TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA VẬT LÝ

===o0o===

NGUYỄN PHƢƠNG DUNG

TÍNH CHẤT TRUYỀN DẪN

TRONG MỘT SỐ DỊ CẤU TRÚC GRAPHENE

ĐƠN GIẢN

Chuyên ngành: Vật lý lý thuyết

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI, 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA VẬT LÝ

===o0o===

NGUYỄN PHƢƠNG DUNG

TÍNH CHẤT TRUYỀN DẪN

TRONG MỘT SỐ DỊ CẤU TRÚC GRAPHENE

ĐƠN GIẢN

Chuyên ngành: Vật lý lý thuyết

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. NGUYỄN MINH VƢƠNG

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Vật lý,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ chỉ bảo và truyền đạt kiến thức

cho em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường cũng như trong

quá trình thực hiện khóa luận này.

Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo ThS Nguyễn Minh

Vương đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện

khóa luận tốt nghiệp này.

Là một sinh viên lần đầu tiên nghiên cứu khoa học nên khóa luận của

em không tránh khỏi thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được những đóng

góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em

xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Phương Dung

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan những kết quả nghiên cứu khoa học trong khóa luận

là hoàn toàn trung thực và chưa từng công bố ở bất kì nơi nào khác.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Phương Dung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3

6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 3

CHƢƠNG 1: GRAPHENE CẤU TẠO VÀ TÍNH CHẤT .......................... 4

1.1. Giới thiệu về graphene ............................................................................... 4

1.1.1. Khái niệm Graphene ............................................................................... 4

1.1.2. Lịch sử ra đời Graphene .......................................................................... 4

1.2. Cấu tạo của graphene ................................................................................. 9

1.2.1. Những đặc trưng cấu trúc của graphene ................................................. 9

1.2.2. Cấu trúc vùng năng lượng của Graphene .............................................. 13

1.3. Tính chất của Graphene ........................................................................... 17

1.3.1. Graphene là vật liệu mỏng nhất trong tất cả các vật liệu ...................... 17

1.3.2. Graphene có tính dẫn điện và nhiệt tốt ................................................. 18

1.3.3. Độ bền của Graphene ............................................................................ 18

1.3.4. Graphene cứng hơn cả kim cương ........................................................ 19

1.3.5. Graphene hoàn toàn không để cho không khí lọt qua ........................... 19

1.3.6. Graphene dễ chế tạo và dễ thay đổi hình dạng ..................................... 20

1.3.7. Hiệu ứng Hall lượng tử trong Graphene ............................................... 20

1.3.8. Chuyển động của điện tử trong Graphehe ............................................ 21

CHƢƠNG 2. TÍNH CHẤT TRUYỀN DẪN TRONG MỘT SỐ DỊ CẤU

TRÚC GRAPHENE ĐƠN GIẢN ................................................................ 22

2.1. Dải nano graphene. ................................................................................... 22

2.1.1. Dải nanographene dạng zigzag ............................................................. 23

2.1.2. Graphene dạng dải Armchair ................................................................ 28

2.1.3. Ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên tính chất điện tử của AGNR ...... 35

2.2. Hệ lưới nano graphene với các lỗ đục. ..................................................... 37

2.2.1. ZGRNs có đục lỗ ................................................................................... 37

2.2.2. AGRNs có đục lỗ .................................................................................. 41

KẾT LUẬN .................................................................................................... 43

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 44

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

AGNRs: Armchair Graphene NanoRibbons

NEGF: Hàm Green không cân bằng (Non-Equilibrium Green's

Functions)

GNRs: Graphene NanoRibbons

NEGF: Non-equilibrium Green function

XC: Exchange - Correlation

ZGNRs: Zigzag Graphene NanoRibbons

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Màng Graphene

Hình 1.2: Ống Nano carbon

Hình 1.3: Ba dạng của Carbon: Fulơren, Ống Nano Carbon, Graphene

Hình 1.4: Màng graphene

Hình 1.5: Ông Andre Konstantin Geim

Hình 1.6: Hình ảnh màng Graphene qua kính hiển vi điện tử

Hình 1.7: Cấu trúc màng Graphene

Hình 1.8: Cấu trúc màng graphene, trong đó các nguyên tử carbon được sắp

xếp đều đặn trên các ô lục giác với các vector đơn vị mạng thực và ,

khoảng cách giữa hai nguyên tử carbon lân cận là 0,142nm (hình trái). Hình

bên phải thể hiện các vector mạng đảo và và vùng Brillouin thứ nhất

(màu đỏ) chứa hai điểm đối xứng đặc biệt K và K‟.

Hình 1.9: Cấu trúc vùng năng lượng của tinh thể biểu diễn sự phụ thuộc của

năng lượng với chuyển động của electron

Hình 1.10: Sơ đồ hiệu ứng Hall lượng tử

Hình 2.1: Dải nano graphene biên zigzag

Hình 2.2: Mô phỏng hệ kênh dẫn hệ 8 - ZA

Hình 2.3: Mật độ trạng thái (a) và cấu trúc vùng năng lượng (b) của hệ 8 - ZA

Hình 2.4: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA

Hình 2.5: Dải nano graphene biên armchair

Hình 2.6: Mô phỏng hệ kênh dẫn đối với hệ 7 - A

Hình 2.7: Mật độ trạng thái (a) và cấu trúc vùng năng lượng (b) của 7 -A

Hình 2.8: Phổ truyền electron của hệ 7 - A

Hình 2.9: Sự phụ thuộc giá trị khe năng lượng của hệ N - A vào chiều rộng

của dải N = 5, 6, 7, 8, 9, 10

Hình 2.10: Phổ truyền electron của các hệ N - A tương ứng với N = 6, 7, 8, 9, 10.

Hình 2.11: Sự ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên giá trị khe năng lượng của

hệ 7 - A

Hình 2.12: Phổ truyền electron của hệ 7 - A dưới ảnh hưởng của các biến

dạng cơ học.

Hình 2.13: Mô phỏng các kênh dẫn với hệ ZA dạng đục lỗ (a)hình tròn, (b)

hình vuông và (c) hình tam giác

Hình 2.14: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA đục lỗ dạng hình tròn

Hình 2.15: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA đục lỗ dạng hình vuông

Hình 2.16: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA bị đục lỗ dạng hình tam giác

Hình 2.17: Sự ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên tính chất truyền điện tử

của ZA bị đục lỗ dạng hình tam giác

Hình 2.18: Mô phỏng các kênh dẫn A có đục lỗ với kích thước tăng dần: (a)

dạng lỗ tròn, (b) dạng lỗ vuông, và (c) dạng lỗ tam giác

Hình 2.19: Phổ truyền electron của các kênh dẫn A có đục lỗ. Đường màu đỏ

là phổ của A nguyên thủy chưa bị đục lỗ, các đường còn lại là phổ với kích

thước tăng dần tương ứng với màu như trên mô hình 2.18: (a) dạng lỗ tròn,

(b) dạng lỗ vuông, và (c) dạng lỗ tam giác.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo những diện mạo mới cho con

người và công nghệ điện tử viễn thông. Công nghệ nano là 1 lĩnh vực khoa học

và công nghệ mới, phát triển rất nhanh chóng. Vật liệu được chế tạo bằng công

nghệ này thể hiện nhiều tính chất mới lạ do hiệu ứng kích thước. Khoa học và

công nghệ nano trên cơ sở kết hợp đa ngành đã tạo nên cuộc cách mạng về khoa

học kỹ thuật. Công nghệ nano còn là một bước tiến vượt bậc của công nghệ, nó

cho phép con người tạo ra những vật liệu mới với những tính năng tưởng chừng

như không thể. Nó tham gia và tạo sự đột phá trong nhiều ngành công nghiệp

quan trọng như điện, hóa học, mỹ phẩm, nhựa, cơ khí chế tạo… Những sản

phẩm của công nghệ nano đã ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn và giúp cho

cuộc sống tươi đẹp hơn.

Như chúng ta đã biết, linh kiện trong các thiết bị điện tử đều được chế tạo

từ vật liệu bán dẫn silicon. Công nghệ chế tạo vật liệu bán dẫn silicon đã làm

thay đổi hoàn toàn ngành thiết bị điện tử. Trung tâm sản xuất và nghiên cứu các

thiết bị điện tử, công nghệ máy tính và chip bán dẫn lớn nhất thế giới còn được

đặt tên là Thung Lũng Silicon. Từ đó cũng đủ để đánh giá tầm quan trọng của

vật liệu bán dẫn silicon trong ngành công nghiệp điện tử hiện nay.

Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học đã tạo ra một loại chất

bán dẫn mới trên nền graphene, có thể khắc phục các nhược điểm của vật liệu

bán dẫn silicon như độ dày lớn và cản sáng. Loại vật liệu bán dẫn mới này chỉ

dày một micromet, vô cùng linh hoạt và trong suốt, bên cạnh đó chi phí sản xuất

rẻ hơn rất nhiều lần so với vật liệu bán dẫn từ silicon. Graphene thực chất là một

1

mạng lưới các nguyên tử carbon, liên kết với nhau theo hình lục giác và tạo

thành một mạng lưới dài dạng tấm. Các liên kết này vô cùng bền vững, bên cạnh

đó có khả năng dẫn điện rất tốt, và nhờ vào cấu tạo dạng tấm nên có chiều dày

rất nhỏ. Tiến sĩ Weman- người đứng đầu dự án này cho biết: "Bước tiến mới này

sẽ mang lại một cuộc cách mạng lớn không chỉ trong lĩnh vực sản xuất chip bán

dẫn, mà còn trong các lĩnh vực sản xuất các tế bào năng lượng mặt trời và màn

hình LED. Các loại màn hình sẽ có thể gấp uốn dễ dàng, thậm chí điện thoại di

động có thể vòng qua cổ tay như một chiếc đồng hồ với công nghệ mới này”.

Một công ty mới có tên CrayoNano đã được thành lập để tiếp tục nghiên cứu,

phát triển và ứng dụng công nghệ mới này.

Do sự phát triển không ngừng của ngành sản xuất chế tạo vật liệu bán dẫn

và bộ vi xử lý điện tử nói riêng, cũng như của ngành công nghệ nano nói chung,

việc nghiên cứu vật liệu nano, trong đó có grephene là vô cùng thời sự.

Trên đây chính là cơ sở để tôi chọn đề tài: “Tính chất truyền dẫn trong một

số dị cấu trúc graphene đơn giản” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích nghiên cứu tính chất truyền dẫn

trong một số dị cấu trúc graphene đơn giản, đặc biệt quan tâm đến khả năng tạo

khe năng lượng, các tính chất truyền dẫn điện, truyền dẫn nhiệt điện, truyền dẫn

spin của các dị cấu trúc graphene sẽ được tập trung nghiên cứu.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: Một số dị cấu trúc graphene đơn giản.

- Phạm vi: Đề tài nghiên cứu tính truyền dẫn trong một số dị cấu trúc

graphene đơn giản.

2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan và nghiên cứu về chất bán dẫn graphene.

- Nghiên cứu sâu tính truyền dẫn của một số dị cấu trúc graphene đơn

giản.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Các phương pháp chung của Vật lý lý thuyết.

- Phương pháp liên kết mạnh, phương pháp hàm Green không cân bằng.

6. Cấu trúc khóa luận

- Phần 1: Mở đầu

- Phần 2: Nội dung

Chương 1: Graphene, cấu tạo và tính chất

Chương 2: Tính chất truyền dẫn trong một số dị cấu trúc graphene đơn

giản

- Phần 3: Kết luận

3

CHƢƠNG 1: GRAPHENE CẤU TẠO VÀ TÍNH CHẤT

1.1. Giới thiệu về graphene

1.1.1. Khái niệm Graphene

Graphene có nguồn gốc từ graphite (than

chì), nó được tách ra từ Graphite. Graphene là một

mạng tinh thể dạng tổ ong có kích thước nguyên tử

tạo thành từ các nguyên tử carbon 6 cạnh. Dưới

kính hiển vi điện tử, graphene có hình dáng của một

màng lưới có bề dày bằng bề dày của một nguyên

tử carbon, nếu xếp chồng lên nhau phải cần tới

Hình 1.1. Màng Graphene

200.000 lớp mới bằng độ dày một sợi tóc.

Có thể xem graphene như thành phần cơ bản tạo nên các cấu trúc khác nhau của

carbon như fullerene, carbon nanotube, graphite. Graphene được hình dung như

là một ống nano dàn mỏng, do cùng một nguyên liệu chính là các phân tử

carbon. Về cơ bản Graphene có cấu trúc 2D. Trong phòng thí nghiệm có thể tạo

ra các phiến graphene có đường kính 25 µm và dày chỉ 1nm.

1.1.2. Lịch sử ra đời Graphene

Trải qua nhiều thế kỉ khai thác, sử dụng và

nghiên cứu các sản phẩmcủa thiên nhiên con người

đã biết được nhiều nguyên tố hóa học và hợp chất của

nó. Người ta nhận thấy rằng tất cả các hợp chất hữu

cơ đều chứa carbon và carbon thường chiếm hàm

lượng rất lớn. Carbon có vai trò rất quan trọng trong

cuộc sống của con người. Đặc biệt trong công nghệ

nano đã tìm ra các dạng rất đặc biệt của carbon. Hình 1.2. Ống Nano

4

Loại vật liệu nano đầu tiên được khám phá từ carbon là Fulơren được tìm

ra vào năm 1985 do một nhóm nghiên cứu bao gồm Harold Kroto và Sean

O‟Brien, Robert Curl, Richard Smalley. Fulơren có dạng quả bóng chỉ gồm các

nguyên tử carbon liên kết với nhau bằng liên kết cộng hóa trị. Ban đầu người ta

tìm ra mỗi hạt là một phân tử lớn carbon cấu tạo từ 60 nguyên tử carbon C60. Sau

đó người ta còn tìm ra phân tử carbon hình cầu như vậy nhưng có nhiều phân tử

carbon hơn: C70, C70, C84, thậm chí có thể chứa đến hàng trăm nguyên tử.

Fulơren nhanh chóng trở thành vật liệu nano mới, có nhiều tính chất hóa lí kì lạ.

Giải Nobel về hóa học 1996 được trao cho hai nhà khoa học là đã tìm ra Fulơren

là Smalley và Kroto (được trao nửa giải, nữa còn lại trao cho Robert Curl).

Rồi từ quả bóng tròn, năm 1991 người ta tìm ra cách "cuộn" những phân

tử carbon này thành hình ống gọi là "nanotube", tức ống nano carbon. Tiến sĩ

Sumio Iijima một nghiên cứu viên của công ty NEC đang tìm hiểu Fulơren lại

tình cờ phát hiện qua kính hiển vi điện tử ống nano carbon. Một cái ống thì bớt

cồng kềnh hơn một quả bóng về mặt thể tích.

Ống nano carbon giống như một lá

Graphite cuộn tròn lại, đường kính vào cỡ

nanomet nhưng chiều dài có thể rất dài, cỡ

vài trăm micromet, hai đầu ống có hai nửa

quả bóng Flơren úp lại. Như vậy mặt ngoài

của ống nano carbon là các nguyên tử

carbon liên kết với nhau rất chắc chắn bằng

liên kết cộng hóa trị, mỗi nguyên tử carbon Hình 1.3: Ba dạng của Carbon: Fulơren, Ống Nano Carbon, Graphene liên kết với ba

nguyên tử carbon khác, từ đó tạo thành các hình 6 cạnh.Ống nano carbon rất nhẹ,

5

bền hơn thép 100 lần. Về tính chất điện, từ, nhiệt, ống nano carbon có nhiều đặc

điểm còn kì lạ hơn Fulơren. Liên tiếp thời gian qua, ngành Khoa học công nghệ

Việt Nam đón nhận những tin vui. Tại Hà Nội, một nhóm nghiên cứu trẻ thuộc

Viện khoa học công nghệ Vật liệu đã thành công khi cho ra đời sản phẩm vật

liệu ống nano carbon đa tường. Phải mất tới 5 năm nghiên cứu và thử nghiệm,

nhóm nhà khoa học trẻ thuộc Phòng Nghiên cứu vật liệu và Công nghệ linh kiện

(Viện Khoa học công nghệ Vật liệu) mới chạm được vào cánh cửa thành công.

Tác giả của công trình nghiên cứu này đều thuộc về những nhà khoa học trẻ thế

hệ 8X gồm Nguyễn Văn Chúc, Phan Ngọc Hồng và Bùi Hùng Thắng. Năm

2004, nhóm đã bắt đầu nghiên cứu vật liệu ống nano carbon. Sau gần 5 năm miệt

mài, nhóm nghiên cứu mới thu hoạch được những sản phẩm đầu tiên. Kết quả

thử trên máy chuyên dụng cho thấy sản phẩm nano carbon đường kính từ 8-

10nm, chiều dài từ 5- 10µm và độ sạch đã đạt trên 95%. Sau thành công ban đầu

này khoa học công nghệ Việt Nam lại tiếp tục đón nhận tin vui nữa. Tại Thành

phố Hồ Chí Minh, một nhóm nghiên cứu thuộc Khu Công nghệ cao cũng chế tạo

thành công vật liệu ống nano carbon. Tiến Sĩ Nguyễn Chánh Khê cùng cộng sự

của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí

Minh cũng cho ra đời sản phẩm ống nano carbon. Điểm đặc biệt của thành công

này là nguyên liệu nghiên cứu, chế tạo và sản xuất lại là những loại cây dễ kiếm

nguyên liệu ở Việt Nam như mía, dó bầu, tầm vông... Đặc biệt, thành công của

Tiến Sĩ Khê là sản xuất được ống nano carbon đều hơn, với giá thành rẻ và ít

thành phần pha tạp.

Bây giờ thì cái ống nano đã được dàn mỏng như một tờ giấy. Cũng những

phân tử carbon ấy, các nhà khoa học đã tìm ra cách dàn mỏng chúng thành một

lớp carbon mỏng, rất mỏng, chiều dày của lớp phân tử này là 1 nguyên tử

6

Dưới kính hiển vi điện tử, lớp phân tử carbon này

có hình dáng của một màng lưới. Cái màng lưới

mỏng bằng carbon ấy được gọi là graphene. Loại

chất liệu này thu hút khá nhiều sự chú ý của cộng

đồng khoa học cũng như các công ty chế tạo máy

móc điện tử.

Hình 1.4: Màng graphene

Bắt đầu vào thập niên 1970, các nhà khoa học đã phát triển lớp graphene trong

phòng thí nghiệm. Lớp graphene được tạo ra trong phòng thí nghiệm quá nhỏ

nên không thể xem xét hơn được, và các nhà nghiên cứu đã không thông thạo

nhiều thủ thuật cần thiết để đẩy nhẹ lớp graphene đơn ra khỏi chồng bài graphite

thiên nhiên. Năm 1990, các nhà vật lý người Đức ở RWTH Aachen Univrsity đã

lấy được những miếng graphite mỏng đến độ trong suốt. Khoảng 10 năm sau đó,

năm 2000 không có một tiến bộ nào đáng kể. Mặc dầu họ có thể lấy được những

miếng mỏng khoảng vài mươi nguyên tử, nhưng đó chỉ là những miếng graphite

mỏng, không phải graphene. Lúc đó, không ai nghĩ

graphene có thể hiện diện được trong thiên nhiên.

Từ năm 2004, các nhà nghiên cứu ở Anh dẫn đầu

đoàn chính là Andre Konstantin Geim đã tìm ra

một cách đơn giản để bóc những lớp đơn nguyên tử Hình 1.5: Ông Andre Konstantin Geim của các nguyên tử carbon khỏi các khoanh graphite.

Andre Konstantin Geim sinh năm 1958 tại Sochi (Nga), theo học ngành Vật lý ở

Moskva và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Viện Vật lý chất rắn

Chernogolovka, năm 1987. Sau một thời gian nghiên cứu ở Anh và Đan Mạch,

năm 1994, ông trở thành giáo sư thỉnh giảng của Đại học Nijmegen (Hà Lan) và

7

từ năm 2001, Geim dạy tại Đại học Manchester (Anh). Nhờ tìm ra vật liệu

graphene, ông vừa được trao thưởng Koerber tại Tòa thị chính Hamburg (Đức).

Đây là một trong những giải thưởng danh giá nhất ở châu Âu dành cho các nhà

khoa học có phát minh quan trọng và cực kỳ sáng tạo.

Từ đó tới nay, họ đã cố gắng nghiên cứu dạng màng mỏng này. Họ đã có

bước tiến mới, với hàng loạt khám phá, những cách thức và những hiểu biết nền

tảng mới để có thể tạo ra được những mảng graphene rộng và biến chúng thành

những thiết bị. Các nhà khoa học cho rằng trong tương lai, graphene nhiều khả

năng sẽ thay thế silicon. Đó cũng là lý do vì sao các nhà khoa học trên khắp thế

giới đang nghiên cứu tìm cách ứng dụng graphene vào cuộc sống. Hiện nay,

Graphene là chủ đề nghiên cứu nóng bỏng của ngành điện tử và bán dẫn bởi nó

có tính dẫn điện cao, và hơn hết theo như phỏng đoán thì với kích thước càng

nhỏ, hiệu quả hoạt động của nó càng cao.

Năm 2009, họ đã có bước tiến mới, với hàng loạt các khám phá, những

cách thức và những hiểu biết nền tảng mới để có thể tạo ra được những mảng

graphene rộng và biến chúng thành những thiết bị mới. Tháng 5/2009, các nhà

nghiên cứu tại trường Đại học Texas, Austin, nói rằng họ đã tạo ra được các tấm màng graphene có kích thước lên tới 1 cm2 bằng cách phát triển chúng trên các

lá đồng mỏng. Một nhóm nhà nghiên cứu khác tại trường Đại học Cornell đã tạo

ra được graphene trên các tấm silicon. Hai tiến bộ mới này mở ra khả năng tạo ra

được hàng loạt các thiết bị điện tử dựa trên graphene. Tháng 6/2009, các nhà

nghiên cứu của IBM cho biết họ đã tạo ra được các transistors graphene có thể

bật và tắt 26 tỷ lần mỗi giây, vượt xa các thiết bị silicon thông thường. Các nhà

nghiên cứu Viện Công nghệ Massachusetts đã tạo ra được một dạng thiết bị

nhân tần số graphene cho các tín hiệu điện tử, có thể đem lại những ứng dụng

8

trong viễn thông. Các nhà khoa học đã chỉ ra

rằng, sẽ rất khó thực hiện các vi mạch với kích

thước nhỏ hơn 10 nanomét bởi ở giới hạn này

đã bắt đầu xuất hiện sự rò rỉ electron. Do đó,

các nhà khoa học hi vọng rằng đến năm 2020,

con người có thể tìm thấy được vật liệu có thể

thay thế silicon. Đến nay, vật liệu graphene đã

mở ra hi vọng cho ngành điện tử vượt qua rào Hình 1.6: Hình ảnh màng Graphene qua kính hiển vi điện tử

cản này.

1.2. Cấu tạo của graphene

Graphene là một lớp carbon hợp thành một mạng hình lục giác (kiểu tổ

ong), với khoảng cách carbon-carbon là 0,142 nm. Nó là chất liệu kết tinh hai

chiều thật sự đầu tiên và nó là đại diện của một họ hàng hoàn toàn mới của các

chất liệu 2D, bao gồm chẳng hạn các đơn lớp Boron-Nitride (BN) và

Molybdenum-disulphite (MoS2), cả hai chất đều được chế tạo sau năm 2004.

Cấu trúc graphene là cấu trúc đơn lớp của các nguyên tử carbon, khác với

cấu trúc đa lớp trong graphite. Có thể xem graphene như thành phần cơ bản tạo

nên các cấu trúc khác nhau của carbon như fullerene, carbon nanotube, graphite.

1.2.1. Những đặc trưng cấu trúc của graphene

Màng graphene được tạo thành từ các nguyên tử carbon sắp xếp theo cấu

trúc lục giác trên cùng một mặt phẳng (còn được gọi là cấu trúc tổ ong) do sự lai

hoá sp2. Trong đó, mỗi nguyên tử C liên kết với ba nguyên tử C gần nhất bằng

liên kết tạo bởi sự xen phủ của các vân đạo lai s-p, tương ứng với trạng thái lai hoá sp2. Khoảng cách giữa các nguyên tử C gần nhất là a = 0,142 nm. Theo

9

nguyên lí Pauli, các mức năng lượng trong liên kết  đã được lấp đầy, do đó các vân đạo lai hóa sp2 sẽ đặc trưng cho mức độ bền vững trong cấu trúc phẳng của

màng graphene. Vân đạo p còn lại của các nguyên tử carbon, nằm vuông góc với

cấu trúc phẳng của màng, xen phủ bên với nhau hình thành nên liên kết π, và

mức năng lượng của liên kết này chưa được lấp đầy nên nó còn được gọi là các

vân đạo không định xứ, các vân đạo này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc

hình thành nên các tính chất điện khác thường của graphene.

Hình 1.7: Cấu trúc màng Graphene

Mặc dù có sự đối xứng cao trong cấu trúc, ô lục giác trong lá graphene

không được chọn làm ô đơn vị, do các nguyên tử C liền kề không có vai trò

tương đương nhau. Khi vai trò của các nguyên tử Carbon lân cận trong mạng các

nguyên tử ở vị trí A và vị trí B là không tương đương trong hệ toạ độ Dercates.

Tuy nhiên, một cách tổng quát, có thể xem mạng Graphene là sự tổ hợp của các

mạng con gồm toàn các nguyên tử carbon ở vị trí A và các nguyên tử ở vị trí B,

trong đó các nguyên tử lân cận hoàn toàn tương đương nhau về mặt cấu trúc và

tính chất.

10

Hình 1.8: Cấu trúc màng graphene, trong đó các nguyên tử carbon được sắp

xếp đều đặn trên các ô lục giác với các vector đơn vị mạng thực và ,

khoảng cách giữa hai nguyên tử carbon lân cận là 0,142nm( hình trái). Hình

bên phải thể hiện các vector mạng đảo và và vùng Brillouin thứ nhất

(màu đỏ) chứa hai điểm đối xứng đặc biệt K và K’.

Điều này có nghĩa là cấu trúc mạng tinh thể của graphene có thể được mô

tả bằng các vector đơn vị của các mạng con này. Do đó, cấu trúc lục giác của

màng Graphene có thể được xác định thông qua các vector nguyên tố và

như hình 1.8, trong đó:

và (với a là chiều dài của vector nguyên tố)

Với cách chọn vector nguyên tố như vậy, mỗi ô nguyên tố trong mạng

thực của graphene sẽ chứa 2 nguyên tử Carbon (A và B). Đồng thời, vị trí giữa

nguyên tử C trong mạng A và B được liên hệ với nhau thông qua các vector ,

và với:

11

, , (1.1)

Khoảng cách giữa các nguyên tử carbon lân cận d =0,142 nm (tương tự

khoảng cách giữa các nguyên tử carbon trong vòng benzen). Khi đó, độ lớn của

các vector nguyên tố . Diện tích của ô

nguyên tố và mật độ nguyên tử tương ứng là

Mặt khác, trong màng Graphene, các vân đạo không tham gia vào quá

trình lai hoá mà kết hợp với nhau để hình thành nên các liên kết , số lượng liên

kết này bằng số nguyên tử C trong một ô đơn vị, do đó mật độ các liên kết

trong mạng Graphene bằng .

Trong không gian mạng đảo Brillouin tương ứng, các vector mạng đảo

được xác định điều kiện , với

Khi đó: , (1.2)

Nghĩa là các vector mạng đảo bị quay một góc 90 so với vector đơn vị

mạng thuận và vùng Brillouin thứ nhất có dạng hình lục giác được thể hiện trong

hình 1.8. Bên cạnh các vector đơn vị, toạ độ của các nguyên tử C gần nhất cũng

được xác định thông qua các vector , và .

Trong không gian mạng đảo, vị trí của các điểm góc K và K‟ của vùng

Brillouin thứ nhất được xác định thông qua các vector ,

12

. Các điểm này được gọi là điểm Dirac, đóng vai trò quan trọng

trong quá trình truyền điện tử trong màng Graphene, tương tự như điểm trong

cấu trúc vùng năng lượng của các chất bán dẫn trực tiếp (bán dẫn chuyển mức

thẳng) như GaAs.

1.2.2. Cấu trúc vùng năng lượng của Graphene

Tính chất điện và điện tử của một vật liệu nào đó thường được đặc trưng

bởi cấu trúc vùng năng lượng và đặc điểm của quá trình truyền điện tử của vật

liệu ấy. Đối với việc nghiên cứu về một vật liệu mới, việc đầu tiên cần làm là đi

tìm cấu trúc vùng năng lượng của nó. Từ cấu trúc vùng năng lượng chúng ta có

thể biết được chất đó là kim loại, bán dẫn hay điện môi.

Đối với Graphene và dạng thù hình khác của Carbon (ngoại trừ kim

cương), các điện tử chính là các điện tử hoá trị và đóng vai trò quan trọng

trong các hiện tượng liên quan đến quá trình truyền điện tử cũng như các tính

chất vật lý khác. Để xác định cấu trúc vùng năng lượng của graphene và các vật

liệu liên quan, phép gần đúng liên kết mạnh thường được sử dụng như một công

cụ đơn giản nhưng đặc biệt hữu hiệu.

Trong phép gần đúng liên kết mạnh, trị riêng năng lượng được xác

định thông qua phương trình det[H - ES] = 0, trong đó H là ma trận Hamilton thể

hiện tương tác truyền, S là ma trận thể hiện tương tác xen phủ và E tương ứng

với năng lượng của trạng thái thứ i . là một hàm tuần hoàn trong không

gian đảo và có thể được mô tả chi tiết trong vùng Brillouin thứ nhất. Trong các

mạng chất rắn 2 hoặc 3 chiều, việc xác định hệ thức tán sắc cho năng lượng trở

nên đặc biệt phức tạp, do đó chỉ được mô tả trên một số nhất định có tính

đối xứng cao trong vùng Brillouin. Như vậy, để xác định phổ năng lượng E(k)

13

(hay cấu trúc vùng năng lượng) trong mạng graphene, ta cần xác định: toạ độ các

vector đơn vị, các điểm đối xứng đặc biệt trong không gian mạng thuận và mạng

đảo; với mỗi giá trị cho trước của vector sóng , xác định các ma trận truyền (H)

và ma trận che phủ (S), từ đó giải phương trình liên quan đến các đại lượng trên,

ta thu được các giá trị năng lượng tương ứng .

Dựa trên nguyên tắc này, như đã trình bày ở trên, sự không tương đương

giữa các nguyên tử C lân cận dẫn đến màng graphene được xem là sự kết hợp

giữa hai mạng tinh thể chỉ gồm các nguyên tử C ở vị trí A và các nguyên tử ở vị

trí B. Do đó, hàm sóng toàn phần mô tả trạng thái của graphene có thể xem là sự

tổ hợp tuyến tính giữa các trạng thái của mạng nguyên tử A và nguyên tử B:

(1.3)

Với

Trong đó N là tổng số ô đơn vị trong mạng graphene, là vector định vị

nguyên tử, (với = A, B) là hàm sóng mô tả trạng thái của các

nguyên tử carbon trong mạng A hoặc B.

Phổ năng lượng được xác định thông qua việc giải phương trình

Schrodinger được quy về ma trận chéo 2 có dạng với

, , là các Hamilton tương tác giữa các nguyên tử C trong mạng A, B

và các nguyên tử trong 2 mạng này với nhau, E là trị riêng của năng lượng:

14

(1.4)

Trong các mạng chỉ gồm các nguyên tử A hoặc B, khi chỉ xét tương tác

giữa các nguyên tử C gần nhất với nhau, ta có với là năng

lượng tương ứng với trạng thái cơ bản của các vân đạo (vân đạo tham gia tạo

liên kết .). Đồng thời, Hamilton tương tác giữa các nguyên tử A và B lân cận

(xác định thông qua các vector ) ta có:

.

Trong hệ tọa độ Decartes:

(1.5)

Do là hàm phức nên là toán tử Hermit, dẫn đến . Đối

với các ma trận tích phân che phủ S, ta cũng có:

(s đăc trưng cho sự che phủ năng lượng giữa các nguyên tử A-B lân cận). Thay

các giá trị của H và S vào secular equation det[H - ES] = 0,

với và

ta được biểu thức tán sắc năng lượng theo vector sóng :

(1.6)

15

Các giá trị và thể hiện năng lượng của trạng thái liên kết ( trạng

thái cơ bản) và trạng thái phản liên kết ( trạng thái kích thích), với hàm:

(1.7)

Hình (1.9) mô tả hệ thức tán sắc năng lượng của mạng graphene trong

vùng Brillouin thứ nhất cũng như theo các phương có tính đối xứng cao, trong

đó = 0, t = -3,033 eV và s = 0,129 eV.

Trong hầu hết các trường hợp, ta thường chọn s = 0 để đơn giản trong việc

tính toán cấu trúc vùng năng lượng của graphene. Khi đó, theo phương trình (1.6),

các vùng trở nên đối xứng quanh giá trị E = và hệ thức tán sắc có dạng:

(1.8)

Tại các vị trí có đối xứng cao, E lần lượt nhận các giá trị và 0,

tương ứng với các điểm , M và K.

Hình 1.9: Cấu trúc vùng năng lượng của tinh thể biểu diễn sự phụ

thuộc của năng lượng với chuyển động của electron

16

Từ hệ thức tán sắc, có thể thấy được tại các vị trí đối xứng K (điểm Dirac),

khoảng cách giữa các mức năng lượng tại các trạng thái liên kết và phản liên

kết * của graphene là bằng 0, nghĩa là graphene có thể được xem như chất bán

dẫn có độ rộng vùng cấm bằng 0. Lân cận các điểm này, sự tán sắc năng lượng là

tuyến tính, nghĩa là E phụ thuộc bậc nhất theo k, thay vì bậc hai như trong các hệ

chất rắn thông thường. Tuy nhiên, sự tồn tại của vùng cấm 0 này tại các điểm đối

xứng K và K‟ yêu cầu tính đối xứng cao trong cấu trúc, nghĩa là mạng các

nguyên tử A và B phải đóng vai trò tương đương nhau. Trong trường hợp A và B

là các nguyên tử khác loại, giữa các mức và * sẽ xuất hiện vùng cấm như các

bán dẫn thông thường. Hiện tượng này đóng vai trò quan trọng trong việc giải

thích khả năng truyền dẫn điện tử cao và các hiệu ứng lượng tử đặc biệt khác

(hiệu ứng Hall lượng tử …) của mạng graphene cũng như ống nano carbon.

Hiện nay, trong thực nghiệm, kỹ thuật ARPES (Angle Resolved

Photoemission Spectroscopy - Phổ phát quang phân giải góc) thường được sử

dụng rộng rãi để nghiên cứu hiện tượng tán sắc năng lượng. Các kết quả từ kỹ

thuật này cũng cho thấy hiện tượng tán sắc năng lượng của màng graphene chế

tạo được trong thực nghiệm có sự trùng khớp với các nghiên cứu lý thuyết. Kết

quả cũng cho thấy mức năng lượng Fermi EF có giá trị xấp xỉ khoảng 0,45 eV tại

lân cận các điểm K và K‟.

1.3. Tính chất của Graphene

1.3.1. Graphene là vật liệu mỏng nhất trong tất cả các vật liệu

Graphene có bề dày chỉ bằng một phần triệu của loại giấy in báo thông

thường và bằng 1/200000 sợi tóc. Theo Geim, mắt người không thể nhìn thấy

màng graphene và chỉ có kính hiển vi điện tử tối tân nhất mới nhận ra độ dày

này. Dưới kính hiển vi, mảnh graphite dày gấp 100 lần nguyên tử carbon có màu

17

vàng, 30- 40 lớp màu xanh lơ, 10 lớp có màu hồng và graphene thì mang màu

hồng rất nhạt, một màng Graphene trong suốt chỉ dày một nguyên tử.

1.3.2. Graphene có tính dẫn điện và nhiệt tốt

Ở dạng tinh khiết, graphene dẫn điện nhanh hơn bất cứ chất nào khác ở

nhiệt độ bình thường. Graphene có thể truyền tải điện năng tốt hơn đồng gấp 1

triệu lần. Hơn nữa, các electron đi qua graphene hầu như không gặp điện trở nên

ít sinh nhiệt. Bản thân graphene cũng là chất dẫn nhiệt, cho phép nhiệt đi qua và

phát tán rất nhanh.

1.3.3. Độ bền của Graphene

Sức bền nội tại của chất là sức căng lớn nhất mà một chất nguyên khôi(

hoặc không có khiếm khuyết) có thể chịu được ngay trước khi tất cả các nguyên

tử trong một tiết diện cho trước bị kéo ra khỏi nhau đồng thời. Về cơ bản thì mọi

chất liệu đều chứa những khiếm khuyết, như các vết nứt hay xước vi mô, chúng

yếu hơn chất liệu xung quanh.

Ấn lõm màng Graphene bằng một kính hiển vi lực nguyên tử với đầu nhọn

kim cương có bán kính khoảng 20nm. Chọn đầu nhọn kim cương vì các đầu

nhọn silicon bình thường sẽ gẫy trước khi Graphene vỡ.

Phản ứng lực dịch chuyển của các màng Graphene đơn lớp cho phép xác

định tính chất đàn hồi của màng Graphene. Lực mà tại đó màng bị vỡ và phân bố

thống kê của lực phá vỡ của nhiều màng cho phép tính được sức bền nội tại của

Graphene. Màng này không có khiếm khuyết vì chúng quá nhỏ. Kết quả cho thấy

sức bền nội tại của Graphene có thể xem là một “giới hạn trên” cho sức bền của

vật liệu - giống như kim cương là chất cứng nhất.

Kết quả cho thấy Graphene bền hơn thép 200 lần. Một sợi dây thép dài

28km sẽ tự đứt nếu nó được treo theo phương thẳng đứng, trong khi một sợi dây

18

Graphene chỉ đứt trong điều kiên tương tự ở độ dài trên 1000km. Trong giới

khoa học, hiện có người đang tính chuyện làm một chiếc “thang máy” bằng chất

liệu Graphene nối liền Trái Đất với vệ tinh.

1.3.4. Graphene cứng hơn cả kim cương

Graphene có cấu trúc bền vững ngay cả ở nhiệt độ bình thường. Độ cứng

của graphene „lệch khỏi biểu đồ‟ so với các họ chất liệu khác. Đây là nhờ các

liên kết carbon- carbon trong graphene cũng như sự vắng mặt của bất cứ khiếm

khuyết nào trong phần căng cao độ nhất của màng graphene.

Hiện nay, lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã đo được độ cứng thực chất

của graphene, và họ khẳng định rằng đây là loại vật liệu cứng nhất từng được

kiểm tra. Jeffrey Kysar và James Hone, Giáo sư cơ khí thuộc Đại học Columbia,

đã kiểm nghiệm độ cứng của graphene ở cấp nguyên tử bằng cách đo lực tác

dụng để bẻ gãy loại vật liệu này. Họ đục các lỗ hổng có độ rộng 1 micromet tạo

thành tấm silic, đặt một mẫu graphene hoàn thiện trên mỗi lỗ hổng đó và sau đó

làm lõm graphene bằng một đầu dò bằng kim cương. Biện pháp đo như vậy

trước đây chưa từng được thực hiện vì chúng phải được thực hiện trên các mẫu

graphene chuẩn, không có lỗi hay bị thiếu nguyên tử.

Hone so sánh thử nghiệm của ông khi kéo căng một miếng giấy nilon bọc

thức ăn lên trên miệng của tách uống cà phê và đo lực tác động để làm thủng miếng

nilon này bằng một chiếc bút chì. Ông cho biết, nếu ông có thể có một miếng

graphene đủ rộng để đặt lên miệng tách uống cà phê, graphene sẽ đủ cứng để chịu

được sức nặng của một chiếc ô tô tương ứng với ngòi bút chì. Tuy nhiên, biện pháp

đo này vẫn chưa thể hiện được các thuộc tính đáng chú ý khác của graphene.

1.3.5. Graphene hoàn toàn không để cho không khí lọt qua

Lớp màng graphene ngăn cản được cả những phân tử khí nhỏ nhất, không

cho chúng lọt qua. Phiến màng đơn ở cấp độ phân tử này có thể kết hợp với

19

những cấu trúc giả vi mô tạo thành lớp vảy cỡ nguyên tử dùng làm lớp màng che

phủ thiết bị điện tử. Chỉ với một lượng rất nhỏ, graphene cũng có một khả năng

bịt kín chặt các lỗ thấm lọc. Các nhà khoa học đã phát triển thành công khoang

cầu mỏng nhất thế giới có lớp màng không cho bất kỳ phân tử nhỏ nhất nào của

không khí lọt qua, kể cả hê-li.

1.3.6. Graphene dễ chế tạo và dễ thay đổi hình dạng

Graphene có cấu trúc mềm dẻo như màng chất dẻo và có thể bẻ cong, gập

hay cuộn lại. Nó có nhiều đặc tính của ống nano, nhưng graphene dễ chế tạo và

dễ thay đổi hơn ống nano; vì thế có thể được sử dụng nhiều hơn trong việc chế

tạo các vật dụng cần các chất liệu tinh vi, dẻo, dễ uốn nắn. Các nhà Vật Lý đã bắt

đầu sử dụng graphene trong phòng thí nghiệm để chế tạo chất dẫn và để thử

nghiệm các hiện tượng lượng tử ở nhiệt độ bình thường.

1.3.7. Hiệu ứng Hall lượng tử trong Graphene

Hiệu ứng lượng tử Hall thường chỉ được thấy ở nhiệt độ rất thấp trong các

chất bán dẫn, nhưng nó lại xuất hiện trong graphehe ở nhiệt độ phòng. Theo

nguyên tắc vật lý, vật liệu mới này không thể tồn tại ổn định và rất dễ bị hủy

hoại bởi nhiệt độ, sở dĩ loại màng này có thể tồn tại ổn định là do chúng không ở

trạng thái tĩnh mà rung động nhẹ theo dạng sóng.

Hình1.10: Sơ đồ hiệu ứng Hall lượng tử

20

Hiệu ứng Hall lượng tử trong lớp kép Graphene (gồm 2 màng Graphene

chồng lên nhau) có những khác biệt riêng. Sự khác biệt này là do electron lỗ

trống suy biến và biến mất khối lượng khi gần điểm trung hòa điện tích.

1.3.8. Chuyển động của điện tử trong Graphehe

Graphene tổng hợp được có tính chất rất đặc biệt. Chuyển động của các

electron rất nhanh, electron dường như không có khối lượng và chuyển động gần

bằng vận tốc ánh sáng. Electron trong Graphene có vận tốc lớn gấp 100 lần

electron trong silicon.

Đối với Graphene, các nguyên tử dao động tại nhiệt độ phòng tạo ra một

điện trở suất vào khoảng 1.0 microOhm- cm. Điện trở suất của Graphene nhỏ

hơn điện trở suất của đồng đến 35% và là điện trở suất thấp nhất được biết đến

tại nhiệt độ phòng. Điều này được giải thích như sau: trong các mẫu Graphene

được chế tạo không được sạch đã làm tăng điện trở suất của Graphene. Do đó

điện trở suất trung bình của Graphene không nhỏ bằng điện trở suất của đồng tại

nhiệt độ phòng. Tuy nhiên Graphene lại có rất ít electron so với đồng, do đó

trong Graphene dòng điện được vận chuyển bởi một số ít electron có vận tốc

nhanh hơn nhiều lần so với các electron của đồng.

Đối với các vật liệu bán dẫn, tiêu chuẩn về tính linh động được sử dụng để

xác định các electron chuyển động nhanh ở mức nào. Giới hạn tính linh động của

electron trong Graphene được xác định nhờ dao động nhiệt của nguyên tử và giá

trị này vào khoảng 200.000 cm /Vs tại nhiệt độ phòng. Trong khi ở silicon là

1.400 cm /Vs, ở indium antimonide là 77.000 cm /Vs. Electron của Graphene

có độ linh động cao nhất so với các chất bán dẫn thông thường.

21

CHƢƠNG 2. TÍNH CHẤT TRUYỀN DẪN

TRONG MỘT SỐ DỊ CẤU TRÚC GRAPHENE ĐƠN GIẢN

2.1. Dải nano graphene.

Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng điện tử trong mạng tinh

thể graphene có thể có độ linh động rất lớn, nghĩa là rất thích hợp cho việc sử

dụng để làm các kênh dẫn trong các cấu trúc linh kiện, vì khi đó tốc độ hoạt

động của linh kiện có thể được cải thiện một cách rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề là

ở chỗ graphene thuần khiết không phải là một chất bán dẫn, nghĩa là có một

khe năng lượng đủ lớn để tách biệt hai dải hóa trị và dải dẫn, mà lại là một

chất được gọi là bán kim loại. Điều này gây lên những trở ngại về mặt nguyên

tắc cho việc sử dụng graphene để làm linh kiện, nhất là cho các linh kiện

trong các ứng dụng kỹ thuật số. Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều

nghiên cứu đi theo hướng làm thế nào để có thể mở ra một khe năng lượng,

cho dù hẹp, trong cấu trúc dải năng lượng của graphene. Về cơ bản, các

nghiên cứu theo hướng này đều dựa trên nguyên tắc phá hỏng tính chất đối

xứng mạng tinh thể lục giác. Một trong những cách làm như thế đó là tiến

hành cắt tấm graphene ra thành các dải dài nhưng hẹp về bề ngang. Các dải

graphene như vậy được gọi là các dải graphene (graphene ribbons). Xét về

mặt hình học, tùy thuộc vào phương của vết cắt mà người ta phân biệt các dải

graphene thành ba dạng: dạng có biên hình răng cưa hay còn gọi là biên

zigzag; dạng có biên hình tay vịn ghế bành hay còn gọi là biên armchair, và

dạng pha trộn cả hai kiểu zigzag và armchair gọi là dạng xoắnchiral. Thú vị là

ở chỗ cấu trúc điện tử của ba dạng ribbons này không giống nhau mà có

những đặc trưng riêng biệt.

22

2.1.1. Dải nanographene dạng zigzag

Hình 2.1: Dải nano graphene biên zigzag

Hình 2.1 minh họa một dải graphene với biên zigzag. Để thuận tiện

trong việc viết biểu thức Hamilton cho các hệ như vậy tôi đã thêm vào các kí

hiệu xác định vị trí của các nút mạng tinh thể. Cụ thể, tôi phân biệt các

đường zigzag và số các đường như vậy được xác định bởi tham số Mzline.

Cho trước tham số này độ rộng của dải nano W(Mzline) sẽ được xác định

(2.1)

bởi công thức sau:

Với cấu trúc mạng tinh thể của các dải graphene biên zigzag ô cơ bản được

xác định là một dải hình chữ nhật chứa trọn một dãy các nút mạng hình

armchair. Để thuận tiện chúng ta phân chia các nguyên tử tại các nút thành

hai loại ký hiệu là aim và bim tương ứng là nguyên tử tại nút a(b) ở trong ô

cơ bản thứ i và thuộc đường zigzag thứ m như Hình 2.1.

Tương tự như đã tính với graphene ở trên, Hamilton liên kết chặt

trong hình thức luận lượng tử hóa lần thứ hai của dải nano graphene biên

zigzag có dạng:

23

(2.2)

Do tính tuần hoàn và đối xứng của mạng nguyên tử, nên chúng ta xét riêng

với các trường hợp m chẵn và lẻ.

Mô hình này có thể được mở rộng để xét đến ảnh hưởng của từ trường

đều được đặt vào vuông góc với mặt phẳng dải nano graphene bằng cách

thay đổi cục bộ các năng lượng nhảy giữa các nút sử dụng thay thế Peierls.

Sử dụng đánh giá của Landau:

B 0,0, B A By,0,0 (2.3)

i

Với A là thế vector. Năng lượng nhảy giữa hai nút tCC trong trường

hợp không có từ trường trước đây giờ phải thay bằng Tij phụ thuộc vào từ

trường B được xác định như sau:

(2.4)

Sử dụng (2.4) viết lại (2.3) thu được hamilton liên kết chặt phụ thuộc

vào từ trường:

24

(2.5)

Biến đổi Fourier từ không gian mạng thực sang không gian mạng đảo. Do

chiều y bây giờ bị giới hạn nên chỉ có thể khai triển theo chiều x. Lấy gốc tọa

độ tại đầu dải graphene, các toán tử được biến đổi như sau:

(2.6)

Thay các giá trị (2.6) vào (2.5) và thực hiện biến đổi với lưu ý:

Một cách tương tự như với trường hợp tính cho graphene, chúng ta

(2.7)

viết lại dạng của (2.7) dưới dạng ma trận bằng việc sử dụng vector:

25

(2.8)

(2.9)

Dưới dạng ma trận chúng ta có thể chéo hóa ma trận Hamilton Hk

Bvà thu được các năng lượng riêng tương ứng với vector sóng k và phụ

thuộc vào từ trường B là Ek B. Vùng Brillouin thứ nhất được xác định với

các giá trị vectơ sóng k thỏa mãn điều kiện:

(2.10)

Thay đổi các vector sóng k sẽ thu được các Hk Bkhác nhau, thực

hiện chéo hóa sẽ thu được các bộ Ek Btạo nên phổ tán sắc của dải nano

graphene biên zigzag.

26

 Graphene dạng dải Zigzag với N = 8 (8ZA)

Tôi chia hệ 8ZA thành 3 vùng như ở hình 2.2.

Hình 2.2: Mô phỏng hệ kênh dẫn hệ 8 - ZA

Với hệ này, tiến hành tính toán mật độ trạng thái, cấu trúc vùng năng

X

G

(a)

(b)

lượng, phổ truyền electron, tôi thu được kết quả được trình bày dưới đây:

Hình 2.3: Mật độ trạng thái (a) và cấu trúc vùng năng lượng (b)

của hệ 8 – ZA

27

Quan sát vào các giản đồ ở hình 2.3, hệ này không cho thấy một khe

năng lượng giữa hai vùng dẫn và vùng hóa trị. Từ đó, chúng tôi có thể kết

luận, hệ 8-ZA thể hiện tính chất kim loại (không có khe năng lượng).

Hình 2.4: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA

Tính chất truyền electron của hệ này cũng được thể hiện ở hình 2.4

Tôi cũng đã tiến hành tính toán các tính chất này đối với các trường

hợp N khác nhau, kết quả cũng cho thấy, N - ZA luôn thể hiện tính chất kim

loại trong mọi trường hợp.

2.1.2. Graphene dạng dải Armchair

Bây giờ ta xét vết cắt tấm graphene dọc theo hướng mà tạo ra các biên

dưới dạng đường armchair như Hình 2.5, chúng ta thu được dải nano

graphene biên armchair.

Hình 2.5: Dải nano graphene biên armchair

28

Trong đó Maline là số đường armchair của dải graphene tương ứng với

độ rộng của dải nano W(Maline) theo mối liên hệ sau:

(2.11)

Chọn ô cơ bản là một dải các nguyên tử tương tự như với trường hợp biên

zigzag, ở trường hợp này chúng ta phân chia các nguyên tử tại các nút thành bốn

loại ký hiệu là aim, bim, cim và dim tương ứng là nguyên tử tại nút a, b, c và d ở

trong ô cơ bản thứ i và thuộc đường armchair thứ m như Hình 2.5.

Hamilton liên kết chặt trong hình thức luận lượng tử hóa lần thứ hai

(2.12)

của dải nano graphene biên armchair có dạng:

Xét đến ảnh hưởng của từ trường đều được đặt vào vuông góc với mặt

phẳng dải nano graphene bằng cách thay đổi cục bộ các năng lượng nhảy

giữa các nút sử dụng thay thế Peierls với cùng đánh giá của Landau như

trường hợp biên zigzag (2.3). Năng lượng nhảy giữa hai nút phụ thuộc vào từ

trường B được xác định như sau:

(2.13)

29

=>

(2.14)

Sử dụng (2.14) viết lại (2.12) thu được Hamilton liên kết chặt phụ thuộc vào

từ trường:

(2.15)

Biến đổi Fourier từ không gian mạng thực sang không gian mạng đảo. Do

chiều y bây giờ bị giới hạn nên chỉ có thể khai triển theo chiều x. Lấy gốc

tọa độ tại đầu dải graphene, các toán tử được biến đổi như sau:

30

(2.16)

Thay các giá trị (2.16) vào (2.15) và thực hiện biến đổi tương tự trường

hợp biên zigzag thu được:

(2.17)

Với ;

Chúng ta viết lại dạng của (2.17) dưới dạng ma trận bằng việc sử dụng

vector:

Ta có:

(2.18)

31

(2.19)

Dưới dạng ma trận chúng ta có thể chéo hóa ma trận Hamilton Hk Bvà thu

được các năng lượng riêng tương ứng với vector sóng k và phụ thuộc vào

từ trường B là Ek B. Vùng Brillouin thứ nhất được xác định với các giá trị

vectơ sóng k thỏa mãn điều kiện:

(2.20)

Thay đổi các vector sóng k sẽ thu được các Hk Bkhác nhau, thực hiện

chéo hóa sẽ thu được các bộ Ek Btạo nên phổ tán sắc của dải nano

graphene biên tay vịn.

Với hệ Graphene dạng dải Armchair (A), tương tự phương pháp tính

toán với hệ 8 - ZA, tôi tiến hành tính toán với các trường hợp chiều rộng thay

đổi N - A với N =5, 6, 7, 8, 9 và 10 nguyên tử C. Hình 2.6 mô phỏng các kênh

dẫn trong hệ.

32

Hình 2.6: Mô phỏng hệ kênh dẫn đối với hệ 7 - A

Đối với hệ 7 - A, kết quả tính toán thu được ở hình dưới đây:

a) b)

Hình 2.7: Mật độ trạng thái (a) và cấu trúc vùng năng lượng (b) của 7 –A

Hình 2.8: Phổ truyền electron của hệ 7 - A

33

Kết quả tính toán chỉ ra rằng 7-A là bán dẫn chuyển mức thẳng tại điểm

đối xứng cao Gama, với khe năng lượng cỡ 1.41 eV.

N-A

5

6

7

8

9

10

Band gap

0.25

1.10

1.41

0.17

0.73

1.01

(eV)

Bảng 2.1: Sự phụ thuộc giá trị khe năng lượng của hệ N-A vào chiều rộng

Hình 2.9: Sự phụ thuộc giá trị khe năng lượng của hệ N - A vào chiều rộng

của dải N = 5, 6, 7, 8, 9, 10

Hình 2.10: Phổ truyền electron của các hệ N - A tương ứng với N = 6, 7, 8,

9, 10.

34

Tiến hành tính toán tương tự cho các A còn lại, kết quả được trình bày

trong bảng 2.1. Từ những kết quả này, cấu trúc điện tử của các N - A phụ

thuộc rất lớn vào chiều rộng của chúng. Trong các giá trị N đã tính toán cho N

- A thì với N = 7 thu được giá trị của khe năng lượng là lớn nhất là 1.41eV,

nhỏ nhất là hệ ứng với N = 8 với giá trị tương ứng là 0.17eV. Quan sát vào sự

biến đổi về giá trị của khe năng lượng của hệ, các N - A được chia làm 3

nhóm được thể hiện rõ trên hình 2.9 và hình 2.10: nhóm N = 3p, nhóm N =

3p+1 và nhóm N = 3p+2 với p là số nguyên. Với cùng giá trị của p (ví dụ p =

2) thì khe năng lượng của nhóm 3p+1 (N = 7) là cao nhất, tiếp theo là nhóm

3p (N = 6) và nhỏ nhất là nhóm 3p+2 (N = 8). Khi thay đổi p, quy luật biến

đổi trong cả ba nhóm đều như nhau: khi p tăng (N tăng) thì khe năng lượng

giảm. Nói cách khác, khe năng lượng của A tỷ lệ nghịch với chiều rộng của

dải.

2.1.3. Ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên tính chất điện tử của AGNR

Từ các kết quả trên, khe năng lượng của 7 - AGNR có giá trị cao nhất

là 1.41eV. Vì vậy, tôi lựa chọn hệ dải 7 - AGNR để nghiên cứu sự ảnh hưởng

của biến dạng cơ học lên sự hình thành khe năng lượng. Tiến hành kéo giãn

dải AGNR theo trục dọc của dải Graphene (trục a) bằng cách thay đổi giá trị

của hằng số mạng a lần lượt tăng thêm 2%, 3%, 4%, 5%, 6%, 7%. Tương tự,

nén dải Graphene bằng cách giảm hằng số mạng a đi -2%, -3%. Kết quả thu

được ở hình 2.11.

35

Hình 2.11: Sự ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên giá trị khe năng lượng

của hệ 7 - A

Hình 2.12: Phổ truyền electron của hệ 7 - A dưới ảnh hưởng của các biến

dạng cơ học.

Giá trị khe năng lượng của hệ 7 - A tăng từ 1.41eV lên 1.72eV trong

trường hợp hệ bị nén cơ học -3%. Ngược lại, giá trị này giảm mạnh xuống

0.88eV ngay khi hệ bị giãn cơ học 2%. Quan sát vào hình 2.11 và 2.12 có thể

thấy, các giá trị khe năng lượng sau đó giảm khá đều đặn khi hệ giãn cơ học

từ 2% đến 7%.

Các kết quả trên chứng tỏ biến dạng cơ học có ảnh hưởng mạnh mẽ đến

việc hình thành khe năng lượng của Graphene dạng dải Armchair. Cụ thể, khe

36

năng lượng có xu hướng tăng khi chịu biến dạng nén và ngược lại giảm đi khi

có biến dạng giãn.

2.2. Hệ lƣới nano graphene với các lỗ đục.

2.2.1. ZGRNs có đục lỗ

Để xem xét thêm sự ảnh hưởng của sự lai hóa Armchair - Zigzag lên

việc hình thành khe năng lượng của Graphene, tôi tiến hành đục lỗ trên các

dải Zigzag Graphene (ZA). Hệ các ZA bị đục lỗ được mô phỏng ở hình 2.13

(c)

(a)

(b)

dưới đây

Hình 2.13: Mô phỏng các kênh dẫn với hệ ZA dạng đục lỗ (a)hình tròn, (b)

hình vuông và (c) hình tam giác

Tiến hành tương tự như các loại kênh dẫn bên trên, tôi chia từng hệ ra

làm ba phần tương ứng với vai trò kênh dẫn trái, kênh dẫn phải và vùng giữa,

sau đó tính toán A. Kết quả thu được cụ thể như sau:

* ZA đục lỗ dạng hình tròn:

Kết quả về tính chất truyền điện tử của hệ ZA đục lỗ dạng hình tròn

được thể hiện ở hình 2.14

37

Hình 2.14: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA đục lỗ dạng hình tròn

Kết quả tính toán cho thấy, so với hệ ZA đơn thuần, các mức năng

lượng trong phổ electron truyền qua đã giảm từ mức 1 xuống gần 0 ở quanh

mức năng lượng ±1eV.

* ZA đục lỗ dạng hình vuông

Tính chất truyền điện tử của hệ ZA bị đục lỗ dạng hình vuông được thể

hiện trên hình 2.15. Kết quả cho thấy, so với ZA nguyên thủy, các mức năng

lượng trong phổ truyền electron đã giảm gần xuống mức 0 ở quanh mức

Fermi, bắt đầu tiệm cận đến tính chất bán dẫn. Điều này chỉ ra rằng, dù cạnh

ngoài của cấu trúc là dạng Zigzag, nhưng cạnh bị đục lỗ dạng Armchair bên

trong cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính chất điện tử của hệ. Như vậy, một

lần nữa khẳng định rằng cấu trúc lai Armchair - Zigzag đóng vai trò quan

trọng trong việc hình thành khe năng lượng của kênh dẫn Graphene.

38

Hình 2.15: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA đục lỗ dạng hình vuông

* ZGNR đục lỗ dạng hình tam giác

+ Phổ truyền electron

Nhận thấy được vai trò quan trọng của cạnh Armchair của lỗ bên trong,

mô hình đục lỗ hình tam giác với cả 3 cạnh là Armchair đã được đưa ra

tính toán. So sánh kết quả tính toán giữa ZA đục lỗ dạng hình vuông và đục

lỗ dạng hình tam giác, tôi nhận thấy rằng, các mức năng lượng đều đã giảm về

gần mức 0 (hình 2.15) hoặc có thể giảm về hẳn mức 0 (hình 2.16) ở quanh

mức Fermi. Như vậy, hiệu quả mở khe năng lượng của lỗ tam giác lớn hơn lỗ

hình vuông. Nguyên nhân gây ra sự khác biệt này có thể được cho là gây bởi

cạnh trong của hệ ZA. Rõ ràng, chúng ta có thể thấy, trường hợp ZA bị đục lỗ

dạng tam giác, có cả ba cạnh bên trong dạng Armchair, trong khi trường hợp

bị đục lỗ dạng hình vuông chỉ có 2/4 cạnh có hình dạng Armchair.

39

Hình 2.16: Phổ truyền electron của hệ 8 - ZA bị đục lỗ dạng hình tam giác

Các kết quả nghiên cứu này khẳng định thêm sự ảnh hưởng mạnh mẽ

của các cạnh dạng Armchair lên sự hình thành khe năng lượng của Graphene.

+ Ảnh hưởng của biến dạng cơ học

Bên cạnh đó, tôi cũng tiến hành khảo sát ảnh hưởng của biến dạng cơ

học lên việc hình thành khe năng lượng của 8 - ZA trong trường hợp bị đục lỗ

hình tam giác. Kết quả được thu được ở hình 2.17 dưới đây.

Hình 2.17: Sự ảnh hưởng của biến dạng cơ học lên tính chất truyền

điện tử của ZA bị đục lỗ dạng hình tam giác

40

Khác với các hệ A và Graphene có cấu trúc dạng góc 90 độ, việc hình

thành khe năng lượng của hệ ZA bị đục lỗ không bị ảnh hưởng nhiều khi tiến

hành nén hoặc giãn dọc theo trục.

(a)

(c)

(b)

2.2.2. AGRNs có đục lỗ

Hình 2.18: Mô phỏng các kênh dẫn A có đục lỗ với kích thước tăng dần:

(a)dạng lỗ tròn, (b) dạng lỗ vuông, và (c) dạng lỗ tam giác

Hình 2.19 đưa ra kết quả tính toán phổ truyền electron của các hệ A có

(b)

(c)

(a)

đục lỗ tương ứng với các mô hình ở hình 2.18.

Hình 2.19: Phổ truyền electron của các kênh dẫn A có đục lỗ. Đường

màu đỏ là phổ của A nguyên thủy chưa bị đục lỗ, các đường còn lại là phổ

với kích thước tăng dần tương ứng với màu như trên mô hình 2.18: (a)

dạng lỗ tròn, (b) dạng lỗ vuông, và (c) dạng lỗ tam giác

41

Chúng ta thấy rằng A có đục lỗ, khi kích thước lỗ nhỏ hiệu quả mở khe

năng lượng của lỗ tam giác (với 3 cạnh trong là Zigzag) là tốt nhất, tiếp theo

là lỗ dạng hình vuông (với 2/4 cạnh trong là Zigzag), các kết quả này tương tự

như với trường hợp ZA ở trên. Ảnh hưởng của kích thước lỗ lên việc hình

thành khe năng lượng cũng được tính toán, kết quả chỉ ra rằng khi kích thước

lỗ đục tăng, cả 3 dạng lỗ đục đều cho hiệu quả mở khe năng lượng tăng lên.

42

KẾT LUẬN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, em đã đạt được các kết quả sau:

1. Đã trình bày tương đối chi tiết tổng quan về chất bán dẫn mới-

graphene: Với cấu trúc một màng mỏng có bề dày một nguyên tử, Graphene

nhiều tính chất gây bất ngờ và thú vị. Graphene mở ra một tiềm năng nghiên

cứu khoa học mới trong thang vi mô. Cấu tạo của Graphene rất đơn giản

nhưng để tạo ra được nó thì không đơn giản chút nào. Chất bán dẫn Graphene

ra đời mở ra hy vọng mới cho ngành công nghệ điện tử để thay thế cho Silic.

2. Đã nghiên cứu tính chất điện tử và khe năng lượng của các cấu trúc

Graphene bao gồm Graphene dạng dải và Graphene có cấu trúc đục lỗ.

Với cấu trúc dải Graphene có cấu trúc đục lỗ, các kết quả tính toán chỉ

ra rằng việc thiết kết lỗ đục trên Graphene có ảnh hưởng lớn đến tính chất

điện tử và khe năng lượng của kênh dẫn Graphene, các tính chất này phụ

thuộc vào hình dạng và kích thước của lỗ. Cụ thể, với kênh dẫn có cạnh ngoài

là Zigzag thì lỗ đục dạng tam giác có 3 cạnh trong là Armchair và ngược lại

kênh dẫn có cạnh ngoài là Armchair với lỗ đục tam giác có 3 cạnh trong là

Zigzag cho hiệu quả mở khe năng lượng tốt nhất. Khi kích thước lỗ đục tăng

lên, cả 3 dạng lỗ đục đều cho hiệu quả mở khe năng lượng tăng lên.

43

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1] Huỳnh Trần Mỹ Hòa, 2010, “Chế tạo và khảo sát tính chất đặc trưng của

Graphene”, Luận văn thạc sỹ khoa học, Đại học KHTN TP Hồ Chí Minh.

[2] Eation trong Graphene: Luận văn ThS.Vật lý: 60 44 01\Phạm Văn Điện

Tiếng Anh

[3] A. K. Geim and K. S. Novoselov (2007) The rise of graphene. Nature

Materials, 6, pp. 183-191

[4]. A. K. Geim (2009) Graphene: status and prospects. Science, 324, pp.1530-

1534

[5]. V. Hung Nguyen, H. Viet Nguyen, and P. Dolfus, Nanotechnol. 25,

165201 (2014); M. Chung Nguyen, V. Hung Nguyen, H. Viet Nguyen, and P.

Dollfus, submitted (2014) [arXiv:1403.5310].

[6]. V. Hung Nguyen et al., J. Phys. D: Appl. Phys. 45, 325104 (2012).

[7]. Y. Iyechika (2010) Application of Graphene to High-Speed Transistors:

Expectations and Challenges. Quarterly Review, 37, 76

[8]. P. R. Wallace (1947) The band theory of graphite. Phys. Rev., 71, pp. 622-

634.

[9]. V. Nam Do and P. Dollfus (2010) Negative differential resistance in

zigzag-edge graphene nanoribbons junctions. J. Appl. Phys., 107, 063705

[10]. V. Hung Nguyen, V. Nam Do, A. Bournel, V. Lien Nguyen, and P.

Dollfus (2009) Controllable spin-dependent transport in armchair graphene

nanoribbons structures. J. Appl. Phys., 106, 053710

[11]. V. Hung Nguyen et al., IEEE Trans. on Electron Device 60, 1506

(2013); J. Comput. Electron. 12, 675 (2013); J. Appl. Phys. 115, 054512 (2014); Nano Lett. 14, 2094 (2014).

44