
vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
90
TT-GDSK, nhưng hoạt động này chưa được cán
bộ biết hết, hoặc một bộ phận cán bộ chưa thấy
họ được quản lý, theo dõi trong khi thực hiện
nhiệm vụ TT-GDSK, do vậy cả 3 bệnh viện cần
phân công và thực hiện hoạt động quản lý, theo
dõi đầy đủ, thường xuyên với các hoạt động TT-
GDSK, sẽ góp phần nâng cao số lượng, chất
lượng hoạt động TT-GDSK của bệnh viện nói riêng
và chất lượng phục vụ chung của bệnh viện.
V. KẾT LUẬN
1. Hoạt động TT – GDSK đã và đang được đa
số cán bộ y tế ở 3 bệnh viện bệnh viện huyện
nghiên cứu thực hiện, với các phương pháp khác
nhau, mà quan trọng là đã thực hiện một số
phương pháp TT-GDSK trực tiếp như: Tư vấn
cho người bệnh về bệnh tật của họ, tổ chức nói
chuyện, thảo luận nhóm với người bệnh về các
vấn đề sức khỏe bệnh tật của họ.
2. Các nộ dung TT-GDSK của các bệnh viện đa
dạng, phù hợp trong TT – GDSK, các bệnh viện
huyện đã có sự phối hợp, lồng ghép với một số
ban nghành, đoàn thể, nhiều nhất là với các
Trung tâm y tế dự phòng huyện.
3. Về chất lượng hoạt động TT – GDSK ở cả 3
bệnh viện chưa cao, đây là vấn đề lãnh đạo các
bệnh viện cần quan tâm, trong đó cần chú ý đến
thực hiện quản lý các hoạt động TT-GDSK.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Duy Tân (2010). Phát triển mạng lưới y tế
ở Lào; Báo Nhân dân Điện từ ngày 10/11/2010; Cơ
quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Trường Đại học Y Hà Nội (2012). Khoa học
hành vi và truyền thông giáo dục sức khỏe, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội 2012, 270 trang.
3. Trường Đại học Y Hà Nội (2017). Bài giảng Kỹ
năng giao tiếp dành cho cán bộ Y tế. Nhà xuất bản
Y học Hà Nội, 119 trang.
4. Azza Fathi Ibrahim, et al (2015). Nurse
communication in health education: patients’
perspective; Vol.3, No 4. ISSN 2324 E-ISN 2324-7959.
5. Linda Lederman, Gary Creps, and Anthony
Roberto (2017). The role of communication in
Health issue. Property of Kedall Hunt Publishing.
KẾT QUẢ TƯ VẤN DINH DƯỠNG THAY ĐỔI KHẨU PHẦN
CỦA TRẺ TỪ 30 ĐẾN DƯỚI 60 THÁNG TUỔI
TẠI 3 TRƯỜNG MẦM NON HUYỆN TIỀN HẢI, THÁI BÌNH
Phạm Thị Duyên1, Trương Hồng Sơn2, Ninh Thị Nhung3
TÓM TẮT25
Mục tiêu: Mô tả kết quả của tư vấn dinh dưỡng
tới sự thay đổi khẩu phần của trẻ từ 30 đến dưới 60
tháng tuổi sau ngừng bổ sung dinh dưỡng đường
uống 12 tháng. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp
cộng đồng trên 121 trẻ từ 30 đến 48 tháng tuổi đã
được bổ sung dinh dưỡng đường uống trong 6 tháng,
bà mẹ của 121 trẻ tham gia nghiên cứu và cán bộ y tế
xã và cộng tác viên của 3 xã có 3 trường mầm non
nghiên cứu. Kết quả: Sau tư vấn dinh dưỡng, tần
suất trẻ ăn bánh kẹo thường xuyên giảm từ 40,5%
xuống còn 31,4%; Tần suất trẻ sử dụng lạc, vừng
tăng và sử dụng thường xuyên các loại rau xanh và
quả chín sau tư vấn tăng cao hơn so với trước tư vấn
dinh dưỡng; Khẩu phần của trẻ sau tư vấn là 1409,2
± 476,3 kcal cao hơn có ý nghĩa thống kê so với trước
tư vấn là 1231,5±386,6 kcal (p<0,05), trong đó nữ có
mức năng lượng khẩu phần sau tư vấn cao hơn nam;
Tỷ lệ trẻ đạt đủ nhu cầu về năng lượng tăng từ 33,9%
1Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Thái Bình
2Viện Y học Ứng dụng Việt Nam
3Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Thị Duyên
Email: phamduyenytdp@gmail.com
Ngày nhận bài: 13.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 26.4.2019
Ngày duyệt bài: 8.5.2019
lên 46,3% sau tư vấn dinh dưỡng. Kết luận: Tần suất
sử dụng thực phẩm và khẩu phần của trẻ có sự cải
thiện sau tư vấn dinh dưỡng.
Từ khóa:
Tư vấn dinh dưỡng; Khẩu phần; Trẻ em
30 - 60 tháng tuổi, Tiền Hải; Thái Bình
SUMMARY
THE DIETARY CHANGES AFTER NUTRITION
COUNSELING AMONG 30 TO 60 MONTHS OLD
CHILDREN AT 3 PRE-SCHOOLS IN TIEN HAI
DISTRICT, THAI BINH PROVINCE
Objective: To describe the effects of nutrition
counseling on dietary changes among 30 to 60
months old children after 12 months stop taking oral
nutrition product. Methods: Community-based
intervention research on 121 children aged 30 to 48
months were given oral nutrition product for 6
months, mothers of 121 children participated in the
study and commune health workers and collaborators
of 3 research communes. Results: After nutritional
consultaion, the frequency of children eating regular
sweets decreased from 40,5% to 31,4%; The
frequency of children using peanuts, sesame and
regularly use green vegetables and ripe fruits after
consultation increased compared to before nutrition
counseling; The post-counseling children's diet
(1409,2±476.3kcal) was higher significantly (p<0,05)
than pre-counseling (1231,5±386,6 kcal), girls had
higher post-counseling energy intake than boys; The