ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VŨ THẠCH LAM

Tên chuyên đề :

THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN

TẠI TRANG TRẠI TRẦN VĂN TUYÊN XÃ ĐOÀN KẾT

HUYỆN YÊN THỦY - TỈNH HÒA BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Chuyên ngành: Thú y

Khoa: Chăn nuôi Thú y

Khóa học: 2015 - 2019

Thái Nguyên, năm 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VŨ THẠCH LAM

Tên chuyên đề :

THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN

TẠI TRANG TRẠI TRẦN VĂN TUYÊN XÃ ĐOÀN KẾT

HUYỆN YÊN THỦY - TỈNH HÒA BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Chuyên ngành: Thú y

Lớp: K47 - TY – N02

Khoa: Chăn nuôi Thú y

Khóa học: 2015 - 2019

Giảng viên hướng dẫn : TS. Hà Văn Doanh

Thái Nguyên, năm 2019

i

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã

hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Để có được kết quả này ngoài sự nỗ

lực của bản thân, em luôn nhận được sự giúp đỡ chu đáo, tận tình của nhà

trường, các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên, trang trại chăn nuôi Trần Văn Tuyên. Em xin bày tỏ lòng

kính trọng và biết ơn sâu sắc tới:

Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm

khoa cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận

tình dạy dỗ, dìu dắt em trong suốt quá trình học tập tại trường.

Trang trại chăn nuôi Trần Văn Tuyên, xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh

Hòa Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập, giúp em

hoàn thành tốt công việc trong thời gian thực tập tại cơ sở.

Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Hà Văn

Doanh đã luôn động viên, giúp đỡ và hướng dẫn, chỉ bảo em tận tình trong

suốt quá trình thực tập tốt nghiệp và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học

này.

Để góp phần cho việc thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đạt kết

quả tốt, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của gia đình, bạn

bè.Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước mọi sự giúp đỡ quý báu đó.

Trong quá trình viết báo cáo, sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất

mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn trong lớp để em được tích lũy

thêm kiến thức cũng như kinh nghiệm giúp cho em định hướng nghề được tốt

hơn trong tương lai.

Em xin chân thành cảm ơn.

Thái Nguyên, ngày 05 tháng 12 năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Vũ Thạch Lam

ii

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Cs: Cộng sự

Nxb: Nhà xuất bản

Kg: Kilogam

Ml: Mililit

STT: Số thứ tự

Ts: Tiến sỹ

TT: Thể trọng

iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................................. ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

PHẦN 1. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

1. Đặt vấn đề ............................................................................................................... 1

2. Mục tiêu- yêu cầu .................................................................................................... 2

2.1. Mục tiêu ............................................................................................................... 2

2.2. Yêu cầu ................................................................................................................ 2

Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................................. 3

2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập ................................................................................ 3

2.1.1. Điều kiện của trang trại ..................................................................................... 3

2.1.2. Đánh giá chung ................................................................................................. 8

2.2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu .................................................................... 9

2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái ............................................................. 9

2.2.2. Những hiểu biết về đặc điểm sinh lý tiết sữa của lợn nái và các

yếu tố ảnh hưởng ....................................................................................................... 13

2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ

và lợn nái nuôi con .................................................................................................... 16

2.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái ................................. 21

2.2.5. Những hiểu biết về phòng và trị bệnh cho vật nuôi ........................................ 22

2.2.6. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ nuôi con. .......... 26

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước ................................................ 35

2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước ............................................................ 35

2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài ........................................................ 36

Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ............... 39

3.1. Đối tượng ........................................................................................................... 39

3.2. Địa điểm và thời gian thực hiện ......................................................................... 39

3.3. Nội dung thực hiện ............................................................................................. 39

iv

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện .............................................................. 39

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi thực hiện ........................................................................ 39

3.4.2. Phương pháp thực hiện.................................................................................... 39

3.4.3. Công thức tính toán các chỉ tiêu. ..................................................................... 48

3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu:.............................................................................. 49

Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................... 50

4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại qua 3 năm từ 2017 – 2019 ..................................... 50

4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn tại trại ............... 51

4.2.1. Số lượng nái đẻ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại .................................. 51

4.2.2. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại được trực tiếp chăm sóc,

nuôi dưỡng ................................................................................................................ 52

4.2.3. Một số chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái sinh sản tại trại ................................ 53

4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho lợn nái tại trại .............................. 54

4.3.1. Kết quả công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại .............................................. 54

4.3.2. Kết quả công tác tiêm phòng bằng vắc xin ..................................................... 55

4.3.3. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại ................................... 56

Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................... 59

5.1. Kết luận .............................................................................................................. 59

5.2. Đề nghị ............................................................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 61

PHỤ LỤC .................................................................................................................. 64

MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ ................................................ 64

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trang trại ông Trần Văn Tuyên. ................................ 9

Bảng 2.2. Ý nghĩa của dịch chảy ra từ âm đạo qua thời gian xuất hiện.................... 18

Bảng 3.1. Quy định lượng thức ăn chuồng đẻ .......................................................... 41

Bảng 3.2. Lịch sát trùng trại lợn nái .......................................................................... 48

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Trần Văn Tuyên

qua 3 năm 2017 - 2019 .............................................................................................. 50

Bảng 4.2. Số lượng lợn nái đẻ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng

tại trại qua 6 tháng thực tập ....................................................................................... 51

Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại .............................................. 52

Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái ....................................... 54

Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại .............................................. 54

Bảng 4.6. Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh lợn nái sinh sản tại trại ........................ 55

Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại ............................. 56

Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại ................................... 57

1

PHẦN 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Việt Nam là một nước nông nghiệp có bề dày hàng ngàn năm lịch sử có

những lợi thế về tiềm năng đất đai, lao động, môi trường sinh thái, cho phép phát

triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Trồng trọt và chăn nuôi

là hai ngành không thể thiếu trong nông nghiệp, nó gắn liền với cuộc sống của

người lao động. Đặc biệt là ngành chăn nuôi không chỉ cung cấp khối lượng thực

phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nguồn đạm động vật như thịt, sữa, các sản phẩm

từ trứng, sữa mà còn là nguyên liệu cho ngành sản xuất hàng tiêu dùng (tơ tằm,

lông cừu, da), dược phẩm và là nguồn cung cấp phân hữu cơ cho ngành trồng

trọt.

Chăn nuôi lợn ở Việt Nam nói chung và tỉnh Hòa Bình nói riêng hết sức

quan trọng trong hệ thống chăn nuôi. Lợn là loại gia súc được nuôi nhiều và

được sử dụng để làm thực phẩm rất giàu giá trị dinh dưỡng rất cần thiết không

thể thiếu trong đời sống con người. Tuy nhiên, Việt Nam là đất nước có nền

chăn nuôi với trang thiết bị và kỹ thuật chưa cao dẫn đến khả năng tăng trưởng,

sinh trưởng và sinh sản chưa cao nên chưa đem lại lợi nhuận cao cho người chăn

nuôi và tăng nền kinh tế cho đất nước. Năm 2018, Việt Nam cần phải loại bỏ

hàng rào thuế quan và phi thuế quan, nó đòi hỏi sản phẩm của ngành chăn nuôi

phải chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao với các sản phẩm của nước ngoài,

Những năm gần đây do chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng

và Nhà nước, mọi ngành kinh tế đều phát triển, ngành chăn nuôi cũng có những

chuyển biến mạnh, tích cực. Nhiều giống lợn cao sản được nhập về nuôi thuần

thử nghiệm ở nước ta, đồng thời cải tạo các giống lợn nội để tạo ra thế hệ con

lai có năng suất chất lượng cao hơn nhưng vẫn thích nghi với điều kiện Việt

Nam.

2

Theo Bộ NN&PTNT, tình hình chăn nuôi năm 2018 gặp nhiều biến động,

đặc biệt là giá trị lợn thịt giảm sâu từ đầu năm khiến người chăn nuôi chịu thua

lỗ. Sau nhiều tháng chạm đáy, giá lợn hơi những tháng cuối năm đang có dấu

hiệu tăng trở lại nhưng vẫn không đủ để người chăn nuôi có lãi. Tình trạng giá

lợn thấp kéo dài, khó khăn trong khâu tiêu thụ khiến người chăn nuôi lợn giảm

đàn, bỏ đàn, treo chuồng. Theo kết quả điều tra chăn nuôi năm kỳ 01/10/2018,

đàn lợn cả nước có 28,15 triệu con, tăng 2,72% sản lượng thịt lợn hơi xuất

chuồng đạt 3,8 triệu tấn, tăng 1,45% so với năm 2017.

Trước thực trạng trên, được sự đồng ý của khoa CNTY - Trường đại học

Nông Lâm Thái Nguyên và sự hướng dẫn của thầy Hà Văn Doanh, tôi tiến hành

nghiên cứu chuyên đề:

“Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn

nái sinh sản tại trang trại Trần Văn Tuyên xã Đoàn Kết - huyện Yên Thủy -

tỉnh Hòa Bình”.

2. Mục tiêu- yêu cầu

2.1. Mục tiêu

- Đánh giá khả năng sinh sản của đàn lợn nái ngoại ở trang trại Trần Văn

Tuyên xã Đoàn Kết-huyện Yên Thủy-tỉnh Hòa Bình.

2.2. Yêu cầu

- Theo dõi thu thập đầy đủ và chính xác các số liệu có liên quan đến khả

năng sinh sản của đàn lợn nái ngoại ở trại.

3

Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập

2.1.1. Điều kiện của trang trại

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Trại chăn nuôi Trần Văn Tuyên nằm trên địa phận xã Đoàn Kết, huyện

Yên Thủy, nằm ở đông nam tỉnh Hòa Bình, cách thành phố Hoà Bình khoảng

85 km, thành phố Ninh Bình đường quốc lộ 1A khoảng 50km, cách thủ đô Hà

Nội, sân bay quốc tế nội bài khoảng 100 km, cách thành phố Sơn la tỉnh Sơn La

khoảng 250 km. Trại bắt đầu hoạt động từ năm 2013 là trại tư nhân và do ông Trần

Văn Tuyên làm chủ trại.

Vị trí địa lý của huyện Yên Thủy được xác định như sau:

- Phía đông giáp huyện Lạc Thủy.

- Phía tây giáp huyện Lạc Sơn.

- Phía nam giáp huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.

- Phía bắc giáp huyện Kim Bôi.

Huyện có 13 đơn vị hành chính, gồm 12 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích

tự nhiên là 282,1 km2.

2.1.1.2. Đặc điểm khí hậu

Yên thủy có khí hậu tương đối đặc trưng của Miền Bắc Việt Nam, lạnh về

mùa đông, nóng về mùa hè, vào mùa Hè còn có cả gió phơn từ phía tây thổi qua,

mát mẻ mùa thu và ấm áp vào mùa xuân. Đặc biệt do địa hình có độ dốc nhẹ về

phía đông và không có nhiều sông suối nên trên địa bàn hầu như không có lũ lụt

vào mùa mưa.

Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,8oC.

Nhiệt độ lúc cao nhất trong năm là 38,90oC, thấp nhất là 2,7oC.

4

Lượng mưa trung bình hàng năm là 1900 mm, năm cao nhất là 2460 mm,

năm thấp nhất là 1300 mm, lượng mưa nhiều nhất thường xuất hiện vào tháng

7, 8 hàng năm.

Đoàn Kết là một xã thuộc huyện Yên Thủy, nằm ở tỉnh Hòa Bình, trong

vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có bốn mùa rõ

rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Do đó trại Trần Văn Tuyên cũng chịu ảnh hưởng

chung của khí hậu vùng.

2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức của trang trại

Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm:

+ Nhóm quản lý: 1 chủ trại phụ trách chung, 1 bảo vệ chịu trách nhiệm

bảo vệ tài sản chung của trại.

+ Nhóm kỹ thuật: 2 kỹ sư chăn nuôi, 1 kỹ sư di truyền, 1 kỹ thuật điện, 1

kế toán phụ trách chuyên môn.

+ Nhóm công nhân: 15 công nhân, 7 sinh viên thực tập thực hiện công

việc chuyên môn.

Với đội ngũ nhân công trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau

như tổ chuồng nái đẻ, tổ chuồng nái chửa. Các tổ có bảng chấm công riêng cho

từng công nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc, quản lý

các thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và thúc đẩy sự phát

triển của trang trại.

2.1.1.4. Cơ sở vật chất của trang trại

Trang trại có tổng diện tích là 4,2 ha, nằm trên địa bàn xã Đoàn Kết, có

địa hình chủ yếu là núi đá vôi nhưng đường giao thông đã được nâng cấp, thuận

tiện cho việc đi lại, vận chuyển.

Để đảm bảo công tác phát triển sản xuất chăn nuôi và sinh hoạt của công

nhân, trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm:

Khu nhà điều hành, khu nhà ở cho công nhân, bếp ăn tập thể, các công

trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại.

5

Khu chăn nuôi có hàng rào bao bọc xung quanh và có cổng vào riêng.

Chuồng trại được quy hoạch, bố trí xây dựng phù hợp với hướng chăn nuôi công

nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, sàn

nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn.Chuồng nuôi

được xây dựng đảm bảo đủ cho 1200 nái cơ bản, bao gồm:

+ 3 chuồng nái đẻ: mỗi chuồng gồm khu A và khu B, mỗi khu có 2 dãy,

mỗi dãy có 29 ô chuồng được thiết kế sàn nhựa cho lợn con và sàn bê tông cho

lợn mẹ.

+ 2 chuồng nái chửa: chuồng 1 và chuồng 2, mỗi chuồng gồm 6 dãy, mỗi

dãy có 89 ô để nuôi và chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai, được sắp xếp

theo các kỳ mang thai khác nhau. Riêng chuồng 1: dãy 1 được thiết kế cho lợn

nái chờ phối, có khu thử lợn, ép lợn và dãy 2 có khu làm nơi thụ tinh nhân tạo

cho lợn nái.

+ 1 chuồng đực giống: bao gồm 34 ô để nuôi lợn đực và 1 ô để khai

thác tinh.

+ 4 chuồng cách ly: dùng để nuôi lợn hậu bị được nhập từ các trại gia công

lợn hậu bị của Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, mỗi chuồng có thể

nuôi được từ 30 - 40 lợn hậu bị.Lợn được nuôi ở đây trong thời gian 3 tháng,

thời gian này lợn được sử dụng vắc xin đầy đủ trước khi được đưa lên làm lợn

nái sinh sản.

Hệ thống chuồng được xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng

là hệ thống giàn mát, cuối chuồng được thiết kế quạt hút gió, có hệ thống điện

chiếu sáng và bóng đèn hồng ngoại để sưởi ấm, úm lợn con, đảm bảo thoáng

mát về mùa Hè, ấm áp về mùa Đông bằng cách điều chỉnh hệ thống quạt, giàn

mát và bóng đèn sưởi ấm trong chuồng. Mỗi chuồng được lắp đặt máy bơm

nước để tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại hằng ngày, cuối chuồng có hệ thống

thoát phân và nước thải. Bên cạnh chuồng lợn đực có xây dựng phòng pha chế

tinh, với đầy đủ dụng cụ và thiết bị như: kính hiển vi, nhiệt kế, đèn cồn, máy

6

ép ống tinh, tủ lạnh bảo quản tinh, nồi hấp, panh, kéo… Trong khu chăn nuôi,

đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các

chậu nước sát trùng để trước cửa ra vào chuồng. Nhìn chung khu vực chuồng

nuôi được xây dựng khá hợp lý, thuận lợi cho việc chăm sóc, đi lại, đuổi lợn

giữa các dãy chuồng.

Ngay tại cổng vào khu chăn nuôi có xây dựng 5 phòng tắm sát trùng cho

cán bộ kỹ thuật và công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, 1 kho

thuốc, 2 kho cám, 1 phòng ăn và 2 phòng nghỉ trưa cho công nhân.

Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: tủ lạnh bảo quản vắc xin,

tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc của trại, xe chở cám từ nhà kho xuống các

dãy chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng

nuôi

2.1.1.5. Tình hình chăn nuôi tại cơ sở trong những năm qua

* Công tác chăn nuôi:

Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến

bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,40-

2,45 lứa/năm. Số con sơ sinh là 13 con/đàn, số con cai sữa là 11,46 con/đàn,

lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành

cai sữa và chuyển sang các trại chăn nuôi lợn giống của công ty CP. Theo đánh

giá của Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam thì mức độ sản xuất của trại

vào loại khá.

Trang trại có 29 con lợn đực giống. Các lợn đực giống này được nuôi

nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh

nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 3 giống lợn là Landrace, Yorkshire và

Duroc. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng như lợn đực.

Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao,

được Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp cho từng đối tượng

lợn của trại.

7

*Công tác vệ sinh:

Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại luôn được thực hiện nghiêm

ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật viên Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt

Nam.

- Công tác vệ sinh:

Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa Hè, ấm áp về mùa Đông,

xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây xanh nhằm tạo sự thoáng mát tự

nhiên.

Hàng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân,

nước tiểu, khơi thông cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun thuốc

sát trùng, hành lang đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy định.

Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải

sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động.

* Công tác phòng bệnh:

Trong khu vực chăn nuôi, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng

đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại được sát trùng một cách nghiêm

ngặt ngay tại cổng vào.

Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trang trại thực hiện nghiêm

túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm phòng riêng,

từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực cho đến lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng

thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm

và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn.

Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%.

* Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn

lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được kỹ thuật viên

phát hiện sớm, cách ly, điều trị ngay ở giai đoạn đầu, vì vậy hiệu quả điều trị

thường cao (85 – 95%) trong một thời gian ngắn, không gây thiệt hại nhiều cho

trang trại.

8

2.1.2. Đánh giá chung

2.1.2.1. Thuận lợi

- Được sự quan tâm, tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn

của UBND xã Đoàn Kết, Trạm Thú y huyện Yên Thủy.

- Được Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp về con giống,

thức ăn và thuốc thú y có chất lượng tốt.

-Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: xa khu dân cư, thuận tiện đường

giao thông.

- Chuồng trại được trang bị bằng các thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ

thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi.

- Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn quan

tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.

- Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn vững vàng; đội ngũ công nhân

rất nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do đó

đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.

2.1.2.2. Khó khăn

- Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu về số lượng, do đó ảnh hưởng

đến tiến độ công việc.

- Trang thiết bị,vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu, chưa đáp ứng được

nhu cầu sản xuất.

- Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch

bệnh khó kiểm soát, gây khó khăn cho chăn nuôi. Những khó khăn trên đòi

hỏi trại phải đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh và nâng cao sức đề

kháng cho đàn lợn tại trại.

2.1.3 Kết quả sản xuất của cơ sở trong 3 năm gần đây

Kết quả sản xuất của trang trại được trình bày chi tiết ở bảng 2.1

9

Bảng 2.1. Kết quả sản xuất của trang trại ông Trần Văn Tuyên.

Chỉ tiêu

Tổng số nái sinh sản TB (con) Tổng phối (con) Tổng phối đạt (con) Tỷ lệ phối đạt (%) Tổng số nái xuống đẻ (con) Tổng số lợn con sinh ra (con) Trung bình số lợn con sinh ra/nái (con) Tổng số lợn con sơ sinh chết (con) Tỷ lệ lợn con sơ sinh chết (%) 2017 1.208 3.268 2.911 89,08 2.911 36.992 12,71 3688 9,97 2018 1.071 2.602 2.353 90,43 2.353 35.122 15,31 4532 12,58 5/2019 1.066 1.212 1.123 92,66 1.123 16.070 13,00 978 6,69 STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9

Qua bảng 2.1 cho thấy: Trại đã chăn nuôi lợn đạt năng suất khá cao và có

chiều hướng tăng dần theo các năm từ năm 2017 đến tháng 5 năm 2019.

Tỷ lệ phối từ 2017 đến tháng 5 năm 2019 tăng dần từ 89,08% lên 92,66%.

Và trung bình số lợn con sinh ra/nái cũng tăng dần từ 12,71 đến 13 con/nái. Đỉnh

điểm là năm 2018 trung bình số lợn con sinh ra/nái đạt 15,31 con/nái. Bên cạnh

đó tỷ lệ lợn con sơ sinh chết cũng giảm từ 9,97 xuống chỉ còn 6,69%.

2.2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu

2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái

2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc

* Sự thành thục về tính

Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định thì sẽ có biểu hiện về tính

dục. Tuổi thành thục về tính là tuổi mà con vật bắt đầu có phản xạ tính dục và

có khả năng sinh sản theo Hoàng Toàn Thắng và cs. (2006) [25].Khi gia súc đã

thành thục về tính, bộ máy sinh dục đã phát triển hoàn thiện, dưới tác dụng của

thần kinh nội tiết tố con vật bắt đầu xuất hiện các phản xạ về sinh dục. Con cái

có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối.

Khi đó ở con cái các noãn bào chín và rụng trứng (lần đầu), con đực có

phản xạ sinh tinh. Đối với các giống gia súc khác nhau thì thời gian thành thục

10

về tính khác nhau, ở lợn nội thường từ 4-5 tháng tuổi (120-150 ngày), ở lợn

ngoại (180-210 ngày) (Võ Trọng Hốt và cs. (2000) [11]).

Tuy nhiên thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, chế độ

dinh dưỡng, khí hậu, chuồng trại, trạng thái sinh lý của từng cá thể.

+ Giống

Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Ở

lợn lai tuổi động dục đầu tiên muộn hơn so với lợn nội thuần. Lợn lai F1 bắt đầu

động dục lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50-55kg. Lợn ngoại động

dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6-7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng

65-68kg. Còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4-5 tháng tuổi. Cụ thể

lợn Landrace nhập vào nuôi ở Việt Nam có tuổi động dục lần đầu là 208-209

ngày.

Tùy theo giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà lợn có tuổi

động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 -

5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi), các giống lợn ngoại Yorkshire, Landrace

muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi.

+ Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng

Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn

nái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về

tính sớm hơn những lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém.

Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về tính là do sự tác động xấu

lên tuyến yên và sự tiết kích tố, nếu thừa dinh dưỡng cũng ảnh hưởng đến sự

thành thục là do sự tích lũy xung quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm

giảm chức năng bình thường của trứng, mặt khác do béo quá ảnh hưởng đến

hoocmôn oestrogen và progesteron trong máu làm cho hàm lượng của chúng

trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc đẩy sự thành thục.

+ Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng:

Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng cũng là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt đến tuổi

động dục. Mùa hè lợn cái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu – đông,

11

điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức

tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Những con được chăn thả tự do thì

xuất hiện sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa xuân) và

17 ngày (mùa thu). Mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với

các mùa khác trong năm, bóng tối cũng làm chậm tuổi thành thục về tính so

vớinhững biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 112 giờ mỗi ngày

(Dwane và cs. (2000) [8])

+ Mật độ nuôi nhốt:

Mật độ nuôi nhốt đông trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát

triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Nhưng cần tránh nuôi cái hậu bị tách biệt đàn

trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc nuôi nhốt lợn cái hậu

bị riêng từng cá thể sẽ làm chậm lại thành thục tính so với lợn cái được nuôi

nhốt theo nhóm. Bên cạnh những yếu tố trên thì đực giống cũng là một trong

những yếu tố ảnh hưởng đến tuổi động dục của lợn cái hậu bị. Nếu cái hậu bị

thường xuyên tiếp xúc với đực giống sẽ nhanh động dục hơn cái dự bị không

tiếp xúc với lợn đực giống. Lợn cái hậu bị ngoài 90kg thể trọng ở 165 ngày tuổi

cho tiếp xúc 2 lần trên ngày với lợn đực, mỗi lần cho tiếp xúc 15-20 phút thì tới

83% lơn cái hậu bị động dục lần đầu.

*Sự thành thục về thể vóc

Sự thành thục về thể vóc thường diễn ra chậm hơn sự thành thục về tính.

Sau một thời kỳ sinh trưởng và phát triển, đến một thời điểm nhất định con vật

đạt tới độ trưởng thành về thể vóc. Tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát

triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, xương đã được cốt hóa

hoàn toàn, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậmhơn so

với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng

động dục lần đầu tiên.Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn

tiếp tục, trong giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ

không tốt. Vì lợn mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào

12

thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém. Đồng thời cơ quan sinh dục,

đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh

hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối

giống quá sớm. Đối với lợn cái nội khi được 7-8 tháng khối lượng đạt 40-50kg

nên cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8-9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100-

110 kg mới nên cho phối.

2.2.1.2. Những hiểu biết về sinh lý đẻ

Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7] gia súc cái mang thai trong một

thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác

động của cơ chế thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy

bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài.

Đẻ là quá trình đưa thai đã phát triển thành thục theo đường sinh dục của mẹ

ra ngoài. Nếu không đủ hai điều kiện trên tức là đẻ không bình thường.

Trước khi đẻ, cơ thể mẹ có nhiều thay đổi quan trọng có liên quan tới việc

đẩy thai ra ngoài như: dây chằng xương chậu giãn, gia tăng chiều dài từ 25 -

30% so với bình thường (người ta gọi là hiện tượng sụt lưng), nút cổ tử cung

loãng. Trước khi đẻ từ 12 - 48 giờ thân nhiệt hơi hạ xuống. Cổ tử cung mở, sữa

bắt đầu tiết.

Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần

kinh - thể dịch.Khi thai đã thành thục thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai

không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành như một ngoại vật trong tử

cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ. Khi lợn đẻ toàn thân co bóp,

thường gọi là cơn đau, lúc này áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Khi

thai ra rốn thai tự đứt, lợn là một loài đa thai nên đẻ từng con một, cách khoảng

10-15 hoặc 20 phút đẻ 1 con. Thời gian đẻ của lợn trung bình kéo dài từ 1-6

giờ, nếu quá 6 giờ mà thai chưa ra thì cần xem xét để có biện pháp tác động

ngay.

13

2.2.2. Những hiểu biết về đặc điểm sinh lý tiết sữa của lợn nái và các yếu tố

ảnh hưởng

* Sinh lý tiết sữa của lợn nái

Theo Hoàng Toàn Thắng và cs. (2005) [25] sữa là sản phẩm tiết ra từ

tuyến vú, là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa, hấp thu, rất cần

thiết cho gia súc non đang bú sữa và là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng

cao đối với con người.

Đối với lợn bầu vú không có bể sữa. Sữa được sản xuất ra từ các tuyến bào

và được tích lũy trong các xoang tuyến bào. Việc tiết sữa của chúng được thực hiện

theo cơ chế thần kinh, thể dịch và theo ba pha.

Sự tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý

phức tạp.Khi lợn con mút bú, đầu tiên lợn con ngậm và thúc vào vú mẹ, luồng

xung động hưng phấn thần kinh theo dây thần kinh hướng tâm truyền về vỏ

não, rồi tới vùng dưới đồi, tiết các yếu tố giải phóng, các yếu tố giải phóng

tác động lên thùy sau tuyến yên, kích thích tiết kích tố oxytoxin, oxytoxin đi

tới tuyến vú và làm co bóp tế bào biểu mô, cơ tuyến bào và cơ tuyến vú. Nhờ

vậy sữa được thải ra từ các xoang tuyến bào, qua ống dẫn sữa nhỏ, rồi ống

dẫn sữa lớn và chảy ra ngoài theo ống tiết sữa, từđó lợn con mới bú được. Do

vậy, khi lợn con bú sữa, chúng được thực hiện theo ba pha như sau: Pha ngậm

và thúc vú (80-100s), pha nằm im (20s) và pha mút vú (20s). Do tác động của

oxytoxin trong máu khác nhau cho nên các vú khác nhau và cho sản lượng

sữa khác nhau.

Sản lượng sữa và chất lượng sữa ở các vị trí khác nhau của bầu vú cũng

không giống nhau: các vú trước ngực sản lượng sữa cao, phẩm chất tốt, các vú

phía sau nhìn chung kém (Nguyễn Khánh Quắc và cs. 1995) [22]. Theo Trương

Lăng (2000) [12] vú nằm ở trước ngực sản lượng sữa tiết nhiều hơn, trong thời

kỳ tiết sữa lợn con bú ở vú sau được 32 - 39 kg thì vú trước cho 36 - 45 kg sữa

vì oxytoxin theo máu đến vú trước sớm hơn. Vì vậy để đảm bảo tính đồng đều

của toàn ổ lợn ta nên cố định những con nhỏ hơn bú vú trước, nhất thiết phải

14

cho lợn con bú sữa đầu chậm nhất là 2 giờ sau đẻ để lợn con có đủ kháng thể

trong năm đầu sau khi sinh vì trong sữa đầu của lợn mẹ có chứa  globulin giúp

cho cơ thể lợn con có sức đề kháng với ngoại cảnh. Theo Phan Đình Thắm

(1996) [24] thì nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu vì trong sữa đầu có hàm

lượng globulin cao hơn sữa thường và đây là chất chủ yếu giúp lợn con có sức

đề kháng.

Lượng sữa của lợn nái tiết sữa tăng cao dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21

ngày sau khi đẻ, sau đó giảm dần. Do đó ở tuần thứ tư có sự khủng hoảng vì

thiếu sữa mẹ khi đàn lợn con đang sức tăng trưởng cao. Để tránh hiện tượng đàn

con tăng trưởng chậm lại, tập cho lợn con ăn sớm là một biện pháp kỹ thuật cần

thiết.

* Sữa lợn mẹ

Sữa lợn mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ nuôi sống

của lợn con. Để lợn con phát triển tốt thì cần rất nhiều sữa, lượng sữa mẹ sau

khi sinh đến khoảng 3 tuần sẽ đạt mức cao nhất, sau đó sẽ từ từ giảm dần.

Việc cai sữa cho lợn con có thể thực hiện được ngay từ khi đẻ ra, tuy nhiên

sữa lợn mẹ luôn được coi là nguồn thức ăn lý tưởng cho lợn con. Nguyên liệu

để tạo nên sữa đều được lấy từ máu, phải có một máu rất lớn chảy qua bầu vú

mới đảm bảo cho nhu cầu tạo sữa: khoảng 540 lít máu chảy qua bầu vú mới

tạo được thành 1 lít sữa lợn mẹ. Sữa lợn mẹ tiết ra trong vòng 2-3 ngày đầu

sau khi đẻ gọi là sữa đầu. Theo Trịnh Văn Thịnh (1978) [26] cho rằng thức

ăn đầu tiên của lợn con là sữa đầu. Sữa đầu có đặc điểm là màu vàng đặc và

hơi mặn, khi đun dễ ngưng kết. Thành phần dinh dưỡng của sữa đầu khác hẳn

so với sữa thường, trong sữa đầu các thành phần như protein, vitamin… đều

cao hơn so với sữa thường. Trong sữa đầu lượng vật chất khô đạt 22,3%, cao

hơn sữa thường chỉ có 19,6%. Hàm lượng protein cũng cao hơn là 11,5% so

với 6,8% của sữa thường, tuy nhiên hàm lượng khoáng, chất béo và đường

lactose lại thấp hơn.

15

Đặc biệt trong sữa đầu có chứa nhiều kháng thể globulin (gama

globulin) và các chất khác bảo vệ lợn con mới đẻ chống lại sự tấn công của

các vi rút, vi trùng gây bệnh. Lượng globulin chiếm khoảng 50% tổng số

protein của sữa đầu, sau đó giảm dần. Khả năng hấp thụ globulin của lợn con

chỉ xảy ra trong những giờ đầu sau khi sinh (trong vòng 24 giờ đầu tiên). Do

vậy sữa đầu đóng vai trò quan trọng đối với lợn con theo mẹ.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái

Theo Trương Lăng (2000) [12], khả năng tiết sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào

mức độ dinh dưỡng thức ăn, giống lợn và số lượng lợn con và một số yếu tố khác.

+ Giống và cá thể

Các giống lợn khác nhau có khả năng tiết sữa khác nhau. Các giống lợn

được cải tạo có năng suất sữa cao hơn các giống lợn chưa được cải tạo. Ví

như lợn Ỉ có sản lượng sữa bình quân là 20,1 - 25 kg, lợn Móng Cái là 27,5 -

29,1 kg, lợn Đại Bạch nuôi tại Việt Nam có sản lượng sữa bình quân là 40 -

50 kg. Các tài liệu gần đây cho biết lợn nái Yorkshire và Landrace có thể tiết

>10 lít sữa / ngày.

Thể trạng của lợn mẹ cũng ảnh hưởng đến năng suất sữa trong thời kỳ đầu

của quá trình tiết sữa. Lợn mẹ gầy yếu thì khả năng tiết sữa kém hơn lợn mẹ có

thể trạng trung bình. Chúng ta có thể tăng lượng thức ăn sử dụng cho lợn mẹ trong

những ngày đầu tiên sau khi đẻ, tuy nhiên nếu lợn mẹ gầy yếu được ăn thức ăn

cao chỉ có thể làm tăng tỷ lệ mỡ sữa mà không làm tăng sản lượng sữa. Đối với

lợn có thể trạng trung bình, nếu cho ăn nhiều thức ăn trong giai đoạn đầu của quá

trình tiết sữa sẽ làm tăng sản lượng sữa và có xu hướng làm giảm hao hụt của lợn

mẹ trong quá trình tiết sữa.

+ Tuổi và lứa đẻ lợn mẹ

Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [5], lứa đẻ tốt nhất là lứa thứ

2 đến lứa thứ 6-7. Tuổi sinh sản ổn định từ năm tuổi thứ 2 đến năm tuổi thứ 4,

sang năm đẻ thứ 5 lợn có thể đẻ tốt nhưng con đẻ ra bị còi cọc, chậm lớn, nái

già thường hay đẻ khó, thai chết lưu và cắn con.

16

Sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần từ lứa thứ 1 - 3, ổn định từ lứa 3 - 8,

sau đó giảm dần theo sự tăng lên của tuổi. Đó là do lợn nái đẻ lứa đầu, các

tuyến bào chưa phát dục hoàn chỉnh, chưa có thói quen cho lợn con bú nên sản

lượng sữa ở lứa đầu thấp nhất. Còn ở lứa đẻ tiếp theo sản lượng sữa bắt đầu

tăng, đạt đỉnh cao ở lứa thứ 3, sau đó ổn định và giảm dần từ lứa thứ 8,9 trở đi.

Do vậy hiện nay nhiều nước loại thải lợn mẹ sau khi đẻ 7 - 8 lứa.

Trong một chu kỳ tiết sữa, lượng sữa tăng dần sau khi đẻ và đạt cao nhất

ở tuần thứ 3, sau đó giảm dần đến tuần thứ 8.

+ Nuôi dưỡng và chăm sóc

Là yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến sản lượng sữa của lợn nái. Nuôi dưỡng

ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sản lượng sữa vì những chất dinh dưỡng

cần thiết để tạo thành sữa đều lấy từ thức ăn. Tỷ lệ nuôi sống ở lợn con được

tăng lên nếu chúng ta cho lợn mẹ ăn khẩu phần ăn có nhiều chất béo ở giai

đoạn cuối của giai đoạn chửa và thời kỳ tiết sữa đầu. Cơ sở của vấn đề này là

khi cho lợn mẹ ăn nhiều chất béo sẽ làm tăng tỷ lệ mỡ sữa, do vậy cung cấp

cho lợn con nhiều năng lượng hơn.

Khẩu phần ăn của lợn nái trong quá trình có chửa và tiết sữa có ảnh

hưởng đến các thành phần hóa học của sữa. Khi cho lợn nái ăn tăng khẩu phần

ăn, sẽ làm tăng thành phần hóa học của sữa thông qua tăng quá trình trao đổi

đến bầu vú lợn mẹ. Quá trình hình thành các chất dinh dưỡng của sữa lợn mẹ

được thông qua quá trình tổng hợp, một số thông qua quá trình lọc và một số

chuyển thẳng trực tiếp từ máu. Hàm lượng các vitamin của sữa phụ thuộc vào

hàm lượng các vitamin trong thức ăn và cả lượng vitamin dự trữ ở gan hoặc

các tế bào.

2.2.3. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn

nái nuôi con

2.2.3.1. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ

- Quy trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [21], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải

17

là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao,dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn

thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai

chết ngạt.

Trước khi sinh 3 ngày phải giảm thức ăn xuống từ 3 - 1kg/ngày. Đối với

những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn,

đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe

yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng

cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa.

Lợn nái sắp đẻ có những biểu hiện: ỉa đái vặt, bầu vú căng mọng, bóp đầu

vú sữa chảy ra, khi thấy có nước ối và phân xu, lợn nái rặn từng cơn là lợn con

sắp ra. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có

pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều

một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn.

- Quy trình chăm sóc

Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến

năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Cần phải vệ sinh chuồng trại,

tắm chải lợn mẹ sạch sẽ, diệt ký sinh trùng ngoài da. Cần giữ vệ sinh sạch sẽ

vùng giữa âm hộ với hậu môn, vùng này thường chứa nhiều lớp nhăn, da chết

bẩn hoặc dính phân, chúng dễ vấy nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai.

Cần giữ không khí yên tĩnh, thoáng mát vì khi nhiệt độ cao, không khí

nóng, không thông thoáng sẽ làm nái thở mệt, lười rặn, đẻ chậm gây ngộp thở

nhiều lợn con. Bên cạnh đó sự ồn ào, lạ người chăm sóc sẽ làm nái hoảng sợ

hoặc hung dữ, ngưng đẻ hoặc đẻ chậm dẫn đến số lợn con tử vong lúc đẻ tăng

cao. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ

sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con

và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng.

Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ.

Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm trong những

ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ những

18

đất hoặc phân bám dính trên người, tắm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm

hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp

xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh.

Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó cũng là một quá trình quan trọng

trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ. Ô úm có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè

chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ

mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống

chế nhiệt độ thích hợp, giúp giữ ấm nhiệt độ cho lợn con đặc biệt vào mùa

đông.

Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú,thân nhiệt

lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sót nhau, sốt sữa hoặc

nhiễm trùng... để có biện pháp xử lý kịp thời.

Bảng 2.2. Ý nghĩa của dịch chảy ra từ âm đạo qua thời gian xuất hiện

Thời gian xuất hiện dịch Ý nghĩa

1 – 4 ngày sau khi đẻ Bình thường

>5 ngày sau khi đẻ Viêm

Khi phối Bình thường

>5 ngày sau khi phối Bình thường

14 – 21 ngày sau khi phối giống Viêm

Trong khi mang thai Viêm

2.2.3.2. Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái nuôi con

- Quy trình nuôi dưỡng

Lợn nái đẻ xong nên cho ăn tăng dần, từ ngày thứ 3 hoặc thứ 4 trở đi cho

ăn tự do (4 - 6kg/ngày/nái). Đảm bảo đủ nước uống cho nái vì lợn tiết sữa sẽ

uống rất nhiều nước, từ 30 - 50 lít nước mát, sạch/ngày/nái.

Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải đủ và cân bằng dưỡng chất, phải là

19

những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Máng ăn

phải sạch sẽ, không để thức ăn mốc, thừa, không nên thay đổi thức ăn của lợn

nái. Vì trong thời gian nuôi con, lớp mỡ bọc thân của nái bị mất đi do phải rút

lượng canxi, phospho, chất béo dự trữ trong cơ thể để hỗ trợ cho sự tiết sữa,

do đó sau khi đẻ nái nhanh gầy, xương trở nên xốp, chân dễ bại liệt. Nếu cung

cấp dư thừa sắt trong khẩu phần ăn của nái nuôi con cũng không đảm bảo đủ

lượng sắt mà lợn con nhận được, mà còn dẫn đến tình trạng lợn con thiếu sắt

ở tuần tuổi thứ 2, thứ 3 trở đi. Vì vậy cần bổ sung đầy đủ sắt trong khẩu phần

ăn của lợn nái từ giai đoạn mang thai để đảm bảo cung cấp đủ sắt cho lợn con

sau khi sinh. Việc bổ sung chế phẩm iod cho nái để tăng hoạt động của tuyến

giáp cũng giúp cho nái tiết sữa nhiều, nhưng cần phải thận trọng vì nếu dùng

quá liều sẽ dẫn đến các triệu chứng viêm vú, sốt sữa, tuyến sữa bị teo, tắc sữa.

Có thể tiêm thêm các vitamin ADE, cho nái sau khi đẻ, thức ăn nái nuôi con

cần có crom hữu cơ giúp nái hấp thu tốt tối đa lượng đường, bảo toàn thể

trạng khi nuôi con. Cần bổ sung các loại thức ăn là các loại thức ăn xanh non

như các loại rau xanh, các loại củ quả. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo,

các loại thức ăn bổ sung đạm thực vật, khoáng, vitamin... Không cho lợn nái

nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp

cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ

protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn.

Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau:

- Đối với lợn nái ngoại

+ Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg)

hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do.

+ Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ

1 -2-3kg tương ứng.

+ Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4kg thức ăn hỗn

hợp/nái/ngày.

20

+ Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức:

Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg + (số con x 0,40kg/con).

+ Số bữa ăn trên ngày: 3 (sáng, chiều và đêm).

+ Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức

ăn/ngày.

+ Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%

+ Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn.

- Đối với lợn nái nội

+ Công thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/1 ngày đêm

Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày đêm

được tính như sau:

Thức ăn tinh = 1,2 kg + ( số lợn con theo mẹ x 0,18 kg ).

Thức ăn thô xanh: 0,3 đơn vị.

Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày

đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau:

Thức ăn tinh = 1,4 kg + ( số con theo mẹ x 0,18 kg ).

Thức ăn thô xanh: 0,4 đơn vị.

- Quy trình chăm sóc

Sau khi nái đẻ xong cần theo dõi nhiệt độ cơ thể (giai đoạn sau đẻ 7

ngày), thường thì thân nhiệt nái ở khoảng 390C, nếu thân nhiệt trên 400C nái

sốt cao,bỏ ăn là tình trạng báo động có viêm nhiễm trùng sau đẻ (cần phân biệt

hội chứng viêm vú- viêm tử cung- mất sữa (MMA) với sốt sữa- milk fever).Vì

vậy giai đoạn này cần phải có biện pháp vệ sinh sát trùng khu vực nái đẻ, theo

dỗi để phát hiện kịp thời và điều trị bệnh một cách thích hợp. Cần phải chú ý

đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin.

Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo,

sạch sẽ, không có mùi hôi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng

trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn

21

con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 -

200C, độ ẩm 70 - 75% và ánh sáng phải chiếu 24/24 giờ.

2.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái

Là chỉ tiêu kinh tế rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào khả năng đẻ nhiều

hay ít con của giống, trình độ phối giống của người nuôi dưỡng chăm sóc và

điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái chửa. Trong 24 giờ sau khi sinh những

con không đạt khối lượng sơ sinh trung bình của giống, dị dạng... thì sẽ bị

loại thải.

Lợn con mới sinh có thể chia thành 3 dạng dưới đây:

Loại thai non: Là loại thai phát triển không hoàn toàn, chết trong thời gian

có chửa và trước khi sinh ra.

Loại thai gỗ: là loại thai chết trong tử cung lợn mẹ lúc 25 - 90 ngày tuổi.

Dịch thai và tất cả các dịch trong tế bào tổ chức bào thai được cơ thể mẹ hấp thụ

qua niêm mạc tử cung, các tổ chức khác của thai rắn lại, thể tích co nhỏ thành

cục màu nâu đen, cứng.

Loại đẻ ra còn sống: trong vòng 24 giờ sau khi sinh, những lợn con không

đạt khối lượng sơ sinh trung bình của giống, không phát dục hoàn toàn, dị

dạng,...thì sẽ bị loại thải. Ngoài ra, một số lợn con mới sinh chưa nhanh nhẹn dễ

bị lợn mẹ đè chết.

Số con chết lúc sơ sinh, số thai non, số thai gỗ là nguyên nhân làm giảm

số lượng lợn con sơ sinh sống đến 24 giờ/lứa.

2.2.4.1. Số con cai sữa/ nái/ năm

Đây là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật rất quan trọng, quyết định năng suất

trong chăn nuôi lợn nái, nó phụ thuộc vào kỹ thuật chăn nuôi lợn con bú sữa,

khả năng tiết sữa, khả năng nuôi con của lợn mẹ và khả năng hạn chế các yếu

tố gây bệnh cho lợn con.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] hiệu quả chăn nuôi lợn nái sinh

sản được đánh giá bằng số lợn con cai sữa/nái/năm. Các nhà nghiên cứu tập

trung vào vấn đề lợn con chết trong giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa đã thống

22

kê khoảng 3 - 5% số lợn con chết khi sơ sinh, bao gồm: lợn con chết do lợn

mẹ đẻ khó và lợn con chết trong giai đoạn chửa kỳ cuối. Các nguyên nhân

chủ yếu lợn con chết trong giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa là bị lợn mẹ đè và

không bú được chiếm 50%, nhiễm khuẩn 11,1%, dinh dưỡng kém 8%, di

truyền 4,5%, các nguyên nhân khác 26,4%. Do đó, cùng với việc cải tạo điều

kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, tích cực kiểm tra thành tích sinh sản của lợn nái

thì khả năng truyền giống của lợn đực rất cần thiết, có ý nghĩa trong công tác

giống và thực tiễn sản xuất chăn nuôi.

2.2.5.Những hiểu biết về phòng và trị bệnh cho vật nuôi

2.2.5.1. Phòng bệnh

Như ta đã biết “Phòng bệnh hơn chữa bệnh ", nên khâu phòng bệnh

được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn

được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh được tổng hợp được đưa lên

hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do

vậy,việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác

nhau:

- Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt:

Bệnh xuất hiện trong một đàn lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có

thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm, hoặc không truyền nhiễm

hoặc có sự kếp hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng

nhằm kiểm soát các khả năng bệnh tật xảy ra trên đàn lợn. Phần lớn các biện

pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và

nâng cao sức đề kháng của lợn.

Theo Lê Văn Năm và cs.(2009)[16], vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn là

vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vật chủ.Khi môi trường

quá ô nhiễm do vệ sinh chuồng trại kém,nước uống thức ăn bị nhiễm vi khuẩn,

điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bị cảm nhiễm E.coli,

bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vệ sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong

phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kĩ thuật là điều rất

23

cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả

năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vệ sinh

tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 27 - 30ºC với

lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng

trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi

điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng

bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.

- Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi

Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi,thoáng

mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh.

Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau

đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 15

ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản.Với những

chuồng nuôi lưu cữu hoặc những chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền

nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi

chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng kỹ ( pha dung

dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch ) toàn bộ chuồng nuôi

từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất

thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học, chất thải lỏng,

nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường.

Cần phải phun sát trùng 1-2 lần/ tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít

nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần phải rửa sạch, phơi

khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng quanh

chuồng nuôi.

- Phòng bệnh bằng vắc xin:

Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu

quả nhất.

24

Theo Nguyễn Bá Hiên và cs, (2012) [10], vắc xin là một chế phẩm sinh

học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm

nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền

như ARN, ADN...) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân

vật lý, hoá học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ

mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh

cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp

ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây

bệnh của mầm bệnh tương ứng.

Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh

ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch..

2.2.5.2. Điều trị bệnh

Theo Đoàn Thị Kim Dung và cs.(2002) [6] nguyên tắc để điều trị bệnh là:

+ Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, đúng

thuốc.

+ Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn

chế lây lan.

+ Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ

thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị

tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền.

+ Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa nhưng gia súc có thể

chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém

vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa.

+ Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì

không nên chữa.

Các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là:

+ Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ

sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp,

phân, nước tiểu. phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối

phó.Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh.

25

+ Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy

thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh

bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có

tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc

tố).

+ Dùng hóa dược:phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng,

một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm

bệnh.Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi

khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và

tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau.Khi cần, có thể phối

hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị,vì nếu một loại thuốc chưa

có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.

+ Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng

ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn.Tuy nhiên sử dụng

kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng,

do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm

giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây

nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng

sinh.Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây:

- Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa

không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn.

- Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác

định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng.

- Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để

phát huy tác dụng của kháng sinh.

- Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và

độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng

điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.

26

- Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt,

dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý…

2.2.6. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ nuôi con.

2.2.6.1. Bệnh viêm tử cung

Theo Nguyễn Văn Thanh và cs, (2016) [23], viêm tử cung là một hội

chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi đẻ. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn

thương lớp niêm mạc từ đó gây ảnh hưởng sự tiết Prostagladin F2α và làm xáo

trộn chu kỳ động dục, làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh.

* Nguyên nhân

Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], bệnh viêm tử cung xảy ra ở những

thời gian khác nhau nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 -

10 ngày.

Theo Nguyễn Văn Thanh và cs, (2016) [23], có nhiều nguyên nhân gây

viêm tử cung như: dinh dưỡng, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, chăm sóc và

quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi... nhưng nguyên nhân chính luôn có

trong các trường hợp là do vi sinh vật, nguyên nhân khác sẽ làm giảm sức đề

kháng của cơ thể hoặc tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và phát triển để

gây nên các triệu chứng.

Theo Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002) [6], nguyên nhân gây ra bệnh

viêm tử cung chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), liên cầu

dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella,

E.coli, còn có thể do trùng doi (Trecbomonas fortus) và do nấm Candda

albicans.

Mặt khác, khi gia súc đẻ, nhất là trường hợp đẻ khó phải can thiệp, niêm

mạc tử cung bị xây sát và tạo các ổ viêm, mặt khác các bệnh truyền nhiễm như

sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, lao… thường gây viêm tử cung, âm đạo.

* Triệu chứng:

27

Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4 - 5 ngày cá biệt tới

6 - 7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng

hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi

thối, mùi tanh rất khó chịu.

Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể:

+ Thể cấp tính: Con vật sốt 41 - 42˚C trong vài ngày đầu âm môn sưng

tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ nhờ.

+ Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch

nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy

ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả

hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử

cung lan sang thai làm chết thai.

Khi bị bệnh, gia súc có biểu hiện một số triệu chứng chủ yếu: Thân nhiệt

hơi cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi

khi cong lưng rặn tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn

dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ…

Khi con vật nằm, dịch viêm thải ra ngoài càng nhiều hơn.Xung quanh

âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm,có khi nó khô lại thành

từng đám vẩy, màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch niêm

thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm

đạo bình thường.

* Hậu quả

Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh

dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh

hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của

lợn con.

Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7]; Trần Thị Dân (2004) [4], khi lợn

nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:

- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai.

28

Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt

của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám

chặt vào tử cung.

Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung

tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng

trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch

hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể

vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng

Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng,

nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.

- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.

Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để

giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone

giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó

bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát

triển kém hoặc chết lưu.

- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai

đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.

Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt

của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích

thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng

sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.

- Theo Trần Thị Dân (2004) [4] lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không

có khả năng động dục trở lại.

Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng

vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone.

29

Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát

triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại

được và không thải trứng được.

- Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi

sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là

nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các

nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống

thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng

tới hoạt động của buồng trứng.

* Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung

Xuất phát từ quan điểm kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung

mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml

cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch

màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu lâm sàng

thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời máu cá. Người ta thấy

rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn

tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho

phép nghi viêm nội mạc tử cung.

Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những

mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của

nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có

thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.

Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy

ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì có thể

bị nhầm lẫn.

Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối.

Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên

kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác,

30

nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính

xác.

* Biện pháp phòng trị

- Phòng bệnh

Theo Nguyễn Tài Năng và cs. (2016) [18], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một

tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước

thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú.

Theo Lê Văn Năm (2009) [16], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ

bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc.

Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ

sinh sạch sẽ.

Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm

khuẩn.

Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp

hoặc lấy tinh.

- Điều trị

Tiêm thuốc hạ sốt analgin 2-3 ống/ngày

Tiêm kháng sinh: amoxicylin tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 15kg thể

trọng/ngày. Điều trị liên tục trong 3 - 4 ngày.

Tiêm thuốc trợ sức: vitamin và các loại thuốc bổ.

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [9], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng

cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm

amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết

quả điều trị khỏi bệnh cao.

Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: Thụt rửa tử cung bằng

dung dịch iodine 10% pha 10 ml/2 lit nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu

và thụt rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ.

2.2.6.2. Bệnh viêm khớp

* Nguyên nhân gây bệnh.

31

Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường. Quá

trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác. Từ đó gây tổn

thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đấm rối hông khum làm cho lợn mẹ

bại liệt.

* Triệu chứng:

Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng được lên được mà

nằm bẹp một chỗ. Bệnh thường kế phát với một số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp

như: chướng bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp. Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ

bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền chuồng. Sau 3 - 4 tuần con vật gầy

dần và chết

* Điều trị:

Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.

Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ để tránh bầm huyết, hoại tử da và kế phát

với chướng bụng, đầy hơi.

Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng chất là canxi và

photpho

Dùng các loại dầu nóng xoa bóp mạnh hai chân cho lợn mẹ.

Tiêm diclofenac kết hợp với mutivit. Đồng thời kết hợp với phương pháp

châm cứu.

2.2.6.3. Bệnh viêm vú

 Nguyên nhân

Trầy xước vú do sàn, nền chuồng nhám, vi trùng xâm nhập vào tuyến

sữa. Hai loài vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và Streptococcus

agalactiae…Ngoài ra còn các nguyên nhân gây viêm như số con quá ít không

bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng hoặc do kỹ thuật cạn

sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm.Do vệ sinh không đảm bảo,

chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh. Do lợn mẹ sát nhau, lợn con khi sinh ra

không được bấm răng nanh ngay. Lợn mẹ ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng

dinh dưỡng cao làm sữa tiết ra quá nhiều ứ đọng lại trong vú tạo điều kiện cho

32

vi khuẩn xâm nhập phát triển mạnh mẽ về số lượng và độc lực (Nguyễn Như

Pho (2002) [19]).

 Triệu chứng

Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [27], viêm vú thường xuất hiện ở một vài

vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào

thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường

hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42°C kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản

lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn

con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông,

gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% ( Lê Hồng Mận (2002) [17]). Vắt sữa ở những

vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất

hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu.

 Hậu quả

Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có

nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú

sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng

lượng cai sữa thấp.

Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó

chữa, lợn nái có thể chết.

Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh

hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.

 Điều trị

Các loại kháng sinh thường dùng: Norsulphazol, Ampicilline,

Cephalexine, Gentamycine, Norfloxacine... và có thể dùng Corticoide để giảm

viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng

ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú trong lúc đẻ.

Nếu điều trị hợp lý lợn sẽ khỏi trong vòng 3 - 5 ngày.

2.2.6.4. Bệnh viêm phổi

* Nguyên nhân

33

Nguyên nhân do vi khuẩn

Nguyên nhân chính phát ra gây bệnh là vi khuẩn Gram âm

Mycoplasma thuộc nhóm PPLO (nằm giữa vi rus và vi khuẩn) bao gồm các

chủng M. Hyopneumonia, M.hyorhinitis, M,granularum và

M.suipneumoniae (M.pneumoniae suis)

Nguyên nhân kế phát và thúc đẩy bệnh nặng thêm là

- Brodetella bronchiseptica: căn nguyên gây viêm teo mũi.

- Pasteurella multocida typ D và Pasteurella haemolytica: căn nguyên

gây bệnh tụ huyết trùng.

- Haemophillus pleuropneumoniae: căn nguyên gây bệnh viêm mũi và

viêm dính màng phổi.

- Streptococcus và Staphylococcus: căn nguyên gây viêm amidal, viêm

dính phổi, màng phổi và viêm khớp.

- Người ta còn phân lập được vi khuẩn Bacteria pyogenes suis: căn nguyên

gây viêm áp xe mủ ở phổi và nhiều cơ quan khác.

Tất cả các vi khuẩn trên đều là những vi sinh vật thường trú ở amidal,

niêm mạc đường hô hấp trên (mũi, xoang mũi).

*Triệu chứng

Các triệu chứng bệnh điển hình ở lợn con 6-10 tuần tuổi hoặc lớn hơn: Ho

khan vài tiếng hoặc từng cơn vào sáng sớm hay khi vận động, ho có thể kéo dài

1 -2 tháng. Mặc dù lợn vẫn ăn uống bình thường nhưng rất chậm lớn, nhịp thở

thường tăng cao, đôi khi có biểu hiện khó thở và khi thở ngồi lên hai chân sau

như kiểu chó ngồi, nhất là khi nhiễm bệnh kế phát.

Ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của bệnh bên cạnh các vi sinh vật

nhiễm hoặc bội nhiễm, yếu tố môi trường rất quan trọng (hệ thống sản xuất,

chuồng trại, dinh dưỡng và biện pháp chăm sóc quản lý). Các yếu tố như khoảng

cách giữa các ô ở chuồng càng ngắn, quy mô đàn và mật độ đàn càng cao, không

đồng đều về lứa tuổi trong cùng đàn, lợn càng lớn tốc độ lây lan càng nhanh và

mức độ lây lan càng trầm trọng hơn.

34

Chẩn đoán bệnh cần phải phối hợp giữa quan sát lâm sàng, mổ khám và

khảo sát bệnh lý giải phẫu tổ chức học và xét nghiệm kháng thể huỳnh quang.

Nếu đàn lợn bị ho nhưng không sốt, ăn uống bình thường mà vẫn chậm lớn, khi

mổ khám thấy hạch phổi sưng to, có bệnh tích viêm phổi dạng gan hóa xám một

cách đối xứng ở rìa thùy tim và thùy đỉnh thì có thể kết luận sơ bộ đó là viêm

phổi do Mycoplasma gây ra. Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh tụ huyết

trùng, cúm lợn và giun phổi. Hai bệnh đầu thường có sốt cao và kèm theo các

triệu chứng khác.

*Phòng bệnh

An toàn sinh học là biện pháp tốt nhất phòng App. Kiểm dịch nghiêm ngặt

để không đưa các lợn mang trùng vào trại. Hạn chế sự phát tán mầm bệnh trong

trại bằng cách vệ sinh, tẩy uế chuồng trại định kỳ, kết hợp với việc phát hiện

nhanh và loại thải các trường hợp ghi ngờ mang trùng. Mật độ nuôi phải hợp lý.

Thực hiện “cùng vào – cùng ra”.

Bổ sung kháng sinh vào thức ăn khi có các điều kiện bất lợi về môi trường

có thể có hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa bệnh.

Phòng bệnh bằng vaccine giải độc tố. Có thể tiêm cho lợn nái để bảo vệ

đàn con. Lợn con có thể được kháng thể mẹ truyền bảo vệ trong vòng 4 tuần

tuổi. Tuy nhiên, vaccine gây nhiều tác dụng phụ.

Đây là bệnh kế phát nên phải tiêm phòng triệt để phòng cách bệnh khác

bao gồm phòng bệnh tụ huyết trùng, phó thương hàn, dịch tả lợn.

*Trị bệnh

Trị bệnh bằng kháng sinh với liệu trình từ 3 ngày trở lên. Các loại kháng

sinh thường được dùng như Penicillin, cephalexin, ampicillin, amoxicillin,

oxytetracycline, doxycycline, trimethoprim sulphonamide, Tiamulin,

florfenicol, Enrofloxacin, ceftiofur và lincospectine. Lưu ý kết hợp với trợ sức

và hạ sốt cho con vật.

Sự kháng thuốc có thể xảy ra và tổn thương phổi có thể vẫn còn ở lợn đã

được điều trị cho đến lúc giết mổ, làm giảm năng suất chăn nuôi.

35

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước

2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết

về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng

suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà

còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng

sống sót của lợn con.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2002) [13], thì: Bệnh viêm tử cung do vi

khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn

mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây

xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.

Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], cho biết: Ở những nái bị viêm

tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt

nặng).

Theo Phạm Hữu Doanh và cs. (2003) [5], cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa

vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn

con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh:

penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị

viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú

viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.

Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [7], cho biết: Viêm tử cung là một quá

bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế

bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái

làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.

Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc

bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: Bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh

sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ

36

thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm

tử cung (Nguyễn Đức Lưu và cs. 2004) [14].

Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: Thiếu về

dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ,

tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó

ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn

Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh

làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú

không hết làm sữa đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm

vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm.

Theo Trần Tiến Dũng và cs.(2002) [7],bệnh viêm đường sinh dục ở lợn

chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là

viêm tử cung.

Theo Trần Tiến Dũng (2002) [7], tỷ lệ viêm tử cung sau khi đẻ, lợn nái

ngoại cũng cao từ 1,82% - 23,33%.

2.3.2. Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài

Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước

không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa

học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Do vậy, ưu tiên hàng

đầu và liên tục của chăn nuôi lợn sinh sản là tạo được nhiều lợn con sinh ra và

sống sót cho tới lúc cai sữa và đồng thời giảm thời gian phi sản xuất của lợn nái

nhất là do không thụ thai. Mục tiêu trên, đòi hỏi sự làm việc cường độ cao ở lợn

nái và nhất là cơ quan sinh sản. Do vậy các cơ quan sinh sản đóng vai trò rất

quan trọng quyết định năng suất chăn nuôi. Những bất thường của cơ quan sinh

sản, nói rõ hơn là các rối loạn kiểu viêm tử cung, làm năng suất chăn nuôi lợn

nái bị ảnh hưởng (Popkov, 1999[20]).

Theo Bilken (1994) [2], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn

gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp

37

sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus

spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn

gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí

có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây

bệnh. Do đó theo Gardner (1990) [30], Smith (1995) [31], tăng cường vệ sinh

chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa

nhiễm trùng sau khi sinh. Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định

được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%,

lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: Viêm vòi tử cung có mủ.

Theo F. Madec (1995) [15] viêm tử cung thường bắt đầu bằng sốt một vài

giờ sau khi đẻ, chảy mủ ngày hôm sau và bệnh thường kéo dài 48 - 72 giờ.

Theo Pierre Brouillet và Bernarrd Farouilt (2003) [3] đã nghiên cứu và

kết luận: điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong

khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định

nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ

tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết

đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho

phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.

Theo Bidwell C. và William S. (2005) [29] đã có những nghiên cứu về tình

hình mắc bệnh sinh sản của lợn nái sinh sản do virus, vi khuẩn… gây ra. Các tác

giả cũng đưa ra các biện pháp nhằm phát hiện và giảm khả năng mắc bệnh PRRS

trên lợn nái sinh sản:

Để điều tra nguyên nhân gây nhiễm trùng của bệnh sinh sản cần có hồ sơ

điều trị bệnh.

Triệu chứng lâm sàng, trật tự xuất hiện các triệu chứng.

Kết hợp của các xét nghiệm chẩn đoán thích hợp là cần thiết. Gửi tất cả

các mẫu lấy từ lợn con bị hủy bỏ và chết non và nhau thai đến phòng thí nghiệm

hoặc gửi ít nhất một lít huyết thanh từ các con tiêu hủy.

38

Các phân tích từ phòng thí nghiệm là rất cần thiết để có biện pháp hạn chế

sự bùng phát của dịch.

Theo Andrew Gresham (2003) [28], điều tra tình hình mắc bệnh sinh sản tại

Vương Quốc Anh, thì bệnh sinh sản ở lợn có một căn nguyên không nhiễm trùng

và thường liên quan đến yếu tố managemental, dinh dưỡng hay môi trường. Tuy

nhiên, bệnh Enzootic và bệnh dic ̣h sinh sản truyền nhiễm kéo dài có thể gây ra thiệt

hại đáng kể. Bệnh truyền nhiễm sinh sản của lợn ở Anh thường là do nhiễm trùng

bởi vi khuẩn, vi rút và đôi khi nấm và động vật nguyên sinh cư trú trong đàn gia

súc. Thỉnh thoảng, bệnh sinh sản xảy ra do nhiễm các mầm bệnh như: hội chứng

rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS), Parvovirus và Leptospires (đặc biệt là

Leptospira interrogans serovar Bratislava).

39

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

3.1. Đối tượng

Đàn lợn nái ngoại giai đoạn đẻ và nuôi con tại trang trại.

3.2. Địa điểm và thời gian thực hiện

- Địa điểm: Trại chăn nuôi lợn Trần Văn Tuyên, xã Đoàn Kết, huyện Yên

Thủy, tỉnh Hòa Bình.

- Thời gian thực hiện: từ ngày 20/11/2018 đến ngày 25/05/2019

3.3. Nội dung thực hiện

- Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại chăn nuôi Trần Văn Tuyên, Yên

Thủy, Hòa Bình.

- Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản.

- Thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn nái tại cơ sở.

- Tham gia chẩn đoán và phòng trị bệnh tại cơ sở.

- Tham gia vào các công tác khác tại cơ sở.

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi thực hiện

- Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại trong 3 năm (2017 - 2019).

- Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại.

- Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại.

- Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái sinh sản.

- Vệ sinh, khử trùng chuồng trại.

- Tiêm phòng vắc-xin cho lợn nái tại trại.

- Chẩn đoán và điều trị một số bệnh sinh sản trên đàn lợn nái.

3.4.2. Phương pháp thực hiện

3.4.2.1 Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại

Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng em tiến hành thu thập thông

tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại.

40

3.4.2.2 Thời gian và công việc hàng ngày ở khu chuồng đẻ

- Thời gian:

+ Sáng: 6 giờ 45 phút – 11 giờ.

+ Chiều: 13 giờ 30 phút - 18 giờ (mùa hè); 13 giờ – 17 giờ 45 giờ (mùa

đông).

- Nội dung công việc:

+ Kiểm tra tổng thể lợn trong chuồng, đếm lợn con và giao ca.

+ Kiểm tra môi trường chuồng nuôi.

+ Kiểm tra sức khỏe lợn mẹ và lợn con.

+ Chăm sóc nái đẻ, vệ sinh phòng bệnh.

+ Úm lợn con, cho lợn con bú sữa đầu, ghép lợn con.

+ Cho lợn con tập ăn và uống.

+ Làm công tác thú y, chăm sóc và điều trị bệnh.

+ Ghi chép sổ sách, làm báo cáo kết quả.

3.4.2.3 Đối với lợn nái đẻ

* Chuyển lợn nái lên chuồng đẻ:

Trước khi chuyển lợn nái lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp sạch

sẽ và sát trùng, đủ thời gian trống chuồng; lợn nái được tắm và xịt sát trùng trước

khi đưa vào chuồng đẻ với thuốc sát trùng IOD MAR 5%, liều 1/3200.

Chuyển lợn nái lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 5-7 ngày. Mục đích:

cho nái thích nghi với chuồng mới trước khi đẻ; bảo vệ được lợn con nếu nái đẻ

sớm hơn dự kiến; giảm thức ăn trước khi đẻ.

* Nuôi dưỡng lợn nái đẻ:

Quá trình cho ăn ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, khả năng sinh sản và

tiết sữa của lợn nái. Chính vì vậy, cần phải cho lợn nái ăn đúng bữa và đủ lượng

thức ăn theo quy định. Lợn nái đẻ và nuôi con được cho ăn 2 lần/ngày (bữa sáng

và bữa chiều).

41

Thức ăn cho lợn nái đẻ sử dụng cám 567SF, lượng cho ăn được trình bày

trong bảng 3.1.

Bảng 3.1: Quy định lượng thức ăn chuồng đẻ

Chế độ ăn (kg/con/ngày)

Trước/sau ngày đẻ

Đối với nái đẻ từ lứa 2

Đối với nái hậu bị

Sáng Chiều

Tổng

Sáng Chiều

Tổng

1,5

Trước đẻ dự kiến 4 ngày

1,5

3,0

1,2

1,0

2,2

1,0

Trước đẻ dự kiến 3 ngày

1,5

2,5

1,0

1,0

2,0

1,0

Trước đẻ dự kiến 2 ngày

1,0

2,0

1,0

0,7

1,7

0,5

Trước đẻ dự kiến 1 ngày

1,0

1,5

1,0

0,5

1,5

0,5

Ngày đẻ

0,5

1,0

0,5

0,5

1,0

0,5

Sau đẻ 1 ngày

0,5

1,0

0,5

0,5

1,0

1,0

Sau đẻ 2 ngày

1,0

2,0

1,0

1,0

2,0

1,5

Sau đẻ 3 ngày

1,5

3,0

1,5

1,5

3,0

2,0

Sau đẻ 4 ngày

2,0

4,0

2,0

2,0

4,0

2,5

Sau đẻ 5 ngày

2,5

5,0

2,5

2,5

5,0

3,0

Sau đẻ 6 ngày

3,0

6,0

2,5

2,5

5,0

* Quản lý môi trường chuồng lợn nái:

- Kiểm tra nhiệt độ môi trường chuồng nuôi tối thiểu 2 lần/ngày (cả buổi

sáng và buổi chiều).

- Tạo nhiệt độ chuồng thích hợp: 24-28oC.

- Lượng nước uống tự do (thường lợn nái chờ đẻ là 12-15 lít/con/ngày,

nái nuôi con > 40 lít/con/ngày. Chất lượng nước uống sạch, mát và không bị

nhiễm khuẩn.

* Đỡ đẻ:

- Biểu hiện của nái sắp đẻ:

+ Trằn trọc, bứt rứt, đứng ngồi không yên, cắn phá chuồng;

+ Nặn vú thấy chảy sữa, lợn nái sẽ đẻ trong khoảng 24h;

42

+ Nếu thấy nước nhờn ở âm hộ chảy ra (vỡ ối), lợn nái sẽ đẻ trong khoảng

30-60 phút sau;

+ Nếu có phân su, lợn nái sẽ đẻ trong khoảng 15-20 phút sau.

- Khi thấy lợn nái có biểu hiện gần đẻ (vỡ ối, ra phân su,…) thì phải

tiến hành:

+ Vệ sinh phần mông và chân sau của lợn nái trước khi đẻ;

+ Chuẩn bị chậu và lưới hứng sản dịch và nhau khi nái đẻ;

+ Chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ: lồng úm, thảm lót, đèn úm, khăn lau, thuốc sát

trùng, cồn Iod, kéo cắt rốn, dây buộc rốn, gel bôi trơn, nước rửa tay,…

- Cách đỡ đẻ:

Bước 1: Vuốt nước ối, màng ối ở miệng và mũi để lợn con dễ thở.

Bước 2: Vuốt nước ối, màng ối và dùng khăn sạch lau khô mình lợn con

để không bị lạnh.

Bước 3: Tiến hành buộc rốn, vị trí buộc khoảng 2,5cm; vị trí cắt 3,75 - 4cm.

Bước 4: Sát trùng rốn bằng cồn Iod.

Bước 5: Bôi bột lăn lợn để lợn giữ ấm lợn con, hút ẩm và sát trùng.

Bước 6: Cho lợn con nằm ở lồng úm, sau khi lợn con khô thì cho bú

sữa đầu (chú ý: kiểm tra vú lợn mẹ và vệ sinh sạch sẽ trước khi cho lợn con

bú).

Bước 7: Tiến hành cắt đuôi cho lợn con, khoảng cách từ gốc đuôi đến vị

trí cắt khoảng 3cm.

* Vệ sinh lợn nái sau khi đẻ:

- Dụng cụ: Thùng đựng nước sạch pha thuốc sát trùng (1/3200), khăn lau,

bàn chải.

- Gom nhau và sản dịch vào bao tải.

- Cho lợn mẹ đứng dậy.

- Vệ sinh phần mông và 2 chân sau; vệ sinh bầu vú; vệ sinh sàn chuồng

đẻ (sàn bê tông và sàn nhựa).

- Chờ khô nước, sạch sẽ.

43

- Chờ lợn mẹ nằm xuống, cho lợn con vào bú.

- Vệ sinh và thay tấm thảm lót lồng úm.

* Làm báo cáo đẻ:

Ghi vào bảng, thẻ nái và sổ sách theo dõi ngày đẻ thực tế, số con sinh ra,

số con chết khi sinh, số con sinh sống, khối lượng sơ sinh.

* Truyền dịch cho lợn nái:

Truyền dịch cho lợn nái trong trang trại được sử dụng trong trường hợp

lợn mẹ trong hoặc sau quá trình đẻ mất sức, đau đớn,… hoặc thời tiết quá nóng.

Thường truyền bổ sung đường (MD Glucoza 5%) và muối (MD Normal Saline

0,9%). Phương thức truyền chủ yếu qua tĩnh mạch tai.

* Xử lý đẻ khó:

- Các trường hợp đẻ khó:

+ Đẻ khó do lợn mẹ rặn đẻ yếu:

Nguyên nhân: Nái không rặn hoặc đẻ chậm vì dạ con không co bóp, có

thể do nái già nên sức rặn đẻ kém, nái có thể trạng gầy, sức khỏe không tốt.

Biểu hiện: nái sinh khác thường như tổng thời gian đẻ kéo dài, khoảng

cách giữa các con đẻ ra quá lâu, lợn mẹ không có biểu hiện rặn đẻ hoặc rặn

đẻ yếu.

Can thiệp: Tiêm Oxytocine; truyền dịch + Anagin để bổ sung năng lượng

và giảm đau; massage bầu vú kích thích lợn mẹ rặn đẻ; có thể can thiệp bằng

cách móc lợn con ra.

+ Đẻ khó do con quá to hoặc nằm không đúng tư thế:

Nguyên nhân: con quá to do chế độ ăn cho nái chửa không hợp lý; âm hộ

hẹp do phối giống lợn hậu bị ban đầu có thể trạng và tuổi còn nhỏ; lợn con nằm

không đúng tư thế gây khó sinh.

Biểu hiện: vỡ ối lâu mà không đẻ, lợn mẹ rặn liên tục, bụng căng lên do

rặn mạnh, chân co lại, đuôi cong lên run run hoặc quay tròn,…

Can thiệp: Kiểm tra lợn con đã xuống vùng xương chậu chưa, nếu đã

xuống thì can thiệp bằng cách móc lợn con ra.

44

- Chú ý khi móc lợn con:

+ Phải kiểm tra lợn con đã xuống tới vùng xương chậu chưa.

+ Móng tay phải cắt ngắn. Tay phải rửa sạch và sát trùng.

+ Theo dõi và điều trị kỹ lợn mẹ sau khi đẻ xong, cần phải tiêm thuốc bổ

và truyền glucose trợ sức.

* Chương trình điều trị cho lợn nái sau khi sinh:

- Để ngăn ngừa lợn bị viêm và sót nhau, lợn nái sau khi sinh phải tiêm 3

mũi Oxytocine/3 ngày liên tiếp và 2 mũi kháng sinh LA, mũi 1 ngày đẻ, mũi 2

sau khi đẻ 1 ngày.

- Đối với lợn nái đẻ khó hoặc có mủ phải tiêm thêm Oxytocine và kháng

sinh (nhưng không quá 5 mũi).

- Khi tiêm phải đánh dấu lên mình lợn, thẻ nái và ghi sổ điều trị để kiểm

tra.

- Kiểm tra dịch âm hộ hàng ngày sau khi đẻ:

+ Nếu dịch có màu hồng hoặc màu đen thì có thể sót nhau hoặc sót con.

+ Dịch bình thường phải có màu trắng trong hoặc hơi vàng.

- Phải theo dõi sức khỏe lợn nái sau sinh như: nái có còn rặn, sốt, vú bị

sưng, cứng, lợn nái bỏ ăn hay không để điều trị kịp thời.

3.4.2.4 Đối với lợn con

* Úm lợn con:

Trong quá trình chăm sóc, luôn đảm bảo nhiệt độ ô úm thích hợp từ 33-

350C, ô úm sạch sẽ và không có gió lùa.

Tạo khu vực có nhiệt độ phù hợp cho lợn con nhằm giữ ấm và chống mất

nhiệt cho lợn con, giảm tỷ lệ chết đè ở lợn con theo mẹ.

Tập cho lợn con vào lồng úm trong 3 ngày đầu sau sinh, mỗi ngày thực

hiện 3-4 lần. Thời điểm tập cho lợn con vào lồng úm là lúc cho lợn mẹ ăn và khi

quan sát thấy lợn con nằm ngoài lồng úm có biểu hiện bị lạnh.

45

* Tập cho lợn con bú sữa đầu:

Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thực hiện tập cho

lợn con bú sữa đầu như sau:

- Vệ sinh bầu vú lợn mẹ trước khi cho bú.

- Vắt sữa đầu cho lợn con nhỏ ký uống bổ sung, cho uống càng nhiều càng

tốt, đảm bảo cung cấp đủ sữa đầu trong 6-8 giờ sau sinh, sữa đầu vắt được bảo

quản ở 30-350C, cho uống 2 giờ/lần.

- Phân chia 2 nhóm lợn con: Khối lượng lớn và khối lượng nhỏ. Cố định

đầu vú cho lợn con bú: lợn con có khối lượng nhỏ cho bú vú phía trước. Thời

gian bú sữa đầu là 2 giờ/lần.

- Cho lợn con bú sữa đầu càng sớm càng nhiều càng tốt.

- Tiến hành chọn ghép những con lợn nhỏ cho một con lợn mẹ đẻ cùng

ngày có nhiều sữa nuôi, và úm lợn con cho tốt.

* Mài nanh lợn con:

- Mục đích: Mài nanh để trong quá trình bú sữa lợn con không dùng răng

cắn vú lợn mẹ và tránh làm bị thương vùng vú lợn nái cũng như làm bị thương

mặt các lợn con khác.

- Tiến hành mài nanh cho lợn con sau khi đẻ được 24 giờ. Vị trí mài nanh:

1/3 từ cổ răng lên.

* Tiêm sắt cho lợn con:

- Tiến hành tiêm sắt cho lợn con sau khi đẻ được 24 giờ (làm cùng khi

mài nanh).

- Liều lượng 2ml/con, vị trí tiêm là bắp cổ.

* Bấm số tai lợn con:

- Mục đích: Bấm số tai cho lợn con nhằm mục đích theo dõi chương trình

giống, xác định tuần sinh và mã trại sản xuất.

- Bấm số tai lợn con được thực hiện cùng lúc với mài nanh để tiện thao

tác, tránh làm lợn con stress do bắt nhiều lần. Nếu lợn con nhỏ yếu hoặc có vấn

đề tiêu chảy thì bấm số tai lúc 7-10 ngày tuổi.

46

- Để ngừa viêm cho lợn con, cần tiêm kháng sinh sau khi thao tác, bôi cồn

vào vết bấm. Các dụng cụ sử dụng khi bấm số tai phải sắc và được vệ sinh sát

trùng kỹ.

- Loại bỏ những con bị dị tật bẩm sinh.

* Thiến lợn con:

- Thiến lợn con nhằm mục đích giảm thiểu mùi hôi của thịt lợn đực khi sử

dụng làm thực phẩm cho người.

- Thời điểm thiến thích hợp là từ 4-7 ngày tuổi. Việc thiến lợn con khi tuổi

còn nhỏ dễ cầm bắt, lợn con mất ít máu, hạn chế stress. Nếu lợn con nhỏ yếu

hoặc có vấn đề tiêu chảy thì tiến hành thiến lúc 7-10 ngày tuổi, khi lợn con đã

khỏi bệnh.

- Tương tự như bấm tai, để ngừa viêm cho lợn con, cần tiêm kháng sinh

sau khi thiến, bôi cồn vào vết thương để sát trùng. Các dụng cụ sử dụng khi thiến

phải sắc và được vệ sinh sát trùng kỹ.

* Tập ăn sớm cho lợn con:

- Mục đích của việc tập ăn sớm cho lợn con:

+ Giúp lợn con biết ăn sớm, tỷ lệ đồng đều cao và giảm stress khi cai sữa.

+ Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển

của lợn con khi lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tuổi.

+ Rèn luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng,

đồng thời kích thích bộ máy tiêu hóa của lợn con hoàn thiện về kích thước và

khối lượng.

+ Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ hao mòn của lợn

nái, từ đó lợn nái sớm động dục trở lại sau khi cai sữa.

+ Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú.

+ Tạo điều kiện cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa

đẻ/nái/năm.

- Lợn con được 3 ngày tuổi là thời điểm thích hợp để bắt đầu tập ăn. Thời

gian tập ăn trong ngày cho lợn con từ 6 giờ đến 18 giờ.

47

Lượng thức ăn cho lợn con tăng dần, từ 5-10 g/con vào những ngày tập

ăn đầu tiên đến 90-100g/con/ngày lúc 16 ngày tuổi.

- Cách cho ăn:

+ Giai đoạn 3-7 ngày tuổi: 1 tiếng đồng hồ cho cám 1 lần, mỗi lần 10-20

viên cám. Cuối buổi chiều treo máng tập ăn để hôm sau tập ăn tiếp.

+ Giai đoạn 7-14 ngày tuổi: 2 tiếng đồng hồ cho cám 1 lần, tăng dần số

lượng thức ăn theo ngày tuổi của lợn con.

+ Giai đoạn trên 14 ngày tuổi: 3 tiếng đồng hồ cho cám 1 lần, lượng cho

ăn tự do. Chú ý: vệ sinh máng ăn mỗi lần cho cám mới, không để cám thừa trong

máng quá 6 tiếng đồng hồ.

* Các loại thức ăn cho lợn con:

- Thức ăn hỗn hợp dạng bột 550P (cho lợn con từ 2 ngày tuổi – 8 kg TT).

- Thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh dạng viên 550SF (cho lợn con từ 5 ngày

tuổi – 12 kg TT).

* Chương trình phòng và trị bệnh cho lợn con:

- Giữ chuồng nuôi luôn khô ráo, sạch sẽ.

- Phải điều chỉnh nhiệt độ phù hợp với độ tuổi của lợn con.

- Kiểm tra sức khỏe của lợn con hàng ngày để kịp thời xử lý nhanh nhất

trong những trường hợp như: tiêu chảy, viêm khớp, viêm phổi, thiếu sắt, ốm yếu,

không đủ ấm, ăn không tốt,…

- Tiến hành điều trị, đánh dấu và ghi chép để theo dõi khi lợn con bị bệnh.

- Tiêm vaccine cho lợn con theo lịch của trang trại.

3.4.2.4 Đối với vệ sinh sát trùng

Thực hiện phương châm ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng

bệnh được ưu tiên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn

chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng

đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vâṭ chủ.

Gồm các khâu dọn phân, rửa chuồng, phun thuốc sát trùng, rắc vôi khử trùng

cho chuồng trại và phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, máng ăn.

48

Tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, mùa vụ mà việc vệ sinh chăm sóc có

nhiều thay đổi cho phù hợp.

Khử trùng: Chuồng trại có chế độ phun thuốc sát trùng định kỳ và không

định kỳ bằng các thuốc sát trùng: IOD MAR 5%

Nguồn nước uống:Hệ thống nước sạch được lấy từ suối đầu nguồn về bể

lớn rồi được xử lý bằng chlorine với nồng độ khoảng 3 – 5 ppm.

Lịch khử trùng tại trại được trình bày qua bảng 3.2.

Bảng 3.2. Lịch sát trùng trại lợn nái

Trong chuồng

Ngoài Chuồng

Ngoài khu vực chăn nuôi

Thứ

Chuồng đẻ

Chuồng nái chửa

Chuồng cách ly

Phun sát trùng

Phun sát trùng

Chủ nhật

Thứ 2

Quét hoặc rắc vôi đường đi

Phun sát trùng + rắc vôi

Phun sát trùng

Phun sát trùng toàn bộ khu vực

Phun sát trùng toàn bộ khu vực

Thứ 3 Phun sát trùng

Phun sát trùng + quét vôi đường đi

Quét hoặc rắc vôi đường đi

Phun sát trùng

Rắc vôi

Rắc vôi

Thứ 4 Xả vôi gầm

Phun ghẻ

Phun ghẻ

Thứ 5

Phun sát trùng + xả vôi gầm

Thứ 6 Phun sát trùng

Phun sát trùng

Thứ 7

Vệ sinh tổng chuồng

Phun sát trùng + rắc vôi Vệ sinh tổng chuồng

Phun sát trùng Vệ sinh tổng chuồng

Phun sát trùng Vệ sinh tổng khu

(Nguồn: phòng kỹ thuật công ty CP)

3.4.3. Công thức tính toán các chỉ tiêu.

Số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel 2010 với các

tham số như sau:

- lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi

49

- Tỷ lệ lợn khỏi: ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%)= x 100 ∑ số con điều trị

- Tỷ lệ tiêm phòng:

Tỷ lệ tiêm phòng (%)= x100 ∑ số con được tiêm phòng ∑ số con lợn

- Số ngày khỏi bệnh (điều trị): ∑ số ngày điều trị

Số ngày khỏi bệnh (điều trị) (ngày) = ∑ số con lợn

3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu:

- Các số liệu thu thập được xử lý Excel bằng máy tính cá nhân với các

tham số:

Tính tổng mẫu S = sum(x1,xn)

- Tính số trung bình mẫu:

Tính số trung bình = average(x1,xn)

Tính độ lệch chuẩn = stdev(x1,xn)

Sai số của số trung bình = Sx/sqrt(n-1)

Chú giải:

n : Dung lượng mẫu

: Số trung bình cộng

: Sai số của số trung bình

x1, x2, …xn : Giá trị của các biến số

: Độ lệch tiêu chuẩn

50

Phần 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại qua 3 năm từ 2017 – 2019

Để đánh giá tình hình chăn nuôi của trại thông qua số liệu thống kê và sổ

sách thống kê trên thực tế tổng đàn. Kết quả được trình bày ở bảng 4.1.

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Trần Văn Tuyên

qua 3 năm 2017 – 2019

STT Loại lợn 2017 2018 05/2019

1 Lợn đực giống 35 31 29

2 Lợn nái sinh sản 1.208 1.071 1.066

3 Lợn nái hậu bị 150 233 126

4 Lợn con 36.992 35.122 16.070

5 Tổng số 38.385 36.457 17.291

(Nguồn: Phòng kỹ thuật công ty CP)

Qua bảng 4.1 cho thấy, trang trại nuôi lợn nái sinh sản, sản xuất lợn giống,

không nuôi lợn thịt.

Số lượng nuôi giữa các loại lợn của trang trại là rất khác nhau và có sự

chênh lệch rõ rệt trong đó, số lợn nái và lợn con là cao nhất. Cơ cấu đàn lợn của

trại tính đến tháng 5 năm 2019 gồm có 17291 con trong đó có 29 lợn đực giống,

1066 lợn nái sinh sản, 126 lợn hậu bị, 16070 lợn con.

Số lượng lợn đực giống từ năm 2017 cho đến năm 2018 giảm từ 35 con

xuống 31 con (giảm 4 con)và từ năm 2018 đến tháng 5 năm 2019 giảm từ 31

con xuống 29 con (giảm 2 con) do tiến hành loại thải những con đực giống già,

chất lượng tinh trùng kém.

Số lượng lợn nái sinh sản có chiều hướng giảm: ở thời điểm tháng 5 năm

2019 so với năm 2018 giảm 5 con và so với năm 2017 giảm 142 con, do số lượng

lợn nái già bị loại nhiều, lợn nái chết do nhiều nguyên nhân khác.

51

Số lượng lợn con giao động từ 35.122 con đến 36.992 con và tính đến tháng

5 năm 2019 số lượng lợn con là 16.070 con. Như vậy số lượng lợn con có chiều

hướng giảm qua các năm do số lượng lợn nái sinh sản giảm. Vì trại chỉ nuôi lợn

nái sinh sản nên lợn con đến tuổi cai sữa thì sẽ được xuất đi đến các trại nuôi lợn

hậu bị của công ty.

Những lợn nái nhập về trại sẽ được theo dõi tỉ mỉ. Hàng tháng vẫn có sự

loại thải những con nái sinh sản kém, không đủ tiêu chuẩn để làm giống.

Những nái sinh sản được nhập thêm về trại chủ yếu nhằm gia tăng quy mô đàn

cũng như phát triển chăn nuôi theo hướng ổn định hơn.

4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng đàn lợn tại trại

4.2.1. Số lượng nái đẻ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại

Trong thời gian về thực tập và làm việc tại trại em đã được phân công vào

làm chuồng đẻ và được tham gia trực tiếp các quá trình chăm sóc nuôi dưỡng

lợn nái sinh sản và lợn con. Kết quả được trình bày ở bảng 4.2

Bảng 4.2. Số lượng lợn nái đẻ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng

tại trại qua 6 tháng thực tập

Nái đẻ nuôi con Số lượng lợn con Tháng

12/2018 34 424

1/2019 30 385

2/2019 32 419

3/2019 40 521

4/2019 37 473

5/2019 21 268

Kết quả bảng 4.2 cho thấy trong thời gian thực tập tại trại số lợn nái đẻ,

Tổng 194 2490

nuôi con được em chăm sóc và nuôi dưỡng là 194 con tương ứng với tổng số

lợn con là 2490 con theo mẹ.

52

Quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả

năng sinh sản của lợn nái. Do vậy đòi hỏi người chăn nuôi cần phải chú ý đến

các khâu có liên quan đến quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau thời gian thực

tập bản thân em cũng đã rút ra được rất nhiều những kinh nghiệm cho bản thân

từ cách phân chia khẩu phần ăn, quy trình chăm sóc cả lợn mẹ và lợn con cho

đến vệ sinh chuồng trại nhằm hạn chế dịch bệnh.

4.2.2. Tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại được trực tiếp chăm sóc,

nuôi dưỡng

Trong thời gian thực tập tại trại em được trực tiếp chăm sóc đàn lợn nái đẻ,

nuôi con. Do yêu cầu của công việc và có những công nhân khác làm trong các

chuồng nên em không trực tiếp chăm sóc đàn nái chửa, hậu bị và lợn đực giống.

Kết quả về chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái đẻ trong quá trình thực tập tại

cơ sở được trình bày qua bảng 4.3.

Bảng 4.3. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại

Tháng Tỷ lệ (%) Số nái đẻ (con) Tỷ lệ (%) Số nái đẻ bình thường (con) Số nái đẻ khó phải can thiệp (con)

34 12/2018 32 94,12 2 5,88

30 1/2019 30 100 0 0

32 2/2019 30 93,75 2 6,25

40 3/2019 38 95,00 2 5,00

37 4/2019 36 97,30 1 2,70

21 5/2019 21 100 0 0

194 Tổng 96,39 7 3,61 187

Từ kết quả bảng 4.3 cho thấy:trong 6 tháng, từ tháng 12 đến tháng 5 được

giao nhiệm vụ làm tại chuồng lợn đẻ, em đã trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng

và theo dõi 194 con lợn nái thì có 187 nái đẻ bình thường, chiếm tỷ lệ 96,39%;

có 7 nái đẻ khó phải can thiệp, chiếm tỷ lệ 3,61%.

53

Nhìn chung tình hình sinh sản của đàn lợn nái rất ổn định, khả năng sinh

sản tốt, ít phải can thiệp. Sở dĩ tỷ lệ nái phải can thiệp thấp là do quy trình chăm

sóc nuôi dưỡng của trại tốt, hợp lý, không để lợn nái quá gầy hoặc quá béo,

thức ăn đủ dinh dưỡng hợp lý đảm bảo cho quá trình phát triển bào thai và sức

khỏe của đàn lợn nái sinh sản.

Tỷ lệ lợn nái đẻ khó dao động trong khoảng 2,7 – 6,25%.

Đẻ khó do rất nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do quá trình chăm sóc

nuôi dưỡng không được tốt, khẩu phần ăn của con mẹ không được cân đối dẫn

đến lợn mẹ có con quá béo con lại quá gầy, bên cạnh đó lợn mẹ không được vận

động cũng làm ảnh hưởng đến quá trình sinh sản bình thường của lợn mẹ. Một số

lợn nái đã già nhưng vẫn chưa được thay thế cũng làm tỷ lệ đẻ khó tăng lên. Số

lượng lợn đẻ khó chiếm trung bình 3,61%.

Trong quá trình tham gia đỡ đẻ cho lợn mẹ và can thiệp các trường

hợp đẻ khó em nhận thấy quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn mẹ trước khi

đẻ hết sức quan trọng, đặc biệt là khẩu phần ăn của lợn mẹ, khẩu phần ăn

của lợn mẹ không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh đẻ bình thường

của lợn mẹ. Người đứng chuồng đẻ thì cần liên tục di chuyển, quan sát, nhớ

thời gian của từng lợn mẹ khi bắt đầu đẻ, khi lợn mẹ đẻ quá lâu hoặc gặp

biểu hiện gì bất thường thì cần nhanh chóng can thiệp. Khi can thiệp bằng

tay thì cần chú ý vệ sinh sạch sẽ tay cũng như cơ quan sinh sản của lợn mẹ,

thao tác can thiệp phải nhẹ nhàng tránh làm xây sát niêm mạc tử cung lợn

mẹ.

4.2.3. Một số chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái sinh sản tại trại

Để đánh giá về chỉ tiêu kỹ thuật trên đàn lợn nái tại trại, chúng em tiến

hành theo dõi 102 lợn nái của trại, kết quả được trình bày ở bảng 4.4.

Từ kết quả bảng 4.4 cho ta thấy các chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái về

khả năng sinh sản là tương đối cao. Trong đó tổng số con đẻ ra/lứa trung bình

trong 6 tháng đạt 12,84(con/lứa). Số con còn sống đến cai sữa trung bình trong

6 tháng là 11,60(con/lứa). Tháng 2 có số con đẻ ra/lứa trung bình cao nhất là

54

13,09 ± 0,21 (con/lứa), tháng 12 có số con đẻ ra/lứa trung bình thấp nhất là 12,47

± 0,28 (con/lứa). Tháng 3 có số con còn sống đến cai sữa/ lứa cao nhất là 11,83

± 0,19 (con/lứa), tháng 4 có số con còn sống đến cai sữa/ lứa thấp nhất là 11,38

± 0,11(con/lứa).

Bảng 4.4 Một số chỉ tiêu về số lượng lợn con của lợn nái

Số con còn sống đến cai Số con đẻ ra/lứa Tháng sữa/ lứa ( ) Số lợn con Số nái đẻ (con) ( )

34 30 32 40 37 21 194 424 385 419 521 473 268 2490 12,47 ± 0,28 12,83 ± 0,27 13,09 ± 0,21 13,03 ± 0,30 12,78± 0,26 12,76 ± 0,28 12,84 ± 0,11 11,47 ± 0,13 11,43 ± 0,10 11,63 ± 0,09 11,83 ± 0,19 11,38 ± 0,11 11,57 ± 0,15 11,60 ± 0,06 12 1 2 3 4 5 Tổng

Như vậy đạt tỷ lệ mà trại đã đề ra, chứng tỏ ngoài yếu tố năng suất sinh

sản của con mẹ thì yếu tố nuôi dưỡng, chăm sóc, phòng và trị bệnh kịp thời tốt

cho nái trong suốt quá trình từ thời gian phối giống cho đến khi đẻ.

4.3.Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho lợn nái tại trại

4.3.1. Kết quả công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại

Trong quá trình thực tập em đã tham gia vào công tác vệ sinh phòng bệnh.

Kết quả được thể hiện qua bảng 4.5.

Bảng 4.5. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại

STT Công việc Kết quả

Xả vôi gầm

Từ bảng 4.6 cho thấy: trong thời gian thực tập tại trại chúng em đã tiến

1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 2 3 Quét và rắc vôi đường đi Số lượng (lần) 126 48 126 Tỷ lệ (%) 100 83,33 100 126 40 126

hành một số công việc sau: vệ sinh chuồng trại định mức trong đợt thực tập là

55

126 lần, số lần thực hiện là 126 lần đạt 100%. Xả vôi gầm định mức là 24 lần, số

lần thực hiện 20 lần đạt 83,33%. Quét vôi và rắc vôi đường đi định mức là 126 lần,

số lần thực hiện là 126 lần, chiếm tỷ lệ 100%.

4.3.2. Kết quả công tác tiêm phòng bằng vắc xin

Để đánh giá kết quả công tác tiêm phòng bằng vắc xin trên đàn lợn nái

tại trại, em tiến hành theo dõi trên 194 lợn nái. Kết quả được trình bày ở bảng

4.6.

Bảng 4.6 Kết quả tiêm vắc xin phòng bệnh lợn nái sinh sản tại trại

Số con

An

Loại

Thời điểm

Số lượng

Bệnh được phòng

được

toàn

lợn

phòng bệnh

con

tiêm

(%)

Mang thai tuần thứ

25

Dịch tả

100

194

10

Mang thai tuần thứ

22

Lở mồm long móng

194

100

11

Lợn nái

Mang thai tuần thứ

15

Khô thai

100

194

12

100

Trước đẻ 1 tuần

Tẩy ký sinh trùng

100

194

94

Sau đẻ

Viêm tử cung

100

194

Kết quả ở bảng 4.6 cho thấy trại đã thực hiện nghiêm ngặt các quy trình

tiêm phòng vắc xin cần thiết phòng bệnh trên đàn lợn nái. Cụ thể đối với lợn

nái sinh sản được tiêm phòng vắc-xin phòng bệnh dịch tả, vacxin LMLM và

được tẩy ký sinh trùng. Tỷ lệ lợn an toàn sau tiêm là 100%.

Dưới sự hướng dẫn và giám sát của kỹ thuật trại, em đã được trực tiếp theo

dõi tiêm phòng cho lợn nái và lợn con theo mẹ. Nhưng do phân công công việc

chính của em là phụ trách chuồng đẻ nên em chưa được tham gia tiêm đầy đủ các

loại vắc xin phòng bệnh cho lợn nái.

56

Em đã rút ra được nhiều kinh ngiệm về công tác tiêm phòng: vị tri tiêm

đúng và nhanh; cách bảo quản vắc xin; biết được thời điểm tiêm vắc xin phòng

bệnh.

4.3.3. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại

Để đánh giá được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại chúng em

tiến hành theo dõi 194 con. Kết quả được trình bày ở bảng 4.7.

Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại

Số lợn theo dõi Số lợn mắc bệnh Tên bệnh Tỷ lệ (%) (con) (con)

Viêm tử cung 9 4,64

Viêm khớp 4 2,06 194 Viêm vú 5 2,58

Bảng 4.7 là kết quả tình hình mắc bệnh ở lợn nái sinh sản tại trại. Trong

Viêm phổi 2 1,03

các bệnh gặp phải ở lợn nái thì tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung chiếm 4,64% là

cao nhất sau đó là bệnh viêm phổi chiếm tỷ lệ thấp nhất là 1,03%. Ngoài ra,

còn các bệnh viêm khớp, viêm vú có tỷ lệ khỏi lần lượt là 2,06% và 2,58%.

Cần thực hiện quản lý chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn nái sinh sản nghiêm túc,

từ đó hạn chế được dịch bệnh xảy ra trên đàn lợn nái. Mặt khác, do trong quá

trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo đúng kỹ thuật

không làm sây sát niêm mạc tử cung của lợn nái. Do chuồng trại được vệ sinh

thường xuyên thức ăn dinh dưỡng đảm bảo, từ đó làm cho sức đề kháng của

lợn nái được nâng cao. Vì vậy, tỷ lệ mắc các bệnh trên đàn lợn nái thấp.

4.3.3.4. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái sinh sản

Kết quả bảng 4.8 cho ta biết được kết quả điều trị một số bệnh trên đàn

lợn nái sinh sản tại trại trong đó tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao, cao nhất là bệnh viêm

khớp và bệnh viêm phổi với tỷ lệ khỏi là 100%. Và bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất

57

là bệnh viêm tử cung em đã điều trị khỏi 7 con trên tổng số 9 con mắc bệnh đạt

tỷ lệ 77,78%

Trong quá trình thực tập em đã tích cực học hỏi những kỹ năng điều trị

lợn nái, cụ thể là bệnh viêm vú em đã điều trị khỏi 4 con trên tổng số 5 con

mắc bệnh đạt tỷ lệ 80%.

Bảng 4.8 Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại

Tên thuốc

Tên bệnh

Tỷ lệ (%)

Liệu lượng (ml)

Đường tiêm

S T T

Số nái điều trị (con)

Thời gian điều trị

Số nái khỏi bệnh (con)

Viêm tử

1ml/10 -

Tiêm

1

9

3-5 ngày

7

77,78 Amoxinject LA

cung

15kg TT

bắp

liều 1ml/10 -

Viêm

Amoxinject LA

Tiêm

2

4

4

100

15kg 2

3-5 ngày

khớp

+ Dexa

bắp

ngày/1 lần

Viêm

1ml/10kgTT/

Tiêm

3

5

4

80 Vetrimoxin LA

3-5 ngày

2 ngày/1 lần

bắp

Viêm

Amoxinject

1ml/15kgTT

Tiêm

4

2

2

100

3-5 ngày

phổi

LA+Tilogenta

1 lần/ ngày

bắp

Qua quá trình được tham gia điều trị cùng với kỹ thuật trại em đã rút ra

được những bài học, kinh nghiệm tích luỹ cho bản thân nhằm hạn chế tỷ lệ mắc

bệnh trên nái sinh sản như sau:

- Cần phải phát hiện bệnh sớm kịp thời để công tác điều trị được hiệu quả.

- Chuồng trại phải được giữ khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vệ sinh chuồng

phải được thực hiện nghiêm ngặt, hạn chế bụi bẩn trong chuồng nuôi.

- Đối với lợn nái đẻ hạn chế moi móc, không can thiệp khi thấy lợn đẻ

bình thường.

- Lợn nái đẻ có các biểu hiện đẻ khó phải can thiệp ngay, các dụng cụ

can thiệp phải qua sát trùng trước khi đưa vào cơ thể mẹ.

58

- Sử dụng đúng thuốc, kết hợp với chăm sóc nuôi dưỡng tốt, nâng cao

sức đề kháng con vật.

4.3.3.5.Kết quả thực hiện một số công tác khác trong thời gian thực tập

Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho lợn nái và tiến

hành chuyên đề khoa học, em còn tham gia một số công việc sau:

- Đỡ đẻ cho lợn nái: đỡ đẻ cho 194 nái đẻ, tổng số lợn con đỡ đẻ được là

2490 con.

59

Phần 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

Trong thời gian thực tập tại trang trại nái Trần Văn Tuyên, Xã Đoàn

Kết, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, em đã trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc

194 nái đẻ và được tham gia vào quá trình đỡ đẻ tại trại, kết quả đạt được như

sau:

- Rắc vôi đường đi: 126 lần, xả vôi gầm: 40 lần, vệ sinh tổng

chuồng:126 lần.

- Đỡ đẻ cho 194 nái đẻ, tổng số lợn con đã đỡ là 2490 con.

- Chỉ tiêu sinh sản của 194 lợn nái sinh sản tại trại: Tỷ lệ lợn sơ sinh là

12,84 ± 0,48 con/đàn và lợn cai sữa là 11,60 ± 0,06 con/đàn.

Công tác chẩn đoán và điều trị trên đàn lợn nái tại trại cho thấy số lợn mắc

bệnh viêm tử cung là 9 con, trong đó số con chữa khỏi là 7 con, chiếm tỷ lệ

77,78%. Bệnh viêm khớp có số con mắc là 4 con, trong đó chữa khỏi hoàn toàn

cả 4 con, chiếm tỷ lệ 100%. Bệnh viêm phổi có số con mắc bệnh là 2 con, trong

đó số con chữa khỏi là 2 chiếm tỷ lệ 100%. Bệnh viêm vú có số con mắc là 5

trong đó chữa khỏi cả 4 con, chiếm tỷ lệ 80%.

Thực hiện các công tác thú y như đỡ lợn đẻ;tham gia công tác vệ sinh

sát trùng để phòng bệnh cho đàn lợn và tham gia một số công tác khác tại trại

đạt hiệu quả cao và hoàn thành 100% nhiệm vụ được giao.

5.2. Đề nghị

Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng những hiểu biết

của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau:

- Trang trại cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và

quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các bệnh.

60

- Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý, thực hiện tốt

công tác vệ sinh thú y.

- Cần nâng cao tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật của trại cũng như là công

nhân tại trại nhằm nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất.

61

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt

1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh lợn nái - lợn con - lợn thịt, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

2. Bilken.(1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả.

3. Pierre brouillt và Bernarrd farouilt (2003), Điều trị viêm vú lâm sàng, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản lợn nái và sinh lý lợn con, Nxb Nông nghiệp, tp Hồ

Chí Minh.

5. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ ( 2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

6. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sảnxuất lợn

thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

7. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinhsản gia

súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

8. Dwane (2000), “Quản lý lợn đực và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả” trong

cuốn Cẩm nang chăn nuôi lợn nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh

sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ.

10. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm

thú y, Nhà xuất bản Đại học nông nghiệp, Hà Nội

11. Võ Trọng Hốt,Trần Đình Miên, Võ Văn Sư, Vũ Đình Tôn(2000), Giáo trình

Chăn nuôi Lợn, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội.

12. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng.

13. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở

lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Trang 44 - 52.

62

14. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

15. Madec, Neva (1995),“Viêm tử cung và chức năng sinh sản của lợn nái”, Tạp

chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 2.

16. Lê Văn Năm (2009), Hướng dẫn điều trị một số bệnh ở gia súc, gia cầm,

Nxb Nông nghiệp.

17. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp

Hà Nội.

18. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016),

Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương.

19. Nguyễn Như Pho (2002), “Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi đến

hội chứng M.M.A và khả năng sinh sản của lợn nái”, Luận án Tiến sỹ nông

nghiệp, trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.

20. Popkov (1999), “Điều trị bệnh viêm tử cung”, Tạp chí Khoa học kỹ thuậtThú

y, số 5.

21. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Khánh Quắc, Từ Quang Hiển, Nguyễn Quang Tuyên, Trần Văn Phùng

(1995),Giáo trình chăn nuôi lợn, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

23. Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng, Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Mai Thơ

(2016), Giáo trình bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

24. Phan Đình Thắm (1996), Giáo trình chăn nuôi lợn cao học, trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên.

25. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học động vậtnuôi,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Trịnh Văn Thịnh (1978),Sổ tay chăn nuôi thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

63

II. Tài liệu tiếng anh

28. Andrew Gresham (2003), Infectious reproductive disease in pigs, in practice,

pp.466 - 473.

29. Bidwel C. and William S. (2005), “Laboratory diagnosis of porcine

infertility in the UK”, The Pig Journal, pp.88 -106.

30. Gardner J.A.A., Dunkin A.C., Lloyd L.C. (1990), “Metritis - Mastitis -

Agalactia”, in Pig production in Autralia. Butterworths, Sydney, pp.

Hughes, P.E. (2000), “Feed sows by their backfat”, Feed international,

Kotowski, K. (1990), “The efficacy of wisol-T in pig production”,

Medycyna weterynaryjna, 46(10).

31. Smith B.B.,Martineau G., BisaillonA. (1995), “Mammary gland and lactaion

problems”, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university press, pp.

40- 57.

64

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ

Rắc vôi đường Quét vôi đường

Quét hành lang Quét mạng nhện

65

Lau máng lợn con Pha thức ăn cho lợn con

Xịt gầm chuồng Tra thức ăn cho lợn con

Vắt sữa Tắm cho lợn nái

Đỡ đẻ Vệ sinh cho lợn mẹ sau sinh

Vệ sinh máng ăn lợn nái Tra thức ăn cho lợn con

Xả vôi gầm