KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ VIÊM GÂN MẠN TÍNH BẰNG VI

CẮT LỌC BẰNG SÓNG RADIO

TÓM TẮT

Mục tiêu: Viêm gân mạn tính là bệnh lý thường gặp và điều trị nội khoa khó

khăn. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính hiệu quả của phương pháp vi cắt lọc

bằng sóng RF.

Phương pháp: Từ 11-2007 đến 10-2008 chúng tôi dùng phương pháp này điều

trị cho 19 trường hợp bị viêm gân mạn tính.

Kết quả: Qua 18 trường hợp theo dõi được, 94% cho kết quả giảm đau và

phục hồi chức năng tốt.

Kết luận: Đây là phương pháp điều trị chọn lựa cho bệnh nhân viêm gân mạn

tính không đáp ứng với điều trị bảo tồn.

ABSTRACT

PRELIMINARY RESULTS OF USING RF-BASED

MICRODEBRIDEMENT FOR TREATING CHRONIC TENDINOSIS

Bui Hong Thien Khanh, Tang Ha Nam Anh , Le Tuong Vien, Duong Đinh

Triet

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 227 – 232

Purpose: Tendinosis is a common orthropaedic condiction that is often

refractory to conservative treatments. The purpose of this study is to evaluate

the effectiveness of using RF-based microdebridement for treating chronic

tendinosis.

Methods: From November 2007 to October 2008, there are 18 cases were

treated with RF-based micodebrider device (TOPAZ® ) at Univercity Medical

Center.

Results: 18 patients were followed up, 94% had marked pain relief and limb

function improvement.

Conclusions: The RF –based microtenotomy procedure are safe and effective

through short term follow up, this is a valuable option method for treating

tendinosis who have failed conservative therapy.

Level of Evidence: Level IV, Prospective, nonrandomied consecutive case

series.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm gân mạn tính (Tendinosis) là một bệnh lý thường gặp trong chấn thương

chỉnh hình. Tổn thương này là kết quả của những chấn thương vi thể, liên quan

đến các động tác lập đi lập lại nhiều lần. Vị trí tổn thương thường gặp ở nơi các

gân bám vào lồi cầu trong hay ngoài của khuỷu, gân bánh chè, gân gót và các

gân của chóp xoay. Trên vi thể, viêm gân mạn tính không có sự hiện diện của

tế bào viêm, các sợi Collagen sắp xếp không có đinh hướng và bị phì đại, các

bó sợi gân bị thiếu máu nuôi dưỡng dẫn đến việc tu chỉnh và tái tạo mô gân

mới bị trở ngại. Do đó mục tiêu điều trị viêm gân mạn tính là tái lập tuần hoàn

đến mô gân bị tổn thương[1,4]

Hiện nay các phương pháp điều trị kinh điển như nghỉ ngơi, các bài tập vật lý

trị liệu như căn giãn liệu pháp, nẹp bất động, dụng cụ chỉnh hình cũng điều

hướng vào điều trị triệu chứng chứ không điều trị nguyên nhân gây bệnh.

TOPAZ

NHÓMCHỨNG

9NGÀY

28NGÀY

90NGÀY

Hình 1: Hình trên mô học ở gân gót khi kích thích với sóng Radio cho thấy có

đáp ứng viêm vào ngày thứ 9 (A), hình ảnh phì đại tế bào và mạch máu tân tạo

vào ngày thứ 28 (C), hình ảnh mô gân bình thường sau 90 ngày (E). Ở nhóm

chứng cho thấy mô gân bình thường, không có đáp ứng ở mọi thời điểm (B, D,

F).

Dụng cụ đốt lưỡng cực được dùng trong nghiên cứu này có cơ chế tạo các ion

dương (cation) và các electron tự do từ năng lượng của sóng radio (RF) tác

động trong môi trường dung dịch điện giải (nước muối sinh lý dùng trong nội

soi khớp). Các electron này có khả năng phá vỡ các liên kết hóa học, giúp cắt

hoặc làm tan mô liên kết. Do đó cơ chế chính của sóng RF là tác động hóa

học chứ không phải là thông qua năng lượng trực tiếp của sóng RF. Đầu của

dụng cụ TOPAZ có đường kính 0,8 mm, Arthrocare Timer giúp mỗi lần phát

sóng chỉ 0,5 giây, khi cắm đầu đốt sâu vào mô 4 mm thì sẽ vi cắt lọc được 2

mm3 mô. Với diện tích đốt như thế đã được nghiên cứu tương đối là an toàn

cho mô gân, không bị yếu thêm về mặt cơ học(4) .

Sóng Radio kích thích lên mô gân có tác dụng kích thích mạch máu tân tạo,

biểu hiện bằng những thay đổi đáp ứng trên mô học cũng như sự tăng nồng độ

các marker sinh học như yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (fibroblastic

growth factor), yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (vascular endothelial

growth factor), α integrin.Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá

khả năng kích thích của sóng radio đối với quá trình liền mô gân viêm mạn

tính, biểu hiện là giảm đau và cải thiện chức năng chi trên lâm sàng, cũng như

sự an toàn cho bệnh nhân khi điều trị với dụng cụ này.

PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu:

case series (level IV)

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, bị viêm gân mạn tính kéo dài hơn 6 tháng và

không đáp ứng với điều trị bảo tồn.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bệnh nhân mắc đái tháo đường, mang thai, có phẫu thuật ở nơi tổn thương

trước đó.

Dụng cụ: (Hình 2)

Hình 2: Hệ thống ATLAS (Arthrocare® ) (C),Đầu đốt TOPAZ XL.(A),

Arthrocare Timer.(B)

Phương pháp phẫu thuật

Bộc lộ vùng gân tổn thương bằng đường mổ rạch da khoảng 3 cm (gân gót, gân

duỗi cổ tay quay ngắn), riêng gân trên gai thì được kích thích qua nội soi ở mặt

trên sau khi bộc lộ khoang dưới mỏm cùng. Sau này chúng tôi kích thích gân

duỗi cổ tay quay ngắn hoàn toàn qua nội soi.

Khi kích thích gân qua đường mổ mở thì cần kết nối dây nước của dụng cụ

TOPAZ với chai nước muối sinh lý NaCl 0,9%, chỉnh tốc độ chảy khoảng 1-2

giọt mỗi giây để tạo môi trường điện giải cho sự hoạt động của sóng RF.

Đầu đốt của dụng cụ TOPAZ XL đặt vuông góc với bề mặt của gân cần kích

thích, thời gian kích thích được cài đặt trên Arthrocare Timer là 0,5 giây.

Khoảng cách giữa các điểm đốt là 5-8 mm. Tùy vào chu vi gân bị tổn

thương, trung bình vùng gân tổn thương được đốt từ 15-20 điểm.

Tập phục hồi chức năng: Bắt đầu tập ngay khi bớt đau, bắt đầu với các bài tập

thụ động, chủ động có trợ giúp nhằm lấy lại biên độ hoạt động khớp. Sang tuần

thứ 3 bắt đầu tập các bài tập chủ động có đề kháng.

Hình 3: Kích thích nơi bám gân gót thông qua đường rạch da bên ngoài.

Hình 4: Viêm mỏm trên lồi cầu ngoài sau khi được cắt lọc qua nội soi, tiến

hành kích gân duỗi cổ tay quay ngắn thông qua đường rạch da nhỏ bên ngoài.

Hình 5: Viêm gân chóp xoay được kích thích bằng sóng RF hoàn toàn qua nội

soi.

Đánh giá kết quả

Bệnh nhân được đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS (visual analog

scale) trước và các thời điểm lúc thăm khám sau mổ. Kết quả về chức năng

khớp vai và khuỷu được đánh giá theo chỉ số DASH (Disability of Arm,

Shoulder and Hand), khớp cổ chân đánh giá theo thang điểm AOFAS (

American Orthopedic Foot and Ankle Society).

Thời gian thực hiện

Từ 09-11-2007 đến 01-10-2008

KẾT QUẢ

Cỡ mẫu nghiên cứu

Chúng tôi điều trị và theo dõi được cho 18 bệnh nhân. Trong đó có 9 trường

hợp viêm mạn tính-rách bán phần gân trên gai, 2 trường hợp viêm nơi bám gân

gót, 7 trường hợp viêm nơi bám gân duỗi cổ tay quay ngắn với 1 trường hợp bị

cả hai bên. Thời gian theo dõi trung bình 10 tháng ( từ 8- 12 tháng), tuổi trung

bình 48( 35-74). Nữ giới chiếm đa số 72% (13/18). Thời gian dùng thuốc giảm

đau trước đó trung bình 11 tháng ( từ 6- 36 tháng).

Mức độ giảm đau: 15/18 bệnh nhân đạt hiệu quả giảm đau sau mổ 1 đến 2 tuần

và giảm dần từ từ sau đó, những bệnh nhân này không cần sử dụng thuốc giảm

đau như trước. Có một bệnh nhân than phiền cơn đau trở nên nặng hơn sau mổ

viêm gân gót 1 tháng mặt dù ngay sau mổ có giảm đau. Một trường hợp tình

trạng đau không cải thiện sau 5 tháng theo dõi, bệnh nhân bị viêm mỏm trên lồi

cầu ngoài hơn 3 năm, có chích corticoid trực tiếp vào gân nhiều lần, sức cơ

duỗi cổ tay rất yếu, tuy nhiên đến tháng thứ sáu thì mức độ đau giảm rõ rệt.

Một trường hợp viêm gân trên gai, bệnh nhân sau mổ tự ý đi đấp thuốc nam hổ

trợ do còn đau, bệnh nhân không theo chương trình tập vật lý trị liệu sau mổ.

Trong 18 bệnh nhân theo dõi chỉ có 04 bệnh nhân hết đau hoàn toàn sau mổ ba

tháng, 03 bệnh nhân hết đau hoàn toàn sau mổ sáu tháng. Nhận thấy ba trường

hợp này đều có thời gian mắc bệnh ngắn (6-9 tháng) hơn so với các trường hợp

còn lại.

Biểu đồ 1: Thang điểm đau trung bình của bệnh nhân, hiệu quả giảm đau rõ rệt

nhưng không hết hẳn và giảm rất chậm sau đó.

Phục hồi chức năng

Khớp vai và khớp khuỷu

Thang điểm DASH có cải thiện từ sau mổ 1-2 tháng, và cải thiện dần. Bệnh

nhân đạt được tầm vận động tốt hơn trước mổ nhờ giảm đau, riêng sức cơ của

vùng vai và khuỷu phục hồi không đáng kể sau ba tháng theo dõi, các trường

hợp theo dõi dài hơn 3 tháng cho thấy sức cơ bắt đầu cải thiện dần.

Gân gót

Có hai trường hợp mà bệnh nhân không hài lòng trong nhóm nghiên cứu.

Trường hợp thứ nhất bệnh nhân không đạt được hiệu giảm đau sau mổ ba

tháng, chức năng cổ chân có lẽ từ đó mà không có sự cải thiện, chức năng trước

và sau mổ như nhau. Tuy nhiên đến tháng thứ sáu bệnh nhân hết đau hoàn toàn,

có thể trở sinh hoạt bình thường. Trường hợp thứ hai bệnh nhân giảm đau ở nơi

bám gân gót hoàn toàn nhưng bệnh nhân lại bị viêm cân gan chân bên dưới, do

đó chức năng chi vẫn không cải thiện so với trước mổ.

Biểu đồ 2: Thang điểm Dash cải thiện dần tương ứng với mức độ giảm đau

trên lâm sàng của bệnh nhân

BÀN LUẬN

Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều đã không đáp ứng với điều trị nội

khoa. Sau khi được kích thích với sóng RF, hầu hết đều đạt hiệu quả giảm đau

94,4% (17/18 trường hợp). Từ đó chức năng chi cũng dần phục hồi, bệnh nhân

hài lòng hơn. Tuy nhiên bệnh nhân không giảm đau hoàn toàn sau ba tháng ,

phải đến sáu tháng mới thấy rõ đáp ứng với điều trị. 11/18 trường hợp vẫn còn

đau âm ỉ sau sáu tháng dù không phải dùng thuốc giảm đau (bệnh nhân chịu

đựng được với mức đau này). So sánh với tác giả Tasto(4), bệnh nhân của ông

giảm đau từ từ nhưng không hết đau hẳn sau mổ 12 tháng, tỷ lệ còn đau sau 3

tháng là 55% (11/22 bệnh nhân), hiệu quả giảm đau rõ rệt sau mổ ba tháng

(p<0,01). So sánh với kỹ thuật cắt lọc điểm bám của gân, tác giả Goldberg(1)

báo cáo thực hiện trên 34 bệnh nhân viêm mỏm trên lồi cầu ngoài có kết quả

giảm đau đạt 73%, 24% vẫn còn đau dai dẳng sau 4 năm theo dõi, tác giả

Rosenberg báo cáo 18/19 trường hợp giảm đau sau mổ 3-4 tháng. Kỹ thuật cắt

điểm bám gân mặt dù cho thấy tỷ lệ thành công cao nhưng nguy cơ bị yếu cơ

vĩnh viễn, teo cơ, mất vững khớp. Phương pháp kích thích gân bằng sóng RF

dễ thực hiện hơn mà gân lại không phá hủy về mặt giải phẫu đồng thời lại cho

hiệu quả giảm đau tương đương.

KẾT LUẬN

Kết quả ban đầu của việc ứng dụng sóng RF vào vi cắt lọc trong điều trị bệnh

lý viêm gân mạn tính đã cho thấy đây là dụng cụ an toàn, có hiệu quả. Hiệu quả

giảm đau rất nhanh trong tuần đầu sau mổ và giảm tiếp tục sau đó. Chức năng

chi từ đó cũng cải thiện. Tuy nhiên cần thời gian nghiên cứu dài hơn với cỡ

mẫu lớn hơn để có độ tin cậy cao. Kỹ thuật tương đối đơn giản, tuy nhiên giá

thành của dụng cụ còn khá đắt. Bệnh nhân trong lô nghiên cứu cần được theo

dõi lâu hơn để đưa ra kết luận về hiệu quả lâu dài của sóng RF.