Lịch sử Nguyên T- Phần 3
Vào mùa năm 1900, khi Rutherford trở về n y Lan để cưới
vthì Frédérick Soddy ti Montreal. Soddy khi đó mới 22 tui, năm trước
vừa đậu văn bằng Hóa Học tại trường Đại Học Oxford, nhưng vì không
kiếm nổi việc m ti nước Anh n Soddy đành sang Canada. Trong thời
gian lưu li Montreal, Soddy đã lóa mắt trước các phòng tnghim lộng lẫy
do Sir William Macdonald, vua thuốc lá, xây dựng cho trường Đại Học
McGill. Vì vy Soddy tình nguyn nhận chân nghiệm chế viên hóa học.
Chính ti phòng t nghiệm của Rutherford, Soddy được giao pviệc kho
sát chất Thorium. Soddy Rutherford đã tìm ra một hóa chất còn nghi ng
với tên gọi là Thorium X.
Khi tr về làm việc tại Cambridge, Rutherford khảo sát sự i ông
hóa thy rằng Uranium phát ra hai loại tia mà ông đặt tên tia alpha
tia bêta. Sau đó nhà vật lý học trẻ tui của trường Đại Học McGill là Arthur
Gorden Grier nhn thấy rằng Thorium cũng như Uranium chỉ cho tia alpha
trong khi Uranium X và Thorium X phát ra tia bêta.
5/ Ngành Vật Lý Nguyên Tử vào đầu thế kỷ 20.
Vào đầu mùa m 1902, Rutherford Soddy cùng viết các bài
phúc trình trên Tạp CThe Philosophical Magazine xuất bản tại London.
Khi gần viết hết loạt bài này thì tưởng của hai nhà bác học này lại chuyển
sang ý niệm về sự biến dch (transmutation). Rutherford Soddy đã đề cập
tới thuyết của sự biến đổi (La Théorie de la Transformation) và thuyết
này trnên rất thích nghi vào các m 1902/1903. Rutherford và Soddy còn
viết thêm bn tường trình cuối cùng trước khi Soddy nhn chức vụ tại phòng
thí nghim ca Giáo Sư William Ramsay.
Ít lâu sau ngày kArgon được khám phá, người đã báo cho nhà
bác học Ramsay biết rằng một khoáng chất, chất cléveite, khi cho hòa tan
vào trong một acít, đã để bốc ra một thứ khí thể là Argon. Ramsay lin
làm tnghim về cht cléveite đã thấy rằng đó không phi là Argon,
là Hélium.
Thi bấy gi Rutherford và Soddy đều đã khuyến cáo rằng khí
Hélium thlà một nguyên tdo từ sự biến dch của các chất Uranium và
Radium. thế tmùa xuân m 1903, Rutherford tìm ch lấy k lium
tchất Radium trong khi Soddy lại nghĩ tới việc tạo ra Radium từ Uranium.
Thật là may mắn cho Soddy khi ông được cộng tác với Ramsay vì nhà khoa
học này ngi việc khám phá ra kArgon vi Lord Rayleigh, n tự tìm ra
nhiều k hiếm khác cùng một họ, đó là c khí lium, Néon, Krypton,
Xénon. Soddy cùng Ramsy đã khảo sát khí lium để rồi đi đến kết luận
Hélium là một thứ khí hiếm mà cũng là một nguyên tcác đặc tính
biệt. Hai nhà bác học này đã nhận thức được rằng một chất thể biến dch
tmột cht khác như vậy, thuyết ca Rutherford và Soddy mi đề cập
15 tháng trước đây được kể như đúng với sthật. Nhưng giới khoa học phi
đợi tới mùa xuân năm 1905, lý thuyết về sự biến đổi mới được Rutherford
chứng minh một cách đầy đ, trừ chất Polonium, chất y được cắt nghĩa
vào mùa m 1906. Nh lý thuyết biến đổi, các nhà bác học đã thể cắt
nghĩa về các chất phóng xạ.
Trong các m đầu của thế kỷ 20, việc khảo cứu chất phóng xạ được
nhiều nhà c học theo đuổi, chẳng hạn như Giáo Willy Marckwald
thuộc trường Đại Học Berlin, Stephan Meyer nhà vật Egon von
Schweidler, nhà hóa học kiêm vật thuộc trường Đại Học Vienne,
Heinrich Greinacher Karl Herrmann, hai Giáo Sư người Đức,
Herbert N. McCoy, một nhà hóa học trẻ tuổi tại trường Đại Học Chicago,
Bertram Boltwood, nhà hóa học tại New Haven, Hoa Kỳ.
Đầu năm 1907, Giáo Sư Arthur Schuster thuộc trường Đại Học
Manchester, c Anh, muốn về u. Ông ngỏ ý mong được Rutherford
thay thế mình. Lúc by giờ Rutherford đang McGill đã trnên vng
vàng vđịa vị cũng như tiền bạc, nhưng Đại Học McGill lại xa trung tâm
thế giới khoa học của thời đó là châu Âu, trong khi ti châu Mỹ, việc khảo
cứu khoa học vẫn còn b coi là th xa xỉ. Cũng vì vy Rutherford đành
xuống tầu vào giữa tháng 5 năm đó để trở vnước Anh. Khi tới Manchester,
Rutherford gặp Hans Geiger mới đến nhận việc. Geiger khi đó vừa mới đậu
Tiến Sĩ ttrường Đại Học Erlangen và ti Manchester không phải với tư
cách sinh viên hay nhân viên ging huấn mà chđể khảo cứu môn vật lý.
Geiger được Rutherford giao cho công việc làm phát triển phương pháp I
ông hóa chđích ca ng việc này tìm ch ng chế một dụng c
dùng để đếm các hạt alpha.
Geiger Rutherford đã dùng lại phát minh của John S. Towsend,
một người bạn cũ của Rutherford tại Cambridge và b túc bằng những ý
kiến của nhà toán học trẻ tuổi Paul J. Kirby. Hai nhà c học kể trên đã
hoàn thành một máy đếm (compteur) nhờ đó người ta đếm được các hạt đin
tử. Rutherford và Geiger n suy ra vào mùa năm 1908 rằng hạt điện tử
alpha ging hệt như nguyên tử Hélium. Ít lâu sau, Rutherford biết tin ông
được trao Giải Thưởng Nobel 1908 vHóa Học.
T đầu năm 1909, với sự phụ tá của Geiger và Ernest Marsden, một
sinh viên trtuổi, Rutherford vẫn tiếp tục nghiên cu về các chất phóng xạ
để rồi tới tháng 5 năm 1911, ông cho phổ biến trên tạp chí The Philosophical
Magazine ý tưởng về một kiu mu nguyên tử. Nguyên tử khi đó được quan
nim là một khoảng trống không, n ngoài các điện tdi chuyển chung
quanh một m phân n theo một điện trường cường độ giảm theo bình
phương khong ch. m phân n này rất nhỏ, điện dương và khối
lượng tương đối rất lớn. thuyết nguyên tca Rutherford ging như thái
dương hệ, đã cho phép cắt nghĩa được nhiều hin tượng nhưng một trở ngại
được nêu lên. Nếu có các điện txoay quanh nhân, thì chắc hẳn phi có s
phát ra ánh ng do đó, sinh ra sco lại của các quỹ đạo khiến cho c
điện tử sẽ b rơi vào nhân trong khi theo snhận xét, điều này đã không xy
ra.
Tới mùa xuân năm 1912, tất cả khoa học gia tại Manchester đều công
nhận kiu mẫu nguyên tca Rutherford nhưng chính vào lúc y, một du
khách ti Manchester: Niels Bohr. Bohr con của một Giáo Sư Sinh Lý
Học thuộc trường Đại Học Copenhague. Ông vừa đậu xong văn bằng Tiến
Sĩ Vật sang nước Anh để học hỏi thêm. Sau 4 tháng, Bohr tr về
Copenhague với nhiu kiến thức thu lượm được.