LOẠN NHỊP TIM
(Kỳ 5)
4. Rung thất
- ĐTĐ - một đường ngoằn ngoèo run rẩy (run thớ tim tâm thất), khó
phân định được là sóng QRS rng như hòa vào nhau, tần số thất 250 -
300/phút, nhưng sự thực nhanh chậm không chừng, lớn không chừng, luôn
khác nhau.
- Thực sự đe dọa sinh mạng. Ngay trước RT thể sự khởi kích RT bởi
một NTTT kiểu R/T gây NNT. Nhưng NTTT nguy hiểm y, thậm chí gọi là “đe
dọa sinh mạng” (vừa nêu cuối mục 6) xuất hiện rồi chuyển thành NNT, th
sang cuồng thất, cuồng - RT, rồi qua RT, ban đầu RT sóng lớn, sau là RT sóng
nh- giai đoạn hấp hối, tiền tử vong vậy.
- Skhông có mạch, mất ý thức, phải coi như ngưng tim ngưng thở, xử trí
ngay.
- Chẩn đoán phân biệt với ngưng thất do blốc N-T, với “phân ly điện -
cơ”(trong tràn máu màng ngoài tim, mất máu nhiều và đột ngột …).
D- CÁC BLỐC
1. Blc xoang nhĩ: từng quãng đột nhiên mất hẳn toàn phức bộ PQRST.
2. BN-T độ I: chú ý thời khoảng PR (hoặc PQ) > 0,22 - 0,24 sec.
3. BN-T độ II:
Là khi s lượng các phức bộ thất ít hơn (thiếu hụt) so với P (do có 1 số P
không dẫn). Có 2 kiểu (typ Mobitz) BN-T độ II:
- BN-T độ II typ 1: PR cứ dài thêm rồi mất hẳn 1 QRST, rồi cứ trở lại như
thế, mỗi lần ấy là một chu kỳ Wenkebach;
- BN-T độ II typ 2: vtrí tổn thương thấp hơn, phía dưới His, tiên
lượng nặng hơn. Cvài ba PR liên tiếp bình thường hoàn toàn dài như nhau bỗng
1 sóng P “không dẫn” tức không kèm QRST thường lệ (tựa như luật “tất
cả hoặc không có gì”).
4. BN-T độ III:
- Là blôc hoàn toàn, tức là tuyệt không có dẫn truyền từ nhĩ xuống thất:
- Nhĩ cứ bóp riêng với những sóng P cách nhau đều;
- Thất đành t tạo xung để đập riêng với nhịp các QRS rất thưa, chậm
(idioventricular - nhịp tự thất).
- Vậy là “N-T phân ly”.
5. Blc nhánh phải (BNP):
- Chuyển đạo V1, V2 lớn, rộng có hình chM với 2 đỉnh R và R’, hoặc
dạng RsR’ (rSR’ …), tiếp theo sau đoạn tái cực chênh hẳn xuống;
- Trong lúc đó, ở V5, V6 ngược lại, sóng S rộng và sâu.
6. Blc nhĩ thất:
- Sóng RV5, RV6 rộng, đỉnh tày có khấc, rồi đoạn tái cực chênh hẳn xuống;
- Trong khi đó V1-2 S rất rộng.
7. Blc phân nhánh trái trước: trục điện lệch hẳn sáng trái.
8. Nhóm đặc biệt: Hi chứng Yếu t xoang (YNX)
bản là loạn nhịp chậm (k từ nhịp chậm xoang, nhịp chậm bộ nối
cách hồi hoặc thường xuyên cho đến các nhịp chậm do các loại blôc xoang - nhĩ
và cả BN-T).
Nhưng rất hay kết hợp xen kẽ NN (thường do đang qchậm nên kích
hoạt một nhát thoát rồi thành nhịp thoát nhanh) với các loại NN trên thất như NN
kịch phát nhĩ, NTT nhĩ, RN - kể cả RN kịch phát -, cuồng nhĩ.
Cho nên hội chứng YNX một thời gian được gọi là “hội chứng nhịp
nhanh - nhịp chậm”. Mà vđiện sinh lý bệnh phải coi hội chứng YNX là một
“phổ” rộng gồm cả rối loạn tạo xung, cả rối loạn dẫn truyền trong khu vực m
nhĩ. Ta hiểu vì sao trước đây một nhóm tác giả Pháp gọi nó là Bệnh tâm nhĩ”.
Hội chứng YNX thường bị bỏ sót không được chẩn đoán, cứ nằm ẩn
phía dưới những tiền căn “ngất”, “chóng mặt”, RN” chẳng hạn, chưa bộc lộ rõ
hẳn ra (rất nguy hiểm nếu lỡ phải gây mê hoc dùng thuốc loạn nhịp).
(Nguồn: Tim mạch học - Bài giảng hệ Nội khoa. GS.BS. Nguyễn Huy Dung)