PHẦN I: GIỚI THIỆU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, ngành thủy sản Việt nam đã tăng trưởng

cao và đang dần có những bước phát triển mới phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Đảng

và nhà nước ta đã khẳng định xây dựng ngành thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, là

chiến lược phát triển trong giai đoạn 2012- 2020, trong đó nuôi trồng thủy sản là một

trong ba ngành đầu tư then chốt của ngành thủy sản và nuôi tôm là nghề chính góp phần

phát triển nuôi trồng thủy sản. Hàng năm, sản lượng tôm chiếm tỷ trọng khá lớn trong

tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản và cơ cấu giá trị xuất khẩu của ngành. Trong những

năm gần đây xuất khẩu tôm tăng mạnh đã tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước,

đưa đất nước ta trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới.

Với những định hướng chiến lược đó, trong hơn 10 năm qua ngành thủy sản đã

đóng góp 4 – 5% trong GDP cả nước, chiếm từ 9 – 10% tổng kim ngạch xuất khẩu,

nhiều sản phẩm của thủy sản đã được thế giới và khu vực biết đến và được xem là một

trong những ngành có bước tăng trưởng nhanh chóng nhất. Cùng với sự tăng trưởng đó,

những năm gần đây ngành thủy sản đã góp phần to lớn vào việc giải quyết tạo công ăn

việc làm, cải thiện nâng cao đời sống, tăng thu nhập cho người dân, đem lại nguồn thu

ngoại tệ, góp phần vào việc tăng giá trị xuất khẩu cũng như GDP cho đất nước. Trong

tương lai thủy sản còn nhiều tiềm năng để phát triển mạnh hơn nữa như khai thác xa bờ,

nuôi trồng, chế biến….. một trong những hướng đi mới đang được chú trọng là nuôi

trồng thủy sản với nhiều chủng loại vật nuôi và hình thức nuôi đa dạng.

Với diện tích 22.000 ha trải qua gần 70km, hệ đầm phá Tam Giang, tỉnh Thừa

Thiên Huế trở thành hệ đầm phá lớn nhất nước và được xem là một trong những hệ

đầm phá lớn nhất Đông Nam Á. Phá Tam giang không những đóng vai trò quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế, bảo tồn đa dạng

sinh học mà còn có vai trò quan trọng đối với sinh kế của hơn 300.000 người dân gắn

liền với việc khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp các nguồn lợi từ đầm phá.

Trong hơn 10 năm qua, cùng với những thay đổi về chính sách phát triển kinh

tế xã hội và quản lý tài nguyên của đất nước cũng như của tỉnh, phong trào nuôi trồng

thủy sản đã phát triển nhanh chóng, mang lại một diện mạo mới cho vùng đầm phá nói

1

riêng và góp phần chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh nhà nói chung. Song song với

những lợi ích trên, ngành NTTS ở vùng đầm phá Tam giang đã và đang phát sinh

nhiều vấn đề như: sự bùng nổ phát triển NTTS, áp lực tăng dân số, rủi ro mất mùa,

xung đột xã hội điều này dẫn đến sự đe dọa nguồn lợi thủy sản, các vấn đề về môi

trường, xã hội và sự phát triển bền vững của vùng đầm phá Tam Giang và tỉnh Thừa

Thiên Huế nói chung.

Với diện tích hơn 6.800 ha mặt nước, vùng đầm phá huyện Phú Vang tỉnh TT-

Huế thuộc vùng đầm phá Tam Giang là một vùng trọng điểm về NTTS. Trong những

năm gần đây, nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đúng hướng

cũng như sự quan tâm của chính quyền địa phương, sự đầu tư phát triển, phong trào nuôi

tôm nước lợ của huyện đã phát triển mạnh.

Đồng hành với những kết quả đạt được này, nuôi trồng thủy sản đã góp phần

đáng kể trong việc xóa thể độc canh cây lúa khai thác và sử dụng có hiệu quả đất đai,

tạo việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo,

phân bổ lại lao động , dân cư, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Tuy nhiên, bên

cạnh những thành tựu đó, phát triển nuôi trồng thủy sản vãn còn tồn tại một số vấn đề

tiêu cực đã và đang trở thành nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội như:

nghề nuôi tôm ở đây phần lớn còn mang tính tự phát, quy hoạch kỹ thuật nuôi tôm,

công tác kiểm dịch chưa bảo đảm, việc tổ chức sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học

kỹ thuật và mở rộng sản xuất kinh doanh chưa đồng bộ, hiệu quả. Nên năng suất tôm

vẫn còn thấp so với thấp so với tiềm năng, các vấn đề xã hội như xung đột giữa các

nhóm hộ sống xung quanh vùng đầm phá với đánh bắt tự nhiên, hộ thủy điện và nuôi

trồng thủy sản, việc lạm dụng các sản phẩm hóa học trong nuôi trồng thủy sản đã tác

động đến môi trường sinh thái vùng đầm phá.

Trước thực trạng đó, nghiên cứu nâng cao hiệu quả kinh tế và định hướng phát

triển nuôi trồng thủy sản bền vững trở thành nhu cầu cấp bách và thiết yếu của vùng

đầm phá nói chung và xã Phú Xuân nói riêng.

Xuất phát từ thực tế đó, trong quá trình thực tập tốt nghiệp tôi đã quyết định

chọn đề tài: “ Hiệu quả nuôi tôm ở Xã Phú Xuân, huyện Phú Vang” làm nội dung

nghiên cứu.

2

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ các mục đích sau:

1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận thực tiễn về hiệu quả nuôi tôm.

2. Đánh giá thực trạng nuôi tôm ở xã Phú Xuân từ năm 2009 – 2011.

3. Đề xuất những giải pháp để phát triển nghề nuôi tôm một cách bền vững ở

Phú Xuân, huyện Phú Vang.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:

1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận

được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện đề tài.

2. Phương pháp điều tra phỏng vấn: đề tài mang tính thực tiễn nên tôi đã tiến

hành điều tra khoảng 60 hộ ngẫu nhiên ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa

Thiên Huế.

Bảng hỏi điều tra được thiết kế dựa vào số liệu thứ cấp và sự hướng dẫn của giáo viên.

3. Phương pháp phân tổ và phương pháp thống kê: dùng để chọn mẫu và phân

tích số liệu

4. Các phương pháp phân tích thống kê mô tả và phân tích kinh tế được sử dụng

để tính toán

5. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: trong quá trình thực tập tôi có tham

khảo ý kiến của các chuyên gia, cán bộ thủy sản huyện Phú Vang.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu đề tài từ 2009 – 2011.

Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 1/2/2011đến 5/5/2011

- Không gian: Tình hình nuôi tôm các hộ ở xã Phú Xuân.

3

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI TÔM

1.1. Lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế

1.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế

Có thể nói bất kỳ một ngành nghề nào hay đơn vị nào sản xuất nào khi đánh giá

kết quả sản xuất của mình cũng đều xem xét đến tính hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh

tế là tiêu chí của mọi doanh nghiệp, nhà đầu tư. Do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên

cứu từ nhiều phía khác nhau. Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác

nhau về hiệu quả. Từ đó khái niệm hiệu quả kinh tế (Economic Eficiency) đã sớm

được đưa ra.

Bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều hướng đến mục tiêu lợi nhuận. Và để

làm được điều đó thì yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải hoạt động có hiệu

quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của nhà sản xuất,

các doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội.

Hiệu quả kinh tế được xem như là tỉ lệ giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra

hay ngược lại là chi phí trên một đơn vị sản phẩm hay mức sinh lời của đồng vốn. Với

các yếu tố đầu vào hay lượng tài nguyên nhất định , để tạo ra một khối lượng sản phẩm

lớn nhất có thể có là mục tiêu chung của nhà sản xuất. Hay nói cách khác, ở mức sản

lượng nhất định làm thế nào để đạt được mức sản lượng ấy sao cho chi phí tài nguyên

và lao động là thấp nhất. Điều này cho thấy quá trình sản xuất thể hiện mối quan hệ

mật thiết giữa yếu tố đầu vào và đầu ra, là biểu hiện tất cả các mối quan hệ cho thấy

tính hiệu quả của sản xuất.

Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả sản xuất là điều kiện để tích lũy và tái đầu tư

mở rộng, là động lực thúc đẩy việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đánh giá

hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, là thước

đo trình độ tổ chức, quản lí kinh doanh các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh tế là

nhiệm vụ cuối cùng của mọi nổ lực sản xuất kinh doanh. Đây là đòi hỏi khách quan của

nền sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất của cuộc sống con người ngày một nâng cao trong

khi nguồn lực có hạn. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và

phát triển thì yêu cầu đặt ra là phải hoạt động có hiệu quả kinh tế.

4

Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Vậy nên hiểu hiệu quả kinh

tế thế nào cho đúng. GS TS Ngô Đình Giao cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn

cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường có sự quản lí của Nhà nước”. Theo tác giả Hồ Vinh Đào thì: “hiệu quả kinh tế

còn gọi là : “ hiệu ích kinh tế” so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động

kinh tế ( bao gồm lao động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được”.

Còn tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh: “hiệu quả kinh tế là một phạm trù hiệu quả khách

quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định”.

Về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp đã được nhiều tác giả bàn đến như

Farrell(1957), Schultz(1964), Rizzo(1979), và Ellis(1993). Các học giả trên đều đi đến

thống nhất là cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả: hiệu quả kỹ thuật

(technical efficency), hiệu quả phân bổ các nguồn lực (allocative efficency), và hiệu

quả kinh tế (economic efficiency).

Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí

đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật

hay công nghệ áp dụng vào nông nghiệp. Hiệu quả này thường được phản ánh trong

mối quan hệ về các hàm sản xuất. Hiệu quả kỹ thuật liên quan đến phương diện vật

chất của sản xuất. Nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại

thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm.

Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu

vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi thêm về

đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính

đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá của đầu ra. Vì thế nó còn được gọi là hiệu quả

giá (price efficiency). Việc xác định hiệu quả này cũng giống như xác định các điều

kiện về lí thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận.

Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ

thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính

đến khi xem xét việc sử dụng các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt được

một trong yếu tố hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả phân bổ mới là điều kiện cần chứ

chưa phải là điều kiện đủ cho đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực

5

đạt cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất mới đạt được

hiệu quả kinh tế.

Qua phân tích ở trên có thể khái quát lại: “ Hiệu quả kinh tế là một phạm trù

kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ

khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực trong đó quá trình tái sản

xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề ra”.

1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế

Trên bình diện xã hội, các chi phí bỏ ra để đạt một kết quả nào đó chính là hao

phí lao động xã hôi. Cho nên thước đo của hiệu quả là mức độ tối đa hóa trên một đơn

vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Nói cách khác, hiệu quả chính là sự tiết kiệm tối

đa các nguồn lực cần có. Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế đã khẳng định bản chất

của hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là phản ánh mặt chất

lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực nhằm đạt

được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.

Nghiên cứu về bản chất kinh tế, các nhà kinh tế học đã dưa ra những quan điểm

khác nhau nhưng đều thống nhất về bản chất chung của nó. Nhà sản xuất muốn có lợi

nhuận thì phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định như: vốn, lao động, vật lực…

Chúng ta tiến hành so sánh kết quả đạt được sau mỗi quá trình sản xuất kinh doanh với

chi phí bỏ ra thì có được hiệu quả kinh tế. Sự chênh lệch này càng cao thì hiệu quả

kinh tế càng lớn và ngược lại.

Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm

lao động xã hội. Đây là hai mặt của một vấn đề về hiệu quả kinh tế. Hai mặt này có

quan hệ mật thiết với nhau, gắn liền với quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội, là

quy luật tăng năng suất và tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả

kinh tế là đạt kết quả tối đa về chi phí nhất định và ngược lại, đạt hiệu quả nhất định

với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả chi phí để

tạo ra nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Nói tóm lại, bản chất của

hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả của lao động xã hội và được xác định bằng tương

quan so sánh giữa lượng kết quả thu được với lượng hao phí lao động xã hội bỏ ra.

6

1.1.3. Sự cần thiết xác định hiệu quả kinh tế

Chỉ tiêu hiệu quả được tính toán trên cơ sở xác định được các yếu tố đầu vào và

các yếu tố đầu ra. Chẳng hạn, với mục tiêu sản xuất sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu

của xã hội thì kết quả sử dụng nghiên cứu đánh giá là chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất.

Nhưng đối với doanh nghiệp hay trang trại, trên cơ sở sản xuất có thuê mướn nhân

công thì để đánh giá hiệu quả sản xuất người ta dùng chỉ tiêu lợi nhuận. Còn đối với

nông hộ thì lại dùng chỉ tiêu giá trị gia tăng (VA) hay thu nhập hỗn hợp (MI).

Để xác định hiệu quả kinh tế thì vấn đề đặt ra là phải xác định được chi phí bỏ

ra và kết quả thu về. Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là những chi phí

cho các yếu tố đầu vào như đất đai, lao động, tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu….Còn

kết quả thu được thì xác định như thế nào? Trong hệ thống cân đối quốc dân (MPS),

kết quả thu được có thể là toàn bộ giá trị sản phẩm (C+V+m), hoặc có thể là thu nhập

(V+m), ngoài ra cũng có thể là thu nhập thuần(MI). Trong hệ thống tài khoản quốc gia

(SNA) thì kết quả thu được có thể là tổng giá trị sản xuất(GO), có thể là giá trị gia tăng

(VA), cũng có thể là thu nhập hỗn hợp (MI), hoặc có thể là lãi (Pr)….

Các phương pháp xác định hiệu quả kinh tế bao gồm:

Thứ nhất, Hiệu quả kinh tế được xác định bằng cách lấy kết quả thu được chia

cho chi phí bỏ ra (dạng thuận) hoặc lấy chi phí bỏ ra chia cho kết quả thu được (dạng

nghịch).

Dạng thuận: H = Q/C

Công thức này nói lên một đơn vị chi phí sẽ tạo được bao nhiêu đơn vị kết quả.

Phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố nguồn lực.

Dạng nghịch: H = C/Q

Công thức này nói lên để đạt được một đơn vị kết quả cần tiêu tốn bao nhiêu

đơn vị chi phí.

Trong đó:

H : Hiệu quả kinh tế (lần)

Q : Kết quả thu được ( nghìn đồng, triệu đồng…)

C : Chi phí bỏ ra ( nghìn đồng, triệu đồng…)

7

Ưu điểm của phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn lực,

xem xét được một đơn vị nguồn lực sử dụng đã mang lại bao nhiêu đơn vị kết quả,

hoặc một đơn vị kết quả thu được cần phải chi phí bao nhiêu đơn vị nguồn lực.

Thứ hai, Hiệu quả kinh tế được xác định bằng phương pháp hiệu quả cận biên

bằng cách so sánh phần giá trị tăng thêm và chi phí tăng thêm.

Dạng thuận: Hb = Q/C

Thể hiện cứ tăng thêm một đơn vị chi phí thì sẽ tăng thêm bao nhiêu đơn vị kết quả.

Dạng nghịch: Hb =C/Q

Thể hiện để tăng thêm một đơn vị kết quả cần đầu tư thêm bao nhiêu đơn vị chi phí.

Trong đó:

Hb : hiệu quả cận biên ( lần)

Q : lượng tăng giảm của kết quả ( nghìn đồng, triệu đồng…)

C : lượng tăng giảm của chi phí (nghìn đồng, triệu đồng…)

Phương pháp này sử dụng nghiên cứu đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho tái sản

xuất mở rộng. Nó cho biết được một đơn vị đầu tư tăng thêm bao nhiêu đơn vị của kết

quả tăng thêm. Hay nói cách khác, để tăng thêm một đơn vị đầu ra cần bổ sung thêm

bao nhiêu đơn vị đầu vào.

Có nhiều phương pháp xác định Hiệu quả kinh tế, mỗi cách đều phản ánh một

khía cạnh nhất định về hiệu quả. Vì vậy, tùy vào mục đích nghiên cứu, phân tích và

thực tế mà lựa chọn phương pháp nào sao cho phù hợp.

1.2. Đặc điểm kinh tế- kĩ thuật của ngành nuôi tôm

1.2.1. Đặc điểm sinh vật học của tôm

Nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng là ngành khá phổ biến ở

nước ta hiện nay. Đối tượng của ngành nuôi tôm là những sinh vật sống rất nhạy cảm

với môi trường, cho nên nuôi tôm thực chất là việc tạo ra những điều kiện sống cho

phù hợp đặc điểm sinh vật học của tôm, nhằm thúc đẩy sinh trưởng và phát triển của

chúng, trên cơ sở đó nâng cao năng suất, sản lượng của quá trình sản xuất. Do đó

muốn nuôi tôm đạt hiệu quả cao trước hết phải nắm vững các đặc tính sinh vật học của

tôm, từ đó đề ra những biện pháp kinh tế kỹ thuật thích hợp, tạo môi trường thuận lợi

cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm.

8

Tôm là loài động vật thủy sinh di nhiệt, thở bằng mang. Vì vậy nó có quan hệ

mật thiết với môi trường nước và chịu ảnh hưởng trực tiếp về mặt sinh học khi các yếu

tố môi trường nước thay đổi.

Nhiệt độ nước thích hợp cho tôm từ 20 - 300C. Nhiệt độ nước còn ảnh hưởng đến

hàm lượng ôxy hòa tan. Khi nhiệt độ cao, hàm lượng oxy hòa tan giảm, tốc độ phân giải

mùn bã hữu cơ trong ao tăng. Qua nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy:

Khi nhiệt độ vượt quá 350C thì tôm hoạt động chậm chạp, ngừng ăn và vùi thân

xuống cát để trú ẩn, tình trạng này kéo dài tôm sẽ chết hàng loạt.

Khi nhiệt độ nhỏ hơn 200C thì khả năng bắt mồi giảm. Khi nhiệt độ bằng 180C tôm hầu như không bắt mồi. Khi nhiệt độ bằng 150C tôm ở trạng thái nằm nghỉ.

Như vậy, có thể nói nhiệt độ là yếu tố có tác động rất mạnh đến quá trình sinh

trưởng và phát triển của tôm.

Nồng độ muối: cũng là yếu tố môi trường ảnh hưởng lớn tới việc nuôi tôm. Mỗi

đối tượng nuôi thích hợp với một khoảng nồng độ muối nhất định, cơ thể thủy sinh vật

có thể tự điều chỉnh áp suất thẩm thấu trong khoảng cho phép. Khi nồng độ muối quá

cao hay quá thấp thủy sinh vật sẽ chết do rối loạn quá trình trao đổi chất. Đối với tôm

ngưỡng độ muối thích hợp nhất từ 10-25‰.

Độ pH: Trong ao nuôi chỉ số pH là một chỉ số rất nhạy. Một sự biến động nhỏ

về thủy lý, thủy hóa hay thủy sinh đều gây nên sự thay đổi về pH của ao nước, pH

được xác định bằng pH kế, hay giấy đo pH, pH thích hợp nhất để tôm sinh trưởng và

phát triển tốt là 7, - 8,5.

Hàm lượng oxy hòa tan trong nước là yếu tố môi trường cần thiết cho sinh

trưởng, phát triển của tôm và có quan hệ thuận. Cường độ trao đổi chất của tôm lớn,

lượng tiêu hao ôxy nhiều, do đó tôm có phản ứng khá nhạy cảm với sự thay đổi của

thời tiết nhất là sự thay đổi của khí áp. Lượng ôxy hòa tan thích hợp cho các loại tôm

là 3- 5 mg/lít, nếu thiếu tôm sẽ nổi đầu lên tầng mặt và tập trung vào ven bờ.

Độ trong: Là chỉ số để xác định ao nghèo hay giàu dinh dưỡng. Ngoài ra đây cũng là

chỉ tiêu để biết mức độ phát triển của thủy sinh vật. Khi độ trong này < 30 cm thì ao này

đang bị phú dưỡng, ngược lại khi độ trong > 40 cm thì ao nghèo dinh dưỡng.

9

Tôm thích hợp với ảnh sáng yếu, vì thế mọi hoạt động bắt mồi, sinh sản và giao

vĩ đều vào ban đêm. Tính ăn của tôm thay đổi rõ rệt theo từng giai đoạn sinh trưởng và

phát triển, tôm bắt mồi mạnh nhất là vào ban đêm, đặc biệt lúc hoàng hôn và mờ sáng,

là loại sinh vật hấp thụ thức ăn nhanh nên tôm ăn thường xuyên, thức ăn của tôm là

các loài động vật phù du, các mùn bã hữu cơ, các thức ăn nhiều đạm như xác động vật,

cá tạp, sò hến nghiền nát.

Tóm lại: Những điều kiện lý tưởng để nuôi tôm là:

- Độ pH: 7, – 8,5 - Nhiệt độ nước: 20 – 300C - Nồng độ muối: 10 – 25 ‰

- Hàm lượng oxy hòa tan: 3 - 5 mg/l

- Độ trong của nước: 30 – 40 cm

- Độ cứng của nước: 80 – 100ppm.

1.2.2 Yêu cầu kỹ thuật cơ bản trong nuôi tôm

Xuất phát từ những đặc điểm sinh vật học của tôm, ta thấy rằng muốn đạt hiệu quả

kinh tế cao trong quá trình nuôi tôm cần phải lưu ý một số yêu cầu kỹ thuật cơ bản sau:

 Lựa chọn địa điểm: Việc chọn địa điểm xây dựng ao góp phần quan trọng

vào kết quả nuôi. Ao nuôi có thể là các ao tự nhiên có sẵn hay ao đào mới. Ao thường

có hình chữ nhật, chiều dài gấp 4-5 lần chiều rộng. Khi lựa chọn địa điểm ao nuôi cần

chú ý các điểm sau: Vùng phải có khí hậu ôn hòa, vị trí ao ở nơi dể cấp thoát nước,

gần sông, lạch, đầm phá ven biển, nơi có nguồn nước ít biến động, tránh xa vùng có

nguy cơ ô nhiễm nguồn nước. Lựa chọn vùng nước sạch là khâu quan trọng có tính

quyết định đến sự thành công trong quá trình nuôi tôm.

 Ao nuôi tôm: Ao nuôi phải xây dựng trên vùng có độ pH thích hợp, chủ

động nguồn nước và có độ mặn ổn định. Bờ ao phải đảm bảo kiên cố, không bị rò rỉ

làm thất thoát tôm nuôi, chống được dịch hại ở bên ngoài xâm nhập vào ao nuôi và

đáy ao có độ dốc thích hợp. Ao nuôi cần có đầy đủ hệ thống cấp thoát nước và các

trang thiết bị khác như: máy bơm nước, máy sục khí để đảm bảo môi trường nước ổn

định cho tôm phát triển. Như vậy ao nuôi phải được thiết kế đúng kỹ thuật và phải

được xử lý trước khi nuôi. Công tác xử lý ao đầu mỗi mùa vụ đóng vai trò rất quan

10

trọng trong quá trình nuôi. Để đảm bảo tốt khâu chuẩn bị ao nuôi cần tiến hành các

bước sau:

- Tháo cạn, vét bùn, vớt sạch lớp mùn bả hữu cơ ở đáy ao và phơi đáy. Trước

khi ương nuôi phải tháo cạn ao sang đáy bằng phẳng và phơi đáy ao từ 5 – 10 ngày để

ao nứt nẻ rạng chân chim. Sau đó cày xới nhẹ lớp mặt đáy( những đáy ao chua không

nên phơi đáy mà tích cực bón vôi)

- Cải tạo, sát trùng đáy: Dùng vôi bột, bột sò, bột san hô rãi đều khắp đáy và ao, trong điều kiện bình thường dùng từ 30-50 kg vôi / 1000m2. Với những ao mới đào phải tăng cường thêm lượng vôi từ 50-100 kg/ 1000 m2.

- Diệt dịch hại: Nước lấy vào ao phải được lọc kỹ qua lưới 0,1-0,2 mm, tránh

các sinh vật hại gây ảnh hưởng đến tôm. Chú ý lấp các lỗ rò mối, diệt ếch nhái, rắn và

cần phơi ao khi chưa nuôi.

-Bón phân gây màu nước: Có thể dùng phân chuồng ủ hoai, phân vô cơ N, P, K

bón cho ao nuôi nhằm tăng thức ăn tự nhiên. Vôi vừa có tác dụng là thuốc diệt tạp vừa

là nguồn phân bón cho ao. Khi bón vôi nên dùng vôi bột đứng đầu ngọn gió rãi đều

khắp diện tích ao và khắp mặt trong thân đê.

 Giống tôm và mật độ con giống: Giống tôm yêu cầu phải khỏe mạnh,

không nhiễm bệnh, tôm đều con, thân nhẵn, màu sắc sáng, võ cứng, đầu thân cân đối,

các đốt bụng dài, các cơ bụng đầy đặn và căng tròn, đuôi râu hoàn chỉnh có khả năng

bơi lội và phản ứng tốt. Việc cung cấp giống phải đảm bảo yêu cầu về thời vụ nuôi

tôm và tránh tình trạng không đồng đều về kích cỡ.

Về mật độ con giống thì tùy thuộc vào mức độ đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật

mà chọn mật độ thả con giống thích hợp. Nếu mật độ thả con giống cao mà các yêu

cầu kỹ thuật không đảm bảo thì tôm giống sẽ bị thất thoát và phát triển kém, trong

trường hợp này chi phí con giống lớn mà sản lượng thu được lại thấp, giá thành của

tôm nuôi sẽ cao. Do đó, mật độ thả con giống tùy thuộc vào hình thức nuôi.

 Quản lý cho ăn: Cho ăn là khâu quan trọng không thể thiếu được khi nuôi

bất kỳ đối tượng nào. Trong nuôi tôm thường thì thức ăn gồm các loại:

- Thức ăn tươi: Cá vụn, đầu mực, ngao hến lúc tôm còn nhỏ thì xoay nhuyễn

cho ăn, khi lớn chỉ cần băm nhỏ, lượng cho ăn bằng 10% trọng lượng của tôm.

11

- Thức ăn của công nghiệp( tổng hợp): Thường được sử dụng để nuôi tôm

thương phẩm. Vì thức ăn này được sản xuất phù hợp với các giai đoạn phát triển của

tôm, với lại ít ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên cần chú ý đến các thành phần, chất

lượng thức ăn của từng hãng sản xuất, thời gian bảo hành và phương pháp bảo quản để

tránh thức ăn kém chất lượng.

Trong nuôi tôm người ta thường cho ăn tập trung và cho ăn vào buổi chiều

đúng theo câu: “tôm chạng vạng, cá rạng đông”.

Để đảm bảo hiệu quả kinh tế của quá trình nuôi chúng ta cần tính đến nhu cầu

dinh dưỡng của đối tượng nuôi và các giai đoạn phát triển của đối tượng nuôi để đề ra

chế độ ăn cho phù hợp. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của tôm nuôi, tận dụng tối đa hiệu

quả tối ưu thức ăn, đem lại giá trị kinh tế cho quá trình nuôi.

 Công tác chăm sóc quản lý

Tôm là loài thủy sản rất nhạy cảm với môi trường do đó đòi hỏi người nuôi tôm

phải am hiểu kỹ thuật, thường xuyên theo dõi, phát hiện kịp thời những thay đổi bất lợi

của môi trường nước đối với tôm để có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế những thiệt

hại có thể xảy ra. Đặc biệt những ngày thời tiết thay đổi thất thường phải theo dõi chặt

chẽ sự biến đổi của môi trường nước nhất là độ pH và nồng độ muối, nếu thay đổi

nhiều phải có biện pháp xử lý ngay, đảm bảo ổn định cho tôm phát triển.

1.3. Các hình thức nuôi tôm

Hiện nay tôm là đối tượng nuôi phổ biến của ngành nuôi trồng thủy sản trong

nước và trên thế giới. Trước đây tôm được nuôi theo phương pháp đơn giản và cho

năng suất rất thấp, hiện nay những tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được áp dụng vào sản

xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao và nâng cao năng suất tôm nuôi lên rất nhiều. Tùy

theo mức độ đầu tư, trình độ kỹ thuật mà có các hình thức nuôi tôm chuyên canh. Ở

nước ta nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng có các tiêu chuẩn được áp dụng

cho các hình thức nuôi chuyên canh như sau:

1.3.1. Nuôi tôm quảng canh

Là hình thức nuôi phụ thuộc vào tự nhiên là chính, ít đầu tư chăm sóc. Mật độ thả con giống rất thấp, từ 1-3 con/ m2. Năng suất khoảng 100-180 kg/ha/vụ. Ở vùng

đầm phá TT-Huế nuôi tôm chắn sáo được xem là nuôi quảng canh. Hình thức này vốn

12

đầu tư phù hợp với dân nghèo nhưng mức độ rủi ro cao do bị ảnh hưởng trực tiếp của

thời tiết và gây ô nhiễm môi trường do nuôi bằng thức ăn tươi.

1.3.2. Nuôi quảng canh cải tiến

Là hình thức nuôi cao hơn nuôi quảng canh. Ở hình thức nuôi quảng canh cải

tiến tuy phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lấy nước theo thủy triều nhưng được đầu tư chủ

động giống thức ăn ở mật độ nhất định đồng thời có đầu tư biện pháp cải tạo đầm, diệt

trừ các đối tượng dịch hại để tăng tỷ lệ sống và năng suất. Quy mô diện tích dưới 2ha. Mật độ thả giống từ 4-9 con/m2. Năng suất đạt từ 300-900 kg/ha/vụ.

1.3.3. Nuôi bán thâm canh

Là hình thức nuôi bằng giống nhân tạo và sử dụng chủ yếu thức ăn công

nghiệp. Hệ thống ao đầm đã được đầu tư một phần về điện, cơ khí, thủy lợi, … để chủ

động nguồn nước, xử lý và khống chế môi trường như hệ thống máy bơm, máy sục khí. Diện tích ao từ 0,1-1,5 ha, mật độ thả giống từ 10-15 con/m2, mực nước từ 1,2-1,4

m. Năng suất đạt từ 1-2 tấn/ha/vụ.

1.3.4. Nuôi thâm canh hay nuôi công nghiệp

Là hình thức hoàn toàn bằng giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ

tầng( hệ thống ao đầm, thủy lợi, giao thông, điện nước cơ khí) đầy đủ để chủ động

khống chế các yếu tố môi trường. Chủ động được nguồn nước mặn và ngọt. Diện tích ao từ 0,5-1 ha, độ sâu mực nước từ 1,5-2,0 m. Mật độ giống thả từ 16-30 con/m2 và đạt

năng suất từ 2-5 tấn/ha/vụ.

Trên đây là bốn hình thức nuôi tôm chuyên canh đang được áp dụng phổ biến

hiện nay. Ngành nuôi tôm cũng như các ngành khác trong quá trình sản xuất kinh

doanh bao giờ cũng có người lãi người lỗ. Nếu hộ nào nuôi đúng kỹ thuật, có kinh

nghiệm, có đủ vốn và đầu tư đúng đối tượng thì hộ đó sẽ thu được lợi nhuận cao, nhờ

đó mà họ có điều kiện tích lũy để đầu tư mở rộng sản xuất. Ngược lại với những hộ

nuôi tôm bị thua lỗ họ sẽ bị mất dần vốn. Với những hộ này theo quy luật chung của

quá trình phân công lao động xã hội sẽ có hai hướng:

Thứ nhất: Là họ sẽ học hỏi kỹ thuật, rút kinh nghiệm, tiếp tục đầu tư vốn để

nuôi tôm với hy vọng sẽ thu được lợi nhuận.

13

Thứ hai: Là họ sẽ bỏ nghề nuôi tôm, chuyển sang hoạt động ở ngành nghề khác

mà họ có khả năng hơn.

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế nuôi tôm

Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện tự

nhiên như: địa hình, đất đai, khí hậu, thủy văn; các tài nguyên thiên nhiên như: tài

nguyên đất đai, tài nguyên nước; các điều kiện kinh tế xã hội như: dân số vào lao

động, cơ sở hạ tầng, các chính sách phát triển nghề nuôi tôm. Đặc biệt nghề nuôi tôm

chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các yếu tố như: năng lực sản xuất của chủ hộ, tình hình sử

dụng thức ăn, tình hình sản xuất tôm giống, thị trường tiêu thụ và qui trình kỹ thuật

của nghề nuôi tôm.

 Các nhân tố sinh học

- Giống tôm có chất lượng thì khả năng chống chịu bệnh tốt, kết quả đem lại

năng suất cao, chất lượng tốt.

- Dịch bệnh tôm: Hiện nay, các loại bệnh tôm đang ngày càng phổ biến và gây

hại cho tôm: bệnh đốm trắng, bệnh hoại tử gan tụy. Một số bệnh chưa có thuốc đặc trị

cũng là yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của tôm.

 Các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên

-Thời tiết khí hậu: Điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt (nhiệt độ và lượng

mưa..) đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của tôm.

 Các nhân tố kinh tế xã hội

- Quá trình đô thị hoá tăng, diện tích đất cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.

- Sử dụng thuốc phòng bệnh có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến chất lượng nông

sản.

- Ngư dân thiếu vốn đầu tư sản xuất: Hầu hết hộ ngư dân điều thiếu vốn để mua

giống tốt, mua vật tư, thức ăn đáp ứng cho hoạt động nuôi tôm tiến bộ nên năng suất

chưa tương xứng với tiềm năng.

- Thiếu hệ thống cung ứng giống: Hiện nay, chưa có công ty, đơn vị nào chuyên

tâm chịu trách nhiệm sản xuất và cung ứng giống tôm sú đảm bảo chất lượng, giống

tốt. Hầu hết, giống tôm là do trại giống ở Thuận An sản xuất, nên con giống không

được đảm bảo làm cho năng suất của các ngư hộ chưa cao

14

-Thiếu hệ thống thuỷ lợi: Hệ thống thuỷ lợi đang ngày càng được nâng cấp

nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nước cho ao nuôi làm giảm năng suất và ảnh

hưởng đến chất lượng tôm. Vào thời điểm nắng nóng cần thay, bơm nước thường

xuyên cho ao tránh tình trạng ô nhiễm nguồn nước dẫn đến dịch bệnh.

- Giá sản phẩm không ổn định: Thị trường không ổn định, công tác tổ chức thu

mưa, chế biến và xuất khẩu chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua, tranh

bán...làm giá cả không ổn định.

- Tham gia vào thị trường thương mại thế giới có sự đòi hỏi rất khắt khe về chất

lượng nông sản. Do vậy, phải có sự đầu tư một cách đồng bộ từ sản xuất đến đánh giá

kiểm định chất lượng, bảo quản và vận chuyển tiêu thụ.

Để hiểu sâu hơn phần sau chúng ta sẽ đi phân tích các nhân tố này có ảnh

hưởng như thế nào đến hiệu quả nuôi tôm ở xã Phú Xuân.

1.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế

Căn cứ vào đặc điểm của ngành kinh tế nuôi tôm. Trong quá trình thực hiện đề

tài tôi đã chọn và sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau:

a. Năng suất tôm(N): Chỉ tiêu này cho biết trong một năm bình quân trên một

đơn vị diện tích sản xuất ra được bao nhiêu tôm.

N = Q/S Trong đó: N: Năng suất

Q: Sản lượng

S: Diện tích

b. Tổng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích (GO)

GO = ∑QiPi Trong đó: Qi: Số lượng sản phẩm

Pi: Giá trị sản phẩm

Là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền, phản ánh toàn bộ kết quả trực tiếp hửu ích mà

lao động sáng tạo ra trong một thơi gian nhất định (1 năm)

Xét trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì sản xuất ra nhằm mục đích tiêu thụ

chứ không phải là tiêu dùng cho nên tổng giá trị sản xuất cũng chính là tổng doanh thu

của các hộ nuôi tôm.

c. Giá trị gia tăng (VA) trên một đơn vị diện tích.

VA = GO – IC Trong đó: VA: Giá trị gia tăng

15

IC: Chi phí trung gian

GO: Tổng giá trị sản xuất

Giá trị gia tăng là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền bao gồm phần giá trị sản phẩm do

lao động sản xuất sáng tạo thêm trong quá trình nuôi tôm.

d. Lợi nhuận trên một đơn vị diện tích. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị diện

tích trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.

e. Tổng giá trị sản xuất trên chi phí trung gian ( GO/IC).

f. Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) (lần). Tỷ số này phản ánh 1

đồng chi phí trung gian tạo ra được mấy đồng giá trị gia tăng.

g. Thu nhập hỗn hợp trên một đơn vị diện tích (MI/ha), trên chi phí trung gian

(MI/IC)

h. Thu nhập hỗn hợp bình quân một ngày lao động

i. Lợi nhuận bình quân một ngày lao động

j. Doanh lợi chi phí sản xuất (Pc) (%)

Pc = P/TC * 100%

Trong đó: P: Lợi nhuận bình quân/ đvdt

TC: Tổng chi phí bình quân/ đvdt

Chỉ tiêu này cho biết, nếu đầu tư 100 đồng chi phí sản xuất sẽ thu được

bao nhiêu đồng lợi nhuận.

1.6. Tình hình nuôi tôm ở việt nam và ở tỉnh TTH

- Ở Việt Nam

Việt Nam có truyền thống lâu đời trong các hoạt động khai thác và nuôi trồng

thủy sản, là một đất nước có bờ biển dài trên 3000km và nhiều hệ thống sông suối ao

hồ chằng chịt. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy Việt Nam có tiềm năng lớn về

phát triển NTTS với những loài có giá trị kinh tế cao như : Cá basa, cá song…, tôm sú,

tôm thẻ, tôm càng xanh….Vì vậy trong những năm qua Đảng và nhà nước ta luôn

quan tâm khuyến khích thế mạnh này nhằm tạo nguồn đầu vào cho các ngành công

nghiệp chế biến thủy sản để xuất khẩu, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước,

nâng cao đời sống của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Hiện nay vấn đề nâng

16

cao hiệu quả NTTS là điều được người dân sản xuất rất quan tâm, trong đó vấn đề lựa

chọn đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao luôn được đặt lên hàng đầu. Và con

tôm là đối tượng được người dân lựa chọn nuôi phổ biến nhất, đặc biệt gần đây việc

đưa con tôm thẻ chân trắng vào nuôi trồng đã mang lại hiệu quả lớn cho người dân.

Trong những năm qua, nhìn chung diện tích NTTS đã được chú trọng phát

triển, diện tích nuôi tôm tăng lên. Theo số liệu thống kê, diện tích cả nước năm 2010 là

1096 nghìn ha, trong đó diện tích nuôi tôm là 629,9 nghìn ha, chiếm 57,5 % tổng diện

tích NTTS của cả nước. Tuy nhiên đến năm 2011 thì diện tích NTTS lại giảm xuống

1050 nghìn ha, và diện tích nuôi tôm cũng giảm xuống 626,8 nghìn ha, mức độ giảm

không đáng kể, chiếm 59,7 % tổng diện tích. Qua bảng số liệu ta thấy, nhà nước ta đã

có sự chú trọng trong quy mô diện tích NTTS trong cả nước. Cụ thể:

Bảng 1: Tình hình nuôi trồng thủy sản ở nước ta giai đoạn (2010-2011)

So sánh Chỉ tiêu ĐVT Năm 2010 Năm 2011 11/10(%)

1000ha 1096 1050 -4,2 1.Diện tích NTTS

1000ha 629,9 626,8 -0,5 -Diện tích nuôi tôm

4232,6 4577 8,1 2. Sản lượng NTTS 1000 tấn

2040,3 2165,2 6,1 Sản lượng tôm 1000 tấn

3,86 4,36 12,9 3. Năng suất NTTS Tấn/ha

3,24 3,45 6,5 - Năng suất tôm Tấn/ha

(Nguồn: tạp chí thủy sản 2012)

Bên cạnh việc mở rộng và tăng diện tích thì sản lượng nuôi tôm ở Việt nam

trong 2 năm qua cũng có sự tăng lên đáng kể. Năm 2009 tổng sản lượng NTTS đạt

4232,6 nghìn tấn trong đó sản lượng nuôi tôm đạt 2040,3 nghìn tấn chiếm 48,2 % tổng

sản lượng NTTS. Năm 2009 là năm sản lượng nuôi trồng thủy sản chiếm một tỷ trọng

đáng kể. Tuy nhiên, năm 2010 mới là năm đánh dấu về sản lượng nuôi, sản lượng đạt

được 4577 nghìn tấn và bằng 108,1 % so với năm trước. Mức sản lượng này sẽ vẫn

còn tiếp tục tăng.

17

- Ở Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế có đường bờ biển dài 125km và hệ đầm phá Tam Giang- Cầu

Hai kéo dài từ cửa sông Ô Lâu đến chân núi Vĩnh Long, là một tỉnh miền trung có hệ

đầm phá lớn nhất cả nước. Đây là tiềm năng vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban

tặng cho địa phương để phát triển kinh tế. Ở đây không chỉ phát triển trong lĩnh vực

NTTS mà còn có tiềm năng to lớn về du lịch và một số lĩnh vực quan trọng khác. Nhờ

những ưu thế đó, trong những năm qua tỉnh Thừa Thiên Huế đã không ngừng đẩy

mạnh phát triển ngành thủy sản, mỗi năm đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách của

tỉnh. Hiện nay, các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như: cá, tôm, cua…đã được đưa

vào nuôi trồng có hiệu quả. Các loại thủy sản này không những mang lại giá trị kinh tế

cao mà nó là công cụ hữu hiệu trong cong cuộc xóa đói giảm nghèo đối với các địa

phương trong tỉnh.

Toàn tỉnh có 22000 ha đầm phá nước lợ, 10.000 ha ao hồ sông suối nước ngọt

cùng với nhiều yếu tố tự nhiên khác là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển ngành

thủy sản của Tỉnh.

Hằng năm, trung bình tại đầm phá T.T.Huế khai thác xấp xỉ được khoảng 2500

đến 3000 tấn thủy sản cá, tôm, cua các loại. Ngoài ra nhân dân còn khai thác vài trăm

tấn rau cau và khoảng 15.000 tấn rong tươi làm phân bón cho các đồng ruộng ven đầm

và nguồn thức ăn cho nghề nuôi lồng cá trắm cỏ ở vùng phía bắc đầm phá. Toàn tỉnh

còn có nhiều diện tích mặt nước đầm phá, đất ven phá nhiễm mặn, ruộng trũng, đất cát

hoang hóa ven biển có khả năng chuyển sang nuôi trồng thủy sản một cách thuận lợi.

Những năm gần đây, nhờ ý thức được tầm quan trọng của ngành thủy sản trong nền

kinh tế nên UBND Tỉnh cùng với các Ban ngành chức năng đã đặc biệt quan tâm, chú

trọng, chỉ đạo, đầu tư phát triển ngành thủy sản nhằm đem lại những kết quả và hiệu

quả cao. Qua bảng 2: giai đoạn 2009 – 2011 diện tích, năng suất, sản lượng tôm có sự

thay đổi đáng kể. Cụ thể như sau:

Về diện tích: Năm 2009 nuôi tôm phát triển mạnh, toàn tỉnh đã đưa vào 2733 ha

nuôi tôm chủ yếu là vùng cao triều. Tuy nhiên, năm 2009 diện tích lại có xu hướng

giảm từ 2733 ha năm 2009 xuống còn 2360 ha năm 2010 tức giảm đi 373 ha tương

ứng với 86,4 % so với cùng kì năm trước. Nguyên nhân giảm sút này là do một số hộ

18

dân năm trước đã nuôi không có hiệu quả, thua lỗ nên đã chuyển sang nuôi xen ghép

các đối tượng khác như: cua, cá lồng, cá dìa…Năm 2011 diện tích lại tăng lên từ 2360

ha năm 2010 lên 3669,3 ha năm 2011 tức tăng 1309,3 ha về số tuyệt đối. Sở dĩ diện

tích có sự tăng lên nhanh như vậy là do các địa phương đã mở rộng quy mô diện tích

nuôi tôm vùng cao triều hoặc trên đất nhiễm mặn và đất cát bãi ngang ven biển.

Về sản lượng: Đến năm 2011 toàn tỉnh TT -Huế đã thu được 9892 tấn thủy sản,

trong đó tôm các loại là 3558,0 tấn chiếm 36 % sản lượng NTTS.

Nhìn chung năng suất tôm nuôi ở tỉnh TT-Huế có tăng nhưng không đáng kể,

tuy nhiên so với tiềm năng vẫn còn thấp đặc biệt là có 628 ha nuôi tôm chắn sáo trên

phá Tam Giang. Đây là diện tích có năng suất thấp, gây ô nhiễm môi trường.Nếu giảm

mạnh diện tích nuôi theo loại này chuyển sang nuôi tôm công nghiệp thì năng suất và

sản lượng ở tỉnh sẽ còn cao hơn mức hiện tại.

Từ bảng 2 cho thấy diện tích nuôi tôm đang dần chiếm chủ yếu trong tổng diện

tích NTTS. Mặc dù 2 năm 2009 và 2010 cơ cấu diện tích có giảm so với năm trước,

do đó đã có một số lớn diện tích nuôi bị dịch bệnh giữa vụ phải hủy bỏ nhưng về lâu

dài nuôi tôm vẫn là lựa chọn đúng đắn trong NTTS ở tỉnh TT- Huế.

Bảng 2: Tình hình nuôi tôm ở TT-Huế qua 3 năm (2009-2011)

So sánh(%) 2009 2010 2011 Chỉ tiêu 10/09 11/10

5473,4 5717,5 5754,4 104,5 100,6 1. Diện tích NTTS(ha)

- Tôm 2733,0 2360 3669,3 86,4 155,5

9251,2 9926,0 9892,0 107,3 99,7 2. Sản lượng NTTS (tấn)

- Tôm 4056,0 4268 3558,0 105,2 83,4

1,69 1,736 1,72 102,7 99 3. Năng suất NTTS (tấn/ha)

- Tôm 1,48 1,8 0,97 121,6 53,9

(Nguồn: Sở thủy sản Thừa Thiên Huế)

Tóm lại, NTTS tỉnh Thừa Thiên Huế mặc dầu có những khó khăn nhưng nó

cũng đã dần được tháo gỡ, bằng chứng này đã bắt đầu năng động trở lại và chúng ta có

quyền hy vọng về những kết quả tốt đẹp hơn trong thời gian tới.

19

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NUÔI TÔM CỦA XÃ PHÚ XUÂN

2.1. Tình hình cơ bản của xã Phú Xuân

2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí-địa lý

Phú Xuân là xã đồng bằng nằm về phía Đông Bắc của huyện Phú Vang, có tổng

diện tích tự nhiên 3.022.71 ha, chiếm 10,8% diện tích toàn huyện, với tổng dân số

8.686 người gồm 2.080 hộ thuộc 8 thôn. Ranh giới hành chính được xác định như sau:

 Phía Bắc giáp xã Phú Thuận.

 Phía Nam giáp xã Phú Hồ, xã Phú Lương.

 Phía Đông giáp xã Phú Hải, xã Phú Diên.

 Phía Tây giáp xã Phú An, xã Phú Mỹ.

Đơn vị hành chính của xã đóng tại khu trung tâm, thôn xa nhất cách trung tâm

xã khoảng 6 km; số thôn còn lại cơ bản gần trụ sở UBND xã. Về các khu sản xuất do

bố trí theo địa bàn khu dân cư nên tương đối phù hợp trong quản lý điều hành của

chính quyền; sự đi lại và sản xuất của người dân. Xã cách xa trung tâm huyện khoảng

7km; cách thành phố Huế 12 km; cách khu công nghiệp và sân bay Phú Bài, quốc lộ

1A khoảng 12- 15km.

Xã gồm 8 thôn bao gồm: Ba Lăng, Quáng Xuyên, Lê Bình, Xuân Ổ, Thủy

Diện, Diên Đại, An Hạ, Lộc Sơn.

2.1.1.2. Địa hình

Là một xã ven đầm phá của huyện Phú Vang, Phú Xuân có địa hình tương đối

bằng phẳng, ít bị chia cắt và nghiên dần theo hướng Đông Bắc. Phía Tây Bắc và Đông

Bắc là vùng trũng gồm ruộng lúa, các ao đầm, phía Nam là vùng đất cồn cát nội đồng.

Nhìn chung địa hình của xã cũng khá thuận lợi cho phát triển hạ tầng khu dân cư cũng

như sản xuất nông nghiệp.

2.1.1.3. Khí hậu-thủy văn

Là xã nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền trung nên Phú Xuân chịu sự chi

phối chung của khí hậu nội chí tuyến nhiệt đới gió mùa có ảnh hưởng khí hậu đại

dương vì vậy những đặc trưng chủ yếu về khí hậu thời tiết là:

20

Nhiệt độ:

Nhiệt độ trung bình năm đạt 250C.

Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5, 6, 7, và 8.

Nhiệt độ cao tuyệt đối năm: 38,90C.

Nhiệt độ thấp nhất vào tháng 12, tháng 1 và tháng 2 năm sau. Nhiệt độ

thấp tuyệt đối: 10,20C.

Mưa:

Lượng mưa trung bình năm khoảng 2449 mm.

Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 2 năm sau. Đỉnh mưa

dịch chuyển trong 4 tháng là từ tháng 9 đến tháng 12, riêng tháng 11 có lượng mưa

nhiều nhất chiếm tới 30% lượng mưa cả năm.

Độ ẩm:

Độ ẩm tương đối trung bình năm: 85-86%.

Độ ẩm cao nhất là : 92%. Tháng có độ ẩm cao nhất là 9, 10, 11.

Độ ẩm thấp nhất trong năm là 77%.

Bốc hơi:

Khả năng bốc hơi trung bình năm là 977mm/năm. Lượng bốc hơi nhiều nhất là

từ tháng 5 đến tháng 8 ( tháng 7 là 138mm ), tháng có lượng bốc hơi ít nhất là tháng 2

cũng đạt 39,6 mm.

Gió, bão

Xã Phú Xuân chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính:

 Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió bình quân 2-

3m/s có khi lên tới 7-8m/s. Mùa này gió thường khô nóng, bốc hơi mạnh nên gây khô

hạn kéo dài.

 Gió mùa Đông Bắc: Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió bình

quân từ 4-6m/s. Gió kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh, ẩm, dễ gây lũ lụt, ngập úng ở

nhiều nơi.

 Bão thường xuyên xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10. Tốc độ gió lớn có thể

đạt trên 15-20m/s trong gió mùa Đông Bắc và 30-40m/s trong khi lốc, bão.

21

Nắng:

Số giờ nắng trung bình năm: 2.075 h/năm và số ngày nắng trung bình là 196

ngày/năm.

2.1.2. Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội

2.1.2.1. Tình hình dân số và lao động ở xã Phú Xuân giai đoạn 2009 – 2011

Phú Xuân là một xã thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một

xã ven đầm phá, nằm dọc theo phá Tam Giang. Về tình hình dân số qua 3 năm dân số

có sự tăng lên rõ rệt năm 2009 tổng dân số là 8.646 người với 2.154 hộ. Đến năm 2011

tổng dân số là 8.790 người với 2.250 hộ, bình quân mỗi năm dân số tăng 0,83%.

Với dân số 8790 người/2250 hộ, đa số người dân trong xã sống bằng nghề

nông; trồng lúa, chăn nuôi, và nuôi trồng thuỷ sản; một số người dân sống bằng nghề

đánh bắt thuỷ sản và buôn bán nhỏ. Cuộc sống của người dân trong xã vẫn còn nghèo

do nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp vẫn chưa được quản lý tốt, hệ thống thuỷ lợi

vẫn còn dựa vào các điều kiện thời tiết, diện tích mặt nước dành cho nuôi trồng thuỷ

sản đang thu hẹp dần, và sản lượng thuỷ sản đánh bắt được đang suy giảm. Thêm vào

đó, do môi trường ô nhiễm, sự xâm nhập mặn, cuộc sống của người dân địa phương

càng thêm khó khăn hơn.

Do đó, phát triển kinh tế bền vững kết hợp với bảo vệ môi trường bằng các giải

pháp dựa vào cộng đồng đang trở thành một chiến lược mang tính khả thi, được chính

quyền các cấp hỗ trợ.

Bảng3: Tình hình dân số và lao động xã Phú Xuân

2010 2011 2011/2009 Chỉ tiêu ĐVT

+/- %

2009 Số lượng Số lượng Số lượng 8646 8736 8790 144 1,67

2154 96 4,46 2250 2204

5294 133 2,51 5427 5369 1.Tổng số NK 2. Tổng số hộ 3. Tổng LĐ Khẩu Hộ LĐ

3.907 97 2,48 4004 3955 LĐNN LĐ

1389 34 2,45 1423 1414 LĐ phi NN LĐ

-0,048 -1,95 2,412 2,4

-0,11 -2,74 3,9 3,96 4. BQ LĐ/hộ 5. BQ NK/hộ 2,46 LĐ/hộ Khẩu/hộ 4,01

(Nguồn: Số liệu thống kê UBND xã Phú Xuân)

22

Nhìn chung lao động qua 3 năm có sự gia tăng. Năm 2010 là 5.369 người tăng

1,014 lần so với năm 2009; năm 2011 là 5.427 người tăng 1,01 lần so với năm 2010.

Trong đó, lao động nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp đều tăng

Số lượng lao động bình quân hộ qua 3 năm không chênh lêch nhiều, trên dưới

2LĐ/hộ. Trong khi đó, bình quân khẩu trên hộ trên dưới 4 nhân khẩu/hộ, cho thấy

nguồn lao động ở đây rất dồi dào. Tuy nhiên, trình độ lao động còn thấp đã hạn chế

khả năng hoạt động kinh tế tăng thu nhập cho hộ.

Mặc dù tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đang ở mức cao (chiếm 62% dân số

toàn xã) cơ cấu lao động trẻ tuổi nhiều. Nhưng do là lao động thuần nông, đa số chưa

được qua đào tạo; mặc khác lao động lại lao động theo mùa vụ nên tình hình nhàn

rỗi/năm là quá cao. Bình quân mỗi lao động chỉ làm việc khoảng 3-4 tháng/năm, thời

gian còn lại chủ yếu là nhàn rỗi; chỉ có một số ít đi làm thêm ngành nghề khác để tăng

thu nhập.

Hiện nay xã có chủ trương giải quyết công ăn việc làm cho người lao động như

phát triển các ngành nghề mộc, nề, hàn, nấm rơm, may mặc, phát triển nuôi trồng thuỷ

sản v.v…phát triển tương đối mạnh, giải quyết tốt việc làm tại chỗ và tăng thu nhập

cho người dân.

2.1.2.2. Tình hình sử dụng đất đai

Đất đai là một bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

nước thống nhất quản lý. Trong kinh doanh nông nghiệp đất đai là nguồn tài nguyên vô

cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không thể thay thế được.

Đặc điểm đất đai có ảnh hưởng lớn đến việc xác định quy mô, cơ cấu và phân

bố các hoạt động kinh tế. Nghiên cứu sự biến động của tình hình sử dụng đất đai giúp

ta biết được tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sự thay đổi trong cơ

cấu sử dụng đất đai của xã Phú Xuân được thể hiện trong bảng 4.

23

Bảng 4:Tình hình sử dụng đất đai của xã Phú Xuân

2010 2011 Chỉ tiêu Ha % Ha %

2758,65 100 3022.71 100 Tổng DT tự nhiên

844,26 36,68 1102.87 36,5 1. Đất NN

343,32 40,16 443,75 40,26 + Đất trồng lúa

299,92 39,17 434,12 39,36 + Đất NTTS

201,02 20,67 225 20,38 + Đất lâm nghiệp

1841,13 60,9 1717 56,8 3. Đất phi nông nghiệp

73,26 2,42 72,35 2,4 4. Đất chưa sử dụng

(Nguồn: Số liệu thống kê UBND xã Phú Xuân)

Xã Phú Xuân có 3022,71 ha đất tự nhiên, trong đó diện tích đất đã được khai

thác và sử dụng cho nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất ở là 2950,36 ha( 97,6%),

diện tích đất chưa sử dụng 72,35 ha (2,4%) .Trong đó, diện tích đất NTTS chiếm

434,12 ha chiếm 39,36% trong tổng diện tích đất nông nghiệp.

Cơ cấu các loại quỹ đất: Toàn bộ quỹ đất của xã được phân chia thành 4 loại sau:

- Đất nông nghiệp: Diện tích sử dụng vào mục đích nông nghiệp là 1102,87 ha

chiếm 36,5 % diện tích đất tự nhiên. Trong quỹ đất nông nghiệp có 328,12 ha diện tích

đã đưa vào nuôi trồng thủy sản chiếm 29,8% so với đất nông nghiệp.

- Đất phi nông nghiệp: diện tích đất sử dụng vào các ngành phi nông nghiệp:

công nghiệp dịch vụ là 1716,88 ha , chiếm 56,8 % diện tích đất tự nhiên.

- Đất chưa sử dụng: Diện tích đất chưa sử dụng còn 72,35 ha chiếm 2,4 % so

với đất tự nhiên. Đây chính là phần đất có khả năng sẽ đưa vào NTTS trong những

năm tới.

2.1.2.3. Đặc điểm xã hội

 Về tình hình xã hội

Những năm gần đây Nhà nước có nhiều chủ trương phù hợp để triển khai khai

thác tiềm năng đầm phá vùng biển mà trước hết là phát triển nuôi trồng thủy sản và

đánh bắt xa bờ, kết hợp với giúp đỡ của chính quyền địa phương, khơi dậy sức sáng

tạo, tính cần cù trong lao động sản xuất của người dân. Nhờ vậy, những năm qua vùng

24

đầm phá ven biển đã có những bước tăng trưởng đáng kể, đời sống của người dân từng

bước được ổn định và cải thiện.

Thống kê điều tra năm 2011 cho thấy toàn xã có 8 thôn gồm 2250 hộ/ 8790

nhân khẩu, tỷ lệ hộ nghèo là 93 hộ/166 nhân khẩu, chiếm tỷ lệ là 17,4 % . Hộ cận

nghèo 50 hộ/ 165 khẩu chiếm 9,4% dân số của xã.

Thực hiện chủ trương xóa nhà tạm nên nhiệm kỳ qua được sự giúp đỡ của cấp

trên cho xóa 6 nhà để ổn định nơi ở tránh mùa mưa bão.

Tuy nhiên mức độ chênh lệch giàu nghèo giữa các thôn còn quá lớn. Sự phân

hóa giàu nghèo vùng biển và đầm phá diễn ra sâu sắc. Những năm gần đây một số

vùng nhờ nuôi trồng thủy sản tạo ra thu nhập cho một bộ phận cư dân đầm phá. Các hộ

nghèo tập trung ở số thuần nông, độc canh cây lúa và phần lớn hộ thủy cư.

Tổng giá trị sản xuất của xã năm 2011 là 107.400 triệu đồng, tăng 28,3% so

với năm 2010. Trong đó gía trị sản xuất của ngành nông nghiệp tăng 16.810 triệu đồng

tương ứng tăng 38,7% ; trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp – ngành nghề tăng 2.500

triệu đồng, tăng 17 %; đối với ngành dịch vụ tăng 4.400 triệu đồng tăng 17,1% so với

năm 2010.

Bảng 5: Tình hình kinh tế xã hội của xã Phú Xuân qua hai năm (2010-2011)

2010 2011 2011/2010 Chỉ tiêu (%) (%) +/- % (Tr.đ) (Tr.đ)

Tổng giá trị 83.690 100 107.400 100 23.710 28,3 sản xuất

Nông lâm 43.390 51,84 60.200 56,05 16.810 38,7 ngư nghiệp

Tiểu thủ

14.600 17,45 17.100 15,9 2.500 17 công nghiệp,

ngành nghề

25.700 30,71 30.100 28,05 4.400 17,1 Dịch vụ

(Nguồn: báo cáo của UBND xã Phú Xuân)

Trong cơ cấu giá trị tổng giá trị sản phẩm, ngành NLNN luôn đóng vai trò quan

trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất so với các ngành khác. Năm 2010, xảy ra dịch

25

bệnh thường xuyên đã ảnh hưởng đến cơ cấu giá trị ngành nông lâm ngư nghiệp

(NLNN), đến năm 2011 ngành NLNN có sự gia tăng đáng kể tăng 38,7%.

Ngoài ra, ngành dịch vụ (DV) cũng chiếm tỷ trọng khá lớn. Tuy nhiên,tỷ trọng

ngành DV có xu hướng giảm, năm 2010 là 30,71% và năm 2011 là 28,05%. Bên canh

ngành DV, tỷ trọng ngành TTCN, ngành nghề cũng giảm, cụ thể năm 2010 là 17,45%

và năm 2011 là 15,9%. Với sự tăng trưởng của nền kinh tế và tốc độ tăng dân số giảm

đã làm cho giá trị sản xuất bình quân/người tăng lên đáng kể, năm 2010 là 9,6 triệu

đồng/người và năm 2011 là 12,2 triệu đồng/người; tăng 2,6 triệu đồng/người.

 Tình hình cơ sở hạ tầng

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, nhà nước các cấp; sự hỗ trợ

của các tổ chức trong và ngoài nước; sự phát huy nội lực của địa phương đã từng bước

đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.

Các công trình như: Điện – Đường – Trường – Trạm và các công trình khác

phục vụ dân sinh ngày càng được đầu tư khởi sắc, từng bước làm thay đổi diên mạo

nông thôn mới theo hướng hiện đại, phát triển; đáp ứng một phần nhu cầu sinh hoạt và

phát triển của người dân. Tuy nhiên do địa hình phân tán rộng, hàng năm lại chịu nặng

nề của thiên tai lụt bão, bên cạnh do nguồn vốn ít nên một số công trình được đầu tư

song lại bị xuống cấp nghiêm trọng, một số lĩnh vực đầu tư đang còn tạm bợ, bán kiên

cố hoặc chưa được đầu tư.

- Hệ thống giao thông

Được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương, thôn và các Ban ngành

Đoàn thể vận động nhân dân giải tỏa mặt bằng để làm đường JIMIC và làm đường bê tông

giao thông nông thôn được 03 km, vốn do nhà nước và nhân dân cùng làm. Đến năm 2010-

2011, xã Phú Xuân được sự quan tâm của chính quyền địa phương cho xây dựng thêm 2

tuyến đường giao thông nội đồng và nuôi trồng thủy sản và 02 cống thoát nước.

- Hệ thống thủy lợi

Thủy lợi là một trong những vấn đề quan trọng trong SXNN và NTTS. Hiểu

được điều đó, chính quyền địa phương đã có sự quan tâm chý ý đến vấn đề này: toàn

bộ hệ thống kênh mương thủy lợi trên địa bàn đã được xây dựng kiên cố nhằm duy trì

26

khả năng cung cấp nước kịp thời cho người dân,cho nạo vét kênh mương cách ly ngăn

mặn giữ ngọt, các mương phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.

Hơn nữa trong năm 2010 – 2011, xã Phú Xuân lại được chính phủ cho tái thiết

lại tuyến kênh mương Sư Lỗ - Đồng Hàn.

Trước đây đã sử dụng bằng tuyến kênh làm thủ công đắp đất. Hiện nay đã xây

dựng tuyến mương bằng bê tông hóa kiên cố và các cống cấp nước và thoát nước; đã

hoàn thành chuẩn bị bàn giao để đưa vào tưới sản xuất cho vụ 3, vụ 8 năm 2011-2012.

2.2. Khái quát tình hình nuôi tôm của xã Phú Xuân giai đoạn 2009 – 2011

Huyện Phú Vang là một trong những huyện có ngành nghề NTTS phát triển

sớm nhất của tỉnh TT-Huế. Phong trào NTTS bắt đầu từ năm 1988 ở Phú Tân, Phú

Xuân….bằng việc lợi dụng diện tích mặt nước tự nhiên của đầm phá, dân địa phương

đã vây mùng, chắn sáo, trồng rau câu, nuôi cua, tôm. Đến đầu những năm 1990, sau

khi hình thành trung tâm nuôi tôm Phú Xuân( Công ty xuất khẩu thủy sản TT-Huế) và

khu nuôi tôm liên doanh LOBANA, phong trào nuôi tôm bắt đầu phát triển.

Đánh bắt thuỷ sản, đặc biệt là đánh bắt tôm cá trên đầm phá là hoạt động đã tồn

tại từ lâu và đã chứng minh được vai trò quan trọng của nó.

Hoạt động đánh bắt tôm, cua, cá chủ yếu tập trung ở 2 thôn Lê Bình và Thuỷ

Diện. Sự suy giảm sản lượng đánh bắt đang ảnh hưởng lớn đến điều kiện sống của các

hộ làm ngư nghiệp. Năng suất giảm, sản lượng đánh bắt tự nhiên giảm, quy hoạch diện

tích mặt nước kém, sử dụng các phương thức đánh bắt huỷ diệt, ô nhiễm môi trường...

Các nguyên nhân: lực lượng lao động tăng, khai thác quá mức, kích thước mắt lưới

nhỏ, ảnh hưởng của chất thải... Đây là một khó khăn lớn đối với bản thân người dân và

cả chính quyền địa phương.

Các giải pháp: tạo nghề mới, nghiêm cấm đánh bắt huỷ diệt, sắp xếp lại quy

hoạch và điều chỉnh lịch thời vụ hợp lý, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người

dân địa phương. Nhìn chung, nam giới đóng vai trò chủ đạo trong các hoạt động đánh

bắt thuỷ sản. Phụ nữ cũng hỗ trợ chồng nhưng cường độ công việc của họ cũng ít hơn

nam giới 30%. Nghề đánh bắt thuỷ sản là sinh kế chính của một bộ phận cư dân xã

Phú Xuân. Tuy nhiên, do áp lực của nhu cầu cuộc sống hằng ngày cũng như các nhu

cầu khác về y tế và giáo dục, hoạt động đánh bắt và khai thác các tài nguyên thuỷ sản

27

đang có cường độ cao. Đánh bắt trái mùa vụ, kích thước mắt lưới không phù hợp, và

việc sử dụng các ngư cụ huỷ diệt đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và nguồn

lợi thuỷ sản vùng đầm phá Tam Giang.

Nuôi tôm thật sự phát triển mạnh trong mấy năm trở lại đây (2009-2011). Qua

thực tiễn sản xuất, ngư dân ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm, nắm được kĩ

thuật nuôi, hạn chế dịch bệnh, do vậy sản lượng và chất lượng của tôm ngày càng ổn

định. Nghề nuôi tôm nhanh chóng phát triển ở những địa phương khác trong vùng, đến

nay hầu hết các xã ở vùng đầm phá huyện Phú Vang đã phát triển nghề NTTS như là

một hướng chính trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp của địa phương.

Bảng 6: Diện tích , năng suất, sản lượng nuôi và đánh bắt tôm ở xã Phú Xuân

giai đoạn (2009 – 2011)

2009 2010 2011 10/09(%) 11/10(%) Chỉ tiêu ĐVT

227,2 232,3 100 1,02 - 56,9 Diện tích Ha

0,065 0,03 0,23 -53,8 767 Năng suất Tấn/ha

15 10,5 75,5 -30 719 Sản lượng Tấn

(Nguồn: báo cáo hàng năm của UBND xã Phú Xuân)

Qua bảng số liệu cho thấy rằng, diện tích nuôi tôm năm 2010 là 232,3 ha tăng

không đáng kể so với năm 2009 cụ thể tăng 5,1 ha với tốc độ tăng 1,02 %. Sang năm

2011 diện tích nuôi tôm lại giảm từ 232,3 ha năm 2010 giảm còn 100 ha năm 2011 tức

là giảm 132,3 ha với tỷ lệ giảm 56,9 %. Sỡ dĩ có sự giảm sút và tăng lên như vậy là do

năm 2009, 2010 toàn bộ tôm bị bệnh, dẫn đến hộ nuôi bị thua lỗ , mất trắng, nên tâm

lý của người nuôi vẫn còn sợ. Cho nên sang năm 2011 họ chuyển sang nuôi các đối

tượng khác, đây chính là nguyên nhân làm cho diện tích có xu hướng giảm.

Nếu so về sản lượng nuôi, năm 2010 và năm 2009 thì dịch bệnh nên chẳng thu

được bao nhiêu tôm. Năm 2009 thì toàn xã được 15 tấn, năm 2010 thì được 10,5 tấn,

năm 2010 bị dịch bệnh gần 100% diện tích; ước lỗ: 5,9 tỷ đồng.

Sản lượng tôm giảm do đa số diện tích nuôi bị thu hẹp lại, nuôi vụ 1 là chủ yếu

cộng với giá tôm phụ thuộc vào kích cỡ của tôm lúc thu hoạch, mức giá bán dao động

của hộ nuôi từ 150.000 – 180.000 trên 1 kg tôm, nên tùy vào mức độ đầu tư của người

dân mà có mức thu tương ứng. Sự giảm sút này là do một số hộ dân của xã đã chủ

28

quan thả nuôi sớm so với lịch thời vụ. Trong lúc thời tiết bất lợi, có những đợt không

khí lạnh kéo dài xen giữa đợt nắng nóng làm cho biên độ nhiệt thay đổi đột ngột. Kết

hợp với môi trường đầm phá bị ô nhiễm, nguồn giống không được đảm bảo đã làm cho

tôm kém ăn và yếu dần gây chết trên diện rộng. Đến năm 2011 thì tình hình nuôi tôm

của xã đã trở nên ổn định trở lại với tổng diện tích nuôi chuyên tôm năm 2011 là

328,12 ha và sản lượng thu được là 75,5 tấn, trong đó, nuôi chuyên tôm thu được 70

tấn và tôm xen ghép được 5,5 tấn.

Nhìn chung trong năm 2011 diện tích , sản lượng, năng suất tôm đều tăng

nhưng chưa đáng kể. Tuy nhiên chúng ta cần phải chủ trọng đến các phương án hay

lịch thả thời vụ của người dân. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh diện tích nuôi cao triều

theo hướng công nghiệp, hạn chế diện tích nuôi chắn sáo trên đầm phá, chủ động mở

rộng các hệ thống giao thông thủy lợi, xây dựng kiên cố kênh mương cấp thoát nước là

giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao năng suất tôm trong những năm tới.

2.3. Tình hình nuôi và tiêu thụ tôm của các hộ điều tra trong năm 2011

2.3.1.Một số thông tin cơ bản về chủ hộ điều tra

Hiện nay, trên địa bàn xã Phú Xuân, hầu hết hoạt động nuôi tôm đều do hộ gia

đình đảm nhận. Trong đó quyết định của chủ hộ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động

sản xuất nông nghiệp của từng hộ nuôi. Trong hoạt động nuôi tôm phụ thuộc rất lớn

vào khả năng của chủ hộ hay nói cách khác thành bại của vụ nuôi ảnh hưởng rất lớn

vào năng lực của chủ hộ. Năng lực của chủ hộ bao gồm: Khả năng tiếp thu khoa học

kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi trồng, khả năng lựa chọn các biện pháp đầu tư hợp lí để

nâng cao hiệu quả của hoạt động nuôi tôm.

Nghiên cứu năng lực của chủ hộ chúng ta thường xem xét trên các khía cạnh

tuổi, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, số năm kinh nghiệm, giới tính, phong tục

tập quán...

Xét về tuổi của chủ hộ: Trong 50 hộ điều tra chủ hộ là Nam giới gần như tuyệt đối

(49 người) chiếm 98% trong tổng số. Duy chỉ có một trường hợp cá biệt chủ hộ là Nữ

chiếm 2%. Như chúng ta đã biết, theo quan niệm của người Phương Đông thì nam giới

thường là người chủ của gia đình, cộng với nghề nuôi tôm thường mang tính chất rủi ro

cao, nên phần lớn các chủ hộ đều là nam giới. Với độ tuổi bình quân 43,38 tuổi, đây cũng

29

có thể được xem là độ tuổi của những kinh nghiệm. Bởi vì kinh nghiệm, vốn và chịu khó

là những tố chất quan trọng đòi hỏi phải có ở những người có nghề nuôi tôm.

Trình độ văn hóa có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp thu và nhận thức, áp

dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất, do đó ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả

của hoạt động nuôi tôm. Đặc biệt nuôi tôm là ngành đòi hỏi người nuôi phải thực hiện

đúng quy trình kỹ thuật, do đó trình độ văn hóa có vai trò càng quan trọng. Xem bảng

số liệu chúng ta thấy, với18 người có trình độ văn hóa cấp 1, chiếm 36% trong tổng số.

Trình độ văn hóa cấp 2 có 24 người chiếm 48%. Chiếm 16% trong tổng số 50 hộ điều

tra là 8 người có trình độ văn hóa cấp 3. Hoạt động nuôi tôm đòi hỏi quy trình nuôi

nghiêm ngặt, do vậy trình độ văn hóa cao hơn là điều kiện thuận lợi để hoạt động sản

xuất đạt kết quả cao. Tuy nhiên xem xét tổng thể hai thôn điều tra không có chủ hộ nào

mù chữ cả, đây chính là những thuận lợi cho việc tuyên truyền các lớp tập huấn, kỹ

thuật nuôi tôm đến người dân. Bởi vì chuyên môn chưa hẳn đã là yếu tố quyết định

cuối cùng. Những người nuôi tôm nói chung và những chủ hộ ở đây nói riêng, họ

thường dựa vào kinh nghiệm thực tế đúc kết có được sau những quá trình nuôi. Vì vậy

từ những kinh nghiệm đó họ sẽ dễ dàng nắm bắt được kỹ thuật và phương pháp nuôi

có hiệu quả hơn.

Về tập huấn chuyên môn, qua số liệu điều tra ở xã trước đây mỗi năm người ta

thường có những buổi tập huấn từng đợt cho các hộ để phổ biến kiến thức và tình hình

nuôi tôm ở địa bàn, nhưng có một số hộ có năm không tham gia. Sau này người dân

tham gia ít nên các buổi tập huấn đã không còn nữa, mà thay vào đó là những kinh

nghiệm nuôi mà các hộ ở đây tự áp dụng, đúc kết từ những kết quả nuôi của các năm

trước. Vấn đề tập huấn thì đây là một vấn đề tồn tại, trong thời gian đến cần động viên

các chủ hộ tích cực tham gia tập huấn để nâng cao kiến thức, để hoạt động nuôi tôm

ngày một hiệu quả hơn và bền vững hơn.

30

Bảng7: Một số thông tin cơ bản về chủ hộ điều tra

Tổng số Quảng Chỉ tiêu ĐVT Xuân Ổ Xuyên % Số lượng

30 20 50 100,0 1. Chủ hộ điều tra là: Người

- Nam 29 20 49 98,0 “

1 0 1 2,00 - Nữ “

2. Tuổi bình quân của 44,67 43,38 43 Tuổi chủ hộ

100 3. Trình độ văn hóa Người

8 10 18 36 - Cấp 1 “

15 9 24 48 - Cấp 2 “

5 3 8 16 - Cấp 3 “

100 4. Trình độ chuyên môn Người

25 16 41 82 “ - Chưa qua đào tạo

3 5 8 16 “ - Trung cấp, sơ cấp

0 1 1 2 “ - Cao đẳng, đại học

0 0 0 - “ - Sau đại học

( Nguồn: số liệu điều tra – năm 2011)

2.3.2 Quy mô, cơ cấu diện tích nuôi tôm của các hộ điều tra

Có thể nói đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt và không có gì có thể thay thế

được. Tuy nhiên tình hình sử dụng đất đai phục vụ nuôi tôm ở các đơn vị trên địa bàn

xã như thế nào ta đi vào phân tích bảng sau:

Từ bảng số liệu cho chúng ta thấy, thôn Xuân Ổ có diện tích bình quân trên hộ

là 0,91 ha, lớn hơn nhiều so với thôn Quảng Xuyên 0,72 ha/hộ. Sỡ dĩ có sự khác nhau

rõ rệt về diện tích giữa hai thôn là vì thôn Xuân Ổ trước đây có 100% hộ dân sinh sống

đều phát triển ngành nghề tôm nhưng sau khi thua lỗ hai năm liên tiếp 2009, 2010 thì

người dân của thôn đã chuyển nghề và chỉ còn vài chục hộ nuôi tôm với diện tích nuôi

lớn do vậy đã làm cho diện tích bình quân trên hộ của thôn Xuân Ổ cao hơn Quảng

Xuyên trong khi số hộ nuôi tôm lại ít hơn. Mặt khác qua điều tra ta thấy thôn Quảng

Xuyên có số người tham gia nuôi tôm hầu như là gần 100% hộ dân, còn thôn Xuân Ổ

31

do điều kiện kinh tế của một số hộ nên họ không nuôi tôm nữa mà chuyển sang các

ngành nghề khác. Tuy nhiên con số này thực tế đưa vào sản xuất đem lại được bao

nhiêu năng suất và sản lượng thì phần sau sẽ được làm rõ.

Nếu tiến hành phân tổ đất đai theo diện tích nuôi thì diện tích tập trung nhiều nhất ở quy mô 5000 – 7000 m2, với 30 hộ ở thôn Quảng Xuyên với diện tích là 21,62

ha chiếm 53,45 % diện tích đất trong tổng số hộ điều tra. Thôn Xuân Ổ với 20 hộ điều

tra với diện tích nuôi tôm là 18,15 ha, chiếm 46,55 % tổng diện tích đất. Điều này

chứng tỏ quy mô diện tích có ảnh hưởng lớn đến giá trị sản xuất của các hộ nuôi tôm

trên địa bàn xã.

Bảng 8 : Tình hình sử dụng đất đai của các hộ điều tra

Chỉ tiêu ĐVT Quảng Xuyên Xuân Ổ Cộng

30 20 50 Số hộ điều tra Hộ

21,62 18,15 39,77 Diện tích nuôi tôm Ha

Ha 0,72 0,91 - Diện tích BQ/hộ

Ha 0,29 0,44 - Diện tích BQ/lđ

(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

Nếu so với các xã lân cận của vùng diện tích nuôi tôm bình quân một hộ hơn 1

ha thì diện tích nuôi tôm ở xã Phú Xuân còn thấp 0,81 ha/hộ. Để phần nào giải quyết

được vấn đề bức xúc nói trên, trong những năm qua việc chuyển đất nông nghiệp bị

nhiễm mặn cho năng suất cây trồng thấp sang nuôi tôm ở vùng ven đầm phá được coi

là hướng tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Đồng thời đây là hướng canh

tác tích cực coi trọng hệ sinh thái đầm phá, từ bỏ nếp nghĩ của lối sống canh tác cũ

quai đê lấn phá để canh tác nông nghiệp.

2.3.3. Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra (tính đầu tư hiện vật và

giá trị)

2.3.3.1. Tình hình đầu tư ban đầu của các hộ điều tra

Hoạt động nuôi tôm đầu tư rất lớn, bao gồm chi phí đầu tư máy móc thiết bị, chi

phí xây dựng ao hồ ban đầu. Hầu hết các hộ nuôi tôm đều do nhà nước cấp đất để xây

dựng ao hồ nhưng có một vài hộ bỏ tiền ra mua quyền sử dụng đất ao hồ của các hộ có

ao hồ mà không nuôi tôm nữa, chuyển sang ngành nghề khác.

32

Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí là mục tiêu hàng đầu trong

tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, nghề nuôi tôm cũng không ngoại lệ. Song để

đạt được mục tiêu đó các hộ nuôi tôm sử dụng số vốn của mình đầu tư như thế nào để

đạt được kết quả cao trong hoạt động nuôi tôm.

Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ được thể hiện trong bảng 9:

Về vốn đầu tư nói lên khả năng chủ động về vốn của các chủ hộ. Với mức độ

đầu tư thâm canh của các hộ điều tra rất cao, chủ yếu về trang thiết bị phục vụ cho quá

trình nuôi và chi phí xây dựng cơ bản ban đầu.

Để hoạt động nuôi tôm diễn ra tốt, đòi hỏi mỗi hộ phải trang bị máy móc thiết

bị bao gồm: máy bơm nước, máy sục khí, ghe xuồng và một số vật dụng khác. Trung

bình các hộ nuôi tôm phải bỏ ra 41,78 triệu đồng/ha vào máy móc thiết bị, trong đó

thôn Quảng Xuyên đầu tư hết 44,14 trđ/ha, thôn Xuân Ổ là 39,41 trđ/ha. Ở đây hầu hết

các hộ nuôi đều có máy sục khí vì mật độ tôm thẻ nuôi rất dày, nếu không có máy sục

khí thì tôm sẽ thiếu oxy, có thể dẫn đến chết, vì thể để nuôi tôm có kết quả tốt thì vấn

đề đầu tư trang bị máy sục khí là điều cần thiết. Khi mức độ trang bị máy móc thiết bị

cao các hộ sẽ chủ động hơn trong quá trình nuôi như: công tác hút, thoát nước khi xử

lý trong đầu vụ và công tác thay nước, hút nước vào trong quá trình nuôi. Trang bị

máy sục khí sẽ giúp tăng cường lượng oxy hòa tan trong nước, tăng cường quá trình

bay hơi của các khí độc trong ao, kích thích tôm hoạt động, làm cho tôm khỏe. Điều

này có tác dụng rất lớn đến kết quả và hiệu quả nuôi tôm.

Cùng với việc đầu tư máy móc thiết bị, các hộ nuôi phải bỏ ra một lượng vốn

đầu tư rất lớn cho việc xây dựng ao hồ. Đặc biệt những hộ có ao hồ ở những vùng

nước chảy mạnh, bão lũ dễ hư hại thì việc xây dựng ban đầu đòi hỏi đầu tư rất lớn,

phải xây dựng kiên cố để tránh hư hại sau mỗi đợt bão lũ. Vì ở đây các hộ nuôi theo

hình thức nuôi cao triều mà chủ yếu là bán thâm canh nên cần phải xây dựng kiên cố

ao hồ, nên chi phí ban đầu cũng rất cao, giúp ao nuôi hạn chế được rò rĩ qua bờ ao, do

đó ngăn cản được mầm bệnh lây lan giữa các ao, giảm một lượng chi phí tu bổ hằng

năm. Qua điều tra thực tế chi phí xây dựng một ao nuôi tôm tính trên 1 hecta là 48,31

triệu đồng, trong đó Quảng Xuyên với bình quân là 49,53 triệu đồng, Xuân Ổ với

33

47,10 triệu đồng. Điều này cho thấy tình hình nuôi tôm ở thôn Quảng Xuyên có sự đầu

tư kỹ lưỡng từ khâu xây dựng ao đến mua máy móc thiết bị.

Dưới đây là bảng chi tiết về tình hình đầu tư ban đầu của các hộ nuôi điều tra

của hai thôn Quảng Xuyên và Xuân Ổ. Qua bảng số liệu ta thấy việc nuôi tôm của

thôn Quảng xuyên có sự đầu tư cao hơn, với chi phí đầu tư ban đầu bình quân trên 1

hecta là 93,67 trđ, còn thôn Xuân Ổ là 86,51 trđ/ ha. Bình quân chung của cả hai thôn

là 90,09 trđ, như vậy trên 1 hecta nuôi tôm thôn Quảng Xuyên đầu tư hơn Xuân Ổ là

7,16 triệu đồng. Điều này cho thấy hoạt động nuôi tôm có sự đầu tư rất lớn giữa hai

thôn, thôn Quảng Xuyên có sự đầu tư hơn thôn Xuân Ổ. Nếu cộng thêm cả vốn lưu

động cần thiết trong quá trình sản xuất thì con số trên còn cao hơn nhiều. Vì thế cần có

sự hỗ trợ nhiều mặt của các cấp chính quyền đặc biệt là tài chính. Đây cũng chính là lý

do mà các hộ nuôi tôm ở đây bước sang vụ 2 họ lại chỉ thả nuôi xen ghép tự nhiên.

Bảng 9: Tình hình đầu tư ban đầu của các hộ điều tra năm 2011

(bình quân trên ha)

Quảng BQC Chỉ tiêu ĐVT Xuân Ổ Xuyên

20 50 30 Số hộ Hộ

47,10 48,31 49,53 1. Đầu tư xây dựng ao Trđ

39,41 41,78 44,14 2. Vốn đầu tư MMTB Trđ

25,89 28,37 30,85 - Máy sục khí “

11,72 11,52 11,31 - Máy bơm nước “

1,80 1,89 1,98 - Thuyền (ghe) “

3. Tổng đầu tư xây 93,67 86,51 90,09 Trđ dựng và mua MMTB

(Nguồn số liệu điều tra năm 2011)

Như vậy qua phân tích cho thấy mức độ đầu tư ban đầu cho hoạt động nuôi tôm

là khá cao. Đó là khoản đầu tư xây dựng cơ bản và mua MMTB một trong những nhân

tố tác động tích cực làm cho kết quả và hiệu quả nuôi tôm đạt kết quả cao.

34

2.3.3.2. Tình hình đầu tư và chi phí nuôi tôm của các hộ nuôi năm 2011

- Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra năm 2011 Như chúng ta đã biết, chi phí trung gian trong quá trình nuôi đó là những chi

phí dùng vào việc sản xuất. Chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu

quả sản xuất. Do đó để nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh thì người sản

xuất cần phải biết sử dụng tiết kiệm , hợp lý và có hiệu quả chi phí sản xuất.

Ở đây, tất cả các hộ nuôi tôm ở địa bàn xã Phú Xuân đều nuôi một hình thức là nuôi cao triều mà chủ yếu là nuôi bán thâm canh, vụ 2 thì có gia đình không nuôi, có gia đình thì nuôi theo hình thức hạ triều có xen ghép ( hình thức quảng canh cải tiến xen ghép nhiều đối tượng). Nhìn vào bảng 10, chúng ta thấy tình hình đầu tư mà các hộ bỏ ra để nuôi tôm là khá cao.

Về mật độ con giống tùy vào hình thức nuôi và kích cỡ của tôm. Qua điều tra cho ta thấy được đa số các hộ dân ở Phú Xuân đều nuôi với bình quân chung về mật độ con giống là 17,14 vạn con/ha. Ở thôn Quảng Xuyên với 17,52 vạn con/ha cao hơn thôn Xuân Ổ là 16,76 vạn con/ha.

Sản lượng tôm trong ao nuôi là kết quả từ việc sử dụng thức ăn. Việc sử dụng thức ăn tôm phải xem xét đến giá trị dinh dưỡng và việc cho ăn để mang lại hiệu quả cao, không làm mất cân bằng hệ sinh thái. Với các hộ nuôi điều tra thì thức ăn mà người dân sử dụng là thức ăn tổng hợp, bình quân chung trên 1 hecta là 2294,0 kg/ một vụ.

Nhìn chung các hộ nuôi tôm ở thôn Quảng Xuyên có mức đầu tư cao và kỹ lưỡng hơn trong hoạt động nuôi tôm. Cụ thể : lượng đầu tư thức ăn 2380,95 kg/ha, tương ứng thôn Xuân Ổ là 2207,06 kg/ha. Tuy nhiên về công tác phòng trừ dịch bệnh cho tôm của các hộ dân vẫn chưa cao. Cần có các biện pháp hỗ trợ để các hộ nuôi biết được cách phòng bệnh cho tôm. Đặc biệt là ở thôn Xuân Ổ dịch bệnh xảy ra nhiều mà công tác phòng trừ bệnh của hộ nuôi chưa được chú trọng.

Hoạt động nuôi tôm đòi hỏi rất nhiều công lao động từ lúc bắt đầu tu bổ, nạo

vét ao hồ để nuôi tôm, xử lý ao cho đến khi thu hoạch và đặc biệt là công chăm sóc

trong suốt vụ nuôi. Qua thực tập điều tra tại xã Phú Xuân ngẫu nhiên 50 hộ nuôi tôm

cho thấy, đa số trong suốt quá trình nuôi tôm thì người dân chỉ thuê lao động trong

khâu đầu tiên của hoạt đông nuôi đó là cải tạo ao, còn tất cả những hoạt động lại là do

35

gia đình làm. Do vậy ở đây ta chỉ xét chi phí lao động thuê ngoài ở khâu cải tạo ao.

Chi phí cho mỗi lần cải tạo ao của các hộ nuôi thường từ 5-6 triệu/ha, và bình quân 3-4

triệu/hộ nuôi. Bình quân chung là 9,45 công/ ha.

Bảng 10: Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra năm 2011( bình quân/ha)

BQC Chỉ tiêu Quảng Xuyên Xuân Ổ

17,52 16,76 17,14

Đvt Vạn con Kg 2380,95 2207,06 2294,0

Lon 28,9 18,4 23,65

Công 10,5 8,39 9,45

- Giống - Thức ăn - Thuốc bệnh - Công lao động - Vôi Kg 745,73 612,45 679,1

Lít 88,5 79,1 83,8 - Dầu máy

(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

- Chi phí đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra năm 2011 Chi phí sản xuất của hoạt động nuôi tôm bao gồm: Chi phí trung gian, KH TSCĐ, chi

phí thuê lao động.

Chi phí trung gian chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí. Chi phí trung gian bao gồm: Chi phí về giống, chi phí thức ăn, chi phí phòng bệnh: thuốc, chi phí nhiên liệu, chi phí công lao động thuê, và chi phí khác( bão dưỡng sửa chữa máy móc…). Mỗi vụ nuôi tiêu tốn một lượng chi phí trung gian bình quân là 102,82 triệu đồng/ ha, chiếm 89,3 % tổng chi phí. Giữa hai thôn điều tra, chi phí trung gian của Quảng Xuyên

là 103,43 trđ/ha và Xuân Ổ là 96,95 trđ/ha. Trên 1 hecta nuôi tôm mà thôn Quảng Xuyên có sự đầu tư cao hơn 6,48 triệu đồng so với thôn Xuân Ổ. Nếu tính bình quân trên hộ nuôi thì giá trị nó lại khác, giữa hai thôn bình quân trên hộ lại có sự chênh lệch lớn Quảng Xuyên IC/ hộ là 74,54 triệu đồng, Xuân Ổ là 87,98 triệu đồng. Sự khác nhau này cho thấy thôn Xuân Ổ với hộ nuôi ít nhưng cơ cấu diện tích đất nuôi nhiều. Trong chi phí trung gian thì chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng nhiều nhất bình quân là 89,3 %. Điều này cho thấy các hộ nuôi tôm đã đầu tư chăm sóc, cho ăn nhiều nhằm rút ngắn thời gian nuôi để tránh những điều kiện bất lợi của thời tiết và nâng cao tăng trọng tôm nuôi, khi gặp thời điểm giá cao có thể thu hoạch để tăng doanh thu, mức chi phí này giữa hai thôn không có sự chênh lệch nhau nhiều. Cụ thể là thôn Quảng Xuyên

36

chi phí thức ăn bình quân trên 1 hecta là 83,23 triệu đồng chiếm 89,2% và thôn Xuân Ổ là 78,78 triệu đồng chiếm 89,4%. Tiếp đến là chi phí giống cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ, bình quân chung là 6,03 triệu đồng/ha chiếm 5,85 % trong tổng chi phí trung gian. Qua điều tra thực tế cho thấy, dịch vụ cung cấp con giống tại chỗ là Trại tôm giống Thuận An, tuy có cải thiện nhưng vẫn chưa đảm bảo đủ, kịp thời nên các hộ nuôi phải đi mua ở các nơi khác như: Quảng Nam, Đà Nẵng, Nha Trang nên chất lượng con giống không đảm bảo mà chi phí lại cao.

Để bắt đầu hoạt động nuôi tôm, mỗi hộ nuôi đều phải xử lý ao bao gồm các công việc sau: tu bổ, nạo vét đáy ao, diệt tạp, diệt khuẩn, bón vôi để đảm bảo độ pH cho phù hợp…Nhằm tạo điều kiện môi trường tốt cho tôm phát triển. Song trên thực tế, các ngư dân xử lý ao hồ hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, hơn nữa do thiếu dụng cụ cần thiết: máy đo nồng độ pH, độ mặn và các máy đo chuyên dụng khác v.v…..Do đó, các tác động của việc xử lý ao hồ còn hạn chế. Mặt khác, một số hộ chưa hiểu được ý nghĩa của việc xử lý ao hồ nên mức đầu tư và kỹ thuật xử lý chưa được coi trọng, và chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong chi phí trung gian. Bình quân chung một hecta nuôi tôm chi phí cải tạo ao hồ hết 8,7 triệu đồng, tương ứng 8,45 % trong chi phí trung gian. Điều này phần nào hạn chế quá trình sinh trưởng - tăng trọng của tôm.

Sau mỗi vụ nuôi đáy ao thường tích tụ một lớp mùn bã, phân tôm thải ra, thức ăn tôm không hết sinh ra khí độc dễ gây bệnh cho tôm. Mỗi vụ nuôi yêu cầu kỹ thuật là phải nạo vét hết những chất cặn bã trong đáy ao. Trong vụ nuôi người ta thường dùng thuốc kháng sinh cho tôm có sức khỏe hoạt động tốt. Trong thời gian gần đây tôm hay bị bệnh dẫn đến chết hàng loạt làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi của người dân. Do đó việc phòng trị bệnh là rất quan trọng. Chi phí phòng bệnh cho tôm ở Quảng Xuyên là 3,04 triệu đồng/ha chiếm 2,9 % tổng chi phí trung gian, thôn Xuân Ổ thì ít chú trọng hơn trong công tác phòng bệnh với 2 trđ/ha và chỉ chiếm 2 % trong tổng chi phí trung gian. Tuy nhiên so cả hai thôn này với những vùng lân cận khác thì công tác “phòng bệnh hơn trị bệnh” vẫn chưa được người dân chú trọng, khi tôm có triệu chứng thì mới mua thuốc về để điều trị, làm cho năng suất tôm thấp hơn so với những vùng nuôi khác của huyện. Chính quyền địa phương cần có các buổi tư vấn hỗ trợ cho người ngư hộ nơi đây hiểu biết thêm về công tác phòng trừ dịch bệnh cho tôm

để người nuôi có thể đối phó với những bất lợi có thể xảy ra.

37

Bảng 11 : Chi phí sản xuất và kết cấu chi phí sản xuất của các hộ điều tra

(bình quân/ha)

BQC Quảng Xuyên Xuân Ổ Chỉ tiêu % % Trđ Trđ Trđ %

1. Chi phí trung gian(IC) 103,43 89,2 96,95 89,4 100,19 89,3

6,11 5,7 5,94 6 6,03 5,85 - Giống

83,23 78,2 78,78 79,4 81 78,8 - Thức ăn

3,04 2,9 2,00 2 2,52 2,45 - Phòng bệnh

6,16 8,5 5,99 8,4 6,14 8,45 - Cải tạo ao

1,94 1,8 1,93 1,9 1,935 1,85 - Dầu máy

- Chi phí khác 1,08 1 1,12 1,1 1,1 1,05

- Lãi vay NH 1,87 1,9 1,19 1,2 1,53 1,55

2,44 2 2,73 2,5 2,6 2,3 2. Chi phí thuê LĐ

9,00 8,1 9,7 8,4 10,45 8,8 3. Khấu hao TSCĐ

116,32 100 108,68 100 112,5 100 4. Tổng chi phí

(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

Cùng với việc đầu tư mua máy móc thiết bị thì các hộ phải mua thêm nhiên liệu

để vận hành máy. Nhiên liệu được dùng để hút nước xử lý đầu vụ nuôi, hút cặn bã

dưới đáy ao, thu hoạch tôm, bơm thay nước trong quá trình nuôi, giúp tôm hoạt động

tốt hơn, sục khí cho tôm cung cấp oxy cho tôm khỏe hơn. Chi phí nhiên liệu giữa hai

thôn cũng không lớn lắm. Bình quân trên 1 hecta dùng hết 1,935 triệu đồng, chiếm

1,85% tổng chi phí trung gian.

Trong suốt quá trình diễn ra vụ nuôi, công lao động chủ yếu là công gia đình,

gia đình chăm sóc tôm từ đầu đến khi thu hoạch. Tôm là đối tượng nuôi đòi hỏi chăm

sóc chu đáo, người nuôi phải túc trực suốt đêm ở ao, và mật độ rất dày nên tôm dễ bị

nổi đầu vào lúc sáng sớm. Do đó người nuôi phải kịp thời phát hiện, bơm nước vào hồ,

sục khí để cung cấp oxy cho tôm, giúp tôm phục hồi sức khỏe. Vì vậy, trong quá trình

nuôi các hộ chỉ thuê thêm lao động vào lúc xử lý ao hồ, và lúc thu hoạch. Đây là thời

38

điểm cần nhiều lao động mà lao động trong gia đình thì không đủ phải thuê thêm

người. Bình quân trên 1 hecta thì chi phí thuê lao động là 2,6 triệu đồng. chiếm 2,3%

tổng chi phí.

Để hoạt động nuôi tôm diễn ra thì phải có nguồn vốn ban đầu rất lớn, nguồn

vốn trong gia đình không đủ để đáp ứng nên nhiều hộ đã vay vốn từ nhiều nguồn như

vay ngân hàng, vay bạn bè anh em, các tổ chức tín dụng….Tuy nhiên trong vài năm

trở lại đây hoạt động nuôi tôm không mang lại hiệu quả do tôm bị bệnh lúc còn nhỏ

nên mất bị mất trắng, người dân thua lỗ nên ngân hàng không cho vay nữa vì sợ người

dân không có khả năng trả nợ. Bình quân mỗi hộ nuôi tôm ở xã Phú Xuân nợ ngân

hàng 30-40 triệu đồng mà chưa có khả năng trả. Với thời hạn vay là 6 tháng và lãi suất

0,06% nhưng nhiều hộ nuôi đến nay vẫn chưa trả được nợ vay.

Trong chi phí sản xuất ta không thể không kể đến khấu hao tài sản cố định như

máy móc thiết bị, chi phí xây dựng cơ bản để tạo nên ao nuôi. Do chi phí xây dựng ao

hồ cao nên làm cho khấu hao tài sản lớn, bình quân mỗi vụ tôm người ta phải khấu hao

9,7 triệu đồng/ha, chiếm 8,4 % chi phí bỏ ra.

Nhìn chung qua phân tích chi phí sản xuất, chúng ta thấy chi phí mà các hộ nuôi

bỏ ra là lớn. Quy mô nuôi nhỏ mà chi phí sản xuất cao sẽ làm giảm hiệu quả của hoạt

động. Do vậy các hộ nuôi cần phải xem xét sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý và đạt

hiệu quả nhất.

2.3.4. Kết quả và hiệu quả nuôi tôm của các hộ điều tra

2.3.4.1. Kết quả nuôi tôm của các hộ điều tra trên địa bàn xã Phú Xuân.

Trong nền kinh tế thị trường, kết quả hoạt động của một ngành nghề chịu tác

động của rất nhiều yếu tố, các yếu tố này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ quan

hay khách quan.

Năm 2010 có thể nói là một năm sản xuất không thành công của các hộ nuôi

tôm nói chung ở xã Phú Xuân. Ngoài những khó khăn do thời tiết diễn biến bất

thường, môi trường đầm phá bị ô nhiễm vẫn còn tồn tại một số hộ không tuân thủ lịch

thời vụ. Cho nên ảnh hưởng xấu đến quá trình nuôi dẫn đến dịch bệnh xảy ra trên diện

rộng, vì thế năng suất sản lượng đạt được vẫn chưa cao, thậm chí năm 2010 thì toàn xã

các hộ nuôi tôm đều bị mất trắng mà không rõ nguyên nhân. Điều này làm cho giá trị

39

sản xuất (GO) của xã cũng như các hộ nói riêng có sự thay đổi. Kết quả phân tích

Bảng cho thấy, tổng giá trị sản xuất của thôn Quảng Xuyên trên 1 hecta đạt được là

152,54 triệu đồng, với thôn Xuân Ổ là 138,3 triệu đồng. Bình quân chung là 145,42

trđ/ha. Sỡ dĩ có sự chênh lệch nhau như vậy là vì qua điều tra ta thấy thôn Quảng

Xuyên có mức đầu tư ban đầu kĩ hơn, cao hơn thôn Xuân Ổ do vậy nó giúp cho các hộ

nuôi ở thôn này mang lại giá trị cao. Tuy nhiên giá trị sản xuất của hộ còn tùy thuộc

vào nhiều yếu tố khác, cơ cấu vốn đầu tư ban đầu của chủ hộ chỉ là một phần nhỏ ảnh

hưởng đến GO của hộ nuôi.

Tình hình nuôi tôm trên địa bàn xã Phú Xuân của các hộ nuôi trong những năm

trở lại đây được đánh giá là có khả quan hơn trong những năm trước. Những năm

trước đây do hiểu biết về kỹ thuật nuôi chưa cao nên dẫn đến các dịch bệnh liên miên

làm năng suất của các hộ nuôi giảm. Dần sau này đúc kêt từ những kinh nghiệm năm

trước nên tình hình nuôi có chuyển biến tốt. Kết quả nuôi tôm trong bảng 12 cũng đã

phản ánh được điều này.

Số liệu ở bảng 12 giúp ta so sánh được kết quả nuôi tôm giữa hai thôn. Các chỉ

tiêu sản xuất tính trên 1 hecta của thôn Quảng Xuyên đều cao hơn so với Xuân Ổ, cụ

thể là Quảng Xuyên có tổng giá trị sản xuất đạt cao hơn là 152,54 trđ/ha, tương ứng

GO bình quân trên 1 hecta của thôn Xuân Ổ là 138,30 triệu đồng. Nếu so với Xuân Ổ

thì Quảng Xuyên đạt kinh tế hơn, hiệu quả mang lại thể hiện trên lợi nhuận bình quân

trên 1 hecta là 33,25 trđ, cao hơn thôn Xuân Ổ là 10,57 trđ/1ha.

Nhìn chung, giá trị sản xuất của các hộ nuôi đều đạt được những kết quả khả

quan. Song đây chưa phải là kết quả cuối cùng mà thay vào đó các chủ hộ nên đầu tư

vào sản xuất để kết quả này ngày một cao hơn. Đây mới chính là hiệu quả tối ưu trong

quá trình sản xuất và nuôi trồng.

40

Bảng 12: Một số chỉ tiêu kết quả nuôi tôm

của các hộ điều tra năm 2011.

Bình Xuân Ổ Chỉ tiêu ĐVT Quảng Xuyên quân

9,4 8,16 8,9 1. Năng suất tôm Tạ/ha

152,54 138,30 145,42 2. Tổng giá trị sản xuất (GO) Trđ/ha

116,32 108,68 112,5 Trđ/ha

3. Tổng chi phí sản xuất - Chi phí trung gian 103,43 96,95 100,19 Trđ/ha

45,58 32,97 39,27 4. Giá trị gia tăng (VA) Trđ/ha

33,25 22,68 27,97 5. Lợi nhuận Trđ/ha

(Nguồn: số liệu điều tra năm 2011)

Giá trị gia tăng (VA) mà các hộ nuôi đạt được cũng khá cao, thôn Quảng Xuyên

VA bình quân trên 1 hecta là 45,58 triệu đồng cao hơn Xuân Ổ (VA /ha là 32,97 triệu

đồng ) là 12,61 trđ/ha. Đây là một con số chênh lệch khá lớn, nó chứng tỏ được rằng

các hộ nuôi ở thôn Quảng Xuyên có sự đầu tư cao tình hình đầu tư ban đầu cũng như

chi phí trong hoạt động nuôi tôm nên đã mang lại hiệu quả cao so với thôn Xuân Ổ.

Tóm lại, hoạt động nuôi tôm trên địa bàn xã trong năm vừa qua đã đạt được kết

quả tương đối. Việc nuôi tôm này góp phần giải quyết được việc làm, xóa đói giảm

nghèo cho người dân và nâng cao thu nhập cho hộ. Dần dần trả được nợ cho ngân

hàng do thua lỗ của năm 2010. Với kết quả thu được như trên nhiều hộ đã trở nên giàu

có, khá giả nhờ nuôi tôm và vì thế hộ có thể trả được nợ nần do mất mùa 2 năm trở về

trước. Đời sống của người dân ngày càng nâng cao. Tuy nhiên để đạt kết quả cao hơn

nữa thì trong thời gian tới, người dân phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức

kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi có như vậy mới đạt kết quả cao hơn.

2.3.4.2. Hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang.

Trên cơ sở số liệu điều tra tập hợp, tính toán một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả

kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân, ven đầm phá huyện Phú Vang, kết quả tính toán được

thể hiện ở bảng 13. Năng suất bình quân chung là 8,9 tạ/ha, năng suất ở thôn Quảng

Xuyên là 9,4 tạ/ha, cao hơn thôn Xuân Ổ là 8,16 tạ/ha. Chính năng suất có sự chênh

lệch giữa hai thôn nên làm cho giá trị gia tăng, thu nhập hỗn hợp tính trên 1 hecta cũng

41

có sự chênh lệch, cụ thể là VA của Quảng Xuyên là 45,58 trđ/ha còn Xuân Ổ là 32,97

trđ/ha. Điều này chứng tỏ rằng thôn Quảng Xuyên có sự đầu tư cao chi phí trung gian

trong quá trình nuôi, dẫn đến năng suất cao hơn. Năng suất cao làm cho lợi nhuận của

các hộ nuôi cao, cụ thể lợi nhuận trên 1 hecta của một hộ nuôi ở Quảng Xuyên là

33,25 triệu đồng, còn Xuân Ổ là 22,68 triệu đồng. Như vậy nếu xét về hiệu quả nuôi

tôm của 2 thôn thì Quảng Xuyên là thôn nuôi tôm có hiệu qủa hơn.

Bảng 13: Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân,

huyện Phú Vang năm 2011

Bình quân Chỉ tiêu ĐVT Quảng Xuyên Xuân Ổ

9,4 8,16 8,9 1. Năng suất bình quân Tạ/ha

45.58 32,97 39,27 2. Giá trị gia tăng (VA) Trđ/ha

35,12 23,96 29,54 3. Thu nhập hỗn hợp (MI) Trđ/ha

33,25 22,68 27,96 4. Lợi nhuận Trđ/ha

5. GO/IC 1,43 1,31 1,37 Lần

6. VA/IC 0,43 0,31 0,37 Lần

7. MI/IC 0,33 0,23 0,28 Lần

(Nguồn: số liệu điều tra năm 2011)

Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC) bình quân của một vụ nuôi là

0,37 lần, có nghĩa là một đồng chi phí trung gian bỏ vào sản xuất thì các hộ nuôi tôm

thu được 0,37 đồng giá trị gia tăng. Bình quân chung MI/IC là 0,28 lần, có nghĩa là cứ

một đồng chi phí đầu tư vào sản xuất thì thu được 0,28 đồng thu nhập hỗn hợp. Nhìn

chung các chỉ số phản ánh hiệu quả nuôi tôm của các hộ trên địa bàn xã vẫn chưa cao,

còn nhiều vấn đề lo ngại.

Qua phân tích kết quả đã phản ánh được năng lực tổ chức sản xuất của các hộ

nuôi trồng ở đây vẫn còn nhiều hạn chế, đề nghị các cấp chính quyền địa phương cần

quan tâm giúp đỡ như: ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi tôm, còn

hướng dẫn cho họ về cách tổ chức quản lý sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao, góp phần

tăng trưởng kinh tế của xã nói riêng và huyện nói chung.

42

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động nuôi

tôm ở xã Phú Xuân.

2.4.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất

Để thấy rõ các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi tôm của các hộ trong xã, ta

cần tiến hành phân tổ các hộ theo năng suất đạt được trên một hecta.

Từ số liệu ở bảng cho ta thấy: trong 50 hộ nuôi tôm thì năng suất bình quân đạt

được là 8,9 tạ/ha và tập trung chủ yếu ở tổ 2 (chiếm 58%).

-Khi năng suất tăng từ tổ 1( 3,21 tạ/ha) lên tổ 3( 10,3 tạ/ha) thì:

Thức ăn bình quân tăng tương ứng từ 21,5 triệu đồng/ha (tổ 1) lên 93,96 triệu

đồng/ha (tổ 3);

Chi phí phòng bệnh bình quân tăng tương ứng từ 2,33 trđ/ha (tổ 1) lên 2,69

trđ/ha(tổ 3);

Chi phí cải tạo ao bình quân tăng tương ứng từ 3,17 trđ/ha(tổ 1) lên 6,61 trđ/ha

(tổ 3);

-Khi mật độ con giống tăng từ tổ 1 (13,46 vạn con/ha) lên tổ 2 (17,93 vạn

con/ha) và giảm từ tổ 2 xuống tổ 3 (16,69 vạn con/ha); thì làm cho năng suất tôm tăng

từ tổ 1( 3,21 tạ/ha) lên tổ 3( 10,3 tạ/ha).

Bảng 14: Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi tôm của các hộ điều tra

Phòng Phân tổ Số hộ Năng Thức Giống Cải tạo TT ao theo năng suất Bq ăn (vạn bệnh tổ Hộ % con/ha) suất(tạ/ha) (tạ/ha) (trđ/ha) (trđ/ha) (trđ/ha)

<6,21 1 3 6 3,21 21,5 13,46 2,33 3,17

6,21 - 9,35 2 29 58 8,62 83,78 17,93 2,36 6,16

>9,35 3 18 36 10,3 93,96 16,69 2,69 6,61

50 100 8,9 81 17,14 2,52 6,14 Tổng

(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011)

2.4.1.1. Ảnh hưởng của chi phí thức ăn đến năng suất

Trong các yếu tố đầu vào của hoạt động nuôi tôm thì chi phí thức ăn chiếm tỷ

trọng lớn nhất. Hiện nay hầu hết các hộ nuôi tôm đều sử dụng thức ăn công nghiệp cho

tôm, không sử dụng thức ăn tươi. Lượng thức ăn cung cấp cho tôm ảnh hưởng đến tốc

43

độ sinh trưởng và phát triển của tôm, do đó ảnh hưởng tới năng suất của các hộ nuôi.

Để phân tích chi phí thức ăn ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động nuôi

tôm, chúng ta phân các hộ ra thành 3 nhóm như bảng.

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy giá trị sản xuất của các hộ nuôi tôm tăng liên tục

từ nhóm 1 đến nhóm 3, do đó dẫn đến giá trị gia tăng cũng tăng theo. Điều này cho

thấy thức ăn có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất. Ở đây người dân nuôi tôm chỉ cho

ăn thức ăn công nghiệp. Đây là loại thức ăn tổng hợp có hàm lượng chất dinh dưỡng

cao ít gây ô nhiễm môi trường nước, nó có quan hệ thuận với năng suất. Điều này có

nghĩa là khi yếu tố này tăng lên thì làm cho năng suất tăng lên, nhưng không có nghĩa

là cứ tăng thức ăn công nghiệp thì năng suất sẽ tăng theo một cách hoàn toàn chặt chẽ,

mà tùy theo từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của tôm để bổ sung lượng thức ăn

phù hợp tránh sự dư thừa thức ăn trong ao làm ô nhiễm nước gây dịch bệnh cho tôm.

Để thấy rõ hơn vấn đề này ta xét tổ 1; đây là tổ có năng suất bình quân trên một ha là

thấp nhất (3,21 tạ/ha), có 3 hộ chiếm 6%; với chi phí thức ăn là 21,5 trđ/ha trong khi

mức bình quân chung là 81 trđ/ha. Như vậy so với 3 tổ thì tổ này có lượng thức ăn

thấp nhất trên 1 ha, điều này dễ nhận thấy rằng việc đầu tư vào nuôi tôm của các hộ

này còn rất hạn chế.Tương tự ta xét tổ 2 và tổ 3, trong đó tổ 3 có năng suất bình quân

trên ha là cao nhất trong các tổ (10,3 tạ/ha), có 18 hộ chiếm 36%; với chi phí thức ăn

bình quân là 93,96 trđ/ha. Qua điều tra thực tế cho thấy, phần lớn các hộ nuôi tôm của

xã còn ít hiểu biết về cơ cấu hàm lượng các loại thức ăn, nên năng suất đạt được chưa

cao, một số hộ đúc rút kinh nghiệm qua các vụ trước đã có một kết cấu và lượng thức

ăn phù hợp và bổ sung đúng lúc nên năng suất một ngày tăng lên. Chính vì vậy mà các

nhà chuyên môn khuyến cáo các ngư hộ nên cho tôm ăn đúng lúc, đúng thời điểm

nhằm giúp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt.

2.4.1.2. Ảnh hưởng của chi phí giống (mật độ nuôi) đến năng suất tôm

Mật độ nuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của hoạt động nuôi

tôm. Mật độ nuôi hợp lý sẽ làm tăng năng suất của ao nuôi, do đó kết quả đạt được

cũng cao hơn. Nếu như mật độ nuôi quá dày, tôm sẽ chậm phát triển và chi phí sản

xuất cũng tăng lên, mật độ nuôi thưa thì cũng không hiệu quả.

Để phân tích ảnh hưởng của mật độ nuôi tới kết quả và hiệu quả của hoạt động

sản xuất tôm, chúng ta phân tích đi sâu tìm hiểu về mật độ nuôi của các hộ nuôi ở xã

44

Phú Xuân. Ở xã qua số liệu điều tra của 50 hộ thì bình quân 1 hộ được nhà nước cấp 6000 m2. Trong đó, có vài hộ nuôi 2 đến 3 ao nuôi, 1 hộ nuôi 6 hồ, với diện tích như vậy thì bình quân mỗi nhà nuôi 10 vạn con giống. tức 1m2 tính ra là 16,1 con. Với mật độ như vậy thì năng suất tôm đạt hiệu quả. Vì người dân ở đây đa số nuôi theo vùng

nên mật độ này chung chung theo chỉ tiêu đề ra của địa phương. Tùy theo loại con

giống tốt hay xấu ảnh hưởng đến năng suất tôm. Để phân tích ảnh hưởng của mật độ

nuôi tới năng suất tôm, chúng ta phân tích bảng số liệu.

Ở bảng số liệu chúng ta phân các hộ điều tra thành 3 nhóm. Nhóm 1 ta thấy có

3 hộ chiếm 6% thả nuôi bình quân 13,46 vạn con/ ha , với năng suất đạt được là 3,21

tạ/ha. Đây là tổ có năng suất thấp nhất trong 3 tổ. Qua điều tra thực tế các hộ này có

năng suất thấp do nhiều nguyên nhân trong đó yếu tố con giống cũng là một vấn đề

cần quan tâm của các hộ nuôi. Có một vài hộ lo sợ bị mất mùa của năm trước nên chỉ

thả ít và dẫn đến năng suất không đạt. Nhóm 2 có 29 hộ nuôi tôm chiếm 58% ở mức

17,93 vạn con/ha so với nhóm 1 thì số giống tôm tăng lên và năng suất cũng tăng. Các

ngư hộ cần phải nắm vững các quy trình kỹ thuật cũng như cách nuôi và chăm sóc thì

nó mới mang lại hiệu quả cao. Nhóm 3 là nhóm có năng suất cao nhất tổ nhưng lại có

mật độ con giống thấp hơn nhóm 2, với 16,69 vạn con/ha có 18 hộ nuôi và chiếm

36%, năng suất bình quân cho tổ này là 10,3 tạ/ha. Chứng tỏ mật độ nuôi hợp lí mang

lại hiệu quả cao. Mật độ mà thưa không tận dụng được diện tích mặt nước và lượng

thức ăn cũng như các điều kiện chăm sóc khác. Mật độ thả dày quá làm tôm chậm lớn,

năng suất không cao.

2.4.1.3. Ảnh hưởng của chi phí phòng bệnh đến năng suất nuôi tôm

Nếu như mật độ nuôi là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến năng suất tôm

của các hộ thì chi phí phòng bệnh cũng đóng vai trò quan trọng không kém, ảnh hưởng

đến năng suất thu được của họ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tôm nuôi xảy ra dịch

bệnh, song các yếu tố về môi trường vùng nuôi không đảm bảo vệ sinh, chất lượng con

giống, kỹ thuật nuôi còn hạn chế là tác nhân chính dẫn đến tôm nuôi xảy ra dịch bệnh.

Ngoài ra, nguyên nhân gây dịch bệnh làm tôm chết là do hầu hết các hộ nuôi không

chấp hành đúng lịch thời vụ theo hướng dẫn của ngành thủy sản mà đã thả nuôi sớm từ

1-2 tháng. Các hộ nuôi còn chưa quan tâm xử lý vệ sinh môi trường ao hồ trong sạch,

kiểm dịch giống, nguồn nước không đảm bảo các yếu tố về độ mặn, PH, nhiệt độ trước

45

khi thả nuôi dẫn đến tôm thường xảy ra dịch bệnh là điều khó tránh. Trong quá trình

nuôi, người dân lạm dụng thức ăn dẫn đến tình trạng dư thừa thức ăn trong ao hồ gây ô

nhiễm môi trường nước, cũng là nguyên nhân xảy ra nhiều loại bệnh ở tôm.

Rõ ràng từ Bảng số liệu cho thấy, đối với những hộ nuôi có chi phí phòng bệnh

bình quân trên 1 ha là 2,33 trđ chỉ có 3 hộ chiếm 6 %, năng suất bình quân 3,21 tạ/ha

thấp nhất trong 3 nhóm, đối với các hộ nuôi này do không có sự chuẩn bị trước khi có

dịch xảy ra nên dẫn đến thua lỗ nhiều, năng suất thu được thấp. Còn ở tổ 2 với năng

suất bình quân cao hơn tổ 1 là 8,62 trđ/ha trong khi chi phí phòng trừ dịch bệnh tăng

nhưng không đáng kể với chi phí phòng bệnh trên 1 hecta của nhóm này là 2,36 triệu

đồng. Sỡ dĩ có sự trái ngược này là do trong quá trình nuôi tôm có nhiều hộ không bị

bệnh dẫn đến năng suất đạt vẫn cao hơn so với các hộ khác. Điều này chứng tỏ là nếu

tôm bị bệnh và người dân dùng thuốc phòng bệnh thì nó cũng ảnh hưởng đến năng

suất nuôi của các hộ. Đối với tổ 3 thì năng suất bình quân 10,3 tạ/ha, với chi phí phòng

bệnh cao nhất trong 3 nhóm là 2,69 triệu đồng/ha. Ở đây trong 50 hộ điều tra thì có vài

hộ có chế độ chăm sóc kĩ giai đoạn tôm bị bệnh nên khắc phục được tình trạng tôm

chết dẫn đến năng suất vẫn cao.

Để tránh được những dịch bênh cho nghề nuôi tôm các ngư hộ cần có các biện

pháp, chủ trường phòng bệnh cho tôm trước khi đưa giống vào hồ nuôi:

- Cải tạo ao triệt để trước khi đưa vào nuôi.

- Nguồn nước đưa vào ao nuôi phải được xử lý mầm bệnh. Nguồn nước thải

của các ao nuôi nhất là trong mùa dịch bệnh cần đưa vào ao xử lý để tiêu diệt

mầm bệnh (Chlorine 30 ppm) và giữ ít nhất 4 ngày trước khi thải ra ngoài môi trường.

- Sử dụng con giống sạch đã qua kiểm dịch và xét nghiệm.

- Duy trì các yếu tố môi trường thuận lợi cho sự phát triển của tôm nuôi, không

để hiện tượng ô nhiễm hữu cơ xảy ra trong ao, giữ sạch đáy ao.

- Sử dụng định kỳ các chế phẩm sinh học để cải thiện môi trường ao nuôi và

nâng cao sức đề kháng của tôm.

- Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách trộn chung các loại vitamin và

khoáng chất nhất là vitamin C và β glucan cho vào thức ăn cho tôm ăn.

- Theo dõi tình trạng sức khỏe của tôm để có biện pháp xử lý kịp thời.

2.4.1.4. Ảnh hưởng của cải tạo ao đến năng suất

46

Cải tạo ao nuôi trước khi thả tôm là khâu rất quan trọng trong quá trình nuôi

tôm và đòi hỏi phải thực hiện trước khi đưa ao vào sử dụng lần đầu cũng như trước

mỗi vụ nuôi. Mục đích của việc cải tạo ao là chuẩn bị cho tôm nuôi có được một nền

đáy ao sạch, chất lượng nước thích hợp và ổn định, ngăn ngừa hay hạn chế dịch bệnh,

các sinh vật khác hay địch hại xâm nhập và phát triển trong ao nuôi. Cải tạo ao gồm

các khâu chính là dọn tẩy ao, bón vôi và chuẩn bị nước để thả tôm giống. Qua thực tập

điều tra tại xã Phú Xuân ngẫu nhiên 50 hộ nuôi tôm cho thấy, đa số các hộ nuôi đều có

công tác chuẩn bị ao tốt. Chi phí cải tạo ao bình quân trên 1 hecta là 6,14 triệu đồng,

tăng từ tổ 1 đến tổ 3, bình quân 3-4 triệu/hộ nuôi.

Như vậy xu hướng chung để tăng năng suất đòi hỏi các hộ nuôi tôm phải gia

tăng các chi phí đầu vào. Nhưng để đạt được năng suất cao thì phải biết kết hợp các

yếu tố đầu vào một cách hợp lý; mức tăng chi phí đầu vào phải phù hợp với từng giai

đoạn sinh trưởng và phát triển của tôm, cũng như tùy thuộc vào tình hình cụ thể của

từng nơi mà nên tăng hay giảm loại chi phí nào để tối thiểu hóa chi phí, tăng năng suất

và lợi nhuận.

2.4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi tôm

Để thấy rõ các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi tôm của các hộ trong xã, ta

cần tiến hành phân tổ các hộ theo mức lợi nhuận đạt được trên một hecta.

Từ số liệu ở bảng cho ta thấy: trong 50 hộ nuôi tôm thì lợi nhuận bình quân đạt

được là 27,96 triệu đồng/ha và tập trung chủ yếu ở tổ 2 (chiếm 44%).

Khi lợi nhuân tăng từ tổ 1( 11,3 triệu đồng/ha) lên tổ 3( 46,32 triệu đồng/ha) thì:

Năng suất bình quân tăng tương ứng từ 7,86 tạ/ha (tổ 1) lên 9,99 tạ/ha (tổ 3);

Bảng 15: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi tôm của các hộ

IC bình Số hộ Lợi nhuận Phân tổ theo lợi Năng suất quân BQ TT tổ % nhuận (trđ/ha) BQ (tạ/ha) Hộ (trđ/ha) (trđ/ha)

1 < 19,9 18 7,86 103,54 11,3 36

2 22 9,26 110,23 30,72 44 19,9 – 38,1

3 >38,1 10 9,99 107,33 46,32 20

50 8,9 104,47 27,96 100 Tổng

47

(Nguồn: số liệu điều tra năm 2011)

- Chi phí trung gian bình quân tăng từ tổ 1 là 103,54 trđ/ha lên 110,23 trđ/ha và

giảm từ 110,23 trđ/ha (tổ 2) xuống 107,33 trđ/ha (tổ 3).

Điều đó chứng tỏ lợi nhuận có mối quan hệ thuận với năng suất , tuy nhiên thì

khi lợi nhuận tăng từ tổ 1 đến tổ 3 nhưng IC bình quân lại có xu hướng tăng từ tổ 1 lên

tổ 2 và giảm từ tổ 2 xuống tổ 3, điều này chứng tỏ IC không có mối quan hệ phụ thuộc

với lợi nhuận đạt được. Khi ta tăng các chi phí trung gian lên đến một mức độ nào đó

thì nó sẽ mang lại lợi nhuận cao, còn nếu ta quá lạm dụng chi phí này thì kết quả mang

lại không hiệu quả. Để thấy rõ hơn các mối quan hệ có tính quy luật nói trên cần đi sâu

phân tích nội dung từng tổ.

Đối với tổ 1 (mức lợi nhuận bình quân thấp nhất): có 18 hộ chiếm 36%. Lợi

nhuận bình quân trên một ha của tổ này đạt mức 11,3 trđ/ha; trong số này có 1 hộ hòa

vốn còn lại lợi nhuận đạt được không cao. Phần lớn các hộ nuôi tôm trong tổ này là

dân Quảng Xuyên do nhiều người di cư từ nơi khác đến nên thiếu vốn sản xuất, kỹ

thuật nuôi kém do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm. Khi phỏng vấn các hộ nuôi có

lãi và có kinh nghiệm thì họ cho rằng có một vài hộ trong xã thường nuôi tôm bị lỗ là

vì họ không chịu học hỏi kinh nghiệm mà tự nuôi theo kỹ thuật của riêng họ. Còn khi

phỏng vấn những hộ này thì họ cho rằng do thiếu vốn, cũng như chưa am hiểu lắm về

kỹ thuật, thấy nuôi mình cũng nuôi. Vì thế, đối với tổ 1 nhà nước địa phương cần quan

tâm, tổ chức các buổi tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vốn cho các hộ nuôi này.

Tổ 2 gồm các hộ nuôi tôm đạt mức lợi nhuận trên hecta từ 19,9 – 38,1 trđ/ha có

22 hộ chiếm 44% có mức lợi nhuận bình quân trên ha là 30,72 triệu đồng.

Tổ 3 có mức lợi nhuận bình quân trên một hecta đạt cao nhất (trên 38,1 trđ) với

10 hộ chiếm 20% trong đó hộ có lãi cao nhất trên 1 ha là 46,32 trđ; trong khi lợi nhuận

bình quân trên ha của 50 hộ chỉ đạt 27,96 trđ. Nhìn chung các hộ nuôi tôm ở đây phần

lớn tập trung chủ yếu ở mức lợi nhuận 19,9 – 38,1 trđ/ha. Điều này cho thấy hiệu quả

nuôi tôm của xã cũng tương đối ổn định.

Vì thế, điều khuyến cáo ở đây là ngoài sự hỗ trợ đầu tư phát triển của các cấp

chính quyền địa phương thì các hộ nuôi tôm cần phát huy nội lực của mình để nâng

cao trình độ và hiệu quả đầu tư thâm canh.

48

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

NUÔI TÔM Ở XÃ PHÚ XUÂN, HUYỆN PHÚ VANG.

3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển

3.1.1. Phương hướng phát triển nuôi tôm

Thực tiễn cho thấy, phát triển NTTS nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng là

hình thức sản xuất phù hợp với nền nông nghiệp nước ta. Nó đã góp phần khai thác có

hiệu quả các nguồn lực bị lãng phí ở nông thôn và trở thành con đường làm giàu chủ

yếu của người nông dân. Vì vậy phát triển nghề nuôi tôm nâng cao hiệu quả kinh tế trở

thành một phương hướng quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta

nói chung và huyện Phú Vang, xã Phú Xuân nói riêng. Về xã Phú Xuân và thâm nhập

vào các hộ ngư dân thấy rằng, năm nay, người dân chưa mạnh dạn đầu tư vốn vào nuôi

trồng do các năm trước thua lỗ. Hơn nữa, thời tiết có những bất thường, hạn chế tiến

độ nuôi trồng thủy sản. Những năm qua, có vụ nuôi thất bát nguyên do là khâu giống

không được kiểm tra kỹ trước khi thả vào ao nuôi. Nguyên nhân khác là hệ thống xả

nước kém, ao hồ không được vệ sinh kỹ, dịch bệnh phát sinh lây lan ra các hồ nuôi. Từ

đó, phong trào nuôi trồng thủy sản chưa hấp dẫn người dân, nhiều hộ lâm vào cảnh nợ

nần chồng chất...Nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của địa bàn xã, do vậy qua thực

tiễn của phong trào nuôi tôm, cá các loại, xã Phú Xuân xem mô hình nuôi trồng thủy

sản dựa vào cộng đồng là một lợi thế trong phát triển ngành thủy sản.

Theo kế hoạch, năm 2012 về diện tích NTTS cả nước sẽ có khoảng 1110 nghìn

ha, sản lượng thủy sản nuôi khoảng 3,15 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt

6,3-6,5 triệu USD. Để đạt được những kết quả trên, các chuyên gia trong lĩnh vực thủy

sản cho rằng, ngành thủy sản cần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo

vệ môi trường sinh thái, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân. Góp

phần tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương nhanh hơn và bền vững hơn.

Phương hướng phát triển kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân , huyện Phú Vang,

tỉnh TT-Huế trong thời kì 2012 – 2020 được xác định là:

Bước vào năm 2012, phương hướng chung nhất là phải tập trung phát triển

NTTS theo hướng phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo

ổn định sản xuất và đời sống cuả nhân dân trên địa bàn xã. Góp phần tích cực vào phát

49

triển kinh tế, xã hội ở địa phương nhanh hơn và bền vững hơn. Thực hiện chuyển dịch

cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý. Tập trung vào khâu sản xuất hàng hóa thủy sản trên

cơ sở xây dựng và phát triển các hộ NTTS nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng

cao hiệu quả sản xuất trong ngư nghiệp, bảo đảm công ăn việc làm nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần cho nhanh trên địa bàn xã.

- Từng bước xây dựng hệ thống cung cấp giống nhân giống tại cơ sở, vận động

nhân dân mở rộng các trại sản xuất tôm giống nhằm có đủ số lượng giống cung cấp cho

người nuôi trên địa bàn, hạn chế việc đi lại mua giống ở các tỉnh khác về khó quản lý,

không được kiểm tra, kiểm dịch, xảy ra dịch bệnh làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất

trên địa bàn. Trong đó, nhà nước cần đảm bảo khâu then chốt là tôm bố mẹ, công nghệ

sản xuất giống nhân tạo và các loại thủy sản có giá trị dinh dưỡng cũng như kinh tế cao.

- Hiện nay, nhu cầu giống nuôi tôm trên địa bàn huyenj Phú Vang là 300 triệu

con loại P15, nhưng thực tế các trại giống trên địa bàn chỉ đáp ứng được 20-30%, số

còn lại các như hộ phải mua từ các nơi khác về. Vì vậy việc tăng cường công tác kiểm

tra, kiểm dịch phòng ngừa và trị bệnh tôm là phương hướng hàng đầu của xã. Việc

hình thành các khu trại sản xuất giống sẽ góp phần đáng kể vào việc sản xuất cung cấp

giống trên địa bàn. Vì vậy việc huy hoạch phương hướng phát triển các vùng sản xuất

giống tập trung là hết sức cần thiết không những đáp ứng cho nhu cầu giống của huyện

mà còn cân đối chung trên địa bàn toàn tỉnh.

- Đẩy mạnh khai thác tiềm năng ở vùng đầm phá, theo hướng mở rộng quy mô

NTTS hợp lý, khuyến khích đầu tư vào nuôi BTC và TC , giảm nuôi chắn sáo, tiếp tục

chỉ đạo triển khai công tác quy hoạch, gắn công tác quy hoạch với quản lý tốt NTTS

theo hướng quy hoạch và phát triển bền vững.

- Đầu tư cơ sở vật chất và cơ sở dịch vụ, trang bị các phương tiện dụng cụ phục

vụ cho NTTS, trực tiếp giao diện tích mặt nước để họ quản lý, xây dựng quy chế tự

quản trong từng cụm dân cư. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm như: sử dụng

chất nổ, rà điện, hay các hành vi khác mang tính chất hủy diệt các hệ sinh thái trên

vùng đầm phá.

- Phát triển nhanh nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt nghề nuôi tôm nhằm mục

đích tạo ra lượng hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng cũng như xuất khẩu. Để đạt

50

được điều này trước hết cần phải triển khai các phương hướng, quy hoạch phát triển

nuôi trồng, xác định quy trình nuôi tôm thích hợp vừa để đảm bảo hiệu quả vừa để

đảm bảo tính bền vững cho người nông dân. Trong quy hoạch mở rộng diện tích nuôi

tôm cần có giải pháp kỹ thuật thích hợp ( bố trí hợp lý hệ thống kênh mương, xử lý

nước thải….) nhằm đảm bảo hạn chế thấp nhất đến sản xuất nông nghiệp và bảo vệ

môi trường. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp kỹ thuật thích hợp để vừa phát huy các

loại diện tích đất mặt nước vào NTTS nhằm nâng cao sản xuất, đồng thời bảo đảm cho

các hình thức nuôi cùng tồn tại, phát triển và hỗ trợ nhau.

- NTTS đặc biệt nuôi tôm là ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng nhất đối với

vùng đầm phá. Vì thế để nâng cao tốc độ phát triển một cách bền vững thì việc đẩy

mạnh các hình thức nuôi chủ yếu là TC và BTC cần thiết thực hiện hơn cả. Đó là tiếp

tục nâng cao diện tích và trình độ thâm canh trong nuôi trồng, hình thành các trang trại

nuôi tôm, chủ động nước theo quy trình khép kín bao gồm cả khâu xử lý ao nước thải.

Ngoài ra cần phải phát huy hết khả năng sẵn có ở vùng để phát triển kinh tế có hiệu

quả hơn.

- Đi đôi với việc phát triển các vùng nuôi tôm quy mô lớn , tập trung phát triển

mạnh mẽ các vùng nuôi có quy mô nhỏ ở từng hộ gia đình và từng cộng đồng ngư dân.

Phát huy mọi khả năng nội lực từ bên trong và bên ngoài vùng, huy động mọi thành

phần kinh tế tham gia NTTS, khuyến khích các tổ chức kinh tế lớn đầu tư xây dựng

vùng nuôi tôm nhưng phải giao khoán những diện tích nuôi ( các ao nuôi) cho những

người nuôi tôm có quy mô nhỏ, ít theo quy trình kỹ thuật nuôi bền vững hiệu quả cao.

3.1.2. Những mục tiêu phát triển nuôi tôm trong thời gian tới

Mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đầm phá thời kỳ

2012 - 2020:

- Nâng cao hơn nữa thu nhập bình quân đầu người để rút ngắn và đưa lên ngang

bằng với thu nhập các vùng khác cũng như thành phố.

- Cần phát huy hơn nữa vai trò kinh tế hộ ở nông thôn, khuyến khích và tạo điều

kiện để các ngư hộ làm giàu và sản xuất hàng hóa theo các mô hình trang trại, xóa đói

và phấn đấu đến năm 2020 trên địa bàn xã không còn hộ nghèo.

51

- Phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở cho thanh thiếu niên toàn vùng, hoàn thành

phủ sóng phát thanh, truyền hình, thông tin, báo chí đảm bảo cho toàn xã đầy đủ điện

và nước ngọt hợp vệ sinh.

- Tập trung đầu tư cho văn hóa, y tế, giáo dục nhằm nâng cao đời sống tinh thần

cho nhân dân, nâng cao ý thức hơn nữa về sinh sản ở các thôn để giảm tỷ lệ tăng dần

số xuống còn 1% vào năm 2020.

3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân.

3.2.1. Những giải pháp mang tính chất vĩ mô

3.2.1.1. Tiếp tục phát triển và nâng cao cơ sở hạ tầng – vật chất kỹ thuật ở

nông thôn

- Cơ sở hạ tầng, vật chất luôn là cầu nối quan trọng gắn kết quá trình sản xuất,

phát triển kinh tế cũng như ảnh hưởng đến việc NTTS nói chung và nuôi tôm nói

riêng. Xây dựng hạ tầng cơ sở đồng bộ chủ yếu thông qua việc xây dựng các hệ thống

giao thông, thủy lợi, các trạm dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở quy hoạch và phát triển

các hệ thống đó, các chương trình kiên cố hóa kênh mương, xây dựng các hệ thống đó,

các chương trình kiên cố hóa kênh mương, xây dựng các hệ thống giao thông, điện

nước, hoàn thiện các cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cần sớm được triển khai và đầu tư để tăng

năng suất, sản lượng cũng như hiệu quả sản xuất. Để làm tốt việc này cần tập trung

giải quyết một số vấn đề sau:

- Đối với các chương trình dự án đưa ra để phát triển nghề nuôi tôm của các hộ,

thì các cấp chính quyền cần ưu tiên chú trọng tạo điều kiện cho họ sớm triển khai các

hoạt động và quá trình phát triển nuôi tránh tình trạng “ ngồi ngóng đứng chờ “ của bà

con nhân dân.

- Xây dựng động viên và khuyến khích các hộ đóng góp quỹ phát triển cơ sở hạ

tầng cũng như mạnh dạn đầu tư vốn xây dựng ao hồ vững chắc, kiên cố đảm bảo quy

trình kỹ thuật có điều kiện nuôi BTC năng suất cao. Chú trọng đầu tư vào các nơi

trọng điểm, tạo điều kiện cho các hộ nuôi tôm phát triển.

- Cần củng cố hệ thống đe bao ngăn mặn, xây dựng hệ thống thủy lợi và ao nuôi

phù hợp với yêu cầu nuôi trồng. Quy trình thiết kế, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất

kỹ thuật cần chú ý đến nguồn lợi tự nhiên, đảm bảo tuân thủ dòng chảy, tránh gây ách

52

tắc làm ô nhiễm nguồn nước….Xây dựng hệ thống thủy lợi hợp lý giúp chủ động

nguồn nước và chất lượng nước cung cấp cho các hồ nuôi.

3.2.1.2. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường

vùng đầm phá

Trong những năm qua, vẫn còn tồn tại một số bất cập về tình trạng ô nhiễm môi

trường vùng nuôi. Ngoài việc, do phát triển diện tích nuôi trồng thiếu quy hoạch, thực

hiện NTTS không đúng kỹ thuật, hạ tầng thiếu đồng bộ, hệ thống lắng và xử lý nước

thải còn nảy sinh các vấn đề tồn tại bất cập như việc khai thác quá mức các nguồn lợi

thủy sản trên biển, sông đầm, các hoạt động đánh bắt mang tính hủy diệt, ảnh hưởng

môi trường sinh thái, gây ra nhiều áp lực ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm. Do vậy

để quản lý tốt công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ tốt môi trường thì một số chú

ý sau cần được giải quyết:

- Thứ nhất: Cần tiến hành sắp xếp nghề nghiệp để khai thác hợp lý nguồn lợi

thủy sản, quản lý tốt các phương tiện ngư dân đánh bắt, loại bỏ ngay những ngành

nghề lạc hậu mang tính hủy diệt hàng loạt. Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản , tạo môi

trường sống, sinh sản tốt cho các loài sinh vật ở khu quy hoạch vùng cấm khai thác và

nuôi trồng.

-Thứ hai: Chú trong công tác tuyên truyền chủ động, động viên cũng như giải

thích cho người dân hiểu giá trị tầm quan trọng về môi trường, ảnh hưởng đến đời

sống tinh thần và vật chất của họ. Nếu các ngư dân ở vùng đầm phá không bảo vệ

nguồn lợi thủy sản thì một sớm một chiều nó sẽ trực tiếp đe dọa đến cuộc sống của họ.

Phải giúp cho họ hiểu bảo vệ nguồn lợi thủy sản là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi tổ

chức, mọi công dân.

-Thứ ba: Nhận thức của người dân về môi trường, cộng đồng tuy có nhiều tiến

bộ nhưng vẫn còn hạn chế. Công tác quan trắc, xử lý và dự báo môi trường còn nhiều

bất cập, trang thiết bị cho công tác quan trắc xử lý số liệu còn thiếu. Nên tính chính

xác trong cảnh báo môi trường trong NTTS chưa cao. Bên cạnh đó cần xây dựng các

trạm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, trực tiếp kiểm soát chất lượng môi trường để kịp thời

đề xuất các giải pháp bảo vệ lợi ích cho người nuôi tôm.

53

-Thứ tư: Cần có sự phối hợp liên ngành giữa Công an- Bộ đội biên phòng –

chính quyền địa phương và thanh tra chuyên ngành, cương quyết xử lý những hành vi

khai thác mang tính hủy diệt, để lợi ích của ngành này không triệt tiêu lợi ích của

ngành khác trong công cuộc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường, phục vụ

cho mục tiêu chiến lược lâu dài của vùng ven đầm phá xã Phú Xuân.

3.2.1.3. Thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế xã hội ở nông thôn

3.2.1.3.1. Chính sách về vốn:

Vốn là một trong những điều kiện để hình thành và thành lập ao nuôi của các

hộ. Nhu cầu vốn đầu tư nuôi tôm rất lớn, vì vậy các hộ nuôi vẫn còn rất nhiều khó

khăn về vốn đầu tư. Được biết, trong những năm qua mặc dù được nhà nước thông qua

các ngân hàng như: Ngân hàng chính sách, Ngân hàng NN&PTNN….cho các nông

dân vay đặc biệt các hộ nuôi tôm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Những năm gần đây,

do môi trường nước bị ô nhiễm, thời tiết thay đổi thất thường, dịch bệnh xảy ra liên

miên khiến cho một số hộ rơi vào tình trạng nợ nần, không có khả năng trả nợ vay

ngân hàng, việc vay vốn cũng trở nên khó khăn. Để giải quyết tốt vấn đề vốn đầu tư

cho nuôi tôm cần tập trung thực hiện tốt các vấn đề sau:

 Cần có chính sách vay vốn với lãi suất ưu đãi cho các hộ nuôi, đặc biệt là các

nhóm hộ nuôi có điều kiện sản xuất khó khăn.

 Thủ tục vay vốn cần gọn nhẹ, đơn giản, dễ hiểu đối với các hộ nuôi nói

chung và các hộ nghèo, hộ khó khăn nói riêng.

 Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ một phần vốn xây dựng công trình hạ

tầng, giao thông, điện nước cho các vùng nuôi trọng điểm, thực hiện theo phương

châm: “ Nhà nước và dân cùng làm” Ngoài ra nên vận động các hộ nuôi tích cực huy

động nguồn vốn từ người thân bạn bè để đầu tư sản xuất.

 Khi sử dụng vốn các hộ nuôi nên sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả tránh

tình trạng sử dụng một cách tràn lan, ồ ạt thiếu chính xác và hợp lý làm ảnh hưởng đến

năng suất, sản lượng cũng như hiệu quả sản xuất mang lại.

 Ngoài ra các tổ chức tài chính của nhà nước cần nghiên cứu và có những giải

pháp thích hợp để cho vay ưu đãi đến với những ngư dân nghèo mới bắt đầu tham gia

nuôi tôm và những hộ bị thất thu nghiêm trọng không có khả năng thu hồi vốn do ảnh

54

hưởng của các nhân tố khách quan. Bên cạnh đó nhà nước cần tranh thủ các khoản tài

chính của tổ chức quốc tế phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế để đưa vào nuôi tôm.

3.2.1.3.2. Chính sách về tiêu thụ sản phẩm:

Thị trường tiêu thụ sản phẩm sau mỗi quá trình nuôi của các hộ nuôi tôm, luôn

là vấn đề đáng quan tâm không những ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và hiệu quả

kinh doanh của các hộ, mà còn các cấp chính quyền địa phương. Vì vậy các giải pháp

được đưa ra đó là: Nhà nước cần tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm, tăng cường công

tác dự báo và cung cấp thông tin thị trường cho các hộ nuôi, nhằm giúp họ hiểu rõ hơn

về giá cả, chất lượng sản phẩm. Từ đó họ kịp thời sản xuất, tích cực phát triển tăng

năng suất, sản lượng.

3.2.1.3.3. Chính sách khuyến ngư và chuyển giao công nghệ:

Để tiến hành CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn nói chung và phát triển kinh

tế nuôi tôm nói riêng thì vấn đề áp dụng chính sách khuyến ngư, kỹ thuật và chuyển

giao công nghệ đưa vào sản xuất là điều kiện quan trọng. Vì vậy trong công tác

chuyển giao công nghệ khuyến ngư thì cần tập trung giải quyết tốt các nội dung đó bởi

các lí do sau:

 Về phía người nuôi, nhận thức về môi trường, cộng đồng đã có bước tiến bộ.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cá nhân chưa tuân thủ lịch thả mùa vụ, công tác phòng bệnh

tôm còn nhiều bất cập, ngoài ra hầu hết các ao nuôi tôm quá lâu, môi trường đầm phá

ngày càng ô nhiễm, thời tiết diễn biến phức tạp, thiếu vốn sản xuất nên rất khó khăn

cho người áp dụng các qui định trong NTTS.

 Xác định NTTS là nghề đòi hỏi kỹ thuật cao, nên việc tập huấn kỹ thuật và

kỹ năng tự nâng cao trình độ kỹ thuật cho người nuôi là công tác thường xuyên đổi

mới. Công tác khuyến ngư cần được tăng cường hơn nữa, đa dạng hóa hoạt động để

đáp ứng yêu cầu sản xuất. Tiếp tục phát huy khuyến ngư trên các phương tiện thông

tin đại chúng, tổ chức tham gia học tập, tổ chức các buổi tập huấn để nâng cao tay

nghề và trình độ chuyên môn quản lý của các hộ.

55

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các hộ nuôi.

3.2.2.1. Về thức ăn

Tôm là loài ăn tạp, do đó trong quá trình nuôi cần bổ sung thức ăn, cơ cấu từng

loại thức ăn phải phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của tôm. Cho

thức ăn một lượng vừa phải, tránh hiện tượng dư thừa thức ăn gây lãng phí và ô nhiễm

môi trường nước. Mặt khác, tôm có tập tính bơi lội quanh ao tập trung gần bờ để tìm

kiếm thức ăn do đó cần phải rải thức ăn đều quanh ao. Cách kiểm tra lượng thức ăn có

hợp lý hay không trong ao nên đặt 1 – 2 vó ( vó nylon hình vuông) để kiểm tra, và theo

dẽo tình hình tôm ăn sau khoảng 1h30 phút để có sự điều chỉnh phù hợp.

Qua nghiên cứu cho thấy tình hình chăm sóc quản lý cho ăn của hai thôn điều

tra thì Xuân Ổ có số người tham gia nuôi tôm không áp dụng kỹ thuật nuôi cũng như

chăm sóc do vậy cần có các biện pháp vận động người dân ở thôn này đi tham gia các

lớp tập huấn về để nâng cao hơn nữa hiệu quả nuôi tôm của thôn, góp phần giúp người

dân có công ăn việc làm, vừa không bỏ nghề, bỏ đất làm cho nghề nuôi tôm truyền

thống của xã bị suy giảm so với những nơi khác.

3.2.2.2. Về ao nuôi và xử lý

Ao nuôi phải kiên cố, tránh hiện tượng ao bị rò rỉ làm cho thủy hải sản cũng

như mầm bệnh tư bên ngoài xâm nhập vào. Tùy theo dạng đáy ao mà có lớp bùn vừa

phải ( lớp bùn thích hợp là dày không quá 5cm). Độ sâu mực nước nuôi tôm trong

khoảng 8 – 1,2m, ở độ sâu này môi trường ao nuôi ít biến động khi có mưa hoặc nắng

kéo dài.

Trước khi thả giống cần phải cải tạo ao, xử lý ao thật tốt để diệt mầm bệnh và

tạo điều kiện cho các loài tảo phát triển làm nguồn thức ăn cho tôm. Các loại vôi dùng

để diệt mầm bệnh tốt nhất là: vôi nông nghiệp (CaCO3); vôi sống (CaO) hoặc vôi tôi

(Ca(OH)2. Tuy nhiên tùy thuộc vào nồng độ pH của đất mà bón lượng vôi thích hợp.

56

3.2.2.3 Thị trường tiêu thụ

Đây là khâu cuối cùng của quá trình nuôi, nó có ảnh hưởng đến kết quả và hiệu

quả của các hộ nuôi tôm. Trong thực tế, thị trường tiêu thụ của các hộ nuôi ở xã Phú

Xuân rất phong phú và đa dạng. Đến vụ thu hoạch tôm một số hộ bán cho các lái buôn

ở địa phương, một phần khác thì bán cho các thu gom lớn rồi các nhà thu gom này bán

lại cho các công ty thủy sản nên dẫn đến có sự ép giá. Đây là điều bất lợi đối với các

hộ nuôi tôm.

Để khắc phục tình trạng này, đề nghị các Công ty xuất nhập khẩu thủy sản trực

tiếp ký các hợp đồng với các hộ nuôi tôm, nhằm giúp cho các ngư dân trong xã tránh

khỏi tình trạng bị ép giá và tạo niềm tin để họ yên tâm sản xuất.

3.2.2.4 Lao động chăm sóc

Ngoài những vấn đề đã đề cập ở trên thì đây là khâu không thể thiếu của quá

trình nuôi tôm. Mặt khác tôm là loại động vật thủy sinh di nhiệt nên cần phải có chế độ

chăm sóc đặc biệt. Người nuôi phải theo dõi cả ngày lẫn đêm về tình hình ao nuôi, sức

khỏe, từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của tôm, môi trường xung quanh .v.v..cho

đến khi thu hoạch.

Thời gian đầu của tôm cần phải chăm sóc cẩn thận, bởi vì đây là giai đoạn tôm

tiếp xúc với môi trường mới, tôm còn nhỏ sức đề kháng yếu tôm rất dễ mắc bệnh. Khi

tôm đạt trọng lượng cở 180 – 200 con/kg nếu các hộ nuôi tôm tăng cường chăm sóc,

đây chính là giai đoạn đầu tư hiệu quả nhất. Bởi vì tôm ngày càng lớn thì khoảng trống

trong ao ngày càng hẹp dần, nhu cầu lượng oxy trong nước tăng, lượng thức ăn cần

thiết tăng, đặc biệt là môi trường trong ao dễ bị ô nhiểm, trong suốt thời gian này cần

tăng cường chăm sóc hàng ngày nhằm theo dõi các trạng thái của tôm để có biện pháp

xử lý kịp thời.

Như vậy, công chăm sóc có ý nghĩa hết sức quan trọng nó đòi hỏi người nuôi

tôm phải thường xuyên theo dõi ao nuôi từ khi thả đến khi thu hoạch.

57

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN

Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, nhưng qua quá trình điều tra thực tập tại các

hộ nuôi trên địa bàn xã Phú Xuân, huyện Phú Vang. Chúng tôi đã rút ra một số kết

luận như sau:

1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu

quả nuôi tôm nói riêng. Luận văn đã nghiên cứu những tiềm năng, thế mạnh phát triển

nuôi tôm P15 của xã Phú Xuân, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. NTTS mà đặc biệt nuôi tôm là một ngành kinh tế mũi nhọn của xã Phú Xuân.

Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, làm thay đổi bộ mặt

kinh tế xã hội địa phương, giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực tự nhiên, tạo ra

nhiều việc làm nhằm giải quyết lực lượng lao động dư thừa, nâng cao thu nhập cho

người dân.

3. Ngư dân nuôi tôm chủ yếu dựa vào tri thức đúc kết từ kinh nghiệm qua

những vụ nuôi trước cùng với những tri thức khoa học lĩnh hội được từ các lớp tập

huấn kỹ thuật do cán bộ thuộc trung tâm khuyến ngư, Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy

sản thực hiện phù hợp với điều kiện tự nhiên của xã. Đề tài đã thể hiện thực trạng phát

triển ngành nghề nuôi tôm ở xã trong thời gian gần đây, tập trung nghiên cứu vụ hè

xuân năm 2011

4. Năng suất tôm của các hộ điều tra chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố,

chủ yếu là: chi phí về thức ăn, chi phí xử lý ao, công lao động và mật độ con giống.

Trong đó yếu tố thức ăn công nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đối với năng suất tôm tiếp

đến là lao động. Việc tăng các yếu tố trên để tăng năng suất tôm là có ý nghĩa về mặt

kinh tế.

5. Phong trào nuôi tôm phát triển mạnh ở xã Phú Xuân trong những năm trở lại

đây, nó đã phát huy tính năng động xã hội, khơi dậy mọi tiềm năng và sử dụng hiệu

quả nội lực của mọi thành phần dân cư, chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế, nghề

nghiệp, lao động, việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, quá trình

phát triển cũng còn nhiều vấn đề bất cập mà thực tiễn hiện nay vẫn chưa giải quyết

được đó là: vấn đề về con giống, tình hình tiêu thụ tôm, dịch vụ chế biến, các ngành

58

nghề hỗ trợ thúc đẩy phát triển v.v …. Đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi tôm

của xã.

6. Đề tài nghiên cứu “ Hiệu quả nuôi tôm ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang,

tỉnh TT-Huế” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Kết quả nghiên cứu là là cơ sở

khoa học, là căn cứ để dự báo xu hướng phát triển kinh tế- xã hội của cộng đồng dân

cư vùng ven đầm phá xã Phú Xuân. Đề tài đã xuất phát từ thực tế khách quan để đưa

ra định hướng và hệ thống giải pháp có tính khả thi, vừa mang tính kinh tế, vừa mang

tính xã hội nhân văn sâu sắc. Tất cả các giải pháp đều nhằm mục đích làm cho dân cư

xã Phú Xuân, từ trước đến nay vốn là khu vực nghèo nhất, trở thành khu vực năng

động, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội. Thực hiện mục đích dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà dân tộc ta đang dướng tới.

2. KIẾN NGHỊ

Từ những kết quả đạt được và những tiềm năng lợi thế của địa phương, nhằm

thúc đẩy sự phát triển ngành NTTS thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thị

trấn, đề tài xin đưa ra một số kiến nghị sau:

2.1. Về phía Nhà nước:

- Cần có sự nghiên cứu toàn diện, tổng hợp phát triển nguồn lợi tự nhiên về tất

cả mọi mặt: kinh tế, xã hội, kỹ thuật, môi trường sinh thái. Từ đó đề xuất, hoạch định

những chính sách phù hợp để phát triển bền vững hệ sinh thái đầm phá nơi đây. Tiếp

tục thực hiện chương trình phát triển NTTS, đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho các

hộ nuôi tôm trên địa bàn.

- Cần tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng hơn, ít gây phiền hà cho nhân dân

trong vấn đề vay vốn, đặc biệt cho vay với mức vốn lớn để họ có cơ hội đầu tư vào

việc xây dựng ao hồ kiên cố.

2.2. Về phía chính quyền địa phương:

- Xã Phú Xuân hiện nay còn rất nghèo, qua các năm trở lại đây do nuôi tôm thua lỗ

quá lớn, hiện đang nợ các ngân hàng trên 40 tỷ đồng, nhưng hiện nay người dân không có

khả năng thanh toán, mặt khác hiện nay vốn tái đầu tư cũng không có nên mặt dù đã vào

mùa vụ song tỉ lệ người tham gia nuôi tôm rất ít, khoảng 30%, song thả nuôi cũng chỉ nuôi

quảng canh, số còn lại đang tìm vốn, nhưng khả năng là rất thấp. Vì vậy kính đề nghị quý

59

cấp xem xét cho xã Phú Xuân tiếp tục được đưa vào danh sách xã đặc biệt khó khăn vùng

Bãi ngang ven biển và đầm phá giai đoạn 2011-2015.

- Cần có sự đầu tư vốn và kỹ thuật đối với trung tâm sản xuất giống của địa

phương nhằm cung cấp đủ lượng tôm giống sạch bệnh, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cho

các hộ nuôi.

- Nâng cao hơn nữa chất lượng các lớp tập huấn kỹ thuật, đảm bảo tính kịp thời;

cần có sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân.

- Tích cực đầu tư hệ thống thủy lợi nhằm chủ động hơn nữa việc cung cấp

nguồn nước cho các ao nuôi tôm.

- Thúc đẩy sự liên kết giữa cơ sở sản xuất chế biến với người nuôi tôm, tránh

việc thu mua qua trung gian, giúp tạo ra thu nhập cao hơn cho người dân.

2.3. Về phía các hộ nuôi:

- Cần lựa chọn hình thức nuôi phù hợp khả năng, điều kiện của gia đình và đặc

điểm của địa phương.

- Tăng cường nâng cao chất lượng lao động có trình độ, có kỹ thuật phục vụ tốt

cho công tác nuôi trồng.

- Tuân thủ lịch thời vụ và các biện pháp kỹ thuật được khuyến cáo

- Chú ý trong công tác chăm sóc nhằm phát hiện và xử lý kịp thời dịch bệnh xảy ra.

- Cần chú trọng công tác xử lý ao, tạo môi trường tốt cho tôm phát triển. Chú

trọng công tác quản lý chất thải trong ao nuôi tôm để hạn chế ô nhiễm nguồn nước, lây

lan dịch bệnh, ảnh hưởng đến hệ sinh thái tự nhiên và sinh hoạt của dân cư quanh đầm.

- Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản, để hạn chế ô

nhiễm môi trường và hạn chế suy giảm tài nguyên.

60

MỤC LỤC

PHẦN I: GIỚI THIỆU..................................................................................................1

1. ĐẶT VẤN ĐỀ .........................................................................................................1

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU....................................................................................3

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...........................................................................3

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.......................................................................................3

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU........................................................................4

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI TÔM ..........4

1.1. Lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế .......................................................................4

1.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế .......................................................................4

1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế ......................................................................6

1.1.3. Sự cần thiết xác định hiệu quả kinh tế ..........................................................7

1.2. Đặc điểm kinh tế- kĩ thuật của ngành nuôi tôm....................................................8

1.2.1. Đặc điểm sinh vật học của tôm ......................................................................8

1.2.2 Yêu cầu kỹ thuật cơ bản trong nuôi tôm ......................................................10

1.3.1. Nuôi tôm quảng canh ...................................................................................12

1.3.2. Nuôi quảng canh cải tiến..............................................................................13

1.3.3. Nuôi bán thâm canh .....................................................................................13

1.3.4. Nuôi thâm canh hay nuôi công nghiệp.........................................................13

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế nuôi tôm .....................................14

1.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế .......................................................15

1.6. Tình hình nuôi tôm ở việt nam và ở tỉnh TTH ...................................................16

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NUÔI TÔM CỦA XÃ PHÚ XUÂN...................20

2.1. Tình hình cơ bản của xã Phú Xuân.....................................................................20

2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên ........................................................................20

2.1.1.1. Vị trí-địa lý ............................................................................................20

2.1.1.2. Địa hình .................................................................................................20

2.1.1.3. Khí hậu-thủy văn ...................................................................................20

2.1.2. Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội .............................................................22

2.1.2.1. Tình hình dân số và lao động ở xã Phú Xuân giai đoạn 2009 – 2011...22

2.1.2.2. Tình hình sử dụng đất đai......................................................................23

2.1.2.3. Đặc điểm xã hội.....................................................................................24

2.2. Khái quát tình hình nuôi tôm của xã Phú Xuân giai đoạn 2009 – 2011.............27

2.3. Tình hình nuôi và tiêu thụ tôm của các hộ điều tra trong năm 2011 ..................29

2.3.1.Một số thông tin cơ bản về chủ hộ điều tra...................................................29

2.3.2 Quy mô, cơ cấu diện tích nuôi tôm của các hộ điều tra ................................31

2.3.3. Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra (tính đầu tư hiện vật và giá trị) ....32

2.3.3.1. Tình hình đầu tư ban đầu của các hộ điều tra........................................32

2.3.3.2. Tình hình đầu tư và chi phí nuôi tôm của các hộ nuôi năm 2011 ........35

2.3.4. Kết quả và hiệu quả nuôi tôm của các hộ điều tra .......................................39

2.3.4.1. Kết quả nuôi tôm của các hộ điều tra trên địa bàn xã Phú Xuân. .................39

2.3.4.2. Hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang. ......................41

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động nuôi tôm ở xã

Phú Xuân....................................................................................................................43

2.4.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất ......................................................43

2.4.1.1. Ảnh hưởng của chi phí thức ăn đến năng suất ......................................43

2.4.1.2. Ảnh hưởng của chi phí giống (mật độ nuôi) đến năng suất tôm ..........44

2.4.1.3. Ảnh hưởng của chi phí phòng bệnh đến năng suất nuôi tôm ...............45

2.4.1.4. Ảnh hưởng của cải tạo ao đến năng suất ..............................................46

2.4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi tôm ..........................................47

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU

QUẢ NUÔI TÔM Ở XÃ PHÚ XUÂN, HUYỆN PHÚ VANG.............................49

3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển.................................................................49

3.1.1. Phương hướng phát triển nuôi tôm ..............................................................49

3.1.2. Những mục tiêu phát triển nuôi tôm trong thời gian tới ..............................51

3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân.................52

3.2.1. Những giải pháp mang tính chất vĩ mô........................................................52

3.2.1.1. Tiếp tục phát triển và nâng cao cơ sở hạ tầng – vật chất kỹ thuật ở nông thôn...52

3.2.1.2. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường

vùng đầm phá .....................................................................................................53

3.2.1.3. Thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế xã hội ở nông thôn .............54

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các hộ nuôi............................................................56

3.2.2.1. Về thức ăn..............................................................................................56

3.2.2.2. Về ao nuôi và xử lý ...............................................................................56

3.2.2.3 Thị trường tiêu thụ..................................................................................57

3.2.2.4 Lao động chăm sóc.................................................................................57

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................58

1. KẾT LUẬN............................................................................................................58

2. KIẾN NGHỊ ...........................................................................................................59

2.1. Về phía Nhà nước: ..........................................................................................59

2.2. Về phía chính quyền địa phương: ...................................................................59

2.3. Về phía các hộ nuôi:........................................................................................60

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tình hình nuôi trồng thủy sản ở nước ta giai đoạn (2010-2011).....................17

Bảng 2: Tình hình nuôi tôm ở TT-Huế qua 3 năm (2009-2011)...................................19

Bảng3: Tình hình dân số và lao động xã Phú Xuân ......................................................22

Bảng 4:Tình hình sử dụng đất đai của xã Phú Xuân .....................................................24

Bảng 5: Tình hình kinh tế xã hội của xã Phú Xuân qua hai năm (2010-2011) .............25

Bảng 6: Diện tích , năng suất, sản lượng nuôi và đánh bắt tôm ở xã Phú Xuân giai

đoạn (2009 – 2011)........................................................................................................28

Bảng7: Một số thông tin cơ bản về chủ hộ điều tra.......................................................31

Bảng 8 : Tình hình sử dụng đất đai của các hộ điều tra ................................................32

Bảng 9: Tình hình đầu tư ban đầu của các hộ điều tra năm 2011 (bình quân trên ha)..34

Bảng 10: Tình hình đầu tư nuôi tôm của các hộ điều tra năm 2011( bình quân/ha) .....36

Bảng 11 : Chi phí sản xuất và kết cấu chi phí sản xuất của các hộ điều tra 2011(bình

quân/ha) .........................................................................................................................38

Bảng 12: Một số chỉ tiêu kết quả nuôi tôm của các hộ điều tra năm 2011. .................41

Bảng 13: Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở xã Phú Xuân, huyện Phú Vang

năm 2011 .......................................................................................................................42

Bảng 14: Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả nuôi tôm của các hộ điều tra ................43

Bảng 15: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nuôi tôm của các hộ ..........................47