TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC

HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG

TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ

CỦA HỮU THỈNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC

HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG

TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ

CỦA HỮU THỈNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. LA NGUYỆT ANH

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của

mình tới cô giáo TS. La Nguyệt Anh, người đã hướng dẫn tận tình và luôn

động viên em. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học

Việt Nam, khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện và đóng góp ý khiến để em hoàn

thành tốt khóa luận tốt nghiệp.

Do thời gian không cho phép nên đề tài khóa luận của em không tránh

khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý

thầy cô và các bạn để đề tài em được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Ánh Cúc

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. La Nguyệt Anh.

Khóa luận chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác, nếu

sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Ánh Cúc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 1

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4

6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 4

7. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 4

NỘI DUNG ....................................................................................................... 5

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG

CA HỮU THỈNH .............................................................................................. 5

1.1. Những vấn đề lí luận về trường ca .......................................................... 5

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca ................................. 5

1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc ...... 10

1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh ....................... 11

1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh ....................................................................... 11

1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh ............ 12

Chương 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG

TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH .......................................................... 17

2.1. Hiện thực chiến trường ......................................................................... 17

2.1.1. Sự khốc liệt nơi chiến hào .............................................................. 17

2.1.2. Sự gian khổ, hi sinh ........................................................................ 19

2.2. Hiện thực cuộc sống đời thường ........................................................... 23

2.2.1. Đời sống cộng đồng ........................................................................ 23

2.2.2. Đời sống cá nhân ............................................................................ 26

Chương 3. CON NGƯỜI TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH

PHỐ CỦA HỮU THỈNH ................................................................................ 30

3.1. Người lính ............................................................................................. 30

3.1.1. Người lính nơi chiến trường ........................................................... 30

3.1.2. Người lính trong cuộc sống đời thường .......................................... 34

3.2. Người phụ nữ ........................................................................................ 35

3.2.1. Người phụ nữ trong chiến tranh ...................................................... 35

3.2.2. Người phụ nữ trong cuộc sống đời thường ..................................... 40

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng thành công nhất là thể loại

trường ca. Trong quá trình sáng tác hơn 30 năm Hữu Thỉnh có nhiều đóng

góp đáng kể cho nền thơ ca dân tộc. Với 5 tập thơ và 3 trường ca trong đó tiêu

biểu trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã khẳng định vị thế của

mình trong văn học nước nhà.

Hữu Thỉnh là một trong số ít nhà thơ viết về trường ca và đạt được nhiều

thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân tộc và thời đại

anh hùng cùng với vốn sống thực tế nơi chiến trường đã tạo tiền đề cho thể

loại trường ca phát triển. Trường ca của ông được ghi nhận là một trong

những gương mặt tiêu biểu và đóng góp một tiếng nói quan trọng trong thể

loại trường ca kháng chiến nói chung và thơ kháng chiến chống Mỹ nói riêng.

Trường ca của ông có sức chứa nhiều vấn đề có khả năng khát quát được hiện

thực và con người của thời đại lúc bấy giờ. Qua thời gian, và sự mến yêu của

độc giả trường ca Hữu Thỉnh vẫn được bạn đọc đón đợi và mong muốn chiếm

lĩnh và khám phá.

Lựa chọn vấn đề: “Hiện thực và con ngƣời trong trƣờng ca Đường

tới thành phố của Hữu Thỉnh”, chúng tôi hi vọng sẽ có đóng góp thiết

thực vào tìm hiểu thơ Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành

phố nói riêng.

2. Lịch sử vấn đề

Ngay từ khi xuất hiện, trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã

thu hút được sự quan tâm của độc giả và các nhà nghiên cứu.

Tác giả Mai Hương khi đọc Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã

nhận xét: “Đường tới thành phố cũng lại hàm nghĩa một cuộc hành trình -

1

cuộc hành trình của cả dân tộc trên đường tới chiến thắng cuối cùng trong

chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đây quả là một cuộc hành trình vĩ đại nhưng

cực kì gian nan”. Theo tác giả Mai Hương sức thuyết phục trong ngòi bút của

Hữu Thỉnh chính là ở sự chân thực: “Song ngòi bút của Hữu Thỉnh thật tỉnh

táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về bước đường

gian nan ấy” [22].

Trong bài viết Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố, đăng trên báo Văn

nghệ Quân đội (số 3 - 1980), nhà phê bình Thiếu Mai cho rằng “chỗ mạnh”

của Hữu Thỉnh chính là phương diện cảm xúc: “Cảm xúc dạt dào, phong phú

và mạnh mẽ là chỗ mạnh của Hữu Thỉnh... trong lòng cuộc chiến đấu chống

Mĩ vĩ đại của nhân dân, Hữu Thỉnh thường nghĩ đến vấn đề lớn lao của đất

nước, của thời đại. Anh khao khát thơ của mình phản ánh và lí giải được

những điều đó... Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể

hiện vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm những

suy ngẫn của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mĩ”[23].

Nhà thơ Thế Hanh nhận ra chất hiện thực Từ những người đi tới biển tới

Đường tới thành phố. Tế Hanh cho rằng đó là “Thơ từ cuộc đời chiến đấu mà

ra... là máu thịt chứ không phải giấy mực”[21].

Lưu Khánh Thơ khi đánh giá về Hữu Thỉnh đã khẳng định đó là một

phong cách thơ sáng tạo bởi: “Đường tới thành phố đã hội tụ và kết tinh

những điểm mạnh của ngòi bút Hữu Thỉnh, anh đã dồn vào trong trường ca

này những tình cảm lớn lao, những câu thơ tài hoa xúc động nhất”[24].

Trong bài viết “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”. Tác giả Hoàng Điệp

đã khẳng định những đóng góp của Hữu Thỉnh qua thể loại trường ca nói

chung nhất là trường ca Đường tới thành phố: “Hữu Thỉnh là một trong những

người có đóng góp nhiều và chiếm vị trí quan trọng với thể loại trường ca”.

2

Nhiều tác giả đã khẳng định thể loại trường ca của Hữu Thỉnh chính là

đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi đề cập đến

Hữu Thỉnh với tư cách là một tác giả có phong cách nghệ thuật riêng và độc

đáo, bằng cái nhìn tin tưởng, tác giả Mai Hương đã nhận xét: “Đây quả là

một cuộc hành trình vĩ đại nhưng cực kì gian nan. Song ngòi bút của Hữu

Thỉnh thật tỉnh táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về

bước đường gian nan ấy. Người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm và xuyên suốt

của trường ca. Sự từng trải của người viết đã giúp anh nhận chân dung người

chiến sĩ chân thực và sống. Những trang viết của Hữu Thỉnh do đó có sức

chinh phục”[22]. Để tiếp tục những công trình nghiên cứu, tôi xin được

nghiên cứu và tìm hiểu về “Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới

thành phố của Hữu Thỉnh” để có cái nhìn tổng quát về phương diện nội dung

của Hữu Thỉnh. Cùng với đó tôi cũng muốn đóng góp những ý kiến, quan

điểm riêng của mình cùng với các bài viết, các bài nghiên cứu để khẳng định

sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh trong thi đàn văn học Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Đề tài khóa luận nghiên cứu yếu tố “Hiện thực và con người trong

trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh” nhằm bám sát hiện thực cuộc

sống và con người qua những năm kháng chiến chống Mĩ qua đó phản ánh

tinh thần đoàn kết chiến đấu của toàn dân tộc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc

nước nhà.

3.2. Nhiệm vụ

Dựa vào cơ sở lí thuyết nội dung học về hiện thực và con người trong

trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh để tìm hiểu những phương

diện sáng tạo tinh tế và vai trò của yếu tố hiện thực và con người trong trường

ca Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành phố nói riêng.

3

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu về nội dung của

trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Đặc biệt, chúng tôi tập trung tìm

hiểu về hiện thực cuộc sống và con người trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khóa luận này, chúng tôi nghiên cứu tác phẩm trường ca Đường

tới thành phố của Hữu Thỉnh đã được xuất bản.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Khi thực hiện đề tài khóa luận này, chúng tôi phối hợp sử dụng các

phương pháp sau:

Phương pháp hệ thống.

Phương pháp phân tích.

Phương pháp so sánh, đối chiếu.

Phương pháp tổng hợp.

6. Đóng góp của khóa luận

Với đề tài khóa luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu những yếu tố về hiện

thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh đưa ra những quan điểm

riêng của mình về thể loại trường ca. Từ đó, hi vọng khóa luận có đóng góp

cho thơ ca của Hữu Thỉnh một cách tổng quát nhất.

7. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của

khóa luận gồm 3 chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề chung về trường ca và trường ca Hữu Thỉnh

Chƣơng 2. Hiện thực cuộc sống trong trƣờng ca Đường tới thành

phố của Hữu Thỉnh

Chƣơng 3. Hình tƣợng con ngƣời trong trƣờng ca Đường tới thành

phố của Hữu Thỉnh

4

NỘI DUNG

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƢỜNG CA

VÀ TRƢỜNG CA HỮU THỈNH

1.1. Những vấn đề lí luận về trƣờng ca

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca

1.1.1.1. Khái niệm trường ca

Khái niệm trường ca xuất hiện trong văn học phương Tây “trường ca là

thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [20]. Từ những năm 50

của thế kỉ XX trường ca đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nó có tên gọi khác

là sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có chiều dài như Đam San, Xinh

Nhã...Chúng ta có thể gọi trường ca tương đồng với sử thi, anh hùng ca

(Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata...). Đồng thời, trường ca còn chỉ các

tác phẩm thơ phản ánh những sự kiện lớn trong lịch sử đất nước và nó có

dung lượng lớn: Sông núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Đường tới thành

phố của Hữu Thỉnh (1979)…

Để phân biệt ranh giới và sự ra đời một khái niệm thể loại trường ca còn

gặp nhiều khó khăn. Các nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học, thậm chí

chính các tác giả trường ca nhiều năm qua đã rất chú ý đi tìm một bản chất

định nghĩa cũng như những thuộc tính căn bản nhất để phân định trường ca

với các loại thơ khác.

Theo từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác

phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường

ca cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết

danh hoặc có tác giả” [20]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho

rằng: “Trường ca có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn

truyện trữ tình. Chúng được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và

truyện kể hoặc bằng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách

5

cải biên các cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian.

Trường ca với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình - tự sự, hoành tráng cho

phép kết hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan

niệm về lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4].

Khái niệm trường ca có sự khác nhau trong việc xác định ranh giới, nội

hàm của thể loại, nhưng chúng ta có thể thấy các nhà phê bình văn học và các

tác giả trường ca đều có điểm chung đó là: “Trường ca là những tác phẩm có

tầm cỡ, tầm vóc lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó có sức ôm chứa

nhiều vấn đề lớn, về nhiều chủ đề tư tưởng, về độ rộng của không gian và độ

dài của tời gian. Trường ca có tính tự sự, tính trữ tình, yếu tố suy nghĩ chính

luận”. Theo như kết quả của người đi trước đã nghiên cứu, chúng tôi nhận

thấy trường ca của Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ

1945 đến cuối thế kỉ XX” - LATS, 2008) dường như đã thuyết phục người

đọc:“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc vừa,

có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại hình:

trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan xen

nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và miêu

tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ, giọng

điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào hùng của

sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống”[7].

1.1.1.2. Đặc trưng thể loại của trường ca Việt Nam hiện đại

1.1.1.2.1. Về nội dung:

Đầu tiên, đặc trưng thể loại trường ca về phương diện nội dung mà

truờng ca Việt Nam hiện đại đề cập đến là hiện thực chiến tranh khốc liệt và

người lính anh dũng, hi sinh quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Chiến tranh đã hủy

hoại biết bao ước mơ của con người để lại những mất mát không hề nhỏ đối

với dân tộc Việt. Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, là

6

nơi tái diễn một cách chân thực nhất, tâm thức ấy. Trong trường ca hiện đại

Việt Nam, chiến tranh luôn là đề tài chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm

được tự sự. Trường ca hiện đại tái hiện cuộc đấu tranh của dân tộc ta đối với

kẻ xâm lược để dành độc lập tự do cho nhân dân theo lí tưởng cách mạng và

cảm hứng chủ đạo yêu nước và chủ nghĩa anh hùng.

Ta có thể khẳng định, thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trường

ca hiện đại Việt Nam đều miêu tả người lính bằng những nét vẽ tinh tế rất đỗi

bình thường nhưng không chút tầm thường. Đây cũng là đặc trưng của trường

ca hiện đại lúc bấy giờ.

Những tác giả của trường ca thời chống Mỹ cứu nước đã khắc họa lên

hình tượng người lính hiện thực nơi chiến trường đó là :Người lính lạc quan

chiến đấu hết lòng vì nước vì dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư của chính

mình để kiên cường đánh giặc quyết tâm giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.

Trường ca nói về sự đoàn kết toàn dân tộc trong kháng chiến chống Mĩ chứ

không riêng một cá nhân nào đó. Đây cũng là sự tự nhận thức của con người

đạt đến độ sâu trong thơ ca chống Mĩ.

Nội dung quan trọng tiếp theo mà trường ca phản ánh là đất nước và số

phận con người. Trong lịch sử văn học, chủ đề về đất nước vẫn luôn là chủ đề

lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và trường ca hiện đại cũng đã thể hiện rất rõ nội

dung ấy. Đất nước trong đời thường và đất nước trong văn học được kết tinh

từ tất cả những mảnh ghép cuộc sống. Các tác giả trường ca chống kẻ thù xâm

lược - Mỹ từ sự thôi thúc của trái tim mình đều dồn mọi tâm lực cho sự miêu

tả, ngợi ca và dựng nên hình tượng đất nước:

“Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người

Mồ hôi vã một trời sao trên đất”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Dân tộc ta có truyền thống yêu nước đã tạo nên những anh hùng, tạo nên

sức mạnh tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại

7

xâm. Đó là đất nước của những người con gái, con trai chưa bao giờ biết sống

lùi bước:

“Đất nước của những người con gái, con trai

Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép”

(Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi- Nam Hà)

Gắn với đất nước là số phận con người. Dường như, trường ca hiện đại

xoáy sâu vào mối tương quan với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại

và số phận của con người. Trước 1975 trường ca chủ yếu đề cập đến những

con người mang tính tập thể, sống bằng lí tưởng mà ít đời sống nội tâm. Song

một điểm nhấn trong trường ca hiện đại sau 1975 là đã đề cập đến những số

phận riêng mà những số phận ấy chịu ảnh hưởng chiến tranh. Các số phận con

người đời tư nhiều đau khổ, trái ngang đã được các trường ca sau 1975 đề cập

đến như đã tố cáo tội ác của kẻ xâm lược.

Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối

tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:

“Chết - hy sinh cho tổ quốc - Hùng ơi

Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất

Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc

Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng”

(Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu)

Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nước hình tia chớp

của Trần Mạnh Hảo:

“Mỗi bận chiến trường tin báo tử

Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài”

(Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo)

Con người đã gánh chịu tổn thất rất lớn của chiến tranh nhưng đồng thời

trong mưa bom bão đạn đó con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ

8

không chỉ vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn

chiến thắng chính cá nhân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh

khỏi hẩm hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu

đựng vì sự vĩnh hằng của Tổ quốc.

1.1.1.2.2. Về hình thức

Về phương diện thi pháp thể loại, các tác phẩm trường ca hiện đại có yếu

tố tự sự trong kết cấu tác phẩm đó là quá trình thơ trữ tình mở rộng với chức

năng xã hội - thẩm mĩ. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, mô hình

quen thuộc là có cốt truyện cho các nhà thơ khi đến thể loại trường ca. Có thể

kể tên các tác phẩm như: Bài ca chim chơ rao (Thu Bồn); Theo chân bác của

(Tố Hữu); Con đường của những vì sao (Nguyễn Trọng Tạo)...yếu tố tự sự,

nhân vật đồng thời có cả tính lịch tính trong các trường ca. Cuối những năm

kháng chiến chống Mĩ, vào những năm tháng tiếp theo, trường ca phát triển

mạnh mẽ và không còn yếu tố tự sự là chính. Trường ca giai đoạn này rất đa

dạng và phong phú về các yếu tố: tự sự, trữ tình và chính luận. “Các trường

ca dạng này thường được chia thành nhiều chương, khúc mà mỗi chương có

thể được đặt tên. Mạch liên kết của các chương là mạch triển khi của chủ đề

mang tính chính luận trữ tình”. Các trường ca giai đoạn này chúng ta không

thể không kể tên trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh; Ngày đang

mở sáng của Trần Anh Thái....

Vào những năm sau 1975, quá trình vân động của thể loại kết cấu trường

ca càng lỏng lẻo; kết cấu lấy tư tưởng - cảm xúc trữ tình làm chỗ dựa ngày

càng được các nhà thơ vận dụng và phát huy.

Vô hình chung các tác giả có những cách sáng tạo riêng của mình để lựa

chọn những sự kiện, kết cấu phối hợp đan xen nhiều hình thức khác nhau

trong một tác phẩm từ đó đem lại hiệu quả nghệ thuật cao ở mỗi tác phẩm.

Sau này các tác giả sử dụng đan xen nhiều kiểu kết cấu, nhiều giọng điệu,

9

nhiều phương thức thể hiện trong một tác phẩm đã tạo nên khối lượng đồ sộ,

nội dung hoành tráng cho trường ca, đồng thời đây cũng là đặc trưng của

trường ca. Nhờ sự đa dạng phong phú về hình thức kết cấu đã đem lại cho

trường ca sự phát triển vượt trội so với kết cấu của các tác phẩm thơ ca khác.

1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc

Trường ca hiện đại Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn đầu từ 1900 cho đến 1945, với tác phẩm trường ca Tiếng địch

sông Ô của Phạm Huy Thông trường ca đã xuất hiện trong phong trào thơ

Mới (1932 - 1945). Đó là một khúc anh hùng ca về tiếng địch Trương Lương

làm xao lòng khách anh hùng. Ở thời kì này trường ca Việt nam đã ảnh hưởng

không ít trường ca của Phương Tây. Có những bài ca dài bất hủ hay cả âm

nhạc đều lấy đề tài kháng chiến như: Trường ca Người Hà Nội (Nguyễn Đình

Thi), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận)... Lúc này trường ca ra đời phục vụ

nhiệm vụ chính trị nhưng nó cũng tiếp nối nguồn gốc sử thi anh hùng ca cổ

điển của các dân tộc Việt như sử thi Mường (Đẻ đất đẻ nước), các truyện thơ

Tày - Nùng - Thái (Chàng Lú nàng Ủa)...

Giai đoạn thứ hai, từ 1945 đến 1975 thời kì kháng chiến chống Mĩ, mấy

năm đầu trường ca hiện đại không có mấy tác giả sáng tác đồng thời số lượng

tác phẩm không nhiều, sự xác định giữa trường ca với thơ dài cũng chưa rõ

ràng. Các tác giả tiêu biểu như: Xuân Diệu với Ngọn Quốc kì, Thu Bồn với

Bài ca chim chơ-rao (1963) Giang Nam với Người anh hùng Đồng Tháp

(1968)... Nhìn chung, các tác phẩm trường ca trên đã cho thấy được một số sự

việc tiêu biểu, nhân vật tiêu biểu trong giai đoạn chống giặc ngoại xâm Pháp,

Mĩ. Phải chăng, trường ca giai đoạn này chưa có tầm bao quát và chất lượng

nghệ thuật chưa cao.

Giai đoạn thứ ba, từ sau 1975 đến nay trường ca lúc này đang phát triển

mạnh và có những thành tựu đáng kể. Đề tài chính của trường ca giai đoạn

10

này là đề tài chiến tranh với cảm hứng của thời đại và vốn sống phong phú

của các tác giả tích lũy những năm tháng nơi chiến trường. Chúng ta không

thể không thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như: Những người đi tới biển

của Thanh Thảo (1976), Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh (1977), Sông

núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Trường ca Biển của Hữu Thỉnh (1994)...

Sau chiến tranh những bản trường ca có những bước tiến rõ rệt về cả

chất lượng và số lượng. Nhìn chung các bản trường ca là sự trải nghiệm của

chính cá nhân sáng tác đã có cái nhìn toàn diện về cuộc chiến tranh. Khi đất

nước hòa bình, các tác phẩm trường ca có nội dung phong phú hình thức đa

dạng. Khuynh hướng triết lí, với giọng điệu cắt nghĩa, biện giải và xây dựng

các biểu tượng mang tính biểu trưng … là những đặc điểm của trường ca giai

đoạn này.

Trường ca Việt Nam hiện đại đã có con đường phát triển riêng và trải

qua các giai đoạn mà trường ca tự hoàn thiện và đạt độ hoàn chỉnh của nó

cùng với các thể loại khác trong nền văn học dân tộc.

1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh

1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh (sinh 15/2/1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ

Hữu, là một nhà thơ Việt Nam. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm

1976, Hữu Thỉnh hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (3 nhiệm kỳ liên

tiếp) đồng thời kiêm nhiệm Tổng biên tập Báo Văn Nghệ.

Ông sinh ra tại và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học,

tuổi thơ ấu ông đã trải qua không ít những khó khăn: 6 năm với bác ruột, 10

tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp.

Năm 1954, hòa bình lập lại ông mới được đến trường.

Năm 1963 ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người

lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động

11

như học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm

cán bộ tuyên huấn. Ông tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua hầu khắp

các chiến trường máu lửa như Đường 9

Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du và là một trong

số những học sinh khóa đầu tiên của trường.

Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng

ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt

Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành

Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3.

Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách cao Phó Tổng Thư ký

Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn

Việt Nam). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Tháng 5 năm 2016, ông được trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu

Quốc Hội Việt Nam khóa XIV (2016-2021) ở đơn vị bầu cử số 3 thành

phố Hà Nội gồm các quận Hà Đông, Thanh Xuân và Cầu Giấy nhưng không

trúng cử.

1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh

1.2.2.1. Quá trình sáng tác của Hữu Thỉnh

Ông là nhà thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ, đề tài chủ yếu của

ông đề tài chiến tranh, người lính và cuộc sống thôn quê. Sáng tác của ông

chia làm hai giai đoạn :

a, Giai đoạn trước 1975

Thơ của ông gieo trong lòng người đọc, một tiếng thơ trong sáng và độc

đáo. Có được đóng góp đó Hữu Thỉnh tìm cho bản thân phong cách riêng

không nhà thơ nào có được. Ở giai đoạn này ông đã khai thác và tiếp cận hiện

thực theo tình cảm của chính mình. Thơ ông nghiêng về những suy tư và triết

12

lí, không những thế Hữu Thỉnh còn có cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời.

Phải chăng, sự từng trải của cuộc đấu gian khổ mà ông đã từng trải nên những

trang thơ của ông là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống là tiếng ngân vang

của một thời bom đạn. Với hình tượng người lính ông đã ghi nhận và cho ta

thấy được cái hiện thực khốc liệt nơi chiến trường bằng những vần thơ giàu

nhiệt huyết và trẻ trung. Các tác phẩm trong giai đoạn này :

Tiếng hát trong rừng (1974)

Sau trận đánh (1972)

Đêm chuẩn bị (1974)

Tắm mưa (1969)

Giấc ngủ trên đường ra trận (1965)

b, Giai đoạn sau 1975

Thời kì sau chiến tranh, Hữu Thỉnh viết dưới lăng kính chủ quan của con

người ông đi qua những năm tháng nơi chiến trường khốc liệt và ông có cái

nhìn nhận, hiện thực cuộc chiến một cách toàn diện. Ông đã gửi gắm vào

những trang thơ đầy suy tư và trăn trở về số phận con người đầy giông tố của

cuộc đời. Như vậy, Hữu Thỉnh tìm được tiếng nói riêng của mình trên văn đàn

văn học nước nhà. Các tác phẩm trong giai đoạn này:

Sang thu (thơ 1977)

Âm vang chiến hào (thơ, in chung 1975);

Đường tới thành phố (trường ca, 1979);

Từ chiến hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn, 1985);

Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung, 1985);

Thư mùa đông (thơ, 1994)

Trường ca biển (trường ca, 1994)

Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998)

Sức bền của đất (trường ca, 2004)

13

Thương lượng với thời gian.(thơ, 2005)

Mùa xuân trên tháp pháo(bút kí, truyện ngắn, 2009)

Lí do của hi vọng (tiểu luận, phê bình, 2010)

Ngoài ra Hữu Thỉnh còn viết nhiều bút kí văn học, viết báo.

Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng chúng

tôi nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Điều đáng khâm

phục, kính lể, của tác giả đối với nhà thơ Hữu Thỉnh là ông đạt được

nhiểu giải thưởng cao trong nền văn học nước nhà.

1.2.2.2. Phong cách thơ của Hữu Thỉnh.

Mỗi người cầm bút đều có những phong cách sáng tác riêng tạo ra những

nét độc đáo mà không có nhà thơ nào có được. Hữu Thỉnh cho rằng làm thơ

trước hết là ghi chép những gì đang xảy ra trong cuộc đời mình “chúng tôi

làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”. Trên đường hành quân đầy gian nan, thử

thách người chiến sĩ - nhà thơ Hữu Thỉnh đã không quên ghi lại những giây

phút, “những khoảnh khắc một đi không trở lại” nơi chiến trường khốc liệt.

Ông cho rằng: “chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất, ở đó lịch sử

chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa là say

mê của chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử sức lâu

dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu sống hết mình trong

thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm bút trung thực. Thơ ca

của thế hệ chống Mĩ là tiếng nói sống động và tự tin của những người trong

cuộc. Người ta bắt gặp rất nhiều trường hợp nhân danh, nhưng mọi sự nhân

danh đều là sự cảm thông của người đọc vì nó đảm bảo bằng chỗ đứng của

người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng máu” [16]. Dường như, những vần

thơ, trang thơ của Hữu Thỉnh là trang nhật kí vừa đầy đủ, vừa chân thực hơn

của chính người chiến sĩ khỏe khắn, hiên ngang trực tiếp cầm súng ra chiến

trường đồng thời cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời

mình ở thời điểm rất đặc biệt ấy:

14

“Gạo chỉ đem mười ngày còn dành mang súng

Còn mang thuốc

Còn mang nhau

Mang bao nhiêu tai biến dọc đường

Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn

Chúng tôi dành mang đạn trước tiên

Không có sách chúng tôi làm ra sách

Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.”

(Đường tới thành phố)

Qua thơ ca của Vũ Hữu, cuộc sống ở chiến trường đã hiện lên với dáng

vẻ sinh động và chân thật nhất. Không phải nhà thơ là người đứng ngoài

tưởng tượng ra chiến tranh mà thực sự tác giả đang đứng chiến đấu ở giữa

chiến trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ

của Hữu Thỉnh để cho ra đời những hình ảnh thơ trong sáng, phong phú,

mang đậm tính dân tộc.

Thơ ca sẽ là đôi cánh giúp cho người lính quên đi những nghiệt ngã

trước mắt, hướng đến ngày mai tương sáng hơn. Là nhà thơ cầm súng Hữu

Thỉnh đã thấm thía câu thơ đó một phần nào đó, nhất là thơ ca kháng chiến.

Phải chăng, thơ ca cũng là món ăn tinh thần của mỗi chúng ta, là “ngọn

lửa sưởi ấm trái tim mình”, “Thơ là bữa tiệc của tâm hồn” .Hiện thực chiến

trường thật là khốc liệt người lính sẽ gục ngã trước hiện thực nếu không có

“tiếng hát át tiếng bom”, và dù không có tiếng hát thì thơ chính là nơi chiến sĩ

trẻ gửi gắm một niềm tin, một tâm sự hay đôi khi chỉ là một cảm xúc rất đỗi

bình thường nhưng cũng rất tinh tế:

“Chúng tôi sưởi những câu thơ ấy

Cứ thế đi qua nhiều mùa mưa”.

(Đường tới thành phố).

15

Không chỉ vậy, Hữu Thỉnh còn cho rằng thơ là sự “nhập cuộc, dấn thân”

“chắt lọc kinh nghiệm”. Điều đó, bạn đọc dễ dàng nhận thấy thơ ông “ngồn

ngộn cuộc sống”. Làm thơ chính là cách tốt nhất để tác giả Hữu Thỉnh “ghi

lại” khoảnh khắc, âm thanh, sắc màu đa dạng của cuộc sống giản dị đời

thường. Đó cũng làm nên phong cách thơ Hữu Thỉnh. Thơ ông ảnh hưởng của

văn học dân gian đã giúp thơ ông có nét gần gũi độc đáo so với các nhà thơ

cùng trang lứa. Đối với ông cội nguồn là truyền thống, luôn là nơi ông tìm về,

là nguồn sống tạo nên bản sắc thơ ca của ông. Tìm cái lớn lao trong cái nhỏ

bé tầm thường, mộc mạc đơn sơ trong cái kì diệu ... Đây cũng nét riêng nổi

bật chỉ có Hữu Thỉnh mới có đồng thời cũng là phong cách sáng tác thơ ca

của ông.

16

Chƣơng 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG TRONG TRƢỜNG CA

ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH

2.1. Hiện thực chiến trƣờng

2.1.1. Sự khốc liệt nơi chiến hào

Trường ca Đường tới thành phố của nhà thơ Hữu Thỉnh được ra đời năm

1977. Tác phẩm tái hiện lại cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, cứu nước

của dân tộc ta ở thế kỉ XX.

Từ trong chiều sâu tác phẩm, những giá trị nhân văn, triết lí đánh giặc và

thắng giặc mang đậm nét truyền thống Việt Nam, phản ánh sức mạnh tổng

hợp Việt Nam.

Một giai đoạn văn học, một thời đại văn học, một nền văn học có thể sản

sinh ra hàng trăm hàng nghìn nhà thơ, nhưng định hình được một giọng điệu

riêng, khẳng định được một thi pháp nổi trội, đặc trưng thì không nhiều.

Đường tới thành phố in dấu “vân chữ” Hữu Thỉnh, minh triết Hữu Thỉnh.

Ông sáng tạo ra một loại thơ tích hợp “vi ngữ và vĩ ngữ”. Gorky nói, cái dằn

vặt lớn nhất ở trên đời là dằn vặt về ngôn ngữ. Nhiều câu thơ của Hữu Thỉnh

đạt đến độ tinh tế:

“ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi

Dòng Nậm Khìn từ bên Việt chảy sang

Thèm vỏ sắn lật mình trôi dưới đáy

Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi

Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc”

“...Có người chỉ huy từ lứa chúng tôi lên

Góp cho đất nước nhiều vầng trán

Một buổi sáng chẳng có gì to tát

Con ve kêu úp mặt vào cây.”

“Anh lớn lên đâu biết trước một ngày

17

Ngồi nhặt sấu dưới vòm cây sốt rét

Nắng kí ninh rải rác dọc rừng thưa

Thèm trăm thứ nhưng đồng bằng thèm nhất.”

(Đường tới thành phố)

Ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ được ông tích hợp rồi chắt lọc ra từ trải

nghiệm văn hoá, lịch sử, bản thân, đồng đội, dân tộc, xương máu, tình yêu,

hạnh phúc. Người viết thả lỏng bút pháp. Người đọc bị cái tinh tế của ngôn

ngữ dẫn đi, bị cái nhuần nhuyễn của ngôn ngữ mê dụ.

Tác phẩm Đường tới thành phố của ông hiện lên rõ những người lính

chiến đấu anh dũng, giành lại từng gang đất trong tay kẻ xâm lược. Bởi chúng

ta có tinh thần yêu nước nồng nàn từ ngàn năm để lại thế nên một dân tộc nhỏ

bé, thua kém về mọi mặt: kinh tế, trình độ khoa học kĩ thuật. Nhưng chúng ta

vẫn đánh thắng được một kẻ hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ - Đế quốc

Mĩ. Chẳng phải ngẫu nhiên Hữu Thỉnh viết cuộc chiến tranh -giai đoạn cuối

“thần tốc”. Trong những thời khắc quan trọng ấy, tinh thần cao độ, sức mạnh

Việt Nam được tác giả khắc họa rõ nhất trong trường ca của mình. Hiện thực

mà tác giả khắc họa ở chiến trường chính là con đường mà những người lính

phải hành quân - nó trở thành biểu tượng trong tác phẩm trường ca. Con

đường đi vào văn chương không chỉ ý nghĩa là con đường tự nhiên - lối đi

được tạo ra để nối liền với các địa điểm. Với thơ cách mạng đó là cuộc hành

trình gian khổ của người lính, dân tộc là con đường về nhà đồng thời cũng là

con đường đến với cách mạng. Dường như hình ảnh con đường được tác giả

nhắc nhiều nhất trong tác phẩm. Dĩ nhiên, nó có cơ sở hiện thực. Bởi trong

chiến tranh, con đường gắn với cuộc hành quân, gắn với đường ra mặt trận

nối liền giữa tiền tuyến và hậu phương... Như vậy, con đường chính là nơi

gặp gỡ ghi lại những gian khổ thấm bao nhiêu nước mắt và máu của đồng đội.

Nếu trường ca Nguyễn Đức Mậu là hình ảnh con đường gắn với dấu

chân: “Dấu chân đi đủ khép một vòng đời” đó là hành trình gian khổ thử

18

thách của người lính, hành trình hiện thực nhất từ chiến trường này sang chiến

trường khác bằng những đôi chân, những trận sốt rét đói khổ. Thì trong

trường ca của Hữu Thỉnh hình ảnh con đường chạm nét hiện thực, chân thực

nhất. Trong chiến tranh con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch của

cuộc chiến đấu dân tộc, con đường đó phải gánh chịu không biết bao nhiêu

mưa bom bão đạn của kẻ thù. Con đường ấy đã đi vào trong thơ ca kháng

chiến của các nhà thơ giai đoạn đó. Đối với Hữu Thỉnh hình ảnh đó không

nằm ngoài thơ của ông mà nó hiện ra một cách chân thực nhất với bao nhiêu

gập ghềnh khúc khủy, ngổn ngang mùi bốc cháy bởi bom đạn của kẻ thù:

“Đường ngổn ngang đường đất còn khét cháy” (Tiếng hát trong rừng).

Chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh con đường 30/4 và con đường mang tên Bác

- Đường Hồ Chí Minh trong trường ca Đường tới thành phố. Những con

đường đi vào trang sử của dân tộc, đó là mốc con, bước ngoặt đánh dấu vững

vàng của dân tộc. Song, thiêng liêng và cao cả hơn trong trường ca nói riêng

và trong văn học nói chung hình ảnh con đường là con đường cứu nước, con

đường tìm lí tưởng cách mạng, con đường cao cả mà dân tộc ta đã lựa chọn.

2.1.2. Sự gian khổ, hi sinh

Hữu Thỉnh là một nhà thơ nhạy bén và sắc sảo với súng đạn, khói lửa

của chiến tranh. Ông đã kịp ghi lại những gì cần cho thế hệ mai sau. Những

bản trường ca của ông như hành khúc của đoàn quân Nam Tiến một thời. Ông

có Đường tới thành phố với rầm rập những binh đoàn ra chiến trận người

lính, những người mẹ, người vợ... đó là nhân dân. Để rồi còn lại gì khi ta đúc

rút một giá trị khi cảm nhận thể loại trường ca của Hữu Thỉnh. Đọc trường ca

Hữu Thỉnh, ta thấy được một thế giới những hình ảnh rất thực. Đó là hình ảnh

thật của chiến tranh nơi chiến trường khốc liệt, là hình ảnh nhân dân ta với

những sự hi sinh đầy gian khổ nhưng cũng hết sức anh dũng. Hiện thực của

sự mất mát, hi sinh đó là gì? Đó là sự hi sinh gian khổ gian khổ tột cùng mà

người trong cuộc mới hiểu được hết:

19

“ Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm

Có chiến đài bốn bin, có đôi dài cao cổ

Mỗi tuổi quân chịu sáu tháng mưa rừng.”

(Đường tới thành phố)

Người chiến sĩ đã trải biết bao cuộc hành quân trên rừng núi: “Mưa

trơn quá chân tuột ra khỏi dép” và còn biết bao nỗi đau theo họ suốt cuộc

đời “hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo” cùng những cơn sốt rét

rừng đeo đuổi:

“Mưa tối mặt áo quần dán chặt

Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi.”

(Đường tới thành phố)

Nếu như trong thơ Chính Hữu, người lính hiện lên với bao nhiêu vất vả

khó khăn thiếu thốn “Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá” ... thì người

lính trong thơ Hữu Thỉnh được phác họa trong tận sốt rét rừng “xoắn cả làn

môi”. Những cung đường hành quân các anh chiến sĩ phải đội cả trận mưa

rừng mà đi không những thế mà vượt qua những địa hình nguy hiểm, khó

khăn trèo đèo, lội suối. Có biết bao nhiêu người lính phải bỏ lại thân mình sau

những cuộc hành quân.

Đồng thời những người lính phải đối diện trận mưa bom, bão đạn của kẻ

thù mà phải gồng mình chịu đau thương:

“Xạ thủ trung liên

Nốt ruồi đen chìm xuống

Lưỡng quyền cao khói sáng cao lên

Sau loạt bom vùi

Anh gặp toàn lính mới.”

(Đường tới thành phố)

Câu thơ đem đến cho người đọc một cảm giác ớn lạnh và gai người. Mọi

người hãy tưởng tượng xem, sau một trận chiến đồng đội đều hi sinh, chỉ còn

20

riêng mình ta. Đây là sự hi sinh, mất mát quá lớn không gì có thể bù đắp

được. Những giây phút ấy càng tang thương, đau thương bấy nhiêu thì tình

đồng chí, đồng đội càng gắn bó bấy nhiêu. Dù gian khổ, hi sinh nhưng các thế

hệ vẫn luôn sẵn sàng ra trận bảo vệ hòa bình của đất nước. Chính những khó

khăn ấy đã hun đúc tinh thần ý chí nghị lực, với sức mạnh phi thường, chất

thép trong con người của các chiến sĩ đã chiến thắng kẻ thù cho dù chúng

mạnh đến nhường nào.

Sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ lái xe tăng, với hình ảnh “nắm cơm

cháy” trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh:

“Đen chỉ còn một nửa

Có dấu tay in lõm vào trong

Ngón tay bè của đồng chí lá

Các anh ăn nửa bữa trong ngày

Phần để dành

Làm ta day dứt mãi.”

(Đường tới thành phố)

Đây là một chi tiết đặc sắc giàu tình cảm và có sức lay động lớn đối với

độc giả.

Câu thơ chan chứa biết bao tình cảm nó như lời ăn tiếng nói hằng ngày,

đầy tâm sự mỗi khi đọc lên, chúng ta lại không khỏi trăn trở về những niềm

trắc ẩn. Kẻ thù không thể làm ta mềm yếu hay gục ngã, mà chúng chỉ có thể

làm ta già đi, đanh thép hơn, ngay trong nụ cười cũng chứa đựng bao nhiêu

dũng khí chiến đấu, bao nhiêu khát vọng tự do. Đâu chỉ những khó khăn, mất

mát hi sinh nơi mưa bom bão đạn chúng ta nhớ đến 10 cô gái ngã ba Đồng

Lộc. Những đau thương đó, những xót xa đó đã được chất chứa trong tiếng

thơ nghẹn ngào của nhà thơ Yến Thanh:

21

“Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang

Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp

Chín bạn đã quây quần đủ hết

Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh

A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh

Chỉ thiếu mình em

Chín bỏ làm mười răng được

Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc

Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng

Cúc ơi! Em ở đâu?...

…Gọi em,

Gào em

Khản cổ cả rồi

Cúc ơi!”

(Cúc ơi)

Các chị đã vĩnh viễn nằm xuống, song tên tuổi của 10 cô gái luôn gắn

liền với ngã ba huyết mạch Bắc - Nam và trở thành bất tử trong lòng dân tộc.

Khi nói đến hiện thực của chiến tranh, chúng ta không thể không nói đến

hình ảnh tội ác của kẻ thù - hình ảnh được coi là đối cực với nhân dân, với

chính nghĩa. Khung cảnh của núi rừng Trường Sơn đã gian khổ, đã ác liệt, kẻ

thù còn ác liệt tàn bạo hơn gấp bội lần. Và đây là sự đối đầu nguy hiểm nhất

đối với các chiến sĩ của ta. Với kẻ thù, Hữu Thỉnh đã nói lên bản chất độc ác,

tàn bạo và khét tiếng của chúng. Vì đó là sự thật mà nhân dân ta, tổ quốc ta đã

phải chịu đựng:

“Vết dầu loang đến “tằm ăn rỗi”

Lại thám báo dò đường, B52 dọn bãi

Lại dọn đường, dọn bãi tới lui

22

Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép

Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim

Ủi rồi lấp

Bằng chính đất mà chúng tôi vừa chiếm được”

(Đường tới thành phố)

Như vậy, chúng ta thấy được Hữu Thỉnh cũng như nhiều nhà thơ khác

cùng thời khi viết về trường ca không hè né tránh sự thực: Hữu Thỉnh đã săn

đuổi hiện thực đến cùng, dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh với đầy

đủ các gam màu nơi chiến trường mà nguời lính đã tham gia chiến đấu với

bao gian nan, thử thách. Đồng thời nói lên số phận con người đã hi sinh nơi

chiến trường được Hữu Thỉnh đã tái hiện một cách đa chiều và rất sâu sắc.

Những khó khăn thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần, đặc biệt là những

mất mát hi sinh, tổn thất trên chiến trường nhưng con người vẫn đầy quyết

tâm và nghị lực chiến đấu... tất cả đã được Hữu Thỉnh tái hiện một cách chân

thực, và đầy đủ trong trường ca Đường tới thành phố. Nó như một thước

phim quay chậm để cho thế hệ sau cảm nhận rõ hơn về cuộc chiến tranh thần

thánh của người Việt.

2.2. Hiện thực cuộc sống đời thƣờng

2.2.1. Đời sống cộng đồng

Chưa trường ca nào trước “Đường tới thành phố” có “sức mạnh tổng

hợp chiến tranh nhân dân”, lòng yêu nước nồng nàn, quật khởi, tự giải

phóng, được xây dựng, phản ánh sinh động, trung thực, thể hiện sâu sắc, tự

nhiên, toàn diện, tràn ngập niềm lạc quan của một cuộc chiến tổng lực như

“Đường tới thành phố”:

“Giặc đến

Người ốm chống giường, chống phản đứng lên

Trẻ con vơ tro vơ cát đứng lên

23

Người đang ăn thì cầm lấy đũa

Người đi gặt thủ lấy chuôi liềm

Không quay mặt, chẳng bao giờ tiếc máu”;

(Đường tới thành phố)

Tinh thần quyết tâm đánh giặc ấy không chỉ sục sôi ở những lính trực

tiếp xông pha trong trận chiến với kẻ thù mà ở trong huyết quản của mọi

người con yêu nước Việt Nam: từ người ốm đến trẻ nhỏ đến mọi người dân

bình thường khác. Đó là cả một dân tộc đồng lòng quyết chiến với kẻ thù với

tất cả những gì mình có, với một tinh thần quả cảm, không ngại hi sinh:

“Cửa hầm trông ra sáu bậc cầu ao

Những sơ đồ chị gói làm nhân bánh

Giặc hành quân: Nhìn khăn mẹ trên đầu”.

(Đường tới thành phố)

Chính cuộc chiến sáng chói tinh thần đoàn kết dân tộc ấy đã khiến kẻ thù

tàn bạo, man rợ, hùng mạnh, điên cuồng bậc nhất thế giới thất bại nhục nhã,

cay đắng:

“Lá cờ 50 ngôi sao

Cuộn thành một tổ sâu

Nước Mỹ ra đi với một khuôn mặt héo”.

(Đường tới thành phố)

Tinh thần đoàn kết dân tộc được biểu dương cao:“thà hy sinh tất cả chứ

nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Lời Hồ Chủ Tịch)

ngẩng cao đầu chiến thắng:

“Cờ bay lộng trên nóc dinh độc lập

Những cánh quân sum họp những chân trời”.

(Đường tới thành phố)

Trong mạch cảm hứng chung hướng về nhân dân vừa gần gũi vừa thiêng

liêng khi dân tộc bị đế quốc xâm lược, trường ca của Hữu Thỉnh đã xây dựng

24

hình tượng nhân dân trong hoàn cảnh nguy nan để thấy sức mạnh phi thường

và ý chí của cả dân tộc. Với số phận thầm lặng, những con người biết chịu

đựng và biết hi sinh đó chính là nhân dân chứ không ai khác:

“Suối cứ thế âm thầm nuôi biển lớn

Cứ âm thầm chảy xiết với thời gian”

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh “suối” chính là tượng trưng cho sự âm thầm, nhẫn nại, cần mẫn

của nhân dân góp phần tạo dựng Tổ quốc. Nhân dân Việt Nam với bản chất

“bao dung tin vào nhân nghĩa” nhưng lại trải qua những năm tháng đau

thương trong bom đạn. Chính những năm tháng đau thương đó, hình ảnh nhân

dân lại hiện lên bao dung vĩ đại. Nhân dân được hiện lên trong trường ca Hữu

Thỉnh vói “tấm lá chắn diệu kì” nhận về mình bao nhiêu gian khó để che chở,

đùm bọc, nuôi dưỡng cách mạng lí tưởng cộng sản.

“Ôi nhân dân tấm lá chắn diệu kì

Người nhận mọi vết xăm cho căn hầm nguyên vẹn”

(Đường tới thành phố)

Nhân dân - những con người giản dị, bình thường nhưng lại mưu trí,

dũng cảm từ kinh nghiệm chuyện làm ăn biến thành vũ khí đánh giặc. Rồi

trước âm mưu đồng hóa của kẻ thù, nhân dân không cam chịu, không đồng

thuận theo âm mưu đó, họ vẫn giữ nguyên bản chất của mình với lòng tự tôn

dân tộc sâu sắc:

“Vẫn nguyên vẹn nhân dân

Răng hạt lựu vẫn không cam đồng hóa

Đắng chát cũng tìm cánh kiến, cây sim

Mưu trí lấy từ câu chuyện làm ăn

Thành vũ khí theo người đi sứ

Sách bị đốt vẫn còn nguyên tiếng mẹ

Đã bao lần đóng cọc giữ bờ ao”

(Đường tới thành phố)

25

Những vần thơ rất đỗi chân thành đầy xúc động trên được viết ra với một

ý thức sâu sắc về vị trí cao quý của nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử dân

tộc, với một tình cảm giản dị, gần gũi và rất đời thường. Nhân dân - người

thâm trầm, tinh anh sâu sắc nhưng khi quân xâm lược xâm chiếm quê hương,

người giành giật, chiến đấu với kẻ thù đến cùng.

Qua hình tượng nhân dân trong trường ca Hữu Thỉnh, ta thấy hiển hiện

một dân tộc Việt Nam bất khuất kiên cường, anh dũng, đoàn kết đấu tranh đến

cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2.2.2. Đời sống cá nhân

Chiến tranh là nỗi ám ảnh của cả nhân loại với sự hủy hoại cuộc sống

bao nhiêu thì mỗi cá nhân chúng ta phải vượt qua gian nan bấy nhiêu để hòa

chung với cộng đồng làm lên chiến thắng vang dội khắp năm châu. Bằng

những vần thơ hết sức cô đọng, cảm động và ám ảnh. Hữu Thỉnh đã cho ta

thấy sự tàn khốc của chiến tranh mà mỗi cá nhân hay chính bản thân người

lính phải gánh chịu. Bản thân mỗi cá nhân chúng ta thấy rõ được sự tinh vi

hiện đại trong trang bị kỹ thuật của địch, nhưng thay vì trầm trồ thán phục, và

hiểu được chặng đường phía trước đầy gian nan, thử thách cũng như cá nhân,

anh chiến sĩ không hề ngần ngại vượt qua:

“Khẩu súng trường tinh vi và ngắn lại

Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm.”

(Đường tới thành phố)

Các trường ca của Hữu Thỉnh không chỉ đề cập đến những mất mát hy

sinh của dân tộc ta mà còn tập trung đến con người cá nhân. Chiến tranh đã

qua, cùng với vấn đề dân tộc, đó là con người cá nhân trở thành đối tượng

được các nhà thơ quan tâm nhiều hơn. Hạnh phúc cá nhân của con người

được đặt ra đầy sức ám ảnh; con người còn lại được gì sau chiến tranh? Hình

ảnh những người dân tội nghiệp, đói rách đi tìm miếng ăn thực sự làm người

đọc ám ảnh:

26

“Người đi mò trai chết bởi thuồng luồng

Chết vì rắn mới nhận ra rắn độc ..

Cha mẹ đi tìm miếng ăn

Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt

Tìm thấy miếng ăn

Quay về Con đã chết

Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng..

Tiếng hú bật ra vụt tắt ngang chừng.”

(Sức bền của đất)

Câu thơ gieo vào trong lòng độc giả một sự đắng chát bởi cuộc đời khó

nhọc của người dân. Bằng tất cả những trải nghiệm của chính mình, Hữu

Thỉnh đã tự cảm nhận được hiện thực lúc bấy giờ khiến người trong cuộc

cũng như độc giả không khỏi giật mình xa xót: “Đất chiến trường mau ướt lại

mau khô.”“Mau ướt” và “mau khô” đây chính là “máu” của những người

chiến sĩ nơi chiến trường. Với sự mất mát và đau thương của người lính, cá

nhân trong cuộc sống đời thường không khỏi suy ngẫm và trăn trở. Câu thơ

trên như một chân lý mà ở thời đại nào thì “máu người” cũng không bao giờ

có thể là “nước lã”. Dường như đó là cái giá chúng ta đã phải trả để có một

đất nước hòa bình độc lập:

“Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả

Cứ đói ròng con gái hóa con trai.”

(Đường tới thành phố)

Trải qua bao gian khó, bởi vậy mỗi cá nhân không một chút ngần ngại khi:

“… thêu trên ngực áo của mình

Họ tên, đơn vị

Người ta tìm áo để báo tin cho mẹ

Đến cái chết đã chẳng cần giấu giếm

Trái tim anh càng đập ngang tàng.”

(Đường tới thành phố)

27

Qua trường ca“Đường tới thành phố”, tác giả đã viết về những cá nhân

đã bỏ mạng sống của chính mình nơi chiến trường. Tuy nhiên, Hữu Thỉnh chỉ

thoảng qua những giây phút hi sinh đó chứ không đề cập nhiều, đề cập kĩ.

Thay vào đó, tác giả thể hiện rõ nét về những tâm tư cá nhân, những ước mơ

của họ nhiều hơn. Chính vì thế mà cái chết của họ khiến người đọc không

khỏi xót xa, day dứt.

Có lẽ cả “anh”, cả Hữu Thỉnh và cả độc giả đều không rõ “tác giả” của

phát súng oan nghiệt làm “anh” phải ngã xuống là ai. Hữu Thỉnh cũng không

tiếp tục phản ánh thêm mà chỉ dừng lại tại đây. Tưởng như hạnh phúc đã nắm

chắc trong tầm tay, ấy vậy mà anh lại ra đi. Cái chết dường như hết sức phi lý

đó càng làm cho nỗi đau con người không có nút tháo gỡ. Cũng giống như sự

đau đớn của cánh cò trong những vần thơ Vũ Hữu viết sau đó:

“Hãy vạch mặt những thằng bắn lén

Sóng đang gầm ngoài vịnh Văn Phong

Hãy vạch mặt những thằng bắn lén

Cánh cò bay sấp ngửa trên đồng.”

(Đường tới thành phố)

Sự hy sinh hết sức phi lý của người anh trai mình còn được tác giả thể

qua tác phẩm nổi tiếng “Phan Thiết có anh tôi”:

“Cánh rừng còn kia trận mạc còn kia

Vài bước nữa thì tới đường số Một

Vài bước nữa

Thế mà

Không thể khác

Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi”.

(Phan Thiết có anh tôi)

Chiến tranh đã đi qua nhưng để lại không biết bao hậu quả mà con người

ngày ngày vẫn phải gánh chịu nỗi đau của cuộc chiến đó. Và chính con người,

28

những nạn nhân đau khổ của chiến tranh sẽ phải gánh chịu những tất cả

những hậu quả nặng nề, đau đớn. Mỗi cá nhân đã chịu những hi sinh đổ máu,

những thiệt thòi mất mát, những bi kịch, những cảnh đời trớ trêu và những vết

thương không thể hàn gắn của con người. Qua đó, độc giả thấy rõ được khốc

liệt của chiến tranh, hiện thực đau thương mất mát về một thời đã qua, tinh

thần bất khuất “bi mà không lụy” của cá nhân nói riêng và những người lính

nói chung . Qua đó còn thể hiện tinh thần của mỗi cá nhân với sự đoàn kết

dân tộc đó là ý chí sắt đá, kiên cường và sự quyết tâm bảo vệ đất nước, giữ

vững độc lập tổ quốc của mỗi con người Việt Nam.

29

Chƣơng 3. CON NGƢỜI TRONG TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH

PHỐ CỦA HỮU THỈNH

3.1. Ngƣời lính

3.1.1. Người lính nơi chiến trường

Đề tài chủ yếu trong sáng tác của Hữu Thỉnh là hình tượng người lính trên

chiến trường, ông có cái nhìn mới mẻ độc đáo trên những trang thơ của ông:

“Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao

Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá

Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó

Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu”.

(Tiếng hát trong rừng)

Thì người đọc hiểu rằng, “Trường Sơn vẫn là cái nôi nghệ thuật dữ dội

khốc liệt và thơ mộng” [3, tr.51], Trường Sơn vẫn là mảnh đất của thi tứ, đặc

biệt ông cũng là người lính trên chiến trường đó nên ông hiểu hơn ai hết

những gian khổ nơi chiến hào. Có điều mảnh đất ấy lại có những cảm nhận

riêng qua nét khúc xạ của mỗi người; không bắt đầu từ những trận bom hóa

học những chuyến xe vận tải….mà bắt dầu từ bạn bè, đồng đội. Cảm hứng về

Trường Sơn dữ dội, khốc liệt bao bọc bởi tiếng hát vượt gian lao, lạc quan của

người lính.

Điểm gặp gỡ của mỗi người lính là ra đi bảo vệ quê hương, Tổ quốc, một

nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng nhưng cũng hết sức nặng nề. Hữu Thỉnh đưa

đến cho người đọc một cách nhận thức mới về Tổ quốc, không phải là những

gì lớn lao mà Tổ quốc có khi chỉ là một gốc sim cằn:

“Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ là gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?.”

(Đường tới thành phố)

30

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại nhắc đến hình tượng gốc sim 14

lần trong bài thơ. “Gốc sim cằn” - “Gốc sim bé nhỏ” chính là dấu mốc chủ

quyền ranh giới giữa địch - ta, bởi thế nó trở thành biểu tượng của tổ quốc .

Giữ lấy “Gốc sim cằn” cũng là giữ lấy vùng chủ quyền của dân tộc Việt.

Người lính nghĩ về cuộc chiến đấu trong chiều sâu của sự trải nghiệm:

“Ta nhạy cảm với trái tim chiến sĩ

Cuộc chiến đấu nên thơ mà cũng khắt khe thế

Để sống một nghìn năm ta gắng vượt một ngày”.

(Tiếng hát trong rừng - Đêm chuẩn bị)

Viết về người lính, Hữu Thỉnh ít tập trung miêu tả ngoại hình, vị Tư lệnh

tác giả cũng chỉ phác họa lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi; ông chủ yếu đi

vào khắc họa rõ nét vẻ đẹp, tâm hồn của người lính trên mặt trận:

“Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng

Quen nhớ nhà , quen hạt muối

Khúc dân ca hát đi hát lại”

(Tiếng hát trong rừng - Đêm chuẩn bị)

“Chẳng ai biết đã qua trăm trận đánh

Chỉ thấy như úp cá ở đâu về.”

(Tiếng hát trong rừng - Tắm mưa)

Người lính hiện lên qua vẻ đẹp khỏe khoắn nhưng cũng rất đời thường,

không ít lần các nhà thơ đã phác họa những giây phút lãng mạn của người

lính nào là đánh đàn , thổi sáo, làm thơ, … với góc nhìn của một người lính

Hữu Thỉnh đã ghi lại được những khoảnh khắc nên thơ:

“Các chiến sĩ đã lắc đầy bao gạo

Ngồi chia nhau một điếu thuốc rê

Cánh tay họ còn dính đầy bụi bám

Khói cứ là, cứ bổng, cứ như không.”

(Đường tới thành phố)

31

Bằng sự tài tình, khéo léo, tác giả đã kết hợp giữa tầm vóc cao cả và bình

dị, làm cho người lính trở nên thân thương gần gũi; xong trận đánh họ lại hồn

nhiên như trẻ thơ :

“Một số anh thì đuổi nhau trên cát

Một số anh thì đổ dế hái hoa

Các anh không nói nhiều về chiến thắng đã qua

Chỉ mong mưa cho đồng bằng gieo hạt.”

(Tiếng hát trong rừng - Sau trận đánh)

Sự khốc liệt của chiến trường không làm mất đi bản chất yêu đời của

người lính, có khi chỉ một tiếng chim thôi cũng được lọc qua trái tim nghệ

sĩ “tiếng chim ngon như ngụm nước lưng đèo”. Chính vì, ông có một trái tim

nhân hậu nên những người chiến sĩ rất dễ rung động qua những chi tiết nhỏ

nhất mà không phải ai cũng để ý:

“Đường ta đi gian khó chẳng mau quên

Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ.”

(Tiếng hát trong rừng - Giấc ngủ trên đường ra trận)

Nếu như Phạm Tiến Duật, là một cây bút hàng đầu của thơ ca chống Mỹ

đẫm chất giọng tinh nghịch, tếu táo thì Hữu Thỉnh vẫn nuôi cảm xúc

trong “âm chủ trầm lắng suy tư”. Trong chiến tranh, hy sinh mất mát là điều

khó tránh khỏi, Hữu Thỉnh có cách nhìn khác. Với người lính xe tăng:

“Có nắm cơm đã cháy thành than

Đen chỉ còn một nửa

Có dấu tay in lõm vào trong

Ngón tay bè của đồng chí lái.”

(Đường tới thành phố - Khúc ba: Thần Tốc)

Nếu không phải là lính thì Hữu Thỉnh không thể có cái nhìn chi tiết như

vậy. Sự nham hiểm của kẻ thù không phải là những trận càn quét, những

chiêu bài dụ hàng mà ở cái cách làm cho người lính chết khi đang còn sống:

32

“Họ tên anh, cả ngày tháng năm sinh

Giặc đánh cắp để loan tin báo tử.”

(Đường tới thành phố - Những người mới đến)

Sự đe dọa của “những lần hổ vồ”, “những lần voi đuổi”, “bữa canh nấm

độc cào gan… có lẽ chưa thể so sánh được sự độc ác như trên của kẻ thù.

Qua thơ Vũ Hữu, ta thấy nhà thơ thường tìm đến bản chất đích thực bên

trong của người lính, ở đó ông nhận ra rằng mỗi một người lính đều có một

đóng góp riêng để đi đến thắng lợi của dân tộc:

“… Cũng có thể anh giỏi toán kia sẽ thành một anh hùng

… Cũng có thể anh bị mù cả hai mắt

Sau cái giật nụ xòe lợi hại của anh.”

(Đường tới thành phố - Xuân 1975)

Chiến trường đã tôi luyện ý thức cho họ; nếu các tác giả khác miêu tả hy

sinh của người lính nhẹ nhàng như mới cày xong thửa ruộng; anh về đất..

Hữu Thỉnh tìm cách diễn đạt tự nhiên, giản dị của đời sống chiến trường:

“Các chiến sĩ đã quen bằng trận đánh

Quen hy sinh quen đột biến từng giờ.”

(Đường tới thành phố - Xuân 1975)

Điệp từ quen được nhà thơ sử dụng thật hiệu quả, qua đó để nhà thơ

khẳng định chính họ làm nên chiến thắng vang dội mùa xuân 1975 đưa nước

ta trở thành một nước độc lập, thống nhất.

Viết về đề tài người lính là một thử thách nghệ thuật của Hữu Thỉnh,

song với một hồn thơ “khỏe khoắn”, “giàu nội tâm” cộng với cách diễn đạt

“giản dị”, “tự nhiên”, ông đã góp phần bổ sung riêng vào đề tài người lính.

Đối với ông người lính ra trận không phải là người máy vô tri, họ là

những chàng trai cô gái tràn đầy tình yêu, nhiệt huyết, họ mang một trái tim

chất chứa yêu thương nhưng cũng mang cả trong đó sự kiêu hãnh, tự hào của

33

những người con của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục. Và trong

chiến tranh họ luôn có một tình yêu theo cách thể hiện riêng mình, khắc sâu

vào lịch sử văn học của đất nước.

Không phải ngẫu nhiên Hữu Thỉnh chọn câu thơ thay lời mở đầu:

“Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” Cuộc đời người chiến sĩ trong thơ

Hữu Thỉnh luôn có sự tự ý thức giành độc lập, bảo vệ tự do cho Tổ quốc, có

đầy đủ sự hào hùng cùng bi tráng mà những người lính - nhà thơ đã mang hết

sức mình chuyển tải vào những vần thơ để mãi muôn đời các thế hệ sau này.

3.1.2. Người lính trong cuộc sống đời thường

Sau những năm chiến tranh máu lửa, Vũ Hữu trở về đời sống thời bình.

Tuy nhiên niềm vui chiến thắng cũng không đọng lại lâu bởi những khó khăn

gian nan thử thách của một đất nước vừa đứng lên sau chiến tranh. Có lẽ trong

thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào suy tư, trăn trở những triết lí mới về cuộc

sống đời thường của mình - người lính. Đó là cuộc sống của người thường

nhật, trở về cuộc sống bình thường theo cách nhìn nhận về con người, về cuộc

sống cũng như là quan điểm cá nhân cũng có sự thay đổi, trở nên gần gũi với

những giá trị truyền thống:

“Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc

Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau

Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế”

“Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa

Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế”

(Nghe tiếng cuốc kêu)

Và có những bi kịch lặng thầm mà có lẽ không ai nghĩ đến trong những

tháng ngày chiến đấu gian nan:

34

“Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu

Cây đổ về nơi không có vết rìu

Ôi hoa tặng, chiều nay ai giẫm nát

Mưa dập vỡ trên đường em trở gót”.

(Tự thú)

Tác giả đã cho thấy được bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực

tiễn cuộc sống và lí tưởng một thời; khát vọng về cuộc sống tươi đẹp, hạnh

phúc căn bản không thể ngăn nổi sự thực phũ phàng....

Hay như trường ca “Ru xanh áo lính”của Tô Nhuần sau chiến tranh người

chiến sĩ ấy lại phải đối mặt với đời thường đó là một thử thách, một thực tế khác

nhìn bề ngoài có vẻ bình yên nhưng trong lòng sôi sục “đổ máu, day dứt”:

“Người lính trở về đối mặt

Quê nghèo còn lắm gian nan

Biết bao thói đời đen bạc

Len lỏi giữa nơi xóm làng.”

(Ru xanh áo lính)

Người lính trong thơ Hữu Thỉnh không nằm ngoài những thử thách đó.

Họ vừa trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường trong đó phần lớn dành

cho Bộ đội Trường Sơn khói lửa đồng thời đất nước thống nhất hai miềm

Nam - Bắc, hòa bình được lập lại nhưng họ vẫn phải đối mặt với những lo âu,

trăn trở, những khó khăn của cuộc sống thường nhật. Qua đó, chúng ta thấy

được tấm lòng tác giả gắn bó với đồng đội với quê hương đất nước được thể

hiện rõ đối với độc giả. Vì vậy hình tượng người chiến sĩ vừa đẫm chất sử thi

đồng thời lại rất đỗi đời thường.

3.2. Ngƣời phụ nữ

3.2.1. Người phụ nữ trong chiến tranh

Có thể nói, Hữu Thỉnh đã dành những câu thơ hay nhất, cảm động nhất

để viết về hậu phương, và không thể thiếu trong đó là hình ảnh của người mẹ

tần tảo, giàu đức hy sinh.

35

Hình tượng mẹ xuất hiện đầu tiên và trở đi trở lại nhiều lần trong vần thơ

Hữu Thỉnh “Người phụ nữ in đậm dấu ấn trong thơ Hữu Thỉnh là người mẹ…

Hữu Thỉnh là người nhắc nhiều về mẹ, viết nhiều về mẹ được xếp vào loại hay

nhất” [25]. Mẹ nhận hết những công việc nặng nhọc về mình:

“Mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã

Nhem nhuốc cả ngày xanh”

(Đường tới thành phố).

Mẹ gánh bao nhiêu gian khổ, vất vả trên vai:

“Mẹ đi gánh rạ giữa đồng

Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió.”

(Đường tới thành phố).

Nhà thơ có lẽ đã hóa thân vào người mẹ, thấu hiểu tâm tư tình cảm,

những nỗi đắng cay, hi sinh vất vả trong cuộc đời mẹ phải trải qua. Cả cuộc

đời mẹ là những lo lắng hi sinh cho chồng con:

“Chiến dịch này ăn cơm không phải độn

Mừng thì mừng mà thương mẹ biết bao nhiêu

...

Từ chịu đựng neo đơn của mẹ

Bao việc làng, việc nước lớn dần ra”

(Đường tới thành phố).

Hậu phương không chỉ là người mẹ mà còn là người chị chịu bao nhiêu

sự tủi nhục:

“Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy

Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc”

(Đường tới thành phố).

Hình ảnh người vợ cô đơn“chôn vùi tuổi xuân”, cùng với đó, người vợ

phải sống một cuộc sống cô đơn xa chồng và chờ đợi chồng trong mỏi mòn:

36

“Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”.

(Đường tới thành phố)

Chiến tranh không chỉ là sự phân chia tiền tuyến - hậu phương, không

chỉ là sự hy sinh mất mát nơi chiến trường mà chiến tranh còn hiện hữu số

phận của người phụ nữ đã hy sinh thầm lặng, sự hi sinh vô danh cho tổ quốc.

Để làm nên chiến thắng vang dội lừng lẫy khắp năm châu đó là một phần

nhờ sự hy sinh của người phụ nữ thầm lặng, vô giá như thế. Nhưng nếu hỏi

trong thơ Hữu Thỉnh, cuộc chiến đã để lại vết hằn nào sâu nhất, nỗi đau nào

xót xa nhất trong tâm khảm con người thì rất nhiều người có thể trả lời:

“Trong tâm khảm của người mẹ, và người vợ”.

Người mẹ qua miêu tả trong thơ ca của Hữu Thỉnh có tầm vóc quá cỡ

của một người mẹ bình thường nhưng không chút tầm thường:

“Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc

Mẹ thường ít ngủ, mẹ thường thức khuya

Đêm nào cũng dài”

(Đường tới thành phố)

Tổ quốc, dằng dặc trong lịch sử là những cuộc binh đao, những cuộc đưa

tiễn. Số mệnh xô đẩy thế nào đó làm đất nước luôn bị tước đoạt và đe dọa

tước đoạt quyền độc lập, và vì thế, thời điểm nào những thế hệ ưu tú nhất

cũng phải đương đầu, những dòng máu tươi nhất cũng sẵn sàng dâng hiến để

đòi lại điều đã mất, bảo vệ điều bị đe dọa tước đoạt. Nhưng người đau nhất

trong nỗi đau dằng dặc đó là mẹ:

“Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi

Áo tân binh xanh thẫm bến phà

Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã

37

Tiếng gọi nào nghe rõ

Suốt chiều sâu

Mẹ nén đau

Giấu tờ báo tử

Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ

Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên.”

(Đường tới thành phố)

Mẹ nén đau... tiễn con nhập ngũ, nhưng người lo thắt từng đêm là mẹ,

người nhận về mình phần thắc thỏm từng đêm là mẹ, người hao tổn nhiều

nhất là mẹ:

“Nếu mẹ biết ta còn đông đủ

Đang bập bùng thương nhớ suốt hành lang

Ngọn đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt.”

(Đường tới thành phố)

Nỗi nhớ khi “Mẹ ta ốm, húp bát canh rau dệu” (Tiếng hát trong rừng);

là nhớ “Mẹ tôi mé đồi cỏ cháy” (Đêm chuẩn bị); là nhớ “Mẹ đang xếp lại cho

anh bộn bề giá sách”, “Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng” (Đường tới thành

phố); là nhớ “Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình” (Trông ra bờ

ruộng)... Hữu Thỉnh đã bằng nỗi nhớ của chính mình, ông đã khắc vào thơ ca

Việt Nam bức tượng đài cao đẹp mà giản dị của người mẹ trong chiến tranh,

đến mức đọc thơ anh, mỗi người đều thấy hiển hiện hình bóng mẹ trong mỗi

mái nhà của họ.

Nhưng người mang bi kịch lớn nhất của chiến tranh là những người

vợ. Thơ ca Việt Nam vốn giàu lòng trắc ẩn, hình như cũng dành những

ngôn từ bi thương nhất để nói về những người hóa đá khắp mọi miền đất

nước mỗi khi đi qua. Đến Hữu Thỉnh, tác giả xây dựng "con người này"

trong hoàn cảnh éo le này:

38

“Chị nuôi anh dưới đất

Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm...

Không hay anh ốm mập...

Không hay anh đen trắng ra sao.”

(Đường tới thành phố).

Người vợ đó ban đêm xuống hầm bí mật nuôi chồng hoạt động, ban ngày

"diễn vai kịch" chết người ngay cạnh nanh vuốt của kẻ thù.

“Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai

Chị cười cợt với thằng chỉ điểm

Người nó thắt y chiếc còng số tám

Cứ hau háu rình chộp chị đem đi

Chị cố làm cho thật lẳng lơ

Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị

Mỗi năm một lần cúng kỵ

Khấn anh xong mang xôi trái xuống hầm.”

(Đường tới thành phố)

Một hoàn cảnh nữa, chiến tranh có rất nhiều nỗi khủng khiếp, nhưng

khủng khiếp nhất có phải là sự chờ đợi:

“Chị ta ngồi khóc dưới bếp một mình

Chị đợi chờ quay mặt vào đêm

Hai mươi năm mong trời chóng tối

Hai mươi năm cơm phần để nguội

Thôi Tết đừng về nữa chị tôi buồn.

...

Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra

Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại.”

(Đường tới thành phố)

39

Bi kịch của chị là "hai mươi năm mong trời chóng tối", là chị "không

còn trẻ nữa", là sự "thừa ra" bên cái "thiếu" xót xa giữa một ngày sum họp của

"họ hàng nội ngoại." Và điểm kết của tấn bi kịch thuở nảo thuở nào, cái "thuở

trời đất nổi cơn gió bụi" kia vẫn chưa hề có một lối thoát nào giữa một "sân

khấu" còn mịt mờ bom đạn, là:

“Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.”

(Đường tới thành phố).

Hữu Thỉnh viết về chiến tranh, yếu tố hiện thực trở lên là một phần

những gì nhân dân và con người mà anh trải nghiệm, là phần đóng góp độc

đáo, quan trọng của sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh, không thể không bàn

đến khi nói về thơ ông. Nhưng nhiều nhà thơ thế hệ chống Mỹ khác, bên cạnh

hiện thực chiến tranh, Hữu Thỉnh đem đến trong thơ mình một bức tranh tâm

hồn khác, cũng hết sức sâu sắc, làm thành một sắc thái mới của thơ Hữu

Thỉnh. Đây là những chiêm nghiệm từ khoảng nửa cuối cuộc đời mình.

Rất nhiều những tâm trạng, những suy nghiệm, những trăn trở, những vỡ

nhẽ, những đốn ngộ... bất ngờ như chính cuộc sống, như chính "cõi nhân gian

bé tý", như chính thế giới nội tâm của con người, trong mỗi con người... đã

được ông "ghi" lại sau những "cặn lắng", những tác giả đã từng trải, với

những "Số phận đa đoan/ Phận người chìm nổi". Có thể có cái phiền muộn,

xót xa hắt lên từ năm tháng, từ phận người. Nhưng bù lại, thơ như tìm ra

mạch đi muôn thuở của nó trước thế thái nhân tình cũng muôn thuở như là

những bí mật. Chỉ những trái tim không bị khô cạn, trí tuệ không bị cỗi cằn,

ngòi bút không dễ dãi... mới tìm thấy những gì cần tìm.

3.2.2. Người phụ nữ trong cuộc sống đời thường

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hữu Thỉnh cũng như hàng vạn người và đặc

biệt người phụ nữ trong cuộc sống đời thường đã bước từ bóng tối của chiến

tranh bước ra khoảng trời mênh mông của ánh sáng hòa bình:

40

“Tháng Tư nay cây cỏ cũng ra tù

Mùa hạ đón một cơn mưa nồng nhiệt.”

(Đường tới thành phố).

Nhưng hòa bình là một thứ của hiếm, dù đã đổi bằng núi xương, sông

máu của bao người, cũng rất dễ bị chiếm đoạt, xâm phạm. Mới một chút thỏa

chí như con tàu chạy dọc đất nước từ Nam ra Bắc, lại thấy lấp ló, ẩn hiện súng

đạn ở biên giới. Với một đất nước vừa trải qua mấy chục năm bom đạn, chiến

tranh ác liệt đã quen, vì thế, chiến tranh không có gì đáng sợ:

“Một đời người mà chiến chinh nhiều quá...

Vâng thưa mẹ, chiến tranh đừng vô tận.”

(Đường tới thành phố)

Chiến tranh đã gây nên bao cảnh chia ly đó là vợ xa chồng, mẹ xa con.

Nhưng khi đất nước hòa bình người mẹ mong mỏi người chồng, mong người

con của mình có ngày trở về đoàn tụ với gia đình, quê hương:

“Mẹ đang xếp lại cho anh bộn bề giá sách

Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu.”

(Đường tới thành phố).

Chiến tranh tàn khốc không chỉ gây nên bao cảnh li tan, làm đổ biết bao

xương máu và gây nên bao nhiêu nỗi đau hiện hình vật chất mà còn để lại

những mất mát, đớn đau về tinh thần và tuổi xuân của người phụ nữ không

thể hàn gắn nổi. Hình ảnh những người phụ nữ chờ đợi chồng đằng đẵng suốt

những năm tháng tuổi trẻ, chôn vùi tuổi thanh xuân trong sự chờ đợi mỏi mòn

đã được Hữu Thỉnh cảm thông và khắc họa thật đậm nét trong trường ca:

“Chị chờ đợi quay mặt vào đêm

Hai mươi năm mong trời chóng tối

Hai mươi năm cơm phần để nguội

Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn

Thôi ai đừng mừng tuổi chị tôi.”

(Đường tới thành phố)

41

Thời gian đợi chờ không phải là vài tháng, vài năm mà đằng đẵng suốt

hai mươi năm tuổi trẻ. Hai mươi năm không phải là dài với một đời người

nhưng cũng là quá lớn cho nỗi mong chờ, khắc khoải của người vợ chờ

chồng, cũng đủ làm cho tuổi trẻ tàn phai. Phải chăng, tuổi thanh xuân của

người phụ nữ cũng vào chiến trường theo từng bước chân của người đàn ông.

Chiến tranh đã kết thúc cuộc sống bình yên trở lại nhưng trong lòng

người phụ nữ vẫn khắc khoải nỗi nhớ thương chồng con. Đó là những người

vợ mất chồng, cả cuộc đời họ phải sống trong cô đơn quạnh quẽ, và nỗi sợ hãi

bủa vây:

“Những đêm trở trời trái gió

Tay nọ ấp tay kia

Súng thon thót ngoài đồn dân vệ

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.”

(Đường tới thành phố)

Người phụ nữ không những phải chịu nhớ thương xa cách, phải sống cô

độc, lẻ loi, phải chôn vùi tuổi xuân trong sự nhớ nhung chờ đợi mà họ còn

phải chôn vùi đi cả cái bản năng sâu thẳm trong con người họ.

Điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ nữ trong

trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan yêu đời và

tin tưởng vào tương lai tươi sáng:

“Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều

Hoa mai nở hai lần hoa có hậu

Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu

Vẫn tin có ngày hái quả cho anh.”

(Đường tới thành phố)

42

Nhưng nỗi đau nhân tình thế thái thì không quen, thì ám ảnh vô tận:

“Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc...

Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.”

(Nghe tiếng cuốc kêu)

Đất nước những năm tháng tám mươi của thế kỷ XX khó khăn chưa từng

thấy. Những người từng làm nên chiến thắng huy hoàng, có người đang "ba lô

lộn ngược nhảy tầu bắc nam “kiếm từng miếng cơm, manh áo” trong hiện tại.

Sự gồng mình của toàn dân tộc trong chiến tranh đã đem lại chiến thắng vẻ

vang nhưng đã đến lúc phải trả giá: một sự suy kiệt về kinh tế, kéo theo

những nổi chìm của nhân tình thế thái, tác động đến từng nhà, từng người,

không sót một ai. Nhớ câu thơ xưa của Hữu Thỉnh như một sự thức tỉnh từ rất

sớm, ngay trong đêm trước của ngày chiến thắng:

“Ngày mai chúng mình sẽ vào thành phố

Mọi vui buồn không biết lấy gì che.”

(Đường tới thành phố)

“Tôi như cây biết giấu lá vào đâu

Trong gió bụi cõi người”

(Bóng mát)

Hữu Thỉnh là người hay lo, cũng có thể là người lính cảm nhận được rất

sớm điều có thể đến. Những gì khả dĩ giấu được phần nào trong chiến tranh,

có lá rừng che, lại rất có thể bị phơi bày trước một tình thế khắc nghiệt mới.

Nỗi đau của người phụ nữ khi hòa bình được lặp lại trong trường ca Hữu

Thỉnh là nỗi đau của người mẹ, người vợ chờ con, chờ chồng chở về đoàn tụ

nhưng sự chờ đợi đó dường như vô nghĩa đối với người phụ nữ. Có lẽ, người

phụ nữ là những con người còn nguyên vẹn tất cả để mà đau. Nỗi đau keo kết,

đong vón lại, không thể nào rã tan được. Chính nỗi đau khủng khiếp này đã

43

bật tung sức mạnh Việt Nam. Bom đạn kẻ thù bất lực bởi sức mạnh ấy cùng

với đó con người nói chung và người phụ nữ nói riêng đã chịu mọi đau khổ

của chiến tranh và sau chiến tranh sẽ phải gánh chịu những tất cả những hậu

quả nặng nề, đau đớn mà kẻ thù đã gây lên. Hữu Thỉnh đã cho chúng ta thấy

sự thật của chiến tranh đã được phơi bày thông qua những hi sinh của người

phụ nữ là mất con, mất chồng, đổ máu, những thiệt thòi, những mất mát,

những bi kịch, những cảnh đời trớ trêu và những vết thương lòng không thể

hàn gắn của con người. Nhưng cũng qua đó Hữu Thỉnh cho ta thấy nghị lực

phi thường của những người phụ nữ Việt Nam họ đã vượt qua tất cả những

nỗi đau, sự mất mát để có cuộc sống bình yên như ngày hôm nay.

44

KẾT LUẬN

Hữu Thỉnh thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Sự nghiệp sáng

tác của ông đã đạt được thành tựu đáng kể trong đó có thể loại trường ca. Với

bản lĩnh sống, bản lĩnh thi sĩ Hữu Thỉnh đã thấu hiểu được hiện thực chiến

tranh tàn khốc nơi chiến trường đầy mưa bom, bão đạn.

Trường ca Hữu Thỉnh đã thể hiện sâu sắc những vấn đề của dân tộc,

cộng đồng và thời đại. Đó là hành trình cách mạng gian khổ và đi đến thắng

lợi của toàn dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt ông đã có

cái nhìn về hiện thực chiến tranh đa chiều. Bên cạnh âm hưởng sử thi hoành

tráng của cuộc chiến vĩ đại trường ca còn cho ta thấy được nỗi đau đớn, mất

mát, hậu quả do chiến tranh gây ra đã được Hữu Thỉnh khai thác, phản ánh

chân thực và sâu sắc.

Hữu Thỉnh là cây bút không còn mấy xa lạ đối với bạn đọc qua trường ca

Đường tới thành phố. Ông là người chiêm nghiệm ham tìm tòi, học hỏi cái

mới, ông luôn luôn giữ niềm mê đắm thi ca và khao khát đổi mới. Đường tới

thành phố là một trường ca đầy ắp những suy tư về các sự kiện lịch sử có thực

vừa trải qua của dân tộc như vậy. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh sau này cũng đã

tâm sự rằng khi viết bản trường ca này, ông “đặt cái thực lên trên hết. Cái

thực của đời sống người lính, của chiến tranh, cái thực và tâm trạng con

người”. Cái thực đó là những cái thực lớn lao, thiêng liêng mà lịch sử dân tộc

vừa trải qua. Chính vì đặt cái thực lên trên hết như thế, cho nên, cũng giống

như hầu hết các tác giả trường ca thời bấy giờ, khi Hữu Thỉnh nói đến những

từ đất nước, tự do, tổ quốc thì đều xuất phát từ cái hiện thực và tâm trạng con

người chứ không hề là những cách phát ngôn sáo rỗng.

Đó không chỉ là những nỗi đau thể xác mà còn có những mất mát, tổn

thất về tinh thần khó có thể bù đắp nổi. Làm nên chiến thắng vẻ vang của

dân tộc không thể không nói đến vai trò của những cá nhân. Những nhân vật

45

trung tâm đã hiện lên một cách tự nhiên, chân thực, khỏe khoắn, giản dị

trong trường ca Hữu Thỉnh. Đó là hình tượng những người lính dũng cảm,

kiên cường; người mẹ giàu đức hi sinh; người chị kiên trung bất khuất...

hình tượng nhân dân - những anh hùng yêu nước căm thù giặc. Tất cả họ

đoàn kết lại tạo nên sức mạnh phi thường, trường tồn, bất diệt để đánh bại kẻ

thù xâm lược.

Như vậy qua tìm hiểu trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh,

tác giả đã phơi bày hiện thực những năm kháng chiến chống Mĩ thật khốc liệt.

Đồng thời ông còn đi sâu vào khám phá thế giới tâm hồn của con người với

những suy tư, trăn trở và khát vọng của người con đất Việt.

46

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb KHXH.

2. Lại Nguyên Ân (1984), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn

học, số 4.

3. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám,

một nền sử thi hiện đại”. http://www.zbook.vn/ebook/truong-ca-ve-thoi-

chong-my-trong-van-hoc-hien-dai-viet-nam-43886/

4. Lại Nguyên Ân chủ biên (1988), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG.

5. Mai Bá Ấn (2009), Đặc trưng trường ca Thu Bồn - Nguyễn Khoa Điềm

Thanh Thảo, Nxb Hội nhà văn.

6. Đào Thị Bình (1999), Trường ca của các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ,

Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN.

7. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 -

cuối TK XX, LATS, ĐHSPHN.

8. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề về văn học so sánh, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

9. Phạm Tiến Duật (1981), “Nhân bàn về trường ca, đôi điều nghĩ về hình

thức”, Văn nghệ Quân đội, số 4.

10. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (Nhìn từ góc độ loại hình),

LATS Ngữ văn, Hà Nội.

12. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Văn

học, số3.

13. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ ca”,

Tạp chí Văn học, số 4.

14. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn Cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Giáo

dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-

tnu.edu.vn/ 94.

15. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, (Đồng chủ biên 2006), Thơ ca Việt Nam

- hình thức và thể loại, Nxb ĐHQGHN .

18. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội, số 4.

19. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ phản thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2000), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.

21. Tế Hanh (1997) “Từ những người đi tới biển tới Đường tới thành phố”,

Báo Văn Nghệ, số 24

22. Mai Hương (1980), “Đọc Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn học, số 3

23. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học, số 2

24. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in

trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa

học xã hội.

25. Lưu Khánh Thơ, Đôi nét về trường ca những năm gần đây nhìn từ góc độ

thể loại, Văn Nghệ Quân đội.