YOMEDIA
ADSENSE
Lãi suất và đặc điểm của lãi suất
321
lượt xem 16
download
lượt xem 16
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Lãi suất và đặc điểm của lãi suất Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate).
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lãi suất và đặc điểm của lãi suất
- Lãi suất và đặc điểm của lãi suất 1
- 1. Lãi suất và đặc điểm của lãi suất Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền lớn hơn ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm đó hoặc là nó không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ. Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Lãi được hiểu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất ([1]). Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn([2]). Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. Từ những cơ sở trên, tác giả xin được đưa ra định nghĩa về lãi suất như sau: lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, 2
- tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiền sẽ không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt quá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối với loại cho vay tương ứng”([4]). Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranh chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án chấp nhận không vượt quá “150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Đặc điểm của lãi suất Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây: · Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. · Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền 3
- vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản. · Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay): Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp. 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan hệ pháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng kiểm soát của pháp luật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật của nước ta còn thiếu cụ thể, tính khả thi không cao, hơn nữa luật nước ta là luật khung, muốn thi hành được trên thực tế phải có Nghị định hướng dẫn thi hành. Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào tình trạng này. Trong BLDS 2005 chỉ quy định duy nhất một điềuvề lãi suất một cách trực tiếp: “Điều 476. Lãi suất 1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. 2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”. Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá khái quát sẽ tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi và lợi dụng nó để kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành mạnh. Lãi suất cơ bản được quy định trong điều 476 bỗng dưng đã gây tranh cãi xem có nên sửa đổi hay không. Lãi suất này tự dưng trở thành mốc để suy ra lãi suất trần. Ví dụ có thời điểm lãi suất cơ bản lãi 12%/năm suy ra lãi suất cho vay tối 4
- đa sẽ ở mức 18%/năm. Tức là một điều luật nhằm ngăn chặn hiện tượng cho vay nặng lãi ngoài xã hội bỗng trở thành yếu tố điều tiết lãi suất của hệ thống ngân hàng chính thống. Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả thuận; tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thỏa thuận, mà pháp luật dân sự quy định phương thức để xác định một mức lãi suất nào đó được xem là hợp lý và tiêu chuẩn được BLDS năm 1995 lựa chọn là căn cứ vào cơ chế điều hành trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, tức mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định từng thời điểm đối với loại cho vay tương ứng. BLDS 1995 cũng như BLDS 2005 quy định một điều duy nhất về lãi suất nhưng so với Bộ luật này, BLDS 2005 có những thay đổi căn bản. Đối với BLDS 1995 thì chỉ quy định “lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng”.Thực tế cho thấy khi áp dụng quy định này trong nhiều năm có nhiều bất cập và không còn phù hợp nữa, thay vào đó là quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Quy định mới này đã dễ hiểu hơn, thực tế hơn và hiệu quả hơn và sau gần bốn năm thực hiện quy định về lãi suất này, từ ngày 01/01/2006 – ngày BLDS 2005 có hiệu lực thi hành, chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Tại sao lại có sự thay đổi đó? Đó là vì cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã có nh÷ng thay đổi, cơ chế điều hành trần lãi suất được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 quy định: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các Tæ chøc tÝn dông (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh”([3]); “Ngân hàng Nhà nước xác định và công 5
- bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”([4]). Mặc dù vậy, phải đến 02/8/2000, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN (có hiệu lực từ ngày 5/8/2000) chính thức bắt đầu thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam thay cho cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay. Hệ quả là: từ thời gian này cho đến trước khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, rõ ràng đã tồn tại một khoảng trống pháp lý khi có sự bất tương đồng giữa Điều 473 BLDS năm 1995 với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 và Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 về tiêu chí so sánh (lãi suất trần và lãi suất cơ bản), Toà án không có cơ sở để dẫn chiếu khi giải quyết các tranh chấp về lãi suất phát sinh trong thời gian ấy. Thay thế cho BLDS năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, về nội dung này, BLDS năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”([5]). Đây là sự pháp điển hoá Luật Ngân hàng Nhà nước, Quyết định sè 241/2000/QĐ-NHNN1 vào trong BLDS mới một cách hợp lý và tất yếu. Như vậy, nếu như cơ sở tồn tại của tiêu chí so sánh đã được BLDS năm 2005 giải quyết hợp lý, thì trong lời văn của điều luật lại phát sinh một vấn đề khác, đó là sự khác nhau về mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép (bị khống chế) giữa 2 quy định tương ứng trong hai Bộ luật dân sự. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là cần thống nhất cách hiểu và cách tính toán mức lãi suất cho vay tối đa này của BLDS năm 2005 như thế nào để không phạm luật? Hay nói cách khác, với quy định trên ta cần quan niệm giá trị 150% là của phần vượt quá so với lãi suất cơ bản hay là tỷ lệ so sánh thuần tuý giữa chúng với nhau – lãi suất thoả thuận với lãi suất cơ bản? Theo LuËt s Trương Thanh Đức([6]), «ng đã mặc nhiên xác định theo cách: so sánh tỷ lệ thuần tuý giữa mức lãi suất thoả thuận với lãi suất cơ bản trong giới hạn luật định là 150% (mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép = lãi suất cơ 6
- bản x 150%), ví dụ: nếu lãi suất cơ bản là 1% thì lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 150% là mức 1,5% (= 1% x 150%). Với cách thể hiện lời văn điều luật của BLDS thì luôn có thể đưa đến cho người đọc quan niệm giống như Luật sư Trương Thanh Đức. Nhưng từ những băn khoăn cã s¬ së, LuËt s §ç Hång Th¸i lại cã cách hiểu khác về tinh thần cũng như nội dung đích thực của điều luật này([7]): · Theo quy định của BLDS năm 1995 (Khoản 1, Điều 473) thì mức lãi suất thoả thuận tối đa không vượt quá 50% (của lãi suất trần do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật suốt thời gian qua thì cái ngưỡng 50% này luôn được hiểu và vận dụng nhất quán: lãi suất thoả thuận không được vượt giới hạn nhiều hơn gấp rưỡi, nghĩa là phần vượt quá phải ít hơn hoặc bằng 50% (và được xác định theo công thức: mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép = lãi suất trần + lãi suất trần x 50%). Hiển nhiên sẽ là phi lý nếu xem ngưỡng 50% ấy chỉ là phân nửa (của lãi suất trần do NHNN quy định) bởi không lẽ pháp luật lại buộc các thoả thuận dân sự trong xã hội (bao gồm cả hoạt động cho vay của ngân hàng) chỉ được thoả thuận mức lãi suất vay tối đa bằng nửa mức lãi suất trần do NHNN quy định (= lãi suất trần x 50%), thực tiễn giao lưu dân sự và việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Toà án cũng không bao giờ diễn dịch theo ý tứ này. Có lẽ ở nội dung này, chúng ta cần mặc nhiên thừa nhận bởi sự lý giải rõ ràng của chính thực tiễn áp dụng và thực thi BLDS năm 1995. Tuy nhiên, dường như vẫn có điều gì đó bất ổn, phải chăng thực tiễn áp dụng luật có thể là đúng với ý đồ nhà làm luật nhưng cách diễn đạt của điều luật số 473 lại hàm chứa thiếu sót là chưa phản ánh đúng tinh thần ấy? · Đến BLDS năm 2005, tại khoản 1, Điều 476, ngưỡng tối đa được phép của lãi suất vay thoả thuận nêu trên đã có sự chỉnh lý – thay giá trị 50% bằng giá trị 150% và: 7
- - Với cùng lập luận như cách hiểu về tinh thần và thực tiễn thi hành BLDS năm 1995 thì nên chăng ta cần nhất quán cách xác định ngưỡng này là tiếp tục căn cứ vào giá trị của phần vượt quá, nếu mức lãi suất cơ bản là 1% thì mức lãi suất tối đa được phép thoả thuận sẽ là 2,5% (= 1% + 1% x 150%), trong đó phần vượt quá là 1,5%, tức bằng 150% của mức lãi suất cơ bản 1% (nghĩa là tiếp tục xác lập theo công thức: mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản + lãi suất cơ bản x 150%). Hay nói cách khác, BLDS năm 2005 đã nâng giá trị tỷ lệ xác định mức tối đa của lãi suất thoả thuận được phép, so với BLDS năm 1995 (đồng thời thay đổi đối tượng so sánh lãi suất trần bằng lãi suất cơ bản). Nh vËy LuËt s §ç Hång Th¸i ®· kh«ng ®ång t×nh víi c¸ch tÝnh cña LuËt s Tr¬ng Thanh §øc. - Nhưng còn có một khả năng khác: phải chăng lời văn khoản 1, Điều 473, BLDS năm 1995 đã không chuyển tải đúng ý đồ nhà làm luật (thay vì phải xác định giá trị của tỷ lệ cần so sánh trực tiếp giữa 2 mức lãi suất là đối tượng cần quan tâm với nhau chứ không thể bóc tách phần vượt quá để so sánh – nghĩa là phải lấy giá trị 150% chứ không phải là 50%), và để giải quyết bất cập ấy mà BLDS năm 2005 về câu chữ “tưởng như” đã nâng số giá trị % của mức ngưỡng tối đa, song nội dung thực tế là không tăng mà chỉ đơn giản là trả lại tỷ lệ % cần so sánh về đúng với sự hợp lý của ý tứ lời văn điều luật, theo đó: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản…”([8]) sẽ được hiểu và tính toán bởi công thức: mức lãi suất thoả thuận tối đa = lãi suất cơ bản x 150%. Như vậy, Đ476 BLDS năm 2005 còn ẩn chứa điều gì chưa rõ rµng vµ cần có sự giải thích kịp thời của Quốc hội, trước hết là sự hướng dẫn áp dụng pháp luật của liên ngành các cơ quan tư pháp trung ương về vấn đề nêu trên. Đối với Luật sư Luu Trường Hận([9]), ông đưa ra cách hiểu tương tự Luật sư Đỗ Hồng Thái: theo BLDS năm 1995. Gọi A: lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà 8
- nước quy định, thì mức lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của A (nghĩa là ngoµi mức lãi suất cơ bản là A thì Ngân hàng có thể được phép cho vay vượt mức lãi suất cơ bản nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cơ bản, tức là lãi suất cho vay tối đa mà các Ngân hàng có thể áp dụng = A + A x 50%). Ta có: A + A x 50% = A (1+50%) = A(100%+50%) = A x 150% = A x 1,5 lần (để chuyển các số ra cùng một đơn vị, ta đổi: 1 = 100%). Tại thông tư số 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 của Liên tịch Tòa án nhân dân Tối cao – Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ tài Chính: Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản cũng hướng dẫn theo cách tính trên, như sau: Nếu mức lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng([10]). Ví dụ: C vay của D 10.000.000 đồng vào ngày 30/12/1995 với thời hạn vay là 6 tháng và với lãi suất là 4%/tháng. Hàng tháng C đã phải trả lãi cho D. Tháng 7/1996 C ngừng trả lãi cho D. Do đòi nhiều lần không được, nên tháng 11/1996 D khởi kiện yêu cầu toà án buộc bên C phải trả cả nợ gốc và lãi cho D. Khi giải quyết vụ kiện này, toà án buộc C trả cho D tiền nợ gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi theo cách tính như sau: - Thời điểm C vay D là tháng 12 – 1995. Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày 28 – 12 – 1995 thì lãi suất cao nhất của loại vay trung hạn và dài hạn là 1,7%/tháng. Như vậy toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là 2,55%/tháng (1,7% + 1,7% x 50% = 2,55%/tháng). Nay BLDS 2005 đã sửa đổi Khỏan 1 Điều 473 BLDS 1995 như sau: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước 9
- công bố đối với các loại cho vay tương ứng”([11]). Để dễ nhận thấy sự khác biệt giữa hai Điều luật, ta lập bảng so sánh, đối chiếu: Khoản 1 Điều 473 BLDS 1995 Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 Qui định: “Lãi suất vay do các bên Qui định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất (nay là quá 150% của lãi suất cơ bản do lãi suất cơ bản) do Ngân hàng nhà Ngân hàng nhà nước công bố đối với nước quy định(công bố) đối với các các loại cho vay tương ứng”. loại cho vay tương ứng”. Ví dụ: Thời điểm C vay D là tháng 12- Ví dụ: Thời điểm C vay D là tháng 03- 1995. Theo Quyết định số 381- 2008. Theo Quyết định số 479- QĐ/NH1 ngày 28-12-1995 thì lãi suất QĐ/NHNN ngày 29/02/2008 thì lãi cao nhất của loại vay trung hạn và dài suất cao cơ bản là 8,75%/năm. Như hạn là 1,7%/tháng. Như vậy toà án chỉ vậy Toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng của hợp đồng vay nợ là vay nợ là 2,55%/tháng. (1,7% + 1,7% 21,875%/năm (8,75% + 8,75% x x 50% = 2,55%/tháng). Từ Ví dụ trên, 150% = 21,875/năm). Từ Ví dụ trên, áp dụng to¸n học ta có công thức tính áp dụng to¸n học ta có công thức tính lãi suất cho vay, như sau: Gọi A: là lãi lãi suất cho vay như sau: Gọi A: là Lãi suất cơ bản; B: là Lãi suất cho vay tối suất cơ bản; B: là Lãi suất cho vay tối đa. Ta có: B = A + A x 50% = A đa. Ta có: B= A + A x 150% = A (1+50%) [Qui đổi 1=100%] = A (1+150%) [Qui đổi 1=100%] = A (100%+50%) = A x 150% hay B= A x (100%+150%) = A x 250% hay B = A 1,5lần x 2,5lần Tóm lại: Theo BLDS 1995, nếu mức Theo BLDS 2005, nếu mức lãi suất do lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá các bên thoả thuận vượt quá 150% của 10
- 50% của lãi suất cao nhất do Ngân lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà hàng Nhà nước quy định đối với loại nước công bố đối với loại vay tương vay tương ứng tại thời điểm vay, thì ứng tại thời điểm vay, thì toà án áp toà án áp dụng khoản 1 Điều 473 dụng khoản 1 Điều BLDS 2005 buộc BLDS1995 buộc bên vay phải trả lãi bên vay phải trả lãi bằng 250% mức bằng 150% mức lãi suất cao nhất do lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà Ngân hàng Nhà nước quy định đối với nước công bố đối với loại vay tương loại vay tương ứng. ứng. Như vậy với cách hiểu và tính toán trên ta có: Gọi A: Lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố, thì lãi suất cho vay của các Ngân hàng sẽ không được vượt quá: A + A x 150% = A (1+150%) = A (100%+150%) = A x 250% = A x 2,5 lần. Như vậy mức lãi suất cơ bản được NHNN công bố là 8,75%/năm thì mức lãi suất cho vay của các ngân hàng không được vượt quá: 8,75% x 250% = 21,875%/năm. Nếu các ngân hàng cho vay trên mức 21,875%/năm (hay 1,82%/tháng) là phạm luật. Đây là những quan điểm của các luật sư và các nhà chuyên môn mà những quan điểm này được đánh giá rất cao và là cơ sở để thế hệ chúng tôi học tập. Một điều luật có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau nhưng với cách hiểu của mình tôi thiết nghĩ nếu hiểu nội dung của điều 476 BLDS 2005 là quy định lãi suất không được vượt quá 250% lãi suất cơ bản thì không ổn. Vì khi quy định như thế chẳng khác nào là khuyến khích cho vay nặng lãi. Một đòi hỏi bức thiết là cần phải giải thích luật một cách rõ ràng, cụ thể để trách tình trạng có những quan điểm khác nhau([12]). Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “thoả thuận giữa các bên” tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp đồng vay tiền có lãi suất bằng cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại 11
- cho vay tương ứng”. Nhưng “quy định vẫn chỉ là quy định”, không có chế tài áp dụng thì việc đưa ra các quy định này cũng không mang lại kết quả như ý muốn. Nếu có chế tài áp dụng đối với việc quy định lãi suất cũng chỉ là chế tài hành chính, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại một khoản tiền mà bên vay chứng minh được việc vay với lãi suất vượt qua mức quy định của pháp luật của bên cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa, nhu cầu đi vay của người vay thường trong những trường hợp cấp bách và cần thiết, việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công việc của người đi vay. Cần phải có những quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình hình trên. Việc quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ khiến các doanh nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng tiền bị đọng lại và không phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp vay tiền là để đầu tư nhưng với mức lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có lãi nên các doanh nghiệp không vay là đương nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền cũng có thể để đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một công việc nào đó hay để đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những người này không có khả năng trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy nguồn tiền trong các Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những không đem lại hiệu quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá nhân… muốn vay. Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối tượng ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽ làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm sự phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách quan, 12
- lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới. Như vậy, việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều không mang lại hiệu quả. Nhà nước tính toán làm sao để pháp luật có những quy định hợp lý không làm giảm hiệu quả của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững và lâu dài cho nền kinh tế. Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất được quy định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp A cho B vay với lãi suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố trong thời gian 1 năm nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc này phát sinh lãi suất quá hạn và lãi suất này được tính như thế nào? Nếu A và B có thoả thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi suất này lại vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi suất đúng hạn mà A và B thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước) thì lúc này hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực sự hiệu quả? Nếu trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì việc tính lãi suất này sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân loại lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn là như nhau. Hiện nay, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng tại một số ngân hàng đã bắt đầu cán đích 10%, trong khi lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên 7% và trần cho vay tối đa không quá 10,5%/năm. Bằng phép tính đơn giản cũng có thể nhận ra rằng không có lý do gì để ngân hàng đẩy lãi suất lên để gánh lấy thua lỗ, trừ khi lâm vào tình huống gặp khó khăn trong thanh khoản. Thật ra, nguyên nhân chính ở đây là do 13
- một số ngân hàng đang chuyển hướng mạnh sang cho vay tiêu dùng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, với mức lãi suất bình quân từ 12-15%/năm, chênh lệch giữa đầu ra – đầu vào lên đến 4-5 điểm phần trăm/năm, một tỷ lệ thực sự hấp dẫn nếu chúng ta biết rằng trong tín dụng nếu duy trì chênh lệch khoảng 3,5 điểm phần trăm/năm là có thể tạm yên tâm về tài chính. Việc điều hành thông qua cơ chế “hai giá”, vừa duy trì lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng chừng là lối thoát tài chính hợp lý cho các ngân hàng thương mại, nhưng vô hình trung đã nắn dòng chảy tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh lệch lãi suất, vốn tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất hiện nay là bất động sản và chứng khoán. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vẫn đang khẳng định dư nợ cho vay chứng khoán và bất động sản hạch toán trên sổ sách nhìn chung chưa có biến động lớn vượt tầm kiểm soát, đây là ý kiến đáng lưu ý vì nhiều nhà quan sát cho rằng sở dĩ thị trường chứng khoán thời gian qua nóng lên bất thường phần lớn là do sự tiếp sức nhanh và mạnh từ các luồng tiền ngân hàng. Hiện tại, các NHNN đang tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật NHNN Việt Nam (sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Một trong những điểm mới mà luật đưa ra là TCTD và khách hàng có thể tự thỏa thuận mức lãi suất. Việc thỏa thuận lãi suất sẽ khiến việc huy động vốn dễ hơn. Dự thảo Luật Ngân hàng Nhà Nước và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sẽ chính thức trình Quốc hội thông qua vào năm 2010. Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi gồm 10 chương, 164 điều. Nhận được nhiều ý kiến đồng tình khi trao quyền cho TCTD và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất trong các hoạt động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật Dân sự vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Đặc biệt, việc áp dụng trần lãi suất có thể làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không phản 14
- ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó đã vô hiệu hóa một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ… Như vậy chiếu theo Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng” thì rất nhiều Ngân hàng đang vi phạm luật bởi lãi suất cơ bản do NHNN công bố hiện chỉ 7%/năm tức lãi suất cho vay không được vượt quá 10,5%/năm. Dường như, thời gian qua nắm được điểm yếu này, các Ngân hàng tha hồ nâng lãi suất, ký những hợp đồng phạm luật mà không e ngại. Luật sư Nguyễn Sa Linh([13]) khẳng định: “Nếu tranh chấp về lãi suất được đưa ra Tòa, những hợp đồng có lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản sẽ bị tuyên vô hiệu vì phạm luật và khách vay có quyền trả với lãi suất 150% lãi cơ bản”. Còn Luật sưNguyễn Thanh Lương([14])phân tích “dù trong hợp đồng có điều khoản không được tiết lộ những điều khoản cho bên thứ 3, nhưng luật cũng quy định một số cơ quan có thẩm quyền được phép biết và Tòa án nằm trong số đó. Còn việc ngân hàng cho rằng lãi trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận thì vẫn vi phạm Điều 476 Bộ luật Dân sự”. Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là hiện tượng các Ngân hàng hiện nay cho vay với các điều kiện vô lý. Ví dụ: muốn vay 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để đầu tư phải thoả mãn điều kiện có 10 héc ta (ha) đất không thì phải trả lãi suất cao mới được vay. Nhưng rất ít hộ dân có tới 10 ha đất. Tác giả cho rằng không nên quy định hạn mức mà điều kiện cho vay cần phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì nếu hộ dân có 1, 2 sào thì chỉ được vay 1, 2 triệu đồng như vậy không đủ để đầu tư. Hơn nữa, nếu trên mảnh đất “1, 2 sào” đó lại có tiềm năng phát triển thì như vậy quy định của các ngân hàng lại gián tiếp làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu chấp nhận vay thì người dân phải chấp nhận một lãi suất cao “ngút trời”. Các ngân hàng đã vin vào các điều kiện vô lý này để tiến hành cho vay nặng lãi. 15
- Dư luận đang chờ các cơ quan có thẩm quyền giải bài toán “cho vay nặng lãi” của các ngân hàng. 3. Một số khuyến nghị Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay tiền, dựa vào thực trạng và những nhận xét nêu trên tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau đây: Thứ nhất, trong Bộ luật dân sự cần có quy định rõ về khái niệm lãi suất và các loại lãi suất. Việc quy định của pháp luật còn bất cập ở chỗ vô tình đồng nhất lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn, cần có một sự điều chỉnh. Như đã biết lãi suất không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhưng khi tính lãi suất quá hạn thì được tính như thế nào? Nếu vẫn áp dụng lãi suất quá hạn nhỏ hơn hoặc bằng 150% lãi suất cơ bản thì chẳng khác nào khẳng định hai loại lãi suất này không có gì khác nhau. Vậy có thể tính lãi suất quá hạn như sau: Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng hạn Lưu ý lãi suất đúng hạn không được vượt quá bằng 150% lãi suất cơ bản (để phù hợp với điều 476 – BLDS 2005). Ví dụ: A cho B vay 1.000.000 đồng trong thời hạn 1 năm với lãi suất là 10%/năm (lãi suất cơ bản tại thời điểm hiện nay do Ngân hàng Nhà nước công bố là 7%/năm). Sau 1 năm kể từ ngày hợp đồng được giao kết, B phải trả cho A 1.000.000 đồng (gốc) cộng với một khoản lãi là: 100.000 đồng. Nhưng 2 năm sau B mới trả tiền cho A, lúc này phát sinh lãi suất quá hạn, ngoài số tiền gốc và lãi suất đúng hạn, A còn được nhận lãi quá hạn vì 1 năm chậm trả của B. Hai bên thoả thuận mức lãi suất quá hạn là 150% lãi suất đúng hạn tức khoản tiền là 150.000 đồng x 2 năm = 300.000 đồng. Nếu lãi suất đúng hạn là 10.5%/năm (150% lãi suất cơ bản (7%) do Ngân hàng Nhà nước công bố), khi tính lãi suất quá hạn vẫn áp dụng cách tính là nhỏ hơn 16
- hoặc bằng 150% lãi suất cơ bản thì không ổn, lúc này lãi suất đúng hạn bằng lãi suất quá hạn. Có nghĩa là: A cho B vay 1.000.000 đồng, lãi suất là 10,5%/năm trong thời hạn là một năm. Sau 1 năm B phải trả cho A 105.000 đồng tiền lãi cho A. Nhưng sau một năm B vẫn chưa trả, lúc này sẽ phát sinh lãi suất quá hạn. áp dụng công thức: Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng hạn thì lúc này lãi suất quá hạn sẽ lớn hơn lãi suất cơ bản: Lãi suất quá hạn = 150%/năm x 10.5%/năm = 15.75%/năm. Do vậy, BLDS cần bổ sung thêm khái niệm lãi suất và các loại lãi suất như sau: Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận. Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho vay tương ứng với thời gian chậm trả. Để không gây mâu thuẫn trong các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật nhất thiết phải chỉ rõ: - Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng; - Lãi suất đúng hạn mà các Ngân hàng thương mại, các TCTD hoặc các hình thức chơi họ, hụi, biêu, phường chọn không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản; - Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất đúng hạn. Thứ hai, về việc xử lí hậu quả của hợp đồng vay tiền vi phạm quy định về lãi suất: đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên Toà án sẽ áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ trong hợp đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng cần phải cân nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những trường 17
- hợp khác do pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính Bộ luật dân sự. Thứ ba, về vấn đề hụi, họ, biêu, phường: có thể thấy việc quy định lãi suất trong hợp đồng vay là rất cần thiết, nó càng hiện thực hơn nữa trong nền kinh tế hiện nay khi trị giá của đồng tiền luôn có những biến đổi không ngừng. Làm sao để quy định mức lãi suất có thể đem lại lợi nhuận cho người cho vay nhưng cũng đem lại khả năng đầu tư có hiệu quả trong việc vay lãi của người vay để họ có khả năng trả nợ, trả lãi và có thể đem lại lợi nhuận. Trên thực tế, không phải lúc nào các hợp đồng vay tiền cũng đảm bảo đầy đủ các giá trị pháp lí. Hơn nữa các hình thức cho vay có thể biến thái thành các hình thức tiêu cực. Trong nhân dân, các hình thức họ, hụi, biêu, phường diễn ra phổ biến mang tích chất là giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt… là chính. Tuy nhiên không phải lúc nào các hình thức cho vay này cũng lành mạnh nhất là trong xã hội ngày nay, các tệ nạn xã hội diễn ra ngày càng phức tạp. Hơn nữa để định nghĩa một cách rõ ràng thế nào là họ, là hụi, là biêu, là phường rất khó. Có nhiều người cho rằng bốn hình thức cho vay này trong nhân dân có cùng bản chất. Với ý kiến Ông Hà Đức Lệnh – Đại biểu quốc hội cho hụi và họ bản chất không giống nhau: "Họ mang tính chất tương trợ, không tính lãi. Còn hụi là cho vay với lãi suất cao, dễ phát sinh tiêu cực, ảnh hưởng lớn tới xã hội, nhất là khi đường dây hụi đổ bể". Ông Lệnh cũng như nhiều đại biểu nhất trí Nhà nước cần quản lý hụi bằng cách khống chế mức lãi suất cho vay, nếu vượt quá giới hạn quy định thì có chế tài xử lý. Theo quan điểm của tác giả, cả bốn hình thức này đều có thể thoả thuận có lãi suất. Bởi bản chất của hợp đồng vay tiền mà nhờ bản chất này có thể phân biệt dễ dàng với các hợp đồng khác đó là lãi suất. Hợp đồng vay tiền có lãi suất chính là thể hiện đặc điểm “đền bù” trong các hợp đồng dân sự. Ví dụ về đường dây hụi ngày: Vay 30.000 đồng một ngày, trả lãi 500 đồng/ngày, sau 1 tháng phải trả cả vốn và lãi là 45.000 đồng (tương đương lãi suất 100%). 18
- Nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp chơi hụi với hình thức cho vay lãi cao: 200%, 300%… thậm chí còn cao hơn thế nữa. Vì thế nhà nước cần quản lý hụi, không thể cứ không quản được thì cấm, biến hụi trở thành cái gì đó xấu xa. Theo tác giả, đối với các hình thức cho vay trong nhân dân: họ, hụi, biêu, phường cần phải được kiểm soát sát sao. Các chủ họ, hụi, biêu, phường (nhà cái) cần phải được đăng kí và được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền mới được phép hoạt động. Làm như vậy để kiểm soát được sự hoạt động của các hình thức này. Thông thường việc quy định lãi suất của các hình thức cho vay này rất khó kiểm soát và hầu hết là trái với quy định tại Điều 476 – BLDS 2005. Các hình thức cho vay này thường quy định mức lãi suất rất cao, nếu như cho vay với mục đích tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và áp dụng mức lãi suất phù hợp với pháp luật thì Đảng và Nhà nước ta rất khuyến khích, bởi trong tình hình hiện nay với sự khan hiếm của đồng tiền các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đôi khi không xoay sở kịp cần phải có những hình thức cho vay khác để đảm bảo được nhu cầu của người dân. Tuy nhiên trên thực tế các nhà cái lại lợi dụng tình hình này để hoạt động cho vay nặng lãi. Hơn nữa có một số các chủ hụi cũng huy động góp vốn với lãi suất cao rồi sau đó “ôm tiền bỏ chạy” để những người góp vốn không biết tìm đâu để thấy tiền của mình. Việc chơi họ, hụi, biêu, phường có thể coi là một hình thức kinh doanh vậy nên việc đăng kí hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là rất cần thiết, không chỉ giúp Nhà nước quản lý được các giao dịch dân sự mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Thứ tư, về chính sách lãi suất: Có thể nói khi lãi suất của ngân hàng Nhà nước tăng cao hoặc việc cho vay tiền của các cá nhân có quy định mức lãi suất quá cao sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư. Nhu cầu đầu tư là lượng tiền được nắm giữ nhằm quản lý tài sản một cách linh hoạt và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá lợi nhuận và an toàn. Nói cách khác, công chúng nắm giữ tiền với tư cách như là một công cụ đầu tưmà không phải là phương tiện để trao đổi. Mức sinh lời của 19
- tiền tệ là bằng 0 hoặc rất thấp so với các hình thức đầu tư khác. Mặc dù loại hình đầu tư này vẫn tốt hơn mức sinh lời âm mà các loại hình đầu tư đó có thể mang lại. Tỷ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư trong một giai đoạn là tổng của tỷ lệ lãi suất và tỷ lệ tăng giá; trong khi mức sinh lời từ lãi suất luôn lớn hơn 0 thì tỉ lệ biến động giá có thể là một số âm. Trong chừng mực sự thiệt hại từ mức giá biến động vượt quá lợi nhuận mang lại từ lãi suất thì tỉ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư là một số âm. Việc đầu tư vừa phải mang lại lợi nhuận, vừa phải an toàn. Với mức lãi suất cao, người đi vay khó có khả năng cáng đáng được được cả gốc lẫn lãi. Hệ quả xảy ra là ít người, ít công ty… vay hoặc vay nhiều để đầu tư có quy mô. Ngược lại, với lãi suất quá thấp, người dân sẽ không gửi tiền và dẫn đến hoạt động của các Ngân hàng kém hiệu quả, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, ban hành một chính sách lãi suất phù hợp kích thích được các hoạt động cho vay tài sản nói chung và vay tền nói riêng sẽ có tác động không nhot tới sự phát triển ổn định của kinh tế – xã hội. Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng nói riêng và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung: sự biến đổi của đồng tiền và sự khan hiếm của chính nó tại một số thời điểm trong thời gian qua đã tạo cơ hội cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần so với sự quy định của Nhà nước. Trên thực tế, các Ngân hàng có những lúc không có đủ tiền để cho vay hay chỉ là đưa ra những lí do để tạo khó khăn cho người đi vay? Chính phủ đưa ra các gói giải pháp để hỗ trợ cho những người nghèo nhưng việc tiếp cận của các gói giải pháp này tới người dân còn rất khó khăn. Người dân không chạm tới được những sự hỗ trợ của Nhà nước, may chăng được tiếp cận nó nhưng cơ chế cho vay tiền của các Ngân hàng đặc biệt là các tổ chức tín dụng ở vùng sâu, vùng xa đã gây khó khăn cho người đi vay. Từ những nguyên nhân trên, những người có nhu cầu đi vay, để tránh “phiền phức”, họ không vay ở các Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng mà vay của những người “dư dật” của 20
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn