ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

DƯƠNG VĂN HOÀN

Tên chuyên đề:

“ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG TRỊ

BỆNH CHO ĐÀN GÀ ĐẺ TẠI TRẠI LIÊN KẾT VỚI CÔNG TY TRÁCH

NHIỆM HỮU HẠN EMIVEST FEEDMILL VIỆT NAM”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp: K47 – CNTYN01 Khoa: Chăn nuôi thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương

Thái Nguyên – năm 2019

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập lý thuyết tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay

em đã hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp đại học. Để hoàn thành bản khoá luận

này em đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, sự giúp đỡ của Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên và trang trại chăn nuôi liên kết với công ty TNHH Emivest Feedmill Việt

Nam. Em cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, sự giúp

đỡ, động viên của người thân trong gia đình. Để đáp lại tình cảm đó, qua đây em xin

bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập.

Trước tiên, em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ

nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y cùng các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y

trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình dạy dỗ và dìu dắt em trong suốt

thời gian học tại trường cũng như thời gian thực tập tốt nghiệp

Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn nhiệt

tình của cô giáo hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương, người đã trực tiếp

hướng dẫn em thực hiện chuyên đề này.

Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Ban quản lý trang trại cùng toàn thể anh chị em kỹ sư, công nhân trong trang trại về sự hợp tác giúp đỡ em trong

suốt quá trình thực tập, hướng dẫn các công tác kỹ thuật, theo dõi các chỉ tiêu và thu

thập số liệu làm cơ sở cho khóa luận này.

Cuối cùng, em xin trân trọng gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong hội đồng

đánh giá khóa luận lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 23 tháng 05 năm 2019

Sinh viên

Dương Văn Hoàn

ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Chương trình sử dụng vắc xin .................. Error! Bookmark not defined.

Bảng 4.1. Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh ....................................... 30

Bảng 4.2. Kết quả thực hiện công tác phòng vắc xin cho gà tại cơ sở ..................... 32

Bảng 4.3. Kết quả công tác chăm sóc nuôi dưỡng .................................................... 32

Bảng 4.4. Tỷ lệ nuôi sống của gà ISA Brown qua các tuần tuổi…………………..33

Bảng 4.5. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà ISA Brown........................................ 35

Bảng 4.6. Diễn biến tiêu thụ thức ăn và năng suất trứng của đàn gà qua theo dõi ... 38

Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên gà ISA Brown ........................... 39

iii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1: Đồ thị tỷ lệ đẻ của gà ISA Brown ............................................................. 36

Hình 4.2: Đồ thị năng suất trứng của gà ISA Brown .............................................. 336

iv

DANH MỤC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

Từ, cụm từ viết tắt Ý nghĩa

Cộng sự Cs

Đồng Đ

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc FAO

Gam g

Kilogam kg

Nhà xuất bản Nxb

Số thứ tự STT

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

Thành phố TP

Tiêu tốn thức ăn TTTA

IB Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm

ND Bệnh Newcastle

v

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii

DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC HÌNH ..........................................................................................iii

DANH MỤC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................................... iv

MỤC LỤC .................................................................................................................. v

PHẦN 1. MỞ ĐẦU..................................................................................................... 0

1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................ 0

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài ............................................................................ 1

PHẦN 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................................................................... 2

2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập ................................................................................ 2

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................. 2

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội địa phương nơi trại cư trú ....................................... 3

2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại gà ......................................................................... 3

2.1.4. Mô hình tổ chức của trang trại .......................................................................... 3

2.1.5. Quy mô, cơ cấu của đàn gà .............................................................................. 4

2.2. Tổng quan tài liệu và các nghiên cứu trong, ngoài nước ..................................... 4

2.2.1. Tổng quan tài liệu ............................................................................................. 4

2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ..................................................... 20

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH ............ 22

3.1. Đối tượng ........................................................................................................... 22

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ......................................................................... 22

3.3. Nội dung thực hiện ............................................................................................. 22

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi ............................................................... 22

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi ....................................................................................... 22

3.4.2. Phương pháp theo dõi ..................................................................................... 23

PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................................. 30

4.1. Kết quả công tác phòng bệnh cho đàn gà tại trại ............................................... 30

4.1.1. Công tác vệ sinh và phòng bệnh ..................................................................... 30

vi

4.1.2. Phòng bệnh bằng vắc xin ................................................................................ 32

4.2. Kết quả thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng gà tại trại ............................ 32

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ....................................................................... 39

5.1. Kết luận .............................................................................................................. 39

5.2. Đề nghị ............................................................................................................... 39

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 400

TÀI LIỆU INTERNET …………………………………………………………….42

PHẦN 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông

thôn. Thu nhập chính của họ là từ ngành trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó,

ngành chăn nuôi gia cầm được ưu tiên phát triển hàng đầu do khả năng đáp ứng

nhanh về nhu cầu thịt, trứng. Ngoài ra, chăn nuôi gia cầm còn đóng góp một

phần không nhỏ trong việc phát triển công nghiệp nước ta như công nghiệp chế

biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc.

Tập quán chăn nuôi gia cầm đã gắn bó với nhân dân ta từ lâu đời. Ở nông

thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hầu như gia đình nào cũng nuôi một vài con

gia cầm. Trước đây, chăn nuôi gia cầm thường theo phương thức quảng canh,

tận dụng. Những năm gần đây, xu hướng phát triển ngành chăn nuôi nói chung

đã theo con đường thâm canh công nghiệp hóa, chăn nuôi tập trung. Nhiều gia

đình chăn nuôi với số lượng lên đến hàng vạn con. Đặc biệt, chăn nuôi gà công

nghiệp đã khắc phục được nhiều đặc điểm của gà ta như về tốc độ sinh trưởng

và khả năng sinh sản. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nước ta đã

nhập nhiều giống gà mới như các giống chuyên dụng hướng trứng, hướng thịt có

giá trị cao với các dòng ông, bà, bố, mẹ nhằm thay đổi cơ cấu đàn giống gia

cầm, nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, bước đầu đạt kết quả tốt.

Hiện nay, bên cạnh những giống gà hướng thịt, các giống gà hướng trứng

cũng ngày càng được quan tâm chú trọng đầu tư phát triển. Một trong những

giống gà sinh sản có năng suất cao, chất lượng trứng tốt, thích nghi với điều kiện

khí hậu của Việt Nam là giống gà Isa Brown. Hầu hết các giống gia cầm cao sản

của thế giới đều được nhập vào nuôi ở Việt Nam thông qua các công ty nước

ngoài, công ty liên doanh (Japfa, Dabaco, Proconco,…) và trung tâm nghiên cứu

gia cầm – Viện chăn nuôi. Trong đó có gà Isa Brown, nguồn gốc ở Pháp, hiện

nay đang được nuôi phổ biến ở nước ta. Đây là giống gà có đặc điểm ít bệnh, dễ

nuôi, năng suất trứng cao, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu Việt Nam. Để

khai thác tối đa khả năng sản xuất của vật nuôi, các phương thức chăn nuôi khép

kín là sự lựa chọn của các trang trại có vốn đầu tư lớn và hệ thống mạng lưới

chăn nuôi gia công do các công ty nước ngoài triển khai đang phát triển hầu

khắp cả nước. Trong đó, quy trình chăm sóc nuôi dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp

đến năng suất và chất lượng các sản phẩm của gia cầm.

Chăn nuôi gà hướng trứng theo phương thức công nghiệp hóa, chăn nuôi

tập trung ở nước ta đã trở thành một trong những nghề phát triển khá nhanh. Với

những thuận lợi có được như hiện nay về các giống gà chuyên dụng, những tiến

bộ của ngành chăn nuôi gia cầm đòi hỏi phải có quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng

hợp lý. Vấn đề đặt ra là phải tìm ra phương thức nuôi phù hợp mà vẫn đảm bảo

khả năng sản xuất của giống.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó, tôi tiến hành chuyên đề: “Áp dụng quy trình

chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho gà đàn đẻ tại trại liên kết với công ty

TNHH Emivest Feedmill Việt Nam”

1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề

- Hiểu rõ và thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng gà sinh sản tại công

ty TNHH Emivest Feedmill Việt Nam.

- Đánh giá quá trình sinh trưởng và phát triển của gà ở các giai đoạn.

- Đánh giá được khả năng sản xuất trứng của gia cầm và hiệu quả kinh tế.

- Rèn luyện kỹ năng và thái độ nghề nghiệp để trở thành kỹ sư chăn nuôi giỏi.

- Có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến sự vận hành dây chuyền

sản xuất trong phương thức chăn nuôi hiện đại.

PHẦN 2

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Trại gà của công ty TNHH Emivest Feedmill Việt Nam nằm trên địa bàn

hành chính của xã Bắc Phú, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Xã Bắc Phú là một trong 25 xã, thị trấn thuộc huyện Sóc Sơn, gồm 4 thôn:

Yên Tàng, Phú Tàng, Xuân Tàng, Mậu Tàng. Vị trí địa lý: Phía Đông giáp

huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; Phía Tây giáp với xã Tân Minh; Phía Nam

giáp 2 xã Việt Long và Xuân Gian; Phía Bắc giáp với xã Tân Hưng, huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội.

2.1.1.2. Đặc điểm khí hậu

Xã Bắc Phú nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt:

Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô, lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm

sau.

Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình/ năm là 23,50C. Độ ẩm không khí trung

bình/ năm là 84%. Lượng mưa trung bình/ năm là 1670mm, năm mưa ít nhất là

1000mm, năm mưa nhiều nhất là 2630mm. Song lượng mưa phân bố không đều

trong năm, mùa mưa tập trung vào các tháng trong năm 7, 8, 9 lượng mưa chiếm

từ 80-85% lượng mưa cả năm.

Nhìn chung khí hậu xã Bắc Phú huyện Sóc Sơn có điều kiện thuận lợi để

phát triển các loại cây trồng và vật nuôi.

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội địa phương nơi trại cư trú

Trong những năm gần đây, kinh tế của xã có những bước phát triển khá,

tăng trưởng bình quân đạt mức cao và ổn định. Năm 2015, thu nhập bình quân

35 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Nông

nghiệp 43%, tiểu thủ Công nghiệp - xây dựng 15%, dịch vụ 42%.

Mục tiêu chung của toàn xã, phấn đấu xã Bắc Phú trở thành xã nông thôn

mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đồng

bộ, hiện đại, văn minh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng

cao.

2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại gà

- Trại được thiết kế xa khu dân cư với diện tích 1 ha, có hệ thống bảo vệ

xung quanh được xây tường rào bao quanh trại.

- Trại gồm có: 4 chuồng, mỗi chuồng có diện tích 900m2 nuôi từ 6000 –

7000 con gà.

- Hệ thống nước cung cấp cho chăn nuôi và sinh hoạt được sử dụng bằng

nước giếng khoan và có bể chứa để khử trùng nước.

- Trang trại có 01 kho cám, được thiết kế ở đầu chuồng và 01 kho thuốc.

- Trong mỗi chuồng có 4 quạt thông gió, quạt thiết kế ở cuối chuồng. Có

hệ thống giàn mát được thiết kế ở đầu chuồng.

- Trại được trang bị máng ăn thủ công, máng uống nước tự động, mỗi

chuồng có 8 đường máng ăn, 8 đường nước và 1 bình nước 500 lít.

- Sân trại và lối đi giữa các chuồng được bê tông hóa.

- Hệ thống điện sử dụng dòng điện 3 pha, có 5 máy phát điện, có hệ thống

đèn cảnh báo.

- Trại có 2 khu nhà ở cho công nhân, 1 nhà kho để chứa dụng cụ chăn nuôi.

2.1.4 Mô hình tổ chức của trang trại

Cơ cấu tổ chức của trại như sau: Đội ngũ cán bộ, quản lý, kỹ thuật, công

nhân gồm:

- 01 quản lý có trình độ kỹ sư.

- 01 đầu bếp.

- 06 công nhân.

- 02 sinh viên thực tập.

Trong quá trình thực tập tại cơ sở, trại đã tạo điều kiện chỗ ăn, chỗ ở và

sinh hoạt theo công nhân.

2.1.5 . Quy mô, cơ cấu của đàn gà

Trại có nhiệm vụ chủ yếu là nuôi gà đẻ thương phẩm, nên chỉ có 1 loại gà.

Quy mô chăn nuôi gồm 4 chuồng với diện tích mỗi chuồng 900m2, các dãy

chuồng được xây dựng song song với nhau có cơ cấu từ 6000 – 7000 gà/chuồng

nuôi. Được sự phân công của quản lý trại, tôi trực tiếp tham gia chăm sóc gà ở

chuồng 3 với số gà là 6190 nghìn con.

2.2. Tổng quan tài liệu và các nghiên cứu trong, ngoài nước

2.2.1. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề

2.2.1.1. Giới thiệu về gà Isa Brown và phương thức nuôi lồng tại cơ sở

* Gà ISA Brown

Theo Wikipedia (2016) [18] : Gà ISA Brown là giống gà chuyên đẻ hay chuyên

trứng có nguồn gốc tại Mỹ. Giống gà này là giống lai, hình thành do việc lao tại giữa

giống Gà Rohde Đỏ với Gà Rohde Trắng do công ty Hubbard ISA của Mỹ do đó còn

gọi là gà Hubbard. Gà này nằm trong dòng gà ISA của hãng Hubbard–ISA. Đây là

giống gà hướng trứng được nuôi phổ biến trên thế giới, chúng là giống gà xuất khẩu

của Hoa Kỳ. Ở Việt Nam chúng được xếp vào nhóm gà siêu trứng cho năng suất cao.

Gà ISA nâu là những giống gà chuyên trứng tiên tiến trên thế giới cho năng suất 280–

300 trứng/mái/năm. Đây là giống gà có đặc điểm ít bệnh, dễ nuôi, trứng dễ bán và

năng suất trứng cao. Gà có sức đẻ trứng cao, thời gian đẻ trứng kéo dài, khối lượng

trứng lớn, lên đến 58-60 gam, vỏ trứng màu nâu. Tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 quả

trứng khoảng 1,5–1,6 kg thức ăn, trọng lượng trứng nặng bình quân 50–60g. Gà mái

thương phẩm có màu nâu, có thể phân biệt trống mái từ lúc 1 ngày tuổi, con trống lông

màu trắng, mái màu nâu rất thận thiện trong quá trình chăn nuôi. Màu sắc lông đa dạng

tùy theo từng dòng. Về chăm sóc, muốn gà đẻ đều, chất lượng trứng tốt thì thức ăn cho

gà phải bảo đảm các thành phần chất dinh dưỡngnhư cám gạo, khoáng vi lượng,

vitamin, cho uống đủ nước pha chất điện giải trong những ngày nắng nóng.

* Giới thiệu về phương thức nuôi nhốt lồng

Nuôi gà trong lồng đã phát triển khoảng 30 năm nay nhưng nó mới được phổ

biến trong những năm gần đây, gà nuôi lồng có thể nhốt 1, 2, 3 hoặc nhiều con một

lồng. Phương thức này phù hợp với những vùng có khí hậu lạnh, vì trong chuồng

nhỏ có thể nuôi được nhiều gà, chi phí chuồng trại thấp, chi phí nhiệt để sưởi ấm

cho gà cũng ít vì bản thân chúng thải nhiệt làm ấm chuồng nuôi.

 Lồng nhốt gà

Lồng gà được làm bằng kim loại, thiết kế phía trước và đáy lồng, có thể

sản xuất và bán hai phần này cho người nuôi còn các phần khác có thể tự làm và

lắp ghép theo kích thước gà. Đáy lồng được đặt hơi dốc. Khi trứng đẻ ra có thể

lăn tròn ra bên ngoài qua khe hở của tấm phên phía trước và được giữ lại bởi vỉ

cong bên ngoài của đáy lồng. Như vậy trứng không bị dẫm đạp hay bị mổ vỡ

trứng.

Gà thải phân có thể trực tiếp xuống nền chuồng nếu là kiểu chuồng

lồng một tầng hay nhiều tầng kiểu bậc thang. Chuồng nuôi của Công ty

TTHH Emivest Feedmill thiết kế theo kiểu tầng. Máng ăn được gắn phía

ngoài đằng trước cửa lồng để gà có thể tự do ăn, máng uống được gắn phía

trên mỗi lồng gà để gà uống theo nhu cầu và hoàn toàn tự động. Mật độ nuôi

nhốt 5 gà/ lồng.

 Chuồng gà

Chuồng phải có mái tốt, đủ ánh sáng, thông thoáng đảm bảo. Ở những vùng

khí hậu nóng nên dùng lưới thép thay thế phần trên của tường và nơi nóc mái để

tăng cường độ thông thoáng, tất nhiên phải đề phòng đến khi nhiệt độ xuống

thấp hoặc mưa bão vẫn có thể điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của gia cầm.

Chuồng nuôi phải đủ rộng theo thiết kế đặt các hệ thống lồng, phòng chứa thức

ăn và trứng, phân. Sự lắp đặt phù hợp các lồng đều có ánh sáng được chiếu đến

đồng đều mọi nơi. Cũng có thể bố trí đơn giản chuồng nuôi chỉ là mái che mưa,

che nắng như vậy sẽ rất tốt thông thoáng nếu điều kiện bảo vệ, an ninh cho phép.

 Chăm sóc, quản lý

Gà được chuyển vào lồng trước khi đẻ 14 ngày và ở đó đến tận khi loại thải

(11 – 12 tháng). Ưu thế của người nuôi gà lồng (đặc biệt là mỗi con một lồng) cho

phép loại thải chính xác cao những gà mái đẻ kém và như vậy sẽ nâng cao tỷ lệ đẻ,

nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và chính là nâng cao hiệu quả kinh tế.

Thức ăn cho gà nuôi lồng phải đầy đủ - cân đối tất cả các thành phần dinh

dưỡng, vì gà không có khả năng tự kiếm được bất kì cái gì ngoài thức ăn, nước

uống do người cung cấp.

Mặc dù nuôi lồng là phương thức rất vệ sinh, ít bệnh tật nhưng vì mật độ

nuôi nhốt cao lên giữ vệ sinh là việc làm thường xuyên nhất là máng ăn, máng

uống. Chuồng, lồng nuôi sau mỗi lứa phải vệ sinh sát trùng toàn diện, chu đáo.

Thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cũng phải được tháo rời để đưa ra ngoài vệ sinh tiêu

độc một cách kỹ càng, thường xuyên kiểm tra, phát hiện ngoại ký sinh trùng như

mạt, mò, rận ăn lông, bọ gà… Thường xuyên kiểm tra đàn gà để loại thải, cách

ly những con gà bị chảy máu, ốm yếu. Nếu trong cùng một lồng nhốt hai gà trở

lên thì gà này phải được nuôi cùng chuồng cùng thời gian hậu bị để tránh lạ và

gà nên được cắt mỏ để hạn chế mổ cắn nhau.

 Lợi ích.

Lợi ích của phương thức này là đạt tiêu chuẩn vệ sinh cao, gà không tiếp

xúc trực tiếp với phân, thức ăn, nước uống không bị nhiễm bẩn, ít mắc bệnh ký

sinh trùng. Thêm nữa gà được nuôi tách riêng từng nhóm nhỏ trong một lồng

nên việc lây nhiễm bệnh và ngoại ký sinh trùng cũng hạn chế hơn so với các

phương thức nuôi đàn tập trung. Dễ phát hiện và loại ra những gà ốm, yếu khỏi

đàn nuôi. Sức sản xuất sản phẩm cao và hiệu quả, mỗi gà tự do ăn, uống không

phải cạnh tranh nhau. Ảnh hưởng của thời tiết xấu đến gà là nhỏ nhất. Dễ dàng

loại bỏ những gà không đẻ và kém đẻ, hạn chế được gà làm dập, vỡ và ăn trứng.

Nhưng nếu gà đẻ trứng non, vỏ mỏng sẽ bị rơi và vỡ xuống đất, cho nên tỷ lệ

Canxi và vitamin D trong thức ăn gà mái đẻ nuôi lồng là điều quan tâm. Thêm

nữa trứng gà nuôi lồng thường rất sạch sẽ, ít bị dính phân.

Gà đẻ sau giai đoạn sản xuất trứng, thịt có chất lượng tốt vì ít vận động nên

mềm hơn so với các phương thức chăn thả. Lợi ích nữa của phương thức này là

hệ thống linh động, nó rất phù hợp với đàn rất lớn và cả đàn nhỏ. Có thể nuôi gà

ở nhiều nữa tuổi khác nhau, hạn chế rỉa, mổ lông và mổ cắn nhau. Không cần

chi phí đệm lót. Có thể mở trại gà nuôi lồng ngay trong lòng thành phố, nơi mà

đất đai là một vấn đề hết sức khó khăn. Phương thức này cần ít đầu tư lao động

hàng ngày. Không cần chi phí đệm lót.

 Bất lợi

Đầu tư ban đầu quá lớn, làm cho phần lớn người chăn nuôi không dám

nghĩ đến phương thức này. Kèm theo phương thức nuôi lồng là cơ khí hóa, điện

khí hóa các dây chuyền thức ăn, chuyền phân, thu trứng…Nếu không đồng bộ

hay thiếu kiến thức, máy móc hỏng, mất điện sẽ làm đình đốn, ảnh hưởng rất lớn

đến chiếu sáng, thông thoáng và hoạt động của các bộ phận khác và kết quả là

làm thiệt hại kinh tế chăn nuôi. Người phụ trách chăn nuôi hệ thống này phải

được đào tạo, nếu so với các phương thức khác thì cần lâu hơn để có kỹ năng

hoàn thiện.

2.2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của gia cầm

Để duy trì và phát triển đàn gia cầm thì khả năng sinh sản là yếu tố cơ bản

quyết định đến quy mô, năng suất và hiệu quả sản xuất đối với gia cầm. Sản

phẩm chủ yếu là thịt và trứng, trong đó sản phẩm trứng được coi là hướng sản

xuất chính của gà hướng trứng. Còn với gà hướng thịt (cũng như gà hướng

trứng) khả năng sinh sản hay khả năng đẻ trứng quyết định đến sự nhân đàn di

truyền giống mở rộng quy mô đàn gia cầm. Từ đó, nó quyết định tới năng suất,

sản lượng sản phẩm của chăn nuôi gia cầm. Con người chú trọng đến sinh sản

của gia cầm, vì không những chức năng đó liên quan đến sự sinh tồn của loài

gia cầm điều mà từ đó con người mới có số lượng đông đảo gia cầm để sử

dụng 2 sản phẩm quan trọng trứng và thịt. Sinh sản là chỉ tiêu cần được quan

tâm trong công tác giống nói chung và công tác giống gia cầm nói riêng. Ở các

loại gia cầm khác nhau thì đặc điểm sinh sản cũng khác nhau rõ rệt.

 Tuổi thành thục về tính dục

Ở gà, tuổi thành thục về tính dục được tính từ khi gà đẻ bói đối với từng cá

thể hoặc lúc tỷ lệ đẻ đạt 5%, đối với đàn quần thể. Tuy nhiên xác định tuổi đẻ

của gà dựa trên số liệu của từng cá thể trong đàn là chính xác nhất. Tuổi thành

thục về tính dục chịu ảnh hưởng bởi giống và môi trường. Các giống khác nhau

thì tuổi thành thục về tính dục cũng khác nhau.

* Tuổi đẻ đầu

Đó là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả năng tham gia quá trình

sinh sản. Đối với gia cầm mái, tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu đẻ quả

trứng đầu tiên. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng.

Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời điểm tại

đó đàn gà đạt tỷ lệ đẻ 5%. Theo Brandsch và Bilchel, 1978 [1] những gà có tuổi

đẻ quả trứng đầu lớn hơn 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn những gà có

tuổi đẻ quả trứng đầu nhỏ hơn 215 ngày là 6,9 quả. Tuổi đẻ trứng đầu phụ thuộc

vào chế độ nuôi dưỡng các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng.

Thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm. Tuổi đẻ đầu sớm hay

muộn liên quan đến khối lượng cơ thể ở một thời điểm nhất định. Những gia

cầm thuộc giống bé có khối lượng cơ thể nhỏ tuổi thường thành thục sinh dục

sớm hơn những gia cầm có khối lượng cơ thể lớn. Trong cùng một giống, cơ thể

nào được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, điều kiện thời tiết khí hậu và độ dài ngày

chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn. Nhiều công trình

nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục sớm là trội so với tuổi thành

thục sinh dục muộn.

Tuổi gà đẻ đạt 50%:

Tuổi gà đẻ đạt đỉnh cao: Đây là chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng của đàn gia

cầm. Đỉnh cao của tỷ lệ đẻ cho biết mối tương quan với năng suất trứng. Tỷ lệ đẻ

cao, thời gian đẻ kéo dài trong thời kỳ sinh sản chứng tỏ là giống tốt. Chế độ chăm

sóc nuôi dưỡng đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao và ngược lại. Gà chăn thả sẽ

có tỷ lệ đẻ thấp trong mấy tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng dần và tỷ lệ đẻ đạt

cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần ở cuối kỳ sinh sản. Năng suất trứng trên

năm của một quần thể gà mái cao sản được thể hiện theo quy luật, cường độ đẻ

trứng đạt cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ.

(Khavecman, 1972) [6]

* Những yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính

Thời gian chiếu sáng cũng ảnh hưởng lớn đến tuổi thành thục về tính dục.

Thí nghiệm của Morris T. R. (1967) [16] trên gà Legohrn được ấp nở quanh năm

cho biết, những gà được ấp nở vào tháng 12 và tháng 1 thì nó có tuổi thành thục

về tính là 150 ngày. Những gà được ấp nở từ tháng 4 đến tháng 8 thì tuổi thành

thục trên 170 ngày. Những gà nở sau đó có tuổi thành thục về tính ngắn hơn vì

thời gian sinh trưởng giai đoạn hậu bị của chúng diễn ra trong những ngày có

thời gian chiếu sáng giảm dần, sau đó ánh sáng lại tăng dần lên, do vậy sẽ kích

thích cơ quan sinh dục phát triển và rút ngắn tuổi thành thục về tính dục.

Tuổi đẻ trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng các yếu tố môi trường

đặc biệt là thời gian chiếu sáng; thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ

sớm. Tuổi đẻ đầu sớm hay muộn liên quan đến khối lượng cơ thể ở một thời

điểm nhất định. Những gia cầm thuộc giống có khối lượng cơ thể nhỏ, tuổi

thành thục sinh dục thường sớm hơn những gia cầm có khối lượng cơ thể lớn.

Trong cùng một giống, cơ thể nào được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, điều kiện thời

tiết khí hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục

sớm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục

sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn.

 Cường độ đẻ trứng

Cường độ đẻ trứng: là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Trong thời

gian này có thể loại trừ ảnh hưởng của môi trường. Thời gian kéo dài sự đẻ có

liên quan tới chu kỳ đẻ trứng. Chu kỳ đẻ kéo dài hay ngắn phụ thuộc cường độ

và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn

nuôi gà đẻ. Giữa các trật đẻ, gà thường có những khoảng thời gian đòi ấp. Sự

xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền vì ở các giống

khác nhau có bản năng đòi ấp khác nhau.

Chu kỳ đẻ trứng: được tính từ khi đẻ quả trứng đầu tiên đến khi ngừng đẻ và

thay lông, đó là chu kỳ thứ nhất. Chu kỳ thứ hai bắt đầu từ khi gia cầm bắt đầu

đẻ lại (sau khi thay lông) tới khi ngừng đẻ và thay lông lần thứ hai. Cứ như thế

có thể xác định tiếp tục các chu kỳ tiếp theo. Chu kỳ đẻ trứng liên quan tới vụ nở

gia cầm con mà bắt đầu và kết thúc ở các tháng khác nhau thường ở gà là một

năm. Nó có mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng,

sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng, yếu tố này do hai gen P và p điều hành. Sản

lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kỳ đẻ.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến cường độ đẻ trứng

Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng

cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần về cường

độ và thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài ra sự nghỉ đẻ này còn do khí hậu, sự

thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn.

- Ảnh hưởng của tuổi thành thục về tính dục

Tuổi thành thục về tính của gia cầm có ảnh hưởng rõ ràng đến sản lượng

trứng trong chu kỳ để đầu và chu kỳ đẻ tiếp theo. Gà thành thục về tính quá sớm

sẽ đẻ trứng nhỏ với thời gian dài, ảnh hưởng xấu tới giá trị kinh tế vì không thu

được trứng giống. Tuổi và năm đẻ của gia cầm có liên quan đến sản lượng trứng,

gà đẻ năm thứ hai sản lượng trứng giảm khoảng 10 - 20%.

- Ảnh hưởng của bản năng đòi ấp

Bản năng đòi ấp là một đặc tính bẩm sinh của gia cầm để duy trì nòi giống.

Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc vào các yếu tố di truyền, ở các dòng, các

giống khác nhau thì tỷ lệ xuất hiện bản năng đòi ấp cũng khác nhau, các giống gà

chuyên dụng qua quá trình lai tạo và chọn lọc thì bản năng đòi ấp hầu như không

còn. Riêng đối với các giống gà địa phương bản năng đòi ấp vẫn còn và có tỷ lệ rất

cao, ở gà Ri tỷ lệ đòi ấp trên 30%, chính vì vậy mà sản lượng trứng thấp hơn. Gà Ri

nuôi đại trà trong nông thôn hộ chỉ đẻ 86,99 quả/mái (Hồ Xuân Tùng, 2009) [11],

trong khi đó ở gà Lương Phượng là 168,73 quả/mái (Trần Công Xuân và cs, 2004)

[13].

- Ảnh hưởng của sự thay lông

Sự thay lông của gà là một quá trình sinh lý tự nhiên. Ở gia cầm hoang dã

thì thời gian thay lông vào mùa thu. Thời gian thay lông càng dài, sản lượng

trứng càng thấp. Sức đẻ trứng giảm ngay sau khi gà rụng lông. Trong thời kỳ

thay lông buồng trứng bị thoái hóa và khối lượng của buồng trứng bị giảm đi

khoảng đi khoảng 5% so với khối lượng lúc trước.

- Ảnh hưởng của nhiệt độ

Nhiệt độ môi trường xung quanh có liên quan mật thiết với sản lượng

trứng. Nhiệt độ cao hoặc thấp đều ảnh hưởng đến sản lượng trứng thông qua

mức độ tiêu thụ thức ăn. Khi được nuôi trong điều kiện nhiệt độ 20oC nhu cầu

về năng lượng là thấp, mức tiêu thụ thức ăn cao, mức tiêu thụ thức ăn này sử

dụng cho việc sưởi ấm cơ thể, do vậy tiêu thụ thức ăn và tiêu tốn nhiều cho quá

trình hô hấp, lượng thức ăn ăn vào không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và sản

lượng trứng sẽ giảm.

- Ảnh hưởng của độ ẩm

Độ ẩm quá cao (>80%) làm cho chất độn chuồng bị ướt, ẩm độ cao tạo thành

một lớp hơi nước bao phủ không gian chuồng nuôi, tạo điều kiện cho mầm bệnh

phát triển, đặc biệt là cầu trùng; tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến năng suất

trứng và mức độ tiêu tốn thức ăn. Độ ẩm quá thấp (<31%) làm cho gia cầm mổ

lông và rỉa thịt nhau, ảnh hưởng đến tỷ lệ hao hụt và khả năng sản xuất, tuy nhiên ở

miền Bắc Việt Nam thì không bị ảnh hưởng của độ ẩm thấp.

- Ảnh hưởng của mùa vụ và chế độ chiếu sáng

Mùa vụ với thời tiết, khí hậu, độ dài ngày chiếu sáng và nguồn thức ăn tự

nhiên giữ một vai trò quan trọng, nó chi phối và ảnh hưởng lớn sức đẻ trứng

của gia cầm, đặc biệt đối với gia cầm nuôi theo phương thức quảng canh hoặc

bán thâm canh.

Ngoài ra yếu tố về thời gian chiếu sáng đóng một vai trò quan trọng. Đối

với gà đẻ, chế độ chiếu sáng ảnh hưởng lớn đến tuổi thành thục về tính dục,

cường độ đẻ trứng và độ dài trật đẻ.

- Ảnh hưởng của dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng

Thức ăn không chỉ ảnh hưởng tới khối lượng cơ thể, tỷ lệ hao hụt trong

giai đoạn nuôi dưỡng mà còn ảnh hưởng đến tuổi đẻ quả trứng đầu tiên cũng

như sản lượng trứng, khối lượng trứng và chất lượng trứng. Trong chăn nuôi gia

cầm sinh sản thì lipit, năng lượng, axit amin (arginine, methionine), vitamin (A,

D, B1, B2, B6 và axit pantothenic), khoáng vi lượng (đặc biệt là Mn) cần được

chú ý nhất, vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến trứng.

 Trật đẻ

Trật đẻ là khoảng thời gian mà gia cầm đẻ trứng liên tục. Độ dài trật đẻ phụ

thuộc vào giống, các yếu tố ngoại cảnh như thức ăn dinh dưỡng, thời gian và

cường độ chiếu sáng,…

 Năng suất trứng

Năng suất trứng hay sản lượng trứng là số lượng trứng của một gia cầm

mái đẻ ra trên một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm thì đây là chỉ tiêu quan

trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục.

Năng suất trứng là một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện

ngoại cảnh. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất,

mùa vụ và đặc điểm của cá thể. Năng suất trứng được đánh giá qua sự phụ thuộc

vào cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ.

Sản lượng trứng là số lượng trứng của một gia cầm mái đẻ ra trong một chu

kỳ đẻ hoặc trong một thời gian nhất định, có thể tính theo tháng hoặc theo năm,

Fairfull và cs (1990) [15] cho biết: Khi điều kiện môi trường thích hợp (nhiệt độ,

ánh sáng, dinh dưỡng…) nhiều gen tham gia điều khiển quá trình liên quan đến

sinh sản đều phát huy tác dụng, cho phép gia cầm phát huy được đầy đủ tiềm

năng di truyền của chúng. Hệ số di truyền về sản lượng trứng của gà là: 0,12 -

0,3. (Nguyễn Văn Thiện, 1995) [10]

* Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng

Ảnh hưởng của tuổi thành thục về tính

Tuổi thành thục về tính của gia cầm có ảnh hưởng rõ ràng đến năng suất

trứng trong chu kỳ đẻ đầu và các chu kỳ đẻ tiếp theo. Đồ thị đẻ trứng của gia

cầm đạt đến đỉnh cao nhanh chủ yếu là do tuổi thành thục về tính của từng cá thể

trong đàn sớm. Gà thành thục về tính sớm sẽ đẻ nhiều trứng hơn trong một năm

sinh học. Nhưng nếu gà thành thục về tính quá sớm sẽ đẻ trứng nhỏ kéo dài.

Tuổi và năm đẻ của gia cầm có liên quan đến sản lượng trứng/năm. Khi gia cầm

đẻ năm thứ hai thì sản lượng trứng giảm 10 - 20%.

Ảnh hưởng của sự thay lông

Sự thay lông là một quá trình sinh lý học tự nhiên. Ở gia cầm hoang thì thời

gian thay lông thường phụ thuộc vào mùa. Thông thường, chúng thay lông vào

mùa thu. Thời gian thay lông càng dài thì sản lượng trứng càng thấp. Sự thay

lông là kết quả hoạt động tương tác phức hợp của các hormon Gonadotropin.

Các hormon khác như thyroxine và prolactin cũng hoạt động tương tác với

hormon gonadotropin. Sức đẻ trứng giảm ngay khi gà rụng lông. Thời gian rụng

lông kéo dài trong vòng 10 ngày và sau khoảng 15 ngày thì lông mới được mọc

ra. Gia cầm có thể đẻ trở lại trước khi bộ lông mới mọc đầy đủ.

* Ảnh hưởng của bệnh lý : thông qua việc làm giảm đầu con, giảm khả

năng đẻ trứng.

* Ảnh hưởng của môi trường bên ngoài

- Ảnh hưởng của nhiệt độ: Gia cầm trưởng thành chịu đựng nhiệt độ thấp

tốt hơn với nhiệt độ cao. Sự thay đổi nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu

tốn thức ăn. Khi gia cầm được nuôi trong điều kiện nhiệt độ trung bình (200C)

thì nhu cầu về năng lượng là thấp nhất. Sự thay đổi nhiệt độ môi trường sẽ ảnh

hưởng đến việc chuyển hóa thức ăn liên quan đến sự thay đổi hoạt động của

tuyến giáp trạng.

Nhiệt độ cao hoặc thấp ảnh hưởng đến sản lượng trứng thông qua mức độ

tiêu tốn thức ăn. Ở nhiệt độ thấp, mức tiêu thụ thức ăn cao, lượng thức ăn này

được sử dụng cho việc sưởi ấm của cơ thể, do vậy tiêu tốn thức ăn cho việc sản

xuất ra một quả trứng là cao. Trong khi đó nhiệt độ cao sẽ làm giảm mức tiêu

thụ thức ăn, lượng thức ăn ăn vào không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và như

vậy sản lượng trứng sẽ bị giảm đi.

- Ảnh hưởng của độ ẩm: Khi độ ẩm quá cao làm cho chất độn chuồng bị

ướt, tạo thành một lớp hơi nước bao phủ không gian của chuồng nuôi. Nếu tình

trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự hô hấp của gia cầm và làm ảnh hưởng

đến năng suất và tiêu tốn thức ăn.

Độ ẩm quá thấp sẽ làm cho gia cầm mổ lông và rỉa thịt nhau, ảnh hưởng

đến tỷ lệ hao hụt và khả năng sản xuất.

- Ảnh hưởng của mùa vụ và ánh sáng: Trong tất cả các yếu tố bên ngoài ảnh

hưởng đến sản lượng trứng thì yếu tố về thời gian chiếu sáng đóng một vai trò

quan trọng. Đối với gia cầm đẻ thì chế độ chiếu sáng có ảnh hưởng rất lớn đến

tuổi thành thục về tính, ánh sáng ảnh hưởng đến bộ máy sinh dục của gia cầm

theo cơ chế sau: ánh sáng tác động lên mắt, thông qua dây thần kinh lên não bộ từ

đó tác động lên vùng dưới đồi giải phóng hooc môn LH đồng thời kích thích sự

giải phóng hormon gonandotropin. Một mặt các hormon này kích thích sự phát

triển của nang trứng, mặt khác còn điều tiết quá trình rụng trứng. Lợi dụng ảnh

hưởng của ánh sáng, người ta đã áp dụng các chương trình chiếu sáng thích hợp

để nhằm các mục đích sau:

+ Đạt được tuổi thành thục về tính theo yêu cầu (đây là một chỉ tiêu có ý

nghĩa kinh tế lớn).

+ Làm tăng cường độ đẻ trứng

+ Kéo dài thời gian đẻ trứng

Quá trình hình thành trứng trong ống dẫn trứng do các hormon điều khiển

trong chu kỳ 24 giờ sáng/tối. Khoảng cách giữa 2 lần rụng trứng thường dài hơn

một chút chính vì vậy nếu gà đẻ vào sáng sớm hôm trước thì hôm sau sẽ đẻ

muộn hơn một chút và cứ như vậy hôm sau lại muộn hơn hôm trước và cuối

cùng sẽ có một ngày gà sẽ không đẻ trứng sau đó lại tiếp tục như vậy. Nếu gà đẻ

hôm sau không muộn hơn hôm trước thì nó sẽ đẻ 365 trứng/năm theo lịch đúng

với tiềm năng di truyền tối đa của chúng. Bằng phương pháp chọn lọc, ngày nay

người ta đã tạo ra được những đàn gà thương phẩm có sản lượng trứng lên đến

300 trứng/năm hoặc có khi còn cao hơn nữa trong những điều kiện nuôi dưỡng

tốt và môi trường thích hợp. Từ những đánh giá trên, người ta thấy có hai khả

năng để làm tăng sản lượng trứng ở gia cầm là kéo dài chu kỳ đẻ trứng thông

thường hoặc sử dụng gà mái qua 2, 3 hoặc 4 chu kỳ đẻ trứng và phá vỡ điểm

giới hạn đẻ 1 trứng/ngày. Kéo dài chu kỳ đẻ trứng hoặc sử dụng gà đẻ nhiều chu

kỳ sẽ kéo dài khoảng cách thế hệ.

Theo Fairfull và Gowe (1990) [15]: để phá vỡ giới hạn hình thành trứng

trong vòng 24 giờ yêu cầu cần thiết là làm thay đổi môi trường, chú trọng đến

chế độ chiếu sáng. Theo các tác giả thì có 4 chế độ chiếu sáng có thể sử dụng để

làm thay đổi nhịp đẻ (khoảng cách giữa hai trứng): đó là chế độ chiếu sáng đơn

giản (14 giờ sáng, 10 giờ tối), chế độ chiếu sáng liên tục, chế độ tối liên tục và

chế độ luân phiên tối sáng.

Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng: Cơ sở để xây dựng khẩu phần ăn cho gia

cầm đẻ phải căn cứ vào khẩu phần ăn của tất cả các giai đoạn chăn nuôi trước đó.

Lượng thức ăn trong giai đoạn nuôi dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến khối lượng

cơ thể, tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn nuôi dưỡng mà còn ảnh hưởng đến tuổi đẻ

quả trứng đầu tiên cũng như sản lượng trứng, khối lượng trứng, chất lượng trứng,

khối lượng cơ thể và tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn gia cầm đẻ. Làm thế nào để có

một khẩu phần ăn thích hợp đáp ứng đủ các yêu cầu trên đã được đặt ra cho các

nhà chăn nuôi.

Đối với gà chăn thả (gà nội) chỉ đẻ 50 - 80 trứng/năm thì ảnh hưởng của yếu

tố dinh dưỡng là không lớn lắm nhưng đối với gà nuôi nhốt thì nhu cầu dinh

dưỡng lại cần được quan tâm chú ý. Nhu cầu dinh dưỡng của gà nuôi nhốt phải

tăng gấp đôi về protein, cacbonhydrate, lipit và phải bổ sung thêm khoáng so với

gà chăn thả. Tác giả cũng cho biết hàm lượng protein, Canxi, Phospho và lipit

trong máu gà đang đẻ trứng cao gấp 2, 3, thậm chí đến 4 lần so với trong máu gà

không đẻ trứng. Sự tăng lên về hàm lượng các chất này trong máu chứng tỏ gà

cần protein để tạo noãn hoàng và lòng trắng; cần Canxi, Phospho để tạo vỏ trứng;

cần lipit để lạo noãn hoàng. Khi gà ngừng đẻ thì hàm lượng các chất này trong

máu lại giảm đi.

Theo Simensen (1982) [17]: ảnh hưởng của protein, năng lượng, axit amin,

vitamin, khoáng vi lượng cần được chú ý quan tâm vì chúng có ảnh hưởng gián

tiếp đến sản lượng trứng.

Ảnh hưởng của năng lượng trong thức ăn: Gia cầm đẻ cần năng lượng để

duy trì các hoạt động của cơ thể và tạo trứng, ngoài ra còn cần để phát triển. Nếu

thừa năng lượng sẽ gây nên hiện tượng tích lũy mỡ và gia cầm quá béo dẫn đến

ảnh hưởng đến sản lượng trứng. Còn nếu thiếu năng lượng thì giảm tốc độ phát

triển, giảm sản lượng trứng và ảnh hưởng đến khối lượng trứng. Nhu cầu về

năng lượng tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của cá thể và tuỳ thuộc từng

giai đoạn đẻ.

Ảnh hưởng của protein trong thức ăn: Gia cầm đẻ cần protein (axit amin)

để duy trì hoạt động, sản xuất trứng và tăng trọng, đặc biệt là trong việc hình

thành trứng. Khác với nhu cầu về năng lượng, nhu cầu về protein không thay

đổi trong suốt giai đoạn đẻ. Thiếu protein (axit amin) thì gia cầm sẽ huy động

protein của cơ thể để đáp ứng quá trình sản xuất dẫn đến ảnh hưởng đến quá

trình hình thành trứng.

Bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ và hợp lý các nhu cầu về năng lượng và

protein thì việc thiếu các axit béo no và không no cũng có ảnh hưởng đến sản

lượng trứng của gia cầm. Thức ăn quá nhiều xơ, nhiều dầu đều không thích hợp.

Thừa hoặc thiếu khoáng đều ảnh hưởng đến sản lượng trứng. Trong các yếu tố

khoáng thì nhu cầu về P và Ca rất cao để tạo vỏ trứng. Thiếu Phospho và Canxi

thì gia cầm sẽ ngừng đẻ và thay lông. Tỷ lệ Ca/P thích hợp ở gà đẻ là: 5 : 1.

(Nguyễn Hiền, 2008) [3]

Ngoài các yếu tố ảnh hưởng trên thì phương thức chăn nuôi khác nhau

cũng cho sản lượng trứng khác nhau. Cùng 1 giống, nếu gà nuôi chuồng lồng thì

sản lượng trứng đạt 223 quả/năm, trong khi đó đối với gà nuôi nền chỉ đạt 201

trứng/năm, còn gà nuôi chăn thả chỉ đạt 170 trứng/năm.

 Khối lượng trứng

Là chỉ tiêu đánh giá năng suất trứng tuyệt đối của một cá thể, một

đàn hay một giống gia cầm. Nó là tính trạng có hệ số di truyền cao. Do đó người

ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc giống. Trong chọn lọc cần chú ý

tới chỉ số trung bình chung. Khối lượng trứng phụ thuộc vào khối lượng cơ thể,

giống, tuổi đẻ, tác động dinh dưỡng tới gà sinh sản. Đồng thời khối lượng trứng

lại quyết định tới chất lượng trứng giống, tỷ lệ ấp nở, khối lượng và sức sống

của gà con. Nó là chỉ tiêu không thể thiếu của việc chọn lọc con giống.

Theo Trần Thanh Vân và cs (2015) [12], trong cùng một độ tuổi thì khối

lượng trứng tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị năng

lượng giảm dần. Giữa khối lượng trứng ấp và khối lượng gà con khi nở thường

bằng 62% - 78% khối lượng trứng ban đầu. Khối lượng trứng của các loại giống

khác nhau thì khác nhau.

Khối lượng trứng gia cầm là tính trạng do nhiều gen quy định, nhưng hiện

còn chưa xác định rõ số lượng gen quy định tính trạng này. Khối lượng trứng

của gia cầm tăng nhanh trong giai đoạn đẻ đầu, sau đó chậm lại và ổn định khi

tuổi gia cầm càng cao. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng trứng gà.

Trứng của gia cầm mới bắt đầu đẻ thường nhỏ hơn trứng gia cầm trưởng thành

20 - 30 %.

Ngoài ra, trong cơ thể gà mái hàng ngày cần 3 gam protein cho việc tạo

mới các protein của cơ thể và cho việc thực hiện các quá trình trao đổi chất.

Trong protein của cơ thể, lysin chiếm 7,5%, có thể tính toán rằng với 3 gam

protein của nó cần 0,225 gam lysin. Như vậy , đối với gà mái đang đẻ, hàng

ngày gà đẻ một quả trứng cần 0,7074 gam lysin (0,4824 + 0,225), vì mức độ tiêu

hóa của lysin thức ăn đối với gà mái bằng khoảng 85% cho nên trong thức ăn

cần có 0,8322 gam lysin (0,7074 : 0,85). Trong một ngày gà mái (hướng trứng)

ăn khoảng 100g thức ăn, vì vậy nhu cầu về lysin bằng 0,83% (tính bằng % so

với khối lượng thức ăn).

Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1999) [5] khối lượng trứng có tương quan

âm (-) với sản lượng trứng (- 0,33 đến - 0,36), nhưng giữa khối lượng trứng và

khối lượng cơ thể có tương quan dương (+): 0,31.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng trứng của gia cầm

Khối lượng trứng phụ thuộc vào giống và tuổi thành thục về tính của gia

cầm. Gia cầm đẻ càng sớm thì trứng càng nhỏ, tuổi gia cầm càng cao thì khối

lượng trứng càng lớn.

Hệ số di truyền về khối lượng trứng khá cao nên việc chọn lọc định hướng

để nâng cao khối lượng trứng sẽ dễ có hiệu quả hơn. Hệ số di truyền về khối

lượng trứng thường cao hơn hệ số di truyền về sản lượng trứng.

Hệ số biến dị về khối lượng trứng ở gà nói chung là thấp chỉ đạt khoảng từ

3,97% đến 4,37%. (Trần Long, 1994) [7]

Ảnh hưởng của môi trường

Chế độ chiếu sáng cũng có ảnh hưởng đến khối lượng trứng của gia cầm.

Theo Moris (1967) [16]: ở chế độ chiếu sáng 14 giờ sáng và 13 giờ tối thì khối

lượng trứng gà tăng 1,4 g so với chế độ chiếu sáng 14 giờ sáng và 10 giờ tối,

trong khi đó ở chế độ chiếu sáng 14 giờ sáng và 16 giờ tối thì khối lượng trứng

tăng lên 2,9 g so với chế độ 14 giờ sáng và 10 giờ tối.

Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến khối lượng trứng của gia cầm cũng rất rõ

rệt. Khi thiếu protein có ảnh hưởng rõ đến khối lượng trứng. Thiếu lysine ảnh

hưởng đến tỷ lệ lòng đỏ trong khi đó thiếu methionine lại ảnh hưởng chủ yếu tới

lòng trắng.

Thiếu vitamin B chỉ ảnh hưởng đến sản lượng trứng nhưng không ảnh

hưởng đến khối lượng trứng, thiếu vitamin D ảnh hưởng đến chất lượng vỏ.

2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

2.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Chăn nuôi gà nói riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung là nghề sản xuất

truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai trong tổng giá trị sản xuất

của ngành chăn nuôi nước ta. Sau ngành chăn nuôi lợn, ngành chăn nuôi gà

chiếm vị trí thứ hai (gần 19%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi

(giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi Việt Nam năm 2017 chiếm khoảng 17,6%

tổng giá trị sản xuất của cả ngành nông nghiệp). Năm 2017 cả nước có 361,2

triệu con gia cầm, trong đó gà chiếm 76% (275,6 triệu con), vịt xấp xỉ 20%, còn

lại là các loại gia cầm khác. Giai đoạn 2016 - 2017, tổng đàn gia cầm đạt tốc độ

tăng trưởng bình quân: 5,64%/năm, trong đó gà: đạt bình quân 6,40%/năm, vịt

đạt: 1,08%/năm. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 20 trên thế giới và thứ 7 ở khu

vực ASEAN về sản xuất thịt và trứng gia cầm. Năm 2017, nước ta sản xuất

573,0 ngàn tấn thịt gia cầm (chiếm 20% tổng sản phẩm thịt) tăng 6,29% so với

năm 2016 và sản lượng thịt gia cầm đã đạt mức tăng trưởng bình quân:

3,84%/năm. Sản lượng trứng gia cầm là 5,254 tỷ quả, tăng 383,9 triệu quả so với

năm 2016 và đạt mức tăng trưởng bình quân năm là 7,3%. Mức tiêu thụ trứng là

110,8 quả/người tăng 7,94% quả so với năm 2016 và đạt mức tăng trưởng bình

quân 6,44%/ năm.

Đạt được những kết quả trên, khoa học công nghệ đã có những đóng góp

quan trọng như nghiên cứu thích nghi và đưa vào sản xuất các giống gà cao sản.

Đồng thời với việc đẩy mạnh chăn nuôi gà công nghiệp, từ năm 1995 đã tập

trung nghiên cứu các giống gà chăn thả có năng suất chất lượng cao trên phạm

vi cả nước.

Theo Trần Công Xuân và cs (2001) [14] khi nghiên cứu về khả năng sản

xuất trứng của bốn dòng gà Kabir ông bà nhập nội nuôi tại trung tâm Nghiên

cứu Gia cầm Thuỵ Phương - Viện Chăn nuôi đã kết luận: Khả năng sinh sản khá

cao, năng suất trứng đến 70 tuần tuổi mái B: 163,34 quả, mái D quần thể 177,03

quả. Tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng giống thấp, tương đương 2,94 và 2,97

kg, khối lượng trứng trung bình 55 – 56g, đơn vị Haugh: 84. Tỷ lệ trứng chọn ấp

là 92 – 93%. Tỷ lệ trứng có phôi 92,18 – 96,02%.

Nghiên cứu tính năng sản xuất của giống gà Lương Phượng hoa dòng M1,

M2 nuôi tại trại thực nghiêm Liên Ninh, Nguyễn Huy Đạt và cs (2001) [2] cho

biết: Sức sống cao qua các giai đoạn của hai dòng gà. Gà con 1 – 5 tuần tuổi

dòng M1 đạt 97,3 – 97,8%, dòng M2 đạt 96,3%. Gà 6 – 20 tuần dòng M1 đạt

97,5%, dòng M2 đạt 96%. Gà đẻ dòng M1 đạt 98,4 – 98,8 %, dòng M2 đạt

98,35%. Sản lượng trứng 7 tháng đẻ dòng M1 đạt 157,1 – 167,6 quả, dòng M2

đạt 158,3 quả. Thức ăn tiêu tốn cho 10 quả dòng M1 là 3 – 3,26 kg, dòng M2 là

3,17kg. Khối lượng trứng lớn nhất ở tuần 38 dòng M1 đạt 55-55,4g, dòng M2

đạt 55,3 gam với đơn vị Haugh đạt 91 – 93 %, đảm bảo ấp nở cao 89,7 – 90,7%

và gà nở ra loại I đạt 87,1 – 88,6%.

Phùng Đức Tiến và cs (2007) [8] nghiên cứu về khả năng sản xuất của bốn

dòng gà Sasso đã kết luận: Gà có khả năng thích nghi cao với điều kiện khí hậu

nước ta do vậy tỷ lệ nuôi sống đạt 95,12% – 100%. Năng suất trứng/mái/11 tuần

đẻ của mái X04 là 39,29 quả. Năng suất trứng/mái/13 tuần đẻ của mái A01 là

55,93 quả. Tỷ lệ có phôi cao 94,93%, tỷ lệ nở/ số trứng vào đạt 79,23%. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Long (1994) [7], gà Ri sinh trưởng chậm,

nuôi từ 1 – 42 ngày tuổi khối lượng bình quân đạt 327,6 g tiêu tốn thức ăn là

2,985kg/ kg tăng khối lượng, tỷ lệ nuôi sống hai tuần đầu chỉ đạt 73,8%.

2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới đã và đang phát triển mạnh về số

lượng và chất lượng, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Hà Lan,

Đức... Theo tài liệu của FAO công bố: Năm 1997 sản lượng thịt gia cầm trên thế

giới đạt trên 59 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so với năm 1996. Đứng đầu thế giới về

sản lượng thịt gia cầm vẫn là Hoa Kỳ (25,3%). Từ năm 1994 Trung Quốc đã

vượt Brazil để chiếm lĩnh vị trí thứ 2 (19,5%), có 41 nước chăn nuôi gia cầm

phát triển, đảm đương sản xuất 90% sản lượng thịt gia cầm. Năm 1998 có 9

nước đạt sản lượng thịt gia cầm trên 1 triệu tấn (Trần Thanh Vân và cs, 2015)

[12]

Sản lượng thịt gia cầm của thế giới: Đến năm 2012 ,thế giới sản suất ra

105,512 triệu tấn thịt gia cầm, trong đó trong đó thịt gà là chủ yếu (97,731 triệu

tấn), gà tây có 5,634 triệu tấn, vịt có 3,643 triệu tấn và ngỗng là 2,79 triệu tấn.

Châu Mỹ có sản lượng thịt gia cầm nhiều nhất thế giới : 43,609 triệu tấn, tiếp

đến là Châu Á: 37,82 triệu tấn, ít nhất là châu phi, chỉ có 4,87 triệu tấn. ( Trần

Thanh Vân và cs, 2015) [12]

Để có được những sản phẩm chất lượng tốt, năng suất cao đáp ứng nhu cầu

của con người cũng như đòi hỏi khắt khe của thị trường các nước, trên thế giới

đã không ngừng cải tiến con giống cũng như dinh dưỡng và phương thức nuôi.

Mỗi nước đều có những cơ sở, trung tâm chọn lọc, lai tạo để cho ra các giống gà

mới với năng suất và chất lượng cao như ở Mỹ tạo ra các giống gà đã được sử

dụng như Plymouth, gà siêu thịt Avian, AA... Ngoài ra còn rất nhiều các giống

gà chuyên trứng như: Goldline 54 của Hà Lan, Leghorn của Italia, Babcock –

B380 của hãng IPS (International Porltry Serices Limited) vương quốc Anh...

Bên cạnh những giống gà công nghiệp chuyên thịt, trứng thì các giống gà

thả vườn, kiêm dụng cũng được chú ý nghiên cứu rất nhiều, điển hình như: gà

Lương Phượng của Trung Quốc đã được tạo ra sau gần 20 năm nghiên cứu, gà

Tam Hoàng có nguồn gốc từ Quảng Đông Trung Quốc được tạo ra do lai giữa gà

Thạch Kỳ với một số giống gà Kabir, Discau... Năm 1978 ở Pháp hãng Sasso đã

tạo ra giống gà Sasso với mục đích sử dụng khác nhau. Các hãng trên thế giới

hiện nay đã xác định được công thức lai để tạo ra gà thương phẩm từ 4 dòng

thuần chon. Mỗi hãng sở hữu hàng chục dòng thuần để tạo ra công thức lai theo

yêu cầu. Ngoài ra còn có gà Kabir của Israel, gà Rhode – Island của Mỹ đều là

kết quả của chọn lọc và lai tạo. Việc lai tạo các giống gà với nhau nhằm giữ lại

các đặc điểm quý, cải thiện những tính rạng còn hạn chế và dần hình thành một

số giống mới có khả năng sản xuất tốt, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của con

người.

PHẦN 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

3.1. Đối tượng

- Gà ISA Brown giai đoạn sinh sản nuôi tại trại liên kết với công ty TTHH

Emivest Feedmill Việt Nam.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

- Địa điểm: Trại gà công ty TTHH Emivest Feedmill thuộc thôn Yên Tàng,

xã Bắc Phú, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

- Thời gian: Từ 18/05/2018 đến 18/11/2018.

3.3. Nội dung thực hiện

- Thu thập thông tin về chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi và cơ cấu đàn

gà tại công ty.

- Đánh giá tình hình chăn nuôi gà tại trại gà liên kết với công ty TTHH Emivest

Feedmill.

- Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, phòng và điều trị một số bệnh

trên gà tại trại gà liên kết với công ty TTHH Emivest Feedmill. Trực tiếp thực

hiện đúng kỹ thuật cho ăn, cho uống của gà ở từng giai đoạn.

- Thực hiện các khâu phòng và trị bệnh cho từng loại gà tại công ty.

3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi

Số gà cuối tuần (con) Tỷ lệ nuôi sống theo tuần (%) = x 100 Số gà đầu tuần (con)

Số gà cuối kỳ (con) Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn (%) = x 100 Số gà đầu kỳ (con)

Số gà mắc bệnh (con) Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x 100 Số gà theo đàn (con)

Số gà khỏi bệnh (con) Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 Số gà điều trị (con)

Số gà chết (con) Tỷ lệ chết (%) = x 100 Số gà đầu kỳ (con)

Tổng trứng đẻ trong kỳ (quả) Tỷ lệ đẻ (%) = x 100 Số đầu mái trong kỳ x thời gian đẻ (ngày)

Tổng số trứng đẻ trong kỳ (quả) Năng suất trứng /mái đầu kỳ (quả) = Số mái đầu kỳ (con)

3.4.2. Phương pháp theo dõi

- Trực tiếp thực hiện các khâu trong quy trình chăm sóc và nuôi dưỡng gà

(Cho ăn, uống, vệ sinh chuồng trại, điều trị bệnh, quản lý đàn…)

- Quan sát trực tiếp đàn gà hàng ngày.

- Theo dõi năng suất trứng và tỷ lệ đẻ (ghi chép cụ thể sự tăng giảm của sản

lượng trứng và chất lượng trứng).

- Theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ để tính tiêu tốn thức ăn (Khối lượng thức

ăn tiêu thụ hàng ngày).

- Theo dõi tình hình mắc bệnh để kịp thời xử lý và điều trị bệnh (Theo dõi

phát hiện con mắc bệnh để kịp thời điều trị hoặc loại bỏ).

* Nước uống:

Nước uống với gà đẻ là không thể thiếu dù trong bất kỳ trường hợp nào. Vì

vậy trong quá trình thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chúng tôi luôn đảm bảo gà

có nước sạch và mát. Vì chuồng nuôi sử dụng núm uống tự động, nên chúng tôi

kiểm tra nước 2 lần một ngày. Làm vệ sinh núm uống 2 tuần/lần, để đảm bảo tốc

độ dòng chảy 75ml/phút (không được chảy quá mạnh hoặc quá yếu). Nhiệt độ

của nước 250C. Buổi sáng từ 4 giờ 30 phút – 5 giờ sáng bật điện và đảo thức ăn

còn trong máng, kiểm tra núm uống nước. Cho gà uống thuốc: chia làm 2 lần:

8- 10 giờ dùng thuốc, và 14 -16 giờ cho uống vitamin. Trước khi dùng thuốc, cắt

nước khoảng 30 phút, pha thuốc vào xô sau đó mới đổ vào bình, nếu dùng

vitamin không phải cắt nước.

* Thức ăn và cách cho ăn

- Sử dụng thức ăn 866 hỗn hợp dạng hạt mảnh dùng cho gà đẻ giai đoạn 1

từ 18 – 50 tuần tuổi của công ty TNHH Emivest Feedmill Việt Nam.

- Cách cho ăn:

Cho gà ăn nhiều bữa trong ngày, cụ thể là 2 lần/ngày: Lần 1 cho ăn vào

buổi sáng, lần 2 vào buổi chiều, buổi sáng cho ăn 40% khẩu phần ăn và buổi

chiều cho ăn 60% khẩu phần còn lại. Trong quá trình nuôi dưỡng, chúng em

thực hiện đúng nguyên tắc:

Không được giảm khẩu phần thức ăn khi tỷ lệ đẻ của đàn gà cao, chỉ giảm khi

tỷ lệ đẻ giảm xuống. Không để dư thừa thức ăn, vì như vậy sẽ làm giảm chất lượng

thức ăn, ảnh hưởng đến sức khỏe đàn gà và chi phí thức ăn bị tăng cao.

* Nhiệt độ và ánh sáng

- Hàng ngày chúng tôi đều kiểm tra, vệ sinh giàn mát. Điều khiển tốc độ

quạt hút (tùy thuộc vào nhiệt độ cụ thể của môi trường) để đảm bảo nhiệt độ

trong chuồng từ 25 – 270C. Duy trì hệ thống thông gió và đảm bảo tốc độ gió

trong chuồng nuôi cần đạt 5m/s.

- Ánh sáng: Thời gian chiếu sáng đến 16 giờ/ngày.

* Các công việc khác

- Thường xuyên kiểm tra gà, phát hiện, đánh dấu và xử lý những gà có vấn

đề khác thường để tiếp tục theo dõi và xử lý kịp thời. Kiểm tra cá thể để loại bỏ

những gà không còn khả năng sinh sản.

- Kiểm tra và sửa chữa lại máng ăn bị hỏng, thay rèm che, bóng điện hỏng.

- Quét dọn kho để trấu và thức ăn, vận chuyển thức ăn.

- Công việc tiếp theo rất quan trọng đó là thu nhặt trứng.

+ Thu nhặt trứng 2 lần/ngày. Lần 1 nhặt vào lúc 9 giờ 30 phút sáng, lần 2

vào lúc 3 giờ 30 phút chiều.

+ Lưu ý khi nhặt trứng phải nhặt nhẹ nhàng, nếu không trứng sẽ bị rơi vỡ .

Trong thời gian làm việc tại trại tôi luôn quan tâm và chú trọng trong việc

cho gà ăn đầy đủ dinh dưỡng, phẩm chất, ăn đúng giờ giấc. Một ngày được chia

làm 2 lần cho ăn, sáng 1 lần và chiều là 1 lần đảm bảo đủ khẩu phần ăn. Nguyên

nhân là do tại thời điểm vệ sinh máng, tôi được phân công tăng cường làm vắc -

xin tại các chuồng gà 1,2,3,4 theo lịch làm vắc xin của trại. Thu nhặt trứng 2

lần/ngày sáng và chiều, tôi đã thực hiện được 340 lần thu nhặt trứng đạt 94,44%.

Sau khi thu nhặt trứng song chúng tôi tiến hành nhập kho, ghi sổ sách sau đó

xuất trứng và tôi đã tham gia thực hiện được 94,44% số lần xuất trứng. Hàng

ngày tôi thực hiện đúng quy trình là kiểm tra toàn đàn gà 1 lần/ngày để kịp thời

phát hiện và xử lý khi gà mắc bệnh.

Trong thời gian thực tập tại cơ sở (khi đàn gà ở tuần tuổi 46), tôi đã trực tiếp

thực hiện đúng lịch phòng bệnh đã được khuyến cáo, kết quả được ghi tại bảng

3.1 dưới đây.

Bảng 3.1. Chương trình sử dụng vắc xin

Tuần tuổi 18

Tên vắc xin H5N1 (re5) IB - 419

Cách dung Tiêm dưới da cổ liều 0,5ml/con Bơm miệng

19

ND Killed

Tiêm ức liều 0,5 ml/con

20 21

22

25

29 33 35

37

41 45 49

IB – ND Ma5 H120 H120 IB – ND Ma5 IB – ND Ma5 H120 IB – ND Sohol IB – ND Ma5 H5N1 ( re5 ) IB – ND Sohol ND Killed IB – ND Ma5 IB – ND Sohol IB – ND Ma5 IB – ND Sohol

Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Tiêm dưới da cổ liều 0,5ml/con Nhỏ mắt Tiêm ức liều 0,5 ml/con Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt

53

H5N1 ( re5 )

Tiêm dưới da cổ liều 0,5 ml/con

ND Killed

Tiêm ức liều 0,5 ml/con

55

57 61 65 69

IB – ND Ma5 IB – ND Sohol IB – ND Ma5 IB – ND Sohol

Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt Nhỏ mắt

PHẦN 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Kết quả công tác phòng bệnh cho đàn gà tại trại

Tại thời điểm thực tập tốt nghiệp, trại đang nuôi giống gà ISA Brown sinh sản đến

giai đoạn đẻ trứng với số lượng 6190 con ở 46 tuần tuổi. Phương thức nuôi nhốt lồng

với mật độ 4 – 5 con/lồng, có hệ thống máng ăn, máng uống tự động.

4.1.1. Công tác vệ sinh phòng bệnh

Chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi được sát trùng sạch sẽ: rắc vôi ở đường đi và

nền chuồng. Sử dụng formol 2% với liều lượng 1 lít/m2, lên toàn bộ chuồng, lồng, rèm,

máng ăn, máng uống, tường, trần,… Trước mỗi cửa ra vào của chuồng nuôi, có hố sát

trùng và hạn chế người qua lại.

Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh được trình bày ở bảng 4.1 dưới

đây.

Bảng 4.1 : Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh.

STT

Công việc

Số lượng ( lần)

Tỷ lệ ( % )

Thực hiện được ( lần)

1 Vệ sinh máng ăn

90

90

100

2

24

24

100

Vệ sinh đường nước uống tự động

3 Vệ sinh giàn mát 4 Vệ sinh sát trùng hàng ngày 5 Quét và rắc vôi đường đi

6 180 90

6 180 90

100 100 100

6

26

26

100

Phun sát trùng định kỳ xung quanh chuồng trại

Từ bảng 4.1 cho thấy trong thời gian làm việc tại trại tôi trực tiếp quét dọn máng

ăn cho gà để đảm bảo vệ sinh, cũng như hạn chế bệnh tật, kết quả đã thực hiện được 90 lần/90 lần, đạt tỷ lệ 100%. Nguyên nhân là do tại thời điểm vệ sinh máng, tôi được phân công tăng cường làm vắc - xin tại các chuồng gà 1,2,3,4 theo lịch làm vaccine

của trại, nên việc vệ sinh máng ăn trại cử công nhân đảm nhiệm. Vệ sinh máng uống 1 tuần/lần và tôi đã thực hiện được tổng cộng 24 lần đạt 100%.

Thực hiện đầy đủ 6 lần vệ sinh giàn mát đạt tỷ lệ 100%. Việc vệ sinh, sát trùng

hàng ngày luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên. Theo quy định của trại

việc vệ sinh chuồng và rắc vôi đường đi sẽ được thực hiện ít nhất 1 lần/ngày, và

trong 6 tháng thực tập tại trại tôi đã thực hiện được 180 lần vệ sinh sát trùng, đạt tỷ

lệ 100%. 90 lần quét và rắc vôi bột đường đi, đạt tỷ lệ 100%. Phun sát trùng xung

quanh chuồng trại được phun định kỳ 2 lần/tuần bằng thuốc sát trùng EMI- Protect. Với tỷ lệ 1 lít EMI-Protect pha trong 200 lít nước phun cho 2000m2, phun đều trên

bề mặt chuồng trại và môi trường xung quanh và tôi thực hiện 48 lần đạt tỷ lệ

100%.

Khi trại có dịch bệnh thì sẽ được tăng cường việc phun sát trùng hàng ngày và

liều lượng cũng được tăng lên 1 lít EMI-Protect pha trong 200 lít nước phun cho 1000m2, ngày 1-2 lần liên tục cho đến khi hết dịch. Qua đó, tôi đã biết được cách thực

hiện việc vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được

dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi.

4.1.2. Phòng bệnh bằng vắc xin

Bảng 4.2: Kết quả thực hiện công tác phòng vắc xin cho gà tại cơ sở

Tuần tuổi

Vắc xin sử dụng

Bệnh được phòng

Số lượng gà (con)

Kết quả An toàn (%)

IB và ND

6183

100

49

Nobilis Ma5+Clone30

IB – ND Sohol

IB và ND

6175

100

53

H5N1

Cúm gia cầm

6171

100

ND Killed

Newcastle

6167

100

55

IB và ND

6157

100

57

Nobilis Ma5+Clone30

IB – ND Sohol

IB và ND

6148

100

61

IB và ND

6135

100

65

Nobilis Ma5+Clone30

IB – ND Sohol

IB và ND

6124

100

69

Kết quả bảng 4.2 cho thấy : Tôi đã thực hiện đầy đủ quy định phòng bệnh bằng

vắcxin trên đàn gà tại trại. Kết quả an toàn đạt 100%.

4.2. Kết quả thực hiện công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đàn gà tại trại

Bảng 4.3: Kết quả công tác chăm sóc, nuôi dưỡng

STT

Công việc

Số lượng ( lần)

Thực hiện được ( lần )

Tỷ lệ ( % )

Cho gà ăn hàng ngày

1

360

360

100

Thu nhặt trứng

360

340

94,44

2 3 Xuất trứng

90

90

100

180

170

94,44

4 Kiểm tra đàn gà

* Tỷ lệ nuôi sống

Trong quá trình thực hiện quy trình tôi luôn ghi chép cụ thể diễn biến hàng ngày

của đàn gà do mình phụ trách. Kết quả theo dõi về tỷ lệ nuôi sống của đàn gà trong

quá trình thực hiện quy trình được thể hiện ở bảng 4.4:

Bảng 4.4. Tỷ lệ nuôi sống của gà ISA Brown qua các tuần tuổi

Số lượng

Tuần tuổi

Số lượng gà chết và loại thải

Tỷ lệ chết và loại thải (%)

Tỷ lệ nuôi sống theo tuần (%) 99,97

46

6190

2

0,03

47

6188

2

99,97

0,03

48

6186

3

99,95

0,05

49

6183

2

99,97

0,03

50

6181

4

99,94

0,06

51

6177

3

99,95

0,05

52

6174

3

99,95

0,05

53

6171

2

99,97

0,03

54

6169

2

99,97

0,03

55

6167

7

99,89

0,11

56

6160

3

99,95

0,05

57

6157

2

99,97

0,03

58

6155

3

99,95

0,05

59

6152

2

99,97

0,03

60

6150

2

99,97

0,03

61

6148

5

99,92

0,08

62

6143

3

99,95

0,05

63

6140

3

99,95

0,05

64

6137

2

99,97

0,03

65

6135

2

99,97

0,03

66

6133

4

99,93

0,07

67

6129

2

99,97

0,03

68

6127

3

99,95

0,05

69

6124

3

99,95

0,05

Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn (%) 88,43 88,40 88,37 88,33 88,30 88,24 88,20 88,16 88,13 88,10 88,00 87,96 87,93 87,89 87,86 87,83 87,76 87,71 87,67 87,64 87,61 87,56 87,53 87,49 87,44

70 Tổng

6121

2 71

99,97 98,85

0,03 1,15

Qua bảng 4.4 cho ta thấy tỷ lệ nuôi sống của gà ISA Brown nuôi tại trại từ tuần 46

đến tuần 70 đạt tỷ lệ cao 98,85%. Số gà chết, chủ yếu tập trung ở một số tuần như ở

tuần thứ 50, 55,61, 66 do gà bị mắc bệnh. Cụ thể ở tuần thứ 66 gà bị mắc bệnh sưng

phù đầu, chúng tôi đã tiến hành điều trị toàn đàn, tách riêng những gà bị bệnh nặng để

điều trị cá thể. Kết quả gà bị chết 4 con/1490 con mắc bệnh (chiếm tỷ 0.41%). Tuần

thứ 55 gà bị mắc bệnh CRD (lần 1), chúng tôi đã tiến hành điều trị toàn đàn, tách riêng

những gà bị bệnh nặng để điều trị cá thể. Kết quả gà bị chết 7 con/570 con mắc bệnh

(chiếm tỷ 0,88%). Tuần thứ 61 gà bị mắc bệnh CRD (lần 2), chúng tôi đã tiến hành

điều trị toàn đàn, tách riêng những gà bị bệnh nặng để điều trị cá thể. Kết quả gà bị

chết 5 con/600 con mắc bệnh (chiếm tỷ lệ 1,17%). Tuần thứ 50 gà bị mắc bệnh E.coli ,

chúng tôi đã tiến hành điều trị toàn đàn, tách riêng những gà bị bệnh nặng để điều trị

cá thể. Kết quả gà bị chết 4 con / 1075 con mắc bệnh (chiếm 0,47%). Từ thực tế nuôi

dưỡng và kết quả phân tích trên chúng em đánh giá gà ISA Brown có khả năng thích

nghi tốt với điều kiện ngoại cảnh, phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam nói

chung và xã Bắc Phú nói riêng.

 Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng

Năng suất trứng là chỉ tiêu để đánh giá được khả năng sản xuất của gia cầm sinh

sản. Kết quả theo dõi năng suất trứng của đàn gà ISA Brown tại cơ sở được ghi tại

bảng 4.5.

Bảng 4.5. Tỉ lệ đẻ và năng suất trứng của gà ISA brown

Tuần tuổi

Tỷ lệ đẻ theo tuần (%)

Năng suất trứng/mái đầu kỳ (quả)

Năng suất trứng cộng dồn (quả)

46

91,2

6,38

157,35

47

91,11

6,38

163,73

48

90

6,30

170,03

49

90,11

6,31

176,34

50

91,3

6,39

182,73

51

90,35

6,32

189,05

52

89,9

6,29

195,34

53

91,15

6,38

201,72

54

91,22

6,39

208,11

55

90,89

6,36

214,47

56

91,7

6,42

220,89

57

90

6,30

227,19

58

90,33

6,32

233,51

59

91,26

6,39

239,9

60

92

6,44

246,34

61

90,56

6,34

252,68

62

90,32

6,32

259

63

90

6,30

265,3

64

89

6,23

271,53

65

90,99

6,37

277,9

66

90

6,30

284,2

67

91

6,37

290,57

68

91,22

6,39

296,96

69

91,34

6,39

303,35

90,11

6,31

309,66

70

Từ bảng 4.5 cho thấy: Năng suất trứng của gà ISA Brown tăng giảm không ổn định.

Năng suất trứng trên tuần cao nhất ở tuần 60 là 6,44 quả/mái đầu kỳ và thấp nhất ở

tuần 64 là 6,23 quả/mái đầu kỳ. Sản lượng trứng của gà ISA Brown từ tuần 46 đến

tuần 70 là 309,66 quả/mái đầu kỳ.

Theo kết quả nghiên cứu về “Năng suất chăn nuôi một số gia cầm trong nông hộ

tại huyện Phú Xuyên và Chương Mỹ, Hà Nội” của Phan Đăng Thắng và cs, 2011 [9]

thì: gà ISA Brown có sản lượng trứng trung bình là 239,93 quả/mái/năm, như vậy khi

nhìn vào kết quả nghiên cứu trên gà ISA Brown của tôi trong 6 tháng từ tuần 46 đến

tuần 70 là 309,66 quả/mái là tương đối cao.

Chúng tôi minh họa tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà ISA Brown qua đồ thị

4.1 và 4.2.

100

80

60

Tỷ lệ đẻ

40

20

0

46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70

Tỷ lệ đẻ

Hình 4.1: Đồ thị tỷ lệ đẻ của gà ISA Brown theo tuần tuổi

Nhìn vào đồ thị 4.1 ta thấy: Đường biểu diễn về tỷ lệ đẻ/mái đầu kỳ của gà ISA

Brown đẻ cao nhất ở tuần 60 là 92%, tỷ lệ đẻ thấp nhất ở tuần 64 là 89%. Qúa trình

nuôi dưỡng chăm sóc tốt tạo điều kiện cho gà luôn duy trì tỷ lệ đẻ cao trong thời gian

dài.

7

6

5

4

Theo tuần

3

2

1

0

46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70

Theo tuần

Hình 4.2: Đồ thị năng suất trứng của gà ISA Brown theo tuần tuổi

Nhìn vào đồ thị 4.2 ta thấy: Đường biểu diễn năng suất trứng/mái đầu kỳ/tuần

cao nhất ở tuần 60 là 6,44 quả/mái/tuần, năng suất trứng/mái đầu kỳ/tuần thấp nhất ở

tuần 64 là 6,23 quả/mái/tuần. Đây chính là biểu hiện khả năng thích nghi tốt, sức sống

cao nên tỷ lệ loại thải là rất ít.

*Khả năng sử dụng và chuyển hóa thức ăn

Khả năng sử dụng và hệ số chuyển hoá thức ăn của gia cầm phụ thuộc rất nhiều

vào giống, điều kiện môi trường, phương pháp nuôi dưỡng và chất lượng thức ăn.

Lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày cho ta biết tình trạng sức khoẻ của đàn gà, chất

lượng thức ăn và trình độ nuôi dưỡng, không những thế nó ảnh hưởng đến sinh trưởng

và khả năng cho sản phẩm của gia cầm.

Theo Nguyễn Duy Hoan (2010) [4] mức năng lượng của khẩu phần là yếu tố rất

quan trọng để đảm bảo gia cầm thu nhận đủ nhu cầu protein cũng như các chất dinh

dưỡng khác để thỏa mãn nhu cầu về năng lượng. Khi đã đủ nhu cầu về năng lượng thì

chúng không ăn thêm nữa , mặc dù nhu cầu về các chất dinh dưỡng khác vẫn còn thiếu,

như vậy lượng thức ăn thu nhận hàng ngày có ảnh hưởng đến sinh trưởng và khả năng

cho sản phẩm của gia cầm. Ngoài ra, lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày còn chịu sự chi

phối của các yếu tố khác như: Khí hậu, nhiệt độ, môi trường, tình trạng sức khoẻ.

Để có được số liệu chính xác em đã luôn ghi chép số lượng gà hàng ngày, lượng

thức ăn tiêu tốn và số trứng mỗi ngày, kết quả được trình bày ở bảng 4.5.

Bảng 4.6. Diễn biến tiêu thụ thức ăn và năng suất trứng

của đàn gà qua theo dõi

Tuần tuổi

Lượng thức ăn tiêu thụ (g/con/ngày)

Số lượng trứng

Số lượng gia cầm (con) 6190

46

115

39492

6188

47

113

39479

6186

48

110

38972

6183

49

110

39015

6181

50

110

39497

6177

51

112

39039

6174

52

112

38834

6171

53

110

39371

6169

54

114

39420

6167

55

115

39222

6160

56

114

39547

6157

57

116

38789

6155

58

116

38900

6152

59

111

39311

6150

60

111

39606

6148

61

112

38978

6143

62

114

38824

6140

63

110

38682

6137

64

110

38234

6135

65

100

39080

6133

66

100

38638

6129

67

110

39042

6127

68

116

39152

6124

69

116

39132

6121

70

115

38624

Qua bảng 4.6 cho thấy: Lượng thức ăn tiêu thụ của gà ổn định. Lượng thức

ăn tiêu thụ thấp nhất là 100g/con/ngày và cao nhất là 116g/con/ngày. Số lượng

trứng thấp nhất là 38234 ở tuần tuổi 64 và số lượng trứng cao nhất là 39606 ở

tuần tuổi 60. Lúc này, cân nặng của gà chỉ duy trì ổn định, tăng trọng ít nên tập

trung vào việc cung cấp thức ăn để đảm bảo năng suất trứng cao.

4.3. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn gà tại cơ sở

Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên gà ISA Brown

Tỷ lệ ( % )

Bệnh

Tỷ lệ mắc bệnh

Số lồng mắc

Số gà mắc (con)

Số gà khỏi (con)

Số gà chết (con)

Khỏi

Chết

Bệnh E.coli

230

1150

1146

4

18,61 99.65 0.35

Bệnh CRD lần 1

117

585

578

7

9,49 98.80 1.20

Bệnh CRD lần 2

115

575

570

5

9,35 99.13 0.87

Bệnh sưng phù đầu

250

1250

1246

4

20,38 99.68 0.32

Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại tôi đã được tham gia vào công tác

chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn gà cùng với kỹ thuật của trại. Qua đó tôi đã

được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một số bệnh thường

gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh.

* Bệnh do vi khuẩn E.coli

- Nguyên nhân: Gây bệnh là vi khuẩn gram âm Escherichia coli.

- Triệu chứng:

Tại thời điểm gà được 50 tuần tuổi, chúng tôi kiểm tra và phát hiện những

vấn đề không bình thường ở đàn gà như xù lông, xệ cánh, ít vận động, mào thâm

xám, ăn kém hoặc bỏ ăn, tiêu chảy, phân loãng, vàng, xanh lẫn nhiều bọt khí,

khó thở, nhịp thở tăng, giảm đẻ, gầy ốm và sưng khớp. Qua chẩn đoán của bản

thân và ý kiến kết luận của kỹ sư phụ trách, chúng tôi xác định gà bị mắc bệnh

E.coli và đã tiến hành điều trị toàn đàn bằng thuốc Amoxcol. Với những gà bị

bệnh nặng, chúng tôi tách riêng và điều trị cá thể. Kết quả có 4 con gà bị

chết/1150 con mắc bệnh, chiếm tỷ lệ 0,45%.

- Điều trị:

Amoxcol 2g/1 lít nước, cho gà uống liên tục từ 3 ngày, Multi vita 1 pha

0,4g/1 lít nước cho gà uống liên tục trong 5 ngày.

* Bệnh CRD

- Nguyên nhân: Do Mycoplasma gallisepticum gây ra.

- Triệu chứng:

Tại thời điểm gà được 55 và 61 tuần tuổi, chúng tôi kiểm tra và phát hiện

những vấn đề không bình thường ở đàn gà như thở khò khè, chảy nước mũi, ăn

ít, gà trở nên gầy ốm, gà đẻ giảm sản lượng trứng nhưng vẫn duy trì ở mức độ

thấp. Qua chẩn đoán của bản thân và ý kiến kết luận của kỹ sư phụ trách, chúng

tôi xác định gà bị mắc bênh CRD và đã tiến hành điều trị toàn đàn bằng thuốc

Emi - Doxy và Emi - Flo. Với những gà bị bệnh nặng, chúng tôi tách riêng và

điều trị cá thể. Kết quả có 12 gà bị chết/1160 con mắc bệnh, chiếm tỷ lệ 1,03%.

- Điều trị:

Emi – Doxy và Emi – Flo liều 4g/ 1 lít nước, cho gà uống liên tục trong 3

ngày, Multi vita 1 pha 0.4g/ 1 lít nước uống liên tục trong 5 ngày.

* Bệnh sưng phù đầu

- Nguyên nhân: Bệnh gây ra do vi khuẩn gram âm Haemophilus

paragallinarum khi thời tiết thay đổi đột ngột khiến gà chưa kịp thích nghi với

môi trường.

- Triệu chứng:

Tại thời điểm gà 66 tuần tuổi, chúng tôi phát hiện gà có dấu hiệu không

bình thường khi kiểm tra như chảy nước mắt, chảy nước mũi , kèm theo tiếng

thở khò khè, mặt phù thũng, sưng đầu và hốc mắt, viêm kết mạc gà bị sưng 1

hoặc 2 bên mắt. Dịch viêm chảy ra từ mũi, lúc đầu trong sau đặc và đông cục

như mủ trắng, ấn tay vào thấy cứng, nhìn 2 bên mũi thấy phình to. Mắt bị viêm

kết mạc dính 2 mí mắt lại không mở ra được hoặc chỉ mở được một phần.

Chúng tôi tiến hành đánh dấu và tách riêng những cá thể bị nặng và điều trị

riêng. Kết quả có 4 con gà bị chết / 1250 con mắc bệnh, chiếm tỷ lệ 0,32%.

- Điều trị: Nhỏ Bio Genta – Tylosin kết hợp phun sát trùng và phun thuốc

trực tiếp lên đàn gà phòng tránh lây lan.

Nhìn vào bảng 4.7 ta thấy số gà mắc bệnh CRD là cao nhất và cao hơn số gà

mắc bệnh sưng phù đầu và E.coli. Đối với bệnh E.coli có 230 lồng có gà mắc

bệnh trong đó có số con mắc bệnh là 1150 con, số con điều trị khỏi là 1146 chiếm

tỷ lệ 99,65%. Đối với bệnh CRD (lần 1) thì có 117 lồng có gà mắc bệnh trong đó

có 585 con mắc bệnh, điều trị khỏi 575 con chiếm tỉ lệ 98,80%. Bệnh CRD (lần 2)

có 115 lồng có gà mắc bệnh trong đó có 575 con, số con điều trị khỏi là 570 con

chiếm 99,13%, bệnh sưng phù đầu có 250 lồng có gà mắc bệnh trong đó có 1250

con mắc bệnh, điều trị khỏi 1246 con chiếm 99,68%. Theo tôi sở dĩ tỷ lệ mắc

bệnh CRD cao hơn là do điều kiện thời tiết lạnh và thay đổi đột ngột , chuồng

nuôi ẩm ướt là nguyên nhân chính gây ra bệnh CRD.

PHẦN 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại gà của công ty TNHH Emivest

Feedmill Việt Nam, tôi có một số kết luận về trại như sau:

- Về hiệu quả chăn nuôi của trại:

+ Gà đẻ trứng đều và tỷ lệ đẻ cao trung bình 90%. Năng suất trứng từ tuần

46 đến tuần 70 là 119,92 quả/mái đầu kỳ. Chất lượng trứng tốt, đảm bảo an toàn

vệ sinh thú y.

+ Tỷ lệ nuôi sống gà đẻ tại trại cao đạt tỷ lệ 98,85%.

+ Tỷ lệ gà được chữa khỏi khi mắc bệnh cao, công tác điều trị bệnh tốt. Đối

với bệnh E.coli thì có số con mắc bệnh là 1150 con, số con điều trị khỏi là 1146

chiếm tỷ lệ 99,65%. Đối với bệnh CRD (lần 1) thì có 585 con mắc bệnh, điều trị

khỏi 575 con chiếm tỉ lệ 98,80%. Bệnh CRD (lần 2) thì có 575 con, số con điều

trị khỏi là 570 con chiếm 99,13%, bệnh sưng phù đầu có 1250 con mắc bệnh,

điều trị khỏi 1246 con chiếm 99,68%.

5.2. Đề nghị

- Trại gà cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy

trình nuôi dưỡng, chăm sóc để giảm tỷ lệ gà mắc các bệnh về sinh sản nói riêng

và bệnh tật nói chung.

- Khâu vệ sinh, sát trùng, điều trị bệnh phải thực hiện một cách sát sao và

nghiêm ngặt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Brandsch H. và Bilchen H. (1978), "Cơ sở của sự nhân giống và di truyền

ở gia cầm", Cơ sở khoa học của nhân giống và nuôi dưỡng gia cầm,

Nguyễn Chí Bảo dịch, Nxb Khoa học và kỹ thuật.

2. Nguyễn Huy Đạt, Nguyễn Thành Đồng, Lê Thanh Ân, Hồ Xuân Tùng, Phạm

Bích Hường (2001), “Nghiên cứu đặc điểm sinh học và tính năng sản xuất của

gà lông màu Lương Phượng hoa nuôi tại trại thực nghiệm Liên Ninh ”, Báo

cáo khoa học chăn nuôi thú y tại Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Hiền (2008), "Kỹ thuật nuôi gà đẻ trứng đạt hiệu quả cao trong tr.

trại thuộc nông hộ", Đặc san khoa học kỹ thuật thức ăn chăn nuôi, số

4/2008.

4. Nguyễn Duy Hoan (2010). Dinh dưỡng protein gia cầm, NXB Đại học

Thái Nguyên.

5. Nguyễn Duy Hoan, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Thanh Sơn, Đoàn Xuân Trúc

(1999), Chăn nuôi gia cầm, Giáo trình dùng cho cao học và nghiên cứu

sinh, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

6. Khavecman (1972), "Sự di truyền năng xuất ở gia cầm", Cơ sở di truyền

của năng suất và chọn giống động vật, tập 2 Johansson chủ biên, Phan Cự

Nhân, Trần Đình Miên, Trần Đình Trọng dịch, Nxb Khoa học và kỹ thuật,

Hà Nội.

7. Trần Long (1994), Xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng sản xuất

và lựa chọn giống thích hợp với các dòng gà thịt Hybro HV85, Luận án

Phó tiến sĩ KHNN, Viện KHKT Việt Nam.

8. Lê Hồng Mận, Đoàn Xuân Trúc, Nguyễn Huy Đạt, Nguyễn Thanh Sơn

(1996), "Nghiên cứu các tổ hợp lai giữa hai dòng gà thịt HV85 và

Plymouth Rock", Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật gia

cầm (1986 -1996), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Trương Ngọc Phượng (2013), So sánh ảnh hưởng của việc bổ sung chế

phẩm Egg Stimulant và Selvie - WD đến năng suất và chất lượng trứng

của gà thương phẩm ISA Shaver nuôi tại thành phố Thái Nguyên, Luận

văn thạc sĩ khoa học Nông Nghiệp, ĐH Nông Lâm Thái Nguyên.

10. Nguyễn Văn Thiện (1995), Di truyền số lượng ứng dụng trong chăn nuôi,

Nxb Nông Nghiệp Hà Nội.

11. Hồ Xuân Tùng (2009), Khả năng sản xuất của một số công thức lai giữa

gà Lương Phượng và gà Ri để phục vụ chăn nuôi nông hộ, Luận án tiến sĩ

Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi.

12. Trần Thanh Vân, Nguyễn Duy Hoan, Nguyễn Thị Thúy Mỵ (2015), Giáo

trình chăn nuôi gia cầm, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

13. Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến, Hoàng Văn Lộc, Bạch Thị Thanh

Dân, Lê Thu Hiền, Nguyễn Quý Khiêm, Đỗ Thị Sợi, Nguyễn Liên Hương

(2004), "Kết quả nghiên cứu khả năng sản xuất của gà Lương Phượng hoa

Trung Quốc", Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học - công nghệ

chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

14. Trần Công Xuân, Hoàng Văn Lộc, Bạch Thị Thanh Dân, Lê Thu Hiền,

Nguyễn Qúy Khiêm, Phùng Đức Tiến và cộng sự (2001), Kết quả nghiên

cứu khả năng sản xuất của gà Lương Phượng hoa Trung Quốc, Báo cáo

khoa học năm 2001 - Phần nghiên cứu giống gia cầm, Viện Chăn nuôi

Quốc gia, Hà Nội.

II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

15. Fairful R. W. and Grow R. S., (1990), "Genetic of egg production in

chickens", Poultry breeding and gennetic (R,D, Cawford - Editor) -

Elsevier – Amsterdam.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO ĐỀ TÀI

Ảnh 1: Trại gà đẻ trứng Ảnh 2: Trứng gà đẻ

Ảnh 3: Nhỏ Vắcxin cho gà đẻ Ảnh 4: Tiêm Vắcxin cho gà đẻ