
113
bão khác nhau. Chẳng hạn nếu bão di chuyển trong khu vực sống thịnh hành (DR:
Dominant Ridge) trong điều kiện sống yếu (WR: Weak Ridge) giữa hai bộ phận áp cao có
chiều ngang khá hẹp bão sẽ di chuyển theo quỹ đạo 1 hướng từ đông sang tây do được dẫn
đường bởi đới gió đông thịnh hành. Trong trường hợp dòng khí ở phần cực tây của bộ phận
áp cao phía đông khá mạnh bão sẽ được dẫn về phía tây bắc đến sát sống yếu, từ điểm này
bão có thể chuyển hướng và trước khi chuyển hướng bão thường dừng lại một thời gian.
Nếu khu vực sống yếu có chiều ngang không đủ lớn bão sẽ di chuyển theo hướng tây nam
theo quỹ đạo 3 và cuốn vào theo dòng dẫn ở phía đông nam của bộ phận áp cao phía tây và
tiếp tục di chuyển về phía tây nam. Nhưng nếu sống yếu mở ra đủ rộng thì bão sẽ chuyển
hướng bắc, sau đó di chuyển theo quỹ đạo 2 về hướng đông bắc do bão tiến vào đới gió tây
ôn đới (MW: Midle Westerlies). Trong một số trường hợp bão có thể tiến tới rãnh ôn đới
vốn là rãnh lạnh, gia nhập vào rãnh này và tan đi. Nếu bão di chuyển tới sát xích đạo và
vào vùng đới gió tây xích đạo thịnh hành (EW: Equatoria Westerlies) thì bão sẽ di chuyển
về phía đông nam ở phần phía tây khu vực đới gió tây này và về phía tây bắc nếu nằm ở
phần phía đông khu vực như trên hình vẽ.
Hình 4.23.
Các quỹ đạo bão trong mô hình chuẩn (hình trên), quỹ đạo thực chiếm
tần suất 60% trong thời kỳ 1989-1996 (hình dưới) (Car III.L.E, 1997)
Quỹ đạo thực trong thời kỳ 8 năm (1989-1996) (Hình 4.23, hình dưới) cho thấy các
đường quỹ đạo có xu thế nằm theo hướng đông đông nam và tây tây bắc. Đó là quỹ đạo
chủ yếu vào giữa và cuối mùa bão trên Biển Đông.
b) Mô hình hướng cực (Hình 4.24).
Đặc điểm của mô hình này là sự mở rộng của sống yếu giữa hai bộ phận áp cao và kéo

114
dài theo hướng tây nam - đông bắc của bộ phận áp cao phía đông cũng nhu sự xuất hiện
dòng khí thịnh hành hướng cực ở phía tây phần biến dạng này hoặc sự mạnh lên của dòng
khí ở phần cực tây của bộ phận áp cao phía đông (hình 4.24).
Hình 4.24.
Các quỹ đạo bão trong mô hình hướng cực (hình trên) và quỹ đạo thực
trong thời kỳ tám năm (1989 - 1986) (Car III.L.E,1997)
Trong hình thế này, bão ban đầu di chuyển theo hướng tây nam - đông bắc trong khu
vực dòng khí hướng cực (PO: Polar Orientation) sau đó di chuyển về hướng đông bắc và
đông khi tiến vào khu vực đới gió tây ôn đới. Trên hình 4.24, hình dưới là quỹ đạo thực
theo mô hình hướng cực cũng trong thời kỳ tám năm như đã nói ở trên. Tần suất của các
quỹ đạo này chiếm gần 30% các trường hợp bão xảy ra trong khu vực.
Theo mô hình vòng hoàn lưu gió mùa và mô hình bão kép (chỉ chiếm tần suất khoảng
10%, các quỹ đạo của bão được thể hiện trên hình 4.25.
c) Mô hình vòng hoàn lưu gió mùa (Hình 4.25 và 4.26).
Về cơ bản mô hình này tương tự như mô hình hướng cực nhưng ở phía tây của bộ
phận biến dạng của bộ phận áp cao phía đông là vòng hoàn lưu gió mùa ngược chiều kim
đồng hồ. Do tác động của vòng hoàn lưu này mà quỹ đạo hướng cực sẽ chuyển hướng về
phía tây theo vòng hoàn lưu từ đông sang tây nằm giữa bộ phận áp cao phía tây và vòng
hoàn lưu gió mùa trong khu vực sống thịnh hành.
Trong hình thế này, bão ban đầu di chuyển theo hướng tây nam - đông bắc trong khu
vực dòng khí hướng cực (PO: Polar Orientation) sau đó di chuyển về hướng đông bắc và

115
đông khi tiến vào khu vực đới gió tây ôn đới.
Hình 4.25.
Các quỹ đạo bão trong mô hình vòng gió mùa (Car
III.L.E, 1997)
Hình 4.26.
Các qũy đạo bão trong mô hình bão kép (Car
III.L.E, 1997)
G: Tâm vòng gió mùa - - - - Ranh giới khu vực
- - - - Ranh giới khu vực Khu vực tốc độ gió cực
đại
Khu vực tốc độ gió cực đại Quỹ đạo đặc
trưng
d) Mô hình bão kép (Hình 4.26)
Hình 4.27.
Tần suất khu vực synôp
Trên mô hình này bão phía tây nằm trong khu vực dòng hướng xích đạo sẽ di chuyển
về phía tây nam và có khả năng tiến vào khu vực sống thịnh hành, tiếp đó di chuyển từ
đông sang tây. Còn cơn bão phía đông nằm trong khu vực dòng hướng cực sẽ di chuyển về
phía tây bắc cũng có khả năng tiến vào khu vực đới gió tây ôn đới và di chuyển về phía
đông bắc. Nếu bão ở phía tây đủ mạnh và có phạm vi lớn hơn hẳn bão ở phía đông nó sẽ
gây ảnh hưởng và cuốn cơn bão phía đông di chuyển về phía tây bắc. Ngược lại nếu bão ở
phía đông đủ mạnh và có phạm vi đủ lớn sẽ đẩy bão phía tây hơi di chuyển chếch về phía
nam.
Cars và Elsbery cũng đưa ra tần suất xuất hiện của các khu vực thịnh hành trong các

116
mô hình synôp (Hình 4.27).
Ta thấy theo số liệu 10 năm khu vực sống thịnh hành chiếm tần suất lớn nhất (53%)
điều đó giải thích tại sao các quỹ đạo bão trên Biển Đông phần lớn có hướng từ đông nam
tới tây tây nam trên Biển Đông. Hình 4.28: Tần suất bão thực tế theo mô hình chuẩn. Khu
vực hướng cực chỉ chiếm 25% các trường hợp và khu vực đới gió tây ôn đới chiếm 14%.
Sự thịnh hành của ba khu vực synôp này thể hiện rất rõ bằng sự tập trung của quỹ đạo bão
trên các hình (quỹ đạo bão Biển Đông). Các khu vực synôp còn lại chiếm tần suất không
đáng kể.
Trên thực tế do sự cấu trúc lại của trường độ cao được thể hiện ở mực 500mb nên
trong nhiều trường hợp có sự chuyển biến từ mô hình synôp này sang mô hình synôp khác.
Chẳng hạn, từ mô hình chuẩn sang mô hình cực và ngược lại. Kết quả là dòng dẫn đường
đối với bão cũng thay đổi, hướng di chuyển của bão cũng thay đổi theo. Để giúp phán đoán
các hướng chuyển biến này, Cars và Elsbery cũng đưa ra tần số và hướng chuyển biến giữa
các mô hình.
Trong công trình của Cars và Elsbery cũng đưa ra các minh hoạ bằng ảnh mây vệ tinh
và ví dụ sử dụng sản phẩm số trị tính cho mực 500mb đối với một số cơn bão điển hình ở
khu vực nghiên cứu. Chi tiết xin xem trong tài liệu tóm tắt “Kiến thức cơ sở ”của Cars và
Elsbery.
Việc phân tích sự di chuyển các cơn bão trong mấy năm gần đây cho thấy có nhiều
điểm về hoạt động và sự di chuyển của bão khá phù hợp với những kết luận của hai tác giả
trên. Chúng tôi cho rằng việc sử dụng các mô hình và khu vực synôp có thể hỗ trợ một
cách hữu hiệu đối với việc định hướng sự di chuyển của bão ở Biển Đông và khu vực phụ
cận.
4.8 SỰ BIẾN DẠNG CỦA ÁP CAO CẬN NHIỆT VÀ DÒNG DẪN Ở
TÂY BẮC THÁI BÌNH DƯƠNG
Trong một số trường hợp bản thân áp cao cận nhiệt Tây Bắc Thái Bình Dương và
dòng dẫn ở rìa áp cao này chịu ảnh hưởng rất lớn của hoàn lưu ôn đới và hoàn lưu cận xích
đạo, thể hiện trong các quá trình sau:
1) Rãnh ôn đới tại mực 500 mb có thể di chuyển rất sâu vào miền nhiệt đới tách áp
cao cận nhiệt thành hai bộ phận như trên mô hình chuẩn (Hình 4.23). Dòng khí hướng từ
tây nam lên đông bắc ở phía đông rãnh ngăn chặn không cho bão tiếp tục di chuyển sang
phía tây. Nếu sống yếu mở ra đủ rộng bão di chuyển lên phía bắc theo dòng dẫn ở phía
cực tây của bộ phận áp cao phía đông, thậm chí có thể ra nhập vào rãnh lạnh như trường
hợp cơn bão yếu số 7 tháng 11-2003. Tháng 12 rãnh ôn đới có thể tiến sâu hơn nữa về
phía nam dẫn bão đi từ tây sang đông, ngược hướng trung bình của bão trong tháng này
là từ đông sang tây.
2) Dải áp thấp xích đạo khi tiến về phía bắc gần tới áp cao cận nhiệt sẽ tăng gradient
khí áp ngang giữa hai hệ thống khí áp này và do đó làm tăng tốc độ dòng dẫn ở phía nam
áp cao.
3) Khi khu đệm dịch chuyển lên phía Bắc Bán Cầu và trở thành dải áp cao cận xích
đạo thì dòng dẫn ở phía bắc áp cao này trở thành dòng dẫn đường đối với bão và có thể đưa

117
bão di chuyển từ tây sang đông.
Hình 4.29:
Quĩ đạo và hệ thống mây trên ảnh mây vệ tinh của cơn bão số 6 (Vicentce) tháng
9/2005
Tới đây, ta hãy xét ví dụ về cơn bão mạnh, cơn bão số 6 năm 2005, có tên quốc tế là
Vicente hình thành ở giữa Biển Đông và đổ bộ vào Bắc Trung Bộ ngày 18/9/2005. Bão số
6 có đường đi khá đặc biệt (Hình 4.28). Hồi 13 giờ ngày 15/9/2005 một áp thấp nhiệt đới
hình thành ở giữa Biển Đông tại 14oN, 115,5oE, ở vùng trung tâm khí áp thấp nhất
Pmin=1004mb, tốc độ gió cực đại là 12m/s (cấp 6). Cuối ngày 15/9 và ngày 16/9 quỹ đạo
bão có dạng thắt nút. Hồi 7 giờ ngày 17/9/2005 bão số 6 có trung tâm nằm ở 13,5oN và
114,4oE, khí áp vùng trung tâm hạ thấp tới 990mb, tốc độ gió cực đại tăng tới 22m/s (cấp
9). Từ ngày 17/9/2005 bão di chuyển ổn định về hướng tây tây bắc. Hồi 18 giờ ngày 18/9
đổ bộ vào Bắc Trung Bộ. Tiếp đó bão di chuyển sang phía tây tới Lào giảm yếu và tan đi.
Bão số 6 đổ bộ vào Bắc Trung Bộ với hệ thống mây bão rất rộng nên đã gây mưa hầu
như trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng nằm trong
phạm vi bao quát của hệ thống mây bão như minh hoạ trên ảnh mây vệ tinh (Hình 4.29).
Mưa ở khu vực cách xa tâm bão xảy ra từng đợt cách quãng rõ rệt, lượng mưa chỉ dưới
20mm/ngày. Càng gần trung tâm bão mưa bão càng mạnh. Bão số 6 gây mưa vừa, mưa to
ở các tỉnh phía đông Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Riêng ở các tỉnh Thanh Hóa đến Quảng Trị
mưa to đến rất to. Lượng mưa hai ngày 17 và 18 đều ở mức 180 - 200mm. Ở một số nơi
lượng mưa bão lớn hơn: Chu Lễ (Hà Tĩnh) 321mm, Minh Hoá (Quảng Bình) 287 mm. Bão
số 6 tàn phá và nhấn chìm nhiều đoạn đê biển, gây nước dâng, lụt lội ở Bắc Trung Bộ, gây
nhiều thiệt hại cho khu vực bão đổ bộ, đảo lộn mọi hoạt động kinh tế xã hội vùng ven biển
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Quỹ đạo bão số 6 đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy

