
Lịch sử Điện từhọc
(Phần 9)
1840 - 1849
Trong thập niên này, các nhà khoa học cốgắng đào sâu kiến thức của họvề
cách thứcđiện và từhoạtđộng và tương quan với nhau. Định luật Joule, do nhà vật
lí Anh James Prescott Joule thiết lập, ráp thêm một mảnh vào trò chơi ráp hình bởi
việc giải thích mối quan hệgiữa dòng điện chạy qua mộtđiện trởvà nhiệt tỏa ra.
Nhà hóa học Michael Faraday tiếp tục công trình lí thuyết huyền thoại của
ông, làm việcởtốcđộ khác thường. Ví dụ, năm 1845, ông phát hiện ra cái trởnên
nổi tiếng là hiệuứng Faraday (theo đó mặt phẳng phân cực của ánh sáng truyền
qua thủy tinh bị ảnh hưởng bởi các đường sức từ, cho thấy từtính và ánh sáng có
liên quan nhau), được nhiều người xem là đóng góp lớn nhất của ông cho khoa học.
Ông còn nhận ra một dạng mới của từtính mà ông gọi là tính nghịch từ(trong đó
các chất nhưthủy tinh bị đẩy yếu bởi nam châm). Trướcđó, người ta tin rằng các
tính chất từchỉtìm thấyởmột vài nguyên tốnhưsắt chẳng hạn. Faraday nhận ra
rằng nó là một tính chất chia sẻ,ởmứcđộ khác nhau, bởi toàn bộvật chất. Quan

niệm này sau đó được khai thác trong công trình của các nhà vật lí William
Thomson (sau này là ngài Kelvin) và James Clerk Maxwell.
Các nhà khoa học khác áp dụng trí năng của họcho những nghi vấn lí thuyết,
gồm nhà vật lí Đức Wilhelm Weber, người cốgắng (không thành công) mang gộp
tất cảkiến thức hiện có về điện từhọc vào một lí thuyết duy nhất (đơn vịcủa số đo
từthông đặt theo tên Weber). Ngườiđồng bào của ông, Hermann von Helmholtz,
trong sốnhững thành tựu to lớn khác, đã phát triển một phát biểu vềsựbảo toàn
năng lượng ởmọi dạng thức của nó, kểcảtĩnh điện và từhọc.
Một bước tiến lịch sửto lớn trong lĩnh vựcđiện từhọcứng dụng được thực
hiện vào tháng 5 năm 1844, khi Samuel Morse gửi tin nhắnđầu tiên trên đường
dây điện báo do chính quyền liên ban thuê, mới hoàn thành, giữa thủ đô
Washington và Baltimore, MD. ỞWashington, Morse nhấn lên một phím điện báo,
đập xuống mộtđĩa kim loại và khép kín một mạch điện. Dòng điện khi đó chạy qua
dây dẫnđến máy nhậnởBaltimore. Ở đó, dòng điệnđi qua một nam châm điện,
tạo ra từtrường làm cho phím của máy nhận hút vào đĩa bên dưới nó. Khi khóa
đập vào đĩa, nó kêu lớn, ởdạng mã Morse, người ta đọc một mã bip, “Chúa đúng là
một người thợrèn!”.

Sựhiểu biết nhiều dần của các nhà khoa học về điện và cách thứcđiều khiển
nó đã được chứng minh trong thời kì này ởmột dụng cụ đođược truyền bá và đặt
tên của Charles Wheatstone. Cấu thành từbốnđiện trở, một chiếc pin và mộtđiện
kế, cầu Wheastone đo mộtđiện trởchưa biết bằng cách cân bằng hai chân của một
mạch cầu.
Xem lạiPhần 1 |Phần 2 |Phần 3 |Phần 4 |Phần 5 |Phần 6 |Phần 7 |Phần 8
1840 - 1849
1
840
Nhà vật lí Anh James Prescott Joule công bốmột bài
báo, Vềsựsản sinh nhiệt bởi dòng điện volta, trong đó ông
mô tảlượng nhiệt sinh ra bởi một dòng điện (định luật
Joule).
1
841
Nhà phát minh Frederick de Moleyns ởnước Anh
được cấp bằng sáng chế đầu tiên cho bóng đèn nóng sáng.
1
843
Nhà vật lí Anh Charles Wheatstone phổbiến một
thiết bịdùng so sánh các điện trởsau này nổi tiếng là cầu
Wheatstone, mặc dù nó được phát minh bởi Samuel

Christie.
1
844
Đường điện báo chính thứcđầu tiên, xây dựng với
sựtài trợcủa Quốc hội Mĩ, hoàn thành ởnước Mĩvà tin
nhắnđầu tiên được gửiđi bởi nhà phát minh của nó,
Samuel Morse.
1
845
Nhà vật lí Đức Gustav Kirchhoff đưa các định luật
của ông vềmạch điện, chúng đượcđặt tên ông để tôn vinh
ông.
1
845
Nhà hóa học Anh Michael Faraday quan sát thấy mặt
phẳng phân cực của ánh sáng truyền qua thủy tinh bi ảnh
hưởng bởi các đường sức từ, một dấu hiệu rõ ràng cho
thấy từvà ánh sáng có liên quan nhau. Hiện tượng được
Faraday tạo ra bằng thực nghiệm thường được gọi là hiệu
ứng Faraday hoặc chuyểnđộng quay Faraday.
1
845
Michael Faraday phát hiện ra một dạng không được
nhận ra trướcđó của từtính ởbismuth, thủy tinh và một
sốchất liệu khác ông đặt tên là chất nghịch từ.
1
845
Nhà vật lí và toán học Franz Neumann ở Đức công
bốnhững suy luận của ông vềcác định luật toán học cho
sựcảmứng của dòng điện.
1
846
Michael Faraday đề xuất trong một bài luận ngắn
rằng ánh sáng có thểlà một hiện tượng điện từ.
1
846
Nhà vật lí Đức Wilhelm Weber nỗlực hợp nhất các
kết quảphân tích và thực nghiệm của André-Marie
Ampère, Michael Faraday và những người khác trong sự
phát triển của ông vềmột lí thuyếtđiện từbao hàm các lực

giữa các hạt tích điệnđang chuyểnđộng. Mặc dù lí thuyết
của ông sau này bịcoi thường, nhưng công trình của
Weber đã đi trước nhiều tiến bộkhác trong lĩnh vực lí
thuyếtđiện từ.
1
847
Wilhelm Weber đưa ra ý tưởng tính nghịch từ đơn
giản là một ví dụcủađịnh luật Faraday tác động lên các
mạch điện phân tửvà đề xuất rằng tính nghịch từtồn tại
trong các chất thuận từvà sắt từnhưng bịche ẩn do cường
độ tương đối của các dòng điện phân tửvĩnh cửu mà nó có.
1
847
Hermann von Helmholtz, nhà vật lí và bác sĩngười
Đức, đọc bài báo của ông Vềsựbảo toàn lựctrước Hội Vật
lí ởBerlin, đưa ra một trong những lời giải thích sớm nhất
và rõ ràng nhất vềnguyên lí bảo toàn năng lượng chi phối
năng lượng tĩnh điện, năng lượng từ, năng lượng hóa học
và tất cảcác dạng năng lượng khác.