
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
404
KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI,
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU HIỆN NAY TỪ NHỮNG
QUAN ĐIỂM CHỈ DẪN CỦA HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Anh
Trường Đại học Thủy lợi, email: nguyenthianh@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến công tác phòng, chống thiên tai, bảo
vệ sản xuất, bảo vệ tính mạng và tài sản của
nhân dân. Theo Người, thiên tai là một loại
giặc ghê gớm, phòng chống thiên tai là một
chiến dịch lớn, một mặt trận dài, một nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, các
cấp chính quyền và nhân dân. Những quan
điểm đó đến nay còn nguyên giá trị và trở
thành kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong
phòng, chống thiên tai trước những diễn biến
phức tạp của biến đổi khí hậu toàn cầu.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về
phòng, chống thiên tai
Thiên tai là một loại giặc, phòng chống
thiên tai là một chiến dịch lớn, một mặt trận
dài, việc làm hiển nhiên đảm bảo cuộc sống
của người dân Việt Nam
Gốc rễ quan điểm này của Hồ Chí Minh là
bởi dân tộc ta đứng lên từ đất, bền bỉ phát
triển từ tiến trình trị thuỷ. Lịch sử hàng nghìn
năm của dân tộc cho thấy, bên cạnh những
thuận lợi về đất đai, tài nguyên, môi trường
sông nước cho phát triển nông nghiệp trồng
lúa nước, song cũng mang đến không ít hiểm
nguy, khó khăn: nắng nóng, lũ lụt, hạn hán,
bão tố. Do đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến vấn đề phòng chống thiên tai. Người
coi thiên tai là một thứ giặc ghê gớm, “thuỷ,
hoả, đạo, tặc”, nhất là lụt, “lụt thì lút cả làng”
[2, tr.620]. Vì vậy, chúng ta phải ra sức ngăn
chặn giặc lụt như chống giặc ngoại xâm.
“Giặc LỤT là tiên phong của giặc ĐÓI. Nó
là đồng minh của giặc NGOẠI XÂM. Đắp
đê, giữ đê là để chống giặc lụt và giặc đói”
[1, tr.166]. Đây là một chiến dịch lớn, một
mặt trận dài, phải tiến hành trong một thời
gian khá lâu, phải quyết tâm mới thực hiện
được. Cũng từ nhận thức đó, ngay trong năm
1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 70/SL,
ngày 22/5/1946, thành lập Ủy ban Trung
ương hộ đê. Uỷ ban có nhiệm vụ nghiên cứu,
đề xuất kế hoạch chống lụt và kiểm soát bảo
vệ đê điều, đồng thời giao cho Chủ tịch Ủy
ban Hành chính Bắc Bộ đứng đầu và tổ chức.
Sắc lệnh thể hiện trách nhiệm của Chính phủ
trước dân tộc, trước đời sống và sự an toàn
của nhân dân trước những hiểm hoạ thiên tai.
Từ năm 1946 trở đi, công tác phòng chống
thiên tai được triển khai theo quy hoạch trị
thủy và khai thác sông Hồng. Chính phủ phê
duyệt, thực hiện dần từng bước quy hoạch
phòng chống lũ hạ du, hoàn thành quy hoạch
các hồ điều tiết thượng nguồn, đề ra các giải
pháp xây dựng và tu bổ công trình đê điều,
hồ chứa cắt lũ, cùng với các khu phân, chậm
lũ được hoàn thành theo các kịch bản. Những
năm 1966 -1969, lũ sông Hồng và sông Thái
Bình nhiều lần dâng cao. Năm 1966, lũ sông
Hồng lên cao xấp xỉ 12m tại Hà Nội; năm
1968 lên đến 12,23m, vượt qua mức lũ lịch
sử đã ghi nhận được ở sông Hồng trước
đó; năm 1969, lũ sông Hồng vượt đỉnh lũ
1968, lên tới 13,22m [4, tr.261], nhưng với