
Lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại
LỰA CHỌN BẤT LỢI
Thuật ngữ lựa chọn bất lợi (adverse selection) được gắn với ngành bảo
hiểm. Sự lựa chọn người mua bảo hiểm không phải là một mẫu ngẫu nhiên của
tổng thể dân số, mà là một nhóm người với thông tin riêng về tình huống cá nhân
của mình. Điều này làm cho những người mua bảo hiểm có xu hướng thu lợi từ
hợp đồng bảo hiểm cao hơn mức bình quân. Ví dụ, nếu một công ty bảo hiểm phát
hành một hợp đồng bảo hiểm y tế cá nhân, trong đó cam kết trang trải chi phí y tế
khi mang thai và sinh đẻ, thì có thể đánh cược một cách khá chắc chắn rằng những
người mua hợp đồng này đa số sẽ là các phụ nữ có kế hoạch sinh con trong tương
lai gần. Kế hoạch sinh con là thông tin riêng, tức là đặc điểm không quan sát được
của người mua bảo hiểm và điều này có tác động rất lớn tới chi phí bảo hiểm. Việc
cung cấp bảo hiểm mang thai và sinh đẻ một cách toàn diện cho từng cá nhân chịu
ảnh hưởng bởi vấn đề lựa chọn bất lợi một cách nghiêm trọng. Do vậy, ở Hoa Kỳ
không còn có kiểu bảo hiểm toàn diện như thế này và hầu hết bảo hiểm y tế là do
khu vực tư nhân thực hiện.
Ở nhiều nước, sự không đầy đủ của dịch vụ bảo hiểm y tế tư nhân đã khiến
chính phủ phải quốc hữu hóa dịch vụ y tế, mặc dù kết quả đạt được là cả tích cực
lẫn tiêu cực. Ở Hoa Kỳ, khu vực tư nhân đã phản ứng bằng cách phát triển một
thông lệ hoạt động mới - bảo hiểm y tế nhóm - với vai trò thay thế một phần cho

việc thiếu vắng thị trường các hợp đồng bảo hiểm y tế. Theo thông lệ hiện đại,
phần lớn bảo hiểm mang thai và sinh đẻ được cung cấp thông qua các kế hoạch
bảo hiểm y tế do tổ chức sử dụng lao động đóng góp. Theo hình thức này, bảo
hiểm mang tính tự động và bắt buộc đối với tất cả các thành viên của một nhóm
người lao động. Do việc tham gia không phải tự nguyện và do lợi ích bảo hiểm
mang thai và sinh đẻ được gắn với các lợi ích y tế khác, công ty bảo hiểm có thể
đảm bảo có được một tập hợp đa dạng người mua bảo hiểm và tránh được tình
trạng lựa chọn bất lợi.
Một ví dụ thứ hai về lựa chọn bất lợi là bảo hành xe hơi. Xe mới thường có
bảo hành, trong đó nhà sản xuất trả tiền cho mọi vấn đề nảy sinh (trừ bảo trì định
kỳ) đối với xe hơi trong một khoảng thời gian nhất định, ví dụ như một năm hay
12.000 dặm. Một số nhà sản xuất xe hơi đã thử nghiệm việc bán bảo hành mở rộng
cho các chi phí không phải bảo trì đình kỳ trong một khoảng thời gian lâu hơn, ví
dụ như 5 năm hay 50.000 dặm. Lý thuyết bảo hiểm dự đoán rằng bảo hành mở
rộng sẽ chủ yếu được những người có khả năng sử dụng xe cường độ cao (như lái
xe trở hàng nặng hay kéo rơ-moóc trên đường xấu trong điều kiện thời tiết khắc
nghiệt) mua. Những ai chỉ sử dụng xe để trở khách và lái trên đường tốt trong điều
kiện thời tiết bình thường sẽ ít khả năng mua bảo hành mở rộng. Chú ý rằng bảo
hành mở rộng trong đó bảo hiểm cho tất cả những người mua sẽ ít khả năng chịu
rắc rối này hơn, và gần đây các hàng xe hơi đã áp dụng phương thức này. Vậy,
mặc dù bảo hành mở rộng không phải là một lựa chọn đặc biệt thông dụng, một số

hãng xe hơi đã bắt đầu đã cung cấp bảo hành dài hạn như một chính sách chuẩn
khi bán xe. Bảo hiểm phổ quát có tác dụng tốt hơn là bảo hiểm các nhân. Lý do
cũng tương tự như việc bảo hiểm mang thai gắn trong hợp đồng bảo hiểm y tế do
tổ chức sử dụng lao động đóng góp có khả năng đứng vững về mặt kinh tế còn
chính sách bảo hiểm lợi ích mang thai cho từng các nhân thì không.
Lựa chọn bất lợi là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng; nó
nảy sinh vì thông tin riêng mà người mua bảo hiểm có trước khi họ ký hợp đồng
bảo hiểm, trong lúc đang tính toán xem mua bảo hiểm thì có lợi hay không. Một
phụ nữ tính chuyện mua bảo hiểm y tế với nhiều lợi ích về lao động và sinh đẻ có
thông tin riêng về kế hoạch gia đình của mình. Người lái xe mua bảo hành mở
rộng có thông tin riêng về việc sử dụng xe như thế nào. Các vấn đề rắc rối này
phát sinh cùng với vấn đề tâm lý ỷ lại. Tâm lý ỷ lại trong bảo hiểm là vấn đề bảo
hiểm làm thay đổi hành vi không được giám sát của người mua bảo hiểm. Tâm lý
ỷ lại, chứ không phải lựa chọn bất lợi, nảy sinh nếu một gia đình đã mua bảo hiểm
mang thai và sinh đẻ có động cơ sinh nhiều con hay có xu hướng sử dụng các sinh
vụ hộ sinh tốn kém, hay nếu một người sở hữu xe với bảo hiểm mở rộng có đông
cơ ít cẩn thận với xe hơn.
Lựa chọn bất lợi không tương thích với lý thuyết tân cổ điển về thị trường
trong Chương 3. Theo lý thuyết tân cổ điển, mọi hoạt động mua bán được thực
hiện trong một thị trường không mang tính nhân bản, và không ai quan tâm tới
việc ai là người ở phía bên kia giao dịch. Điều này không còn đúng khi có lựa

chọn bất lợi. Trong mô hình tân cổ điển, mỗi doanh nghiệp có một tập hợp xác
định các kế hoạch khả thi về kỹ thuật. Mỗi kế hoạch bao gồm những thứ mà doanh
nghiệp phải mua và bán để thực hiện kế hoạch. Khi có lựa chọn bất lợi, nguồn lực
cần để cung cấp bảo hiểm phụ thuộc không chỉ vào việc bao nhiều hợp đồng bảo
hiểm được bán mà con vào các đặc điểm không quan sát được của người mua.
Doanh nghiệp không thể xác thực được tính khả thi kỹ thuật của kế hoạch sản xuất
của mình nếu không biết hỗn hợp các đặc điểm không quan sát được của khách
hàng. Những điều này không chỉ phụ thuộc vào kế hoạch của doanh nghiệp mà
còn vào những sản phẩm bảo hiểm của các đối thủ cạnh tranh, vào giá của những
sản phẩm, và vào hỗn hợp các đặc điểm của toàn dân số. Trong mô hình tân cổ
điển, không một yếu tố nào trong những yếu tố trên được phép tác động đến tính
khả thi kỹ thuật của một kế hoạch sản xuất.
Lựa chọn bất lợi và đóng cửa thị trường
Khi vấn đề lựa chọn bất lợi trở nên đặc biệt nghiêm trọng, thì có thể không
có mức giá nào mà lượng cung hàng hóa của người bán bằng với lượng cầu của
người mua. Vấn đề là giá phải đồng nhất đối với mọi người mua, cho dù chi phí
phục vụ từng loại khách hàng có thể khác nhau, vì người bán không quan sát được
đối tượng nào có chi phí cao và đối tượng nào có chi phí thấp. Tuy nhiên, chỉ có
những người nào có thông tin riêng ch thấy mức giá là có lợi thì mới mua. Đó
thường là những người (như các phụ nữ có kế hoạch sinh con và đang tính toán
mua bảo hiểm với các lợi ích khi sinh đẻ) có chi phí phục vụ cao. Nếu việc bán sản

phẩn còn có thêm chi phí quản lý thì giá sẽ phải đủ cao để người bán có thể hòa
vốn trong tình huống mà cả những người định giá sản phẩm cao nhất cũng không
mua. Mọi mức giá thấp hơn mức giá hòa vốn này sẽ chỉ thu hút những người mà
chi phí phục vụ cao hơn giá bán. Do vậy, thị trường hoàn toàn sụp đổ. Thị trường
sụp đổ trong khi nếu không có thông tin riêng thì thương mại lẽ ra là có lợi. Ví dụ,
chi phí mua bảo hiểm sinh đẻ có thể vô cùng cao, đến mức cao hơn cả chi phí
thanh toán dịch vụ y tế trực tiếp.
Phát tín hiệu và sàng lọc
Tuy nhiên, vấn có thể tạo ra lợi ích cho các bên nếu phía có thông tin riêng
muốn và có thể làm cho bên kia biết thông tin về mình. Điều này tạo ra động cơ
khuyến khích để các bên tìm ra các cách đủ tin cậy để truyền tải thông tin. Một
cách thực hiện là để cho bên không có thông tin tự nỗ lực suy diễn thông tin từ các
hành động có thể quan sát được của bên có thông tin. Cách làm này tạo ra hai
chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết, với tên gọi là phát tín hiệu và
sàng lọc. Sự khác nhau giữa hai chiến lược phục thuộc vào bên có thông tin hay
bên không có thông tin đóng vai trò chủ động. Trong phát tín hiệu, bên có thông
tin riêng giữ vai trò chủ động trong việc thực hiện hành vi thông qua đó sẽ bộc lộ
thông tin của mình nếu hành động được diễn giải đúng. Sàng lọc là các hoạt động
do bên không có thông tin thực hiện để tách biệt các loại đối tác có thông tin riêng
khác nhau theo một khía cạnh nào đó.
TÂM LÝ Ỷ LẠI

