KHUNG CHẬU SẢN KHOA
(Kỳ 2)
5. XẾP LOẠI KHUNG CHẬU
- Khung chậu dạng nữ: thường gặp nhất ở phụ nữ, có các đặc điểm
sau:
+ Hình bầu dục, đều đặn.
+ Đường kính ngang lớn hơn đường kính trước sau chút ít.
+ Khoảng cách từ trục giữa ra trước và sau gần bằng nhau.
+ Hai gai hông không nhọn.
- Khung chậu dạng nam: có thể gặp ở nữ, với các đặc điểm sau:
+ Hình trái tim, phần sau không tròn mà phẳng.
+ Mỏm nhô gồ về phía trước, bờ 2 bên nhô.
+ Hai gai hông nhọn.
- Khung chậu dẹt: loại khung chậu này có đường kính ngang lớn hơn
so với đường kính trước sau, xương cùng ngắn và ngửa ra sau.
- Khung chậu hẹp ngang (dạng hầu): loại khung chậu này có đường
kính ngang nhỏ hơn đường kính trước sau, xương cùng dài, mỏm nhô ngửa ra sau,
hai gai hông nhọn.
6. CÁCH KHÁM KHUNG CHẬU
6.1. Khám đại khung
- Đo các đường kính của đại khung bằng thước đo Baudelocque.
- Đo hình trám Michaelis.
6.2. Khám tiểu khung
* Khám eo trên
- Đo đường kính trước sau (đường kính nhô - hậu vệ):
Sản phụ nằm tư thế phụ khoa. Người khám đưa 2 ngón trỏ và giữa vào âm
đạo, đầu ngón giữa lần dọc theo mặt trước xương cùng đi dần lên trên để tìm mỏm
nhô. Với khung chậu bình thường ta không thể sờ được mỏm nhô, nếu sờ được
mỏm nhô là khung chậu hẹp, khi đó cần đo đường kính nhô - hậu vệ gián tiếp qua
việc đo đường kính nhô - hạ vệ để đánh giá khung chậu hẹp tuyệt đối hay hẹp
tương đối.
+ Cách đo đường kính nhô - hạ vệ: khi sờ được mỏm nhô, bàn tay trong âm
đạo nâng dần lên cho đến khi bờ của ngón trỏ tiếp xúc với hạ vệ thì đánh dấu lấy
điểm tiếp xúc đó, rút bàn tay khỏi âm đạo và dùng thước dây đo từ điểm đánh dấu
đó đến đầu ngón giữa ta sẽ được đường kính nhô - hạ vệ, bình thường có trị số là
12 cm.
+ Đường kính nhô - hậu vệ = nhô hạ vệ – 1,5 cm (1,5 cm là độ dày của
khớp vệ). Bình thường đường kính nhô - hậu vệ có trị số là 10,5 cm.
Nếu đường kính nhô - hậu vệ < 8,5 cm là khung chậu hẹp tuyệt đối, phải
mổ lấy thai khi có dấu hiệu chuyển dạ nếu thai đủ tháng, trọng lượng thai bình
thường.
Nếu đường kính nhô - hậu vệ từ 8,5 đến <10 cm là khung chậu hẹp tương
đối (khung chậu giới hạn). Trường hợp này với ngôi chỏm, thai trung bình phải
làm nghiệm pháp lọt ngôi chỏm, thành công thì đẻ đường âm đạo, thất bại thì mổ
lấy thai. Còn nếu ngôi chỏm, thai to hoặc các ngôi bất thường khác đều phải mổ
lấy thai.
- Đánh giá đường kính ngang của eo trên:
Đường kính ngang của eo trên chỉ đo được trên quang kích khung chậu.
Tuy nhiên lâm sàng có thể khám gờ vô danh qua thăm âm đạo để đánh giá đường
kính này. Bình thường chỉ sờ được 1/2 trước của gờ vô danh, nếu sờ được tới 1/2
sau gờ vô danh chứng tỏ đường kính ngang eo trên hẹp.
* Khám eo giữa:
- Đánh giá đường kính ngang eo giữa (đường kính lưỡng mỏm gai):
Khi thăm âm đạo, đưa 2 ngón trỏ và giữa về 2 bên để tìm gai hông, nếu gai
hông nhọn, nhô vào bên trong thì đường kính ngang eo giữa bị giảm đi (bình
thường 10,5 cm).
- Đánh giá đường kính trước – sau eo giữa: qua thăm âm đạo, sờ mặt trước
xương cùng để đánh giá, nếu mặt trước xương cùng cong vừa phải là tốt thường
chỉ sờ được 2 -3 đốt cùng cuối. Nếu xương cùng quá phẳng hoặc cong như móc
câu cũng không tốt.
* Khám eo dưới:
- Đo đường kính ngang eo dưới (lưỡng ụ ngồi):
Sản phụ nằm tư thế phụ khoa. Người khám dùng 2 ngón tay cái tìm ụ ngồi
2 bên. Đo khoảng cách giữa 2 ngón tay cái, lấy khoảng cách này + 1,5 cm ta sẽ có
đường kính lưỡng ụ ngồi (bình thường: 11 cm).
Có thể ước lượng đường kính ngang eo dưới bằng cách đặt nắm tay đè lên
tầng sinh môn giữa 2 ụ ngồi, nếu nắm tay > 9 cm lọt giữa 2 ụ ngồi là bình thường.
- Đo góc vòm vệ: là góc hợp bởi giữa 2 ngành ngồi mu, bình thường góc
này > 90 độ, hoặc áp sát được hai ngón tay khám vào góc vòm vệ được thì được
coi là bình thường. Khi góc vòm vệ hẹp làm cho đường kính ngang của eo dưới
hẹp, thai sẽ khó sổ.