
vietnam medical journal n01 - MAY - 2019
122
tôi thấp hơn kết quả của Lâm Tiến Tùng [1]
nhóm ROPI có tỉ lệ bệnh nhân ngứa là 16,67%,
nhóm BUPI là 13,33%, có thể do trong nghiên
cứu tác giả sử dụng thêm morphin trong hỗn
hợp gây tê tủy sống cho bệnh nhân.
- Các tác dụng không mong muốn khác:
Trong và sau phẫu thuật, chúng tôi không gặp
bệnh nhân nào đau lưng, đau đầu, run, tê bì
chân, dị ứng thuốc tê, ngộ độc thuốc tê…
V. KẾT LUẬN
Gây tê tủy sống với các liều thuốc tê ropivacain
5mg, 6mg và 7mg phối hợp với fentanyl đều
không ảnh hưởng đến tuần hoàn, hô hấp của
bệnh nhân, tỷ lệ tác dụng không mong muốn
thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa ba nhóm. Tỷ lệ gặp các tác dụng không
mong muốn của ba nhóm ROPI 7, ROPI 6 và
ROPI 5 tương ứng là: Tụt huyết áp (10% so với
6,6% và 0%); nôn, buồn nôn (3,3% so với 3,3%
và 0%); ngứa (13,3% so với 13,3% và 6,7%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lâm Tiến Tùng (2016). So sánh hiệu quả vô
cảm và các tác dụng không mong muốn khi gây tê
tủy sống bằng liều thấp của bupivacain với
ropivacain ở nguồi cao tuổi, Luận văn thạc sỹ y
học, Đại học y Hà Nội.
2. F. A. Dar, M. B. Mushtaq and U. M. Khan
(2015). Hyperbaric spinal ropivacaine in lower
limb and hip surgery: A comparison with
hyperbaric bupivacaine. J Anaesthesiol Clin
Pharmacol, 31 (4), 466-470
3. E. Erturk, C. Tutuncu, A. Eroglu et al (2010).
Clinical comparison of 12 mg ropivacaine and 8 mg
bupivacaine, both with 20 microg fentanyl, in spinal
anaesthesia for major orthopaedic surgery in
geriatric patients. Med Princ Pract, 19 (2), 142-147.
4. Y. Y. Lee, W. D. Ngan Kee, K. Muchhal và cộng
sự (2005). Randomized double-blind comparison of
ropivacaine-fentanyl and bupivacaine-fentanyl for
spinal anaesthesia for urological surgery. Acta
Anaesthesiol Scand, 49(10), 1477-1482.
5. D. A. McNamee, A. M. McClelland, S. Scott et
al (2002). Spinal anaesthesia: comparison of
plain ropivacaine 5 mg ml(-1) with bupivacaine 5
mg ml(-1) for major orthopaedic surgery. Br J
Anaesth, 89 (5), 702-706
HOÀN CHỈNH QUY TRÌNH KỸ THUẬT ARMS-PCR KẾT HỢP ĐIỆN DI TỰ ĐỘNG
ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐA HÌNH GEN MTHFR Ở BỆNH NHÂN TIỀN SẢN GIẬT
Nguyễn Thị Trang*, Vũ Tố Giang*
TÓM TẮT33
Theo ước tính của WHO và Uniceft, mỗi năm có
khoảng 585.000 phụ nữ tử vong khi sinh liên quan đến
thai nghén và sinh đẻ, trong đó 90% các ca tử vong
này xảy ra ở các nước đang phát triển. Đứng thứ hai
trong số những nguyên nhân gây tử vong, tiền sản giật
(TSG) là một tình trạng bệnh lý phức tạp thường xảy ra
ở nửa sau của thai kỳ. Đối tượng nghiên cứu gồm 50
mẫu ADN của bệnh nhân tiền sản giật và 50 mẫu ADN
của thai phụ bình thường được sử dụng để hoàn chỉnh
quy trình và xác định đa hình gen C677T và đa hình
A1298C gen MTHFR. Sử dụng kỹ thuật ARMS-PCR để
xác định các đa hình gen. Nghiên cứu thu được tỉ lệ
phát hiện đa hình MTHFR C677T ở nhóm bệnh nhân là
54% và đa hình MTHFR A1298C là 60%.
Từ khóa:
MTHFR, tiền sản giật, đa hình, ARMS-PCR
SUMMARY
COMPLETE THE ARMS-PCR TECHNICAL
PROTOCOL FOR USE TO DETERMINE
MTHFRGEN POLYMORPHISM IN PATIENTS
*Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyn Thị Trang
Email: trangnguyen@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 2.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 16.4.2019
Ngày duyệt bài: 23.4.2019
WITH PRE-ECLAMPSIA
According to WHO and UNICEF estimates, about
585,000 women die of childbirth in a pregnancy and
childbirth each year, of which 90% of these deaths
occur in developing countries. Second among the
causes of death, pre-eclampsia (TSG) is a complex
medical condition that usually occurs in the second
half of a pregnancy. Subjects of the study include 50
DNA samples of pre-eclampsia patients and 50 DNA
samples of normal pregnant women used to complete
the process and identify polymorphism of C677T gene
and A1298C MTHFR gene polymorphism. Use ARMS-
PCR technique to identify gene polymorphisms. The
study obtained the rate of detection of MTHFR C677T
polymorphism in patients group of 54% and MTHFR
A1298C polymorphism was 60%.
Keywords
: MTHFR, pre-eclampsia, polymorphism,
ARMS-PCR.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo ước tính của WHO và Uniceft, mỗi năm
có khoảng 585.000 phụ nữ tử vong khi sinh liên
quan đến thai nghén và sinh đẻ, trong đó 90%
các ca tử vong này xảy ra ở các nước đang phát
triển [1]. Theo thống kê của WHO, các nguyên
nhân chính gây tử vong là băng huyết (41%),
tiền sản giật (21,3%), nhim khuẩn (18,8%)[1].
Đứng thứ hai trong số những nguyên nhân gây
tử vong, tiền sản giật (TSG) là một tình trạng