
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Sự phát triển của hệ thống giáo dục, đào tạo và phát triển của khoa học công
nghệ là vấn đề đặt lên hàng đầu ở tất cả các nước và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Nền giáo dục của Việt Nam đang nỗ lực không ngừng để hoàn thiện, phát triển và xây
dựng thương hiệu trên thị trường giáo dục quốc tế. Trong bối cảnh đó, các trường đại
học công lập của Việt Nam cũng buộc phải có những bước chuyển mình để đáp ứng
nhu cầu phát triển và hội nhập giáo dục.
Trước thực trạng đó, ngày 14/02/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
16/2015/NĐ-CP và gần đây là Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/06/2021 quy định
cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL). Cùng với đó Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/05/2015 về kế hoạch triển khai thực
hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, trong đó giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây
dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Và thực tế báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại hội nghị
Tự chủ đại học năm 2022 cũng chỉ ra rằng “Tự chủ đại học có nhiều chuyển biến tích
cực” và “Tự chủ đại học tạo ra môi trường cạnh tranh”. Cụ thể, có 274 cơ sở GDĐH đã
hoàn thành báo cáo tự đánh giá và 174 cơ sở đã được kiểm định chất lượng. Các chỉ số
về mặt tài chính, nhân sự và học thuật cũng có những sự tăng trưởng đáng kể như tỷ lệ
giảng viên có học vị tiến sĩ tăng từ 25% (2018) lên 31% (2021); xấp xỉ 33% số trường
đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; thu nhập bình quân giảng viên tăng 21% (2018-
2021); Số lượng bài viết công bố quốc tế cũng tăng 3,5 lần trong 04 năm…
Tuy nhiên thực tế cũng chỉ ra rằng mức độ thực hiện tự chủ ở các trường là
không đồng đều. Hiện nay, rất ít trường đại học thực hiện tự chủ tài chính chi thường
xuyên, chi đầu tư hoặc tự chủ chi 100% thường xuyên mà hầu hết là tự chủ chi một
phần thường xuyên. Bản chất của Luật Ngân sách Nhà nước là tất cả những cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, các ĐVSNCL, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến ngân
sách Nhà nước thì đều phải chịu chấp hành kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Dưới
góc độ quản lý Nhà nước về cả chuyên môn và tài chính cho thấy: các trường đại học
đang được quản lý không đồng đều, không cùng một hệ thống kiểm soát và chi phối.
Đây chính là một trong những nguyên nhân tạo ra sự phân biệt, đối xử không bình đẳng
về địa vị pháp lý giữa các trường. Thực tiễn đã có những Bộ ban hành các văn bản
chồng chéo lên chức năng quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giữa các Bộ
chưa có sự thống nhất trong cách quản lý hoạt động của các trường đại học.
Bởi vậy với sự phát triển đa dạng của kinh tế và sức hội nhập hiện nay thì kiểm
soát chính là công cụ hữu hiệu của các nhà quản lý. Bên cạnh đó, trong bối cảnh tự chủ
2
đại học đang được thúc đẩy mạnh mẽ thì vai trò của kiểm soát càng trở nên quan trọng
đặc biệt là đối với các trường đại học công lập nói riêng. Bên cạnh đó, tại Việt Nam
những nghiên cứu về hệ thống kiểm soát gắn với tự chủ tổ chức bộ máy và tự chủ tài
chính ở các trường đại học công lập là chưa nhiều đặc biệt là những nghiên cứu riêng
biệt về các trường đại học công lập Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Do đó để
bổ sung cho những nghiên cứu này cũng như xuất phát từ bối cảnh thực tế, tác giả lựa
chọn đề tài của luận án là “Hệ thống kiểm soát gắn với kết quả hoạt động của các
Trường đại học công lập thực hiện cơ chế tự chủ Vùng Đồng bằng sông Hồng”.
1.2. Tổng quan nghiên cứu
1.2.1. Nghiên cứu về kiểm soát và kết quả hoạt động trong các trường đại học trong
và ngoài nước
Tại Việt Nam, hệ thống kiểm soát trong các tổ chức nói chung và kiểm soát trong
các trường đại học nói riêng là một trong những chủ đề nghiên cứu nhận được sự quan
tâm của rất nhiều tác giả. Đặc biệt là những nghiên cứu về kiểm soát nội bộ (KSNB) và
ảnh hưởng của nó tới kết quả hoạt động của tổ chức. Điển hình như những nghiên cứu
của Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Đinh Thế Hùng, Nguyễn Thu Hương (2014), Nguyễn
Minh Tuấn (2015), Nguyễn Thị Hoàng Lan hay gần đây là của Phan Thị Thái Hà (2021).
Trong đó các tác giả đều nhấn mạnh KSNB như là một quá trình với sự tham gia của
nhà quản lý và các thành viên nhằm xác định những rủi ro và đưa ra những biện pháp
hạn chế những rủi ro đó nhằm đảm bảo cho khả năng thực hiện được các mục tiêu đã đề
ra (Nguyễn Thị Hoàng Lan, 2019). Riêng đối với ĐVSNCL nói chung và các trường đại
học công lập nói riêng thì KSNB có những điểm riêng biệt do những ràng buộc về tài
chính và quản lý từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nước (Phan Thị Thái Hà, 2021).
Nếu xem xét riêng những nghiên cứu trong nước về kiểm soát trong các trường
đại học công lập thì có thể nhận thấy 02 hướng phát triển cơ bản là: Mở rộng nghiên
cứu theo phạm vi của kiểm soát hoặc mở rộng nghiên cứu theo đối tượng nghiên cứu.
Điển hình như nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Nguyễn Thu Hương (2014),
Nguyễn Minh Tuấn (2015) chỉ giới hạn trong kiểm soát về tài chính. Trong khi đó
những nghiên cứu khác lại mở rộng hơn với đầy đủ phương diện của KSNB như nghiên
cứu của Đinh Thế Hùng (2013); Phan Thị Thái Hà (2021).
Có thể thấy rằng những nghiên cứu trong nước liên quan tới kiểm soát tại các
trường đại học công lập là đa dạng nhưng tập trung nhiều vào kiểm soát bên trong là
KSNB. Những nghiên cứu xem xét tới cơ chế Kiểm soát từ bên ngoài điển hình như
kiểm soát từ phía Nhà nước và kiểm soát từ phía xã hội là một khoảng trống lớn cần
được bổ sung bởi những nghiên cứu mới trong tương lai.
Tương tự như vậy, trên phạm vi quốc tế nghiên cứu về KSNB trong các cơ sở
đào tạo đại học công lập cũng được thực hiện từ rất sơm. Một số nghiên cứu điển hình