
Kính thiên văn không gian Hubble HST
Năm 1990 kính thiên văn Không gian Hubble HST được tàu vũ trụ phóng lên quỹ
đạo. Ðó là một kính thiên văn điều khiển từ mặt đât, nơi Viện Khoa học Không
gian (Space Science Institute) tại Baltimore quan sát. Nhờ ở ngoài tầng khí quyển
trái đất nên kính thiên văn này chụp được hình ảnh rõ ràng tối đa vì không có một
ảnh hưởng do sự dao động nào của tầng không khí mà những tia sáng phải đi
xuyên qua như khi chúng tới những kính thiên văn đặt trên mặt đất.
Kính Thiên văn Không gian Hubble là kính quang học bay trong quỹ đạo to nhất
hiện nay. Với tấm gương phản chiếu đường kính 2,4 mét và được ở cao hơn tầng
khí quyển cho phép nó chụp những hình rõ nét. Hệ thống quang học của nó đã
được sửa chữa năm 1993. Các nhà thiên văn dùng HST để nghiên cứu khoa học,
ước lượng tuổi và thành phần cấu tạo của vũ trụ, những thiên hà mà trước kia
chưa từng biết tới, sự hiển nhiên của các lỗ đen ở giữa các thiên hà, sự tạo các
vùng sao và sự hiểu biết hơn về quá trình vật lý trong vũ trụ chúng ta. Một kính
thiên văn không gian cho thế hệ tiếp theo (NGST Next Generation Space
Telescope) có thể sẽ được phóng lên khoảng năm 2007.
(BBT Vietsciences)

Tàu con thoi phóng
kính thiên văn
không gian Hubble năm 1990
Kính thiên văn Hubble Space
Telescope HST
Hubble HST
ở độ cao 580 km so với mặt
đất
Hubble HST đư
ợc sửa
chữa
Trích quy
ển "Trinh Xuan Thuan, un astrophysicien", Phạm Văn Thiều

dịch)
Spitzer đã có những đóng góp rất cơ bản cho lý thuyết về môi trường giữa các vì
sao và về sự tiến hóa động của các đám sao cầu.
Chính ông là cha đẻ của kính thiên văn không gian mang tên Hubble, được tàu con
thoi đưa lên quỹ đạo vào tháng 4 năm 1990. Ngay từ cuối những năm 1940, ông đ
ã
nêu ra ý tưởng đưa lên quỹ đạo bên trên bầu khí quyển của Trái Đất một kính thi
ên
văn lớn có khả năng bắt được cả ánh sáng hồng ngoại, nhìn thấy lẫn tử ngoại. Ý
tưởng này được đề xuất sớm gần chục năm, trước khi vệ tinh đầu tiên được phóng
lên Vũ trụ vào năm 1957. Ban đầu không ai tin là điều đó có thể làm được. Spitzer
phải tốn hàng chục năm mới thuyết phục được cộng đồng các nhà thiên văn về ích
lợi của dự án và thuyết phục được Quốc hội Mỹ đồng ý cấp kinh phí. Ban đầu, lẽ
ra kính phải có một gương đường kính 3m, nhưng do hạn chế về kinh phí, nên cu
ối
cùng rút lại chỉ còn 2,4m.
Ngay c
ả khi đường kính của nó chỉ còn 2,4m, thì riêng việc kính thiên văn n
ặng tới
11 tấn và dài 11m này quay quanh Trái Đất và bên trên bầu khí quyển đã là một
chuyện thần kỳ rồi. Nó có cho những thông tin mới về Vũ trụ không?
Hubble không hoạt động ngay lập tức như người ta hy vọng. Sau khi đưa lên quỹ
đạo, các nhà thiên văn mới nhận thấy rằng gương của cái kỳ quan công nghệ thực

sự này có một sai hỏng nghiêm trọng. Kính thiên văn nhìn bị nhòe! Điều này đã
gây nên sự thất vọng kinh khủng. Tuy bị mắc tật cận thị như vậy, nhưng Hubble
cũng đã gửi về cho chúng tôi ê hề thông tin về các thiên thể sáng nh
ư các hành tinh
trong hệ Mặt Trời hoặc các sao và các thiên hà gần. Việc xử lý nhờ những kỹ thuật
tin học tinh xảo ở mặt đất đã cho phép sửa được tật cận thị đó của kính Hubble.
Tuy nhiên đối với các thiên thể sáng yếu, chẳng hạn như các hệ hành tinh quay
quanh những ngôi sao khác hay các thiên hà ở rất xa thì nó hoàn toàn không thu
bắt được. May thay nó đã không bị NASA bỏ rơi. Vào cuối năm 1993, trong một
sứ mạng ngoạn mục của tàu con thoi không gian, các nhà du hành Vũ trụ của
NASA, trong m
ột vũ điệu siêu thực không trọng lư
ợng khi quay quanh Trái Đất cứ
90 phút một vòng và ở cách mặt đất hàng trăm kilômét, đã lắp đặt thành công một
hệ thống thấu kính để sửa tật cận thị của kính Hubble. Nói nôm na là họ đã đeo
kính cận cho nó! Giờ đây kính Hubble đã có thể nhìn Vũ trụ với tất cả độ nét tuyệt
vời của nó. Hubble cho phép chúng ta bội thu các phát minh kỳ diệu - những phát
minh sẽ làm thay đổi quan niệm của chúng ta về thế giới.
So với những kính thiên văn được đưa lên quỹ đạo trước nó, thì kính Hubble có
những ưu điểm gì?

Nh
ững kính thiên văn được đưa lên quỹ đạo trước Hubble đều có hai nhược điểm.
Trước hết là chúng quá nhỏ (đường kính gương của chúng thường không quá 1m)
và sau nữa là chúng có tuổi thọ rất hạn chế vì các bộ pin mặt trời cung cấp năng
lư
ợng cho chúng đều ngừng hoạt động sau một hoặc hai năm. Đối với kính Hubble
không có hai vấn đề đó: nó có một gương đường kính tới 2,4m và do đó trong
khoảng thời gian đã cho nó thu được nhiều ánh sáng hơn. Chính vì vậy nó nhìn
được những đối tượng sáng yếu hơn, tức ở xa hơn và do đó nhìn được sớm hơn.
Ngư
ời ta hy vọng rằng nó có thể lần ngược lại theo thời gian tới thời điểm khoảng
2-3 tỷ năm sau Big Bang, khi mà các thiên hà còn đang trong quá trình ra đời. Còn
về tuổi thọ thì ít nhất nó cũng tồn tại được khoảng 15 năm. Lại nữa, nó được đưa
lên quỹ đạo ở khoảng cách mà tàu con thoi của Mỹ có thể lui tới được và nếu như
những dụng cụ trên đó có hư hỏng theo thời gian hoặc đã l
ạc hậu về mặt công nghệ
thì các nhà du hành Vũ trụ có thể sẽ tới thay thế. Người ta dự liệu cứ ba năm lại l
ên
bảo dưỡng một lần. Thậm chí người còn có thể đưa nó trở về Trái Đất để thay b
ằng
một kính hoàn toàn mới.
Nói th
ế nhưng chúng ta cũng cần trân trọng những vệ tinh nhỏ, chúng cho phép
chúng ta khám phá Vũ trụ gần và hé mở với chúng ta nhiều điều mới lạ. Tôi đặc
biệt nghĩ tới sự thám hiểm hệ Mặt Trời được thực hiện bởi hai con tàu thăm dò
Voyage 1 và 2. Chúng đã hé lộ với chúng ta về những phong cảnh lạ kỳ trên bốn