Nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
KHẢO SÁT SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG VIÊM NSAID TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA KHỚP TẠI NHÀ THUỐC CỘNG ĐỒNG THEO PHƯƠNG PHÁP NGƯỜI BỆNH MÔ PHỎNG
Trần Thị Thu Hiền1,2, Nguyễn Thị Ngọc Yến3, Nguyễn Như Hồ1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Người dược sĩ nhà thuốc có vai trò quan trọng trong đảm bảo sử dụng thuốc hiệu quả, an toàn trong điều trị các triệu chứng tại nhà thuốc.
Mục tiêu: Khảo sát việc thu thập thông tin của dược sĩ nhà thuốc (DSNT) cộng đồng để đưa ra quyết định phù hợp trong việc sử dụng thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) điều trị triệu chứng thoái hoá khớp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại các nhà thuốc thuộc 8 quận ở TP. Hồ Chí Minh theo phương pháp người bệnh mô phỏng (NBMP). Tương tác giữa DSNT và NBMP được tiến hành theo kịch bản chuẩn hoá. Việc thu thập thông tin và tư vấn của DSNT được khảo sát và tính điểm theo bảng kiểm đã được thẩm định. Nếu tổng điểm ≥ 7/9, DSNT đã thu thập thông tin cần thiết và tư vấn đầy đủ cho việc sử dụng thuốc. Lựa chọn NSAID được xem là hợp lý khi phù hợp về chỉ định, liều dùng, không có chống chỉ định hoặc tương tác có ý nghĩa trên lâm sàng.
Kết quả: Có 400 DSNT tham gia, 68,2% thuộc nhà thuốc tư nhân. Phần lớn (96,2%) cấp phát ít nhất 1 loại NSAID cho NBMP, phổ biến là meloxicam (37%) và diclofenac (30%). Điểm thu thập thông tin có trung vị là 4 (IQR:3 - 5), với 2,3% DSNT đạt tổng điểm ≥ 7 và chỉ 6,5% trường hợp dùng NSAID hợp lý.
Kết luận: Việc thu thập thông tin của dược sĩ nhà thuốc vẫn chưa được đầy đủ dẫn đến quyết định lựa chọn NSAID có tỷ lệ phù hợp thấp.
Từ khóa: NSAID, thoái hóa khớp gối, người bệnh mô phỏng, nhà thuốc cộng đồng, dược sĩ nhà thuốc
ABSTRACT
INVESTIGATION ON NSAID USE IN THE MANAGEMENT OF OSTEOARTHRITIS AT COMMUNITY PHARMACY USING SIMULATED - PATIENT APPROACH
Tran Thi Thu Hien, Nguyen Thi Ngoc Yen, Nguyen Nhu Ho
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine - Pharmacy * Vol. 27 - No. 2 - 2024: 01-08
Introduction: Community pharmacists play an important role in ensuring the effective and safe use of medications for symptoms at the pharmacies.
Objective: To survey the information collection practices of community pharmacists in making appropriate decisions regarding the use of Non-steroidal anti-inflammatory drugs (NSAIDs) for symptomatic treatment of osteoarthritis.
1Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
2Khoa Dược, Bệnh viện Từ Dũ
3Khoa Dược, Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng
Tác giả liên lạc: PGS.TS.DS. Nguyễn Như Hồ
ĐT: 0907381818
Email: nhnguyen@ump.edu.vn
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh - Dược học, 27(2):01-08. DOI: 10.32895/hcjm.p.2024.02.01
Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted in community pharmacies across 8 districts in Ho Chi Minh City, applying the simulated patient method. Interactions between community pharmacists and simulated patients (SPs) were conducted according to standardized scenarios. The information collection and counseling provided by pharmacists were scored using a validated checklist. Pharmacists were considered to have
1
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
Nghiên cứu
collected the necessary information and provided adequate counseling for NSAID use if their total score was ≥ 7 out of a maximum of 9. The selection of NSAIDs by pharmacists was deemed appropriate if it matched the indication, and had no contraindications or clinically significant interactions.
Results: A total of 400 pharmacists participated, with 68.2% from private pharmacies. Most pharmacists (96.2%) dispensed at least one type of NSAID to SPs, most commonly meloxicam (37%) and diclofenac (30%). The median score for information collection was 4 (IQR: 3 - 5), with 2.25% achieving a full score (≥ 7 points) for adequate information collection, and only 6.5% of cases were assessed as having appropriate NSAID selection.
Conclusion: Pharmacists’ information collection practices were inadequate, leading to a low rate of appropriate NSAID selection.
Keywords: NSAID, knee osteoarthritis, simulated patient, community pharmacy, community pharmacist
ĐẶT VẤN ĐỀ
được thẩm định, NBMP đến nhà thuốc để tương tác và quan sát hành vi trong khi dược sĩ có/không được thông báo trước về nghiên cứu(3).
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát việc thu thập thông tin của dược sĩ nhà thuốc để đưa ra các quyết định lựa chọn thuốc cũng như thực hành tư vấn dùng thuốc NSAID để giảm đau do thoái hoá khớp bằng phương pháp NBMP và khảo sát tính hợp lý trong lựa chọn thuốc NSAID của dược sĩ.
Thoái hóa khớp là bệnh viêm khớp phổ biến với nhiều yếu tố gây tiến triển bệnh, đặc trưng bởi các cơn đau kéo dài và tàn tật chức năng(1). Tại Việt Nam, một nghiên cứu (2014) cho thấy tỷ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi với 30% ở người từ 50 - 59 tuổi và hơn 60% ở người trên 60 tuổi(2). Với nhu cầu điều trị ngày càng tăng, thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng được sử dụng phổ biến do hiệu quả giảm đau và kháng viêm tốt đối với thoái hóa khớp.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các dược sĩ nhà thuốc cộng đồng tại TP. Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các nhà thuốc đang hoạt động và đạt tiêu chuẩn thực hành tốt cơ sở bán lẻ thuốc (GPP) bao gồm nhà thuốc tư nhân và thuộc hệ thống chuỗi trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh (ngoại trừ các huyện và thành phố Thủ Đức).
Tiêu chuẩn loại trừ
Tại một số nước châu Á trong đó có Việt Nam, nhà thuốc cộng đồng là hệ thống chăm sóc sức khỏe dễ tiếp cận nhất(3). Khi có triệu chứng, người bệnh thường có khuynh hướng tự điều trị tại các nhà thuốc cộng đồng thay vì đến bệnh viện, phòng khám do các bất cập như thời gian chờ đợi lâu tại bệnh viện hoặc chi phí điều trị cao tại các phòng khám. Vì vậy người dược sĩ tại nhà thuốc cộng đồng có vai trò quan trọng để sàng lọc đối tượng có thể xử trí triệu chứng tại nhà thuốc và đưa ra các lựa chọn sử dụng thuốc cũng như các tư vấn phù hợp với triệu chứng đau do thoái hoá khớp của người bệnh. Việc này đòi hỏi dược sĩ phải có kĩ năng thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết từ phía người bệnh nhằm đảm bảo hiệu quả cũng như an toàn của việc dùng thuốc. Nhà thuốc hoạt động trong khuôn viên hoặc cách khoảng 200 m đối với các cơ sở khám chữa bệnh; NBMP không thể tiếp cận được dược sĩ nhà thuốc; Không thể xác định được loại thuốc cấp cho NBMP (các trường hợp chỉ cung cấp thuốc mà không có bao bì ngoài hay bao bì trực tiếp đựng thuốc kèm theo).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Để đánh giá về chất lượng thực hành dược và nội dung tư vấn của người bệnh tại các nhà thuốc cộng đồng, các nghiên cứu thường áp dụng phương pháp người bệnh mô phỏng (NBMP). Dựa trên kịch bản và bảng kiểm đã Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại các nhà thuốc theo phương pháp NBMP từ tháng
2
Nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
dị ứng thuốc ở người bệnh. Trước đó, người bệnh có dùng thuốc giảm đau Alaxan, chưa sử dụng thuốc điều trị nào cách đây 1 tháng. NBMP chỉ được cung cấp thêm thông tin khi có yêu cầu của dược sĩ, đảm bảo nội dung được cung cấp nhất quán giữa các NBMP.
Tiêu chuẩn đánh giá
01/2023 - 06/2023. NBMP thực hiện quan sát việc thu thập thông tin của dược sĩ, quyết định sử dụng thuốc giảm đau thoái hoá khớp và việc tư vấn của dược sĩ dựa trên kịch bản và bảng kiểm đã được thẩm định(4). Tất cả thông tin được ghi lại vào bảng kiểm trong thời gian sớm nhất sau khi NBMP hoàn tất đóng vai tại mỗi nhà thuốc để giảm thiểu các thiếu sót do hồi tưởng.
Phương pháp chọn mẫu
Khảo sát việc thu thập thông tin và tư vấn của dược sĩ nhà thuốc Công thức ước tính số lượng dược sĩ nhà
thuốc cộng đồng cần khảo sát: NBMP khảo sát dược sĩ nhà thuốc và ghi nhận thông tin vào phiếu khảo sát bao gồm 3
phần: Đặc điểm nhà thuốc và dược sĩ; đặc điểm thuốc sử dụng; nội dung thu thập thông tin và Trong đó:
n: cỡ mẫu dược sĩ nhà thuốc. tư vấn của dược sĩ nhà thuốc. Trong đó, phần nội dung thu thập và tư vấn là một bảng kiểm
gồm có 5 mục: (1) Dược sĩ đại học tham gia thu thập thông tin và tư vấn NBMP, (2) Các câu hỏi p: tỷ lệ dược sĩ thu thập đầy đủ thông tin (theo bảng kiểm) để đưa ra quyết định bán thuốc NSAID.
e: độ sai số (với khoảng tin cậy 95% của tỷ lệ được đặt ra để thiết lập nhu cầu điều trị, (3) Các câu hỏi được đặt ra để thiết lập an toàn sử dụng quan sát, e = 5%).
thuốc, (4) Các tư vấn sử dụng thuốc (5) Các tư vấn biện pháp không dùng thuốc. Từ mục 1 đến
mục 4, mỗi mục đánh giá tối đa là 2 điểm khi dược sĩ hỏi đủ mục hoặc đủ ý, riêng mục 5 được
tính tối đa 1 điểm khi dược sĩ có thực hiện tư vấn. Tổng điểm tối đa của bảng kiểm là 9 điểm. Nếu
tổng điểm từ 7 trở lên, dược sĩ được đánh giá là đã thu thập thông tin cần thiết và tư vấn đầy đủ
cho việc sử dụng thuốc, ngược lại là thực hành chưa đầy đủ (tổng điểm < 7). Thông tin cụ thể
hơn về đánh giá bảng kiểm có thể tham khảo từ bài báo trước(4).
Tính hợp lý trong lựa chọn thuốc NSAID của dược sĩ Nghiên cứu lựa chọn giá trị p = 0,5 để cho kết quả lấy mẫu nhiều nhất, thu được kết quả n ≥ 385 dược sĩ. Mỗi nhà thuốc sẽ khảo sát 1 dược sĩ. Để tránh mất mẫu, nhóm nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 400 nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP của Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh (loại trừ các nhà thuốc pilot thử nghiệm kịch bản trước đó). Cỡ mẫu được phân cụm theo quận và chọn ngẫu nhiên khảo sát khoảng 50 nhà thuốc trên mỗi quận. Có 8 quận được chọn ngẫu nhiên theo hàm random gồm: Quận 7, Quận 8, Quận 10, Quận Bình Thạnh, Quận Phú Nhuận, Quận Gò Vấp, Quận Tân Phú, Quận Bình Tân. Danh sách nhà thuốc được lấy từ trang web của Sở Y tế.
Kịch bản
Lựa chọn NSAID của dược sĩ được đánh giá là hợp lý nếu chỉ định thuốc phù hợp với triệu chứng bệnh, không bị chống chỉ định theo tiền sử bệnh, không có tiền sử dị ứng và tương tác thuốc có ý nghĩa trên lâm sàng, là những tương tác được phân loại mức độ nặng, cần tránh phối hợp khi tra cứu các nguồn như Danh mục tương tác thuốc chống chỉ định của BYT (2022), Lexicomp, Drugs.com. Ngoài ra, tính không hợp lý trong sử NBMP gồm có bốn sinh viên Dược với độ tuổi từ 22 đến 24 tuổi, yêu cầu điều trị triệu chứng đau khớp gối cho mẹ khi leo cầu thang quá nhiều, đứng lên và bước đi khó khăn. Tình huống như sau: Mẹ NBMP 56 tuổi, cân nặng 60 kg, tiền sử bệnh gồm thoái hóa khớp gối, viêm dạ dày, tăng huyết áp đang điều trị với amlodipin 5 mg/ngày và chưa ghi nhận tiền sử
3
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
Nghiên cứu
KẾT QUẢ
Đặc điểm về nhà thuốc và dược sĩ cộng đồng
Phần lớn mẫu khảo sát là nhà thuốc tư nhân
(68,2%), chủ yếu là dược sĩ nữ tiếp xúc với
NBMP (83,5%). Độ tuổi từ 30 - 50 tuổi chiếm
57,8%, tuổi < 30 chiếm 35,5%, còn lại là 6,7%
người > 50 tuổi. Hơn phân nửa dược sĩ (56,5%) dụng thuốc được xác định khi dược sĩ nhà thuốc sử dụng NSAID thuộc danh mục thuốc kê đơn, dùng liều cao hơn liều khuyến cáo từ tờ hướng dẫn sử dụng thuốc, kết hợp ≥ 2 loại NSAID vì làm tăng nguy cơ trên người bệnh có tiền sử viêm loét dạ dày hoặc kết hợp với các nhóm thuốc không có chỉ định điều trị thoái hoá khớp gối như glucocorticoid uống, nhóm thuốc giãn cơ(5)… có trình độ từ đại học trở lên, 32,5% có trình độ Phân tích thống kê dược cao đẳng và 11% có trình độ trung học.
Thu thập thông tin để đưa ra quyết định lựa chọn thuốc và tư vấn sử dụng NSAID
Kết quả việc thu thập thông tin để đưa ra
quyết định lựa chọn thuốc tại nhà thuốc cộng Dữ liệu được lưu trữ bằng Microsoft Excel 2016 và phân tích bằng SPSS phiên bản 26. Thống kê mô tả các biến liên tục được biểu diễn bằng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (TB ± SD) hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị). Các biến phân loại được trình bày theo tần số, tỷ lệ phần trăm. đồng được trình bày trong Bảng 1. Đa số dược sĩ Y Đức (93,5%) đặt câu hỏi với NBMP để xác định nhu
cầu điều trị triệu chứng đau, mặc dù số lượng
câu hỏi/vấn đề đặt ra chưa được đầy đủ (được
đánh giá 1 điểm). Quá trình nghiên cứu được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (số 649/HĐĐĐ - ĐHYD).
Bảng 1. Kết quả điểm đánh giá việc thu thập thông tin và tư vấn dùng thuốc của dược sĩ nhà thuốc
Điểm Tần số (n = 400) Tỷ lệ (%)
Đặc điểm 1. Dược sĩ đại học
Tiêu chí đánh giá Trực tiếp thu thập thông tin và tư vấn Giám sát Không tham gia
2 1 0
222 11 167
55,4 2,8 41,8
2. Thiết lập nhu cầu điều trị
2
23
5,7
1 0
374 3
93,5 0,8
3. Thiết lập an toàn sử dụng thuốc
2
12
3,0
1
129
32,3
Hỏi đủ 3/1 - 2/0 mục (mỗi mục ≥ 2 câu): + Thông tin người bệnh + Triệu chứng bệnh + Việc điều trị đau trước đó Hỏi đủ 3/1 - 2/0 mục (mỗi mục ≥ 2 câu): + Thông tin dị ứng thuốc + Thông tin bệnh mắc kèm + Thuốc đang sử dụng
0
259
64,7
4. Tư vấn sử dụng thuốc
2
7
1,7
1
392
98,0
0
1
0,3
5. Tư vấn biện pháp không dùng thuốc
Tổng điểm
Tư vấn đủ/ ≥ 1/0 mục (mỗi mục ≥ 2 ý): + Tư vấn thông tin thuốc + Tư vấn khác + Theo dõi trong quá trình dùng thuốc + Thông tin khác Tư vấn ≥ 3 ý Tư vấn < 3 ý Thu thập thông tin và tư vấn chưa đầy đủ
Thu thập thông tin và tư vấn đầy đủ
1 0 2 3 4 5 6 7 8
118 282 74 75 126 85 31 8 1
29,5 70,5 18,5 18,7 31,5 21,3 7,7 2 0,3
rất ít dược sĩ lưu ý về cân nặng người bệnh (2,5%). Dược sĩ cũng hỏi về vị trí đau và thời Câu hỏi dược sĩ thường quan tâm để thiết lập nhu cầu điều trị là đối tượng sử dụng thuốc;
4
Nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
gian xuất hiện với tỷ lệ là 38,8% và 29,8%, nhưng chỉ khai thác mức độ đau, có chấn thương đầu gối, hoặc dấu hiệu sưng với tỷ lệ dưới 10%.
Thông tin được dược sĩ quan tâm để đánh giá tính an toàn và tư vấn sử dụng thuốc trước khi cấp phát thuốc gồm có tiền sử dị ứng (8,8%), tiền sử bệnh tăng huyết áp (36,5%); đau dạ dày (62%), trong khi ít dược sĩ hỏi về thuốc người bệnh đang sử dụng (9,5%). Liên quan đến nội dung tư vấn, hơn 97% dược sĩ đã tư vấn cho người bệnh về cách dùng thuốc sau ăn và số lần dùng thuốc trong ngày. Hầu hết dược sĩ không tư vấn về tác dụng phụ của thuốc, theo dõi trong quá trình dùng thuốc, các biện pháp không dùng thuốc (tỷ lệ đều dưới 10%).
Hình 1. Tỷ lệ các loại thuốc NSAID được dược sĩ nhà thuốc cấp phát cho NBMP
Bảng 2. Kết quả các vấn đề liên quan đến tính hợp lý trong sử dụng NSAID (n = 400)
STT Vấn đề liên quan sử dụng thuốc Tần số
1 2
Tỷ lệ (%) 93,5
374
Tổng điểm thu thập thông tin và tư vấn dao động từ 2 đến 8, trung vị 4 (IQR: 3 - 5). Đa số đạt điểm 4 (31,5%) và điểm 5 (21,3%). Chỉ có 2,3% số dược sĩ được đánh giá là thu thập thông tin và tư vấn đầy đủ (tổng điểm 7 - 8).
41/112 36,6 36/118 30,5 22/29 75,8 73/146 49,3 20/41 48,7 100
5/5
3
NSAID thuộc danh mục kê đơn Liều NSAID cao hơn khuyến cáo (*) Celecoxib (>400 mg/ngày) Diclofenac (>150 mg/ngày) Etorixcoxib (>120 mg/ngày) Meloxicam (>15 mg/ngày) Piroxicam (>40 mg/ngày) Tenoxicam (>20 mg/ngày) Phối hợp thuốc không khuyến cáo với NSAID Kết hợp 2 loại NSAID trở lên Kết hợp với glucocorticoid Kết hợp với thuốc giãn cơ Kết hợp 2 loại glucocorticoid uống
167 107 175 1
41,7 26,8 43,8 0,3
Tính hợp lý trong lựa chọn thuốc NSAID của dược sĩ nhà thuốc
Ghi chú: (*) Tỷ lệ % tính trên tổng số trường hợp dùng loại thuốc đó
Trong số 400 nhà thuốc cộng đồng, có 385 dược sĩ đã cấp phát nhóm thuốc NSAID chiếm tỷ lệ 96,2%, với 54,5% các trường hợp sử dụng 1 loại thuốc NSAID, 31,2% dùng 2 loại NSAID và 10,5% người bệnh được phối hợp 3 đến 4 loại NSAID trong 1 lần dùng. Tổng cộng 16 loại NSAID đã được sử dụng, phổ biến nhất là meloxicam (37%), diclofenac (30%) và celecoxib (28%) (Hình 1).
Trung bình số lượng thuốc được dược sĩ nhà thuốc sử dụng điều trị cho người bệnh bị thoái hóa khớp gối trong 1 ngày uống (có/không có NSAID) là 4,7 0,9 thuốc, trong đó có 5,7% dược sĩ phối hợp ≤ 3 loại thuốc, 78,5% dùng 4 - 5 loại thuốc và 15,8% dùng trên 5 loại thuốc. Bên cạnh NSAID, dược sĩ còn phối hợp thêm các nhóm thuốc khác, với 28% kết hợp với thuốc kháng viêm glucocorticoid đường uống, chủ yếu là prednisolon (16,2%) và methylprednisolon (8%); 43,8% với nhóm thuốc giãn cơ, cao nhất là eperison (25,5%) và methocarbamol (6,3%). Các vấn đề liên quan đến tính hợp lý trong sử dụng NSAID được trình bày trong Bảng 2. Đáng kể nhất là việc sử dụng các NSAID thuộc danh mục thuốc kê đơn, chiếm 93,5%. Các thuốc phổ biến như meloxicam, celecoxib hoặc diclofenac được dùng với liều cao hơn hướng dẫn với tỷ lệ khoảng 30 - 40%. Nhiều trường hợp phối hợp thuốc với NSAID không được khuyến cáo, bao gồm phối hợp nhiều thuốc cùng nhóm NSAID (41,7%), phối hợp NSAID với glucocorticoid uống (26,8%), phối hợp với thuốc giãn cơ (43,8%). Nghiên cứu còn ghi nhận 1 trường hợp kết hợp 2 loại glucocorticoid trong cùng đơn (0,3%). Tóm lại, chỉ có 6,5% trường
5
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
Nghiên cứu
hợp dược sĩ nhà thuốc được đánh giá là dùng thuốc phù hợp cho NBMP theo các hướng dẫn về sử dụng nhóm thuốc NSAID.
BÀN LUẬN
Trong những năm qua, các hiệp hội nghề nghiệp như Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ (AGS), Hội Thấp Khớp học Hoa Kỳ (ACR) và Liên đoàn Chống thấp khớp Châu Âu (EULAR) đã xây dựng các hướng dẫn về sử dụng nhóm thuốc NSAID, nhấn mạnh những rủi ro đáng kể về tác dụng phụ tiềm ẩn của NSAID nếu không được sử dụng phù hợp(6). Nhà thuốc cộng đồng là nơi người bệnh mắc các bệnh về cơ xương khớp mạn tính thường tiếp cận trước để giảm đau. Vì vậy, dược sĩ nhà thuốc đóng vai trò quan trọng trong tư vấn và giám sát việc sử dụng thuốc điều trị triệu chứng tại nhà thuốc, xác định vấn đề liên quan đến thuốc và can thiệp khi cần thiết để đảm bảo người bệnh sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả, ngăn ngừa lạm dụng thuốc và giảm chi phí điều trị(7).
Thu thập thông tin để đưa ra quyết định lựa chọn thuốc và tư vấn sử dụng NSAID
những vấn đề khác chưa được thu thập thông tin đầy đủ. Tuổi tác là một yếu tố nguy cơ cao dẫn đến biến chứng trên đường tiêu hóa liên quan sử dụng thuốc NSAID nhưng chỉ có 33,5% dược sĩ tìm hiểu thông tin này; thấp hơn so với nghiên cứu của Melabari AM. (2020) khi khai thác thông tin tuổi để cung cấp thuốc NSAID không chọn lọc trên COX hoặc chọn lọc trên COX-2 lần lượt là 74,5% và 69%(8). Các thông tin khác như thể trạng của người bệnh, vị trí đau, thời gian đau và triệu chứng khác cũng ít được truy vấn trong nghiên cứu của chúng tôi. Việc khai thác các thông tin khác của người dùng vẫn còn hạn chế, dưới 10% dược sĩ hỏi về việc điều trị trước đây hoặc đã đi khám bác sĩ hay chưa. Một nghiên cứu ở Jordan (2022) cũng cho thấy việc thu thập thông tin của dược sĩ nhà thuốc đa số dưới mức tối ưu và thuốc vẫn được cung cấp cho người bệnh dù chưa sàng lọc ban đầu hoặc khai thác các triệu chứng điển hình, tiền sử dị ứng, sử dụng thuốc cũng như tư vấn dùng thuốc cho người bệnh(3). Trong một nghiên cứu tại Thái Lan (2018), trên 65% các dược sĩ đã tiến hành sàng lọc về tiền sử bệnh đường tiêu hóa trước khi cung cấp NSAID gần tương tự với nghiên cứu của chúng tôi (62%)(9). Tuy nhiên, rất ít NBMP được hỏi về các bệnh kèm khác như đái tháo đường, suy gan, suy thận, hen phế quản, COPD (9%). Trong khi đó, thuốc NSAID thường có chống chỉ định ở người bệnh có suy thận, suy gan.
Về các nội dung tư vấn sử dụng thuốc, dược sĩ chủ yếu hướng dẫn về số lần dùng và thời
điểm dùng (> 97%), ít có tư vấn về chống chỉ định, thận trọng, tác dụng phụ và thời gian điều
trị (< 15%). Thông tin tư vấn cho người bệnh không đầy đủ có thể khiến thuốc không được Để đưa ra quyết định lựa chọn thuốc, dược sĩ nên thu thập thông tin về các đặc điểm của người bệnh, của triệu chứng bệnh… nhằm xác định vấn đề của người bệnh có thể điều trị tại nhà thuốc hay không. Các nội dung như tiền sử bệnh, tiền sử dị ứng, tiền sử dùng thuốc… cần được xác định để đảm bảo an toàn, tránh người bệnh bị chống chỉ định với thuốc hoặc việc dùng thuốc có thể làm nặng thêm tình trạng hiện tại của người bệnh. Sau khi xác định thuốc phù hợp cho người bệnh, dược sĩ cần tư vấn về việc dùng thuốc, hướng dẫn các biện pháp không dùng thuốc để cải thiện triệu chứng cho người bệnh.
dùng đúng cách và có thể gây bất lợi cho người bệnh. Theo một nghiên cứu ở Mỹ, can thiệp tư
Tổng điểm đánh giá đa số đạt mức điểm 4 và 5 (tối đa 9 điểm) cho thấy việc thu thập thông tin và tư vấn chưa đầy đủ của hầu hết dược sĩ. vấn và giáo dục người bệnh để tránh sử dụng các thuốc OTC không phù hợp có thể giảm được
một nửa số người bệnh cần nhập viện mỗi năm cũng như gánh nặng chi phí y tế liên quan(10). Trong nghiên cứu, hơn 50% các dược sĩ nhà thuốc đặt câu hỏi về đối tượng bệnh, số ngày mua thuốc, tiền sử viêm loét dạ dày. Tuy nhiên,
6
Nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
Cung cấp các cảnh báo đầy đủ có thể giảm được
các tác hại tiềm ẩn có liên quan đến việc sử dụng thuốc NSAID ví dụ lưu ý người bệnh về biến cố
có hại tiến triển viêm loét dạ dày-tá tràng hoặc xuất huyết tiêu hóa, theo dõi diễn tiến của triệu xuất huyết, lên đến 9 lần so với đơn trị(13). Bên cạnh đó, dược sĩ nhà thuốc còn phối hợp NSAID và glucocorticoid (26,8%). Các kết hợp nêu trên có thể tăng nguy cơ xảy ra suy thận cấp, tăng huyết áp, suy tim và các vấn đề trên đường tiêu hóa đặc biệt ở người cao tuổi(14).
chứng và các bệnh mắc kèm như tăng huyết áp, bệnh thận, hoặc đái tháo đường do NSAID hoặc
glucocorticoid. Theo cảnh báo của Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ
(2015), các NSAID có thể làm tăng nguy cơ tiến triển cơn đau tim hoặc đột quỵ ngay cả trong
Trong điều trị thoái hóa khớp gối, nhóm thuốc giãn cơ (43,8%), thuốc glucocorticoid đường uống (26,8%) có chỉ định không phù hợp theo các hướng dẫn điều trị. Các thuốc giãn cơ thích hợp hơn trong các trường hợp đau do căng cứng cơ còn glucocorticoid chỉ được khuyến cáo tiêm nội khớp trong trường hợp thoái hoá khớp gối. thời gian dùng thuốc ngắn(11). Điều này đáng lưu ý vì ở Việt Nam, ngày càng có nhiều người cao
tuổi mắc một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch có tiền sử bệnh thoái hóa khớp được
chỉ định sử dụng thuốc NSAID.
Bệnh thoái hóa khớp rất cần được tư vấn các biện pháp không dùng thuốc nhằm cải thiện triệu chứng và chất lượng sống của người bệnh. Tuy nhiên, chỉ khoảng 11% dược sĩ tư vấn hạn chế làm việc quá sức, mang vác nặng, leo cầu thang và 15% dược sĩ tư vấn bổ sung thực phẩm chức năng, bổ sung calci và khoáng chất. Nhìn chung, việc thu thập thông tin, tư vấn dùng thuốc cũng như lựa chọn thuốc để giảm đau triệu chứng của thoái hoá khớp bằng NSAID tại các nhà thuốc cộng đồng cần được cải thiện thêm. Để có thể nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh khi tiếp cận cơ sở y tế tại nhà thuốc, một trong các giải pháp là xây dựng các protocol chuẩn về các tình huống xử trí triệu chứng thường gặp tại nhà thuốc, dựa vào các tiêu chí về GPP của WHO và FIP(15).
Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu
Tính hợp lý trong lựa chọn thuốc NSAID của dược sĩ nhà thuốc
NSAID là nhóm thuốc được khuyến nghị dùng phổ biến trong các bệnh viêm xương khớp. Trong nghiên cứu, có 96,2% trường hợp dược sĩ cho dùng NSAID với 93,5% là loại kê đơn và 2,7% loại OTC. Việc sử dụng liều cao hàng ngày cũng khá phổ biến trong khảo sát, ví dụ 75,8% với etoricoxib, 49,3% với meloxicam và 36,6% với celecoxib. Liều dùng cao hơn khuyến cáo gây tăng nguy cơ biến chứng đường tiêu hóa gấp 2-3 lần theo một nghiên cứu(12). Nghiên cứu là một trong những khảo sát đầu tiên về sử dụng thuốc NSAID tại nhà thuốc cộng đồng ở Việt Nam. Kịch bản và bảng kiểm được thẩm định bởi Hội đồng chuyên gia và đạt sự đồng thuận cao giữa các chuyên gia. Mặc dù đã cố gắng hạn chế bằng cách ghi nhận lại thông tin ngay sau khảo sát nhưng vẫn có thể xảy ra sai sót do nhớ lại. Đặc điểm về trình độ học vấn của dược sĩ nhà thuốc có thể chưa được phản ánh chính xác do chỉ dựa vào trao đổi giữa NBMP và dược sĩ.
KẾT LUẬN
Việc thu thập thông tin của dược sĩ nhà thuốc vẫn chưa được đầy đủ dẫn đến quyết định lựa chọn NSAID có tỷ lệ phù hợp thấp. Dược sĩ cần hạn chế việc kết hợp từ hai loại Có 41,7% NBMP được dùng từ 2 loại NSAID trở lên. Nghiên cứu của Abdu N. (2020) cũng cho thấy 23,9% số trường hợp dùng từ hai NSAID trở lên trên mỗi đơn thuốc. Việc phối hợp nhiều NSAID với nhau không được khuyến cáo vì có thể làm tăng nguy cơ
7
Y Học TP. Hồ Chí Minh - Dược học * Tập 27 * Số 2 * 2024
Nghiên cứu
(2020). Evaluation of
9.
NSAID trở lên và các thuốc không nên khuyến nghị trong điều trị đau do thoái hoá khớp.
8. Malebari AM, Khayyat AN, Mahdali RA, Alamoudi JS, Alsayed BY, Alrasheed SA the community pharmacists' performance in the screening of non- steroidal anti-inflmmatory drugs risks in Saudi Arabia. Saudi Medical Journal, 41(8):849-857. Phueanpinit P, Pongwecharak J, Krska J, Jarernsiripornkul N (2018). Evaluation of community pharmacists’ roles in screening and communication of risks about non-steroidal anti-inflammatory drugs in Thailand. Primary Health Care Research & Development, 19(6):598-604.
Các tác giả xin gửi lời cảm ơn các người bệnh mô phỏng và các dược sĩ nhà thuốc đã hỗ trợ và tham gia trong nghiên cứu. Cảm ơn các chuyên gia đã thẩm định kịch bản và bảng kiểm giúp cho quá trình nghiên cứu được hoàn thiện.
10. Bosse N, Machado M, Mistry A (2012). Efficacy of an over-the- in community intervention follow-up program counter pharmacies. Journal of the American Pharmacists Association: JAPhA, 52(4):535-540.
11. Abdu-Aguye SN, Shehu A
feedback
in
study. PLoS One,
cross-sectional
4.
(2017). Management of musculoskeletal pain in retail drug outlets within a Nigerian community: a descriptive study. Pharm Pract, 15(1):873. 12. Gwee KA, Goh V, Lima G, Setia S (2018). Coprescribing proton-pump inhibitors with nonsteroidal anti-inflammatory drugs: risks versus benefits. Journal of Pain Research, 11:361-374. 13. Rodríguez LG, Jick H (1994). Risk of upper gastrointestinal bleeding and perforation associated with individual non- steroidal anti-inflammatory drugs. The Lancet, 343(8900):769-72. 14. Abdu N, Mosazghi A, Teweldemedhin S, et al (2020). Non- steroidal anti-inflammatory drugs (NSAIDs): usage and co- prescription with other potentially interacting drugs in elderly: a 15(10):e0238868. DOI:10.1371/journal.pone.0238868.
5.
Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ kinh phí bởi Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng số 181/2022/HĐ- ĐHYD, ngày 15 tháng 9 năm 2022.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cui A, Li H, Wang D, Zhong J, Chen Y, Lu H (2020). Global, regional prevalence, incidence and risk factors of knee osteoarthritis in population-based studies. EClinicalMedicine, 29-30:100587. DOI:https://doi.org/10.1016/j.eclinm.2020.1005872. 2. Ho-Pham LT, Lai TQ, Mai LD, Doan MC, Pham HN, Nguyen TV (2014). Prevalence of radiographic osteoarthritis of the knee and its relationship to self-reported pain. PloS One, 9(4):e94563. 3. Hammad EA, Elayeh E, Jaber D, Abu Mustafa I, Al-Aqeel S (2022). Feasibility of using simulated patients for onsite structured practice Jordanian community pharmacy settings. Saudi Pharmaceutical Journal, 30(3):225-229. Trần Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Ngọc Yến, Nguyễn Ngọc Khôi, Nguyễn Như Hồ (2022). Xây dựng kịch bản bệnh nhân mô phỏng trong đánh giá sử dụng thuốc kháng viêm NSAID điều trị thoái hóa khớp tại nhà thuốc cộng đồng. Y Học Việt Nam, 521(1). Bộ Y Tế (2016). Hướng dẫn chuẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp, pp.124-201. Nhà Xuất Bản Y Học, Hà Nội.
15. Makhlouf AM, Mohamed Ibrahim MI, Awaisu A, Vyas SK, Yusuff KB (2021). Determinants of community pharmacists' information gathering and counseling practices during the management of minor ailments. Saudi Pharmaceutical Journal, 29(9):992-998.
Ngày nhận bài báo:
29/05/2024
Ngày chấp nhận đăng bài:
11/07/2024
Ngày đăng bài online:
28/07/2024
6. Meara AS, Simon LS (2013). Advice from professional societies: appropriate use of NSAIDs. Pain Medicine, 14(1):S3-S10. 7. Alaqeel S, Abanmy NO (2015). Counselling practices in community pharmacies in Riyadh, Saudi Arabia: a cross- sectional study. BMC Health Serv Res, 15:557.