ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LÊ THỊ VI

Tên đề tài :

“THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ

BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI

TRANG TRẠI NGUYỄN XUÂN DŨNG, XÃ KHÁNH THƯỢNG, HUYỆN

BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Chuyên ngành: Thú y

Khoa:

Chăn nuôi Thú y

Khóa học:

2014 - 2018

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LÊ THỊ VI

Tên đề tài:

“THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ

BỆNH CHO ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI

TRANG TRẠI NGUYỄN XUÂN DŨNG, XÃ KHÁNH THƯỢNG, HUYỆN

BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy Thú y 46 TY N02 Chăn nuôi Thú y 2014 - 2018

Chuyên ngành: Lớp: Khoa: Khóa học: Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Mạnh Cường

Thái Nguyên, 2018

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập lý thuyết tại trường và thực tập tại cơ sở,

nay tôi đã hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp. Để hoàn thành được bản khoá

luận này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, sự

giúp đỡ của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, khoa Chăn nuôi Thú y

và trang trại Nguyễn Xuân Dũng, Ba Vì, Hà Nội. Đồng thời, tôi cũng nhận

được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, sự giúp đỡ, cổ vũ động

viên của người thân trong gia đình. Để đáp lại tình cảm đó, qua đây, tôi xin

bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo

điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết, tôi xin chân thành

cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y đã tạo điều kiện giúp đỡ

em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn

tận tình của thầy giáo hướng dẫn Ths.Nguyễn Mạnh Cường đã trực tiếp

hướng dẫn tôi thực hiện thành công khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, công nhân tại trang trại Nguyễn Xuân

Dũng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình

thực hiện đề tài.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè đã luôn

ủng hộ, động viên, giúp đỡtôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2018

Sinh viên

Lê Thị Vi

ii

Commented [1]:

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1 . Khẩu phần ăn của lợn mẹ trước và sau khi đẻ .............................. 37

Bảng 3.2. Lịch sát trùng trại lợn nái ............................................................. 44

Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh bằng vắc xin của trại. ........................................ 45

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm ................................... 53

Bảng 4.2: Số lợn nái và lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng ................... 54

Bảng 4.3. Số lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng tại trại .. 55

Bảng 4.4. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 56

Bảng 4.5. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại .......... 57

Bảng 4.6. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21

ngày tuổi nuôi tại trại ................................................................................... 59

Bảng 4.7: Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái tại trại .................................. 60

Bảng 4.8: Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái .................................................. 61

Bảng 4.9 Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

nuôi tại trại ................................................................................................... 62

Bảng 4.10. Kết quả điều trị bệnh cho lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi .......... 63

Bảng 4.11. Kết quả thực hiện những công việc khác trong ........................... 64

thời gian thực tập tại cơ sở ........................................................................... 64

iii

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

∑ : Tổng

CP : Charoen Pokphand

cs : Cộng sự

g : Gam

Hb : Hemoglobin

Nxb : Nhà xuất bản

P : Trọng lượng

PED : Porcine Epidemic Diarrhoea

STT : Số thứ tự

TT : Thể trọng

VTM : Vitamin

iv

MỤC LỤC

Trang

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................. i

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. ii

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT .............................................. iii

Phần 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1

1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................... 1

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài ................................................................ 2

Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................. 3

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập .......................................................................... 3

2.2. Tổng quan tài liệu .................................................................................... 8

2.2.1. Cơ sở khoa học ..................................................................................... 8

2.2.1.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ .................................... 8

Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 35

3.1. Đối tượng .............................................................................................. 35

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................. 35

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện .................................................. 35

Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.......................................................... 53

4.2.Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn trong 6 tháng tại trạng

trại ................................................................................................................ 54

4.2.1. Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái đẻ, nuôi con ............ 54

4.2.2. Kết qủa thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con ............................... 55

4.3.2 Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi ............................ 57

4.4 Kết quả phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn tại trại ............................. 58

4.6.2 Kết quả điều trị bệnh cho lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi .................... 63

4.7. Kết quả thực hiện những công việc khác trong thời gian thực tập tại cơ sở .. 64

Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .............................................................. 66

5.1. Kết luận ................................................................................................. 66

v

5.2. Đề nghị .................................................................................................. 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 68

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP

1

Phần 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây cùng với xu hướng phát triển chung của nền

kinh tế, ngành chăn nuôi thú y ở nước ta cũng đang từng bước phát triển

nhằm đem lại nhiều sản phẩm có chất lượng cho xã hội và đóng một vai trò

quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.

Ngành chăn nuôi thú y nói chung, ngành chăn nuôi lợn nói riêng là một

nghề có truyền thống lâu đời và phổ biến của nhân dân ta. Ngành chăn nuôi

lợn đã và đang phát triển cả về số lượng, chất lượng đàn lợn cũng như cơ sở

vật chất phục vụ chăn nuôi, tất cả vì mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm

cho nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước cũng như trong xuất

khẩu.Tuy nhiên, với số lượng đàn nuôi ngày càng lớn, mật độ lợn trong

chuồng nuôi ngày càng đông cộng với ảnh hưởng liên tục từ các yếu tố khác

như: thời tiết, khí hậu, nguồn nước, không khí... nên vấn đề dịch bệnh có

những biến đổi khó lường, đặc biệt quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng ở giai

đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển và

sinh trưởng của lợn sau này. Biện pháp hiệu quả nhất chính là thực hiện vệ

sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng, cùng với việc sử dụng vắc xin phòng bệnh và sử

dụng các loại kháng sinh để điều trị bệnh một cách kịp thời và hợp lý để đạt

hiệu quả kinh tế cao.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban nhủ nhiệm

khoa, giáo viên hướng dẫn và cơ sở thực tập,tôi tiến hành thực hiện đề tài :

“Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho đàn lợn

lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trang trại Nguyễn Xuân Dũng, xã

Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.

2

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài

1.2.1. Mục đích

Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Nguyễn Xuân Dũng, huyện

Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho đàn lợn con nuôi tại trại.

Xác định tình hình nhiễm bệnh, cách phòng trị bệnh cho lợn con nuôi tại trại.

1.2.2. Yêu cầu

Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trang trại Nguyễn Xuân Dũng,

huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Áp dụng được các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn con nuôi

tại trại đạt hiệu quả cao.

Xác định được tình hình nhiễm bệnh, biết cách phòng trị bệnh cho lợn

con nuôi tại trại.

3

Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Trang trại được xây dựng trên địa bàn xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì,

Hà Nội trên một quả đồi thuộc thôn Hương Canh với diện tích gần 5ha.

Xã Khánh Thượng là một xã miền núi nằm ở sườn Tây núi Ba Vì, với

diện tích tự nhiên 2.882,43ha. Cách trung tâm huyện Ba Vì trên 35km, cách

trung tâm thành phố Hà Nội 82km.

Xã có địa bàn giáp gianh với 2 tỉnh (phía Đông Nam giáp tỉnh Hoà Bình,

phía Tây cách con sông Đà là tỉnh Phú Thọ).

2.1.1.2. Điều kiện khí hậu

Huyện Ba Vì nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, chịu ảnh

hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do đó, trại lợn Nguyễn Xuân Dũng

cũng chịu ảnh hưởng chung của khí hậu vùng, nhiệt độ thay đổi theo mùa rõ

rệt. Mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 8), mùa đông lạnh, khô

(từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau). Nhiệt độ trung bình năm khoảng

23,40C.Lượng mưa trung bình năm 2.500mm, phân bố không đều trong năm,

tập trung nhiều vào tháng7,tháng 8. Độ ẩm không khí 86,1%.Mùa đông có gió

Bắc với tần suất >40%. Mùa Hạ có gió Đông Nam với tần suất 25% và hướng

Tây Nam. Với điều kiện khí hậu như vậy, tương đối thuận lợi cho nghành

chăn nuôi phát triển

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Trang trại của ông Nguyễn Xuân Dũng được xây dựng năm 2014, là

trang trại gia công của Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam với quy mô

2000 lợn bố mẹ.

4

Có trục đường giao thông Sơn Tây - Chẹ - Hợp Thịnh - Kỳ Sơn - Hoà

Bình đi qua. Điều kiện địa lý của xã rất thuận lợi cho việc giao thông, vận

chuyển thức ăn cũng như việc buôn bán, vận chuyển hàng hóa của trại

2.1.3. Cơ cấu tổ chức của cơ sở thực tập

2.1.3.1. Qúa trình thành lập

Trại lợn ông Nguyên Xuân Dũng nằm trên địa phận, xã Khánh Thượng,

huyện Ba Vì, tỉnh Hà Nội. Là trại lợn gia công của Công ty Chăn nuôi CP

Việt Nam, hoạt động theo phương thức chủ trại xây dựng cơ sở vật chất, thuê

công nhân, công ty đầu tư giống lợn, thức ăn, thuốc thú y và cán bộ kỹ thuật.

Hiện nay, trang trại do ông Nguyễn Xuân Dũng làm chủ, cán bộ kỹ thuật của

Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam chịu trách nhiệm giám sát mọi hoạt động

của trang trại.

2.1.3.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại

Cơ cấu tổ chúc trại gồm có:

- Chủ trại: 01 người.

- Quản lý trại: 01 người

- Kỹ sư chính của công ty: 02 người

- Tổ trưởng (1 chuồng đang mang thai, 1 chuồng đẻ): 02 người.

- Công nhân: 14 người.

- Cấp dưỡng : 2 người

- Sinh viên thực tập : 7 người

Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm 2 tổ khác nhau là: tổ

chuồng bầu và tổ chuồng đẻ. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách

nghiêm túc, đúng quy định của trại.

2.1.3.3. Cơ sở vật chất của nơi thực tập

Trại mới được xây dựng nên cơ sở vật chất và hạ tầng đều được quan

tâm và chú trọng.

5

* Về cơ sở vật chất:

Có đầy đủ các thiết bị, máy móc để phục vụ cho công nhân và sinh viên

sinh hoạt hàng ngày như: máy giặt, tắm nóng lạnh, tivi, tủ lạnh, quạt,...

Những vật dụng cá nhân như : kem đánh răng, xà phòng tắm, dầu gội

đầu cũng được trại chuẩn bị.

Trại còn đầu tư mua bàn chơi bi a, cầu lông để công nhân giải trí sau giờ

làm việc.

Cơ sở vật chất trong chuồng trại chăn nuôi được trại chú trọng đầu tư với

đầy đủ các trang thiết bị cần thiết.

- Trong các chuồng đều có các cũi sắt (đối với chuồng lợn có chửa) và

giường nằm (đối với chuồng đẻ) được lắp đặt theo dãy.

- Có hệ thống quạt gió, dàn mát, điện sáng, vòi uống nước cho lợn tự động.

- Có hệ thống đèn điện sưởi ấm cho lợn con vào mùa đông.

- Ngoài ra, trại còn có một máy phát điện công suất lớn đủ cung cấp điện

cho cả trại sinh hoạt và hệ thống chuồng nuôi những khi mất điện.

* Về cơ sở hạ tầng:

Trại được xây dựng rất khoa học và hiện đại. Trước cổng có hố sát trùng

bằng vôi, có vòi phun sát trùng cho phương tiện ra vào trại. Trại được xây

dựng gồm các khu riêng biệt: khu nhà ở, sinh hoạt của công nhân, sinh viên

và khu chuồng nuôi.

Khu nhà ở rộng rãi có đầy đủ nhà tắm, nhà vệ sinh tiện nghi. Khu nhà

dành cho quản lý trại có phòng khách để đón tiếp khách. Tất cả các phòng ở

của công nhân và kỹ sư đều được xây dựng khang trang tiện nghi.

Khu nhà ăn cũng được tách biệt có nhà ăn ca (buổi trưa) và nhà ăn chung

(buổi tối).

Khu nhà bếp rộng rãi và sạch sẽ.

6

Trước khu chuồng nuôi lợn của trại là dãy nhà gồm 3 phòng sát trùng tự

động: phòng sát trùng nam, phòng sát trùng nữ, phòng sát trùng kỹ sư. Tất cả

mọi người khi vào chuồng nuôi đều nhất thiết phải mặc quần áo ngắn và đi

qua phòng sát trùng tự động. Bên trái khu sát trùng là kho chứa thức ăn, bên

phải là nhà ăn trưa cho công nhân và kỹ sư trại.

- Trại được xây dựng trên quả đồi khoảng 5ha với 6 dãy chuồng lớn chạy

dài lợp mái tôn. Mỗi 1 dãy lớn lại được chia làm 2 dãy chuồng nhỏ.

Khu chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn trên một khu vực cao, dễ thoát

nước và được bố trí tách biệt với khu sinh hoạt gồm: 6 chuồng đẻ, 2 chuồng

lợn có chửa, 1 chuồng lợn đực và 2 chuồng cách ly. Chuồng nuôi được xây

dựng theo hướng Đông - Tây, Nam - Bắc đảm bảo thoáng mát về mùa hè và

ấm áp về mùa đông. Chuồng nuôi xây dựng theo kiểu 2 mái gồm 6 dãy

chuồng chạy dài. Trong đó có 3 dãy chuồng đẻ, mỗi dãy được tách ra làm 2

chuồng nhỏ với 58 ô chuồng sàn. Chuồng lợn có chửa gồm 2 chuồng với kiểu

chuồng cũi sắt. Các chuồng nuôi đều được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng và

hệ thống vòi uống nước tự động ở mỗi ô chuồng. Phía đầu chuồng là hệ thống

giàn mát, cuối chuồng có quạt thông gió. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp

kính, mỗi cửa sổ có diện tích 1,5m², cách nền 1,2m, mỗi cửa sổ cách nhau

40cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng nhựa. Mùa đông có hệ

thống làm ấm bằng đèn hồng ngoại.

Phòng pha tinh của khu chuồng nuôi được trang bị các dụng cụ hiện đại

như: Máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các

dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp tiệt trùng dụng cụ và một số thiết bị khác.

Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều

được đổ bê tông và có các hố sát trùng.

Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước uống

cho lợn được cấp từ một bể lớn, xây dựng ở đầu chuồng lợn nái đẻ 1A và

7

chuồng lợn có chửa 2. Nước tắm, nước xả gầm, nước phục vụ cho công tác

khác được bố trí từ bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa ở

giữa các chuồng.

2.1.4. Đánh giá chung

2.1.4.1. Thuận lợi

Được sự quan tâm, tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn

của UBND xã Khánh Thượng, Trạm Thú y huyện Ba Vì.

Được Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp về con

giống, thức ăn và thuốc thú y có chất lượng tốt.

Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: cách xa khu dân cư, thuận tiện đường

giao thông.

Chuồng trại được trang bị bằng các thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ

thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi.

Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn

quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.

Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn vững vàng; đội ngũ công

nhân rất nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công

việc. Do đó đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.

2.1.4.2. Khó khăn

Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu về số lượng, do đó ảnh hưởng

đến tiến độ công việc.

Trang thiết bị, vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu, chưa đáp ứng được

nhu cầu sản xuất.

Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch bệnh

khó kiểm soát, gây khó khăn cho chăn nuôi. Những khó khăn trên đòi hỏi trại

phải đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho

đàn lợn tại trại

8

2.2. Tổng quan tài liệu

2.2.1. Cơ sở khoa học

2.2.1.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ

* Quy trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [9], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ

phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn

nái ăn thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó

hoặc ép thai chết ngạt.

Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể

của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có

sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, trước đẻ 2 - 3

ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Với những nái có sức khỏe yếu thì không giảm

lượng thức ăn mà giảm dung tích thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các

loại thức ăn dễ tiêu hóa.

Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục

của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý.

Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc

không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không

cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau

khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ

đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung

tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái.

- Quy trình chăm sóc

Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến

năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Chuồng trại phải được vệ sinh

sạch sẽ. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa

vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con

9

và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng.

Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái

vào đẻ. Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm trong

những ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ,

lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn

thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy

cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi

khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, cho lợn nái di chuyển nhẹ

nhàng từ chuồng bầu sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới.

Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan

trọng là việc chuẩn bị ô úm cho lợn con. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con,

nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu

mới sinh lợn con còn yếu ớt, lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa

hồi phục. Ô úm có thể giúp khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc

biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện

thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con

lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con.

Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân

nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sát nhau, sốt

sữa hoặc nhiễm trùng... để có biện pháp xử lý kịp thời.

2.2.1.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con

* Quy trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [9], thức ăn cho lợn nái nuôi con

phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó

là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ,

cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn

bổ sung đạm động vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin... Không cho

10

lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn

hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo

đủ protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu

chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100 kcal, protein 15%, canxi từ 0,9

- 1,0%, photpho 0,7%.

Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và

ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ,

chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng

cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [9], trong quá trình nuôi

con, lợn nái được cho ăn như sau:

- Đối với lợn nái ngoại

+ Ngày cắn ổ đẻ: Cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg)

hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do.

+ Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn

từ 1 - 2 - 3kg tương ứng.

+ Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4kg thức ăn hỗn

hợp/nái/ngày.

+ Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức

ăn/nái/ngày là 2kg + (số con x 0,35kg/con).

+ Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều).

+ Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg

thức ăn/ngày.

+ Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn tinh

(nếu có rau xanh).

+ Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%

+ Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước.

- Đối với lợn nái nội

11

+ Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/1 ngày đêm

Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100kg, mức ăn trong 1 ngày đêm

được tính như sau:

Thức ăn tinh là 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg).

Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị.

Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày

đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau:

Thức ăn tinh là 1,4 kg + (số con theo mẹ x 0,18 kg).

Thức ăn thô xanh: 0,4 đơn vị.

- Quy trình chăm sóc

Theo Trần Văn Phùng và cs, (2004) [15], vận động tắm nắng là điều

kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh hồi phục sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa

của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn

nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian

vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong

chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ,

không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của

thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin.

Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ,

không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại,

máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con

và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20°C,

độ ẩm 70 - 75%.

2.2.1.3. Đặc điểm sinh lý của lợn con từ sơ sinh tới 21 ngày tuổi

* Đặc điểm về sinh trưởng, phát triển của lợn con

Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia súc mẹ

mang thai được chăm sóc chu đáo, bào thai sẽ phát triển tốt sinh con khỏe mạnh.

12

Theo Trần Văn Phùng và cs., (2004) [9], so với khối lượng sơ sinh thì

khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp

4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần,

lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần.

Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều

qua các giai đoạn, nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Có sự giảm này

là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và

hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm

sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của

lợn con. Chúng ta hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách cho ăn sớm. Do lợn

con sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng mạnh.

Ví dụ: Lợn con sau 3 tuần tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 - 14g

protein/kg khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích lũy được

0,3 - 0,4g protein/kg khối lượng cơ thể.

Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng

nghĩa là tiêu tốn năng lượng ít hơn lợn trưởng thành. Vì vậy, cơ thể của lợn

con chủ yếu là nạc, mà để sản xuất ra 1kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để

tạo ra 1kg mỡ.

* Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa

Khối lượng bộ máy tiêu hóa tăng lên từ 10 - 15 lần, chiều dài ruột non

tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần, chiều dài

ruột già tăng lên từ 40 - 50 lần. Lúc đầu trọng lượng dạ dày chỉ là 6 - 8g và

chứa được 35 - 50g sữa nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và đến lúc lợn

con đạt 60 ngày tuổi đã nặng 150g và chứa được 700 - 1000g sữa (Nguyễn

Quang Linh, 2005) [8].

Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn không có axit HCl

trong dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên.

13

Nhờ vậy nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của

lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà

chỉ có khả năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và

globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu.

Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày không

còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có tác

dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn

thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung

thức ăn thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do

sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con

trưởng thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày).

Lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng

axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng

này gọi là hypohydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ

dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa protein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác

dụng kích hoạt enzym pepsinnogen không hoạt động thành enzym pepsin hoạt

động và enzym này mới có khả năng tiêu hóa protein (Hoàng Toàn Thắng và

cs., 2006) [12].

Enzyme trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn

trước 20 ngày tuổi không thấy khả năng tiêu hóa thực tế của dịch vị có

enzym, sự tiêu hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các

loại thức ăn khác nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa

dịch vị thu được khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa

nhanh hơn dịch vị thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung

sớm thức ăn và cai sữa sớm cho lợn con.

Theo Trần Văn Phùng và cs., (2004) [9], vì thiếu HCl tự do nên vi sinh

vật có điều kiện dễ dàng phát triển gây bệnh đường tiêu hóa, điển hình là bệnh

14

lợn con. Do đó để hạn chế bệnh đường tiêu hóa có thể kích thích vách tế bào

dạ dày tiết ra HCl tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con.

Nếu tập ăn sớm cho lợn con vào lúc 5 - 7 ngày tuổi thì HCl tự do có thể tiết ra

từ 14 ngày tuổi.

Thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh

ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi trùng gây bệnh, khi lợn con

sinh ra hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển đầy đủ số lượng vi khuẩn có

lợi, chưa có khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh

đường tiêu hóa. Vi khuẩn gây bệnh phó thương hàn, vi khuẩn gây thối rữa ở

lợn con mới sinh.

* Đặc điểm cơ năng điều tiết thân nhiệt

Theo nhóm tác giả Hội chăn nuôi Việt Nam, (2000) [6] ở lợn con sơ

sinh, tỷ lệ nước trong cơ thể chiếm 82%. Vì có nhiều nước, nhiệt độ cơ thể

giảm nhanh, 30 phút sau khi sinh lượng nước giảm 1,5 - 2% kèm theo giảm

thân nhiệt 5 - 100C, lợn con bị lạnh, các chức năng hoạt động bị rối loạn dẫn

đến dễ bị chết non.

Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh vì vỏ đại não

của lợn con chưa phát triển hoàn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng

lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm).

Ở lợn con, khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh

dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần

đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả về chất và lượng. Đây là sự mâu

thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và khả năng cung cấp sữa của lợn

mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn con thì lợn thiếu dinh dưỡng

dẫn đến sức đề kháng yếu, lợn con gầy còm, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh tăng lên.

Vì vậy nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục tình trạng khủng

hoảng trong thời kỳ 3 tuần tuổi và giai đoạn sau cai sữa.

15

Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh nên

thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa cân bằng.

Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau

thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống

hoàn toàn mới, nếu chăm sóc không tốt rất dễ dẫn đến bị còi cọc và tỷ lệ chết

sẽ tăng cao.

Ngoài ra, lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng glycogen dự trữ

trong cơ thể lợn còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa, mặt khác diện

tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên lợn

con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn

thấp dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi.

Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí cao gây ra hiện tượng tăng

tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa

Đông đầu mùa Xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị toả nhiệt theo phương

thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện

thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, nhất là bệnh đường tiêu hoá.

* Đặc điểm về khả năng miễn dịch

Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất lạ

chủ yếu là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ

dàng, do chức năng của các tuyến phòng vệ chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng

enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình

tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, dẫn đến khả năng tiêu hoá kém, hấp thu

kém. Trong giai đoạn này các loại vi khuẩn như: Salmonella spp, E.coli…dễ

dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh.

Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng

thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho nên khả

16

năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng

kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ.

Theo Trần Văn Phùng và cs., (2004) [9], trong sữa đầu của lợn mẹ hàm

lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa

chiếm 18 - 19%, trong đó lượng - globulin chiếm số lượng khá lớn (30 -

35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng cho lợn nên sữa đầu có vai trò quan

trọng đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng -

globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử -

globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua

ruột non của lợn con rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu

có kháng men antitripsin làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy và nhờ

khoảng cách tế bào vách ruột của lợn con khá rộng. Cho nên 24 giờ sau khi

được bú sữa đầu, hàm lượng - globulin trong máu lợn con đạt tới

20,3mg/100ml máu. Sau 24 giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và

khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con hẹp dần, nên sự hấp thu -

globulin kém hơn, hàm lượng - globulin trong máu lợn con tăng lên chậm

hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn

trưởng thành có khoảng 65mg/100ml máu). Do đó lợn con cần được bú sữa đầu

càng sớm càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi

mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể. Do đó những lợn con không được bú

sữa đầu thường sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao.

* Hệ vi sinh vật đường ruột

Theo Nguyễn Như Thanh và cs., (2004) [10], hệ vi sinh vật đường ruột

gồm hai nhóm: nhóm vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn bắt buộc gồm: E.coli,

Salmonella, Shigella, Klesiella, Proteus… Trong nhóm vi khuẩn này, người

ta quan tâm nhiều nhất đến trực khuẩn E.coli. Đây là vi khuẩn phổ biến nhất

hành tinh, chúng có mặt ở mọi nơi và khi gặp điều kiện thuận lợi, các chủng

17

E.coli trở lên cường độc gây bệnh. Nhóm vi khuẩn vãng lai: chúng là bạn

đồng hành cùng với thức ăn, nước uống, vào hệ tiêu hoá gồm: Staphylococcus

spp, Streptococcus spp, Bacillus subtilis… Ngoài ra, trong đường tiêu hóa của

lợn con có các trực khuẩn yếm khí gây thối rữa: Clostridium perfringens,

Bacillus sporogenes, Bacillus fasobacterium, Bacillus puticfus.

Phần lớn thời gian sống của lợn là ở trong chuồng, do vậy chuồng trại có

ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của chúng. Chuồng trại xây dựng đúng kiểu,

đảm bảo các chỉ tiêu kỹ thuật, cao ráo, thoáng, độ thông khí tốt, kết hợp với

chăm sóc quản lý và vệ sinh chuồng trại tốt sẽ ảnh hưởng rất tốt đến khả năng

sinh trưởng và sức kháng bệnh của gia súc và ngược lại. Trong điều kiện khí

hậu nhiệt đới của nước ta, về mùa hè khí hậu nóng, ẩm, về mùa đông khí hậu

lạnh, khô nên yêu cầu chuồng nuôi gia súc luôn phải khô ráo, thoáng mát về

mùa hè, ấm áp về mùa đông. Do vậy trong xây dựng chuồng trại ngoài việc

đảm bảo các yếu tố kỹ thuật cần chú ý đến địa điểm xây dựng chuồng, hướng

chuồng, vật liệu xây dựng để dễ dàng khống chế các chỉ tiêu tiểu khí hậu

chuồng nuôi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn, chuồng khô,

thoáng, đủ ánh sáng thì tỷ lệ lợn con mắc hội chứng tiêu chảy thấp hơn so với

chuồng ẩm, tối..

Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần

thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả

năng chống đỡ bệnh tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vệ sinh

tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 32 - 340C đối

với lợn sơ sinh và 28 - 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không

thấm ướt, không thay đổi thức ăn đột ngột.

Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ, kín ấm áp vào mùa đông và đầu xuân là

điều kiện cần thiết phải thực hiện. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn

18

hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con

phân trắng, mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.

- Phòng bệnh bằng bổ sung sắt: ở lợn con, việc thiếu sắt dẫn đến thiếu

máu, làm giảm sức đề kháng cũng là nguyên nhân gây nên hội chứng tiêu

chảy khá cao. Lợn con một ngày tuổi sẽ được bấm nanh, bấm tai và tiêm sắt.

- Phòng bệnh bằng vắc xin: phòng bệnh bằng vắc xin là phương pháp

hữu hiệu nhất để ngăn ngừa bệnh đặc biệt là các bệnh mà nguyên nhân là vi

sinh vật. Vắc xin phòng bệnh tiêu chảy cho lợn đã được nghiên cứu khá lâu và

đã được sử dụng để phòng ngừa tiêu chảy nhằm tạo miễn dịch chủ động cho

đàn lợn chống lại bệnh, các loại vắc xin này đã và đang cho kết quả phòng

bệnh một cách khả quan, đạt được mục tiêu làm giảm tỷ lệ mắc bệnh. Một số

tác giả đã tập trung nghiên cứu chế tạo và sử dụng vắc xin phòng bệnh nhằm

kích thích cơ thể chủ động sản sinh kháng thể chống lại mầm bệnh.

- Nhu cầu về một số chất dinh dưỡng và chất khoáng

Nhu cầu protein: lợn con sinh trưởng phát triển nhanh, trong thời gian bú

sữa nguồn năng lượng được cung cấp chủ yếu từ phân giải đường và 1 phần

nhỏ protein. Nhưng protein chủ yếu là nguyên liệu cho sinh trưởng và phát

triển, do vậy nhu cầu về protein rất lớn. Như vậy, trong thức ăn tập ăn của lợn

con cần 20 - 22% protein thô.

Nhu cầu về lipit: trong thời kì bú sữa, nhu cầu về lipit rất thấp vì khả

năng tiêu hóa lipit rất thấp.

Nhu cầu về gluxit: thời kì từ sơ sinh đến cai sữa nguồn năng lượng do

gluxit cung cấp chiếm 70 - 80% do vậy nhu cầu về gluxit cũng rất lớn, ngoài

nguồn có từ sữa (chủ yếu là từ đường lactoza) lúc nhỏ, đến khi tập ăn, ngoài

nguồn từ sữa lợn con được cung cấp qua thức ăn tập ăn.

Nhu cầu về khoáng: khoáng chiếm 4 - 5% khối lượng cơ thể, có 3

nhóm khoáng:

19

Đa lượng: Ca, P, Na, Mn, Cl, Fe, S.

Vi lượng: Cu, Mo, Mg, Zn, Al, F.

Siêu vi lượng: acemic, bismus, thủy ngân.

Nhu cầu vitamin: vitamin là chất xúc tác sinh học tổng hợp, tham gia vào

một số men tiêu hóa phân giải các chất dinh dưỡng, tham gia cấu tạo màng tế

bào. Lượng vitamin vô cùng nhỏ, nhưng lại có tác dụng rất lớn cho sinh

trưởng, phát dục và sinh sản.

Nhu cầu về nước: nước chiếm 50 - 60% khối lượng cơ thể, trong máu

nước chiếm 80 - 95%. Cơ thể mất 10% nước sẽ gây rối loạn chức năng trao

đổi chất, nếu mất 20% lượng nước lợn con sẽ chết.

2.2.1.4. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên lợn nái.

* Bệnh viêm tử cung

Theo Nguyễn Văn Thanh và cs, (2016) [27], viêm tử cung là một hội

chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi đẻ. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị

tổn thương lớp niêm mạc. Từ đó gây ảnh hưởng sự tiết Prostagladin F2 và

làm xáo trộn chu kỳ động dục, làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh.

Nguyên nhân

Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [16], bệnh viêm tử cung xảy ra ở

những thời gian khác nhau nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau

khi đẻ 1 - 10 ngày.

Theo Nguyễn Văn Thanh và cs, (2016) [27], có nhiều nguyên nhân gây

viêm tử cung như: dinh dưỡng, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, chăm sóc và

quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi... Nhưng nguyên nhân chính luôn

có trong các trường hợp là do vi sinh vật, nguyên nhân khác làm giảm sức đề

kháng của cơ thể hoặc tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và phát triển

gây nên các triệu chứng.

20

Theo Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [17], nguyên nhân gây

ra bệnh viêm tử cung chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus

aureus), liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus

vulgais, Klebriella, dung huyết E.coli, còn có thể do trùng doi (Trecbomonas

fortus) và do nấm Canidda albicans.

Mặt khác, khi gia súc đẻ, nhất là trường hợp đẻ khó phải can thiệp,

niêm mạc tử cung bị xây sát và tạo các ổ viêm, mặt khác các bệnh truyền

nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, lao… thường gây viêm tử

cung, âm đạo.

Triệu chứng

Theo Nguyễn Văn Thanh (2004) [26], khi lợn nái bị viêm, các chỉ tiêu

lâm sàng như: Thân nhiệt, tần số hô hấp đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật:

sáng sốt nhẹ 39 - 39,5°C, chiều 40 - 41°C.

Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, đôi khi con vật cong lưng rặn.

Từ cơ quan sinh dục chảy ra hỗn dịch lẫn nhiều mạch tổ chức, mùi hôi

tanh, có màu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng dịch chảy ra nhiều hơn.

Theo Nguyễn Văn Thanh (2004) [26], tuỳ vào vị trí tác động của quá

trình viêm đối với tử cung của lợn nái, người ta chia thành ba thể viêm: Viêm

nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.

Hậu quả

Theo Trần Thị Dân (2006) [2], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới

một số hậu quả chính sau:

- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai.

Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co

thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có

thể bám chặt vào tử cung.

Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử

21

cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở

buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây

co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi

đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, hàm lượng

progesterone trong máu giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng

nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.

- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.

- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai

đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.

- Theo Trần Thị Dân (2006) [2], lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ

không có khả năng động dục trở lại.

- Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau

khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ

sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong

các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA (viêm tử cung, viêm vú và mất

sữa), từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung

kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.

Biện pháp phòng trị

- Phòng bệnh

Theo Nguyễn Tài Năng và cs, (2016) [22], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ

một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch

bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục

và bầu vú.

Theo Lê Văn Năm (2009) [21], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng

kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc.

Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ

sinh sạch sẽ.

22

Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để

nhiễm khuẩn dụng cụ.

Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực

tiếp hoặc lấy tinh.

Phòng bệnh truyền nhiễm Leptospirosis, Brucellosis…. bằng cách dùng

vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những

trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai.

- Điều trị

+ Điều trị cục bộ

Bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội

pha thuốc tím 0,1% hay nước muối sinh lý 0,9%, sau đó bơm hoặc đặt kháng

sinh như: penicillin 2 - 3 triệu UI; tetramycine hay sulfanilamid 2 - 5g hoặc

clorazol 4 - 6 viên vào tử cung để chống viêm.

+ Điều trị toàn thân

Tiêm thuốc hạ sốt analgin 2 - 3 ống/ngày

Tiêm kháng sinh

Phác đồ 1: Tiêm tetramycin tiêm bắp liều 10 - 15 mg/kg thể trọng, liên

tục 3 - 4 ngày. Kết hợp tiêm septotryl tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 1 ml/10 - 15

kg thể trọng/ngày. Liên tục 3 - 4 ngày.

Phác đồ 2: tylan + polysul: Tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 1 ml/5 - 10

kg thể trọng/ngày. Điều tri liên tục 3 - 4 ngày.

Tiêm thuốc giảm viêm: Hydrocortisone, dectancyl, prednisolone…

Tiêm thuốc trợ sức: Vitamin B1, C, B12. Lưu ý khi pha thuốc tiêm

vitamin C không dùng chung với kháng sinh peniciline, sulfamid và vitamin

B12...

Tiêm thuốc tạo sữa: Thyroxine ngày 1 - 2 ống, liên tiếp 2 - 3 ngày, chỉ

dùng khi nhiệt độ cơ thể đã hạ xuống bình thường.

23

* Bệnh viêm vú

Nguyên nhân

Trầy xước vú do sàn, nền chuồng nhám, vi trùng xâm nhập vào tuyến

sữa. Hai loài vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và

Streptococcus agalactiae… Ngoài ra còn các nguyên nhân gây viêm như số

con quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng

hoặc do kỹ thuật cạn sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm. Do vệ

sinh không đảm bảo, chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh. Do lợn mẹ sát

nhau, lợn con khi sinh ra không được bấm răng nanh ngay. Lợn mẹ ăn quá

nhiều thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao làm sữa tiết ra quá nhiều ứ đọng

lại trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển mạnh mẽ về số

lượng và độc lực (Nguyễn Như Pho, 2002) [24].

Triệu chứng

Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [28], viêm vú thường xuất hiện ở một vài

vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào

thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường

hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản

lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn

con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông,

gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, 2002) [20]. Vắt sữa ở những

vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất

hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu.

Hậu quả

Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có

nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con

24

bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và

trọng lượng cai sữa thấp.

Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó

chữa, lợn nái có thể chết.

Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh

hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.

Điều trị

Vtrekaxova (1985) [37], đã kết luận: Điều trị viêm vú trong thời kỳ cho

sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành

sớm và đạt kết quả. Xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm

sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của

phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược

lực học và dược độc học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.

Các nghiên cứu của Xobko, Gia Denko (1987) [38], chữa bệnh viêm vú

cho lợn nái hướng vào việc đưa ra phương pháp chữa kết hợp. Dùng Novocain

phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế

thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml

cho mỗi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thùy vú bệnh sâu 8 - 10cm. Dung dịch

novocain còn được bổ sung 100.000 - 200.000 đơn vị penicillin hay kháng sinh

khác. Đồng thời lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong

novocain này liều từ 400.000 - 600.000 UI, mỗi ngày 2 - 3 lần.

Nếu điều trị hợp lý lợn sẽ khỏi trong vòng 3-5 ngày.

Các loại kháng sinh thường dùng: Dufamox 15% LA, ampicillin,

cephalexin, gentamycin, norfloxacin... và có thể dùng corticoid để giảm viêm

kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta

có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú trong lúc đẻ.

25

* Lợn nái mất sữa sau khi đẻ

Nguyên nhân

Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [19], bệnh viêm tử

cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn

nái đang nuôi con.

Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [16], mất sữa sau khi đẻ là do kế phát

từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên

tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá

trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu

hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị

hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo.

Triệu chứng

Khi vắt các vú không thấy sữa chảy ra, vú bị teo lại, nếu viêm thì sưng

cứng... Lợn con kêu nhiều, gầy yếu.

Biện pháp phòng trị

- Phòng bệnh

Khẩu phần ăn phải đầy đủ dinh dưỡng. Sau khi đẻ nên cho ăn thức ăn

nhiều nước như rau lang, rau muống, bí đao... để tăng khả năng sản xuất sữa.

Sau khi đẻ phải thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1%, nước muối

0,9%. Nếu bị viêm tử cung hoặc viêm vú phải điều trị triệt để.

- Điều trị

Nếu do kế phát từ các bệnh thì điều trị bằng kháng sinh như: Dufamox

15% LA, oxytetramycin, amoxillin,…đồng thời tiến hành xoa bóp chườm ấm

bầu vú. Nếu mất sữa mà bầu vú bị teo lại, cần nhanh chóng ghép con, tiến

hành xoa bóp, chườm ấm bầu vú, tuy nhiên trường hợp này hiệu quả điều trị

không cao.

26

*Bệnh sát nhau

- Nguyên nhân

Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010) [29], sau khi đẻ tử

cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không

được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và

P. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều

thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức.

Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc

nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sót lại trong tử cung.

Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau.

* Triệu chứng

Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không hết là bị sát nhau.

Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 41°C trong

vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra màu

đục, lẫn máu.

* Điều trị

Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ

gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh

những tổn thương. Tiêm oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn

sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để

rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh

(2010) [29]

2.2.1.5.Một số bệnh thường gặp ở lợn con

* Tiêu chảy

Phạm Ngọc Thạch (1996) [11], cho biết tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng

của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh,

nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột

27

tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm

thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn.

Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù

(Archie, 2000) [1].

Theo Trần Đức Hạnh (2013) [5]:lợn con ở 1 số tỉnh phía bắc mắc tiêu

chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc tiêu chảy và

chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 - 40 ngày

( 30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày.

Nguyễn Chí Dũng (2013) [3] kết luận: Tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ

cao (12,1,2%) tỷ lệ mắc tiêu chảy cao (26,98 - 38,18%).

Nguyên nhân:

- Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay

đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ

thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích

nghi của cơ thể.

- Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [7], bệnh tiêu

chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella,... Trong đó

Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng

tiêu chảy.

- Theo Glawisschning và Bacher, (1992) [30], nguyên nhân gây bệnh

phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh

dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt.

- Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung.

- Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần.

- Bệnh tiêu chảy trên heo con E.coli có hể xảy ra ở bất kì độ tuổi theo mẹ

nào nhưng hường ở 2 thời kỳ cao điểm là 0-5 ngày tuổi và 7-14 ngày tuổi

(Nagy B., Fekete P.Z.S.,2005) [31]

28

Triệu chứng:

- Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng.

- Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa.

- Người lợn con bị bẩn do dính phân.

- Vú lợn mẹ dính phân lợn con.

* Viêm phổi

Tìm hiểu nguyên nhân lợn triệu chứng và kinh nghiệm chăm sóc ta phân

lập viêm phổi của lợn do đâu và nguyên nhân gì, kiểm tra lại hệ thống thức

ăn, cách vận hành: quạt, giàn mát, nhiệt độ, vệ sinh, độ đồng đều.... Nhằm đưa

ra biện pháp điều trị đúng bệnh, đúng thuốc, khắc phục kịp thời, tránh tình

trạng bệnh của lợn kéo dài làm nặng thêm đi đến nhờn thuốc khó điều trị.

Khống chế, cách ly khoanh vùng từ công nhân giữa các chuồng, dụng cụ

chăm sóc giữa các chuồng tránh lây lan bệnh trong trại và giữa các trại. Tìm

mọi biện pháp nâng cao sức đề kháng của lợn kích ăn cho lợn.

Nguyên nhân là do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra trên

lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp.

Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời tiết

thay đổi…, do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt chung

với con nhiễm bệnh.

* Viêm khớp

Nguyên nhân: Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus

suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây

ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống

rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi

chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến.

Triệu chứng: Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng

lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần

29

tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn

ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy

đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau (Nguyễn Ánh Tuyết, 2015) [39].

* Dịch tiêu chảy cấp (PED): Mọi loại lợn đều nhiễm bệnh

Qua khảo sát các ổ dịch tiêu chảy cấp, tỷ lệ bệnh và tỷ lệ chết xuất hiện

trên lợn con theo mẹ là rất cao (tương ứng là 93,94%). Hai tỷ lệ này giảm dần

theo lứa tuổi. Các yếu tố liên quan đến việc lan truyền dịch bệnh giữa các trại

phụ thuộc vào: khoảng cách giữa các trại lợn (trại càng gần có nguy cơ lây

bệnh càng cao), quy mô chăn nuôi (tỷ lệ nhiễm bệnh cao ở trại có quy mô

chăn nuôi nhỏ, dưới 50 lợn nái), vệ sinh chăn nuôi (thực hiện 2 tuần, một lần

có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn so với 1 tuần, một lần), và nguồn nước sử dụng

(tỷ lệ nhiễm bệnh cao ở trại có nguồn nước chưa qua xử lý). Triệu chứng lâm

sàng đặc trưng của dịch tiêu chảy cấp trên lợn là tiêu chảy phân lỏng (100%),

nôn mửa (90,33%), sau đó suy nhược, mất nước, chết nhanh (Nguyễn Tất

Toàn, Đỗ Tiến Duy, 2013) [14].

Theo điều tra bệnh tiêu chảy thành dịch ở lợn tại 6 tỉnh: Hưng Yên, Hải

Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hà Nội. Kết quả điều tra cho thấy, có tới

83,9% lợn mang virus PED trong 31 trại nghiên cứu (Nguyễn Văn Điệp và

cs., 2014) [4].

Nguyên nhân:

- Do 1 loại ARN virus sợi đơn thuộc họ Coronavirus gây ra. Với kích

thước thuộc loại khá lớn so với nhiều virus khác từ 27 đến 30 kb. Virus có 2

type chính, type 1 thường gây bệnh cho lợn sau cai sữa, type 2 gây bệnh cho

lợn con lợn mẹ và lợn hậu bị.

- Khi lợn khỏe mạnh tiếp xúc với các nguồn gây bệnh tiêu chảy cấp

(PED) như: lợn mang mầm bệnh, phân, tinh lợn, vật dụng chăn nuôi có mầm

30

bệnh, xe tải, con người, nguồn nước…virus sẽ từ các nguồn đó xâm nhập vào

cơ thể lợn chủ yếu thông qua đường tiêu hóa (VietDVM team, 2014) [40].

Triệu chứng:

+ Với lợn con: Tiêu chảy quá nhiều kết hợp với nôn làm cho những lợn

con này mất nước nặng, thân nhiệt giảm làm cho lợn lạnh, nằm chồng lên

nhau và nằm lên bụng lợn mẹ. Phân lợn con màu vàng nhạt chứa sữa chưa

tiêu hóa hết. Chúng sẽ chết trong vòng 3 - 4 ngày do mất nước. Khi chết, xác

gầy kèm lợn các triệu chứng như mắt lõm sâu.

Đồng thời, nếu mổ khám ta sẽ thấy các bệnh tích rất đặc trưng của bệnh

tiêu chảy cấp như:

- Thành ruột rất mỏng, trong suốt và có thể nhìn thấy chất chứa bên

trong do lớp lông nhung trên niêm mạc bị phá hủy và bào mòn.

- Dạ dày có chứa nhiều sữa bị đóng vón.

- Hạch màng treo ruột sưng to.

- Xuất hiện các tia tĩnh mạch sữa song song vơis tĩnh mạch màng treo ruột.

+ Với lợn lợn choai hay lợn nái, sức đề kháng cao hơn đồng thời hệ

thống lông rung trên niêm mạc ruột cũng khó bị phá hủy hơn nên tỷ lệ nhiễm

và tỷ lệ chết không cao như lợn con. Những lợn trong hệ tiêu hóa có rất nhiều

loại chất chứa (không chỉ có mỗi sữa như lợn con lợn mẹ) nên khi hệ thống

lông rung ruột bị phá hủy, thức ăn không được tiêu hóa triệt để, các chất chứa

trong ống tiêu hóa lên men làm cho phân tiêu chảy có màu xám, hay xám đen

giống như xi măng hoặc có màu vàng (chủ yếu lợn choai).

Đối với những lợn choai và lợn nái không chết, triệu chứng tiêu chảy sẽ

biến mất sau 3 đến 4 tuần và đàn lợn bắt đầu phục hồi. Một thời gian sau, lợn

nái hình thành miễn dịch và truyền sang sữa cho lợn con.

Tỷ lệ chết của lợn trưởng thành thấp nên không ảnh hưởng lớn đến tổng

đàn, nhưng ảnh hưởng lớn đến tình hình dịch bệnh do những lợn này mang

31

mầm bệnh làm lây lan cho lợn con, đặc biệt là lợn nái hậu bị sẽ được nhập

đàn để tiếp tục sinh sản. Mặt khác theo ghi nhận các đợt dịch ở Thái Lan của

Olanratmanee E. và cs., (2010) [32], PED ảnh hưởng xấu đến năng suất sinh

sản. Một khảo sát ở Trung Quốc trong các ổ dịch tiêu chảy cấp do PED, tỷ lệ

bệnh trên lợn con theo mẹ trong vòng 7 ngày lên đến 100% và tỷ lệ chết biến

động 80 - 100% (Sun R.Q. và cs., 2012) [33].

Thông thường:

- Khi trại bị nhiễm lần đầu, toàn bộ lợn trong trại sẽ nhiễm bệnh và

thường là rất nghiêm trọng.

- Sau 3 năm, ở những trại đã từng bị nhiễm bệnh, tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ

chết lại cao do những lợn sau 3 năm thường là lợn mới về trại (lợn thay thế

đàn) nên chưa có miễn dịch với mầm bệnh PED của trại đó.

2.2.2. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước

2.2.2.1. Nghiên cứu trong nước

- Bộ máy tiêu hóa ở lợn con phát triển nhanh, song khả năng chống đỡ

bệnh ở đường ruột và dạ dày còn yếu. Do đó, cần chú ý vệ sinh chuồng trại,

máng ăn, máng uống và áp dụng các biện pháp kỹ thuật phòng chống bệnh

đường tiêu hóa cao hơn.

- Khi lợn nái nuôi con bằng chuồng sàn thì lợn con ít và không ỉa chảy

phân trắng, còn lợn con theo mẹ nuôi chuồng nền thì tỷ lệ mắc hội chứng tiêu

chảy từ 40 - 45%.

Theo Trần Thị Dân (2008) [2], lợn con mới đẻ trong máu không có

globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ

sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 - 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 -

6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65mg/100ml máu. Các yếu tố miễn

dịch như bổ thể, bạch cầu… được tổng hợp còn ít, khả năng miễn dịch đặc

32

hiệu của lợn con kém. Vì vậy, cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để tăng khả

năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh.

- Các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi thất thường và

điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ

thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể

còn rất yếu.

- Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy điều kiện môi trường sống lạnh,

ẩm đã làm thay đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của lợn, biến đổi về

chức năng và hình thái của hệ tuần hoàn, hệ nội tiết, liên quan đến phản ứng

điều hòa nội mô. Trong những trường hợp như thế sức đề kháng của cơ thể

giảm đi là điều kiện để cho các vi khuẩn đường ruột tăng số lượng độc tính và

gây bệnh.

- Nhu cầu Fe trong máu rất cần thiết cho duy trì hemoglobin (Hb) và dự

trữ cho cơ thể phát triển. Ở lợn sơ sinh, trong 100ml máu có 10,9mg Hb, sau

10 ngày tuổi chỉ còn 4 - 5mg. Nếu lợn con chỉ nhận Fe qua sữa sẽ thiếu Fe

dẫn đến thiếu máu gây suy dinh dưỡng, ỉa phân trắng.

- Các yếu tố lạnh, ẩm ảnh hưởng rất lớn đến lợn sơ sinh, lợn con vài

ngày tuổi. Trong các yếu tố về tiểu khí hậu thì quan trọng nhất là nhiệt độ và

độ ẩm. Độ ẩm thích hợp cho lợn từ 75 - 85%. Vì thế việc làm khô và giữ ấm

chuồng là vô cùng quan trọng.

- Chuồng trại ẩm, lạnh tác động vào cơ thể lợn gây rối loạn thần kinh từ

đó gây rối loạn tiêu hóa.Tỷ lệ lợn con mắc hội chứng tiêu chảy thay đổi theo

sự biến đổi hàng tháng của nhiệt độ, độ ẩm trung bình, cụ thể là có sự tương

quan thuận với độ ẩm và tương quan nghịch với nhiệt độ không khí. Do đó,

để hạn chế tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy lợn con, thì ngoài các biện pháp về

dinh dưỡng, thú y, cần đảm bảo tiểu khí hậu chuồng nuôi thích hợp.

- Khi lợn bị tiêu chảy số loại vi khuẩn và tổng số vi khuẩn hiếu khí trong

1 gam phân tăng lên so với ở lợn không bị tiêu chảy. Khi phân lập tác giả thấy

33

rằng các vi khuẩn đóng vai trò quan trọng trong hội chứng tiêu chảy như:

E.coli, Salmonella và Streptococcus tăng lên trong khi Staphylococcus và

Bacillus subtilis giảm đi.

- Theo Nguyễn Trung Tiến và cs., ( 2015) [13] dịch tiêu chảy cấp tính

trên lợn (Porcine Epldemic Diarrhea - PED) là một bệnh truyền nhiễm cấp

tính nguy hiểm do một loại virus thuộc họ Coronaviridae gây ra. Dịch PED

xảy ra quanh năm nhưng thường phổ biến hơn vào mùa đông và trên 90%

ca bệnh xảy ra ở lợn con dưới 7 ngày tuổi. Trong nghiên cứu này 148 mẫu

bệnh phẩm là các mẫu phân và ruột của lợn nghi mắc bệnh PED thu thập

được từ 3 tỉnh là Quảng Trị, Thái Nguyên và Thái B́ nh từ năm 2013 - 2014

đã được chẩn đoán bằng phương pháp RT - PRC. Kết quả chẩn đoán cho

thấy 57/148 (38,51%) mẫu bệnh phẩm dương tính với virus PED. Kết quả

phân tích trình tự nucleotide và amino acid trên cơ sở giải trình tự một

phân gen S (spike gene) cho thấy các chủng virus PED thu thập được trong

nghiên cứu này có tỷ lệ tương đồng về nuleotide và amino acid rất cao khi

so sánh với các chủng virus PED tham chiếu khác trước đây của Việt Nam,

tỷ lệ tương đồng nucleotide từ 94,8 - 98,6% và amino acid từ 93,5 - 98,8%.

Kết quả phân tích cây phả hệ cho thấy các chủng virus PED trong nghiên

cứu này thuộc nhóm G1-1.

2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Bệnh lợn con là hội chứng nhiễm khuẩn đường ruột ở giai đoạn bú sữa.

Bệnh xảy ra ở các nước trên thế giới, bệnh thường phát và nhiễm nặng ở các

khu đông dân cư, nơi môi trường bị ô nhiễm, thiếu nước sạch, ở các tỉnh miền

núi dân trí còn thấp.

Nhiều nghiên cứu về phòng và trị bệnh đường tiêu hoá ở lợn con nói

chung và bệnh lợn con nói riêng đã có rất nhiều tác giả ở nhiều nước trên thế

giới quan tâm và nghiên cứu. Theo nhiều tác giả thì nhóm kháng sinh

neomycin có tác dụng điều trị tốt, cho uống với liều từ 10 - 20 UI/kg P cho

34

uống trong vòng 3 ngày. Các kháng sinh khác nên dùng oxytetracyclin.

Dibiomycin liều 5000 - 10000 UI/kg TT trong liệu trình phối hợp với

sulfamid cũng cho hiệu quả điều trị tốt.

Dùng organmin (liều lượng 5g/con) cho uống có tác dụng đối với việc

phòng bệnh đường tiêu hoá. Tác giả lưu ý rằng khi sử dụng kháng sinh phải

phối hợp một cách hợp lý.

Theo Glawisschning E. Và Bacher H. (1992) [30] nguyên nhân gây bệnh

ở lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh dưỡng,

chăm sóc quản lý không tốt.

Khuẩn Escherichia coli (E.coli) thuộc các nhóm Enterotoxigenic E.coli

(ETEC).

Theo tài liệu thực nghiệm của Mỹ, đối với lợn con trong việc phòng

bệnh thiếu máu dẫn đến tiêu chảy chỉ cần tiêm chế phẩm của sắt 1 lần vào

ngày thứ 3 sau khi sinh là đủ.

Nhiều nghiên cứu về phòng và điều trị bệnh nói riêng và bệnh đường tiêu

hóa nói chung ở các nước cho thấy: kháng sinh nhóm neomycine có hiệu quả điều

trị tốt với liều 1000 - 2000 UI/kg khối lượng, trong vòng 3 ngày. Các kháng sinh

khác cũng có kết quả tốt khi dùng kết hợp với sulfamid trong liệu trình điều trị.

Theo Erwin M. Kohrler và cs (1996) [34] thành phần protein huyết thanh

ở lợn 2 - 3 tuần tuổi và 7 tuần tuổi là khác nhau. Lợn con 7 tuần tuổi đã ăn thức

ăn thực vật nên thành phần protein tăng hơn so với lợn 2 - 3 tuần tuổi. Lợn con

bị tiêu chảy do các loại vi khuẩn thường được gọi là rối loạn đường ruột.

Theo Jones (1976) [35] khả năng bám dính của vi khuẩn là yếu tố vô

cùng quan trọng để thực hiện bước đầu của quá trình gây bệnh. Trong quá

trình liên kết đòi hỏi vi khuẩn phải có khả năng di động.

Nghiên cứu của Smith. R. A. và cs (1996) [36] cho thấy sản xuất vắc

xin E.coli phòng bệnh cho lợn con tốt nhất được phân lập từ bệnh phẩm của

lợn bệnh ở tuổi dưới 14 ngày.

35

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

3.1. Đối tượng

- Đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

- Địa điểm: trại chăn nuôi Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện

Ba Vì, thành phố Hà Nội.

- Thời gian: từ17/11/2017 đến 18/5/2018.

3.3. Nội dung thực hiện

- Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại lợn Nguyễn Xuân Dũng, Ba Vì, Hà Nội.

- Tham gia phòng bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại.

- Tham gia chẩn đoán và và điều trị cho lợn nái và lợn con tại trại. - Tham gia các công tác khác tại trại 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện

- Tình hình sản xuất đàn lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh

Thượng - Ba Vì - Hà Nội trong 3 năm (2016 - 2018).

- Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con tại trại.

- Thực hiện quy trình theo dõi tình hình sinh sản của lợn con tại trại.

- Thực hiện công việc vệ sinh phòng bệnh cho đàn lợn con tại trại.

- Tham gia công việc chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn con tại trại.

- Thực hiện các công tác khác tại trại.

36

3.4.2. Phương pháp thực hiện

3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Nguyễn

Xuân Dũng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, tiến hành thu thập thông tin từ

trại, kết hợp với kết quả theo dõi của bản thân.

3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn

tại cơ sở

* Quy trình chăm sóc nái đẻ (nái nuôi con)

Ô chuồng lợn nái trước khi đẻ được cọ rửa sạch sẽ, dội nước vôi và phun

sát trùng hàng ngày cho đến khi nái chửa được chuyển.

Hàng ngày sàn, chuồng nái chửa được cào phân thường xuyên, không

dính phân bẩn.

Nái chửa trước khi đẻ được cho ăn với chế độ hợp lý để quá trình đẻ diễn

ra thuận lợi và vẫn đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho nuôi con.

Chuẩn bị ô úm cho lợn con khi sinh: ô úm phải được che chắn cẩn thận,

nhiệt độ ủ ấm lợn con từ 0 - 7 ngày tuổi khoảng 37 - 390C, từ 8 - 15 ngày tuổi

khoảng 33 - 350C, từ 15 - 21 ngày tuổi 28 - 310C.

Khi lợn mẹ có dấu hiệu sắp đẻ phải được vệ sinh bầu vú, mông và bộ

phận sinh dục bằng nước sát trùng ấm pha loãng (tỷ lệ 1 : 3200). Trong thời

gian lợn mẹ đẻ phải chú ý theo dõi lợn mẹ, nếu thấy có hiện tượng đẻ khó như

khoảng cách giữa các lần đẻ quá lâu hoặc có hiện tượng rặn nhưng thai không

được đẩy ra ngoài thì phải có biện pháp can thiệp như xoa bầu vú kết hợp

tiêm oxytoxin. Nếu sau khi đã tiêm oxytoxin rồi mà lợn mẹ vẫn có hiện tượng

rặn, kiểm tra bằng que thăm thấy vẫn còn thai thì cần tiến hành dùng tay can

thiệp. Nếu phải dùng tay can thiệp cần rửa tay sạch bằng nước sát trùng, cắt

và vệ sinh sạch sẽ móng tay, sau đó bôi gen, tiến hành cho tay vào cơ quan

37

sinh dục của lợn. Không nên quá lạm dụng vào việc dùng tay can thiệp vì sẽ

dễ gây cho lợn mẹ bị viêm nếu vệ sinh và móc không đúng cách.

Lợn mẹ đẻ xong được lau mông và cơ quan sinh dục bằng nước ấm pha

nước sát trùng (tỷ lệ tương ứng 1 : 3200) và bôi cồn iod.

Khẩu phần ăn trước, trong và sau khi đẻ được cung cấp theo quy định

của công ty CP để đảm bao khả năng tiết sữa và nuôi con và thuận lợi cho quá

trình đẻ nhất là đối với nái hậu bị.

Những ngày thời tiết quá nóng bức lợn mẹ sẽ được bổ sung thêm chất

điện giải, vitamin C. Sau khi đẻ, nếu lợn mẹ có biểu hiện sốt cao, bỏ ăn, giảm

tiết sữa sẽ được tiêm thuốc analgin với liều lượng 1ml, tiêm bắp và được

truyền đường glucose và muối natri clorid.

Bảng 3.1 . Khẩu phần ăn của lợn mẹ trước và sau khi đẻ

Chế độ ăn Nái hậu bị (kg) Nái sinh sản (kg)

2,2 Trước đẻ 5 ngày 3

2 Trước đẻ 4 ngày 2,5

1,7 Trước đẻ 3 ngày 2

1,5 Trước đẻ 2 ngày 1,5

1 Trước đẻ 1 ngày 1

Ngày đẻ 0 – 1 0 - 1

1 Sau đẻ 1 ngày 1

2 Sau đẻ 2 ngày 2

3 Sau đẻ 3 ngày 3

4 Sau đẻ 4 ngày 4

5 Sau đẻ 5 ngày 5

(Nguồn: Kỹ thuật trại)

38

Những ngày thời tiết quá nóng bức lợn mẹ sẽ được bổ sung thêm chất

điện giải, vitamin C. Sau khi đẻ, nếu lợn mẹ có biểu hiện sốt cao, bỏ ăn, giảm

tiết sữa sẽ được tiêm thuốc analgin với liều lượng 1ml, tiêm bắp và được

truyền đường glucose và muối natri clorid.

 Kĩ thuật đỡ đẻ:

- Một tay cầm chắc lợn con, một tay dùng khăn khô lau sạch dịch nhờn ở

mồm, mũi và toàn thân cho lợn để lợn hô hấp thuận lợi.

- Cắt rốn: Thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn 3 cm, dùng kéo cắt phần

bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút buộc khoảng 1,5 cm. Sát

trùng dây rốn và vùng cuống rốn bằng cồn iod.

- Cho lợn con vào lồng úm có nhiệt độ = 33 - 35°C

- Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ.

- Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết,

lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú.

Không can thiệp khi quá trình đẻ của lợn nái diễn ra bình thường, chỉ

can thiệp khi lợn mẹ rặn đẻ lâu và khó khăn.

 Kĩ thuật can thiệp lợn đẻ khó

- Một số biểu hiện lợn đẻ khó:

+ Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không có biểu hiện rặn đẻ.

+ Lợn rặn đẻ liên tục, bụng căng lên do rặn đẻ mạnh, đuôi cong lên do

lợn con đã ra đến cổ tử cung nhưng do lợn con quá to hoặc do thai bị ngược

nên không ra ngoài được.

+ Mắt của lợn mẹ trở nên rất đỏ do quá trình rặn đẻ liên tục.

+ Lợn mẹ kiệt sức, thở nhanh, yếu ớt do quá trình rặn đẻ nên kiệt sức.

- Cách can thiệp lợn đẻ khó:

+ Vệ sinh, sát trùng âm hộ và mông lợn. Sát trùng tay, bôi gel bôi trơn.

39

+ Đưa tay vào trong tử cung, nắm lấy lợn con, đưa lợn con ra ngoài.

* Chăm sóc lợn con mới sinh

- Lau dịch nhờn

+ Khi lợn con được đẻ ra người đỡ đẻ cần lau sạch nhờn trong miệng,

mũi để tránh dịch nhờn chảy ngược vào khí quản gây ngạt thở, sau đó mới lau

toàn thân. Nếu lợn con được sinh ra có hiện tượng thở yếu thì cần vỗ nhẹ vào

vào lưng hoặc gập bụng 1 vài lần, khi nào thấy lợn con thở đều là được.

- Buộc dây rốn

Sau khi lau sạch nhờn toàn thân thì tiến hành buộc dây rốn để tránh tình

trạng rốn sát với sàn chuồng gây nhiễm trùng rốn.

Vị trí buộc cách bụng lợn con khoảng 3 - 4cm, sau khi buộc dùng kéo đã

sát trùng cắt cách vị trí buộc 1cm, sau đó bôi cồn iod.

Khi buộc dây rốn cần thắt dây chặt để tránh máu vẫn chảy ra, trường hợp

thấy máu chảy ra thì phải buộc lại, không nên thắt quá chặt sẽ làm đứt dây rốn.

Sau khi buộc dây rốn xong cho lợn con vào lồng úm đã chuẩn bị sẵn, có

thắp bóng đèn và lót thảm (vào mùa đông nên xoa 1 ít bột mistral lên cơ thể

lợn con để làm ấm nhanh cơ thể và nhanh khô).

- Cho bú sữa đầu

- Sữa đầu là nguồn dinh dưỡng rất tốt đối với lợn con sơ sinh, sữa đầu

chứa nhiều kháng thể giúp lợn con tránh được các mầm bệnh bệnh bên ngoài.

- Sữa đầu chứa nhiều vitamin A, protein, chất béo, canxi, phospho,

đường lactose và γ - globulin. Lợn con được bú sữa đầu càng sớm càng tốt vì

đường ruột lợn con chỉ hấp thu kháng thể mẹ truyền khoảng 150 - 200ml

trong vòng 24 - 36 giờ.

- Đồng thời, việc cho lợn con bú sớm cũng kích thích lợn mẹ tiết

prolactin, tiết sữa và đẻ nhanh hơn.

40

- Khi lợn con được đẻ ra khoảng 10 phút thì cho lợn con ra bú sữa đầu,

vì lợn con được bú sữa đầu sớm sẽ tốt hơn.

- Ghép đàn: ghép đàn được thực hiện sau khi bú sữa đầu hoàn thiện, cụ

thể ghép đàn sau 36 giờ lợn con được sinh. Ghép đàn thì chuyển những lợn to

của đàn sang đàn có trọng lượng phù hợp và số ngày đẻ chỉ chênh lệch 1 - 2

ngày. Ghép đàn trong các trường hợp như: lợn con mất mẹ, quá nhiều lợn con

trong một đàn, lợn mẹ ít sữa hoặc lợn mẹ bị bệnh.

 Chăm sóc lợn con 1 - 2 ngày tuổi

- Cắt đuôi

+ Phòng lợn con cắn đuôi nhau khi nuôi thịt.

+ Dùng dụng cụ máy cắt đuôi, cắt cách vị trí gốc đuôi lợn con 2cm, cắt

xong sát trùng bằng cồn iod.

- Bấm nanh

+ Phòng tổn thương vú mẹ do lợn con tranh bú và tổn thương lợn con do

cắn nhau giành bú.

+ Dùng kìm bấm nanh chuyên dụng đã được sát trùng, bấm 4 răng nanh

của hàm trên và 4 răng nanh hàm dưới. Vị trí bấm 1/3 phía trên của răng,

tránh bấm quá sâu gây tổn thương lợi.

- Bấm số tai

+ Để nhận diện lợn, biết được lý lịch, theo dõi được sức tăng trưởng từng

cá thể và điều tra ngược khi nuôi thịt có vấn đề bệnh tật.

+ Cách bấm số tai được thực hiện theo sự hướng dẫn của kĩ sư trại và quy

định của công ty CP. Cụ thể đối với lợn con ở trại Nguyễn Xuân Dũng thì số tai

được cắt theo mã trại 91 ghép với mã tuần mà con lợn con đó được sinh ra.

Ví dụ : lợn con được sinh ra ở tuần thứ 31 trong năm thì số tai sẽ là 9131.

+ Bấm tai được thực hiện sau khi đã tuyển chọn lợn con được nuôi.

41

+ Sau khi bấm số tai xong sẽ tiêm cho lợn con 0,5ml Nova Amcoli

chống viêm và 2ml Fe + B12, tiêm bắp..

- Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt.

Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản người ta thường thiến lợn vào

7 - 10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 4

sau khi sinh.

Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: Dao

thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và

thuốc kháng sinh.

Thao tác: Đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh (Amcoli,

Alistin). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao

cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ,

tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn.

Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp vào giật dịch hoàn ra,

dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn và bôi cồn vào vị trí thiến.

 Chăm sóc lợn con 5 - 7 ngày tuổi

- Tập ăn

+ Mục đích tập ăn cho lợn con là hạn chế được stress khi thay đổi sữa

mẹ sang thức ăn lúc cai sữa, cung cấp thêm dinh dưỡng khi lợn mẹ giảm

lượng sữa và kích thích phát triển dịch tiêu hóa khi theo mẹ. Thức ăn tập ăn

luôn luôn mới, không bị mất mùi và không để dư thừa quá 6 giờ. Thức ăn tập

ăn phù hợp đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng không gây tiêu chảy và dị ứng cho

lợn con theo mẹ.

+ Thời gian tập ăn cho lợn con theo mẹ khi lợn con được 5 ngày tuổi, số

lần tập ăn 4 - 5 lần/ngày không để thức ăn dư thừa quá 6 giờ sẽ làm giảm

lượng ăn khi tập ăn. Phương pháp tập ăn hiệu quả cao là sau khi lợn con bú

42

mẹ, tập tính lợn con sau khi bú mẹ xong phải đi phá phách xung quanh

chuồng lúc này gặp thức ăn rồi nhai.

+ Thức ăn tập ăn là 550FS lưu hành nội bộ của công ty CP.

 Chăm sóc lợn con 15 - 17 ngày tuổi

- Thức ăn: đây là giai đoạn lợn con sắp cai sữa, lượng thức ăn cung cấp

sẽ thay thế hoàn toàn nguồn sữa mẹ, lượng thức ăn cần cung cấp khoảng

0,037g/con.

- Tiêm thêm vitamin ADE liều 2ml/con, tiêm bắp.

- Trong thời gian này những con bị hec ni thì được tiến hành mổ:

+ Chuẩn bị lợn: lợn được cố định trên giá đứng.

+ Dụng cụ: dao mổ, chỉ, kim, thuốc kháng sinh, cồn sát trùng....

+ Thực hiện: bị hecni bên nào thì tiến hành mổ bên đấy, rạch 1 đường

khoảng 1,5cm ở vị trí giữa núm vú thứ nhất và núm vú thứ 2 từ dưới lên lệch

về phía ngoài khoảng 1cm dùng ngón tay cái móc bọc hecni ra lấy tay nắn nhẹ

đưa trở vào xoang bụng dùng 2 ngón tay đặt vào lỗ hecni ngăn không cho ruột

trở ra ngoài bao hecni, tiến hành khâu lại. Bôi thuốc sát trùng vào chỗ khâu và

tiêm 1 ml nova amcoli cho lợn con.

 Chăm sóc lợn con 21 - 24 ngày tuổi

- Tiến hành cai sữa và cai sữa phải dựa trên các điều kiện: lợn con cai

sữa phải có sức khỏe tốt, lợn con cai sữa phải biết ăn, lợn con cai sữa đạt

trọng lượng thấp nhất 5kg/con và trung bình 7kg/con.

- Lợn con có cân nặng đủ tiêu chuẩn, không mắc bệnh, khỏe mạnh sẽ

được chọn và xuất.

3.4.2.3. Thực hiện các biện pháp phòng tại cơ sở

* Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại

43

Vệ sinh phòng bệnh nhằm mục đích hạn chế và tiêu diệt mầm bệnh ở môi

trường đồng thời nâng cao sức đề kháng không đặc hiệu cho đàn gia súc. Cùng

với việc vệ sinh ăn uống, vệ sinh thân thể, vệ sinh sinh sản,… thì việc vệ sinh

chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi được trang trại rất quan tâm.

Việc vệ sinh chuồng trại được thực hiện theo một lịch cụ thể do trang

trại quy định nhưng vẫn có những thay đổi cho phù hợp tuỳ vào điều kiện thời

tiết. Máng ăn bằng rãnh bê tông được rửa bằng nước sạch sau khi cho lợn ăn

xong. Riêng máng tập ăn cho lợn con luôn được giữ máng ăn khô, sạch, tránh

bị mốc bẩn. Phân được dọn một phần cho vào bao bón cây và cho cá ăn.

Lợn cai sữa áp dụng phương pháp chăn nuôi cùng vào cùng ra. Khi

xuất hết lợn thì các ô chuồng đó được cọ rửa sạch sẽ, dội nước vôi lên tường

và gầm chuồng, phun tiêu độc cả dãy chuồng rồi để trống 3 tuần chờ chuyển

lợn mới vào. Các chuồng khác đều phải tiêu độc trước khi nhận lợn.

Nước sử dụng cho lợn uống lấy từ các khe núi chảy xuống, sau đó qua

hệ thống máy bơm lên bể rồi theo ống dẫn đến từng ô chuồng.

Cùng với việc thường xuyên quét dọn chuồng, trang trại lập kế hoạch

tiêu độc chuồng trại và phát quang bụi rậm xung quanh chuồng trại cũng như

tiêu diệt chuột.

Khi công nhân, kỹ sư, khách tham quan vào khu chăn nuôi lợn đều phải

sát trùng tại nhà sát trùng, tắm bằng nước sạch trước khi thay quần áo bảo hộ

lao động, mới được vào khu chuồng nuôi

Lịch sát trùng cụ thể như sau:

44

Bảng 3.2. Lịch sát trùng trại lợn nái

Trong chuồng

Thứ Ngoài chuồng Chuồng đẻ Ngoài khu vực chăn nuôi Chuồng cai sữa Chuồng nái chửa

- - - Chủ nhật Phun sát Trùng Phun sát Trùng

Phun sát trùng Thứ 2 Quét và rắc vôi đường đi Phun sát trùng toàn bộ khu vực Phun sát trùng toàn bộ khu vực Phun sát trùng + rắc vôi

- - Thứ 3 Quét hoặc rắc vôi đường đi Phun sát trùng, quét mạng nhện Phun sát trùng, quét vôi đường đi

- Rắc vôi Rắc vôi Phun sát trùng Thứ 4 Phun sát trùng, xả gầm và dội vôi

Rắc vôi Thứ 5 Phun sát Trùng Phun sát trùng Phun sát Trùng Phun sát trùng, xả vôi, xút gầm

Phun sát trùng Phun ghẻ - - Phun sát trùng Thứ 6

Thứ 7 Vệ sinh tổng chuồng Vệ sinh tổng chuồng Vệ sinh tổng chuồng Vệ sinh tổng khu Vệ sinh tổng khu

(Nguồn: kỹ thuật trại)

* .Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn con tại trại

Do đặc thù của trại chuyên sản xuất lợn giống, lợn thương phẩm nên

việc theo dõi và thực hiện lịch tiêm phòng chính xác là rất quan trọng. Tiêm

phòng bằng vắc xin là biện pháp tạo miễn dịch chủ động cho gia súc chống lại

mầm bệnh và là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Hiệu quả của vắc xin phụ

thuộc vào trạng thái sức khỏe của con vật, trên cơ sở đó trại chỉ tiêm vắc xin

cho lợn khỏe mạnh để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn.

45

Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh bằng vắc xin của trại.

Vắc xin - Tuổi Loại lợn Phòng bệnh Đường đưa thuốc Liều lượng (ml/con) Thuốc

2 ngày Thiếu sắt Nova Fe+B12 Tiêm 2

4 ngày Cầu trùng Nova - Coc 5% Uống 2

Lợn con Suyễn MycoFLEX Tiêm bắp 2 14 ngày Còi cọc CircoFLEX Tiêm bắp 1

26 tuần tuổi Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2

27 tuần tuổi Khô thai PV Tiêm bắp 2

27 tuần tuổi Giả dại AD Tiêm bắp 2

28 tuần tuổi Dịch tả SF Tiêm bắp 2

Lợn hậu bị 29 tuần tuổi LMLM FMD Tiêm bắp 2

30 tuần tuổi Tai xanh PRRS Tiêm bắp 2

31 tuần tuổi Khô thai PV Tiêm bắp 2

31 tuần tuổi Giả dại AD Tiêm bắp 2

10 tuần chửa Dịch tả SF Tiêm bắp 2

12 tuần chửa LMLM Aftopor Tiêm bắp 2

12 tuần chửa Giả dại Tiêm bắp 2 Lợn nái sinh sản Porcilis Begonia

Khô thai Parvo Tiêm bắp 2 Sau đẻ 15 ngày

(Nguồn: Kỹ thuật trại)

46

3.4.2.4. Phương pháp xác định tình hình nhiễm bệnh, cách phòng trị bệnh cho

đàn lợn nuôi tại trại.

Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn con, tiến hành theo dõi

hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Bằng mắt thường

đánh giá qua biểu hiện lâm sàng như trạng thái cơ thể, các dịch rỉ viêm, trạng

thái, màu sắc phân....

 Bệnh ở heo mẹ

* Bệnh viêm tử cung

- Triệu chứng: lợn đẻ 2 - 3 ngày, sốt nhẹ, giảm ăn hay bỏ ăn, có dịch

nhầy chảy ra từ âm hộ, màu trắng đục hoặc màu phớt vàng.

- Phương pháp chẩn đoán: theo dõi hàng ngày qua các triệu chứng lâm sàng

- Điều trị: Dùng các loại thuốc sau để điều trị

+ Thụt rửa 2 lần/ngày, 2 ngày liên tục bằng nước muối sinh lý.

+ Gentamox: 1 ml/ 10kg TT

+ Oxytoxin: 2 ml/con

+ Analgin: 1 ml/10 kg TT

+ Dexamethasone: 1 ml/10 kg TT, tiêm bắp, điều trị trong 3 ngày lên tục.

* Bệnh viêm vú

- Triệu chứng: Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy hơi nóng, hơi

cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau.

Lợn nái giảm ăn, hoặc bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao 40,5°C - 42°C. Sản

lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú.

Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có cặn hoặc cục

sữa vón lại, xuất hiện các cục casein màu vàng. Lợn con thiếu sữa kêu la, lợn

con ỉa chảy, xù lông.

- Phương pháp chẩn đoán : theo dõi lợn hàng ngày , chẩn đoán qua các

triệu chứng lâm sàng bên ngoài

47

- Điều trị: Dùng các thuốc sau để điều trị

+ Cục bộ: Phong bế giảm đau bầu vú bằng cách chườm nước đá lạnh

để giảm sưng, giảm đau, mỗi ngày vắt cạn sữa ở vú viêm 4 - 5 lần, tránh lây

lan sang vú khác.

+ Điều trị toàn thân

Tiêm Gentamox: 1 ml/10 kg TT

Tiêm Analgin: 1 ml/10 kg TT

Tiêm Oxytoxin: 2 ml/con

Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày.

* Bệnh sát nhau

- Triệu chứng: Con vật đứng nằm không yên, nhiệt độ hơi tăng, thích

uống nước, sản dịch chảy ra màu nâu.

- Phương pháp chẩn đoán : Theo dõi hàng ngày thông qua các triệu

chứng lầm sàng

- Điều trị:

+ Oxytocin: 2 ml/con

+ Gentamox: 1 ml/10 kg TT

Điều trị 2 - 3 ngày, kết hợp thụt rửa bằng nước muối sinh lý

3.4.3.2 Bệnh của lợn con

* Hội chứng tiêu chảy

- Nguyên nhân

+ Bệnh thường xảy ra khi thời tiết thay đổi đột ngột như trời đang nắng

ấm đổ mưa, trở rét hoăc bị gió lùa.

+ Vệ sinh chuồng trại không tốt, chuồng bị ẩm ướt.

+ Bầu vú lợn mẹ có dính phân, uống nước có chứa mầm bệnh, thay đổi

thức ăn.

48

- Triệu chứng

+ Lợn con thường nằm tụm lại, run rẩy hoặc nằm một góc, da xung

quanh đuôi và hậu môn có dính phân, phân lỏng đến sệt có màu kem và có thể

thấy lợn con nôn mửa.

+ Lợn mất nước do tiêu chảy, mắt lõm vào, da trở nên khô.

+ Trên lợn cai sữa, triệu chứng đầu tiên là sụt cân, đi phân nước và

mất nước.

- Chẩn đoán : Theo dõi lợn con hằng ngày, chẩn đoán qua các triệu chứng

lâm sàng của bệnh

- Điều trị

Điều trị bằng nhiều loại thuốc, cụ thể ở trại em sử dụng các loại thuốc sau:

+ Paxell 0,5ml/con/10kg TT tiêm bắp

+ Nnova amcoli: 0,5ml/con tiêm bắp đối với lợn con dưới 10 ngày tuổi.

+ Nor-100: 1ml/con tiêm bắp đối với lợn con trên 10 ngày tuổi.

+ Cho uống: thuốc điện giải 1g/1 lit nước, cho uống toàn đàn

Điều trị liên tục 3 - 5 ngày liên tục.

- Phòng bệnh

+ Khẩu phần của lợn nái phải cân đối đảm bảo chất lượng và ổn định.

+ Phải cho tất cả lợn con được bú sữa đầu, nếu lợn mẹ xuất hiện tình

trạng viêm nhiễm: nóng sốt, ăn ít, bỏ ăn, thì phải tích cực điều trị để lợn mẹ

nhanh chóng khỏe mạnh trở lại.

+ Chuồng trại phải khô ráo thường xuyên. Sưởi ấm, tập ăn sớm và cai

sữa sớm, tiêm sắt đầy đủ cho lợn con.

* Viêm phổi

- Nguyên nhân: Là một bệnh truyền nhiễm đa nguyên nhân mà trước đây

quen gọi là bệnh suyễn hoặc viêm phổi địa phương. Mycoplasma là tác nhân

49

chính kết hợp với hệ vi khuẩn gây bệnh kế phát như: Pasteurella multocida,

Bordetell, Chlamidi, Streptococcus, Staphylococcus và một vi khuẩn khác.

Lợn mẹ bị bệnh có thể truyền cho con trong thời gian mang thai.

- Triệu chứng: Ở lợn con bệnh có thể xảy ra ngay sau khi sinh. Lợn gầy

còm lông xù, thở thể bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại. Lợn bị bệnh không

tranh bú với các con khác được nên ngày càng gầy yếu hơn, dễ mắc kế phát

bệnh viêm khớp. Nếu không điều trị kịp thời tỷ lệ chết rất cao.

- Chẩn đoán : theo dõi hàng ngày và chẩn đoán qua các triệu chứng lâm

sàng bên ngoài

- Điều trị: Bệnh viêm phổi có thể sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để

điều trị, ở trong trại thường sử dụng phác đồ sau để điều trị:

Nova Linco : 1ml/con. Tiêm bắp 1lần/ngày

Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm bromhexine (HCl):

1ml/con.

Điều trị trong 3 - 6 ngày.

* Viêm khớp

- Thời điểm lợn con mắc bệnh: lợn ở mọi lứa tuổi

- Nguyên nhân: bệnh viêm khớp là hậu quả của bệnh tụ huyết trùng, sảy

thai truyền nhiễm, liên cầu lợn hoặc do Staphylococcus gây ra.

- Triệu chứng: lợn con có hiện tượng què, đi lại khó khăn. Khớp bị

viêm, sưng to, đau, lông xù, ốm sốt, ăn ít hoặc không ăn. Nếu không điều trị

kịp thời khớp bị viêm có mủ.

-Chẩn đoán : Theo dõi lợn hàng ngày và dựa trên các triệu chứng lâm

sàng của bệnh

- Biện pháp phòng bệnh: áp dụng biện pháp phòng tổng hợp, giữ vệ sinh

chuồng nuôi sạch sẽ, định kỳ phun thuốc khử trùng chuồng trại chăn nuôi.

50

- Điều trị:

Có thể dùng nhiều loại thuốc. Cụ thể khi thực tập tại trại, em đã sử dụng

liệu trình như sau:

Đối với lợn con dưới 10 ngày tuổi dùng kháng sinh vetrimoxin LA:

0,5ml/con

Đối với lợn con trên 10 ngày tuổi dùng kháng sinh pendistrep LA: tiêm

0,5ml/con.

Tiêm mỗi ngày 1 lần, điều trị liên tục 4 - 6 ngày.

* Viêm rốn

- Thời điểm lợn con bị bệnh: xảy ra khi lợn con được 4 - 5 ngày tuổi.

- Nguyên nhân:

+ Do sử dụng các dụng cụ như: dao, kéo, chỉ cột rốn không được vô

trùng hoặc vô trùng không tốt.

+ Do người can thiệp quá mạnh tay khi đưa lợn con từ tử cung ra ngoài

cơ thể mẹ.

+ Do chuồng trại ẩm thấp, kém vệ sinh tạo điều kiện cho vi khuẩn cơ hội

xâm nhập vào chỗ cắt trên cuống rốn khi vết thương chưa lành.

+ Khi lợn con bị viêm rốn có thể mắc các bệnh liên quan như viêm gan,

tiêu chảy, lợn trở lên còi cọc ốm yếu, chậm lớn làm kéo dài thời gian nuôi và

chăn nuôi không hiệu quả gây thiệt hại kinh tế cho nhà chăn nuôi.

- Triệu chứng

+ Bình thường khoảng 3 ngày sau khi sinh, các mạch máu rốn nối với

gan và bàng quang của lợn con sẽ teo lại và chuyển thành dây chằng với gan

và dây chằng ở bàng quang. Nếu lợn con bị viêm rốn sẽ làm chậm lại quá

trình này và vi khuẩn có thể nhiễm vào gây viêm gan, viêm bàng quang,

nhiễm trùng máu và viêm tủy xương qua đường mạch máu.

51

+ Lợn con bị bệnh thiếu máu, da nhợt nhạt, lông dày và cứng, lợn ốm và

dễ bị nhiễm bệnh do hệ miễn dịch yếu.

- Chẩn đoán : Theo dõi lợn hàng ngày và chẩn đoán bệnh qua các triệu

chứng biểu hiện bên ngoài

- Điều trị: Dùng vetrimoxin LA tiêm 0,5ml/con, điều trị từ 3 - 5 ngày,

kết hợp với bôi cồn sát trùng vào cuống rốn.

- Biện pháp phòng

+ Khi cắt rốn lợn con: Sử dụng kéo sắc, ngâm sát trùng dụng cụ 30 phút

trước khi sử dụng. Sau khi cắt xong chấm cồn để sát trùng.

+ Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tránh để ẩm ướt, tạo điều kiện thuận lợi

cho mầm bệnh xâm nhập.

3.4.2.5. Theo dõi các chỉ tiêu

- Tỷ lệ lợn mắc bệnh:

∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi

- Tỷ lệ khỏi:

∑ số con khỏi bệnh x 100 Tỷ lệ khỏi (%) = ∑ số con điều trị

+ Tính số trung bình mẫu

Số trung bình:

Trong đó Xi: Giá trị các mẫu quan sát được

: Giá trị trung bình

n: Dung lượng mẫu

52

+ Độ lệch tiêu chuẩn:

Trong đó Xi: Giá trị các mẫu quan sát được

: Giá trị trung bình

n: Dung lượng mẫu

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu thu thập được trong chuyên đề được xử lý bằng phương

pháp thống kê sinh học của Nguyễn Văn Thiện (2002)[15] và phần

mềm Excel 2007

53

Phần 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại Nguyễn Xuân Dũng, huyện Ba

Vì, thành phố Hà Nội qua 3 năm

Để biết được tình hình chăn nuôi đàn lợn sinh sản nuôi tại trại giai

đoạn từ năm 2016 đến năm 2018, chúng tôi đã thống kê loại lợn và số

lượng lợn qua các năm. Kết quả và tổng đàn được trình bày ở bảng 4.1.

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại qua 3 năm

Số lượng lợn qua các năm (con)

2018 2016 2017 Loại lợn (6 tháng đầu năm)

n n n Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Nái cơ bản 1210 3.80 1200 3,56 1151 5,67

Nái hậu bị 100 0,14 140 0,42 190 0,94

Đực giống 22 0,07 20 0,06 18 0,89

Lợn con 30500 95,81 32320 95,96 18930 93,31

Tổng số 31832 100 33680 100 20289 100

(Nguồn: Kỹ thuật trại)

Số liệu ở bảng 4.1 cho thấy trong 3 năm,tỷ lệ lợn con chiếm tỷ lệ cao

nhất trong cơ cấu đàn, số lượng lợn đực chiếm ỷ lệ thấp nhất trong đàn.

Số lượng nái cơ bản năm 2018giảm so với năm 2016 và 2017. Từ 1210

nái cơ bản năm 2016 và 1200 nái cơ bản năm 2017giảm xuống 1151 nái cơ

bản vào năm 2017. Nái hậu bị của năm 2018 tăng so với năm 2017 và2016.

Số lượng nái hậu bị tăng ( từ 100 – 190 con năm 2018) nhằm thay thế lợn nái

54

sinh sản không đủ tiêu chuẩn và loại thải. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ,

các số liệu liên quan của ừng nái như : số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự

kiến...được ghi trên thẻ gắn tại chuồng mới . Số lượng lợn đực giống giảm do

số lợn nái giảm, bên cạnh đó phải loại bỏ những đực giống đã kém chất lượng

khiến công ty phải cung cấp thêm lợn giống đực cho trại. Số lợn con tăng cao

sau từng năm, năm 2016 có 31832 lợn con, năm 2017 đạt 33680 và 6 tháng

đầu năm 2018 đã đạt 20289 lợn con do, lợn đàn lợn nái và lợn đực được thay

thế bởi những con giống đạt chất lượng cao hơn

4.2.Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn trong 6 tháng tại

trạng trại

4.2.1. Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái đẻ, nuôi con

Bảng 4.2: Số lợn nái và lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng

Nái đẻ, nuôi con (Con) Tháng

12 58

1 58

2 58

3 58

4 57

5 57

Tổng 346

Kết quả bảng 4.2 cho thấy trong 6 tháng thực tập tốt nghiệp tôi đã

được giao cho theo dõi chăm sóc 346 nái đẻ, nuôi con và cai sữa. Công

việc hàng ngày em đã được thực hiện như sau: cho nái ăn khẩu phần ăn

đúng quy định. Nếu nái nuôi con quá gầy, nuôi nhiều con cho ăn tăng

lượng thức ăn lên, theo dõi nái ăn, nếu nái bỏ ăn kiểm tra nhiệt độ cơ thể để

55

có biện pháp xử lý kịp thời. Vệ sinh ô chuồng, lau bầu vú, lau mông cho

nái bằng bằng nước sát trùng.

Trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng tôi đã được học hỏi và mở mang

rất nhiều kiến thức từ việc vệ sinh đến các khâu chăm sóc như sau: Đối với lợn

nái trước và sau đẻ cần chú ý đến khẩu phần ăn, quy trình dùng thuốc luôn được

đảm bảo và công tác vệ sinh luôn được quan tâm.

Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời đối với nái và lợn

con. Chuồng trại phải được vệ sinh thường xuyên sạch sẽ. Chuồng nuôi đảm bảo

luôn khô ráo, thoáng mát, tránh gió lùa và đảm bảo giữ ấm cho lợn con

4.2.2. Kết qủa thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con

Số lợn con tôi trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng được thể

hiện qua bảng 4.3.

Bảng 4.3. Số lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng tại trại

Tháng Con đực (con) Con cái (con) Tổng

12 345 351 696

1 350 362 712

2 367 369 736

3 370 355 725

4 341 366 707

5 351 368 719

Tổng 2124 2171 4295

Trong 6 tháng làm tại chuồng đẻ tôi trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng

2124 con đực và 2171 con cái. Quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con được

thực hiện theo sự hướng dẫn và chỉ đạo của kỹ sư tại trại.

56

4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái và tỷ lệ nuôi sống đàn lợn con tại trại

lợn Nguyễn Xuân Dũng, Ba Vì, Hà Nội

4.3.1. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại

Bảng 4.4. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái

trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng

Nái đẻ bình thường Nái đẻ khó phải can thiệp Số nái đẻ Tháng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng (con) (con) (%) (con) (%)

100 12/2017 58 58 0 0

100 01/2018 58 58 0 0

96,55 2 58 56 2 3,45

100 3 58 58 0 0

98,24 4 57 56 1 1,76

98,24 5 57 56 1 1,76

4 1,15 Tổng 346 342 98,84

Kết quả bảng 4.4. cho thấy tôi theo dõi 346 nái đẻ trong đó 342 nái

đẻ bình thường chiếm tỷ lệ 98,84%, 4 nái đẻ khó phải can thiệp chiếm tỷ

lệ 1,15%.

Biểu hiện đẻ khó như sau: Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không

có biểu hiện rặn đẻ, hoặc trường hợp khi đẻ được 1 đến 2 con sau 30 phút đến

1 giờ mà không thấy lợn đẻ nữa nhưng lợn mẹ vẫn tiếp tục rặn liên tục thì

nhanh chóng sát trùng tay, bôi gel bôi trơn. Đưa tay vào trong tử cung, nắm

57

lấy lợn con, đưa lợn con ra ngoài. Trong khi thực hiện đỡ đẻ em rút ra một số

bài học sau: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng nái đẻ và nuôi con cần chú ý giảm

khẩu phần ăn đối với lợn nái quá béo, điều chỉnh tăng, giảm thức ăn thích

hợp đối với những lợn nái đẻ lứa đầu để con đẻ không quá to dẫn đến đẻ

khó, loại thải những nái già đã đẻ quá nhiều lứa. Trong lúc nái đẻ cần phải

trực liên tục cho đến khi lợn đẻ xong, khi có biểu hiện khó đẻ cần xử lý kịp

thời. Kỹ năng học được trong 6 tháng vừa qua là cho nái ăn đúng khẩu phần,

biết được quy trình đỡ đẻ và can thiệp đúng lúc.

4.3.2 Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

Tỷ lệ nuôi sống là chỉ tiêu quan trọng cần làm để có biện pháp tác động,

điều chỉnh kịp thời nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người chăn

nuôi. Tôi trực tiếp theo dõi và áp dụng kỹ thuật trên đàn lợn tại trang trại.

Kết quả được thể hiện ở bảng 4.3.

Bảng 4.5. Tỷ lệ nuôi sống lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại

(Theo số lượng theo dõi từng tháng )

Con đực Con cái Tháng Số con Số con Tỷ lệ Số con Số con Tỷ lệ

theo dõi còn sống (%) theo dõi còn sống (%)

12 345 328 351 339 95,07 96,58

1 350 311 362 327 88,87 90,33

2 367 326 369 331 88,82 89,70

3 370 334 355 321 90,27 90,42

4 341 321 366 348 94,13 95,08

5 351 329 368 343 93,73 93,20

91,76 92,53 1949 2009 Tổng 2124 2171

58

Kết quả bảng 4.5 cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của lợn con đực là 91,76%;

lợn con cái là 92,53%. Tỷ lệ nuôi sống phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân như:

thời tiết, nhiệt độ, giống, quá tŕnh chăm sóc, nuôi dưỡng. Tỷ lệ nuôi sống lợn

đực thấp hơn lợn cái là do trong quá trình làm kĩ thuật sinh viên, chưa có kinh

nghiệm nhiều và do không quan sát kỹ, những con bị héc ni bẩm sinh, sau khi

thiến xong bị lòi ruột, không phát hiện kịp thời nên chết.

Lợn con có thể chết do nhiều nguyên nhân như: khi lợn con sinh ra có

thể chết do quá yếu, mắc bệnh hay trong quá trình sống bị mẹ dẫm đè, lợn mẹ

dậy ăn uống, vệ sinh lợn con đến bú khi lợn mẹ nằm xuống sẽ nằm đè lên lợn

con, không phát hiện kịp thời, lợn con sẽ chết.

Như vậy, công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị được thực hiện tốt sẽ

đạt hiệu quả tốt hơn, các chế độ chăm sóc tốt hơn như đối với những lợn con

gầy yếu, không thể tranh bú hoặc những con trong thời gian mắc bệnh, sau

khi khỏi bệnh sẽ cho lợn con uống thêm sữa được vắt từ những mẹ đang đẻ,

pha thêm cháo cho ăn. Những con có dấu hiệu mắc bệnh được chẩn đoán và

điều trị kịp thời.

4.4 Kết quả phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn tại trại

Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trại thực hiện nghiêm túc,

đầy đủ và đúng kỹ thuật. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được

chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mãn

tính khác. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%.

Kết quả công tác phòng bệnh bằng vắc xin được thể hiện qua bảng 4.6.

59

Bảng 4.6. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn con

từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại

Loại vắc xin, thuốc phòng Liều dùng Đường tiêm Bệnh được phòng Số con an toàn Tỷ lệ an toàn (%) Thời điểm phòng (Ngày tuổi) Số con dùng vắc xin (con) Nova Tiêm 2 Thiếu sắt 2 ml 4295 4295 100 Fe+B12 bắp

Toltrazuril Cho 4 Cầu trùng 1 ml 4295 4274 99,51 5% uống

Suyễn MycoFLEX 2 ml Tiêm 14 3707 3707 100 Hội bắp chứng còi CircoFLEX 1 ml

cọc

Bảng 4.6 cho thấy: Phòng bệnh cho lợn con không chỉ làm tốt công tác

vệ sinh mà còn phải tiêm phòng vắc xin đầy đủ trong từng giai đoạn sinh

trưởng và phát triển của lợn con. Khi ra khỏi cơ thể mẹ sống ngoài môi

trường cơ thể lợn con dễ bị mầm bệnh xâm nhập nếu chúng ta không phòng

bằng cách tiêm vắc xin.

Để đề phòng các bệnh xảy ra đối với lợn con và để duy trì công tác sản

xuất, kinh tế thì lợn con được chăm sóc và nuôi dưỡng tại trại đều được tiêm

vắc xin phòng bệnh đầy đủ, 4 ngày sau khi đẻ lợn con được cho uống

toltrazuril 5% và được tiêm chế phẩm của sắt để phòng thiếu sắt. Tiêm vắc

xin là 1 trong những cách để giảm khả năng mắc bệnh của lợn con. Lợn con

sau 2-3 ngày tuổi được tiêm Fe + B12 để phòng thiếu sắt, 100% lợn con sinh

ra được tiêm. Trong thời gian thực tập tại trại, trong 4295 con lợn con cho đã

60

cho 4274 con lợn con uống cầu trùng, tỷ lệ an toàn đạt 99,51%. Nguyên nhân

do khi cho uống em đã không cho uống đúng liều lượng hoặc do quá trình

ghép lợn con trong ngày không để ý đã ghép những con chưa được nhỏ vào

những ô đã nhỏ nên bị bỏ xót do đó lợn con vẫn có dấu hiệu mắc bệnh. Tham

gia tiêm vắc xin phòng bệnh suyễn cho 3707 con, tỷ lệ an toàn đạt 100%.

4.5. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái

4.5.1. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái

Bảng 4.7: Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái tại trại

Tỷ lệ mắc Chỉ tiêu Số lợn nái Số nái mắc bệnh Tên bệnh theo dõi (con) bệnh (con) (%)

Viêm tử cung 43 12,68

Viêm vú 346 27 7,80

Sát nhau 34 9,82

Qua bảng 4.7 cho thấy: Đàn lợn nái của trại mắc các bệnh như sau:

bệnh viêm tử cung, bệnh viêm vú, bệnh sát nhau. Trong đó, lợn nái mắc bệnh

viêm tử cung chiếm tỷ lệ 12,68%, tiếp đến là bệnh viêm vú chiếm 7,8 % và

bệnh sát nhau tỷ lệ là 9,82%.

Để giảm thiểu tỷ lệ mắc các bệnh trên lợn nái nhằm hạn chế bệnh sản

khoa ở lợn nái cần nâng cao sức đề kháng cho lợn trong thời kỳ mang thai và

sinh đẻ, điều chỉnh tăng, giảm cám thích hợp đối với những lợn nái đẻ lứa đầu

để con đẻ không quá to dẫn đến đẻ khó. Bên cạnh đó cần đảm bảo chuồng

nuôi phải đầy đủ ánh sáng, thoáng mát về mùa hè và kín gió về mùa đông.

61

4.5.2. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái

Bảng 4.8: Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái

Chỉ tiêu khảo sát

Tên Số nái Thời Số nái Tỷ lệ Đường bệnh điều trị Thuốc và liều lượng gian điều khỏi khỏi dùng trị (ngày) (con) (%) (con)

Gentamox: Viêm 1ml/10kgTT tử 43 Tiêm bắp 5 39 90,06 Oxytoxin: 2ml/con cung Analgin: 1ml/10kg TT

Gentamox:

Viêm 1ml/10kgTT 27 Tiêm bắp 4 27 100 vú Analgin: 1ml/10kg TT

Oxytoxin: 2ml/con

Oxytocin: 2ml/con

Sát Gentamox: 34 Tiêm bắp 3 31 91,17 nhau 1ml/10kgTT

Kết hợp thụt rửa

Kết quả bảng 4.8 cho thấy kết quả điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái

nuôi con tại, tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao, bệnh viêm vú có tỷ lệ khỏi là 90,06 %,

bệnh sát nhau có tỷ lệ khỏi là 100 %, bệnh viêm tử cung có tỷ lệ khỏi là 91,17%

4.6. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21

ngày tuổi

4.6.1. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

Kỹ thuật viên của trang trại luôn theo dõi, kiểm tra đàn lợn thường

xuyên, các bệnh xảy ra luôn được kỹ thuật viên phát hiện sớm, cách ly, điều

62

trị ở ngay giai đoạn đầu nên điều trị đạt hiệu quả từ 80 - 90% trong một thời

gian ngắn. Tiến hành chẩn đoán lợn mắc bệnh dựa vào các triệu chứng. Nhằm

hạn chế thiệt hại về số lượng đàn lợn.

Trong thời gian thực tập tại cơ sở tôi đã tham gia chẩn đoán và điều trị bệnh

cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Các bệnh lợn con mắc tại trại là:

Bảng 4.9 Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

nuôi tại trại

Chỉ tiêu theo dõi Tỷ lệ (%) Số con theo dõi (con) Số con mắc bệnh (con) 592 13,78 Tên bệnh Hội chứng tiêu chảy

387 9,00 Viêm phổi 4295 113 2,63 Viêm khớp

154 3,58 Viêm rốn

TỔNG SỐ 4295 1246 28,9

Kết quả bảng 4.9 cho thấy: Trong quá trình theo dõi 4295 lợn con từ sơ

sinh đến 21 ngày tuổi tôi thấy lợn con mắc 4 bệnh đó là: hội chứng tiêu chảy,

viêm phổi, viêm khớp, viêm rốn. Lợn con sinh ra nếu không được chăm sóc

và nuôi dưỡng đúng kĩ thuật sẽ rất dễ mắc bệnh, nếu không phát hiện sớm sẽ

gây chết ảnh hưởng đến kinh tế của trại.Trong đó tỷ lệ lợn mắc hội chứng tiêu

chảy là cao, có 592 con, chiếm 13,78%; tỷ lệ cao thứ 2 là viêm phổi thì có

387 con, chiếm 9,00%; lợn con mắc viêm rốn có 154 con, chiếm 3,58%; và

lợn mắc bệnh viêm khớp có 68 con, chiếm 2,63%. Tổng tỷ lệ mắc cả 4 bệnh

bệnh trên lợn con ở trại là 28,9 %

Lợn con mắc bệnh chủ yếu một phần là do thời tiết thay đổi, làm chết

nhiều lợn con, gây ra tổn thất lớn cho trại, một phần do công tác chăm sóc và

nuôi dưỡng không đúng kĩ thuật, vệ sinh chuồng trại, nền sàn ẩm ướt tạo điều

kiện cho mầm bệnh phát triển, thức ăn tập ăn cho lợn con không bảo quản cẩn

63

thận, ẩm ướt lợn con ăn phải gây nên hội chứng tiêu chảy ở lợn con, và do

thao tác, sử dụng dụng cụ buộc cắt dây rốn không đúng, dụng cụ cắt không

được vệ sinh ngâm sát trùng kỹ gây ra bệnh viêm rốn.

4.6.2 Kết quả điều trị bệnh cho lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

Khi phát hiện các biểu hiện lâm sàng ở lợn, tôi cùng với ký sư trong trại

tiến hành điều trị cho lợn bằng các phác đồ và biện pháp can thiệp mà trại

đang sử dụng.

Bảng 4.10. Kết quả điều trị bệnh cho lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

Kết quả Chỉ tiêu

Thuốc điều trị Đường tiêm Liều lượng (ml) Tỷ lệ (%) Số con khỏi Tên bệnh Thời gian dùng thuốc (ngày) Số con điều trị

Nova-Amcoli 0,5

Nor-100 1,0 4 592 545 92,12 Hội chứng tiêu chảy Tiêm bắp Paxell 0,5

0,5 Viêm phổi Nova Linco 5 387 310 98,41 Tiêm bắp

Viêm khớp Pendistrep LA 0,5 6 113 109 96,46 Tiêm bắp

Viêm rốn Vetrimoxin LA 0,5 3 154 153 99,35 Tiêm bắp

Kết quả bảng 4.10 cho thấy: Đối với hội chứng tiêu chảy ở lợn, dùng

thuốc Nor-100 tiêm bắp 1ml/con hoặc Paxell tiêm bắp 0,5ml/con hoặc Nor -

Amcoli tiêm bắp 0,5ml/con thời gian điều trị trong vòng từ 4 ngày. Kết quả

điều trị cho 592 con, khỏi 545con, đạt tỷ lệ 92,12%.

Đối với bệnh viêm phổi ở lợn, dùng Nova-Linco tiêm bắp 0,5ml/con,

thời gian điều trị trong vòng từ 5 ngày. Kết quả điều trị cho 387 con, khỏi

310 con, đạt 98,41%.

64

Đối với bệnh viêm khớp ở lợn, dùng thuốc Pendistrep LA tiêm bắp

0,5ml/con, thời gian điều trị trong vòng từ 6 ngày. Kết quả điều trị cho 113

con, khỏi 109 con, đạt tỷ lệ 96,46%.

Đối với bệnh viêm rốn ở lợn, dùng Vetrimoxin LA tiêm bắp 0,5 ml/con,

thời gian điều trị trong vòng từ 3 ngày. Kết quả điều trị cho 154 con, khỏi

153con, đạt tỷ lệ 99,35%.

Trong thời gian điều trị, những con bị mắc bệnh được theo dõi rất kỹ và

kết hợp với việc giữ vệ sinh sạch sẽ, nền sàn khô ráo để tăng khả năng hồi

phục của lợn con mắc bệnh.

4.7. Kết quả thực hiện những công việc khác trong thời gian thực tập tại

cơ sở

Trong 6 tháng thực tập tại trại ngoài việc thực hiện chuyên đề nghiên cứu,

tôi còn tham gia một số công tác khác. Kết quả được trình bày ở bảng 4.11

Bảng 4.11. Kết quả thực hiện những công việc khác trong

thời gian thực tập tại cơ sở

Kết quả thực hiện/khỏi STT Công việc Số lượng thực hiện (lợn con) Số lượng (con) Tỷ lệ (%)

1 Đỡ đẻ 4295 4295 100

3 Mổ hecni cho lợn con 145 132 91,03

4 Mài nanh,bấm số tai, 852 852 100

5 Cắt đuôi 4295 4295 100

6 Thiến 794 794 100

Kết quả bảng 4.11 cho thấy: Trong 6 tháng thực tập tôi thực hiện các

công việc khác tại trại không đồng đều. Công việc đỡ đẻ cho lợn được thực

hiện là 4295 con lợn con, kết quả đạt an toàn 100%.

65

Công tác mổ hecni cho lợn chiếm tỷ lệ thấp do số lượng lợn con bị hecni

ít, trong 6 tháng thực tập em có theo dõi và phát hiện được 145 con lợn con bị

hecni và tiến hành mổ khỏi được 139 con (đạt tỷ lệ 95,86%). Nguyên nhân

dẫn đến lợn con bị hecni chủ yếu là do di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một

phần là do trong quá trình thao tác kỹ thuật thiến lợn không đúng làm sa ruột

bẹn. Công tác mài nanh,bấm số tai cho lợn con được thực hiện là 852 con, kết

quả đạt an toàn 100%. Vì lợn con sau khi sinh cần phải mài nanh ngay nếu

không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú cũng tránh việc lợn con cắn nhau.

Công tác cắt đuôi cho lợn con được thực hiện là 4295, kết quả đạt 100%.

Công tác thiến được thực hiện là 1680 con đạt tỷ lệ là 100%.

66

Phần 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trang trại chăn nuôi Nguyễn Xuân

Dũng, em đã theo dõi và thực hiện một số công việc sau:

- Về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng lợn

+ Đã tham gia chăm sóc và nuôi dưỡng cho 346 lợn nái, lợn nái đẻ

trung bình 12,3 con/nái/lứa. Năng suất sinh sản đạt 2,45 lứa/nái/năm.

+ Chăm sóc, nuôi dưỡng 4295 lợn con, số con còn sống đến cai sữa là

3958 con, tỷ lệ nuôi sống đạt 92,15%.

- Về công tác phòng bệnh

+ Thực hiện quy trình vệ sinh, sát trùng chuồng trại hàng tuần theo lịch

của trại.

+ Thực hiện đỡ đẻ cho lợn nái số lợn con đẻ ra là 4295 con, bấm nanh,

cắt đuôi, bấm số tai cho 852 con, thiến 794 con, mổ hecni 145 con.

+ Cho 4295 lợn con uống Toltrazuril phòng bệnh cầu trùng.

+ Tiêm Nova - Fe + B12 cho 4295 lợn con phòng thiếu sắt.

+ Thực hiện tiêm phòng vắc xinMycoFLEX và CircoFLEX cho

3707con lợn con

- Công tác chẩn đoán, điều trị bệnh

+ Lợn con tại trại mắc bệnh hội chứng tiêu chảy (13,78%), viêm phổi

(9,00%), viêm khớp ( 2,63%), viêm rốn ( 3,58%).

Dùng thuốc Nova - Amcoli,Nor–100 và Paxel điều trị hội chứng tiêu

chảy, tỷ lệ khỏi bệnh là 92,12%.

Thuốc Nova –Linco điều trị viêm phổi, tỷ lệ khỏi bệnh là 98,41%.

Thuốc Pendistrep LA điều trị viêm khớp, tỷ lệ khỏi bệnh là 96,46%.

67

Dùng thuốc vetrimoxin LA điều trị viêm rốn, tỷ lệ khỏi bệnh là 99,35%.

5.2. Đề nghị

Kết thúc đợt thực tập tại trại tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng

cao năng suất chăn nuôi cũng như giảm tỷ lệ mắc bệnh trên lợn con theo

mẹ như sau:

-Trang trại cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và

quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các

bệnh về sinh sản.

- Công tác vệ sinh thú y cần được nâng cao hơn nữa, đặc biệt nâng cao

tinh thần trách nhiệm của công nhân và sinh viên thực tập trong việc vệ sinh

chuồng trại và chăm sóc cho lợn mẹ cũng như lợn con.

- Cán bộ kỹ thuật viên trong trại cần hướng dẫn chu đáo hơn cho công

nhân cách phát hiện lợn ốm kịp thời.

- Tiếp tục áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

- Công tác tiêm phòng và vệ sinh phòng bệnh cần thực hiện tốt hơn nữa.

- Cần có kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn

con nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất.

- Nên tiến hành tiêm phòng vắc xin E. coli phòng bệnh phân trắng lợn

trước khi đẻ 2 - 4 tuần.

- Cần tập cho lợn con ăn sớm đặc biệt là trong chăn nuôi tập trung..

- Nhà trường và khoa tiếp tục cử sinh viên xuống các trang trại thực tâp

tốt nghiệp để nâng cao kỹ năng nghề cho sinh viên

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Commented [H2]: Soát lại những chỗ e trích viết ở trên pải trùng với stt ở đây, những ông nào không có thì e pải tìm them rồi coppy vào. Them ai sẽ thay đổi STT nên để ý STT

I. Tài liệu Tiếng Việt

1. Archie Hunter (2000), Sổ tay dịch bệnh động vật, Phạm Gia Ninh, Nguyễn

Đức Tâm dịch, Nxb Bản đồ, Hà Nội, tr. 53, 204 – 207.

2. Trần Thị Dân (2008), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông

nghiệp, TP. Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn

E.coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện

pháp phòng trị, Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.

4. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hòa, Yamaguchi (2014),

“ Một số đặc điểm dịch tễ và bệnh lý của bệnh tiêu chảy thành dịch trên

lợn ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y,

tập XXI (số 2), tr. 43 - 55.

5. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli,

Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình

phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Đại học

Thái Nguyên.

6. Hội chăn nuôi Việt Nam (2000), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm,

Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

7. Phạm Sỹ Lăng (2009), “Bệnh tiêu chảy do vi khuẩn ở lợn và biện pháp

phòng trị”, Tạp chí khoa học thú y, tập XVI (số 5), tr. 80 - 85.

8. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

9. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

69

10. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Lan Hương (2004), Giáo

trình Vi sinh vật thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

11. Phạm Ngọc Thạch (1996), Một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng ở gia

súc, viêm ruột ỉa chảy và biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông

nghiệp, Hà Nội, tr. 20 - 32.

12. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 196.

13. Nguyễn Trung Tiến, Vũ Thị Thu Hằng, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Bá

Hiên, Lê Văn Phan (2015), “Một số đặc điểm phân tử của virus gây ra dịch

tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea- PED) tại Quảng Trị, Thái

Nguyên và Thái Bình từ năm 2013- 2014”, Tạp chí Khoa học và phát

triển, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

14. Nguyễn Tất Toàn, Đỗ Tiến Duy (2013), “Một số yếu tố liên quan và đặc

điểm bệnh học của dịch tiêu chảy cấp trên lợn con theo mẹ tại một số tỉnh

miền Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XX (số 2), tr. 5 - 11.

15. Nguyễn Văn Thiện ( 2002), Giáo trình Phương pháp nghuyên cứu trong

chăn nuôi, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ

16. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35.

17. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản

xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

18. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng

(1996), Bệnh ở lợn nái và lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

19. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

70

21. Lê Văn Năm (2009), Hướng dẫn điều trị một số bệnh ở gia súc, gia cầm,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên

(2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Trường Đại học Hùng Vương.

23. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo

trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

24. Nguyễn Như Pho (2002), “Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi

đến hội chứng M.M.A và khả năng sinh sản của heo nái”, Luận án Tiến sỹ

nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh

25. Nguyễn Văn Thanh (2003), “Khảo sát tỉ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên

đàn lợn nái ngoại nuôi tại đồng bằng sông Hồng và thử nghiệm điều trị”.

Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập 10: 11-17.

26. Nguyễn Văn Thanh (2004), Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở gia

súc, gia cầm, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng, Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Mai Thơ

(2016), Giáo trình bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

28. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn,

Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội.

29. Vũ Đình Tôn, Trần Thị Thuận (2006), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

II. Tài liệu Tiếng Anh

30 .Glawisching E., Bacher H. (1992), The Efficacy of E ycostat on E. coli

infected weaning pigg, IPVS Congress, August

31. Nagy B., Fekete P.Z.S (2005), “Enterotoxigenic Escherichia coli in

veterinary medicine”, Int J Med Microbiol,pp. 295

32 .Olanratmanee E., AnnopKunavongkrit, Padet Tummaruk (2010), “Impact

of epidemic virus infectionat different periods of pregnamcy on

71

subsequent reproductive performance in gilts and sows, Ani Rep Sci, pp. 1

- 26.

33 . Sun R. Q. Cai R. J, Song C. X., Chen D. K., Chen Y. Q., Liang P. S.

(2012), Outbreak of porcine epidemic diarrhea in suckling piglets China,

Emerging infectious diseases, Vol 18.No. 1, pp. 161 - 163.

34. Erwin M. Kohrler (1996), Epithelial cell invasion and adherence of K88,

K99, F41 and 987P position Escherichia coli to intestinal villi of 4 to 5

week old pigs, Vet. Microbiol, pp. 7-18.

35 Jones (1976), Role of the K88 antigen in the pathogenic of neonatal

diarrhea caused by Eschrichia coli in piglets, Infection and Immunity 6,

pp. 918 – 927.

36. Smith. R. A. và Nagy Band Feket Pzs, “The transmissible nature of the

genetic factor in E.coli that controls hemolysin production”, J. Gen.

Microbiol. 47, pp. 153 – 161.

Agriculture.

38. Xobko A.L., Gia Denko I.N. (1987), Pig disease Handbook Volume I,

Agriculture Publishing House

37. Vtrekaxova A.V. (1985), Disease boars and reproductive sows, Publisher of

III. Tài liệu Internet

39 Nguyễn Ánh Tuyết (2015), Bệnh viêm khớp trên lợn con,

http://nguoichannuoi.com/benh-viem-khop-tren-heo-con-fm471.html.

Ngày 19/5/2015

40 VietDVM team, Dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhoea

- PED), http://www.vietdvm.com/heo/benh-tren-heo/dich-tieu-chay-cap-

tren-heo-porcine-epidemic-diarrhorea-ped.html. Ngày 14/11/2014

49

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP

Hình 1: Thiến lợn đực Hình 2: Bấm nanh

Hình 3: Đỡ đẻ lợn con Hình 4: Mỗ héc ni

50

Hình 5: Can thiệp đẻ khó Hình 6: Cho lợn uống cầu trùng

Hình 7: Cắt đuôi lợn con Hình 8: Lợn con viêm phổi