa phương đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp tỉnh được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư

41. Sở tài chính đảm bảo công tác quản lý tài chính của các dự án

thuộc quyền quản lý của UBND tỉnh

42. Nhà đầu tư các công trình dự án cấp tỉnh đã đảm bảo quá trình quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về mức độ quan trọng của các nguyên tắc trong việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Yếu tố tác động

Rất không

Không quan

Quan Trọng

Khá Quan

Rất quan

trọng

Trọng

trọng

quan trọng ☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

43. Công khai minh bạch về thông tin 44. Xác định trọng số 45. Đảm bảo hài hòa lợi ích 46. Có sự tham gia của cộng đồng

và các bên liên quan

47. Xây dựng chiến lược dài hạn 48. Đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động phân tích dự án đầu tư cơ sở hạ tầng

49. Đảm bảo minh bạch tài chính

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về mức độ tác động của các yếu tố tới quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Yếu tố tác động

Tác động

Không tác động

Tác động yếu

Tác động mạnh

Tác động rất mạnh ☐

50. Môi trường chính trị 51. Công tác tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng thể chế 52. Trình độ, năng lực của nhà làm

luật

53. Ý thức pháp luật của nhà làm luật 54. Các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền

thống dân tộc 55. Dư luận xã hội 56. Môi trường kinh tế - xã hội trong

nước

57. Quá trình toàn cầu hóa 58. Sự phát triển kinh tế thế giới 59. Sự phát triển khoa học công nghệ

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

Xin chân thành cảm ơn Ông/bà!

Phụ lục 2: Bảng hỏi điều tra đối với các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công tư

KHẢO SÁT Ý KIẾN CÁC NHÀ THẦU TƯ NHÂN THAM GIA CÔNG TRÌNH DỰ ÁN

HỢP TÁC CÔNG TƯ

Nhằm mục đích tìm hiểu và đưa ra những khuyến nghị thúc đẩy hiệu quả hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở, chúng tôi tiến hành khảo sát thu thập ý kiến của các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công tư. Những ý kiến của các nhà thầu là cơ sở quan trọng để đưa ra các khuyến nghị, đề xuất thích đáng nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

A. Thông tin chung về nhà thầu tư nhân 1. Tên nhà thầu: .................................................

Địa chỉ: ............

2. Năm thành lập (tính đến hiện tại): .............................................

☐ < 1 năm ☐1 - 3 năm

☐3 – 5 năm ☐4 - 10 năm

☐ > 10 năm

3. Họ tên người đại diện: ............................................................. Chức vụ: ......................... 4. Loại hình Công ty:

 Tổ chức tài chính  Công ty cổ phần  Cty TNHH tư nhân

 Công ty hợp danh

 Cty có vốn đầu tư

nước ngoài (liên doanh & 100% vốn nước ngoài) 5. Quy mô của Công ty:

a) Về lao động:  Dưới 100 LĐ  Từ 100 - 500 LĐ  500 - 1000 LĐ

 1000-2000

 Từ 2000 LĐ trở lên  50 - 100 tỷ

 Từ 100 - 500 tỷ

b) Về doanh thu:  Dưới 50 tỷ  Từ 500 - 1000 tỷ

 Trên 1000 tỷ

B. Xin Ông/Bà cho biết ý kiến về các nhận xét sau trong quá trình triển khai thực hiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã nêu mà anh chị đã tham gia trong thời gian qua

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về chất lượng cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau : Chỉ đánh dấu (☒) vào một lựa chọn cho mỗi loại tiêu chí đánh giá dưới đây:

Loại tiêu chí

Kém

Tốt

Rất kém

Trung bình

Rất tốt

6. Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng ở

Việt Nam

7. Chất lượng kỹ thuật của cơ sở hạ

tầng

8. Hình thức, kiểu dáng của cơ sở hạ ☐

tầng

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

9. Mức độ hiện đại của cơ sở hạ tầng 10. Mức giá sử dụng phù hợp 11. Mức độ thuận tiện trong việc sử dụng 12. Sự gắn kết giữa người sử dụng và

nhà quản lý cơ sở hạ tầng

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về chất lượng quy trình xây dựng và hoàn thiện thể chế về quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau:

(1 – Hoàn toàn không đồng ý; 2 – Không đồng ý; 3 – Bình thường; 4 – Đồng ý; 5 – Hoàn

toàn đồng ý)

Phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP

Điểm đánh giá

cơ sở hạ tầng 13. Tầm quan trọng của hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP cơ sở hạ tầng đã được nhận thức một cách đúng đắn.

14. Hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án

PPP cơ sở hạ tầng được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

15. Kết quả hoạt động phân tích đã phản ánh đúng thực trạng chính

sách và các dự án PPP

16. Kết quả hoạt động phân tích góp phần nâng cao chất lượng quy

định, chính sách được xây dựng

17. Hoạt động phân tích chính sách hiện hành và thực trạng dự án PPP được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục theo luật định

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách

Điểm đánh giá

18. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện

thường xuyên, liên tục

19. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện theo

đúng quy trình, thủ tục theo luật định

20. Trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện chính sách

được phân chia rõ ràng, khoa học

21. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách đảm bảo tính kịp thời

trong việc giải quyết các bất cập phát sinh trên thực tế

22. Công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách được thực hiện bởi

đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, trình độ.

23. Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng hoàn thiện

chính sách đạt được hiệu quả cao

Hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định

Điểm đánh giá

24. Có thông báo đầy đủ về các văn bản pháp luật 25. Có đầy đủ văn bản hướng dẫn thi hành các quy định 26. Các cơ quan nhà nước chủ động, nhiệt tình trong công tác

hướng dẫn thi hành pháp luật

27. Công tác hướng dẫn có hiệu quả cao trong việc nâng cao nhận

thức pháp luật của mọi người

Theo dõi, đánh giá hiệu quả các quy định, chính sách

Điểm đánh giá

28. Hoạt động theo dõi, đánh giá hiệu quả được thực hiện thường

xuyên liên tục

29. Hoạt động giám sát và kiểm soát chất lượng đem lại hiệu quả

cao trong việc phát hiện các hạn chế, sai phạm

30. Công tác theo dõi, đánh giá được thực hiện đúng trình tự theo

luật định

31. Hoạt động theo dõi đánh giá đã đảm bảo tính khách quan 32. Hoạt động theo dõi đánh giá đã đảm bảo tính chính xác

Bổ sung, khắc phục các hạn chế

Điểm đánh giá

33. Hạn chế, bất cập trong các văn bản được khắc phục kịp thời 34. Hạn chế, bất cập trong các văn bản đã được bổ sung, thay thế

bằng các quy định khác phù hợp hơn

35. Các văn bản đã đảm bảo tính toàn diện sau khi bổ sung, thay

thế

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của các cơ quan nhà nước theo các tiêu chí cụ thể sau:

Cơ quan nhà nước tại trung ương

Điểm đánh giá

36. Các cơ quan tại trung ương đã thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc

37. Chính Phủ Việt Nam đã xây dựng hệ thống thể chế đảm bảo tính định hướng chung để phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng

38. Văn phòng PPP tại trung ương là đầu mối quan trọng trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp quốc gia

39. Tổ công tác liên ngành PPP tại trung ương đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp quốc gia được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư.

40. Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý và điều hành hiệu quả các quỹ tài chính hỗ trợ như PDF, VFG và IFF 41. Nhà đầu tư các công trình dự án cấp quốc gia đã đảm bảo quá trình quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật

Cơ quan nhà nước tại địa phương

Điểm đánh giá

42. Các cơ quan tại địa phương đã thực hiện tốt nhiệm vụ hoàn thiện thể chế quan hệ đối tác công tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tại địa phương mình.

43. UBND các tỉnh, thành phố đã xây dựng, cụ thể hóa hệ thống thể chế phù hợp với đặc điểm và tình hình phát triển đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương

44. Văn phòng PPP tại địa phương là đầu mối quan trọng trong việc hướng dẫn các thủ tục, tiếp nhận các thông tin của Nhà đầu tư, Nhà tài trợ, các tổ chức tư vấn của các dự án cấp tỉnh trở xuống. 45. Tổ công tác liên ngành PPP tại địa phương đảm bảo tốt vai trò là một đơn vị tư vấn, thẩm tra các dự án cấp tỉnh được đề xuất thực hiện theo hình thức đối tác công tư.

46. Sở tài chính đảm bảo công tác quản lý tài chính của các dự án

thuộc quyền quản lý của UBND tỉnh

47. Nhà đầu tư các công trình dự án cấp tỉnh đã đảm bảo quá trình xây dựng hay vận hành dự án, tạo cơ sở cho quá trình thực thi và đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật

(cid:0)

Đánh giá mức độ quan trọng của các nguyên tắc trong việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Yếu tố tác động

Quan Trọng

Không quan trọng

Khá Quan Trọng

Rất quan trọng

Rất không quan trọng ☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

48. Công khai minh bạch về thông tin 49. Xác định trọng số 50. Đảm bảo hài hòa lợi ích 51. Có sự tham gia của cộng đồng và

các bên liên quan

52. Xây dựng chiến lược dài hạn 53. Đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động phân tích dự án đầu tư cơ sở hạ tầng

54. Đảm bảo minh bạch tài chính

(cid:0)

Đánh giá mức độ tác động tới việc hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

Yếu tố tác động

Tác động

Không tác động

Tác động yếu

Tác động mạnh

Tác động rất mạnh ☐

55. Môi trường chính trị 56. Công tác tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng thể chế 57. Trình độ, năng lực của nhà làm

luật

58. Ý thức pháp luật của nhà làm luật 59. Các yếu tố văn hoá, lịch sử truyền

thống dân tộc 60. Dư luận xã hội 61. Môi trường kinh tế - xã hội trong

nước

62. Quá trình toàn cầu hóa 63. Sự phát triển kinh tế thế giới 64. Sự phát triển khoa học công nghệ

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

☐ ☐ ☐

Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà!

Phụ lục 3: Bảng hỏi điều tra đối với người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

(Mẫu phiếu dành cho người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư)

Tên dự án : ……………..

Kinh thưa quý vị!

Nhằm mục đích hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành khảo sát này. Ý kiến của quý vị sẽ giúp các cơ quan chức năng và doanh nghiệp hoàn thiện thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng ngày một tốt hơn.

Xin quý vị hãy dành chút thời gian giúp chúng tôi hoàn thiện phiếu hỏi ý kiến này. Xin chân thành cảm ơn!

A. Thông tin chung

(cid:0)

Thông tin cá nhân

1. Họ và tên: ……

Địa chỉ..........................................................................Tel.............................

 30-39 tuổi  40-49 tuổi  50-59 tuổi từ 60 tuổi trở lên

 Nam

 Nữ

2. Độ tuổi :  Dưới 30 tuổi 3. Giới tính : 4. Quý khách sử dụng công trình dự án hợp tác công tư trong thời gian bao lâu

Vừa sử dụng o

1 năm o

5 năm o Thời gian khác o

5. Loại hình công trình dự án hợp tác công tư mà Ông/Bà sử dụng

Cơ sở y tế o

Cơ sở giáo dục o

Đường Quốc lộ o

Trụ sở cơ quan nhà nướco

Loại hình khác o

B. Đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng và thể chế về đối tác công tư trong phát triển

cơ sở hạ tầng ở Việt Nam

(cid:0)

Đánh giá của Ông/Bà về chất lượng cơ sở hạ tầng và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau : Chỉ đánh dấu (☒) vào một lựa chọn cho mỗi loại tiêu chí đánh giá dưới đây:

Loại tiêu chí

Kém

Tốt

Rất kém

Trung bình

Rất tốt

6. Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt

Nam

7. Chất lượng kỹ thuật của cơ sở hạ tầng

8. Hình thức, kiểu dáng của cơ sở hạ tầng

9. Mức độ hiện đại của cơ sở hạ tầng

10.Mức giá sử dụng phù hợp

11. Mức độ thuận tiện trong việc sử dụng

12.Sự gắn kết giữa người sử dụng và đơn

vị quản lý cơ sở hạ tầng

(cid:0)

Hãy cho biết mức độ hài lòng của Ông/Bà đối với chất lượng cơ sở hạ tầng và thể chế về đối tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng theo các tiêu chí cụ thể sau

Loại tiêu chí

Không hài lòng

Bình thườn g

Hài lòn g

Rất hài lòng

Rất không hài lòng

13.Mức độ hài lòng với chất lượng kỹ

thuật của cơ sở hạ tầng

14.Mức độ hài lòng với mức giá sử dụng

15.Mức độ hài lòng với các phương tiện

cơ sở vật chất

16.Mức độ hài lòng với thái độ cung cấp dịch vụ của đơn vị quản lý cơ sở hạ tầng

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!

Phụ lục 4: Kết quả khảo sát điều tra các đơn vị quản lý nhà nước tham gia công trình dự án hợp tác công tư

Q2

Frequency Valid Percent Valid

17.9 16.1 19.6 28.6 17.9 Percent 10 9 11 16 10 Cumulative Percent 17.9 16.1 19.6 28.6 17.9 17.9 33.9 53.6 82.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q4

Frequency Valid Percent Valid

23.2 19.6 32.1 3.6 21.4 Percent 13 11 18 2 12 Cumulative Percent 23.2 19.6 32.1 3.6 21.4 23.2 42.9 75.0 78.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q5.1

Frequency Valid Percent Valid

Percent 14 9 22 11 25.0 16.1 39.3 19.6 Cumulative Percent 25.0 16.1 39.3 19.6 25.0 41.1 80.4 100.0 1 2 3 4 Total 56 100.0 100.0 Q5.2

Frequency Percent Valid Percent Valid

6 12 19 13 6 10.7 21.4 33.9 23.2 10.7 Cumulative Percent 10.7 21.4 33.9 23.2 10.7 10.7 32.1 66.1 89.3 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q61

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3 14 22 15 2 5.4 25.0 39.3 26.8 3.6 5.4 25.0 39.3 26.8 3.6 5.4 30.4 69.6 96.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q62

Frequency Valid Percent Valid 1 2 Percent 17 15 30.4 26.8 Cumulative Percent 30.4 26.8 30.4 57.1

16 6 2 28.6 10.7 3.6 28.6 10.7 3.6 85.7 96.4 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q63

Frequency Valid Percent Valid

Percent 11 11 17 9 8 19.6 19.6 30.4 16.1 14.3 Cumulative Percent 19.6 19.6 30.4 16.1 14.3 19.6 39.3 69.6 85.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q64

Frequency Percent Valid Percent Valid

6 19 22 7 2 10.7 33.9 39.3 12.5 3.6 Cumulative Percent 10.7 33.9 39.3 12.5 3.6 10.7 44.6 83.9 96.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q65

Frequency Percent Valid Percent Valid

9 13 17 14 3 16.1 23.2 30.4 25.0 5.4 Cumulative Percent 16.1 23.2 30.4 25.0 5.4 16.1 39.3 69.6 94.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q66

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5 14 11 12 14 8.9 25.0 19.6 21.4 25.0 8.9 25.0 19.6 21.4 25.0 8.9 33.9 53.6 75.0 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q67

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1 7 11 16 21 1.8 12.5 19.6 28.6 37.5 1.8 12.5 19.6 28.6 37.5 1.8 14.3 33.9 62.5 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q71

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 16 17 21 3.6 28.6 30.4 37.5 3.6 28.6 30.4 37.5 3.6 32.1 62.5 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q72

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

4 23 13 16 7.1 41.1 23.2 28.6 7.1 41.1 23.2 28.6 7.1 48.2 71.4 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q73

Frequency Valid Percent Valid

Percent 17 22 6 11 30.4 39.3 10.7 19.6 Cumulative Percent 30.4 39.3 10.7 19.6 30.4 69.6 80.4 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q74

Frequency Valid Percent Valid

Percent 46 4 6 82.1 7.1 10.7 Cumulative Percent 82.1 7.1 10.7 82.1 89.3 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q75

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 19 14 21 3.6 33.9 25.0 37.5 3.6 33.9 25.0 37.5 3.6 37.5 62.5 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q76

Frequency Valid Percent Valid

Percent 19 10 27 33.9 17.9 48.2 Cumulative Percent 33.9 17.9 48.2 33.9 51.8 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q77

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

1 2 3 2 1 24 3.6 1.8 42.9 3.6 1.8 42.9 3.6 5.4 48.2

19.6 32.1 11 18 19.6 32.1 67.9 100.0 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q78

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 7.1 41.1 21.4 26.8 2 4 23 12 15 3.6 7.1 41.1 21.4 26.8 3.6 10.7 51.8 73.2 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q79

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 7.1 39.3 26.8 23.2 2 4 22 15 13 3.6 7.1 39.3 26.8 23.2 3.6 10.7 50.0 76.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q710

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5.4 48.2 17.9 28.6 3 27 10 16 5.4 48.2 17.9 28.6 5.4 53.6 71.4 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q711

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5.4 41.1 16.1 37.5 3 23 9 21 5.4 41.1 16.1 37.5 5.4 46.4 62.5 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q712

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 14.3 42.9 16.1 25.0 1 8 24 9 14 1.8 14.3 42.9 16.1 25.0 1.8 16.1 58.9 75.0 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q713

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid 1 3 1.8 5.4 1.8 7.1 1 2 1.8 5.4

22 17 13 39.3 30.4 23.2 39.3 30.4 23.2 46.4 76.8 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q714

Frequency Valid Percent Valid

Percent 11 6 18 10 11 19.6 10.7 32.1 17.9 19.6 Cumulative Percent 19.6 10.7 32.1 17.9 19.6 19.6 30.4 62.5 80.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q715

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 37.5 30.4 14.3 16.1 1 21 17 8 9 1.8 37.5 30.4 14.3 16.1 1.8 39.3 69.6 83.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q716

Frequency Valid Percent Valid

Percent 11 27 17 1 19.6 48.2 30.4 1.8 Cumulative Percent 19.6 48.2 30.4 1.8 19.6 67.9 98.2 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q717

Frequency Percent Valid Percent Valid

16.1 23.2 57.1 3.6 9 13 32 2 Cumulative Percent 16.1 23.2 57.1 3.6 16.1 39.3 96.4 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q718

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 42.9 50.0 5.4 1 24 28 3 1.8 42.9 50.0 5.4 1.8 44.6 94.6 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q719

Frequency Valid Percent Valid 2 3 Percent 12 32 21.4 57.1 Cumulative Percent 21.4 57.1 21.4 78.6

12.5 8.9 7 5 12.5 8.9 91.1 100.0 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q720

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

8.9 44.6 30.4 16.1 5 25 17 9 8.9 44.6 30.4 16.1 8.9 53.6 83.9 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q721

Frequency Percent Valid Percent Valid

Cumulative Percent 16.1 23.2 28.6 25.0 7.1 16.1 39.3 67.9 92.9 100.0 16.1 23.2 28.6 25.0 7.1 9 13 16 14 4 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q722

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 10.7 53.6 21.4 12.5 1 6 30 12 7 1.8 10.7 53.6 21.4 12.5 1.8 12.5 66.1 87.5 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q723

Frequency Percent Valid Percent Valid

Cumulative Percent 16.1 23.2 23.2 26.8 10.7 16.1 39.3 62.5 89.3 100.0 16.1 23.2 23.2 26.8 10.7 9 13 13 15 6 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q81

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 64.3 26.8 5.4 2 36 15 3 3.6 64.3 26.8 5.4 3.6 67.9 94.6 100.0 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q82

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid 1 30 1.8 53.6 1.8 55.4 2 3 1.8 53.6

22 3 39.3 5.4 39.3 5.4 94.6 100.0 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q83

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 28 23 3 3.6 50.0 41.1 5.4 3.6 50.0 41.1 5.4 3.6 53.6 94.6 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q84

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 40 11 3 3.6 71.4 19.6 5.4 3.6 71.4 19.6 5.4 3.6 75.0 94.6 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q85

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 27 22 5 3.6 48.2 39.3 8.9 3.6 48.2 39.3 8.9 3.6 51.8 91.1 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q86

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3 32 17 4 5.4 57.1 30.4 7.1 5.4 57.1 30.4 7.1 5.4 62.5 92.9 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q87

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 12 21 13 8 3.6 21.4 37.5 23.2 14.3 3.6 21.4 37.5 23.2 14.3 3.6 25.0 62.5 85.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q88

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1 2 3 4 2 9 10 13 3.6 16.1 17.9 23.2 3.6 16.1 17.9 23.2 3.6 19.6 37.5 60.7

39.3 100.0 22 39.3 5 Total 100.0 56 100.0 Q89

Frequency Percent Valid Percent Valid

Cumulative Percent 12.5 30.4 35.7 12.5 8.9 12.5 42.9 78.6 91.1 100.0 7 17 20 7 5 12.5 30.4 35.7 12.5 8.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q810

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 28.6 28.6 21.4 17.9 3.6 32.1 60.7 82.1 100.0 2 16 16 12 10 3.6 28.6 28.6 21.4 17.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q811

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 23.2 32.1 23.2 17.9 3.6 26.8 58.9 82.1 100.0 2 13 18 13 10 3.6 23.2 32.1 23.2 17.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q812

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.6 19.6 16.1 30.4 30.4 3.6 23.2 39.3 69.6 100.0 2 11 9 17 17 3.6 19.6 16.1 30.4 30.4 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q91

Frequency Percent Valid Percent Valid

7 15 18 12 4 12.5 26.8 32.1 21.4 7.1 Cumulative Percent 12.5 26.8 32.1 21.4 7.1 12.5 39.3 71.4 92.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q92

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid 1 2 3.6 3.6 3.6

5.4 14.3 16.1 60.7 8.9 23.2 39.3 100.0 3 8 9 34 5.4 14.3 16.1 60.7 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q93

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

8.9 21.4 25.0 14.3 30.4 8.9 30.4 55.4 69.6 100.0 5 12 14 8 17 8.9 21.4 25.0 14.3 30.4 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q94

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 16.1 10.7 16.1 55.4 1.8 17.9 28.6 44.6 100.0 1 9 6 9 31 1.8 16.1 10.7 16.1 55.4 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q95

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

7.1 32.1 32.1 19.6 8.9 7.1 39.3 71.4 91.1 100.0 4 18 18 11 5 7.1 32.1 32.1 19.6 8.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q96

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.8 17.9 37.5 26.8 16.1 1.8 19.6 57.1 83.9 100.0 1 10 21 15 9 1.8 17.9 37.5 26.8 16.1 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q97

Frequency Percent Valid Percent Valid

8 13 17 10 8 14.3 23.2 30.4 17.9 14.3 Cumulative Percent 14.3 23.2 30.4 17.9 14.3 14.3 37.5 67.9 85.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q101

Frequency Percent Valid Percent Valid

Cumulative Percent 14.3 14.3 71.4 14.3 28.6 100.0 8 8 40 14.3 14.3 71.4 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q102

Frequency Percent Valid Percent Valid

Cumulative Percent 12.5 16.1 71.4 12.5 28.6 100.0 7 9 40 12.5 16.1 71.4 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q103

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

7.1 30.4 62.5 7.1 37.5 100.0 4 17 35 7.1 30.4 62.5 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q104

Frequency Valid Percent Valid

Percent 12 23 21 21.4 41.1 37.5 Cumulative Percent 21.4 41.1 37.5 21.4 62.5 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q105

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5.4 25.0 21.4 19.6 28.6 5.4 30.4 51.8 71.4 100.0 3 14 12 11 16 5.4 25.0 21.4 19.6 28.6 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q106

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

7.1 25.0 26.8 30.4 10.7 7.1 32.1 58.9 89.3 100.0 4 14 15 17 6 7.1 25.0 26.8 30.4 10.7 1 2 3 4 5 Total 100.0 56 100.0 Q107

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

7.1 16.1 21.4 7.1 23.2 44.6 4 9 12 7.1 16.1 21.4 2 3 4

31 55.4 55.4 100.0 5 Total 56 100.0 100.0 Q108

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1 11 11 8 25 1.8 19.6 19.6 14.3 44.6 1.8 19.6 19.6 14.3 44.6 1.8 21.4 41.1 55.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q109

Frequency Percent Valid Percent Valid

9 23 18 6 16.1 41.1 32.1 10.7 Cumulative Percent 16.1 41.1 32.1 10.7 16.1 57.1 89.3 100.0 2 3 4 5 Total 56 100.0 100.0 Q1010

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1 12 43 1.8 21.4 76.8 1.8 21.4 76.8 1.8 23.2 100.0 3 4 5 Total 56 100.0 100.0

Phụ lục 5: Kết quả khảo sát điều tra các nhà thầu tư nhân tham gia công trình dự án hợp tác công tư

Q2

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

9.9 12.7 22.5 40.8 14.1 Percent 14 18 32 58 20 9.9 12.7 22.5 40.8 14.1 9.9 22.5 45.1 85.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q4

Frequency Valid Percent Valid

21.1 25.4 20.4 15.5 17.6 Percent 30 36 29 22 25 Cumulative Percent 21.1 25.4 20.4 15.5 17.6 21.1 46.5 66.9 82.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q5.1

Frequency Valid Percent Valid

Percent 23 26 55 38 16.2 18.3 38.7 26.8 Cumulative Percent 16.2 18.3 38.7 26.8 16.2 34.5 73.2 100.0 1 2 3 4 Total 142 100.0 100.0 Q5.2

Valid Percent Frequency Cumulative Percent Valid

Percent 14 36 39 33 20 9.9 25.4 27.5 23.2 14.1 9.9 25.4 27.5 23.2 14.1 9.9 35.2 62.7 85.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q61

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

4.2 20.4 40.8 26.8 7.7 6 29 58 38 11 4.2 20.4 40.8 26.8 7.7 4.2 24.6 65.5 92.3 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q62

Valid Percent Frequency Valid Percent 45 48 31.7 33.8 1 2 Cumulative Percent 31.7 33.8 31.7 65.5

26 18 5 18.3 12.7 3.5 18.3 12.7 3.5 83.8 96.5 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q63

Frequency Valid Percent Valid

Cumulative Percent 13.4 25.4 25.4 17.6 18.3 13.4 38.7 64.1 81.7 100.0 Percent 19 36 36 25 26 13.4 25.4 25.4 17.6 18.3 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q64

Valid Percent Frequency Cumulative Percent Valid

8.5 37.3 40.8 5.6 7.7 8.5 45.8 86.6 92.3 100.0 Percent 12 53 58 8 11 8.5 37.3 40.8 5.6 7.7 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q65

Valid Percent Frequency Valid

Cumulative Percent 10.6 33.1 29.6 23.2 3.5 10.6 43.7 73.2 96.5 100.0 Percent 15 47 42 33 5 10.6 33.1 29.6 23.2 3.5 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q66

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

5.6 14.1 29.6 26.8 23.9 5.6 19.7 49.3 76.1 100.0 8 20 42 38 34 5.6 14.1 29.6 26.8 23.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q67

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.4 18.3 26.1 18.3 35.9 1.4 19.7 45.8 64.1 100.0 2 26 37 26 51 1.4 18.3 26.1 18.3 35.9 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q71

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.5 38.0 24.6 33.8 5 54 35 48 3.5 38.0 24.6 33.8 3.5 41.5 66.2 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q72

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.4 11.3 35.2 26.1 26.1 2 16 50 37 37 1.4 11.3 35.2 26.1 26.1 1.4 12.7 47.9 73.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q73

Frequency Valid Percent Valid

Percent 60 38 30 14 42.3 26.8 21.1 9.9 Cumulative Percent 42.3 26.8 21.1 9.9 42.3 69.0 90.1 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q74

Frequency Valid Percent Valid

Percent 77 24 20 21 54.2 16.9 14.1 14.8 Cumulative Percent 54.2 16.9 14.1 14.8 54.2 71.1 85.2 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q75

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

5 55 34 48 3.5 38.7 23.9 33.8 3.5 38.7 23.9 33.8 3.5 42.3 66.2 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q76

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

1 50 29 62 Valid Percent .7 35.2 20.4 43.7 .7 35.2 20.4 43.7 .7 35.9 56.3 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q77

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent

Valid

3.5 40.8 28.9 26.8 3.5 40.8 28.9 26.8 5 58 41 38 3.5 44.4 73.2 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q78

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2.1 4.9 44.4 25.4 23.2 2.1 4.9 44.4 25.4 23.2 3 7 63 36 33 2.1 7.0 51.4 76.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q79

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2.1 4.9 45.8 26.1 21.1 2.1 4.9 45.8 26.1 21.1 3 7 65 37 30 2.1 7.0 52.8 78.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q710

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.4 3.5 42.3 26.1 26.8 1.4 3.5 42.3 26.1 26.8 2 5 60 37 38 1.4 4.9 47.2 73.2 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q711

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.4 1.4 41.5 21.8 33.8 1.4 1.4 41.5 21.8 33.8 2 2 59 31 48 1.4 2.8 44.4 66.2 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q712

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

4.2 17.6 28.9 28.2 21.1 4.2 17.6 28.9 28.2 21.1 6 25 41 40 30 4.2 21.8 50.7 78.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q713

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2 18 49 45 28 1.4 12.7 34.5 31.7 19.7 1.4 12.7 34.5 31.7 19.7 1.4 14.1 48.6 80.3 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q714

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

8 46 48 21 19 5.6 32.4 33.8 14.8 13.4 5.6 32.4 33.8 14.8 13.4 5.6 38.0 71.8 86.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q715

Valid Percent Frequency Valid

19.7 22.5 23.9 15.5 18.3 Percent 28 32 34 22 26 Cumulative Percent 19.7 22.5 23.9 15.5 18.3 19.7 42.3 66.2 81.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q716

Valid Percent Frequency Valid

Percent 16 63 57 6 11.3 44.4 40.1 4.2 Cumulative Percent 11.3 44.4 40.1 4.2 11.3 55.6 95.8 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q717

Valid Percent Frequency Valid

Percent 20 53 67 2 14.1 37.3 47.2 1.4 Cumulative Percent 14.1 37.3 47.2 1.4 14.1 51.4 98.6 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q718

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

6 77 57 2 4.2 54.2 40.1 1.4 4.2 54.2 40.1 1.4 4.2 58.5 98.6 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q719

Frequency Valid Percent Valid

Cumulative Percent 19.7 48.6 26.1 5.6 19.7 68.3 94.4 100.0 Percent 28 69 37 8 19.7 48.6 26.1 5.6 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q720

Frequency Valid Percent Valid

Cumulative Percent 10.6 43.7 33.1 12.7 10.6 54.2 87.3 100.0 Percent 15 62 47 18 10.6 43.7 33.1 12.7 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q721

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

1.4 50.0 19.7 21.1 7.7 2 71 28 30 11 1.4 50.0 19.7 21.1 7.7 1.4 51.4 71.1 92.3 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q722

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

Valid Percent .7 9.9 37.3 41.5 10.6 1 14 53 59 15 .7 9.9 37.3 41.5 10.6 .7 10.6 47.9 89.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q723

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

2.8 32.4 35.9 22.5 6.3 4 46 51 32 9 2.8 32.4 35.9 22.5 6.3 2.8 35.2 71.1 93.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q81

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

Valid Percent .7 7.0 54.2 24.6 13.4 1 10 77 35 19 .7 7.0 54.2 24.6 13.4 .7 7.7 62.0 86.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0

Q82

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

2.8 52.8 32.4 12.0 4 75 46 17 2.8 52.8 32.4 12.0 2.8 55.6 88.0 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q83

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

4.9 48.6 35.9 10.6 7 69 51 15 4.9 48.6 35.9 10.6 4.9 53.5 89.4 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q84

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

1 12 87 26 16 Valid Percent .7 8.5 61.3 18.3 11.3 .7 8.5 61.3 18.3 11.3 .7 9.2 70.4 88.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q85

Valid Percent Frequency Valid

Percent 21 65 36 20 14.8 45.8 25.4 14.1 Cumulative Percent 14.8 45.8 25.4 14.1 14.8 60.6 85.9 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q86

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

1 14 76 32 19 Valid Percent .7 9.9 53.5 22.5 13.4 .7 9.9 53.5 22.5 13.4 .7 10.6 64.1 86.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q87

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

7 43 35 33 24 4.9 30.3 24.6 23.2 16.9 4.9 30.3 24.6 23.2 16.9 4.9 35.2 59.9 83.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0

Q88

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.5 14.8 18.3 30.3 33.1 5 21 26 43 47 3.5 14.8 18.3 30.3 33.1 3.5 18.3 36.6 66.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q89

Frequency Valid Percent Valid

Percent 21 33 51 27 10 Cumulative Percent 14.8 23.2 35.9 19.0 7.0 14.8 38.0 73.9 93.0 100.0 14.8 23.2 35.9 19.0 7.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q810

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

5.6 25.4 26.1 26.1 16.9 8 36 37 37 24 5.6 25.4 26.1 26.1 16.9 5.6 31.0 57.0 83.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q811

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

9.2 16.2 29.6 26.8 18.3 Percent 13 23 42 38 26 9.2 16.2 29.6 26.8 18.3 9.2 25.4 54.9 81.7 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q812

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

3.5 17.6 20.4 29.6 28.9 5 25 29 42 41 3.5 17.6 20.4 29.6 28.9 3.5 21.1 41.5 71.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q91

Frequency Valid Percent Valid

Percent 21 36 44 29 14.8 25.4 31.0 20.4 Cumulative Percent 14.8 25.4 31.0 20.4 14.8 40.1 71.1 91.5 1 2 3 4

8.5 12 8.5 100.0 5 Total 100.0 142 100.0 Q92

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

4 7 26 28 77 2.8 4.9 18.3 19.7 54.2 2.8 4.9 18.3 19.7 54.2 2.8 7.7 26.1 45.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q93

Frequency Valid Percent Valid

Percent 23 31 27 18 43 Cumulative Percent 16.2 21.8 19.0 12.7 30.3 16.2 38.0 57.0 69.7 100.0 16.2 21.8 19.0 12.7 30.3 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q94

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

4 19 26 28 65 2.8 13.4 18.3 19.7 45.8 2.8 13.4 18.3 19.7 45.8 2.8 16.2 34.5 54.2 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q95

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5 35 49 39 14 3.5 24.6 34.5 27.5 9.9 3.5 24.6 34.5 27.5 9.9 3.5 28.2 62.7 90.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 100.0 142 100.0 Q96

Frequency Valid Percent Valid

Percent 17 52 47 26 12.0 36.6 33.1 18.3 Cumulative Percent 12.0 36.6 33.1 18.3 12.0 48.6 81.7 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q97

Valid Percent Frequency Cumulative Percent Valid Percent 11 35 7.7 24.6 1 2 7.7 24.6 7.7 32.4

37 39 20 26.1 27.5 14.1 26.1 27.5 14.1 58.5 85.9 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q101

Frequency Valid Percent Valid

Percent 18 22 102 12.7 15.5 71.8 Cumulative Percent 12.7 15.5 71.8 12.7 28.2 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q102

Frequency Valid Percent Valid

Percent 16 32 94 11.3 22.5 66.2 Cumulative Percent 11.3 22.5 66.2 11.3 33.8 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q103

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

6.3 33.1 60.6 6.3 33.1 60.6 6.3 39.4 100.0 9 47 86 3 4 5 Total 100.0 100.0 142 Q104

Frequency Valid Percent Valid

Percent 34 48 60 23.9 33.8 42.3 Cumulative Percent 23.9 33.8 42.3 23.9 57.7 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q105

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5 24 30 41 42 3.5 16.9 21.1 28.9 29.6 3.5 16.9 21.1 28.9 29.6 3.5 20.4 41.5 70.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q106

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

5 36 42 34 25 3.5 25.4 29.6 23.9 17.6 3.5 25.4 29.6 23.9 17.6 3.5 28.9 58.5 82.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q107

Frequency Percent Cumulative Percent Valid Percent Valid

4 23 32 83 2.8 16.2 22.5 58.5 2.8 16.2 22.5 58.5 2.8 19.0 41.5 100.0 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q108

Frequency Percent Cumulative Percent Valid

1 16 31 35 59 Valid Percent .7 11.3 21.8 24.6 41.5 .7 11.3 21.8 24.6 41.5 .7 12.0 33.8 58.5 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q109

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

2 14 58 45 23 1.4 9.9 40.8 31.7 16.2 1.4 9.9 40.8 31.7 16.2 1.4 11.3 52.1 83.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 142 100.0 100.0 Q1010

Valid Percent Frequency Percent Cumulative Percent Valid

4 23 115 2.8 16.2 81.0 2.8 16.2 81.0 2.8 19.0 100.0 3 4 5 Total 142 100.0 100.0

Phụ lục 6: Kết quả khảo sát điều tra người sử dụng cuối cùng các công trình dự án hợp tác công tư

Q2

Frequency Valid Percent Valid

Percent 24 33 53 84 38 10.3 14.2 22.8 36.2 16.4 Cumulative Percent 10.3 14.2 22.8 36.2 16.4 10.3 24.6 47.4 83.6 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q4

Frequency Valid Percent Valid

Percent 30 44 93 65 12.9 19.0 40.1 28.0 Cumulative Percent 12.9 19.0 40.1 28.0 12.9 31.9 72.0 100.0 1 2 3 4 Total 232 100.0 100.0 Q5

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 21 57 57 57 40 9.1 24.6 24.6 24.6 17.2 9.1 24.6 24.6 24.6 17.2 9.1 33.6 58.2 82.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q61

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 10 55 86 61 20 4.3 23.7 37.1 26.3 8.6 4.3 23.7 37.1 26.3 8.6 4.3 28.0 65.1 91.4 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q62

Frequency Valid Percent Valid

Percent 84 69 40 30 9 36.2 29.7 17.2 12.9 3.9 Cumulative Percent 36.2 29.7 17.2 12.9 3.9 36.2 65.9 83.2 96.1 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q63

Frequency Valid Percent Valid 1 2 Percent 40 59 17.2 25.4 Cumulative Percent 17.2 25.4 17.2 42.7

55 33 45 23.7 14.2 19.4 23.7 14.2 19.4 66.4 80.6 100.0 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q64

Frequency Valid Percent Valid

Percent 24 83 91 15 19 10.3 35.8 39.2 6.5 8.2 Cumulative Percent 10.3 35.8 39.2 6.5 8.2 10.3 46.1 85.3 91.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q65

Frequency Valid Percent Valid

Percent 27 82 65 53 5 11.6 35.3 28.0 22.8 2.2 Cumulative Percent 11.6 35.3 28.0 22.8 2.2 11.6 47.0 75.0 97.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q66

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 15 31 73 65 48 6.5 13.4 31.5 28.0 20.7 6.5 13.4 31.5 28.0 20.7 6.5 19.8 51.3 79.3 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q67

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 4 44 67 38 79 1.7 19.0 28.9 16.4 34.1 1.7 19.0 28.9 16.4 34.1 1.7 20.7 49.6 65.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q71

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 12 51 68 59 42 5.2 22.0 29.3 25.4 18.1 5.2 22.0 29.3 25.4 18.1 5.2 27.2 56.5 81.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q72

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 17 53 67 62 33 7.3 22.8 28.9 26.7 14.2 7.3 22.8 28.9 26.7 14.2 7.3 30.2 59.1 85.8 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q73

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 14 45 81 46 46 6.0 19.4 34.9 19.8 19.8 6.0 19.4 34.9 19.8 19.8 6.0 25.4 60.3 80.2 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0 Q74

Frequency Cumulative Percent Valid Percent Valid

Percent 13 46 74 43 56 5.6 19.8 31.9 18.5 24.1 5.6 19.8 31.9 18.5 24.1 5.6 25.4 57.3 75.9 100.0 1 2 3 4 5 Total 232 100.0 100.0