VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TÂN
DU LỊCH LỮ HÀNH
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC
Hà Nội – 2024
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TÂN
DU LỊCH LỮ HÀNH
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành Văn hoá học
Mã số 9 22 90 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM NGỌC TRUNG
Hà Nội – 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các thông tin, số liệu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng,
cụ thể. Kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Văn Tân
LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả nghiên cứu này, nghiên cứu sinh xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới các thầy, cô, các phòng, ban chuyên môn trong khoa Văn hoá –
Ngôn ngữ học; phòng Quản lý đào tạo của Học viện Khoa học xã hội – Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nơi đã đào tạo và trang bị cho nghiên
cứu sinh những kiến thức cần thiết để thực hiện luận án.
Đặc biệt, nghiên cứu sinh xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. Lê
Hồng Lý; PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm; PGS.TS. Phạm Ngọc Trung;
TS. Hoàng Cầm; TS. Đỗ Lan Phương đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn nghiên
cứu sinh trong suốt quá trình học tập và làm luận án.
Nhân dịp này, nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Lãnh
đạo Sở Du lịch, Sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội cùng bạn bè, đồng
nghiệp; cảm ơn các Công ty du lịch lữ hành tại Hà Nội; cảm ơn gia đình,
người thân đã chia sẻ khó khăn trong công việc để nghiên cứu sinh hoàn
thành luận án.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Văn Tân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 11
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................... 11
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước ................................................... 14
1.2. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 16
1.2.1. Khái niệm du lịch ................................................................................... 18
1.2.2. Khái niệm khách du lịch ......................................................................... 21
1.2.3. Khái niệm văn hoá du lịch ...................................................................... 23
1.2.4. Khái niệm hoạt động du lịch và ngành du lịch ....................................... 24
1.3. Cơ sở thực tiễn của luận án ............................................................................. 23
1.3.1. Sự hình thành và phát triển của ngành du lịch ....................................... 25
1.3.2. Các xu hướng phát triển của ngành du lịch ............................................ 27
1.3.3. Thực trạng hoạt động du lịch của Thủ đô Hà Nội .................................. 33
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 39
Chương 2: DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG - ĐIỂM ĐẾN TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH ............. 40
2.1. Các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu, hấp dẫn trong hoạt động du lịch
lữ hành ...................................................................................................................... 40
2.1.1. Di tích Hoàng thành Thăng Long lịch sử và một vài thành cổ ở Thủ
đô Hà Nội ......................................................................................................... 40
2.1.2. Khu di tích hồ Hoàn Kiếm và phố phường Hà Nội xưa ......................... 45
2.1.3. Khu di tích lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám ..................................... 52
2.1.4. Hệ thống di tích lịch sử phật giáo và tứ trấn Thăng Long...................... 56
2.1.5. Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh và hệ thống di tích lịch sử cách mạng .. 60
2.2. Làng nghề truyền thống trong hoạt động du lịch lữ hành ........................... 65
2.2.1. Làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Thủ đô Hà Nội .............................. 65
2.2.2. Làng cổ Đường Lâm .............................................................................. 67
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................... 72
Chương 3: ẨM THỰC VÀ ĐỒ LƯU NIỆM – ĐIỂM DỪNG TRONG
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH .................................................................... 74
3.1. Ẩm thực trong hoạt động du lịch lữ hành...................................................... 74
3.1.1. Vai trò của ẩm thực trong hoạt động du lịch lữ hành ............................. 74
3.1.2. Phục hồi, tái tạo ẩm thực truyền thống trong hoạt động du lịch
lữ hành .............................................................................................................. 78
3.2. Đồ lưu niệm trong hoạt động du lịch lữ hành ............................................. 955
3.2.1. Sự phát triển của thị trường đồ lưu niệm trong hoạt động du lịch lữ
hành .................................................................................................................. 95
3.2.2. Bản sắc văn hoá của đồ lưu niệm .............................................................. 104
3.2.3. Phục hồi, tái tạo bản sắc dân tộc thông qua đồ lưu niệm ..................... 108
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 112
Chương 4: HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA .................................................................................................................. 115
4.1. Bản sắc văn hoá Thủ đô Hà Nội qua truyền thông và các công ty du lịch
lữ hành ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
4.2. Phục hồi, tái tạo văn hoá truyền thống Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh mới..... 115
4.2.1. Tái tạo xây dựng lại hệ thống các công trình kiến trúc và các làng
nghề truyền thống .................................................................................................... 122
4.2.2. Khôi phục và phát triển ẩm thực truyền thốngError! Bookmark not defined.
4.3. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động du lịch lữ hành ở Thủ đô .................. 133
4.3.1. Vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch ........................................ 133
4.3.2. Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá ............................. 139
4.3.3. Vấn đề xây dựng thương hiệu du lịch Thủ đô ...................................... 144
Tiểu kết Chương 4 ................................................................................................. 149
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................ 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 155
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 155
DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP TƯ LIỆU .................................................. 168
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Từ viết tắt
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CHXHCN
Du lịch lữ hành DLLH
Economic and tourism Hợp tác phát triển kinh tế-du lịch EWEC
development cooperation Hành lang kinh tế Đông-Tây
East-West Econmic Corridor
Một thành viên MTV
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Quản lý Di tích lịch sử QLDTLS
UNESCO United Nation Education and Tổ chức khoa học và giáo dục Liệp
Sience Organization hiệp quốc
Ủy ban nhân dân UBND
Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên UNWTO
Hợp quốc
WTA World Travel Awards Giải thưởng Du lịch thế giới
WHFTA Hiệp hội Du lịch Ẩm thực thế giới
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tiến trình đổi mới và hội nhập diễn ra trong đất nước và trên thế
giới trong những năm qua cho thấy du lịch đang trở thành nhu cầu thiết yếu
của con người trong xã hội hiện đại. Nhận thức được nhu cầu này, các quốc
gia đều quan tâm, chú trọng đầu tư, phát triển du lịch, nó trở thành “mũi nhọn
kinh tế”, thành ngành “công nghiệp không khói”, mang lại lợi ích kinh tế lớn
lao, trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển.
1.2. Nhân học du lịch là khoa học nghiên cứu con người, cộng đồng địa
phương, du khách và các thực thể khác liên quan đến du lịch ở các địa bàn cụ
thể. Việc du khách đi đến nơi có nhiều đặc điểm khác lạ so với nơi họ sinh
sống là một quá trình vận động, tương tác, học hỏi và giao lưu văn hóa, nên
hiểu được những biến đổi văn hóa (từ nhận thức đến hành vi) giữa chủ nhà
(cộng đồng địa phương) và du khách trong quá trình tham gia vào hoạt động
du lịch là nhiệm vụ cơ bản đối với nghiên cứu nhân học du lịch. Sau những
chuyến du lịch, du khách có thể bị tác động và biến đổi cả về nhận thức, thói
quen và hành vi văn hóa của mình. Ngược lại, cộng đồng cư dân sinh sống tại
các khu du lịch cũng có thể bị ảnh hưởng và hình thành các thói quen, hành vi
văn hóa do du khách mang đến. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các tác
động tích cực và tiêu cực giữa cộng đồng địa phương và du khách là một
trong những mối quan tâm của các nhà nhân học. Điều này không những có ý
nghĩa lớn trong việc hiểu được nguồn gốc của các mâu thuẫn, xung đột phát
sinh từ hoạt động du lịch mà còn góp phần xây dựng chiến lược phát triển du
lịch bền vững, du lịch cộng đồng (Trần Anh Dũng 2013). Tuy vậy, cho đến
nay, Nhân học du lịch chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu và còn tương
đối ít các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này. Trước một thực tế
như vậy du lịch thực sự là một chủ đề thích đáng cho ngành Nhân học du lịch,
1
từ yêu cầu của công việc và tình hình thực tiễn nghiên cứu sinh tiến hành đề
xuất đề tài “Du lịch lữ hành trong xã hội Việt Nam hiện nay” theo hướng
nghiên cứu về du lịch từ góc nhìn văn hoá. Mặc dù biết đây là lĩnh vực còn
nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ bảo, khích lệ của các thầy, cô, nghiên cứu
sinh mạnh dạn đề xuất và thực hiện đề tài với tâm nguyện được học hỏi về
mặt nghiên cứu lý luận và được đóng góp về mặt hoạt động thực tiễn.
1.3. Thực tiễn hoạt động du lịch lữ hành của Việt Nam nói chung, Thủ
đô Hà Nội nói riêng đã và đang diễn ra hết sức sôi động, thông qua các hoạt
động du lịch lữ hành đã góp phần kiến tạo thêm bản sắc văn hoá mới cho
cộng đồng, địa phương và các điểm đến du lịch, kiến tạo thêm nhiều ý nghĩa
mới cho các điểm đến góp phần kiến tạo thêm các sản phẩm du lịch độc đáo,
hấp dẫn. Đồng thời đối với những người đi du lịch có thể giúp họ kiến tạo lối
sống mới, khẳng định bản sắc riêng của họ. Thông qua đó, cũng tác động đến
các điểm đến, cộng đồng đia phương, các công ty lữ hành tạo ra các sản phẩm
du lịch mới độc đáo, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch góp phần kiến tạo
nên bản sắc văn hoá mới.
1.4. Với sự phát triển phong phú của đời sống, nhu cầu của con người
cũng phát triển đa dạng hơn. Người ta đi du lịch không chỉ với mục đích nghỉ
dưỡng, nâng cao thể chất đơn thuần. Ngày càng cho thấy nhu cầu giao lưu,
khám phá thế giới của con người là vô cùng lớn, trong đó có khám phá thiên
nhiên, con người, văn hóa và chính bản thân họ. Du lịch tạo ra một sự trải
nghiệm cho chính du khách, giúp họ nhìn nhận lại những giá trị quý báu của
dân tộc mà biết bao thế hệ, ngay cả chính họ đã phải đánh đổi bằng xương
máu của mình để tạo dựng nên. Đối với thế hệ trẻ thì du lịch là dịp để họ hiểu
hơn về công lao của cha ông mình, đồng thời cũng hiểu những giá trị nhân
văn, giá trị truyền thống và thiên nhiên mà họ đang được thừa hưởng. Du lịch
ngày nay đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt
xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày một phong phú hơn, lý thú và bổ ích
2
hơn, hoạt động phổ biến, là nhu cầu của con người.
1.5. Du lịch lữ hành Thủ đô Hà Nội là một bộ phận của du lịch lữ hành
quốc gia. Trong quá trình phát triển đi lên du lịch Thủ đô đã có những biến
đổi to lớn, trên nhiều phương diện và mối quan hệ tương tác giữa bộ phận
kinh doanh dịch vụ du lịch với khách du lịch nội địa và quốc tế cũng như
những mối quan hệ tương tác của các đơn vị, cá nhân trong ngành du lịch
ngày càng mở rộng, phát triển theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả của thị
trường. Trong mỗi một tương tác bao giờ cũng có sự tác động đa chiều đến
những thành phần tham gia vào tương tác đó và góp phần tạo nên hệ quả thúc
đẩy các bên đều thay đổi, phát triển hoặc là xuất hiện những hạn chế làm cho
quá trình phát triển chậm lại vì những khó khăn.
Với tư cách là cán bộ từng làm việc ở cả hai cơ quan là Sở Văn hoá và
Thể thao và Sở Du lịch, chúng tôi muốn biến cơ hội đào tạo thành cơ hội nắm
vững, hiểu sâu hơn về lĩnh vực mình đang hoạt động để hoàn thành tốt hơn
công việc, đồng thời đóng góp cho việc xây dựng phát triển và phát triển
ngành văn hoá, du lịch Thủ đô nói riêng, Việt Nam nói chung. Với những lý
do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Du lịch lữ hành trong xã hội Việt
Nam hiện nay” làm đối tượng nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát về hoạt động du lịch lữ hành ở Hà Nội,
chỉ ra quá trình kiến tạo văn hoá thông qua các sản phẩm du lịch độc đáo của
Thủ đô, góp phần bảo tồn, lan toả nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc,
góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc quản lý, điều hành và hoạch
định chiến lược phát triển văn hoá, du lịch hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình nghiên cứu đã xuất bản liên quan đến vấn đề
du lịch và du lịch lữ hành, từ đó chỉ ra các thành tựu và khoảng trống để luận
3
án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để định hướng cho các nội dung
nghiên cứu của luận án.
- Tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tiễn; đánh giá hoạt động du lịch lữ
hành gắn với hoạt động thực tiễn của các đơn vị dịch vụ lữ hành, các di tích
lịch sử văn hoá, làng nghề truyền thống, ẩm thực và đồ lưu niệm trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội. Qua đó, bước đầu chỉ ra các đặc điểm về tâm lý, thị hiếu, sở
thích của các đối tượng du lịch, các mối quan hệ nảy sinh từ quá trình hoạt
động. Tại sao các công ty du lịch lữ hành lại chọn các tour du lịch để giới
thiệu cho khách du lịch, các thuyết minh với khách du lịch, giới thiệu cái gì
tại điểm đến đó, mục đích của họ là cái gì. Qua đó tìm hiểu cách họ tạo nghĩa
cho các điểm đến du lịch cũng như các sản phẩm du lịch liên quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
- Thực tiễn hoạt động du lịch lữ hành từ khâu tổ chức, thiết kế tour đến tiếp
thị, thực hiện qua một số Công ty du lịch lữ hành trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
- Hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về văn hoá, du lịch ở Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án tập trung vào hoạt động du lịch lữ hành.
- Về không gian: Tiến hành nghiên cứu, khảo sát trên địa bàn Thủ đô Hà
Nội qua thực tiễn hoạt động của các công ty du lịch lữ hành: Công ty Lữ hành
Hanoitourist, Công ty cổ phần du lịch Vietsense, Công ty TNHH Lữ hành và
dịch vụ quốc tế Ánh Dương.
Trong một số trường hợp cần thiết, luận án có thể mở rộng diện tham
khảo thực tiễn từ một số quốc gia, vùng miền, trong khu vực và trên thế giới.
- Về thời gian: Giới hạn trong thời gian 03 năm (thời gian thực hiện luận án
2016-2019). Trong trường hợp cần thiết có thể mở rộng khoảng thời gian tham
4
chiếu để so sánh.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu về du lịch lữ hành trong xã hội Việt Nam hiện nay
qua hoạt động du lịch lữ hành của các công ty du lịch trên địa bàn Hà Nội.
Hơn nữa, khách du lịch cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học, với những đặc điểm tâm lý, lứa tuổi khác biệt và có vai trò đặc biệt trong
xã hội, do đó cần phải tiếp cận đối tượng này từ nhiều góc độ thì mới có thể
nhận diện, nắm bắt và hiểu được họ một cách chân xác và sâu sắc. Vì thế,
trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
liên ngành, gồm các phương pháp nghiên cứu văn hóa học, nhân học văn hóa,
nhân học du lịch, xã hội học, đất nước học, lịch sử học, tâm lý học, kinh tế
học…
Các phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu, bao gồm:
- Tập hợp, nghiên cứu và phân tích tài liệu
Mặc dù “du lịch lữ hành” vẫn còn là một nội dung mới trong nghiên cứu
khoa học xã hội ở Việt Nam, nhưng vấn đề này cũng đã nhận được sự quan
tâm của nhiều tác giả nước ngoài. Mặt khác, khách du lịch là đối tượng
nghiên cứu của nhiều học giả trong nước ở nhiều ngành khoa học xã hội khác
nhau. Đây chính là nguồn tài liệu giúp chúng tôi có một cái nhìn khái quát và
nhiều chiều về vấn đề nghiên cứu của luận án. Do đó, các công trình các
nghiên cứu dạng sách, đề tài, luận án, những bài viết công bố trên mạng
internet, trên các tạp chí về các vấn đề này (nhân học du lịch, khách du lịch,
tâm lý của khách du lịch…) đều được tập hợp, phân tích, đánh giá và đây là
nguồn tài liệu hữu ích cho luận án.
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Với lợi thế là người trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về du lịch
và thường xuyên được tham gia vào các hoạt động lữ hành của Thủ đô,
nghiên cứu sinh tiếp cận, quan sát, tham dự vào các hoạt động khi đi du lịch
5
của khách du lịch. Do đó, sử dụng phương pháp này, nghiên cứu sinh muốn
“theo chân những người làm du lịch”, nhằm thu thập được nhiều nhất có thể
những thông tin từ chính công việc của họ. Những kỹ năng mà nghiên cứu
sinh sử dụng là quan sát, quan sát tham dự, cùng với các thiết bị hỗ trợ như
chụp ảnh, ghi ảnh…
Để có được nguồn tư liệu điền dã dân tộc học, nghiên cứu sinh đã đến
một số điểm đến như: Di tích Hoàng thành Thăng Long; hồ Hoàn Kiếm và
khu vực phố cổ; đền Ngọc Sơn; Văn Miếu – Quốc Tử Giám; đền Bạch Mã;
đền Thủ Lệ; đền Kim Liên; đền Quán Thánh; đền Sóc; chùa Quán Sứ; chùa
Một Cột; khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh; Nhà tù Hoả Lò; bảo tàng Hồ Chí
Minh; bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam; làng nghề gốm sứ Bát Tràng; làng
lụa Vạn Phúc; làng cổ Đường Lâm; đền Bạch Mã; đền Thủ Lệ; đền Kim Liên;
đền Quán Thánh; các cửa hàng lưu niệm; quán bánh cuốn bà Hoành; bún chả
Obama; khu vực phố cổ Hà Nội…
Quan sát là kỹ năng quan trọng và được sử dụng đầu tiên trong điền dã
dân tộc học. Nó giúp nghiên cứu sinh có những hiểu biết ban đầu về đối
tượng nghiên cứu. Để tiến hành, nghiên cứu sinh sẽ chọn giả định các địa
điểm, không gian mà khách du lịch thường chọn như các khu di tích lịch sử,
làng nghề truyền thống… Quan sát ở các địa điểm này, giúp nghiên cứu sinh
thấy được mối quan hệ giữa khách du lịch, người làm du lịch, người bán
hàng, người dân địa phương, từ đó mà có thể hiểu được đối tượng nghiên cứu.
Quan sát tham dự là kỹ năng giúp nghiên cứu sinh tiếp cận đối tượng
nghiên cứu được đa chiều hơn, sâu hơn, đi cùng với họ trong suốt hành trình
của tour du lịch. Thông qua các mối quan hệ nghiên cứu sinh đã cùng tham
gia các hoạt động của một vài đoàn khách, nhóm khách (ăn quà, mua sắm
hàng lưu niệm…). Việc cùng họ tiến hành các hoạt động du lịch, tham gia vào
các hoạt động mua sắm, ẩm thực, giao lưu với nhau giúp nghiên cứu sinh
nhận diện được nhu cầu của họ một cách sâu sắc và cụ thể hơn.
6
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
Các đối tượng được lựa chọn để phỏng vấn gồm các nhà quản lý văn
hoá, quản lý điểm đến, khách du lịch, hướng dẫn viên du lịch và những người
phục vụ du lịch, người làm du lịch.
Với nhóm đối tượng phỏng vấn là những nhà quản lý chúng tôi đã gặp
và phỏng vấn ông Lê Xuân Kiêu (Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hoá
khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám), bà Thái Thị Vân Huyền (Phó Trưởng
phòng Hành chính – Tổng hợp, Ban Quản lý di tích nhà tù Hoả Lò), ông
Nguyễn Trọng An (Phó Trưởng ban quản lý di tích làng cổ Đường Lâm), bà
Nguyễn Hồng Ánh (Chánh Văn phòng – Trung tâm Bảo tồn di sản Hoàng
Thành Thăng Long). Mục đích để thu thập các thông tin chung về tình hình
khách du lịch đến với di tích. Ngoài ra phỏng vấn nhóm đối tượng này để tìm
hiểu về nhận thức và quan điểm của họ trong việc khai thác, phục hồi những
di sản văn hoá truyền thống của địa phương, của gia đình trong bối cảnh du
lịch lữ hành, phương thức chỉ đạo của họ đến với người dân.
Với nhóm đối tượng phỏng vấn là những người phục vụ du lịch, người
làm du lịch chúng tôi đã gặp ông Nguyễn Văn Hùng (Mông Phụ, Đường Lâm,
sinh năm 1956), bà Đặng Thị Thanh Trà (Hàng Gai, 42 tuổi), ông Nguyễn Vũ
Tiến (Hàng Dầu), bà Nguyễn Thị Hằng Nga, bà Dương (bún chả Obama), bà
Dần (chủ đầm sen Hồ Tây), ông Cao Văn Hiền (Đường Lâm), … Qua các
cuộc phỏng vấn, chúng tôi đã tìm hiểu được cách ứng xử của họ trong việc
khai thác, lựa chọn di sản văn hoá để khai thác phục vụ khách du lịch, cách họ
tự giới thiệu và truyền bá bản sắc của mình đến với du khách trong bối cảnh
phát triển du lịch. Việc ứng xử của họ trong cách lựa chọn quảng bá, giới
thiệu bản sắc văn hoá truyền thống của gia đình, địa phương trong hoạt động
du lịch đã cho thấy sự tác động, phần nhiều là tích cực đến với cuộc sống của
chính họ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Với nhóm đối tượng là khách du lịch, chúng tôi tiến hành phương pháp
7
phỏng vấn sâu và phỏng vấn nhóm để tìm hiểu những vấn đề mà họ quan tâm
nhất khi đến du lịch tại các điểm du lịch, cảm nhận của họ như thế nào, những
suy nghĩ của họ khi thưởng thức và trải nghiệm văn hoá truyền thống của địa
phương nơi họ đến, chúng tôi đã phỏng vấn cả khách du lịch trong nước và
nước ngoài: chị Nguyễn Thị Dịu (56 tuổi, Thanh Hoá), chị Lê Khánh Linh
(21 tuổi, sinh viên Đại học Văn hoá Hà Nội), ông Lưu Văn Ka (Nghệ An),
ông Nguyễn Trường Anh (Bắc Giang), ông Nguyễn Tiến Linh (Thành phố Hồ
Chí Minh), bà Nguyễn Diệu Thuý, em Nguyễn Cẩm Ly (trường THCS Long
Biên), ông Ngô Văn Trung (Đà Nẵng), bạn Trần Phương Thảo (Lạng Sơn),
ông Cao Đức Bình (Nam Định), Nguyễn Thanh Sáng (Nghệ An), Nguyễn
Phúc Anh (12 tuổi, Cầu Giấy), Lê Minh Anh (Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn), Nguyễn Thị Tâm (Ba Đình), Vũ Minh Thu (Hải Phòng), Tạ
Đình Dũng (Hà Nội), Nguyễn Đình Sinh (Đan Phượng), Vũ Ngọc Minh (Việt
Kiều Mỹ), Nguyễn Thị Linh (Hà Nội), Vũ Thị Thanh Hoa (Sóc Trăng), Ngô
Xuân Đủ, Nguyễn Thị Thu Hiền (Bình Dương), Hà An (Đồng Nai), nhóm
Nguyễn Văn Bình, Phạm Khắc Cường, Trần Thị Hạnh (Bạc Liêu), Hoàng Thị
Kim Ngân (Đà Lạt), Nguyễn Tiến Thành (Lâm Đồng), J. Paul (Pháp), ông
M.Adam (Phần Lan), bà H.Magarita (Ba Lan), cô E.iza (đại học tổng hợp
Vasava, Ba Lan), ông A. Roberts (Hoa Kỳ)…
- Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh đã tiến hành tham
khảo ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa du lịch và văn hoá
ở Việt Nam để đưa ra các nhận định, phán đoán suy luận vấn đề nghiên cứu
của đề tài.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh cũng nghiên cứu bối cảnh kinh tế - xã hội –
chính trị của Hà Nội và cả những tác động của xu thế, quá trình hội nhập đang
tác động đến đời sống của người dân nói chung và khách du lịch hiện nay để
có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu.
8
5. Đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở nhìn nhận Du lịch lữ hành không chỉ như một hoạt động kinh
doanh, dịch vụ thương mại mà còn như một hoạt động văn hoá, đánh giá các
giá trị, gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động văn hoá, hướng đến mục tiêu
giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè năm châu.
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động và những vấn đề đặt ra từ thực
tiễn nghiên cứu, khảo sát, chỉ ra các mối quan hệ qua lại, nảy sinh trong quá
trình tổ chức hoạt động du lịch lữ hành hiện nay; từ đó tạo điểm nhấn trong
chiến lược phát triển văn hoá, du lịch, điều chỉnh nhận thức, quan điểm và kế
hoạch đầu tư phát triển văn hoá.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đề xuất các luận điểm, các vấn đề đặt ra
từ thực tiễn, bước đầu chỉ ra sự biến đổi trong việc kiến tạo văn hoá mới
thông qua các sản phẩm du lịch độc đáo góp phần bảo tồn, lan toả văn hoá
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, góp phần xây dựng luận cứ khoa
học cho việc quản lý, điều hành và hoạch định chiến lược phát triển văn hoá,
du lịch.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Trên cơ sở xem du lịch như là một loại hình hoạt động của văn hoá, các
kết quả nghiên cứu của luận án hướng đến việc lý giải mối quan hệ bản chất
giữa du lịch và văn hoá trên cả hai cấp độ: nhận thức lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn; góp phần bổ sung thêm hệ thống kiến thức cho công tác quản lý,
điều hành hoạt động văn hoá, du lịch hiện nay.
- Thông qua các tư liệu điều tra, khảo sát và nghiên cứu thực tiễn, cũng
như các đề xuất, cảnh báo, luận án góp phần cung cấp các luận cứ khoa học
và thực tiễn để hoạch định chính sách và định hướng phát triển, khắc phục
tình trạng tăng trưởng nóng trong lĩnh vực du lịch, làm phương hại đến các
giá trị văn hoá truyền thống.
- Cập nhật thông tin, tri thức, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác quản
9
lý lãnh đạo và tư vấn chính sách liên quan đến văn hoá, du lịch.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương nội dung:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Di tích lịch sử văn hoá và làng nghề truyền thống – Điểm đến
trong hoạt động du lịch lữ hành
Chương 3: Ẩm thực và đồ lưu niệm – Điểm dừng trong hoạt động du
lịch lữ hành
10
Chương 4: Hoạt động du lịch lữ hành và những vấn đề đặt ra
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Những nghiên cứu về du lịch lữ hành của các nước trên thế giới tập trung
vào du khách và bản chất của du lịch; tác động kinh tế, văn hoá, xã hội của du
lịch đến các cộng đồng, xã hội địa phương cũng như mối quan hệ giữa chủ và
khách, trong đó, tiêu biểu là các công trình:
Ở thập niên 1970, những nghiên cứu nhân học về du lịch của De Kadt
(1979), Farrell (chủ biên 1977), Cohen (1979), Knox và Suggs (1979) tập
trung phân tích tác động của du lịch đến các cộng đồng, trong đó nhấn mạnh
đến tác động tiêu cực, chẳng hạn việc người dân địa phương không được
hưởng lợi kinh tế từ du lịch trong khi văn hóa của họ bị ảnh hưởng, hoặc
những ảnh hưởng xấu của du lịch đối với môi trường. Các nghiên cứu nhân
học cũng tranh luận về tính chân thật và thị trường hoá trong du lịch. Davydd
Greenwood - một nhà nhân học người Mỹ (1977) cho rằng chính du lịch là
nguyên nhân dẫn đến việc thị trường hoá các lĩnh vực đời sống của mỗi cộng
đồng, vì văn hoá địa phương đã bị biến thành dịch vụ và hàng hoá để phục vụ
du khách. Trước đó, Dean MacCannell - một giáo sư nhân học người Mỹ
(1973) nhấn mạnh rằng quá trình thị trường hoá đã tàn phá tính chân thật của
sản phẩm văn hoá và mối quan hệ của con người, bởi vì hàng hóa hóa văn hóa
địa phương đã tạo ra một thứ “chân thật được dàn dựng” hay là một sự “bảo
tàng hóa” văn hóa địa phương để cho du khách xem (Nguyễn Thị Thanh
Bình, 2021).
Công trình của Valene Smith (chủ biên, 1977) “Hosts and guests: The
anthropology of tourism” (Chủ và khách: Nhân học về du lịch). Đây được
11
xem là công trình tiên phong của các nhà nhân học Mỹ đối với nghiên cứu du
lịch. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý thuyết ban đầu và 12 ví dụ nghiên cứu về
tác động của du lịch ở nhiều nơi trên thế giới, qua đó giúp người đọc hiểu
được bản chất của du lịch trong sự so sánh mang tính toàn cầu. Cho đến nay,
cuốn sách này vẫn được coi là nghiên cứu kinh điển của Nhân học du lịch bởi
vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu và mang tính so sánh như tác
phẩm này.
Các công trình nghiên cứu của Schein (2000), Oakes (1998, 2006),
Adams (1997) và Stronza (2001) đã cho rằng du lịch không nhất thiết dẫn đến
chỗ làm mất đi các giá trị văn hóa truyền thống hay tính chủ thể của cư dân
địa phương, mà thay vào đó, người dân địa phương cũng có vai trò chủ động,
quyết định những gì diễn ra trong quá trình họ tương tác với du khách, xác
định lại họ là ai, những yếu tố nào trong bản sắc tộc người mà họ muốn thay
đổi, nhấn mạnh hay che bớt đi để hấp dẫn du khách. Đây cũng là lúc các thảo
luận về bản chất của văn hóa và bản sắc tộc người dưới tác động của du lịch
đã được các nhà nhân học đặt ra (King 2008, 50).
Nhìn lại lịch sử hơn nửa thế kỷ phát triển của nhân học du lịch chúng ta
thấy ở thời kỳ đầu, các công trình nghiên cứu thường xoay quanh hai chủ đề,
đó là tìm hiểu nguồn gốc của du lịch, và xem xét tác động của du lịch nhất là
tác động của du lịch đến cộng đồng địa phương (Stronza 2001), nhưng trong
các thập niên gần đây, các nhà nhân học đã mở rộng quan tâm nhiều chiều
cạnh và các vấn đề lý thú của du lịch. Trong nghiên cứu về du lịch, các nhà
nhân học đã có đóng góp lý luận đáng chú ý. Ví dụ, MacCannell (1976) đã coi
du lịch là cách con người ở các xã hội hiện đại tìm cách khám phá văn hóa
các tộc người nguyên thủy và tác giả cho rằng đây chính là động lực dẫn tới
các chuyến đi của họ. Graburn (1989) coi du lịch là một quá trình nghi lễ
phản ánh các giá trị đặc sắc của xã hội về sức khỏe, sự tự do, tự nhiên và sự tự
cải tiến. Du lịch có vai trò quan trọng trong xây dựng và duy trì một nhận
12
thức tập thể, có thể tăng cường kết nối của con người trong xã hội rộng lớn.
Nash (1989) lại coi du lịch là một loại hình khác của chủ nghĩa đế quốc. Du
khách ngày nay cũng giống như các thương nhân, kẻ thực dân hay nhà truyền
giáo trước đây, là những người tiếp xúc với các văn hóa địa phương, và họ
trực tiếp hay gián tiếp đã gây ra những biến đổi ở những địa bàn hay cộng
đồng ít phát triển của thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, các nhà nhân học du
lịch đang tiếp tục tìm kiếm và kiến tạo những cách phân tích mới để giải thích
về con người, cộng đồng địa phương, và tác động của du lịch đối với cộng
đồng địa phương, v.v.
Martin Oppermann và Kye Sung Chon (1997) với nghiên cứu “Tourism
in Developing Countries” (Du lịch ở các nước đang phát triển). Nghiên cứu
này tập trung phân tích những vấn đề như: sự phát triển du lịch ở các nước đã
và đang phát triển, trong đó tác giả nhấn mạnh về quá trình nghiên cứu du lịch
tại các đất nước đang phát triển theo nhiều giai đoạn: giai đoạn 1930-1960,
giai đoạn 1970-1985 và giai đoạn 1985-1993. Đồng thời, nghiên cứu này này
còn đánh giá mối liên hệ giữa chính phủ và du lịch, các mô hình phân tích
phát triển du lịch, các phương pháp đo lường phát triển du lịch quốc tế, sự
phát triển các điểm đến du lịch như khu nghỉ mát ven đồi hay ven biển, các
khu du lịch vùng ngoại ô.
William, F. T. (1997) với nghiên cứu Global tourism: The next decade
London: Butterorth-Heinemann. Nghiên cứu giới thiệu về khái niệm và phân
loại du lịch; xác định những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của du lịch; định
hướng và kế hoạch phát triển du lịch; vai trò du lịch đối với hòa bình thế giới.
Bên cạnh đó, tác giả đã làm rõ du lịch là một trong những nguồn lực lớn thúc
đẩy nền hòa bình, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Khi mọi người đi du lịch
khắp nơi trên thế giới và hiểu biết về nhau, về phong tục tập quán của nhau
cũng như đánh giá cao về cá nhân con người của mỗi quốc gia, từ đó các quốc
gia sẽ xây dựng được sự hiểu biết quốc tế, điều này có thể cải thiện rõ rệt nền
13
hòa bình thế giới.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã quan tâm đến những tri thức lý
luận và thực tiễn về nhân học du lịch, văn hóa xã hội trong hoạt động du lịch,
đến kinh doanh du lịch, các yếu tố tác động kinh tế, văn hoá, xã hội của du
lịch đến các cộng đồng, xã hội địa phương cũng như mối quan hệ giữa chủ và
khách. Đây là nguồn tài liệu thứ cấp rất cần thiết cho việc nghiên cứu trong
luận án của nghiên cứu sinh.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Có thể nói ngành du lịch ở nước ta ra đời từ khá sớm (1960), nhưng đến
sau năm 1986 hoạt động du lịch mới bắt đầu vận hành rõ nét. Từ những năm
1990 đến nay đã có rất nhiều công trình, đề tài nghiên cứu của các ngành du
lịch, kinh tế, nhân học du lịch, văn hoá học về phát triển du lịch hay khai thác
các giá trị văn hoá – lịch sử cho phát triển du lịch trên khắp cả nước và cả
từng vùng, từng địa phương. Tuy nhiên, nghiên cứu về du lịch dưới góc độ
văn hoá học hay nhân học du lịch vẫn còn rất khiêm tốn. Trong thực tế, có
một số nghiên cứu chuyên sâu về du lịch được thực hiện bởi các luận án tiến
sĩ trong và ngoài nước, tiêu biểu như:
Dương Bích Hạnh (2006) về trải nghiệm của các cô gái Hmông khi rời
làng bản tới thị trấn Sa Pa bán hàng thổ cẩm, làm hướng dẫn viên du lịch. Tác
giả đã tìm hiểu về trải nghiệm của các cô gái khi tham gia những hoạt động
du lịch và tác động của các trải nghiệm đó tới đời sống của họ. Kết quả cho
thấy, tuy thu nhập của các cô gái đóng góp cho kinh tế hộ gia đình không
đáng kể, song hành trình từ thế giới xã hội làng bản “truyền thống” ra thị trấn
du lịch “hiện đại” đã tác động mạnh mẽ đến lối sống, nhận thức của các cô gái
nơi đây. Lần đầu tiên các cô gái Hmông có tiếng nói hơn trong quyết định hôn
nhân của họ. Hơn nữa, để tồn tại trong môi trường mới, các cô gái phải tự tạo
dựng và thương lượng cho mình một bản sắc văn hoá mới với sự kết hợp giữa
14
truyền thống và hiện đại. Trong quá trình đó, họ trở thành những người trung
gian giữa thế giới hạn hẹp của làng bản truyền thống và thế giới rộng lớn bên
ngoài qua tiếp xúc với du khách.
Nguyễn Tuệ Chi (2022) với cuốn sách, “Bản sắc tộc người di sản văn
hoá và du lịch Nghiên cứu trường hợp người Mường và người Thái ở tỉnh
Hoà Bình”. Nội dung cuốn sách này cho thấy việc phát triển du lịch ở bản
Lác và Giang Mỗ tác động tích cực đến ý thức của người dân về bản sắc cộng
đồng thể hiện qua hoạt động bảo tồn các di sản văn hoá như ẩm thực, nhà sàn,
chỉnh trang cảnh quan bản làng truyền thống, xây dựng chương trình văn nghệ
đậm đà bản sắc dân tộc. Nghiên cứu đã cho thấy bản sắc có thể được tái tạo,
sáng tạo; di sản văn hoá nghệ thuật, cũng tức là bản sắc của tộc người này có
thể được tộc người khác tiếp nhận, chuyển hoá, tái tạo và khai thác để phục
vụ du lịch. Sự phát triển du lịch giúp cho người dân biết cách khai thác chính
di sản văn hoá, bản sắc của mình, có thêm nguồn thu nhập, có thêm phương
thức sinh kế mới. Người dân đã chủ động tham gia vào hoạt động du lịch, lựa
chọn những di sản văn hoá để tạo nên một bản sắc mang tính lựa chọn, tính
bối cảnh. Sự sáng tạo từ truyền thống là sự kế thừa truyền thống một cách
sáng tạo bằng cách tạo nên một thực thể văn hoá mới, phù hợp với điều kiện
cuộc sống mới trên cơ sở cái truyền thống.
Trương Thị Thu Hằng (2004) với bài viết “Tương quan giữa du lịch văn
hoá của cộng đồng chủ tại đích đến từ quan điểm nhân học”. Mặc dù mối
quan tâm của tác giả là tranh luận về việc xác định “sự chân thật” trong quan
hệ du lịch văn hoá, nhưng qua những dẫn chứng và luận giải tác giả cũng cho
thấy quan điểm tích cực về du lịch của mình. Tác giả khẳng định văn hoá
không tĩnh mà luôn vận động, chứa đựng các động thái là kết quả của sự
tương tác với chính nó với chủ thể văn hoá, với môi trường xã hội và tự
nhiên. Tác giả phản bác lại quan điểm cho rằng sự “hàng hoá hoá” văn hoá
15
của cộng đồng chủ (khi mang ra trình diễn cho du khách để thu tiền, văn hoá
trở thành hàng hoá) khiến cho nó mất ý nghĩa văn hoá, chỉ còn là một sản
phẩm.
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Cầm: “Du lịch văn hoá và vấn đề bảo vệ -
phát huy di sản ở người Lạch, Lạc Dương, Lâm Đồng”, được trình bày tại Hội
thảo “Văn hoá và sự phát triển của du lịch ở Lâm Đồng” tổ chức tại Đà Lạt
tháng 3 năm 2014, cũng là một nghiên cứu trường hợp khá điển hình về mối
liện hệ giữa du lịch với bản sắc và việc sáng tạo bản sắc tộc người. Tác giả
phân tích sâu các mối liên hệ đan xen, tác động nhiều chiều giữa văn hoá
truyền thống tộc người Lạch với chính sách văn hoá “bảo tồn có chọn lọc”
của nhà nước và bối cảnh phát triển du lịch hiện nay. Để phát triển du lịch,
người Lạch ở Lạc Dương đã chủ động khôi phục, tái tạo, sáng tạo một số yếu
tố văn hoá từng rơi vào quên lãng vì nằm trong số phong tục từng bị coi là lạc
hậu cần loại trừ.
Nghiên cứu của Trương Thị Thu Hằng (2012) phân tích mối tương quan
giữa các thực hành tôn giáo và sự tham gia vào hoạt động du lịch của người
dân tại Nhà thờ Lớn ở đảo Long Sơn, thành phố Vũng Tàu. Tác giả đã vượt
qua những phân tích về các tác động tích cực và tiêu cực của du lịch, bản sắc
văn hóa, tính thật của sản phẩm văn hóa du lịch để cho thấy cư dân ở đảo
Long Sơn đã xem du lịch như một cách để họ thực hành tôn giáo. Đối với họ,
tham gia vào các hoạt động du lịch có nghĩa là họ được thực hành các nghi lễ
chứa đựng ý nghĩa tôn giáo chứ không chỉ đơn thuần là phương tiện để họ
kiếm tiền. Từ đó, tác giả cho rằng nghiên cứu nhân học về du lịch cần lý giải
đầy đủ ý nghĩa của các thực hành du lịch của cộng đồng địa phương trong
chính bối cảnh văn hóa của họ.
Công trình nghiên cứu của Allan (2011) về hai bản du lịch ở Mai Châu,
Hòa Bình đã miêu tả đời sống của người Thái ở các bản du lịch, xem xét các
vấn đề lịch sử phát triển du lịch, đời sống sinh kế, quan hệ xã hội của người
16
dân địa phương trong cộng đồng cũng như hiểu biết và quan hệ của họ với du
khách. Nhìn du lịch và du khách bằng cách nhìn của chính người Thái ở địa
bàn nghiên cứu, tác giả nhận thấy du lịch ở đây thực ra cũng chỉ là một trong
các hoạt động kinh tế của cộng đồng địa phương. Người dân tham gia vào các
hoạt động du lịch để cải thiện mức sống, đồng thời củng cố sự cố kết cộng
đồng và khẳng định bản sắc văn hóa tộc người của chính mình. Điểm quan
trọng nữa là người dân đã tham gia phát triển du lịch một cách chủ động và
không ngừng thương lượng với chính quyền địa phương, các lực lượng từ bên
ngoài và với chính khách du lịch trong thực hành du lịch.
Achariya Choowongler (2015) cũng nghiên cứu về du lịch ở Mai Châu
và quá trình người Thái nơi đây biến văn hóa địa phương thành dịch vụ du
lịch trong bối cảnh thị trường du lịch toàn cầu. Trong công trình nghiên cứu
này, tác giả cho rằng thay vì đối phó và thương lượng với các lực lượng toàn
cầu, người Thái ở Mai Châu đã chủ động khai thác du lịch bằng cách chuyển
đổi vốn văn hóa và vốn xã hội của họ thành vốn kinh tế. Họ đã thị trường hóa
lòng hiếu khách và tái cấu trúc bản sắc văn hóa để biến họ từ những người
nông dân thành các thương nhân. Người dân đã biết khai thác các phong tục,
tập quán, đạo đức và biến chúng thành dịch vụ và hàng hóa để bán cho du
khách. Tuy nhiên, sự tương tác giữa họ - với tư cách là chủ và du khách theo
truyền thống ứng xử hiếu khách của người Thái đã làm cho sự khác biệt giữa
bản sắc tộc người truyền thống của người Thái và văn hóa hiện đại đang bị lu
mờ.
Hoạt động du lịch đã trở thành hoạt động mang tính quốc gia và toàn cầu
và tự nó trở thành một đối tượng nghiên cứu lý thú của Nhân học hay Văn hoá
học. Nghiên cứu về du lịch, các nhà nghiên cứu Nhân học hay Văn hoá học
không chỉ có đóng góp đáng kể về mặt lý luận để hiểu du lịch như là một hiện
tượng văn hóa và xã hội, mà còn góp phần làm rõ hơn hàng loạt vấn đề gắn
với du lịch và nghiên cứu, phân tích du lịch như một quá trình hay một chuỗi
17
chứ không đơn thuần là một sự kiện; xem xét vai trò chiến lược của người dân
địa phương, tính chủ thể, quan điểm của người dân về du lịch, ý nghĩa của du
lịch đối với họ; gắn du lịch với các quá trình biến đổi rộng lớn hơn; phân tích
vai trò của nhà nước, người dân và các lực lượng tham gia vào du lịch trong
việc kiến tạo bản sắc tộc người và khai thác các nguồn lực văn hóa và tự
nhiên cho phát triển du lịch.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm du lịch
Con người vốn tò mò về thế giới xung quanh, muốn có thêm hiểu biết về
cảnh quan, địa hình, hệ động thực vật và nền văn hóa của những nơi khác. Vì
thế, du lịch đã xuất hiện và trở thành một hiện tượng khá quan trọng trong đời
sống của con người. Đến nay, du lịch không còn là một hiện tượng riêng lẻ,
đặc quyền của cá nhân hay một nhóm người nào đó mà du lịch đã trở thành
một nhu cầu xã hội phổ biến, đáp ứng mục tiêu không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho con người. Từ giữa thế kỷ 19, du lịch bắt đầu phát
triển mạnh và ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến.
Nhiều nước đã sử dụng chỉ tiêu đi du lịch của dân cư như là một trong những
tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, khái niệm “Du lịch” được
hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau.
Sau đây là một số khái niệm phổ biến về du lịch.
- Tiếp cận dưới giác độ nhu cầu: Michael Coltman đã đưa ra khái niệm
như sau: Du lịch là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để
đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm việc
làm (kiếm tiền) và trong thời gian đó (họ) phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được
[01, tr.4]..
- Tiếp cận dưới giác độ tổng hợp: Michael Coltman đã đưa ra khái niệm
như sau: Du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ phát
18
sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, những nhà kinh
doanh du lịch, chính quyền sở tại, cộng đồng cư dân địa phương trong quá
trình thu hút và lưu giữ khách du lịch [01, tr.4].
Theo Guer Freuler thì “Du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một
hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi
phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát
sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên” [01, tr.5].
Kaspar cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân
mà phải là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó. Chúng ta cũng
thấy ý tưởng này trong quan điểm của Hienziker và Kraff “Du lịch là tổng
hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu
trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm
việc thường xuyên của họ”. Về sau định nghĩa này được hiệp hội các chuyên
gia khoa học về du lịch thừa nhận [01, tr.5].
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn
thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara-
Edmod đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tổng hoà việc tổ chức và chức năng của
nó không chỉ về phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị
do khách chi ra và của những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy,
tiêu dùng trực tiếp hoặc gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu
cầu hiểu biết và giải trí.” Theo Luật Du lịch (2017) tại khoản 01, Điều 3 chương
I giải thích từ ngữ: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài
nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Theo cách tiếp cận của các chủ thể liên quan đến hoạt động du lịch:
- Du khách: Là những người mong muốn tìm kiếm các trải nghiệm và sự
thoả mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần khác. Du khách sẽ xác định các nơi
19
đến du lịch và các hoạt động tham gia, thưởng thức.
- Nhà cung ứng dịch vụ du lịch: Các nhà cung ứng dịch vụ du lịch xem
du lịch là một cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc cung cấp các hàng
hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường khách du lịch.
- Chính quyền sở tại: Lãnh đạo của chính quyền sở tại nhìn nhận du lịch
như là một nhân tố có tác dụng tốt cho nền kinh tế thông qua triển vọng về thu
nhập từ các hoạt động kinh doanh cho dân địa phương, ngoại tệ thu được từ
khách quốc tế và tiền thuế thu được cho ngân quỹ một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp.
- Dân cư địa phương: Du lịch là một nhân tố tạo ra việc làm và giao lưu
văn hoá cho dân cư địa phương. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là
hiệu quả của sự giao lưu giữa số lượng lớn du khách quốc tế và dân cư địa
phương, hiệu quả này có thể vừa có lợi vừa có hại.
Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy sinh
các hoạt động và các mối quan hệ trên cơ sở đó thoả mãn mục đích của các
chủ thể tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ đó [01, tr.6].
- Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai
khía cạnh:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của
con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du
lịch được xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng
hóa dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một
20
ngành kinh tế.
- Theo Tổ chức Du lịch thế giới: “Du lịch bao gồm tất cả những hoạt
động của cá nhân đi, đến và lưu lại ngoài nơi ở thường xuyên trong thời gian
không dài (hơn một năm) với những mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích
kiếm tiền hàng ngày”.
- Từ những quan điểm trên về du lịch, đối với luận án này chúng tôi hiểu
du lịch là: Du lịch là hoạt động của cá nhân di chuyển khỏi nơi ở thường
xuyên đến vùng đất mới để khám phá, trải nghiệm, thực hành văn hoá nơi mà
họ đến, mỗi cá nhân xác định mục đích đi du lịch khác nhau, nhưng tựu
chung lại du lịch là hoạt động phổ biến hiện nay bằng nhiều loại hình du lịch
khác nhau, giúp con người tái tạo sức lao động và hoàn thiện bản thân.
1.2.2. Khái niệm khách du lịch
Bản thân việc xây dựng khái niệm du khách là một vấn đề phức tạp. Mỗi
nước có một khái niệm du khách khác nhau, theo những chuẩn mực khác
nhau. Điều đó gây khó khăn cho công tác thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh,
phân tích. Hơn nữa, điều đó gây khó khăn trong việc áp dụng công ước quốc
tế cũng như hệ thống luật pháp trong nước để bảo vệ quyền lợi của du khách.
Chính vì vậy, các tổ chức quốc tế không ngừng nỗ lực xây dựng một
khái niệm thống nhất về du khách, ít ra là du khách quốc tế.
Nhìn chung, để xác định ai là khách du lịch? Phân biệt giữa khách du
lịch và những người lữ hành khác phải dựa vào 3 tiêu thức:
- Mục đích chuyến đi
- Thời gian chuyến đi
- Không gian chuyến đi
Luật Du lịch năm 2017 của nước ta đã đề ra khái niệm: “là người đi du
lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu nhập
21
ở nơi đến”.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới: “Khách du lịch là người rời khỏi nơi cư
trú thường xuyên của mình trên 24h và nghỉ qua đêm tại đó với nhiều mục
đích khác nhau ngoại trừ mục đích kiếm tiền”.
Để hiểu đầy đủ hơn bản chất của du lịch lữ hành, cần lưu ý một số khái niệm:
- Lữ hành (travel): Theo nghĩa chung nhất lữ hành là sự đi lại, di
chuyển từ nơi này đến nơi khác của con người. Như vậy, trong hoạt động
du lịch có bao gồm yếu tố lữ hành, nhưng không phải tất cả các hoạt động
lữ hành đều là du lịch. Ở Việt Nam, quan niệm lữ hành là một lĩnh vực
kinh doanh trong ngành du lịch liên quan đến việc tổ chức các chuyến đi
(các tour) cho du khách.
- Lữ khách (Traveller): Lữ khách là những người thực hiện một chuyến
đi từ nơi này đến nơi khác bằng bất cứ phương tiện gì, vì bất cứ lý do gì có
hay không trở về nơi xuất phát ban đầu.
- Khách thăm (Visitor): Khách thăm là những người thực hiện chuyến đi,
lưu trú tạm thời ở một hoặc nhiều điểm đến, không cần xác định rõ lý do và
thời gian của chuyến đi nhưng có sự quay về nơi xuất phát.
- Khách tham quan (Excursionist/Same Day – Visitor): Là những người
đi thăm viếng trong chốc lát, trong ngày, thời gian chuyến đi không đủ 24h.
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập I, tr 684): Du lịch là một dạng
nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ở nơi cư trú với mục đích
nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn
hóa – nghệ thuật.
Hoặc: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, có hiệu quả cao về nhiều mặt,
nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó
góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Từ những khái niệm trên, những người sau được coi là khách du lịch:
– Những người đi du lịch rời khỏi nơi cư trú thường xuyên đến nơi khác
22
trong khoảng thời gian nhất định.
– Những người đi thăm viếng ngoại giao, hội họp, hội thảo, trao đổi khoa
học, công vụ, thể thao v.v…
– Những người đi du lịch kết hợp kinh doanh, chữa bệnh, nghỉ dưỡng.
– Việt kiều ở nước ngoài về thăm quê hướng và người thân.
Những người sau đây không được công nhận là khách du lịch:
– Những người rời khỏi nơi cứ trú thường xuyên đến nơi khác nhằm tìm
kiếm việc làm hoặc định cư.
– Những người ở biên giới giữa hai nước thường xuyên đi lại qua biên giới.
– Những người đi học.
– Những người di cư, tị nạn.
– Những người làm việc tại các Đại sứ quán, Lãnh sự quán.
– Những người thuộc Lực lượng bảo an của Liên Hợp quốc.
- Theo Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nxb Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (in lại lần 12, tr 978): Lữ hành là đi
đường xa, khách lữ hành.
- Theo từ điển Hán – Việt hiện đại của Trần Thị Thanh Liêm, Nxb Khoa học
xã hội (2007, tr382): Lữ hành là đi chơi xa và lữ khách là kẻ đi chơi xa nhà.
- Từ những quan điểm trên về khách du lịch, đối với luận án này chúng
du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến mà mục đích chính của họ là đi du lịch chứ không phải đi
làm kinh tế hay các trường hợp khác.
tôi hiểu khách du lịch là: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi
1.2.3. Khái niệm văn hoá du lịch
Văn hóa du lịch (viết đầy đủ là văn hóa trong lĩnh vực du lịch) là sự thể
hiện nội dung văn hóa trong lĩnh vực du lịch, được tích lũy và sáng tạo ra
trong hoạt động du lịch bởi các chủ thể tham gia và hoạt động du lịch, bao
23
gồm: 1) Khách du lịch; 2) Doanh nghiệp du lịch; 3) Chính quyền các cấp; 4)
Tổ chức, cá nhân giáo dục, nghiên cứu và truyền thông du lịch; và 5) Cộng
đồng dân cư nơi diễn ra hoạt động du lịch. Văn hóa du lịch được hình thành
và phát triển cùng với hoạt động du lịch.
Theo nghĩa rộng, văn hóa du lịch là ứng xử du lịch, giá trị du lịch và
chuẩn mực du lịch của khách du lịch với quyền và nghĩa vụ của họ; của cộng
đồng xã hội với vai trò chủ nhân của tài nguyên du lịch khi tham gia du lịch
và “làm” du lịch; của các nhà nghiên cứu, đào tạo, truyền thông, quản lý du
lịch và của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch trong thực hiện nghiên cứu,
hoạch định và quản lý nhà nước về du lịch và của doanh nghiệp du lịch, cá
nhân trong kinh doanh. Theo nghĩa hẹp, văn hóa du lịch là ứng xử, giá trị và
chuẩn mực du lịch của mỗi cá nhân khi tham gia du lịch. Văn hóa du lịch còn
bao hàm cả thái độ ứng xử (văn hóa ứng xử) của các chủ thể tham gia hoạt
động du lịch đối với cảnh quan – môi trường, đặc biệt là môi trường văn hóa;
đối với nhau theo mối quan hệ: chính quyền – doanh nghiệp – cộng đồng dân
cư – khách du lịch, đặc biệt là mối quan hệ giữa doanh nghiệp du lịch đối với
khách du lịch.
- Từ những quan điểm trên về văn hoá du lịch, đối với luận án này chúng
tôi hiểu văn hoá du lịch là: Văn hoá du lịch là ứng xử của khách du lịch tại
điểm đến, với người phục vụ, ứng xử với chính di tích, danh lam thắng cảnh
và cả văn hoá của người dân bản địa khi họ đi du lịch.
1.2.4. Khái niệm hoạt động du lịch và ngành du lịch
Theo quan điểm của các nhà kinh tế du lịch: “Du lịch là một hệ thống
tinh thần và vật chất, là một hiện tượng kinh tế xã hội tổng hợp do ba yếu tố
cơ bản cấu thành là chủ thể du lịch (khách du lịch), khách thể du lịch (tài
nguyên du lịch) và hoạt động du lịch (các doanh nghiệp, chính quyền các cấp,
các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư địa phương thực hiện được gọi là
24
“ngành du lịch”).
Tại điều 3 Luật Du lịch năm 2017 đã đưa ra khái niệm về hoạt động du
lịch: “Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh
doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan
đến du lịch”.
Từ đó có thể rút ra ngành du lịch là tổng hợp các điều kiện, các hiện
tượng và các mối quan hệ tác động qua lại giữa khách du lịch với các nhà
cung cấp các sản phẩm du lịch, với chính quyền và cộng đồng dân cư ở địa
phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch. Từ khái niệm này,
các yếu tố cơ bản tham gia hoạt động du lịch bao gồm:
Khách du lịch là chủ thể của du lịch, là đối tượng phục vụ của các ngành
tham gia hoạt động du lịch.
Tài nguyên du lịch là khách thể của du lịch, nơi tạo ra sức thu hút con
người đến tham quan, du lịch.
Tổng hợp các cách hiểu và theo quan điểm cá nhân, luận án hiểu khái
niệm du lịch lữ hành là: Du lịch lữ hành là một trạng thái hoạt động của con
người, họ tham gia với những mục đích khác nhau như vui chơi, tham quan,
giao lưu tìm hiểu văn hoá địa phương, đồng thời qua hoạt động du lịch lữ
hành để khẳng định bản sắc của cá nhân họ hay kiến tạo một lối sống mới,
lấy hoạt động du lịch như là một cách để khẳng định bản thân.
1.3. Cơ sở thực tiễn của luận án
1.3.1. Sự hình thành và phát triển của ngành du lịch
Từ khi thành lập vào năm 1960, ngành Du lịch Việt Nam đã trải qua quá
trình xây dựng và trưởng thành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cụ thể trong mỗi
thời kỳ khác nhau. Trong thời kỳ chiến tranh, ngành du lịch chủ yếu phục vụ
công tác đối ngoại đón các đoàn khách của Đảng, Nhà nước. Sau khi hòa bình
lập lại, ngành du lịch tiếp quản các cơ sở du lịch ở các tỉnh, thành phố và dần
mở rộng hoạt động, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn trong cơ chế kinh tế kế
25
hoạch hóa tập trung. Sau khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa, chuyển dần sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh doanh du lịch,
lữ hành trở nên sôi động hơn với sự phát triển của đội ngũ doanh nghiệp,
người lao động trong ngành.
Nếu như năm 1990, ngành du lịch mới chỉ đón được 250 nghìn lượt
khách quốc tế, cả nước chỉ có 4 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, thì
đến năm 1996 đã có 76 doanh nghiệp. Năm 2005, lượng khách quốc tế đến
Việt Nam đạt gần 3,5 triệu và số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế là
428. Đến hết năm 2019, cả nước đã có 2.667 doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành quốc tế, gấp 6,2 lần so với năm 2005, trong bối cảnh lượng khách quốc
tế đến Việt Nam đã đạt trên 18 triệu lượt [63].
Trong số 2.667 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, số lượng
doanh nghiệp thuộc loại hình TNHH chiếm 62,4%, cổ phần chiếm 36,3%, còn
lại 1,4% là loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài [63].
Sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đã
góp phần quan trọng nâng cao năng lực ngành du lịch Việt Nam, khẳng định
du lịch Việt Nam đủ khả năng đón các đoàn khách quốc tế đến từ khắp nơi
trên thế giới. Nhiều doanh nghiệp lữ hành đã chủ động thiết lập các văn
phòng đại diện ở nước ngoài, là cơ sở để xúc tiến quảng bá tại chỗ, thu hút
khách từ các thị trường trọng điểm.
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng nhanh qua từng năm,
đặc biệt giai đoạn từ 2015-2019 vừa qua, đạt trung bình 22,7% mỗi năm,
được Tổ chức Du lịch thế giới xếp vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng
khách quốc tế nhanh nhất trên thế giới. Những kết quả nổi bật đó có sự đóng
góp lớn của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, chủ động xúc tiến,
quảng bá thu hút khách, thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo vệ
26
hình ảnh và thương hiệu du lịch Việt Nam [63].
Cùng với các doanh nghiệp lữ hành quốc tế, đội ngũ doanh nghiệp lữ
hành nội địa cũng dần phát triển, góp phần phục vụ một lượng khách nội địa
ngày càng lớn. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng ổn định và đi lên, người dân
Việt Nam có điều kiện, khả năng và nhu cầu đi du lịch ngày càng nhiều. Nếu
như năm 1990 mới có 1 triệu lượt khách du lịch nội địa, thì đến năm 2019 con
số đó đã là 85 triệu lượt. Du lịch nội địa đã trở thành một động lực quan trọng
cho sự tăng trưởng và phát triển của ngành Du lịch Việt Nam.
Tính đến hết năm 2019, cả nước đã có hơn 500 doanh nghiệp được cấp
giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa. Theo quy định mới của Luật Du lịch
2017, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa bắt buộc phải có giấy phép
kinh doanh lữ hành như doanh nghiệp lữ hành quốc tế, là yếu tố góp phần bảo
đảm chất lượng dịch vụ phục vụ khách [63].
Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa đã chủ động thường xuyên
đầu tư, khảo sát xây dựng các sản phẩm du lịch hấp dẫn, kết nối tuyến điểm
du lịch vùng miền phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thị trường khách nội địa.
Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch được bồi đắp nhằm nâng cao chất lượng
phục vụ khách. Tính đến hết năm 2019, cả nước có 27.683 hướng dẫn viên du
lịch, tăng 15% so với năm 2018, trong đó có 17.825 hướng dẫn viên du lịch
quốc tế, 9.134 hướng dẫn viên du lịch nội địa và 724 hướng dẫn viên du lịch
tại điểm. Đội ngũ hướng dẫn viên có trình độ từ đại học trở lên (chiếm
71,3%), tốt nghiệp cao đẳng (chiếm 18%), trình độ khác (chiếm 10,7%) [63].
1.3.2. Các xu hướng phát triển của ngành du lịch
1.3.2.1. Xu hướng phát triển mới của ngành Du lịch trên thế giới
Xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu mở rộng và
tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ của nền kinh tế thế giới đã tác động
đến xu hướng phát triển của ngành Du lịch.
27
- Xu hướng thứ nhất: Du lịch thế giới đã và đang phát triển mạnh bởi vì
kinh tế thế giới ngày càng phát triển, thu nhập người dân được nâng cao dẫn
đến sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng theo hướng tăng tỷ lệ chi tiêu cho các nhu
cầu xa xỉ trong đó có du lịch. Mặt khác, với sự phát triển của khoa học công
nghệ, sự tiến bộ của xã hội, thời gian nghỉ phép, nghỉ lễ của người dân tăng
lên tạo điều kiện thuận lợi để đi du lịch. Xu thế toàn cầu hóa cũng đã tác động
tích cực đến phát triển du lịch, thủ tục xuất nhập cảnh giữa các nước ngày
càng thuận tiện, nhiều nước đã ký kết các hiệp định bãi bỏ thị thực nhập cảnh,
đồng thời nhu cầu hội họp quốc tế, giao lưu thương mại giữa các nước và
vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế ngày càng phát triển dẫn đến số khách du
lịch công vụ ngày càng tăng.
Tại các nước đang phát triển và các nước nghèo, các hoạt động du lịch vì
người nghèo đang được phát triển tới cả vùng sâu vùng xa với sự nỗ lực của
Chỉnh phủ cùng sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ.
Theo số liệu thống kê công bố từ những năm đầu của thế kỷ XXI của
UNESCO thì 11% đầu tư của thế giới là cho du lịch, 10,9% sản phẩm được
tạo ra bởi ngành Du lịch, 10,8% lao động thuộc ngành này và 20% giao dịch
thương mại thế giới phục vụ du lịch. Theo đánh giá của tổ chức Du lịch Thế
giới của Liên Hợp quốc (UNWTO), trong những năm tới, viễn cảnh của
ngành Du lịch toàn cầu nhìn chung rất khả quan và dự báo: đến năm 2020,
lượng khách du lịch thế giới sẽ đạt 1,6 tỷ lượt khách, thu nhập xã hội từ du
lịch đạt khoảng 10.000 tỷ USD và tạo 326 triệu việc làm. Riêng ở Việt Nam,
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn xác định mục tiêu: Về lượng khách: a)
17-20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng 15-16,5%/năm giai đoạn 2016-
2020; 75 triệu lượt khách du lịch nội địa, tăng 6%/năm giai đoạn 2016-2020;
b) Tăng thời gian lưu trú và chi tiêu bình quân của khách; Về kinh tế: a) Đóng
góp 10% GDP, tổng thu từ du lịch đạt 35 tỷ USD; GDP du lịch và tổng thu du
28
lịch tăng 16%/năm giai đoạn 2016-2020; b) Giá trị xuất khẩu tại chỗ thông
qua du lịch đạt 20 tỷ USD, tăng 19%/năm giai đoạn 2016-2020; Tạo 4 triệu
việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp. Đến năm 2030, đón 30 triệu
lượt khách du lịch quốc tế, hơn 120 triệu lượt khách du lịch nội địa, đóng góp
12-13% GDP, tạo hơn 5 triệu việc làm (khoảng 1,7 triệu lao động trực tiếp)
[64].
- Xu hướng thứ hai: Có sự thay đổi về hướng và phân bố luồng khách
du lịch quốc tế. Trước đây, khách du lịch chủ yếu đến nghỉ dưỡng tại các
nước phát triển thuộc khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, luồng khách du lịch trên toàn cầu đang có xu hướng thay đổi cơ
bản, chuyển dần sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Trong năm 2012, Đông Á - Thái Bình Dương đã vượt Châu Mỹ trở thành khu
vực đứng thứ 2 thế giới sau Châu Âu về đón khách du lịch quốc tế với 22% thị
phần. Trong đó, du lịch các nước Đông Nam Á giữ vai trò quan trọng trong khu
vực Đông Á - Thái Bình Dương, hiện chiếm gần 36% lượng khách và 28% thu
nhập du lịch toàn khu vực. Theo dự báo của tổ chức du lịch Thế giới, đến năm
2020 Đông Nam Á đón 123 triệu du khách quốc tế, với mức tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2010 - 2020 là 5,8%, cao hơn mức bình quân thế giới [64].
- Xu hướng thứ ba: Cơ cấu chi tiêu của khách thay đổi theo hướng
giảm tỷ trọng chi tiêu của khách dành cho các dịch vụ cơ bản (lưu trú, ăn
uống, vận chuyển), tăng tỷ trọng chi tiêu mua sắm và các dịch vụ du lịch bổ
sung (chăm sóc sức khỏe, chăm sóc sắc đẹp, hội thảo, tham quan, giải trí...).
Kết quả điều tra về chi tiêu của khách du lịch tại nhiều quốc gia cho thấy: nếu
trước đây, khách du lịch chi tiêu 60 - 70% cho ăn, ở, đi lại và 30 - 40% chi
cho mua sắm hàng hóa, tham quan và giải trí thì ngày nay là ngược lại, chi 40
- 50% cho ăn, ở, đi lại và 50 - 60% cho mua sắm hàng hóa, tham quan, giải trí
và dịch vụ khác [64].
- Xu hướng thứ tư: Xu hướng thay đổi về hình thức tổ chức chuyến đi của
29
du khách. Thông thường khách du lịch có thể lựa chọn một số hình thức tổ
chức chuyến đi du lịch như tự mình tổ chức chuyến đi, đi theo tour trọn gói
hoặc tour mở do các công ty lữ hành cung cấp. Xu hướng chung hiện nay là tỷ
lệ khách đi theo tour trọn gói giảm, khách tự tổ chức chuyến đi và đi theo tour
mở ngày càng tăng lên. Sự thay đổi đó là do sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật, công nghệ hiện đại và sự phát triển toàn cầu hoá nền kinh tế, đã
làm cho xã hội loài người không ngừng tiến vào thời đại tiêu dùng, đồng thời
cá tính trong tiêu dùng cũng phát triển theo, du lịch theo đó sẽ phát triển rất
nhanh sự cá tính hoá, một là khách đi du lịch tản mạn, đi lẻ tăng nhiều hơn so
với khách đi theo đoàn. Hai là các đoàn du lịch ngày càng phát triển mô hình
các đoàn du lịch nhỏ, lấy gia đình làm hạt nhân. Ba là sự phát triển nhanh
chóng của du lịch tự phục vụ - du khách tự chọn địa điểm du lịch, sắp xếp lộ
trình du lịch và thời gian du lịch.
- Xu hướng thứ năm: Sự gia tăng các điểm đến du lịch trong một chuyến
đi du lịch. Trong những năm gần đây, khách du lịch có xu hướng đi đến nhiều
nước, nhiều lãnh thổ hoặc nhiều điểm du lịch trong một chuyến đi nhờ sự thuận
lợi của giao thông và sự liên kết du lịch giữa các nước, các điểm du lịch…
- Xu hướng thứ sáu: Đa dạng hóa sản phẩm du lịch: Với sự thay đổi của
quan điểm giá trị, sự tăng trưởng dân số toàn cầu, sự phát triển kinh tế và chất
lượng cuộc sống ngày một nâng cao dẫn đến nhu cầu du lịch của con người
ngày càng đa dạng, nhu cầu du lịch truyền thống như du lịch tập thể, du lịch
văn hoá, du lịch nghỉ ngơi không ngừng được phát triển và mở rộng. Đồng
thời, những nhu cầu du lịch mới nổi lên như du lịch sinh thái, du lịch sức
khoẻ, du lịch chữa bệnh, du lịch triển lãm thương mại hoặc nhu cầu du lịch
theo chuyên đề như du lịch nông nghiệp, du lịch thám hiểm, du lịch khoa học,
du lịch học tập… sẽ ngày càng chiếm vị thế nhanh chóng của nhu cầu du lịch
thế kỷ XXI. Để làm hài lòng những yêu cầu đa dạng đó của du khách, sản
30
phẩm du lịch sẽ phải đa dạng hóa về hình thức và nội dung.
- Xu hướng thứ bảy: Đẩy mạnh quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa: Với
xu hướng toàn cầu hóa, sự liên kết hoạt động giữa các quốc gia, các khu vực trên
toàn thế giới ngày càng được mở rộng. Hiện nay, trên thế giới ngoài tổ chức du
lịch thế giới (World Tourism Oganization, UNWTO), còn có nhiều tổ chức du
lịch khu vực, liên khu vực đã ra đời như Hiệp hội du lịch Khu vực Thái Bình
Dương, hiệp hội du lịch vùng Caribe, Hiệp hội du lịch vùng Đông Nam Á....
1.3.2.2. Xu hướng phát triển của Du lịch Việt Nam
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 xác định đến năm 2020 đưa ngành Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng
bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và
thế giới, đồng thời gắn phát triển du lịch với giữ gìn, phát huy các giá trị tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu trên, đồng thời chịu sự chi phối của xu hướng phát triển
du lịch chung của khu vực và thế giới, ngành du lịch Việt Nam phát triển theo
những xu hướng sau:
- Một là, tiếp tục mở rộng quy mô tăng trưởng về lượng song song với
quá trình chuyển dịch sang đầu tư mạnh về chiều sâu. Tiếp tục ra đời nhiều
sản phẩm mới, điểm đến mới, khu du lịch và công trình du lịch mới, được đầu
tư mở rộng, nâng cấp, đan xen nhiều công trình, sản phẩm có tầm cỡ, chất
lượng, có thương hiệu và có yếu tố liên kết toàn cầu.
- Hai là, kết hợp các hình thức du lịch truyền thống với các hình thức du
lịch mới như du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái, du lịch rẻ tiền, nhằm thu hút
các nhóm đối tượng du lịch khác nhau. Sản phẩm du lịch tiến tới chuẩn hóa
đồng thời với quá trình dị biệt hóa, đa dạng hóa hướng tới nhu cầu các phân
31
đoạn thị trường khác nhau.
- Ba là, sản phẩm du lịch có thương hiệu được khẳng định, được kiểm
soát chất lượng và được thông tin, quảng bá có địa chỉ tới các phân đoạn thị
trường mục tiêu. Xúc tiến quảng bá du lịch dần trở thành yếu tố quyết định
giá trị và định hướng tiêu dùng du lịch.
- Bốn là, yếu tố văn hóa và xu hướng du lịch về nguồn gắn với các giá trị
lịch sử, giá trị di sản và giá trị môi trường sinh thái làm gia tăng giá trị cho
sản phẩm du và dần trở thành yếu tố quyết định đến mục đích và sự khác biệt
cho chuyến đi.
- Năm là, không gian du lịch sẽ trở nên phong phú với nhiều điểm du
lịch mới, đa dạng khi cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận điểm đến được cải
thiện căn bản cùng với hiệu ứng lan tỏa từ các trung tâm du lịch tới các điểm
du lịch vệ tinh theo liên kết cụm, vùng và khu vực. Độc quyền địa phương
vẫn chi phối song song với quá trình chuẩn hóa quốc gia, khu vực.
- Sáu là, liên kết hợp tác đa chiều trở nên phổ biến giữa các vùng địa
phương, giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch với nhau và với tất cả các
ngành, lĩnh vực kiên quan. Hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp du lịch
vùng, khu vực trong và ngoài nước ngày càng có hiệu quả.
- Bảy là, công nghệ thông tin, truyền thông và các công nghệ khác của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ngày càng ứng dụng hữu hiệu trong hầu
hết các lĩnh vực đặc biệt là lữ hành, phân phối trung gian, xúc tiến quảng bá,
đặt giữ chỗ trực tuyến. Xu hướng phát triển du lịch tác động trực tiếp tới cơ
cấu số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, đồng thời
đặt ra yêu cầu nhân lực ngành du lịch chất lượng cao phát triển theo xu hướng
ngày càng cao về trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, kỹ năng nghề nghiệp
hướng tới đạt tiêu chuẩn chung và được thừa nhận trong khu vực, vươn tới
tham gia một cách chủ động vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Như vậy là xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu mở
32
rộng và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh tế tri thức
và cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới và khu vực đã và đang tạo những
cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với phát triển du lịch Việt Nam nói
chung và du lịch Hà Nội nói riêng. Trước bối cảnh và xu hướng đó, định
hướng phát triển du lịch Việt Nam và Hà Nội phải đáp ứng được những yêu
cầu mới của thời đại về tính chuyên nghiệp, tính hiện đại, hội nhập và hiệu
quả, đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, yếu tố truyền thống để
phát triển bền vững, tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước, của
thành phố và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế. Xu hướng phát triển ngành
Du lịch đặt ra yêu cầu và tác động trực tiếp tới số lượng, chất lượng và cơ cấu
của nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Xu hướng nguồn nhân lực du lịch
nói chung và nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao nói riêng, ngày càng đòi
hỏi cao về trình độ, kỹ năng quản lý; kỹ năng nghề nghiệp hướng tới đạt
chuẩn khu vực và quốc tế, nhưng cần có mức độ tinh tế và nhạy cảm trong
phục vụ và giao tiếp; lao động phổ thông du lịch dần trở nên kém hấp dẫn
thay thế bởi lao động chất lượng cao, mang tầm khu vực và quốc tế.
1.3.3. Thực trạng hoạt động du lịch của Thủ đô Hà Nội
Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; được vinh
danh là Thủ đô anh hùng, Thành phố vì hòa bình, có bề dày truyền thống ngàn
năm văn hiến, đây là nơi thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế cao nhất
cả nước. Các hoạt động sống ở đây luôn diễn ra với tốc độ nhanh, sôi động và
phong phú. Thêm vào đó, với bề dày truyền thống và nhiều điểm du lịch hấp
dẫn nên ở đây thường tập trung một số lượng lớn khách du lịch trong nước và
quốc tế đến với Hà Nội.
Trong những năm gần đây, kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng cao; cơ
cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp chuyển dịch tích cực ngày
càng rõ nét; quy mô kinh tế được mở rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
33
đô thị trên địa bàn Thủ đô phát triển theo hướng hiện đại. Bộ mặt thành phố
Hà Nội, kể cả khu vực đô thị và vùng nông thôn, có nhiều thay đổi. Đặc biệt,
việc tập trung giải quyết thành công một khối lượng lớn công việc trong quá
trình hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính, đã đưa Thủ đô Hà Nội bước vào
thời kỳ phát triển mới, với một tầm vóc lớn hơn. Quy mô Thủ đô mở rộng đã
tác động đến quy mô, cơ cấu, chất lượng du lịch, nhất là sự hấp dẫn du lịch
của Thủ đô.
Được mệnh danh là thủ đô “ngàn năm văn hiến”, mang trong mình
những giá trị văn hóa độc đáo và đa dạng, Thủ đô Hà Nội đã ngày càng khẳng
định rõ vị thế quan trọng trên bản đồ du lịch trong nước và quốc tế.
Với gần 6.000 di tích, hơn 1.350 làng nghề, Hà Nội hội tụ nhiều tiềm
năng để phát triển du lịch văn hóa, du lịch làng nghề, du lịch tâm linh. Cùng
với đó, vùng ngoại thành với nhiều nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, phù
hợp để Hà Nội phát triển loại hình du lịch giải trí, du lịch thể thao, du lịch
sinh thái, du lịch nông nghiệp...
Với lợi thế là Thủ đô “ngàn năm văn hiến”, lượng khách du lịch nội địa
đến Hà Nội ở vị trí hàng đầu cả nước. Hà Nội là trung tâm tiếp nhận và phân
phối khách du lịch đến các vùng du lịch phía Bắc và các vùng, miền khác trên
lãnh thổ Việt Nam cũng như tới các nước trong khu vực. Là Thủ đô nằm ở vị
trí trung tâm của miền Bắc, nối giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của
Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường
thủy và đường sắt. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt
trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh (Trung Quốc), đi nhiều nước
châu Âu. Khách du lịch lựa chọn Hà Nội là điểm đến trong chuyến đi của
mình chủ yếu vì giá trị văn hóa, lịch sử, yếu tố tài nguyên tự nhiên. Ngoài ra
còn các yếu tố Hà Nội là điểm đến an toàn, sự hiếu khách của người dân, giá
cả hợp lý và cơ hội mua sắm.
Mặc dù trong những năm đầu thực hiện đổi mới theo Nghị quyết số 06-
34
NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội
giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo, ngành du lịch Hà Nội còn gặp
nhiều khó khăn. Song, với sự tích cực, chủ động của Thành ủy và Ủy ban
nhân dân thành phố, du lịch Hà Nội từng bước vươn lên trở thành một trong
những thế mạnh, không chỉ đóng góp nguồn lợi đáng kể vào ngân sách Thủ
đô mà còn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt
Nam. Giai đoạn 2016 - 2019, khách du lịch đến Hà Nội đạt mức tăng trưởng
bình quân 10,1%/năm, tốc độ năm sau cao hơn năm trước và hoàn thành vượt
chỉ tiêu về tốc độ tăng trung bình từ 8-10%/năm. Đặc biệt, mức tăng trưởng
bình quân khách du lịch quốc tế đạt 21,2%/năm, hoàn thành sớm 2 năm chỉ
tiêu khách du lịch quốc tế tới địa phương đến năm 2020 đề ra tại Nghị quyết
số 06-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, cụ thể:
Năm 2016, tổng số khách du lịch đến Hà Nội đạt 21,83 triệu lượt khách,
tăng 11% so với năm 2015 (cao hơn mức tốc độ tăng trung bình 8 - 10%/năm
của giai đoạn 2016 - 2020 được Nghị quyết số 06-NQ/TU xác định), trong đó:
khách du lịch quốc tế đến Hà Nội đạt 4,02 triệu lượt khách, tăng 23% so với
năm 2015; khách du lịch quốc tế có lưu trú đạt 2,89 triệu lượt khách, tăng
24% so với năm 2015; Khách du lịch nội địa đạt 17,81 triệu lượt khách, tăng
8% so với năm 2015 [70].
Năm 2017, khách du lịch đến Hà Nội đạt 23,83 triệu lượt khách, tăng
9,2% so với năm 2016, chiếm tỷ trọng 27,7% so với cả nước; trong đó khách
quốc tế đạt 4,95 triệu lượt khách, tăng 23%, chiếm 38,3% cả nước; khách nội
địa đạt 18,88 triệu lượt khách, tăng 6%, chiếm tỷ trọng 25,8% so với cả nước.
Năm 2018, Thành phố đón 26,30 triệu lượt khách, tăng 10,4%, chiếm tỷ trọng
27,5 so với cả nước, trong đó khách du lịch quốc tế đạt 6 triệu lượt khách,
tăng 21,3%, chiếm 38,7% cả nước, hoàn thành vượt 105,2% chỉ tiêu đón
khách quốc tế đến năm 2020 tại Nghị quyết số 06-NQ/TU của Thành ủy đề ra.
Khách du lịch nội địa đạt 20,30 triệu lượt khách, tăng 7,5% so với năm 2017
35
và chiếm tỷ trọng 25,4% so với cả nước. Trong 4 tháng đầu năm 2019, khách
du lịch đến Hà Nội đạt 9,67 triệu lượt khách, tăng 10% so với cùng kỳ năm
trước; trong đó khách du lịch quốc tế đạt 2,45 triệu lượt khách, tăng 11,8%;
khách du lịch nội địa đạt 7,22 triệu lượt khách, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm
trước [70].
Năm 2019, Thủ đô Hà Nội đón 28,94 triệu lượt khách du lịch, trong đó có
7,02 triệu lượt khách du lịch quốc tế, đạt tốc độ tăng trưởng 17% so với năm
2018, đón được số lượng khách du lịch quốc tế lớn hơn một số Thành phố của
các nước trong khu vực Đông Nam Á như: Jakarta, Phnom Penh, Viêng
Chăn,... Tuy nhiên, so sánh với lượng khách du lịch quốc tế đến với các Thành
phố lớn trong khu vực và trên thế giới, lượng khách du lịch đến Hà Nội còn có
khoảng cách; cụ thể (chỉ so sánh với các nước trong khu vực Châu Á): lượng
khách du lịch quốc tế đến Hong Kong nhiều gấp 4 lần, đến BangKok nhiều gấp
3,5 lần, đến Singapore nhiều gấp 3 lần, đến Kuala Lumpuar nhiều gấp 2 lần…
lượng du khách đến Hà Nội [70].
Hà Nội được các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá, bình chọn nằm trong
top các điểm đến hấp dẫn trong khu vực và thế giới, đồng thời nhận nhiều giải
thưởng và đề cử danh giá như giải “Điểm đến du lịch hàng đầu châu Á” năm
2018 và 01/17 thành phố “Điểm đến thành phố hàng đầu Thế giới 2018” do
World Travel Awards vinh danh. Chiến dịch quảng bá Thành phố Hà Nội trên
CNN Quốc tế đã nhận được Giải thưởng Chiến dịch quảng bá du lịch xuất sắc
nhất 2018 tại Diễn đàn Tổ chức Xúc tiến Du lịch các Thành phố Châu Á-Thái
Bình Dương (TPO) lần thứ 8 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 2019, Hà
Nội tiếp tục có mặt trong các bảng xếp hạng về du lịch uy tín. Hãng hàng
không ANA của Nhật Bản xếp Hà Nội đứng thứ 25/26 các thành phố châu Á
tốt nhất để làm việc và du lịch; đặc biệt, Hà Nội được nhận giải Travelers’
Choice Awards năm 2019, xếp thứ 4/25 điểm đến hàng đầu châu Á và 15/25
điểm đến hàng đầu thế giới do du khách bình chọn trên trang TripAdvisor.
36
Bên cạnh đó, Hà Nội hiện là thành viên Hội đồng Xúc tiến du lịch châu Á
(CPTA), Tổ chức Xúc tiến du lịch các thành phố châu Á - Thái Bình Dương
(TPO)…
Năm 2009, Thủ đô Hà Nội được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa
Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh là “Thành phố vì hòa bình”. Từ đó, Hà
Nội trở thành một trong những trung tâm kết nối giá trị toàn cầu, nơi trao đổi
các sáng kiến khu vực và quốc tế, vì nền hòa bình, ổn định và phát triển. Quan
hệ giữa Thủ đô với các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới ngày càng
được củng cố và mở rộng. Năm 2019, Hà Nội chính thức gia nhập Mạng lưới
các thành phố sáng tạo của UNESCO. Đến nay, Hà Nội đã có quan hệ hữu
nghị, hợp tác với hơn 100 Thủ đô, thành phố lớn trên thế giới, thành viên của
các tổ chức liên đô thị quốc tế.
Trong vài năm trở lại đây, Hà Nội luôn được một số tạp chí du lịch uy
tín hàng đầu thế giới, như Travel and Leisure (Mỹ), Smart Travel Asia (HKG)
tổ chức bình chọn và đạt danh hiệu Top 10 điểm đến Du lịch hấp dẫn nhất
châu Á. Năm 2019, Hà Nội liên tục được các tổ chức du lịch, các trang thông
tin du lịch uy tín trên thế giới bình chọn là điểm đến ấn tượng. Đáng lưu ý, Hà
Nội vinh dự là một trong 19 ứng cử viên hạng mục “Điểm đến thành phố
hàng đầu thế giới 2019” để bình chọn tại giải thưởng World Travel Awards -
giải thưởng có uy tín nhất của tổ chức du lịch thế giới [70].
Qua khảo sát khách du lịch quốc tế cũng như thực trạng thu hút khách
trong những năm gần đây có thể thấy rằng khai thác các giá trị văn hóa, lịch
sử đang là một thế mạnh trong phát triển du lịch của Hà Nội. Tuy nhiên, con
số thống kê cũng cho thấy trong tổng số hơn 7 triệu khách đến Hà Nội chủ
yếu là thị trường khách châu Á, còn thị trường khách châu Âu chỉ chiếm 17%
- một con số khá khiêm tốn [70].
Châu Âu là thị trường khách tiềm năng, có khả năng chi trả cao tuy
nhiên họ thường khó tính và đòi hỏi cao hơn các thị trường khác, do đó để có
37
thể đáp ứng được nhu cầu của đối tượng khách này cần đa dạng tour du lịch,
sản phẩm du lịch không chỉ tập trung vào những tour du lịch truyền thống đã
khai thác trong nhiều năm, phải sáng tạo, kết hợp để đưa vào những điểm du
lịch mới, hấp dẫn hơn.
Có thể nói thời gian qua Thủ đô Hà Nội đã tập trung đẩy mạnh phát
triển các loại hình du lịch đa dạng, độc đáo, chất lượng cao, phù hợp với nhu
cầu thị trường và xu hướng thế giới. Bên cạnh những loại hình du lịch truyền
thống mà Hà Nội đang triển khai, như du lịch di sản văn hóa, du lịch tâm linh,
du lịch làng nghề, du lịch ẩm thực, lễ hội, mô hình du lịch cộng đồng - hình
thức kinh doanh du lịch dựa trên tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm văn hóa địa
phương để phát triển du lịch. Mô hình du lịch cộng đồng điển hình là làng cổ
Đường Lâm (thị xã Sơn Tây) với khoảng 10% số hộ dân trên địa bàn xã
Đường Lâm tham gia cung cấp dịch vụ du lịch cộng đồng. Họ cung cấp dịch
vụ lưu trú, ăn uống, tham quan, giúp du khách trải nghiệm cảm giác “được
làm nông dân”. Bên cạnh đó, trên địa bàn thành phố còn có nhiều điểm du
lịch cộng đồng hấp dẫn khác, như: Làng gốm sứ Bát Tràng (huyện Gia Lâm),
làng rối nước Đào Thục (huyện Đông Anh), làng nhiếp ảnh Lai Xá (huyện
Hoài Ðức), làng thuốc nam người Dao (huyện Ba Vì)… Bên cạnh đó chọn
một số làng nghề tiêu biểu để nâng cấp; đã xây dựng và nâng cấp chất lượng
các tuyến phố đi bộ; đầu tư, nâng cấp hạ tầng du lịch, chỉnh trang cảnh quan
38
chung của Thành phố, đặc biệt các quận nội thành và các tuyến phố cổ…
Tiểu kết Chương 1
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy du lịch với tư
cách là một lĩnh vực, một loại hình hoạt động có quan hệ mật thiết với văn
hoá, đang đồng thời trở thành một lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, một ngành công
nghiệp không khói, một mũi nhọn kinh tế, một nguồn lực trong đời sống kinh tế
xã hội đang cần được quan tâm nghiên cứu để phục vụ yêu cầu phát triển.
Cùng với tiến trình vận động và phát triển này, du lịch đã trở thành một
bộ môn, một lĩnh vực nghiên cứu đào tạo, có cơ sở lý luận và thực tiễn, có đối
tượng mục tiêu xác định, có hệ phương pháp nghiên cứu tiếp cận dựa trên các
thành tựu cơ bản của bộ môn Văn hoá học. Thực tiễn hoạt động du lịch lữ
hành của Việt Nam nói chung, Thủ đô Hà Nội nói riêng đã và đang diễn ra hết
sức sôi động, thông qua các hoạt động du lịch lữ hành đã góp phần kiến tạo
thêm bản sắc văn hoá mới cho cộng đồng, địa phương và các điểm đến du
lịch, kiến tạo thêm nhiều ý nghĩa mới cho các điểm đến góp phần kiến tạo
thêm các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn. Thông qua đó, cũng tác động
đến các điểm đến, cộng đồng đia phương, các công ty lữ hành tạo ra các sản
phẩm du lịch mới độc đáo, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch góp phần kiến
tạo nên bản sắc văn hoá mới.
Du lịch lữ hành Thủ đô Hà Nội là một bộ phận của du lịch lữ hành quốc
gia. Trong quá trình phát triển đi lên du lịch Thủ đô đã có những biến đổi to
lớn, trên nhiều phương diện và mối quan hệ tương tác giữa bộ phận kinh
doanh dịch vụ du lịch với khách du lịch nội địa và quốc tế cũng như những
mối quan hệ tương tác của các đơn vị, cá nhân trong ngành du lịch ngày càng
39
mở rộng, phát triển theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả của thị trường.
Chương 2
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG -
ĐIỂM ĐẾN TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH
2.1. Các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu, hấp dẫn trong hoạt động
du lịch lữ hành
Di tích lịch sử văn hoá và hoạt động du lịch lữ hành có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Có thể nói rằng các di tích lịch sử văn hoá ở Hà Nội và
các địa phương lân cận là thành tựu văn hoá, là di sản văn hoá kết tinh từ
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, là kho tàng
văn hoá vô cùng quý báu với những giá trị cao quý được dân cư ở các làng xã
đang gìn giữ đã trở thành nền tảng và động lực thu hút sự quan tâm của khách
du lịch từ mọi miền đất nước và khách du lịch quốc tế từ các châu lục khác
nhau. Các công ty lữ hành như: Công ty Lữ hành Hanoitourist, Công ty cổ
phần du lịch Vietsense, Công ty TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh
Dương, Công ty TNHH MTV Du lịch Công đoàn Việt Nam, Công ty cổ phần
du lịch Kim Liên, Công ty cổ phần du lịch Cánh Diều Việt… đã tập trung tìm
hiểu, giới thiệu và đưa các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu vào chương trình
tour, tuyến, điểm du lịch của công ty và đưa khách du lịch đến với các di tích
lịch sử văn hoá Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, làm cho các đoàn
khách du lịch hiểu biết cụ thể hơn, sâu sắc hơn về đất nước Việt Nam, con
người Việt Nam từ trong lịch sử cho đến ngày nay.
2.1.1. Di tích Hoàng Thành Thăng Long lịch sử và một vài thành cổ
ở Thủ đô Hà Nội
Qua khảo sát thực tế hoạt động du lịch lữ hành của các công ty du lịch
trên địa bàn Hà Nội và đặc biệt là ba công ty du lịch lữ hành: Công ty Lữ
hành Hanoitourist, Công ty cổ phần du lịch Vietsense, Công ty TNHH Lữ
hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương, chúng tôi nhận thấy di tích Hoàng
Thành Thăng Long là một địa danh, là một điểm du lịch tham quan không thể
40
thiếu trong hệ thống chương trình được thiết kế cho khách du lịch trong nước
và khách du lịch quốc tế. Nếu các đoàn khách du lịch đến tham quan Thủ đô
Hà Nội trong khoảng thời gian dài 2 ngày trở lên thì hầu hết (trên 80%) các
đoàn đều có nguyện vọng đến thăm di tích Hoàng Thành Thăng Long. Vì sao
quần thể di tích lịch sử Hoàng Thành Thăng Long lại có sức hút mạnh mẽ, lại
được sự quan tâm tìm hiểu của khách du lịch như vậy? chúng ta có thể nhận
thấy: Vì Hoàng Thành Thăng Long với trên 1000 năm hình thành và phát
triển, là kinh đô của các triều đại phong kiến Việt Nam (các triều đại Lý,
Trần, Lê) trong thời kỳ phát triển cực thịnh, với những cung điện, lầu gác
hoành tráng đã từng được xây dựng, sửa chữa, mở rộng và cũng đã từng bị tàn
phá bởi các cuộc chiến tranh với các thế lực phong kiến phương Bắc và
phương Nam. Dù Hoàng Thành Thăng Long không còn nguyên vẹn như xưa
nhưng nhờ sự phục dựng, tìm hiểu của các nhà khảo cổ học, lịch sử học, văn
hóa học…mà khách tham quan du lịch có thể được tiếp cận với các thành
phần kiến trúc, trang trí ở các cung điện, lầu gác xa xưa.
Bà Nguyễn Thị Dịu (56 tuổi), thành viên đoàn khách du lịch đến từ
thành phố Thanh Hoá cho biết: Điều thu hút và ấn tượng đối với bà khi đến
thăm quan di tích Hoàng Thành Thăng Long là thông qua những lời giới thiệu
của thuyết minh viên, vẫn là câu chuyện lịch sử nhưng đã được sáng tạo, gắn
thêm nhiều ý nghĩa cho di tích, tạo nên sự huyền bí. Sức hút của Hoàng
Thành Thăng Long trước hết là ở vị trí trung tâm của Thủ đô Hà Nội, đi trên
đường Điện Biên Phủ, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương…hình ảnh cột cờ
vươn cao trên nền trời xanh với lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió, được
chiêm ngưỡng Thành cửa Bắc trầm mặc, vững chãi, hiên ngang với vết đạn
đại bác sâu hoắm của giặc Pháp khi tấn công Thành Hà Nội vào cuối thế kỷ
XIX.
Bất cứ hướng dẫn viên du lịch nào khi đưa các đoàn khách đến tham
quan Hoàng Thành Thăng Long cũng đều háo hức và vui sướng, xen lẫn với
lòng tự hào dân tộc, nhưng họ cũng phải chuẩn bị cẩn thận về mặt kiến thức
lịch sử, văn hóa, kiến trúc…về ngoại ngữ khi cần phải sử dụng những thuật
41
ngữ khoa học nói về các thành phần kiến trúc, các trang trí kiến trúc cổ, cùng
những truyền thuyết, thần thoại có liên quan đến quần thể di tích Hoàng
Thành Thăng Long. Lịch sử hình thành Hoàng thành Thăng Long gắn với lịch
sử hình thành kinh đô Thăng Long thời Lý (1010-1225). Một trong những
điều hấp dẫn và lý thú mà hướng dẫn viên du lịch nào cũng thuyết minh cho
khách du lịch của mình là vào mùa thu năm Canh Tuất (1010) Vua Lý Công
Uẩn hạ chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra khu
vực Thành Đại La. Khi đoàn thuyền rồng vừa cập bến nhà vua thấy hình
tượng rồng bay lên trời cao và vua Lý Công Uẩn đã quyết định đổi tên Thành
Đại La sang tên kinh thành Thăng Long (Thành phố rồng bay lên). Một hình
tượng tuyệt vời mong ước cho kinh thành – kinh đô mới của triều Lý có
những sự phát triển thăng hoa tột bậc. Triều Lý xây dựng theo mô hình nhà
nước phong kiến Trung ương tập quyền quân chủ phật giáo (GS Trần Quốc
Vượng) nên gần gũi với Nhân dân và các vua quan triều Lý ở thời kỳ đầu (Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông…) luôn chăm lo cho đời sống của
bách tính nên Nhân dân ủng hộ triều đình về mọi mặt. Theo sử sách cũ và căn
cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ trong khu Hoàng Thành đầu thế kỷ
XXI, thành Thăng Long thời Lý được xây dựng theo cấu trúc 3 vòng thành:
vòng trong cùng là tử cấm thành (cấm thành) là nơi ở của nhà vua và hoàng
tộc, tiếp đến là Hoàng thành dành cho quan lại cao cấp trong triều, ngoài cùng
là kinh thành dành cho dân cư sinh sống. Thành Thăng Long “ở vị trí trung
tâm bờ cõi đất nước, ở giữa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc tiện hình thế
núi sông sau trước” (Chiếu dời đô). Phía Đông kinh đô Thăng Long là sông
Nhị Hà (sông Hồng); phía Bắc và Tây Bắc giáp với Hồ Tây (hồ Dâm đàm) và
sông Tô Lịch. Hồ Tây ở thế kỷ XI-XII thông với sông Tô Lịch và hồ Lục
Thủy (hồ Hoàn Kiếm); phía Nam kinh thành là sông Kim Ngưu.
Nhiều khách du lịch đến tham quan Hoàng Thành Thăng Long muốn
biết số phận của một số quần thể kiến trúc nổi tiếng này ra sao trong những
những thế kỷ tiếp theo? Các hướng dẫn viên của Công ty Lữ hành
Hanoitourist và Công ty TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương đã
42
thuyết minh cho khách du lịch sự suy tàn của kinh đô Thăng Long và Hoàng
Thành Thăng Long trong gần 3 thế kỷ XVI, XVII, XVIII bởi cuộc chiến tranh
Nam – Bắc triều Trịnh – Nguyễn phân tranh, đến năm 1802, vua Gia Long
(Nguyễn Ánh) lên ngôi vua sau hơn 20 năm chinh chiến, lập ra Triều Nguyễn
(1802-1945) thì Hoàng Thành Thăng Long đã hết vai trò lịch sử vì vua Gia
Long dời đô vào Thành Phú Xuân (Huế), kinh đô Thăng Long trở thành Bắc
Thành, Thành Hà Nội (1831). Từ đó, Hoàng Thành Thăng Long xưa chẳng
những không được xây dựng thêm mà một số cung điện, lầu gác còn sót lại
trong khu vực Hoàng Thành cũng phải tiếp tục phá dỡ đi hoặc chuyển vào
Huế để xây dựng cho kinh đô Huế nguy nga, hoành tráng hơn, xứng đáng với
vị trí của kinh đô triều đại mới – Triều Nguyễn.
Qua khảo sát thực tế tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, chúng tôi
nhận thấy có rất nhiều học sinh, sinh viên đang nghiên cứu, học tập trên địa
bàn Thủ đô cũng như nhiều đoàn khách du lịch lữ hành đã đến thăm quan di
tích với số lượng rất đông. Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tìm gặp bà
Nguyễn Hồng Ánh – Chánh Văn phòng Trung tâm Bảo tồn bảo tồn Di sản
Hoàng Thành Thăng Long được bà cho biết: Trong một số năm trở lại đây
Khu trung tâm di tích Hoàng Thành Thăng Long thường xuyên diễn ra nhiều
sự kiện, triển lãm lịch sử, nghệ thuật và khảo cổ, đây là cơ hội giúp du khách
tìm thấy nhiều kiến thức giá trị và có những trải nghiệm thú vị, là một trong
những địa điểm trải nghiệm thú vị cho học sinh, sinh viên vô cùng bổ ích.
Chúng tôi phỏng vấn bạn Lê Khánh Linh (21 tuổi), sinh viên khoa Văn
hoá du lịch, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đi cùng nhóm bạn thăm quan,
trải nghiệm tại di tích, khi được hỏi lý do tại sao lại lựa chọn trải nghiệm tại
đây và được bạn cho biết: Thông qua review của một vài bạn bè trên facebook
khi trải nghiệm tại đây đã thôi thúc em muốn đến ngay địa điểm này, em được
biết Hoàng Thành Thăng là nơi lưu trữ rất nhiều dấu ấn lịch sử qua các triều
đại hưng thịnh của Việt Nam, đây là cơ hội em được trải nghiệm và muốn
thay đổi cách học lịch sử qua những trang sách bằng việc đến và trải nghiệm
thực tế tại di tích, ở đây em được tận hưởng một không gian yên bình, đậm
43
chất cổ kính giữa lòng Hà Nội xô bồ. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận rằng
trực tiếp trải nghiệm mới là điều thú vị nhất, nó giúp em hiểu rõ hơn về lịch
sử, học một cách nhanh chóng mà không bị nhàm chán qua sách vở, ấn tượng
nhất phải kể đến một công cụ tiện ích, sáng tạo là màn hình tương tác diễn
giải lịch sử Hoàng Thành Thăng Long, giúp em trải nghiệm và khám phá di
sản một cách thuận tiện dễ dàng nhất.
Trong hệ thống thành cổ Hà Nội, các tour du lịch cũng nhiều khi nhắc
đến thành cổ Sơn Tây và đưa khách du lịch đến tham quan để tiện so sánh với
hệ thống thành Cổ Loa, thành Thăng Long và có thể hiểu cụ thể hơn về mô
hình thành cổ Triều Nguyễn ở phía Bắc.
Khi chúng tôi theo chân một đoàn khách du lịch của Công ty Lữ hành
Hanoitourist tổ chức thăm quan tại đây, thông qua giới thiệu của thuyết minh
viên tại điểm được biết: Thành cổ Sơn Tây thuộc thị xã Sơn Tây, cách Hà Nội
trên 40km, thành được xây dựng từ năm 1822 Triều Nguyễn để trấn giữ vùng
xứ Đoài. Thành có bố cục hình vuông, mỗi cạnh dài 400m, tường thành được
xây bằng gạch đá ong là loại đá laterit hoá đặc trưng ở khu vực gò đồi vùng
Sơn Tây, đá có màu vàng xẫm và lỗ chỗ như tổ ong, nhưng khi được đào lên
khỏi lòng đất, sau 24 giờ sẽ cố kết chặt chẽ và kết lại rắn như đá. Thành Sơn
Tây được thiết kế 4 cổng quay về 4 hướng: Đông, Tây, Tiền, Hậu mỗi cổng
đều có vọng lâu cho lính đứng canh giữ, sát chân thành, ở phía ngoài có hào
sâu 3m, rộng 20m, chu vi khoảng 2000m. Thành cao 4m kết hợp với hào
nước sâu 3m nhằm ngăn cản sự xâm nhập của đối phương từ bên ngoài vào.
Trong thành có 4 khẩu súng thần công đặt ở 4 góc thành. Trung tâm thành cổ
có điện kính thiên là nơi nghỉ ngơi của vua khi đi Kinh lý, có dinh thự và
công đường của các quan đầu tỉnh, cùng với hệ thống kho tàng lương thực, vũ
khí, trại lính. Thành cổ này đã bị sụt lún, sạt lở bởi mưa gió và sự xâm lấn của
cư dân xung quanh, dù vậy khách du lịch vẫn có thể hình dung được quy mô
và giá trị của toà thành quân sự của triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX.
Kết thúc chương trình khám phá Thành cổ Sơn Tây, chúng tôi đã phỏng
vấn anh Lưu Văn Ka (46 tuổi) đến từ Nghệ An, cho biết: Điều hấp dẫn nhất
44
khi đến với di tích này là mô hình kiến trúc độc đáo, nhất là chất liệu xây bao
quanh Thành cổ là đá ong, được nghe mô tả kỹ về quá trình tạo ra những viên
đá ong độc đáo, mang đậm dấu ấn lịch sử của vùng đất Sơn Tây tôi thấy rất
thú vị, được nghe trực tiếp những lời giới thiệu bằng giọng nói nhẹ nhàng,
cuốn hút của thuyết minh về di tích đã giúp tôi am hiểu thêm về nguồn gốc, ý
nghĩa lịch sử dân tộc, văn hoá và con người nơi đây.
Có thể nói, chính các nhà quản lý khu di tích và hướng dẫn viên đã góp
phần sáng tạo, làm phong phú thêm cho lịch sử và nét đẹp của các di tích lịch
sử, khách du lịch được trải nghiệm, thưởng thức những nét tươi mới về nguồn
gốc, lịch sử hình thành, hàm chứa văn hoá đặc sắc của từng giai đoạn, từng
triều đại. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, ngoài các chương
trình quảng cáo tour của các công ty lữ hành, các di tích lịch sử cũng đã được
thay đổi và các công ty cũng xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo mang
đậm dấu ấn của mình, tạo nên sự khác biệt, hấp dẫn khách du lịch.
2.1.2. Khu di tích hồ Hoàn Kiếm và phố phường Hà Nội xưa
Hầu hết các đoàn khách du lịch nội địa và quốc tế khi đến thăm Hà Nội
đều ngắm cảnh Hồ Hoàn Kiếm và đi dạo trong phố cổ của Thăng Long – Hà
Nội. Trong hệ thống các tour du lịch của các công ty lữ hành không thể thiếu
chương trình du lịch đưa khách đến tìm hiểu về lịch sử hồ Hoàn Kiếm, chụp
ảnh kỷ niệm ở các công viên, vườn hoa, nhà hàng, đường phố quanh hồ và
mời du khách đi xích lô trong khu vực phố cổ, xung quanh hồ Hoàn Kiếm.
Địa điểm hồ Hoàn Kiếm và phố cổ Hà Nội xưa là một trong những điểm nhấn
của các tour du lịch thăm Hà Nội vì nơi đây có sự kết hợp hài hoà giữa không
gian đô thị hiện đại với không gian đô thị hình thành từ thời phong kiến, đồng
thời có thể nói rằng đây là nơi “lắng hồn núi sông nghìn năm” (Nguyễn Đình
Thi) cùng với sông Hồng Hà và Hồ Tây trong ca khúc về Hà Nội của nhạc sỹ
Nguyễn Đình Thi. Trong không gian văn hoá hồ Hoàn Kiếm và phố cổ Hà
Nội còn ẩn tàng nhiều truyền thuyết, thần thoại, còn lưu giữ nhiều kiến trúc cổ
đánh dấu sự hình thành và phát triển của vùng lõi, vùng trung tâm của trung
45
tâm Hà Nội trong suốt hằng nghìn năm lịch sử.
Theo chân đoàn khách du lịch là các cháu học sinh cấp 3 của huyện Lục
Ngạn, Bắc Giang của Công ty cổ phần du lịch Vietsense đến thăm Thủ đô Hà
Nội, bạn Nguyễn Trường Anh, đặt câu hỏi với hướng dẫn viên về nguồn gốc
tên gọi của hồ Hoàn Kiếm và đã được trả lời như sau: Trong kho tàng văn hoá
dân gian, hồ Hoàn Kiếm có tên gọi Lục Thuỷ vì màu nước của hồ có màu
xanh lục như màu lá cây, hồ cũng có tên gọi là hồ Thuỷ Quân từ thời Lý –
Trần vì diện tích hồ không chỉ bao gồm lòng hồ hiện nay mà nó còn mở rộng
sang khu vực phố Hàng Bài, phố Tràng Tiền ngày nay, quy mô của hồ Thuỷ
Quân xưa bao trùm cả vùng các phố Ngô Quyền, Phan Chu Trinh, Lò Đúc…
thông ra sông Hồng. Với một diện tích rộng lớn hơn hồ Hoàn Kiếm ngày nay
nhiều lần mà thuỷ quân đã tập trận và cho thuyền chiến neo đậu trên hồ này
và hồ đã được mang tên là hồ Thuỷ Quân. Tên Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm
được gắn với truyền thuyết dấy binh đánh đuổi giặc Minh của nghĩa quân
Lam Sơn do Lê Lợi khởi sướng và chỉ huy. Theo Lam Sơn thực lục là bộ sách
do Lê Lợi biên soạn vào năm Thuận Thiên thứ 4 (1431), kể lại rằng: Ở làng
Mục Sơn, có người dân chài tên là Lê Thận đã vớt được một thanh sắt không
mài mà sáng, trên đó có chữ thuận thiên và có hình triệu ấn. Hôm sau vợ chồng
Lê Thận dâng lưỡi kiếm thiêng cho Lê Lợi, sau đó chủ tướng Lê Lợi tình cờ nhặt
được cán gươm ở gốc cây đa, hiện rõ dáng hổ hình rồng, vua mừng rỡ lấy gươm
ra tra vào cán gươm thì vừa khít. Nhờ thanh gươm báu linh thiêng giúp đỡ mà
Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng giặc Minh dễ dàng như chẻ tre. Sau
những trận quyết chiến ở Chi Lăng, Xương Giang quân Minh đã suy yếu, nghĩa
quân Lam Sơn ngày càng hùng mạnh, buộc quân Minh phải đầu hàng, thu phục
được nhân tâm, lấy lại được kinh đô Đông Đô (mà giặc Minh xâm chiếm đặt tên
là Đông Quan), nhân dân hưởng hoà bình, hành phúc dài lâu, Lê Lợi lên ngôi
vua hiệu là Lê Thái Tổ. Nhân một ngày đẹp trời vua cùng các tướng sĩ đi
thuyền trên hồ Thuỷ Quân luyện tập bỗng nhiên có một con rùa lớn bơi theo
thuyền của nhà vua và vua Lê Thái Tổ rút gươm báu khỏi bao đựng, chỉ về
phía con rùa vàng, rùa nhô lên khỏi mặt nước, ngậm lưỡi gươm thiêng rồi lặn
46
xuống hồ sâu. Từ sự tích đó, hồ có tên là hồ Hoàn Kiếm và sau đó được gọi
tắt là Hồ Gươm. Truyền thuyết “Hoàn Kiếm” của vua Lê Lợi đã lý giải và
khẳng định truyền thống kiên cường chống giặc ngoại xâm và khát vọng hoà
bình của dân tộc Việt Nam, của quốc gia Đại Việt, sự nghiệp chống giặc
Minh, xây dựng đất nước ta từ thế kỷ XV do Lê Lợi đứng đầu là thuận theo ý
trời (Thuận Thiên) được nhân dân ủng hộ và khi đã đánh đuổi được bọn xâm
lược ra khỏi bờ cõi, vua Lê sẵn sàng trả lại gươm báu cho rùa thần, giã từ vũ
khí, tập trung xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân. Trong các sách Tang
thương ngẫu lục của Phạm Đình Hồ (1768-1839) cùng với Nguyễn Án (1770-
1815) và sách Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú (1870-1840) cũng có
nói đến sự tích vua Lê Thái Tổ trả gươm báu cho rùa thần trên hồ Thuỷ Quân.
Qua thuyết minh của hướng dẫn viên đã giúp cho các bạn học sinh thêm
hiểu sâu hơn về nguồn gốc, lịch sử hình thành của hồ Hoàn Kiếm, hướng dẫn
viên đã góp phần tạo nên câu chuyện sinh động hơn cho chuyến đi của các
bạn học sinh. Điều này, đã được các bạn phát biểu cảm nhận khi kết thúc
chuyến đi của mình và rất ấn tượng với cách truyền tải thông tin của hướng
dẫn viên.
Trong các đoàn khách du lịch ở phương Nam và một số du khách đến từ
Pháp, Nga, Trung Quốc… có nhiều người hỏi: hồ Hoàn Kiếm do con người
đào mà thành hay do thiên nhiên tạo ra? Câu hỏi này đã được hướng dẫn viên
du lịch các đoàn nghiên cứu và giải thích khá rõ ràng cho khách du lịch: Theo
các nhà địa lý, địa chất thì hồ Hoàn Kiếm hiện nay (và cả hồ Thuỷ Quân rộng
lớn thời Lý, Trần, Lê sơ) là dấu tích còn sót lại của sông Hồng khi chuyển
dòng, nếu mở rộng ra thì không phải chỉ hồ Hoàn Kiếm mà cả Hồ Tây, hồ
Trúc Bạch, hồ Cổ Ngựa (đã bị san lấp để xây dựng các phố Nguyễn Trường
Tộ, Phạm Hồng Thái), hồ Tay Ngai ở khu vực chợ Đồng Xuân bắc qua cả hồ
Hàng Đào, cả vùng đường phố Tràng Tiền, Hàng Bài, Lò Đúc…đều là tàn
tích của dòng sông Hồng để lại khi nó đổi dòng. Có thể nói rằng, hệ thống hồ
lớn ở khu vực trung tâm Hà Nội ngày nay đa số là dấu tích của “dòng sông
47
chết” khi sông cái đổi dòng.
Ngày nay, khi du khách đến tham quan Hồ Gươm và vùng lân cận thấy
nước hồ sạch sẽ, bờ hồ được kè bê tông chắc chắn xung quanh có cây xanh
che phủ và hệ thống đường xá, phố phường cùng nhiều kiến trúc hiện đại như:
UBND Thành phố Hà Nội, Bưu điện Thành phố, hệ thống nhà hàng, khách
sạn, cửa hàng trang trí lộng lẫy, vườn hoa, công viên có trăm loài khoe
sắc…đó là thành tựu của Nhân dân Thủ đô Hà Nội ngày nay và cũng có sự
đóng góp của cư dân Đông Đô – Thăng Long – Hà Nội từ hằng trăm năm
trước. Dựa vào những cuốn sách chuyên khảo về Thăng Long – Hà Nội như
Long Biên bách nhị vịnh, La thành cổ tích vịnh, ta biết được từ thời vua Lý
Thánh Tông (1054-1072) đã cho dựng hành cung ở bờ nam hồ và cho đào con
mương rộng trên 5 trượng (15m) nối hành cung với hồ để thuyền của vua có
thể đi lại. Đến đời vua Lý Thần Tông (1128-1133) chùa Báo Thiên đã được xây dựng trên bờ tây của hồ (khu vực nhà thờ lớn hiện nay1). Trong khuôn
viên chùa Báo Thiên xưa có ngọn bảo tháp Đại Thắng Tự thiên cao 12 tầng
với đỉnh tháp được đúc bằng đồng. Sau đời Trần, vua Trần Nhân Tông (1279-
1293) đã cho xây dựng một toà hành cung tráng lệ trên đảo Ngọc để tránh
nắng hè oi bức và thưởng lãm cảnh đẹp 4 mùa của hồ Lục Thuỷ.
Đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc (phía Bắc hồ Hoàn Kiếm) cũng là một kiến
trúc quan trọng, thu hút sự quan tâm của các đoàn khách du lịch và khi thiết
kế tour du lịch tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Thủ đô, các
công ty du lịch lữ hành luôn luôn yêu cầu hướng dẫn viên nội địa và quốc tế
chú ý tìm hiểu và giới thiệu những nét cơ bản của điểm du lịch này cho khách
được biết.
Anh Nguyễn Tuấn Linh, đến từ Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm đến
thời gian xuất hiện và quá trình thay đổi của Đền Ngọc Sơn cũng như trong
đền này thờ những vị thần linh nào và ý nghĩa ra sao? Hướng dẫn viên đã rất
hào hứng chia sẻ như sau: Theo một văn bia do Vũ Tông Phan soạn thảo năm
1 Nguyễn Vĩnh Phúc (2009) hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn, Nxb HN, tr37.
48
1843 với tên bài là “Ngọc Sơn đế quân từ ký” đại ý là: trên một gò đất rộng
gần 4 sào (Bắc Bộ), tương truyền là nơi có đài câu cá của vua cuối thời Lê,
ông Tín Trai người làng Nhị Khê đã cho tu sửa, mở rộng đền Quan Đế, thêm
một kiến trúc là chùa Ngọc Sơn, trước mặt chùa có dựng một gác chuông, do
thời gian và chiến tranh mà những kiến trúc đó đã bị đổ nát. Từ năm Tân Sửu
(1841) đến mùa thu năm Nhâm Dần (1842) những người khoa bảng trong hội
Hướng Thiện đã cho sửa lại đền Quan Đế, dỡ bỏ gác chuông xây dựng một
kiến trúc mới thờ Văn Xương. Đền có ba gian, gian giữa thờ tượng thánh Văn
Xương là người chủ về văn chương, thơ phú. Đền được gọi là đền Ngọc Sơn
Đế Quân, sau gọi tắt là đền Ngọc Sơn. Như vậy, đến thời vua Thiệu Trị giữa
thế kỷ XIX, trên gò Ngọc Sơn thờ Phật, thờ Quan Đế và thờ cả Văn Xương.
Căn cứ theo văn bia “Trùng tu Văn Xương miếu bi ký” do Lương Hiên Đặng
Huy Tá (Quan án sát Hà Nội lúc đó) soạn thảo: Phía đông làng Hà Thanh có
hồ Hoàn Kiếm, trong hồ có đảo là núi ngọc, trong núi có miếu Văn Xương.
Các quan án sát Đặng Huy Tá và án sát Nguyễn Như Cát có ý định tu bổ
nhưng chưa kịp làm đã phải đi nhận nhiệm vụ án sát ở tỉnh khác và người
thay thế các quan án sát để tu bổ lại kiến trúc ở đây là phương đình Nguyễn
Văn Siêu. Năm 1865-1866 đền mới đã được xây dựng xong, phía trước sát
mép hồ cho xây đình Trấn Ba, với ngụ ý ngăn chặn những làn sóng của văn
hoá phương Tây, giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, lại cho làm cầu Thê
Húc (đón nắng ban mai) nối liền đảo Ngọc Sơn với bờ hồ. Bên tả, phía đông
cầu Thê Húc cho dựng đài nghiên, phía đông trên núi Độc Tôn cho dựng tháp
bút. Qua ba năm mới làm xong, ở cổng đền tô vẽ hai chữ phúc, lộc mầu son
cầu mong sự tốt lành đến với các du khách. Bên trái có núi đá cao 4m đường
kính 12m, trên núi đá vươn lên một tháp vuông 5 tầng, thu nhỏ dần ở các tầng
phía trên, cả 5 tầng cao 28m, trên có ngọn bút lông cao 0,9m dựng ngược chỉ
thẳng lên trời, ở 3 tầng giữa, mặt phía Bắc của tháp bút có khắc 3 chữ Hán: Tả
Thanh Thiên (nghĩa là viết lên trời xanh). Núi độc tôn và tháp bút là một biểu
tượng văn hoá, đề cao chữ nghĩa, đạo lý, học hành, khoa cử: Núi là biểu tượng
của chiến công, tháp là biểu tượng của văn vật, cả hai cái đó nâng đỡ nhau,
49
dựa vào nhau mà tồn tại trong suốt 157 năm qua, tạo thành một điểm nhấn thu
hút khách du lịch muôn phương và cũng trở thành niềm tự hào của biết bao
thế hệ người dân Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, vào trong chút nữa du
khách đi qua cổng Long Môn – Hồ Bảng với những hình đắp nổi hình rồng
cùng đàn cá đang vượt vũ môn, nghĩa bóng của Hồ Bảng là bảng vàng vinh
danh các sỹ phu qua các kỳ thi Đình để đạt danh hiệu Trạng Nguyên, bảng
Nhãn, Thám Hoa, Tiến sỹ.
Tổng thể khu phố cổ Hà Nội là một quần thể kiến trúc độc đáo với khối
không gian nhỏ bé, hình thức kiến trúc mặt đứng, những tuyến phố nhỏ hẹp,
nối sát nhau, có thể đi thông từ phố nọ sang phố kia mà ca dao đã từng viết:
"Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ". Một đặc trưng nữa của khu phố cổ
Hà Nội là kiến trúc nhà cổ và nhà hình ống, với các lớp mái ngói "lô xô
"nghiêng rêu phong, cổ kính, mặt tiền là cửa hàng buôn bán, tạo nên một tổng
thể cảnh quan kiến trúc đặc trưng của đô thị cổ tiêu biểu với kiến trúc truyền
thống của người Việt đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra còn đan xen những biệt thự
theo kiến trúc Châu Âu được người Pháp xây dựng từ thế kỉ 19, tạo cho kiến
trúc phố cổ càng thêm đa dạng.
Chúng tôi theo chân một đoàn khách du lịch đến từ Thành phố Hồ Chí
Minh, một điều thú vị là tất cả khách du lịch trong đoàn sử dụng phương tiện
khám phá phố cổ là xe xích lô. Chị Vũ Bình An (38 tuổi), một thành viên
trong đoàn đã thắc mắc và đặt dấu hỏi với hướng dẫn viên vì sao các phố
phường ở đây đều bắt đầu bằng chữ “Hàng” và được trả lời như sau: Nhắc tới
phố cổ Hà Nội, không ai không biết tới địa danh 36 phố phường. Mỗi con phố
lưu giữ những nét đặc trưng của đất kinh kỳ, những ký ức về lịch sử, con
người và đất nước. Trải qua bao thăng trầm, những con phố ấy vẫn còn tồn tại
vẹn nguyên đến tận bây giờ. Từ xa xưa, phố cổ là tên gọi của một khu đô thị,
được hình thành từ đời Lý – Trần, nằm ở phía Đông Hoàng thành Thăng Long
ra đến sát sông Hồng. Trước đây, các làng nghề bao quanh Thăng Long, tập
50
trung buôn bán, mỗi con phố là một làng nghề khác nhau mang dấu ấn riêng
biệt của cư dân thành thị và cùng trao đổi lẫn nhau trong cuộc sống đời
thường. Chính vì vậy, ngày nay những con đường trong khu phố cổ đều có từ
“Hàng” đặt ở đầu.
Hướng dẫn viên đã nhiệt tình thông tin cho khách du lịch biết thêm về
các thông tin như: Đi qua con phố Hàng Mã, sẽ thấy những cửa hàng chuyên
bán các mặt hàng thờ cúng, vàng mã, hay Hàng Thiếc bày bán những đồ gia
dụng được làm từ vật liệu thiếc. Trước đây, hầu như tất cả những con phố đều
chuyên bán một loại mặt hàng mang thương hiệu riêng nhưng hiện tại cũng có
một số tuyến phố xuất hiện những mặt hàng mới không theo nguyên tắc xưa.
Minh chứng như tuyến phố Hàng Quạt, nếu như trước đây buôn bán quạt và
đàn, nay được kinh doanh thêm mặt hàng như tranh thêu, câu đối…
Đi qua phố cổ, du khách dễ dàng bắt gặp hình ảnh những ngôi nhà rêu
phong theo thời gian, giờ đây vẫn hiên ngang trước bao đổi thay của không
gian và thời gian. Những ngôi nhà được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, với
những lối đi nhỏ bên trong căn nhà và gạch xây dựng đã trở nên cũ kỹ là
khung cảnh quen thuộc chẳng lẫn vào đâu giữa lòng Thủ đô. Đến thăm nơi
đây, du khách không nên bỏ qua những ngôi đền, chùa cổ kính như đền Mã
Mây, đền Bà Chúa, chùa Cầu Đông, chùa Kim Cổ… Lữ khách còn có cơ hội
tham quan cửa ô Quan Chưởng – dấu mốc của một thời kỳ vàng son của Thủ
đô ngàn năm văn hiến.
Đặc biệt ấn tượng với phố cổ theo ý kiến của chị Nguyễn Diệu Thuý,
cho biết: Tôi cảm nhận rõ rệt nhất về một Hà Nội đơn sơ, bình dị và đẹp đẽ đó
là gánh hàng rong, xe tào phớ với tiếng leng keng khắp các nẻo phố hay vị
thơm ngon của tô bún thang hoặc bát phở bốc khói nghi ngút vào sáng sớm
cũng làm say đắm chúng tôi, để phải dừng chân lại ngắm nhìn và thưởng
thức.
Có thể thấy, phố cổ Hà Nội không chỉ lưu giữ mà thực ra cũng chính là
51
linh hồn của Thủ đô. Đối lập với vẻ hào nhoáng xa hoa, rực rỡ cùng những
công trình kiến trúc hiện đại là phố cổ giản dị và bình yên đến lạ. Một chút
lặng lẽ, một chút thanh tao đã thôi thúc bao lữ khách dừng chân lưu luyến mỗi
độ về với Thủ đô yêu thương.
2.1.3. Khu di tích lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám
HDV du lịch khi đưa khách đến tham quan di sản văn hoá Văn Miếu –
Quốc Tử Giám hoặc HDV tại điểm tham quan này đều tập trung giới thiệu
cho khách những nội dung chính sau: Lịch sử hình thành và chức năng của
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, những kiến trúc trong khu di tích, những người
được thờ ở đây và ý nghĩa lịch sử, văn hoá của 82 bia đá, vị trí của Văn Miếu
– Quốc Tử Giám trong lịch sử giáo dục đào tạo và khoa cử Việt Nam thời
phong kiến.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một công trình kiến trúc đặc biệt, một
quần thể kiến trúc còn khá nguyên vẹn các du khách đến thăm Thăng Long –
Đông Đô – Hà Nội đều muốn đến chiêm ngưỡng trường Đại học đầu tiên ở
Việt Nam thời phong kiến và đặc biệt là tận mắt nhìn thấy 82 bia đá ở di tích
lịch sử này. Đây là một trong những di sản văn hoá quý báu của nhân loại đã
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, di sản văn hoá là những
hiện vật, những di tích lịch sử kiến trúc, những tác phẩm văn học, nghệ
thuật… do con người sáng tạo ra trong quá khứ nhằm phản ánh thế giới tự
nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu của con người trong những hoàn cảnh lịch
sử nhất định, di sản văn hoá là những hiện vật độc đáo, nguyên bản, độc nhất ở dạng vật thể hoặc phi vật thể2.
Em Nguyễn Cẩm Ly, học sinh trường THCS Long Biên cho biết, khi
bước chân trước cổng Văn Miếu – Quốc Tử Giám, bạn đã hỏi thuyết minh
viên về câu đối phía ngoài cổng, nội dung là:
- Nước lớn trọng giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn sùng, tin
2 Phạm Ngọc Trung (2013): Giáo trình cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội, tr 38,39.
52
tưởng tư văn nguyên có gốc.
- Nhà nho phải thông kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp, những lời
thành huấn phải ghi lòng.
Hằng ngày, khi sĩ tử ra vào khu vực này đọc đôi câu đối mà suy nghĩ,
thấm thía đạo học, dùi mài kinh sử ngày đêm để mong có ngày báo đáp công
ơn của nhà vua.
Thông qua chính những câu hỏi, thắc mắc của khách du lịch, các thuyết
minh viên của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã khéo léo sáng tạo, gắn
thêm nhiều nghĩa cho các dấu mốc lịch sử hình thành, kiến trúc độc đáo của
di tích như:
Văn Miếu Môn là Đại Trung Môn ở giữa, 2 bên là Thánh Dực Môn và
Đạt Tài Môn, dọc theo con đường chính giữa từ Văn Miếu Môn đến Đại
Trung Môn là tiến thẳng tới Khuê Văn Các (được xây dựng vào năm 1805 đời
vua Gia Long).
Tiếp theo là Thiên Quang Tỉnh (giếng thiên quang), giếng hình vuông,
xung quanh xây lan can, luôn đầy nước. Thiên Quang là ánh sáng bầu trời,
ngụ ý mong muốn con người nơi đây đón nhận những tinh tuý của vũ trụ,
nâng cao trí thức, đề cao phẩm giá, nhân văn…Hai bên Thiên Quang Tỉnh có
2 nhà bia, đặt mỗi bên 41 bia đá quay mặt vào phía giếng Thiên Quang, trong
82 bia đá này, bia sớm nhất được xây dựng vào năm 1481 khắc tên các vị tiến
sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), tấm bia cuối cùng
được dựng vào năm 1780, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu
Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779).
Tiếp đến là cửa Đại Thành Môn, Ngọc Thành Môn và Kim Thành Môn,
qua cửa Đại Thành Môn là vào khu vực chính của Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, khu thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ phối… gồm có toà Đại bái đường,
tiếp đến là toà Thượng điện, toà Đại bái có 9 gian, hai bên có tả vu, hữu vu 5
gian tạo thành hình chữ U.
Khu cuối cùng là Khải Thánh – Quốc Tử Giám, đền Khải Thánh là nơi
thờ Thúc Lương Ngột và Nhan Thị (là những người sinh ra đức Khổng Tử),
53
xưa kia chính khu Khải Thánh này là trường Quốc Tử Giám, nơi đào tạo, rèn
giũa ra các nhân tài trong suốt mấy trăm năm. Năm 1946 đạn đại bác của giặc
Pháp phá huỷ hoàn toàn khu này và đến năm 2000 nhà nước ta đầu tư cho xây
dựng nhà thái học theo kiến trúc đình làng xưa, phù hợp với phong cách kiến
trúc cũ ở trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Một điều thú vị của di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám đó là biểu tượng
Khuê Văn Các được lấy làm biểu tượng của Thủ đô Hà Nội vào năm 1997,
bạn Trần Phương Thảo (16 tuổi) học sinh trường nội trú huyện Lộc Bình, tỉnh
Lạng Sơn, khách du lịch đến từ Lạng Sơn đã rất tò mò về biểu tượng này và
được hướng dẫn viên giới thiệu rất chi tiết về lịch sử và kiến trúc của nó. Gác
Khuê Văn có kiến trúc tam quan truyền thống với Khuê Văn Các là cổng
chính, hai bên là hai cổng Súc Văn và Bí Văn, sở hữu hình dáng như một cổ
lâu nhỏ nhắn, tinh tế. Tầng gác trên cùng được làm bằng chất liệu gỗ với nước
sơn màu đỏ nổi bật. Mái ngói xây theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái, được
nâng đỡ bởi các giá gỗ, trông có vẻ đơn giản, nhỏ gọn nhưng lại rất vững
chắc, tạo nên sự thanh thoát cho tổng thể công trình. Tầng gác ở dưới là bốn
trụ gạch hình vuông, mỗi cạnh có kích thước chiều dài 1m, trên tất cả các mặt
trụ đều được chạm khắc hoa văn đẹp mắt, tinh xảo, mang tính nghệ thuật
cao. Điều tạo nên sức cuốn hút cho biểu tượng gác Khuê Văn chính là những
ô cửa tròn, tái hiện sống động hình ảnh ngôi sao Khuê sáng lấp lánh trên bầu
trời, giống như thần thái của những vị hiền tài luôn toát lên vẻ đẹp của sự
thông tuệ, tri thức, thông qua thiết kế 8 tiếp điểm, tỏa những đường thẳng
chiếu ra xung quanh. Bốn mặt trên tầng lầu đều có chạm trổ một cặp câu đối
viết bằng chữ Hán, nội dung đề cao đạo học và vẻ đẹp tuyệt mỹ của nơi đây.
Ngay phía trên của khung cửa tròn là bức Đại Tự cổ đề dòng chữ Khuê Văn
Các. Bao bọc xung quanh là dải lan can mềm mại hình con tiện. Nhìn sâu hơn
vào kiến trúc của Khuê Văn Các, có thể thấy những dụng ý sâu xa ẩn chứa
phía sau đó, liên quan đến truyền thuyết “trời tròn, đất vuông”. Hình tròn bên
54
ngoài nhắc nhở ý thức bảo tồn các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc.
Còn hình vuông ở chân đế đại diện cho cánh cửa, đưa mỗi người con đất Việt
đến gần hơn với tri thức, tương lai rộng mở, thành công.
Khi được hỏi cảm nhận khi thăm quan di tích Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, anh Ngô Văn Trung một vị khách du lịch đến từ Đà Nẵng cho biết: Khi
được nghe các thuyết minh viên giới thiệu, tôi đã hiểu rõ thêm về nguồn gốc,
lịch sử hình thành, kiến trúc độc đáo của 82 bia tiến sĩ…nghe rất cuốn hút và
có hồn, không bị nhàm chán, qua đó giúp tôi hiểu thêm về văn hoá dân tộc, về
chế độ khoa cử khắc nghiệt khi xưa, đặc biệt đây là trường đại học đầu tiên
của Việt Nam nên tôi quyết định cho cả gia đình ra Thủ đô và ghé thăm nơi
đây. Anh cho biết, con trai năm nay đang là học sinh lớp 8, cháu rất thích học
môn lịch sử, vì vậy khi được nghe giới thiệu về lịch sử tại đây đã giúp cháu
hiểu rõ hơn về nguồn gốc khoa cử nước nhà, đặc biệt ấn tượng với cháu đó là
được tận mắt chứng kiến những nét chữ bay lượn của các thầy nho cho chữ,
khi cháu xin chữ “Hiếu” để làm kỷ niệm.
Qua quan sát tại đây, chúng tôi thấy lượng khách du lịch chủ yếu là các
đoàn học sinh, sinh viên và khách du lịch nước ngoài, có thể hiểu được vì đây
được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, chúng tôi phỏng vấn ông
Lê Xuân Kiêu - Giám đốc Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu
- Quốc Tử Giám và được ông cho biết: Khách du lịch đến với di tích ngày
càng đông đảo, đa dạng, bản thân di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã không
ngừng sáng tạo, đổi mới, chuẩn hoá các bài thuyết minh nhằm thu hút khách
du lịch đến với di tích, tạo nhiều không gian trải nghiệm, thông qua các sản
phẩm khác như áo phông, sổ, bút, bình giữ nhiệt, giá kê điện thoại... mang
dấu ấn đặc trưng của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đó là các họa tiết được lấy
từ chính những biểu tượng trên các cột trụ, phù điêu trong di tích hay trên bia
tiến sĩ - di sản tư liệu thế giới. Điều quan trọng là các sản phẩm này đều được
làm từ những nguyên liệu thân thiện với môi trường, do chính các nghệ nhân
của các làng nghề Thủ đô thiết kế, sản xuất, với 25 sản phẩm quà lưu niệm và
55
44 mẫu được thiết kế theo hướng làm nổi bật các giá trị lịch sử, kiến trúc, giáo
dục của di tích, những sản phẩm này có tính ứng dụng cao, kết hợp giữa yếu
tố hiện đại của công nghệ và giá trị thẩm mỹ của văn hóa truyền thống nhằm
hướng tới việc gắn di sản với phát triển du lịch bền vững, đưa Văn Miếu -
Quốc Tử Giám trở thành một trung tâm sáng tạo văn hóa, một địa điểm du
lịch hấp dẫn của Thủ đô.
2.1.4. Hệ thống di tích lịch sử phật giáo và tứ trấn Thăng Long
Khi khách du lịch đến thăm Hà Nội, HDV của các công ty du lịch đều
phải tập trung trình bày những sự kiện chính và đưa khách đến tham quan
những di tích lịch sử văn hoá ở Thủ đô theo cách tiếp cận lịch sử, trong quá
trình phát triển, biến đổi từ Thăng Long – Đông Đô – Đông Kinh - Hà Nội.
Theo phong thuỷ phương Đông thì kinh đô là một vùng đất linh thiêng, là nơi
triều đình và vua sinh sống nên bao giờ cũng liên quan đến việc cần phải xem
thế đất khắp 4 phương và bao giờ cũng phải có các vị thần linh trấn ải, phù hộ
thì triều đại mới vững bền, muôn dân mới ấm no. Khi Lý Công Uẩn xuống
chiếu dời đô đã nói tới vị trí trung tâm Đông, Tây, Nam, Bắc của Đại La
Thành, cũng nhấn mạnh đến thế tựa núi, nhìn sông và thế rồng cuộn hổ ngồi
của toà thành này, nhưng đó mới là những cảm quan ban đầu, của một ông
vua có tầm nhìn chiến lược về sự phát triển của đất nước khi di chuyển sang
kinh đô mới. Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh đô Thăng Long, vua
quan thời Lý đã gặp phải những khó khăn nhất định về việc xây dựng và để
yên tâm hơn, qua các đời vua đã hình thành nên một quan niệm tâm linh về tứ
trấn Thăng Long (những vị thần linh bảo hộ cho kinh đô này).
Người dân ở Thăng Long – Hà Nội đều nghe nói đến các vị thần linh
trấn giữ 4 phương của kinh đô xưa gồm:
Trấn phía Đông là Đền thờ Bạch Mã (ở phố Hàng Buồm ngày nay) có
nguồn gốc từ thế kỷ thứ VIII-IX gắn với truyền thuyết Thần Ngựa trắng xuất
hiện giúp cho vua Lý Công Uẩn xây dựng kinh thành Thăng Long trên nền
đất ven sông, hồ, nhiều bùn lầy thành công nên trở nên linh thiêng và được
56
các triều đại sau tôn thờ. Cư dân 36 phố phường Thăng Long – Hà Nội cũng
thường xuyên dâng lễ, cầu cúng vị thần Bạch Mã được thờ trong đền ngay
trung tâm phố cổ.
Trấn phía Tây là Linh Lang Đại Vương, vị thần Linh Lang được thờ
trong đền Thủ Lệ, được xây dựng từ đầu thời Lý bên bờ hồ Linh Lang, ngã ba
Tô Lịch – Kim Ngưu.
Trấn phía Bắc là Quán Bắc Đế (Đền Quán Thánh) được nhà Lý cho xây
dựng từ năm 1057.
Trấn phía Nam là Đền Cao Sơn (sau là đình làng Kim Liên, Hà Nội)
cổng và đền quay về hướng Nam, nhìn ra ngay sông Kim Ngưu trước mặt.
Mỗi ngôi đền lại mang ý nghĩa và những nét đặc trưng riêng. Nơi đây
không chỉ là những di tích lịch sử mà nơi đây còn là biểu tượng của đời sống
tâm linh và văn hoá của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng.
Theo chân đoàn khách du lịch của Công ty cổ phần du lịch Vietsense tổ
chức, đoàn khách du lịch đến từ Nam Định, đây là đoàn khách khá đặc biệt
khi lựa chọn tour thăm quan Tứ trấn Thăng Long, đi đến đâu, hướng dẫn viễn
cũng giới thiệu cho khách của mình về lịch sử hình thành cũng như những câu
chuyện huyền bí xung quanh mang đậm dấu ấn văn hoá của người Thăng
Long xưa.
Đền Bạch Mã hiện ở nhà số 76 phố Hàng Buồm, tương truyền đền Bạch
Mã có từ giữa thế kỷ IX (866) khi Cao Biền cho xây đắp thành Đại La, nhờ sự
giúp đỡ của Thần Ngựa trắng mà kế hoạch của Cao Biền thành công, sau đó
Cao Biền cho xây đền thờ, lấy tên là Bạch Mã. Trong các vị thần linh ở kinh
thành, Bạch Mã Đại Vương là linh thiêng nhất, là chúa tể của cả vùng đất Đại
La rộng lớn, góp phần đặt nền móng cho việc phát triển kinh đô Thăng Long
– Đông Đô – Đông Kinh về sau.
Đền Thủ Lệ (Đền Voi Phục, Đền Linh Lang Đại Vương) Đền được xây
dựng từ đời Lý Thái Tông (1028-1054), tương truyền Linh Lang Đại Vương
là Hoàng tử Hoàng Chân, con vua Lý Thái Tông, Hoàng tử tài kiên văn võ đã
cầm quân tham gia cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, vua nhường
57
ngôi báu nhưng Hoàng tử không nhận, về ẩn dật ở trại chợ Thủ Lệ, sau bị
bệnh qua đời, nhà vua thương xót cho lập đền thờ ngay trên đất của Hoàng tử.
Trước cửa đền có đặt 2 tượng voi đá nằm hai bên nên gọi là đền Voi Phục.
Quán Trấn Vũ được gọi là Đền Quán Thánh ở ngã ba đường Thanh Niên
và đường Quán Thánh, quận Ba Đình ngày nay. Quán được dựng từ thời Lý
Thái Tổ thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, đó là một vị thánh của đạo giáo để trấn
giữ yêu quái ở phía Bắc kinh thành, theo thuyết ngũ hành phương Bắc có mầu
đen nên gọi là “Huyền”. Đời Lê Hy Tông (1681) cho đúc tượng Trấn Vũ bằng
đồng đen cao 3,96m nặng 4 tấn, tượng Trấn Vũ cao lớn, mặc áo đạo sĩ, xõa
tóc, không đội mũ, chân đất, tay trái bắt quyết, tay phải chống kiếm xuống
lưng con rùa, có rắn quấn quanh (đó là biểu tượng của thần trấn ải phương
Bắc). Vào thời Lê khi đạo học phát triển, trong đền còn đặt tượng thờ Văn
Xương, chủ về văn chương, thơ phú.
Đền Kim Liên (hoặc đình Kim Liên) được xây dựng từ thế kỷ XVI trên
một gò đất cao cạnh Đại La Thành, đền quay về hướng Nam gồm có tam quan
và đền thờ thần Cao Sơn Đại vương. Tam quan có 3 gian nối với hậu cung
theo bố cục hình chữ đinh (﬩) , hậu cung thờ Cao Sơn Đại Vương cùng hai vị
nữ thần. Theo truyền thuyết Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long
Quân và Âu Cơ theo cha lên núi và là vị thần thứ hai được thờ trong đền trên núi
Tản Viên. Thần Cao Sơn Đại Vương có công giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn
ở Đông Đô nên năm 1509 được vua cho lập đền thờ trên đất làng Kim Liên.
Kết thúc chuyến đi, chúng tôi đã phỏng vấn anh Cao Đức Bình, thành viên
đoàn khách đến từ Nam Định, anh hào hứng cho biết: Thông qua sách, báo và
truyền hình cũng đã nghe nói về Tứ trấn Thăng Long Hà Nội, lần đầu được trải
nghiệm, khám phá tìm hiểu tại bốn ngôi Đề này, tôi thấy cảm xúc hoàn toàn
khác, thông qua câu chuyện dí dỏm và trơn chu của các bạn hướng dẫn viên về
di tích đã thu hút tôi rất nhiều, nghe rất lôi cuốn không bị nhàm chán, cùng là sự
kiện lịch sử như vậy nhưng các bạn đã biết cách tạo thêm những tình tiết gây sự
chú ý cho khách du lịch mà không làm mất đi tính nguyên mẫu của lịch sử, đó
58
chính là sự hấp dẫn đối với tôi nhất khi tham gia chuyến thăm quan này.
Bên cạnh 4 di tích Thăng Long tứ trấn, còn có một số đền khác nổi tiếng
mà các tour du lịch thường quan tâm đưa khách đến thăm trong các tuyến,
điểm du lịch của mình như: Đền Sóc liên quan đến truyền thuyết Thánh
Gióng đánh giặc Ân, cùng những sinh hoạt trong hội làng; đền thờ Hai Bà
Trưng nhắc đến tấm gương dũng cảm, mưu trí của hai chị em Trưng Trắc,
Trưng Nhị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc (năm
40-42) thu lại 65 thành trì vùng Lĩnh Nam; đền An Dương Vương (Cổ Loa,
Hà Nội) ghi nhớ công ơn của Thục Phán – An Dương Vương đánh đuổi ngoại
xâm, xây nền tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa, xưng vương, dựng nhà nước Âu Lạc
vào thế kỷ III trước công nguyên; đền Huỳnh Cung tưởng nhớ tới thầy Chu
Văn An vạn thế sư biểu, người có công đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước ở
cuối đời Trần được tôn thờ trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám cùng với Chu
Công, Khổng Tử, Tứ Phối, thất thập nhị hiền.
Hệ thống chùa thờ phật cũng là một nội dung được khách du lịch quan
tâm, khách đến thăm chùa thực hiện nghi lễ thờ cúng phật theo tour du lịch
tâm linh và cũng có nhiều người muốn vãn cảnh chùa để hiểu thêm về quá
trình phật giáo được du nhập vào nước ta. Trước hết, các HDV du lịch quan
tâm nhiều đến chùa Trấn Quốc vì chùa này được xây dựng sớm, trong khung
cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với những chùa tháp độc đáo thu hút sự quan tâm
của mọi người. Chùa Trấn Quốc (hộ quốc) thuộc Hồ Tây, trên đường Thanh
Niên, theo văn bia ở chùa thì chùa được dựng từ thời vua Lý Nam Đế (544-
548) trên đất Yên Hoa phía ngoài đê sông Hồng, chùa có tên Khai quốc (hoặc
an quốc). Năm 1628 do nước sông dâng cao, bãi sông bị lở nên chùa được
chuyển vào hòn đảo hiện nay, được đổi tên thành Trấn Quốc, có con đường
chạy dài nối bờ hồ Tây với hòn đảo Kim Ngư (Cá Vàng). Chùa Trấn Quốc đã
đi vào ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, hiện còn 39 tượng phật, 24
tượng tăng, nổi bật nhất là tượng Thích Ca nhập niết bàn được mạ vàng.
Chùa Một Cột (chùa Diên Hựu) được xây dựng năm 1054 ở phía Tây
kinh thành Thăng Long, chùa còn có tên gọi Liên hoa đài (đài hoa sen), theo
truyền thuyết, vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy phật ngồi trên toà sen dắt tay
59
nhà vua lên, do đó vua cho xây dựng chùa mang dáng hoa sen để cầu phật độ
cho sức khoẻ, sống lâu. Cột đá cao 4m, đường kính 1,25m đỡ một chùa bằng
gỗ hình vuông, mỗi cạnh 3m. Năm 1105 vua Lý cho xây hồ Khang Bích bao
bọc 4 bên, xây hành lang bao quanh chùa, làm thang đi lên chùa. Năm 1108 vua
Lý Nhân Tông cho đúc một chuông đồng lớn để treo ở chùa Diên Hựu, nhưng
chuông quá to nên phải đặt ở cạnh chùa, từ đó có nhiều rùa vàng hội tụ nên sử cũ
gọi chuông này là chuông quy điền, đó là 1 trong 4 hiện vật nổi tiếng của chúng
ta mà sử sách nhà Tống đã viết về “An Nam tứ đại khí” (4 vật bằng đồng cực đại
đất An Nam, gồm có chuông Quy điền, tháp Báo Thiên, Vạc Phổ Minh (Nam
Định) và tượng phật chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh ngày nay).
Ngoài những ngôi chùa nêu trên, còn có một số chùa gắn với lịch sử hình
thành và phát triển của Thăng Long – Đông Đô, gắn với sự hưng thịnh của
quốc gia Đại Việt, thu hút sự chú ý của khách du lịch ở các tỉnh, thành trong
cả nước và nhiều đoàn khách du lịch quốc tế từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc…
Chùa Quán Sứ ở thôn An Tập, huyện Thọ Xương (trên phố Quán Sứ
ngày nay), chùa được xây dựng từ thế kỷ XV, được mở rộng vào thế ký XVII
để đón tiếp các sứ thần nước ngoài khi đến gặp triều đình, tiền đường của
chùa thờ Phật, hậu đường thờ Lý triều Quốc Sư Không Lộ Thiền Sư. Ngày
nay, chùa Quán Sứ là nơi làm việc của Trung ương giáo hội phật giáo Việt
Nam, hằng năm có hàng vạn khách du lịch đến thăm và lễ bái.
Chùa Ngũ Xã (Thần Quang tự) bên hồ Trúc Bạch, chùa của làng đúc
đồng Ngũ Xã, được xây dựng từ thế kỷ XVIII, trong chùa thờ phật Adi đà,
bên cạnh thờ cả tổ nghề Nguyễn Minh Không. Chùa Láng, chùa Bộc, chùa
Chèm…, cũng là những ngôi chùa có lịch sử lâu đời, có kiến trúc đặc trưng
truyền thống kết cấu vì kèo, chồng rường, giá chiêng thu hút sự chú ý của các
đoàn khách du lịch.
2.1.5. Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh và hệ thống di tích lịch sử
cách mạng
Trong các tour du lịch tham quan Thủ đô Hà Nội, các đoàn khách ở các
địa phương trong cả nước, đặc biệt là đồng bào Nam Bộ, đều muốn được
60
tham quan và tìm hiểu những vấn đề lịch sử nước nhà trong giai đoạn từ khi
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (3/2/1930) và tìm hiểu những địa danh
mà Bác Hồ và Trung ương Đảng đã sống và hoạt động cách mạng.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một di tích lịch sử đặc biệt, là trung tâm
của hệ thống di tích lịch sử cách mạng được hàng vạn khách du lịch quan tâm,
đến viếng quanh năm, đặc biệt là vào dịp ngày sinh nhật Bác (19/5) và ngày
Quốc khánh (2/9). Ngày 2/9/1969 Bác Hồ kính yêu của chúng ta ra đi trong
nỗi tiếc thương vô hạn của đồng bào và chiến sĩ cả nước, trên mảnh đất của
quảng trường Ba Đình lịch sử, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng Lăng để
bảo quản thi hài Bác. Ngày 2/9/1973 khởi công xây dựng Lăng Bác, đồng bào
cả nước đã tích cực tham gia xây dựng Lăng và đóng góp vật tư xây dựng từ
mọi miền tổ quốc. Cát mang từ suối Kim Bôi, Hoà Bình, đá cuội được chọn
từ vùng núi Sơn Dương, Chiêm Hoá, Na Hang của tỉnh Tuyên Quang, các loại
đá bóng như sơn then được khai thác từ núi Nhồi (Thanh Hoá), đá hoa từ
vùng chùa Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai), đá xanh ở Sơn La, Điện Biên, đá mận
chín và mầu đỏ từ Cao Bằng… Nhân dân Trung Bộ và Nam Bộ cũng gửi ra
những loại đá đỏ Non Nước (Quảng Nam) một số loại gỗ quý từ vùng núi
rừng Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ… thợ xây lành nghề được tuyển
chọn từ các hiệp thợ trên các tỉnh, thành phố: Sơn Tây, Hà Nam, Nam Định,
Thanh Hoá, Bắc Giang, Phú Thọ… các loại cây tre, nứa, dừa nước, luồng và
các loài hoa đẹp được đồng bào và chiến sĩ khắp nơi trên cả nước gửi về, với
tấm lòng kính yêu Bác vô cùng. Ngày 29/8/1975 Lăng Bác được hoàn thành
và Đảng, Nhà nước ta làm lễ khánh thành, mời đồng bào, chiến sĩ trong nước
và khách quốc tế vào Lăng viếng Bác.
Ông Nguyễn Thanh Sáng, khách du lịch đến từ Nghệ An đặt câu hỏi với
hướng dẫn viên về kiến trúc của Lăng Bác: Lăng Bác được xây thành 3 tầng
với chiều cao 21,6m. Tầng ngầm là nơi bảo quản thi hài Bác, tầng tiếp theo là
nơi đồng bào cùng khách du lịch vào lăng viếng Bác, xung quanh có hành
lang rộng, thoáng mát, phía trước có lễ đài để các vị lãnh đạo tham dự mít
tinh trong những ngày lễ, tầng tiếp theo là phần đỉnh của Lăng, được kiến trúc
bằng những hàng cột song song, Lăng tuy không cao nhưng nhìn vững chãi,
61
cân đối, hoành tráng, đá ốp có mầu trầm (nâu, đen, đỏ mận chín) ấm áp và
sang trọng. Lăng Chủ tịch là nơi an nghỉ vĩnh hằng của Bác, là nơi Nhân dân
cả nước hướng về thể hiện lòng biết ơn và tôn kính của dân tộc với công lao
vĩ đại của Bác.
Trong các tour du lịch, HDV du lịch ở các công ty lữ hành cũng rất quan
tâm đến một số di tích lịch sử cách mạng như: Nhà lưu niệm 90 phố Thợ
Nhuộm, di tích lịch sử Nhà tù Hoả Lò và hệ thống các Bảo tàng.
Nhà 90 Thợ Nhuộm là nhà riêng của ông Đuy-ô, một công chức cao cấp
trong phủ toàn quyền Pháp. Năm 1930, khi đồng chí Trần Phú từ Liên Xô về
nước, đã được tổ chức bố trí ở trong căn nhà này cùng với người bồi bếp yêu
nước. Trong căn phòng tầng hầm của ngôi nhà này đồng chí Trần Phú đã viết
dự thảo luận cương chính trị năm 1930 của Đảng, luận cương đã phân tích
hình thành xã hội lúc đó và vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng, phản ánh
đúng quy luật khách quan góp phần đưa cách mạng phát triển.
Di tích lịch sử Nhà tù Hoả Lò trên phố Hoả Lò, giáp phố Thợ Nhuộm,
Hai Bà Trưng là một di tích lịch sử quan trọng, là nơi giặc Pháp giam giữ
nhiều chiến sĩ cách mạng và cũng tại nơi đây, đã là trường học thực tế rèn
luyện cho nhiều chiến sĩ trưởng thành trên bước đường đấu tranh giải phóng
dân tộc. Từ năm 1996 nhà tù Hoả Lò chỉ giữ lại được một phần làm chứng tích
lịch sử cho khách du lịch tham quan, còn phần lớn nhà tù đã bị san phẳng để xây
khách sạn trung tâm 26 tầng phục vụ du lịch và sinh hoạt của Nhân dân. Du
khách đến với Nhà tù Hoả Lò không khỏi ngạc nhiên với sự sáng tạo, phát
huy được giá trị của di tích lịch sử nơi đây, du khách đến với Nhà tù Hoả Lò
được trải nghiệm thực tế với thiết kế tour du lịch đêm, mang lại cảm xúc
không thể nào quên đối với du khách, nói đúng hơn khách du lịch được thực
hành và trải nghiệm hành trình bị giam cầm trong ngục tối của các chiến sỹ,
thông qua giọng thuyết minh đầy cảm xúc của thuyết minh viên, đã được dày
công xây dựng, họ đã sáng tạo cho phù hợp với không gian, hoàn cảnh thể
hiện hết tinh thần bất khuất của cha anh ta. Đa số khách du lịch khi viết lại
cảm tưởng vào sổ nhật ký khi tham gia trải nghiệm đều đánh giá và khẳng
định sẽ quay lại cũng như giới thiệu để bạn bè người thân đến trải nghiệm,
62
tiêu biểu trong số đó như:
Cùng tham gia trải nghiệm tại tour du lịch đêm diễn ra từ 19h00 đến
21h00 tại di tích Nhà tù Hoả Lò với tên gọi “Đêm thiêng liêng”, chúng tôi
cảm nhận rõ sự linh thiêng, nghiêm túc và những biểu hiện đầy cảm xúc trên
gương mặt của khách du lịch. Em Nguyễn Phúc Anh (12 tuổi), đến từ quận
Cầu Giấy cho biết: Em được bố mẹ cho di cùng tham gia trải nghiệm tour
đếm tại di tích Nhà tù Hoả Lò, ban đầu em không nghĩ tham gia tour đêm này
lại mang đến cho em nhiều cảm xúc sâu lắng đến vậy, em đã bật khóc khi trải
nghiệm hình ảnh các chiến sỹ bị thực dân Pháp đày đoạ, tra tấn dã man, qua
đây em càng thêm hiểu rõ hơn về những hy sinh, mất mát lớn lao của thế hệ
đi trước, mang lại sự bình yên cho tổ quốc, cho chúng em được môi trường
hoà bình như hiện nay, nhất định em sẽ quay lại ở các chương trình sau.
Để lại ý kiến của mình trên trang fan page của Di tích Nhà tù Hoả Lò,
khán giả có tên Chi Lee viết như sau: “Đêm thiêng liêng” thực sự là một đêm
ý nghĩa và đầy cảm xúc khi được đến, được trải nghiệm khoảnh khắc là một
người tù chính trị. Cảm ơn các anh chị và các bạn đã dày công xây dựng
chương trình, để thế hệ hôm nay hiểu hơn về những hy sinh của cha ông ngày
ấy, thấy được ngon lửa thanh xuân cháy rực chốn “địa ngục trần gian”!
Chúng tôi phỏng vấn bà Thái Thị Vân Huyền – Phó Trưởng phòng Hành
chính – Tổng hợp, Ban Quản lý Di tích Nhà tù Hoả Lò cho biết: Toàn thể tập
thể lãnh đạo, cán bộ, nhân viên của di tích đã tập trung tối đa nguồn lực,
không ngừng sáng tạo, đổi mới các chương trình trải nghiệm thực tiễn đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch, di tích đã sáng tạo ra các loại bánh làm từ chất
liệu là quả bàng và trà bàng, nguyên liệu chính là từ cây bàng tồn tại hằng
trăm năm trong chính di tích, bên cạnh các sản phẩm hay quà lưu niệm, di tích
cũng thường xuyên chuẩn hoá các bài thuyết minh về di tích, tổ chức xây
dựng các chuyên đề trưng bày, giao lưu với nhân chứng lịch sử…
Hệ thống Bảo tàng ở Hà Nội, nơi lưu giữ, trưng bày và giới thiệu nhiều
tư liệu lịch sử theo những nội dung khác nhau từ xa xưa đến nay cũng là
những điểm hấp dẫn với khách du lịch trong nước và quốc tế. Mỗi bảo tàng có
63
chức năng sưu tầm, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu một nhóm những hiện
vật liên quan đến nhân vật lịch sử hoặc liên quan đến chuyên môn lịch sử,
nghệ thuật, văn hoá, văn học…
Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam ở cạnh Nhà hát Lớn Hà Nội, thuộc
phố Phạm Ngũ Lão, quận Hoàn Kiếm. Đây là một toà kiến trúc đẹp, được xây
dựng từ thời Pháp, làm bảo tàng mang tên ‘L.Finot, khi tiếp quản Thủ đô, Nhà
nước ta vẫn sử dụng kiến trúc đó làm bảo tàng, trong một khuôn viên rộng trên 10,000 m2, bảo tàng thiết kế phần trưng bầy trong nhà rộng trên 2000m2,
còn lại là vườn hoa, cây cảnh và trưng bày những hiện vật ngoài trời. Đến bảo
tàng này, người xem có thể tận mắt chứng kiến những hiện vật thật từ văn hoá
Núi Đọ, Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn từ ba mươi nghìn năm đến mười nghìn
năm trước, tiếp đó là trống đồng Đông Sơn và những hiện vật thuộc văn hoá
Đông Sơn (4000 năm). Những trang sử oai hùng của dân tộc được trình bày
qua những sử liệu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu, nhà nước Vạn
Xuân và Lý Bí… Những kiến trúc phật giáo độc đáo thời Lý – Trần – Lê cùng
những kiến trúc và những trang sử ở các triều đại phong kiến Việt Nam được
trình bày theo hệ thống khoa học. Những chiến công trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược phương Bắc và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ bảo
vệ nền độc lập dân tộc cũng được giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy đủ, khúc triết.
Đến tham quan Bảo tàng lịch sử quốc gia, khách tham quan du lịch đều
cảm nhận được lịch sử hình thành của dân tộc Việt Nam ta luôn gắn với
những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trí thông minh, lòng dũng cảm
và sự đoàn kết dân tộc là sức mạnh vô địch giúp cho dân tộc Việt Nam có sự
phát triển mạnh mẽ, có cơ đồ nguy nga, có uy tín quốc tế như ngày nay dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Chúng tôi đã phỏng vấn bạn Lê Minh Anh, sinh viên trường Đại học
khoa học xã hội và Nhân văn khi bạn cùng thăm quan với lớp của mình tại
đây, bạn cho biết: Bản thân đã được trải nghiệm cảm giác du hành thời gian
về các giai đoạn khác nhau trong quá trình xây dựng, tồn tại và phát triển cảu
đất nước thông qua các hiện vật lịch sử được trưng bày. Điều ấn tượng khi
bước vào di tích đó là sự đặc biệt của thiết kế nơi đây, di tích được sơn màu
64
vàng tạo cảm giác cổ kính, được bao quanh bởi hằng trăm cây cổ thụ, vì thế
không chỉ đến để tham quan tìm hiểu về lịch sử mà còn chụp hình nghệ thuật
tại đây. Nhưng ấn tượng hơn cả với tôi về nơi đây là việc bài trí, sắp xếp hiện
vật trưng bày, mỗi gian, phòng đều mang một dáng vẻ, màu sắc riêng và
mang đậm tính giáo dục cao.
Thông qua các di tích lịch sử, có thể thấy du lịch lữ hành đã tác động tích
cực đến các điểm đến này, bản thân các công ty du lịch lữ hành đã xây dựng
các sản phẩm du lịch độc đáo, kết hợp với công tác truyền thông, quảng bá
của các công ty du lịch lữ hành đến khách du lịch, việc tái tạo tại các câu
chuyện, tạo dựng lại các mô hình trải nghiệm mới góp phần lưu giữ, bảo tồn
phát huy giá trị di tích lịch sử và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta.
2.2. Làng nghề truyền thống trong hoạt động du lịch lữ hành
2.2.1. Làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Thủ đô Hà Nội
Trong quá trình thiết kế các tour, tuyến, điểm du lịch, các công ty du lịch
lữ hành không thể bỏ qua di tích làng nghề truyền thống vì khách du lịch đến
các làng nghề, họ có thể tham quan thiên nhiên của làng quê xưa, cũng có thể
tham quan kiến trúc nhà ở, kiến trúc tâm linh và đặc biệt là họ thích trải
nghiệm quá trình lao động, sản xuất của cư dân làng nghề.
Du lịch Bát Tràng luôn là một trong những trải nghiệm thú vị đối với du
khách mỗi khi có dịp ghé thăm Thủ đô. Là ngôi làng truyền thống có tuổi đời
hơn 500 năm, làng gốm Bát Tràng vẫn giữ cho mình nét đẹp văn hóa từ thời
ông cha để lại. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, đến nay làng gốm
Bát Tràng đã trở thành biểu tượng văn hóa nghề truyền thống của Hà Nội và
là niềm tự hào của người dân Hà thành. Từ bàn tay khéo léo của những nghệ
nhân, những thớ đất vô tri đã trở thành các tác phẩm văn hóa nghệ thuật độc
đáo và thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan mỗi năm.
Chị Nguyễn Thị Tâm (Ba Đình) cùng gia đình đưa 2 con đến trải nghiệm
tại làng gốm Bát Tràng, chị cho biết đã nghe đến Bát Tràng từ lâu, nay có dịp
đưa gia đình và các con đến trải nghiệm và tìm hiểu về văn hoá truyền thống
65
của ngôi làng. Thông qua hoạt động trải nghiệm với mức giá từ 50.000 đồng
đến 70.000 đồng, tự tay tạo ra một sản phẩm độc nhất vô nhị bằng sức sáng
tạo của mình. Tại sân nặn gốm, chị và gia đình được hướng dẫn chi tiết từ
những thợ nặn gốm chuyên nghiệp về những thao tác cơ bản. Sau khi nặn
được sản phẩm của riêng mình, thợ nặn gốm sẽ mang đi nung rồi gói lại. Quy
trình trải nghiệm làm gốm tại Bát Tràng bao gồm các bước như chuẩn bị đất
sét, tạo hình, tưới men và đun nung. Những bước này đòi hỏi sự cẩn thận và
khéo léo để tạo ra những sản phẩm gốm sứ đẹp và chất lượng. Điều đặc biệt là
các bạn nhỏ có thể tự tay làm gốm và trải nghiệm cảm giác đặc biệt khi những
tác phẩm của mình được hoàn thành. Quy trình này không chỉ giúp các con
của chị thư giãn mà còn giúp các con hiểu hơn về nghề làm gốm truyền thống
và văn hóa đặc trưng của Bát Tràng, bản thân chị Tâm cũng học hỏi rất nhiều
điều từ những trải nghiệm này.
Làng lụa Vạn Phúc cũng là một làng nghề nổi tiếng khắp vùng đồng
bằng Bắc Bộ, làng nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc quận Hà Đông ngày nay,
làng có nghề dệt lụa tơ tằm từ xa xưa nhờ có những cánh đồng mầu mỡ ven
sông rất phù hợp với sự phát triển của cây dâu, bà tổ nghề dệt còn được thờ
trong đền thờ của làng, làng lụa Vạn Phúc là một trung tâm dệt nổi tiếng với
các loại lụa tơ tằm mềm mại, mịn màng, mát tay. Lụa Vạn Phúc đã được trao
đổi ở các trung tâm buôn bán khắp Bắc – Trung – Nam và chất lượng của lụa
Hà Đông đã được vua chúa sử dụng và đi vào thi ca nhạc hoạ. Ngày nay ở
làng lụa Van Phúc đã cơ giới hoá, xe sợi và dệt đã trang bị máy móc hiện đại
nhưng vẫn còn một số hộ gia đình duy trì khung dệt thủ công với những mặt
hàng lụa, áo, quần, khăn các loại, màu sắc vô cùng đẹp mắt, du khách đến đây
đều muốn mua một vật gì đó làm kỷ niệm.
Khi được hoà mình vào không gian nơi đây, chị Vũ Minh Thu đến từ
thành phố Hải Phòng cho biết, mặc dù đã đến Thủ đô nhiều lần, nhưng đây là
lần đầu tiên chị tham quan làng lụa nổi tiếng này, chị bị cuốn hút bởi sự mềm
mại và bàn tay khéo léo của các thợ thủ công nơi đây, chị được trực tiếp tham
66
gia vào quá trình dệt nên những tấm lụa mềm mại, tinh tế. Chị đã hiểu thêm
về quá trình tạo ra một tấm lụa qua bàn tay của các nghệ nhân, thợ thủ công,
hàm chứa trong đó là những văn hoá của làng nghề truyền thống lâu đời được
lưu giữ bảo tồn qua nhiều thế hệ.
Đặc biệt ở Hà Nội ngày nay các làng đúc đồng Ngũ Xã, làng Chuông
làm nón, làng Yên Phụ chuyên nuôi và bán cây cá cảnh, làng chuyên làm đồ
mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), cũng có sức thu hút các đoàn khách du
lịch đến tham quan, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm và liên kết tìm hướng phát
triển sản xuất kinh doanh. Nhưng nổi tiếng và hấp dẫn hơn cả là làng Nghi
Tàm, Võng Thị, Quảng Bá, Nhật Tân với bàn tay khéo léo và kinh nghiệm
trồng hoa hằng trăm năm, các làng hoa Hà Nội đã cung cấp cho vua chúa và
cư dân thị thành những cây đào, cây quất trong các dịp tết đến xuân về. Trong
giai đoạn hiện nay, làng hoa cũng có nhiều đổi mới, người dân trồng thêm các
loại hoa ly, hoa loa kèn, hồng Đà Lạt,… để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của Nhân dân và khách du lịch có thể đến vườn hoa để tham quan trải
nghiệm. Quá trình đô thị hoá cũng làm cho diện tích làng hoa giảm dần và
làng hoa ngày nay được phát triển đến vùng Phú Thượng, Mê Linh, Sóc Sơn
hoặc Văn Giang (Hưng Yên).
2.2.2. Làng cổ Đường Lâm
Làng cổ Đường Lâm nằm ở thị xã Sơn Tây, cách trung tâm Hà Nội
khoảng gần 50km, đây là ngôi làng cổ ở vùng xứ Đoài thuộc trung du, quê
hương của các vị anh hùng dân tộc Phùng Hưng và Ngô Quyền đã có công
đánh đuổi ngoại xâm phương Bắc từ thế kỷ VIII và X. Làng Đường Lâm nằm
bên bờ sông Tích nước sạch, trong có đình thờ Phùng Hưng và Lăng Ngô
Quyền tương đối nguyên vẹn, trong đình và lăng còn có chuông đồng, khánh
đá, đồ gốm sứ cổ, bia đá ghi lại dấu tích xung quanh khu thờ linh thiêng này
còn có đồi hùm, giếng ngọc, rặng duối nghìn năm tuổi buộc voi của nghĩa
quân Ngô vương. Trong nhà truyền thống của làng còn lưu giữ rìu đá, cọc gỗ
67
trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán.
Ở Làng cổ Đường Lâm, du khách không chỉ bị cuốn hút bởi di sản lịch
sử và kiến trúc cổ, mà còn bởi hương vị và trải nghiệm ẩm thực độc đáo. Sự
kết hợp giữa di sản văn hóa và ẩm thực làng cổ đã tạo nên một tâm điểm du
lịch hấp dẫn, nơi du khách có thể tận hưởng không chỉ cảnh quan đẹp mà còn
trải nghiệm hương vị độc đáo của một làng cổ truyền thống.
Khai thác lợi thế đó các công ty du lịch lữ hành đã xây dựng nên các
chương trình giới thiệu, quảng bá rất hấp dẫn về làng cổ Đường Lâm như:
Làng Đường Lâm là một trong những ngôi làng có truyền thống lịch sử lâu
đời, Đường Lâm còn là nơi gìn giữ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiều ngôi nhà và công trình kiến trúc
cổ có giá trị hàng trăm năm. Cấu trúc của làng lại có những nét đặc trưng
riêng như các thôn ở trung tâm nằm liền kề nhau, ranh giới quy ước giữa các
thôn thường là các con đường bao thôn, giếng nước hay đền miếu, không có
sự phân chia khép kín bởi những lũy tre hay cánh đồng. Đây chính là các giá
trị văn hóa cơ bản, đem lại hơi thở cho "di sản sống" Đường Lâm. Điều đặc
biệt là người dân từ bao đời nay vẫn trao truyền lại từ thế hệ trước cho thế hệ
sau nối tiếp và nuôi dưỡng, họ vẫn sinh sống, lao động và học tập trong chính
ngôi nhà, ngôi làng của mình, tạo nên sự khác biệt và độc đáo so với ngôi
làng khác ở Việt Nam.
Làng cổ Đường Lâm có vật liệu kiến trúc độc đáo là đá ong, đây là loại
đá kết trong lòng đất do quá trình laterit hoá nên đất có mầu vàng, cấu trúc
như hình tổ ong, sau khi khai thác khỏi lòng đất, đá sẽ trở nên cứng rắn hơn
và trở thành vật liệu xây nhà cửa, đình, chùa, đền, miếu vững bền. Ngày nay,
làng cổ Đường Lâm trở thành làng du lịch văn hoá, hàng năm thu hút hàng
vạn người đến thăm, dân làng vẫn làm ruộng và buôn bán nhỏ, trong làng vẫn
còn một số gia đình theo nghề truyền thống như: làm tương, chè lam, kẹo lạc
hoặc chế biến thực phẩm có món thịt lợn quay đòn rất ngon, mềm và ngọt; từ
đây các sản phẩm làng nghề được khách du lịch sử dụng và lan toả ra nhiều
68
tỉnh, thành trong cả nước.
Để có cái nhìn tổng thể về làng cổ Đường Lâm, chúng tôi đã phỏng vấn
ông Nguyễn Trọng An – Phó Trưởng Ban quản lý di tích làng cổ Đường Lâm,
ông cho biết: Làng cổ được biết đến với những cái tên rất thuần Việt,
như: “Làng cổ đá ong”, “Làng Việt cổ”… Đây là quần thể di tích có mật độ
dày đặc, với 50 di tích có giá trị, trong đó nhiều di tích đã được nhà nước xếp
hạng (gồm 8 di tích cấp quốc gia, 2 di tích và 10 ngôi nhà cổ được xếp hạng
cấp tỉnh). Đặc biệt, nơi đây hiện còn lưu giữ được 97 ngôi nhà cổ (tập trung
chủ yếu tại Mông Phụ) với nhiều giá trị đặc biệt có niên đại trên 100 năm và
gần 1.000 ngôi nhà truyền thống nông thôn vùng Đồng bằng Bắc Bộ; 5 thôn
trong khu vực di tích Làng cổ có gần 1.500 hộ dân, với hơn 6.000 nhân khẩu
đang sinh sống. Năm 2005, Làng cổ Đường Lâm được xếp hạng “Di tích kiến
trúc- nghệ thuật cấp quốc gia’’, là tài sản vật chất, tinh thần vô giá của người
dân Đường Lâm, thị xã Sơn Tây và di sản vô giá của Nhân dân Thủ đô, cũng
như của cả nước. Với tiềm năng du lịch đặc sắc đó, những năm gần đây, du
lịch tại Làng cổ Đường Lâm đã có những bước phát triển nhất định, đặc biệt
là mô hình du lịch trải nghiệm và ẩm thực tại làng cổ Đường Lâm, thu hút rất
nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế.
Đến với Đường Lâm, du khách sẽ được tham quan, trải nghiệm tại các
hộ gia đình có nghề truyền thống lâu đời như Chè Lam, kẹo dồi, kẹo lạc, làm
tương bần như:
Khi thăm cơ sở sản xuất kẹo lạc truyền thống Hiền Bao của gia đình anh
Cao Văn Hiền, đoàn khách du lịch đến từ quận Long Biên đã được trải
nghiệm các công đoạn làm kẹo lạc truyền thống, để phục vụ nhu cầu của
khách du lịch, cơ sở sản xuất bánh kẹo Hiền Bao đã tạo dựng lại các khuôn
mẫu, quy trình công đoạn thủ công, cho du khách có trải nghiệm chân thực
nhất khi thăm quan. Tỏ vẻ thích thú, anh Tạ Đình Dũng cho biết: trước giờ chỉ
được nhìn qua tivi, giờ có thể trực tiếp trải nghiệm làm ra chiếc kẹo lạc, mang
lại cảm giác thích thú, vừa tham gia trải nghiệm vừa được chủ cơ sở say xưa
giới thiệu về truyền thống nghề làm kẹo lạc của gia đình, kỹ thuật chế biến….
69
qua đó có thể thấy để có một sản phẩm chất lượng nó chứa đựng rất nhiều ý
nghĩa, văn hoá truyền thống của gia đình cũng như văn hoá truyền thống của
làng cổ Đường Lâm.
Cùng khám phá và trải nghiệm tại ngôi nhà cổ của gia đình anh Nguyễn
Văn Hùng, số nhà 1469 Mông Phụ cho biết: Hằng ngày rất động khách du
lịch đã ghé thăm ngôi nhà cổ của gia đình anh, nhất là những ngày cuối tuần
hay dịp nghỉ lễ, bên cạnh đó để phục vụ nhu cầu của khách du lịch gia đình
anh phục vụ ăn uống và đặc sản Chè Lam do chính gia đình anh sản xuất theo
phương thức thủ công truyền thống tồn tại hằng trăm năm qua vẫn được gia
đình anh lưu giữ, du khách có thể trực tiếp nhào nặn và trải nghiệm các công
đoạn sản xuất Chè Lam đến công đoạn đóng gói, tạo cho du khách rất nhiều
hứng thú.
Anh Nguyễn Đình Sinh đến từ Đan Phượng cho biết, mặc dù ở rất gần
với Đường Lâm nhưng nay mới có dịp trải nghiệm, khám phá làng cổ Đường
Lâm cùng bạn bè của mình. Anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về
vẻ đẹp cổ kính, mang đậm dấu ấn làng quê Việt Nam xưa, được thong dong
trải nghiệm và cảm nhận vẻ đẹp yên bình, dân giã của làng, mang lại cảm giác
nhẹ nhàng, thư thái. Có lẽ ấn tượng với tôi nhất là việc được thưởng thức
những món ăn do chính tay chủ nhà nấu, các món ngon như: Gà Mía, thịt
quay đòn, thịt nướng, rau luộc, xôi…, đồng thời được trải nghiệm và chứng
kiến quy trình sản xuất Chè Lam cũng thu hút và hấp dẫn đối với tôi.
Các Công ty du lịch đã thành công trong việc giới thiệu, quảng bá để thu
hút khách du lịch đến với làng cổ Đường Lâm, tuy nhiên, họ đã tạo dựng nên
những nét văn hoá độc đáo, hấp dẫn gắn với truyền thống của làng cổ mà có
một điều thực tế họ lại đang lờ đi những câu chuyện xung quanh của làng cổ
như: Việc người dân sống chung với di tích hằng bao đời nay, kể từ khi được
công nhận là “di tích quốc gia đặc biệt” người dân nơi đây đã bị ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sinh hoạt, nhà cửa thấm dột, xuống cấp trầm trọng nhưng
không được tự ý sửa chữa, thủ tục phức tạp, gây tâm lý hoang mang cho
người dân khi họ ở trong chính ngôi nhà của mình nhưng lại không được làm
70
theo ý của mình, thậm chí bị cưỡng chế phá dỡ, khiến cho không gian sống
của họ trở nên chật chội, dột nát, thậm chí họ đã kêu khổ bằng đơn từ nhưng
vẫn chưa được giải quyết. Có lẽ chỉ khi du khách trực tiếp thâm nhập, khám
phá và tìm hiểu về đời sống của người dân mới hiểu được những nỗi thống
khổ mà người dân đang sinh sống tại làng đang phải trải qua.
Có thể thấy thông qua chính nhu cầu của khách du lịch, người dân phục
vụ du lịch chủ động tạo dựng lại văn hoá truyền thống và trao truyền lại cho
du khách thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tế. Đồng thời, để đáp ứng
lại nhu cầu của khách du lịch, người dân cũng không ngừng sáng tạo, tạo ra
71
những sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng.
Tiểu kết Chương 2
Di tích lịch sử văn hoá và làng nghề truyền thống ở nước ta là tài sản vô
giá, là di sản quý báu được hình thành từ hàng nghìn năm trước, qua nhiều thế
hệ, đó là kết tinh từ truyền thống quý giá của dân tộc và trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc cho chúng ta ngày nay. Trong thời đại toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc xích lại gần nhau, có quan hệ hữu hảo
với nhau để cùng chia sẻ những thành tựu từ quá khứ đến hiện tại, cùng nhau
tiến lên. Trong bối cảnh thế giới mới đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải mạnh
dạn tham gia vào sân chơi toàn cầu, rất có thể còn có sự chênh lệch, khác
nhau về nguồn tài chính, về sự phát triển của khoa học công nghệ và cả sự
khác nhau về tầm ảnh hưởng và mức độ thu nhập giữa các quốc gia, nhưng
mỗi dân tộc luôn có một truyền thống lịch sử của mình, có những thành tựu
vinh quang của tổ tiên để lại, nếu như biết cách khai thác, phát huy thì có thể
tạo ra những xung động mới trong những thời cơ mới để thúc đẩy đất nước đi
lên. Việt Nam ta với truyền thống hơn 4000 năm lịch sử, với bao nhiêu chiến
công oai hùng trong lịch sử chống ngoại xâm và chinh phục tự nhiên, dựng
nước và giữ nước, chúng ta cần phải phát huy truyền thống vẻ vang đó trong
hoàn cảnh hiện nay.
Thông qua các di tích lịch sử, có thể thấy du lịch lữ hành đã tác động tích
cực đến các điểm đến này, bản thân họ đã xây dựng các sản phẩm du lịch độc
đáo, kết hợp với công tác truyền thông, quảng bá của các công ty du lịch lữ
hành đến khách du lịch, việc tái tạo tại các câu chuyện, tạo dựng lại các mô
hình trải nghiệm mới góp phần lưu giữ, bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử
và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Đối với khách du lịch nội địa
thì hành trình đến với các di tích lịch sử văn hoá được coi như một cuộc hành
hương về cội nguồn, một cuộc ngược dòng lịch sử, một hành động đánh thức
lịch sử để tìm kiếm các ý nghĩa, các giá trị nằm sâu trong các di tích. Đối với
72
khách du lịch quốc tế thì đó là một cuộc khám phá, phát hiện về nhiều mặt, về
văn hoá, về vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ và những nét đặc sắc gây ấn tượng sâu
đậm về lịch sử, đất nước và con người Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy thông qua chính nhu cầu của khách du lịch, người
dân phục vụ du lịch chủ động tạo dựng lại văn hoá truyền thống và trao truyền
lại cho du khách thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tế. Đồng thời, để
đáp ứng lại nhu cầu của khách du lịch, người dân cũng không ngừng sáng tạo,
73
tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng.
Chương 3
ẨM THỰC VÀ ĐỒ LƯU NIỆM – ĐIỂM DỪNG TRONG HOẠT ĐỘNG
DU LỊCH LỮ HÀNH
3.1. Ẩm thực trong hoạt động du lịch lữ hành
3.1.1. Vai trò của ẩm thực trong hoạt động du lịch lữ hành
Tại lễ trao Giải thưởng Du lịch thế giới (World Travel Awards) lần thứ
26-2019 dành cho khu vực châu Á và châu Ðại Dương, Việt Nam lần đầu
được vinh danh ở hạng mục Ðiểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á. Sự kiện này
một lần nữa cho thấy, nghệ thuật ẩm thực nước ta ngày càng khẳng định sức
hấp dẫn đối với bạn bè quốc tế. Ðây cũng là kho tàng phong phú để “ngành
công nghiệp không khói” khai thác, hình thành những sản phẩm du lịch độc
đáo, mang đậm bản sắc Việt. Với những quốc gia có nền ẩm thực đa dạng,
hấp dẫn, nếu bỏ qua việc tận dụng lợi thế về ẩm thực có nghĩa là đã bỏ qua cả
“mỏ vàng” để phát triển du lịch.
Thời gian gần đây, nhằm khai thác lợi thế của ẩm thực trong phát triển
du lịch, một số công ty du lịch trong nước đã bắt đầu xây dựng những tour
khám phá ẩm thực cho du khách, như đưa khách đi cùng đầu bếp ra chợ để
chọn thực phẩm, cùng tham gia vào quá trình chế biến; hay tổ chức các lớp
học nấu ăn (kéo dài nửa ngày, một ngày) với sự hướng dẫn của các đầu bếp
nổi tiếng; hoặc dẫn khách tới những khách sạn lớn trải nghiệm món ăn theo
yêu cầu… Bài toán được đặt ra đối với các địa phương muốn khai thác loại
hình du lịch ẩm thực này. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp du lịch và người
làm du lịch cần có những kiến thức về ẩm thực để xây dựng những sản phẩm
du lịch ẩm thực thật sự hấp dẫn du khách. Người hướng dẫn viên tour du lịch
ẩm thực cần có vốn am hiểu ẩm thực và văn hóa ẩm thực mới có thể mang lại
74
những giá trị trải nghiệm cho du khách. Du lịch ẩm thực (trong tiếng Anh là:
gastronomic tourism, food tourism hoặc culinary tourism) đã trở thành một
trong những loại hình du lịch đang ngày càng phát triển.
Hoạt động du lịch lữ hành là hoạt động phổ biến trong xã hội hiện đại
ngày nay, khách đi du lịch thường được tổ chức thành những đoàn từ khoảng
15 người đến 50 người, đặc biệt cũng có những đoàn đi lẻ theo nhóm trong
gia đình chỉ 6 đến 8 người, cũng có những đoàn khách du lịch lên tới vài trăm
người tham gia, đó là những đoàn khách đi dự hội thảo, hội nghị hoặc là học
sinh, sinh viên các trường phổ thông, cao đẳng, đại học tổ chức đi du lịch kết
hợp với xâm nhập thực tế. Trong điều kiện sản xuất phát triển thì ban lãnh
đạo nhà máy, xí nghiệp hoặc các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh cũng có thể tổ chức những đoàn viên trong tổ chức của mình đi
tham quan du lịch trong những dịp ngày lễ được nghỉ dài ngày.
Dù đoàn khách du lịch là ai, quy mô bao nhiêu người nhưng đã tham
gia các tour du lịch là khách du lịch phải tìm hiểu và thuê các công ty du lịch
lữ hành tổ chức để đảm bảo chất lượng dịch vụ vì các công ty du lịch lữ hành
mang tính chuyên nghiệp, thường xuyên cập nhật thông tin, có quan hệ khăng
khít với các công ty khác ở các tuyến, điểm du lịch trong suốt cuộc hành trình.
Khi thiết kế các tour du lịch, các công ty phải lên chương trình từng
ngày, từng buổi sao cho hợp lý nhất để đáp ứng được những nhu cầu của
khách du lịch về đi lại (ô tô, máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ…) về ăn uống trên
suốt chuyến du lịch, kể cả khi ở trên tàu, xe hay khi về khách sạn nghỉ ngơi
hoặc ở các điểm tham quan du lịch; sau tính toán và chi phí về đi lại, ăn uống
thì đến chi phí tiền ngủ nghỉ ở các khách sạn hoặc nhà nghỉ và cuối cùng là
nhu cầu của khách muốn đi mua sắm một số đồ lưu niệm hoặc đi xem phim
ảnh, múa rối, ca hát… ở những nơi có thể tham dự được.
Như vậy là ẩm thực (ăn uống) là một nhu cầu không thể thiếu, bắt buộc
phải có cho khách du lịch và nó thường chiếm khoảng 30-35% chi phí tài
chính cho cả chuyến đi, cũng có những đoàn khách du lịch muốn ăn uống tốt
75
hơn nữa thì chi phí cho ăn uống tăng lên khoảng 40-42% tổng chi phí. Có
những người cho rằng: phải chăng chi phí cho ẩm thực như vậy hơi cao?
Không, như vậy hoàn toàn là bình thường vì tính phần trăm ăn uống như vậy
nó còn phụ thuộc vào số lượng khách du lịch trong đoàn (nếu khách càng
đông thì ăn uống càng rẻ hơn) hoặc phụ thuộc vào số lượng thời gian đoàn
tham gia tour du lịch bao nhiêu ngày? (nếu càng dài ngày thì chi phí cho ẩm
thực có thể thấp hơn vì nhà tổ chức có thể cân đối tài chính cho các bữa ăn),
yếu tố tác động đến giá cả tour du lịch và ẩm thực trong suốt hành trình du
lịch còn phụ thuộc vào thực đơn mà khách yêu cầu và phụ thuộc vào thời gian
khởi hành và kết thúc của tour du lịch (nếu đoàn khách du lịch có nhu cầu
thưởng thức các món ăn đặc sản hoặc đoàn khách du lịch muốn tham dự, trải
nghiệm lữ hành ở những thành phố du lịch vào những dịp có lễ hội lớn, thu
hút đông người thì chi phí cũng có thể tăng cao hơn).
Rõ ràng là chuyện ăn uống của khách du lịch là một trong 4 nội dung,
nhu cầu cơ bản của khách lữ hành khi tham gia du lịch (đi lại, ăn uống, ở,
mua sắm đồ lưu niệm hoặc tổ chức các sự kiện). Người xưa quan niệm “dĩ
thực như tiên” (ăn là cái quan trọng hàng đầu) hoặc cũng có quan niệm “có
thực mới vực được đạo” (có ăn uống tốt thì mới có thể làm được những việc
khác). Trong du lịch lữ hành cũng vậy, ăn uống đầy đủ và khoa học cung cấp
cho con người năng lượng cần thiết, sức khoẻ cần thiết để có thể yên tâm
tham gia suốt cuộc hành trình theo tuyến, điểm du lịch. Nếu khách du lịch lữ
hành không được quan tâm chăm sóc trong ăn uống cho đủ số lượng, đủ chất
lượng, hợp khẩu vị thì sẽ mệt mỏi, không có hứng thú tham gia vào chuyến đi
nữa hoặc là ăn uống không được vệ sinh, không đảm bảo thức ăn tươi, sống,
sạch sẽ dễ mắc bệnh về tiêu hoá về ngộ độc thực phẩm làm cho chuyến du
lịch không trọn vẹn, không vui mà còn phát sinh thêm chi phí tốn kém hơn,
ảnh hưởng đến lịch trình của đoàn theo kế hoạch.
Ngoài việc ẩm thực là một nguồn thu cơ bản từ khách du lịch góp phần
tăng doanh số của công ty, ẩm thực còn là một trong những kênh quan trọng
để góp phần bảo tồn văn hoá ẩm thực truyền thống của Việt Nam, đồng thời
76
giới thiệu văn hoá ẩm thực Việt Nam với khách du lịch quốc tế hoặc khách du
lịch từ các tỉnh, thành trong cả nước khi tham gia du lịch đến các địa phương
khác, có những sự đa dạng, khác nhau về món ăn, về cách thưởng thức các
món ăn và cách chế biến những món ăn mà đoàn sẽ sử dụng tại các điểm
dừng chân để ăn uống trong suốt hành trình.
Khách du lịch quốc tế khi đến Việt Nam hoặc khách du lịch từ các tỉnh,
thành phố trong cả nước khi đến Hà Nội họ không chỉ quan tâm đến các di
tích lịch sử văn hoá đến lễ hội hoặc đến các tư liệu trong các bảo tàng mà họ
còn muốn tìm hiểu, thưởng thức những món ăn, đồ uống của Việt Nam và của
Thủ đô Hà Nội, đó là một môi trường, một thời cơ rất tốt để HDV du lịch kết
hợp với các nhà hàng tại các điểm du lịch quảng bá văn hoá ẩm thực Việt
Nam với bạn bè khắp năm châu.
Trong quá trình trải nghiệm trong bữa ăn, khách du lịch sẽ gần gũi với
văn hoá ẩm thực Việt Nam hơn, sẽ có những kỷ niệm khó quên khi được
thưởng thức những món ăn ngon, thông dụng của ẩm thực Việt Nam như phở,
bánh đa nem, bánh tráng các loại hoặc cũng có thể được thưởng thức những
món ăn truyền thống của Việt Nam, rất độc đáo nhưng khác biệt với nền ẩm
thực châu Âu, châu Mỹ như các loại mắm tôm, mắm tép… hoặc đồ chấm như
nước mắm làm từ cá cơm biển, hoặc tương được làm từ ngô, đỗ, gạo nếp…
Khi nói đến vị trí của ẩm thực trong hoạt động du lịch lữ hành, chúng ta
cũng cần phải nhắc tới một điều là: chính là nhờ ẩm thực, nhờ những bữa ăn
uống hằng ngày hoặc thông qua các buổi giao lưu văn nghệ, liên hoan nhảy
múa bên ánh lửa bập bùng mà tình cảm giữa các thành viên trong đoàn trở
nên gần gũi, gắn bó với nhau nhiều hơn, qua đó họ có thể chia sẻ với nhau
những hiểu biết, những nhu cầu, nguyện vọng của mình và từ đó có thể họ sẽ
trở thành bạn bè, thường xuyên kết nối với nhau qua mạng xã hội hoặc cũng
có thể kết nối để tiếp tục tổ chức những tour mới quay trở lại đất nước Việt
Nam, đến những điểm du lịch mà họ đã từng trải qua.
Trong quá trình tổ chức các tour du lịch chúng tôi nhận thấy: thời gian
ăn uống là thuận lợi nhất cho việc kết nối giữa các thành viên trong đoàn với
77
nhau và kết nối giữa các HDV du lịch với từng thành viên của đoàn, bởi vì
khi vào bữa ăn, HDV phải quan sát, phải kiểm tra xem món ăn đó có đảm bảo
không? Các dụng cụ ăn (bát, đĩa, thìa, dĩa…) đã đúng và đủ chưa? Và điều
quan trọng nữa là HDV sẽ phải giải thích, hướng dẫn trực tiếp cho các khách
du lịch về các món ăn (tên gọi la gì, cách thưởng thức ra sao…) và có thể có
những người muốn thay đổi một vài món ăn trong thực đơn trong điều kiện có
thể được. Như vậy, nghĩa là thông qua ẩm thực mà trình độ nghiệp vụ của
HDV có thể được nâng cao, được hiểu biết tỉ mỉ hơn và từ đó có kinh nghiệm
để tiếp thị, để ký kết hợp đồng hoặc tổ chức các tour du lịch sau đó một cách
chuyên nghiệp hơn.
3.1.2. Phục hồi, tái tạo ẩm thực truyền thống trong hoạt động du lịch
lữ hành
3.1.2.1. Sự sáng tạo, cầy kỳ trong cách chế biến ẩm thực truyền thống
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là Thủ đô nghìn năm văn hiến, là nơi
hội tụ của những dòng sông (sông Hồng, sông Đuống, sông Tô Lịch, sông
Nhuệ…) và cũng là nơi hội tụ nhân tài cả nước từ những người hay chữ, đỗ
đạt làm quan cho đến các nghệ sỹ, nghệ nhân dân gian từ mọi miền đất nước.
Trong những dòng người di cư về kinh đô để tìm cơ hội thăng tiến của mình,
có những người phụ nữ giỏi nấu ăn và cả những vị đầu bếp tài giỏi mang theo
những món ăn gia truyền từ vùng rừng núi phía Bắc của người Mường, người
Thái… và những hương vị biển cả từ vùng Thanh Hoá – Nghệ An.
Vì vậy, mà văn hoá ẩm thực Hà Thành vô cùng phong phú, đa dạng đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của con người, đáp ứng được thị hiếu khác
nhau của các đoàn lữ khách đến từ mọi miền đất nước, mặc dù có thể ở lứa
tuổi khác nhau dân tộc khác nhau hay tôn giáo khác nhau. Cái hay, cái độc
đáo, hấp dẫn của ẩm thực Tràng An là theo diễn tiến tự nhiên, ăn mùa nào
thức ấy, là sự thích ứng của con người với hoàn cảnh, là sự hội tụ của tinh hoa
ẩm thực thuộc các vùng miền khác nhau để làm nên những món ăn, đồ uống
đi vào lịch sử, đi vào thi ca, hội hoạ, cùng tồn tại với các nhà văn, nhà thơ,
78
nhà nghệ sĩ.
Chúng tôi đã theo chân đoàn khách du lịch là một gia đình Việt Kiều đã
định cư ở Mỹ hơn 50 năm, lần quay trở lại Việt Nam này anh Vũ Ngọc Minh
cho biết: Gia đình tôi định cư ở San Francisco ngót nửa thế kỷ. Hãn hữu mới
về thăm Hà Nội, ở Hoa Kỳ cái gì cũng có, cũng đẹp nhưng chỉ tiếc miền đất
hứa ấy không có bánh cuốn ngon, vì thế lần trở lại này anh đã cùng gia đình
đến quán bánh cuốn gia truyền của bà Hoành ở phố Tô Hiến Thành, quận Hai
Bà Trưng thưởng thức và cảm nhận hương vị đặc biệt đó.
Để hiểu rõ hơn tại sao quán của bà Hoành lại nổi tiếng như vậy, chúng
tôi đã phỏng vấn chị Nguyễn Thị Linh – Cháu nội và Hoành cho biết: Đây là
một loại bánh có từ lâu đời của người dân ở phường Thanh Trì, quận Hoàng
Mai, bánh này được làm từ bột gạo qua quá trình chế biến rất cẩn thận, cầu
kỳ, người dân Thanh Trì chọn những thửa ruộng mẫu mỡ, đủ nguồn nước tưới
thường xuyên để trồng loại lúa vụ Đông Xuân với giống gạo Dư hoặc gạo
Tám thơm truyền thống có hạt trắng, trong, mẩy, đều nhau nhìn như những
hạt ngọc. Sau khi được cho vào cối xay, giã cẩn thận và được sàng, sẩy sạch
sẽ, gạo được cho vào nồi đồng lớn, ngâm trong nước khoảng chừng 8 tiếng
cho hạt gạo ngậm nước vừa đủ, nở đều, khi đó mới cho vào cối đá để xay ra
bột. Cối đá xay thủ công mới tốt, bột mới mịn đều và thợ xay bột phải xay vài
lần cho thật nhuyễn. Khi xay bột người làm phải bình tĩnh xay từ từ không
được vội vàng. Một tay xoay cối đá theo đường tròn, còn tay kia nhúm tùng
nhúm gạo cho vừa đủ để hạt gạo rơi dần dần xuống các rãnh ở mặt tiếp giáp
giữa hai mặt của cối đá và tan chảy ra thành dòng bột gạo trắng như sửa khi
hai mặt của cối đá miết sát vào nhau. Bột xay xong, được pha chế cho tỷ lệ
giữa bột và nước hài hoà để đưa lên bếp lửa tráng thành từng chiếc bánh cuốn.
Bếp tráng bánh cuốn Thanh Trì phải được đun bằng củi khô, cành to vừa phải
được cháy trên lớp trấu và than hồng cho nhiệt độ nóng đều. Người tráng
bánh phải là phụ nữ có bàn tay khéo léo, mềm dẻo thì bánh mới ngon, đồng
thời tráng bánh phải biết cách khống chế ngọn lửa sao cho vừa phải, không
bốc thành ngọn lửa lớn và cũng không được quá yếu ớt. Nồi tráng bánh cuốn
79
Thanh Trì phải là nồi đồng cỡ lớn theo dáng đáy nồi loe rộng để chứa được
nhiều nước và nhiệt độ thu hút tập trung lên miệng nồi thu hẹp lại. Trên
miệng nồi có khung bằng cật tre uốn tròn khít với miệng nồi và được căng
một lớp vải trắng bằng sợi bông cho dễ thấm nước. Vải căng bề mặt này là
loại vải được dệt ở độ dày trung bình, không dày quá và cũng không mỏng
quá. Mỗi lần tráng bánh cuốn, thợ tráng bánh phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ,
vật tư theo đúng tiêu chuẩn cổ truyền như: môi múc bột, que tre dài, mỏng có
dáng thu nhỏ dần ở phía đầu để cuốn lá bánh cuốn ra khỏi khay bằng vải và
một số gia vị kèm theo như: hành, mỡ lợn, thịt nạc băm… tuỳ theo từng loại
bánh do thị trường yêu cầu (có loại bánh chay không có nhân, có loại chỉ rắc
nhân thịt hoặc có thêm nhân hành…). Que tre để lấy bánh luôn được cắm
trong một ống tre đầy nước để khi lấy bánh cuốn ra khỏi khay vải không bị
dính, giữ cho bánh tròn đầy, nguyên vẹn, không vỡ nát. Bánh cuốn Thanh Trì
độc đáo ở chỗ mỗi chiếc bánh đều có hình tròn, mỏng đều, mềm nhưng khi nhai
người ăn sẽ cảm nhận được độ giòn và không dai, đồng thời hương vị bánh này
được nâng lên bởi sự khéo tay khi cô gái bán bánh bóc từng lá bánh và bầy gọn
gang lên đĩa gốm men lam Bát Tràng, không bị tràn đầy ra bên ngoài.
Năm 2018, chúng tôi có dịp tiếp xúc với một đoàn khách du lịch từ tỉnh
Sóc Trăng (miền Tây Nam Bộ) đến thăm Hà Nội. Chị Võ Thị Thanh Hoa,
thành viên của đoàn du lịch và là chủ một khách sạn ở thị xã Ngã Năm, tỉnh
Sóc Trăng, chị cho biết: chị đã từng đi du lịch nhiều nơi, đến thăm nhiều tỉnh,
thành phố ở nước ta và cả một số thành phố ở các quốc gia khu vực Đông
Nam Á như Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia… nhưng chưa bao giờ được
thưởng thức món bánh cuốn hoặc các loại bánh được chế biến từ bột gạo mà
ngon như bánh cuốn Thanh Trì, Hà Nội, cái làm cho chị Thanh Hoa và rất
nhiều thực khách muốn thưởng thức, khám phá và gây ấn tượng nhất với bát
nước chấm có vị cay của con cà cuống. Lúc mới tiếp xúc có thể có người còn
ngần ngại, còn chưa biết con cà cuống là gì, nhưng khi đã đưa một vài miếng
bánh cuốn được chấm nước mắm cà cuống vào miệng rồi thì đều bị thu hút,
đều bị thuyết phục vì vị cay và vị thơm đặc biệt này. Một năm sau, chị Hoa lại
80
quay lại Hà Thành cùng nhóm bạn của mình vì chị lại đến phố cổ để tìm lại
cảm giác năm trước thông qua bữa ăn bình dân là bánh cuốn Thanh Trì chấm
nước mắm cà cuống và nhiều lữ khách dù xa Hà Thành nhưng vẫn nhớ tới
hương vị món ăn dân giã và tinh tế này.
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là vùng đất hội tụ nhân tài, hội tụ tinh
hoa văn hoá ẩm thực, nên ở đây có nhiều món ăn ngon mà bổ và rẻ, đặc biệt
là món phở Hà Nội, một món ăn được tạp chí Forber xếp vào loại 100 món ăn
ngon nhất, hấp dẫn nhất trên thế giới, giá trị và sức thuyết phục của Phở Hà
Nội còn được thực tế kiểm nghiệm, đánh giá. Trong các năm 2017, 2018,
2019 trước khi dịch Covid-19 diễn ra, chúng tôi đã có may mắn được gặp gỡ,
trao đổi với một số đoàn khách du lịch từ mọi miền đất nước như: Hà Giang,
Cao Bằng, Lào Cai, Thanh Hoá, Nghệ An, Khánh Hoà, Tây Ninh, Bình
Dương, Bình Phước, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… khi họ đến
thăm Hà Nội. Mặc dù khách du lịch khác nhau về lứa tuổi, nghề nghiệp, trình
độ… nhưng họ đều có chung một cảm nhận: Phở Hà Nội sao mà ngon thế!
Chúng ta cũng đã biết đến món phở chua của đồng bào dân tộc H’mông ở
phiên chợ Lào Cai (huyện Simacai) hoặc phiên chợ Hà Giang (huyện Xín
Mần, Hoàng Su Phì) hoặc những món hủ tiếu nam vang, bánh canh xứ Quảng,
chúng ta cũng thấy món phở bò, phở gà, phở lợn… được bán ở nhiều tỉnh,
thành trong cả nước. Mỗi nơi có một cách chế biến riêng và có một hương vị
riêng trong món phở nổi tiếng này.
Ví dụ như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai… cũng có nhiều cửa
hàng bán phở, nước lèo ở đây có vị ngọt, thơm rất đặc biệt nhờ vị ngọt của
đường cùng vị ngọt của bột ngọt và đặc biệt là phở trong Nam được ăn kèm
theo giá sống và các loại rau thơm như rau húng ngổ, húng quế, mùi tàu…làm
cho bát phở có vị ngọt, vị thơm, vị hăng của đường, của nước thịt, của rau
thơm. Người Nam bộ rất thích món ăn chế biến theo phong cách này trong
suốt mấy chục năm vì từ khi còn nhỏ họ đã được ăn theo “gu” như thế.
Nhưng khi có dịp ra thăm Hà Thành được thưởng thức món phở Hà Nội
do chính các đầu bếp Hà Thành chế biến thì các du khách phương Nam cũng
81
có cảm nhận khác thường. Tháng 9/2018, chúng tôi đón tiếp một đoàn khách
từ thành phố Hồ Chí Minh và một đoàn khách từ thị xã Thủ Dầu Một tỉnh
Bình Dương. Chúng tôi có dịp trao đổi với anh Ngô Xuân Đủ là bộ đội thuộc
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Dương và chị Nguyễn Thị Thu Hiền là giảng
viên một trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng quê ở thành phố
Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Qua cuộc trò chuyện, phỏng vấn nhanh mang tính
điều tra, tham khảo về cảm nhận của lữ khách phương Nam với ẩm thực Hà
Thành, chúng tôi đã thu nhận được những suy nghĩ, cảm tưởng rất chân thành
từ các đối tượng trao đổi một cách tình cờ.
Anh Ngô Xuân Đủ và chị Nguyễn Thị Thu Hiền đều cho rằng: Phở Hà
Nội có những nét giống với Phở miền Nam, nhưng có nhiều nét khác nhau,
tạo nên cảm giác đặc biệt cho các lữ khách phương Nam. Theo họ, sự giống
nhau giữa Phở Hà Nội và Phở miền Nam là ở chỗ: chúng cùng là một món ăn
được nấu từ bánh phở pha chế bằng bột gạo tẻ, hòa vào nước dùng được chế
biến, ninh nấu từ xương bò, xương gà…để tạo nên bát xúp nóng có nhân là
thịt bò, thịt gà hoặc thịt lợn.
Nhưng bát Phở Hà Nội có nhiều điều khác lạ. Thứ nhất, bánh phở Hà
Nội mỏng, nhỏ và dai hơn bánh phở Nam bộ, điều đó làm cho sợi bánh phở
mềm và ngon hơn. Thứ hai, nồi nước dung để pha chế thành bát phở Hà Nội
nó trong hơn, thơm hơn, ngọt và thanh hơn phở miền Nam, sự trong hơn ở
nước phở này nhờ sự lựa chọn các ống xương đùi, xương sườn của bò và khi
ninh xương, chủ quán đã luộc xương vài lần để vớt đi những vẩn đục tiết ra từ
xương bò. Cái thơm ở nồi nước dùng ở đây là nhờ có các loại gia vị đặc biệt
được tạo ra từ củ gừng, củ sả, củ hành tây được nướng cho đến đen cả lớp vỏ
bên ngoài, cộng với mùi hoa hồi, hoa quế vừa thơm, vừa hắc nhẹ như có vị
thuốc bắc. Cái ngọt của nước phở Bắc là vị ngọt tự nhiên từ nước ninh xương,
mà không hề pha thêm bột ngọt (mì chính) hoặc đường kính như ở miền Nam.
Ngoài vị ngọt của nước xương ninh ra, thì nồi nước dung của các cửa hàng
phở Tràng An còn có vị ngọt của con Xá Sùng (một loài giun biển). Con Xá
82
Sùng bổ sung thêm vị ngọt của xương động vật bằng vị ngọt của một loài hải
sản nên nó vừa ngọt, vừa đậm đà, có vị thơm ngon của nước mắm nguyên
chất với vị ngọt thơm của giun biển.
Khi bát Phở Tràng An được chế biến từ bàn tay người phụ nữ Hà
Thành có sự kết tinh từ bột của hạt gạo trắng ngần với mầu đỏ tươi của miếng
thịt bò non mềm, ngọt và mầu xanh của những cọng hành hoa tươi, thơm ngan
ngát. Trong bát Phở đó có những gia vị và nguyên liệu ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ kết hợp với hồ tiêu từ Tây Nguyên và các nguyên liệu có nguồn gốc từ
Biển Đông. Điều đặc biệt lý thú là khi ăn Phở Hà Nội, người ta chỉ ăn phở
thôi chứ không ăn thêm các loại rau thơm nào khác, thậm chí là không ăn
thêm các loại thức ăn kèm như cháo quẩy hoặc bánh mì… Như vậy mới
thưởng thức hết được vị ngọt ngào của nước phở, vị cay nồng của ớt hòa với
hành và hạt tiêu, cộng thêm cái bùi, cái ngọt của bánh phở và thịt bò tái.
Mặc dù người Nam bộ quen ăn ngọt đậm nhờ vị ngọt của đường, nhưng
khi thưởng thức bát phở Tràng An, họ lại có một sự cảm nhận khác, mới lạ
hơn, hấp dẫn hơn và thật khó quên.
Các lữ khách phương Nam ra thăm Tràng An, Hà Nội vào mùa đông
giá rét có những khó khăn, ngại ngùng bởi vì miền Nam chỉ có mùa mưa và
mùa khô, không có mùa Đông lạnh giá, do đó người miền Nam không chịu
được rét và không thích mặc những áo len, áo dạ dày cộp, nặng nề. Nhưng
mùa Đông xứ Bắc lại có hương vị riêng của nó và có nhiều cái hấp dẫn con
người, trong đó bao gồm cả các lữ khách Phương Nam. Mùa Đông năm 2017,
chúng tôi có may mắn được tiếp đón đoàn cán bộ Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, có chị Hà An là người gốc Bắc nhưng năm đó
mới có dịp ra thăm Hà Nội. Theo kế hoạch, chị và đoàn cán bộ của tỉnh chỉ ra
làm việc và thăm miền Bắc trong 04 ngày, nhưng một số người xin ở lại để
thăm quan, tìm hiểu văn hóa, phong tục xứ Bắc nhiều hơn. Chúng tôi đã mời
chị đi thăm Hà Nội và ăn một vài món ăn mà theo chúng tôi là khác lạ với ẩm
thực phương Nam. Chúng tôi mời đoàn thưởng thức món ăn truyền thống
cơm Tám, giò chả ở phố Huế, Hà Nội. Quán ăn không lớn, nhưng được trang
83
trí cẩn thận theo phong cách vùng quê Bắc Bộ. Quán ăn này đã kinh doanh,
dịch vụ món ăn hàng ngày cơm tám giò chả trên 60 năm, qua 03 đời cha
truyền con nối nên tính chuyên nghiệp rất cao. Mặc dù gia đình có điều kiện
kinh tế, có thể mở rộng cửa hàng và mở rộng mặt hàng kinh doanh để tăng
thêm thực khách và tăng thêm lợi nhuận, nhưng họ chỉ tập trung vào một mặt
hàng cơm tám giò chả bình dân mà thôi. Chúng tôi chờ chưa đầy 10 phút, nữ
nhân viên phục vụ đã mang ra niêu cơm trắng với đĩa giò và đĩa chả được làm
theo lối gia truyền của làng nghề Ước lễ (Hà Tây cũ) nay đã thuộc Hà Nội.
Nồi cơm tám dẻo và thơm, bốc khói nghi ngút được ăn với những miếng giò,
chả thái chéo cạnh, bằng nhau chằn chặn, chấm với nước mắm Phú Quốc
nguyên chất, pha một ít hạt tiêu xay nhỏ mịn và thơm nồng. Giò chả ở đây
được giã bằng tay theo cách cổ xưa chứ không phải là xay bằng máy nên
miếng giò, chả mịn, mềm và thơm ngon. Trong khoanh giò, khi cắt ra có
những lỗ nhỏ, chứng tỏ giò được giã từ thịt băm nguyên chất 100%, chứ
không hề pha chế thêm các loại bột hoặc các chất phụ gia khác; thăn được
chọn từ những con lợn trên 1 tạ, khỏe mạnh hoàn toàn và được nuôi bằng thức
ăn sạch nên thịt lợn thơm và khoanh giò có mầu hồng tươi, có vị ngọt và bùi. Để
cho giò ngon, ngọt, bùi, thơm mà không ngán, người ta thêm một chút mỡ thái
con chì vào rồi giã nhẹ để trên mỗi khoanh giò, ta thấy những đốm mỡ như hạt
đậu, tạo thành những bông hoa và khi ăn, thực khách nhai thấy mềm và ngọt.
Cơm tám ăn với giò chả Ước lễ thật là một sự kết hợp hài hòa, khéo léo
để làm nên một bữa ăn tuyệt diệu. Độ dẻo thơm của hạt cơm nấu từ gạo tám
thơm hòa với độ bùi, ngậy, mềm của miếng giò, miếng chả trong vị ngọt,
thơm của nước mắm cá nguyên chất sao mà khó quên đến thế. Sau một vài
miếng cơm, chúng tôi lấy thìa múc từng thìa canh cải nấu ngọt lịm pha chút
hương vị cay và thơm từ lát gừng già đập dập thật là phù hợp. Cái hương
thơm của lúa gạo, của nước mắm và của rau cải, của gừng cứ hòa quyện vào
nhau làm cho bữa ăn thật ngon miệng.
Chiều hôm đó, chúng tôi mời chị Hà An và đoàn đi thăm phố Cổ và ăn
cơm tối tại phố Mã Mây, Hà Nội. Trên mâm cơm có các món; rau muống xào
84
tỏi, trứng tráng, thịt ba chỉ rang mặn, cùng bát thịt nấu đông và đĩa dưa cải bẹ
muối xổi. Chúng tôi nghĩ rằng: đây là bữa cơm bình dân để thết khách
phương xa. Nhưng chị Hà An và đoàn lại cảm nhận thấy trong bữa ăn này có
những món đặc biệt, hấp dẫn các lữ khách phương Nam, một cách kỳ lạ, đó
chính là món thịt nấu đông. Muốn có món thịt lợn nấu đông đạt chất lượng thì
người đi chợ phải chọn miếng thịt lợn từ con lợn khỏe mạnh, không có bệnh
tật, và nặng từ 80kg trở lên; mua thịt ba chỉ (ba dọi) của con lợn này sẽ có các
lớp thịt nạc, thịt mỡ xen nhau đủ độ dày để tạo thành nồi thịt đông ngon. Sau
khi thái miếng thịt có kích thước mỗi cạnh khoảng 3-4cm vuông thành sát
cạnh, có cả bì và thịt nạc, thịt mỡ đem tẩm ướp mắm muối, mì chính, hạt tiêu
vừa vặn trong khoảng 30-45 phút thì cho vào nồi đảo lên với hành, mỡ đã
được phi nóng. Đảo thật đều cho những miếng thịt chín đều các cạnh, sau đó
cho magi, xì dầu và nước hàng (một loại nước được trưng từ đường đỏ để tạo
ra gia vị ngọt, đắng, thơm và cho miếng thịt có màu nâu sẫm đều), đun và đảo
đều dưới ngọn lửa vừa phải, khoảng 1 giờ sau thì thịt chín tới. Nếu trời mùa
đông Hà Nội lạnh dưới 10 độ, thì sau khoảng 1 giờ đến 2 giờ, cả nồi thịt sẽ
đông lại một cách tự nhiên. Những miếng thịt đông màu nâu sẫm được ngập
trong lớp mỡ mầu trắng thật là nổi bật và hài hòa. Cùng bát cơm nóng, đặt
miếng thịt đông lên, lớp mỡ bên ngoài tan ra làm cho hạt cơm trắng sóng sánh
mầu mỡ. Người ăn cơm với thịt đông có kèm miếng dưa muối xổi mầu xanh
ngả vàng, ròn tan thật là ngon lành bởi sự hòa quyện của cơm, thịt đông và
dưa muối. Món thịt đông tự nhiên này chỉ xứ Bắc mới có, nó tạo thành vị
thơm ngon, bổ béo được tạo thành bởi đất trời, chứ không phải là từ cái tủ
lạnh của gia đình. Người Nam bộ thưởng thức món thịt đông Hà Nội cảm
thấy như mùa đông xứ Bắc bớt đi vẻ lạnh giá, buồn bã, ngược lại, mọi người
đều cảm thấy dường như đã được tiếp thêm năng lượng để đủ sức chống chọi
lại cái rét cắt da cắt thịt của miền Bắc vào dịp cuối năm cũ, đầu năm mới.
Có nhiều lữ khách từ Quảng Nam, Đà Nẵng hay từ Thành phố Hồ Chí
Minh hoặc từ Cà Mau, Kiên Giang nơi cực Nam của Tổ quốc khi có dịp ghé
thăm đất Tràng An một vài lần đều cảm thấy thích thú, đam mê vì nhận ra
85
rằng: Trong văn hoá ẩm thực Tràng An luôn luôn có sự gắn kết với sự thay
đổi của thiên nhiên, có sự hội tụ của tinh hoa đất trời để con người nơi đây có
thể tạo ra những món ăn, thức uống vô cùng độc đáo và tinh tế. Triết lý hài
hoà Thiên – Địa – Nhân đã được thể hiện rất rõ và rất vi diệu qua từng món
ăn cũng như qua cách thức thụ hưởng tinh hoa của ẩm thực miền Bắc ở những
không gian văn hoá khác nhau.
Nguyên liệu để làm bánh trôi, bánh chay phải được lựa chọn cẩn thận
và người nông dân phải lao động vất vả trong suốt nửa năm trời, họ phải dành
dụm những hạt thóc vàng, những hạt đỗ xanh, hạt vừng đều nhất, tốt nhất thì
bánh mới thơm ngon, dẻo, bùi, ngậy. Khi nặn bánh, kén bàn tay người phụ nữ
mềm mại để tạo ra lớp bột phía ngoài của bánh mỏng đều, khi cho nhân
đường đỗ vào trong phải vê tròn cho khéo để nhân bánh ở vị trí trung tâm,
không bị chỗ dày, chỗ mỏng và khi thực khách đưa vào miệng, vừa chạm nhẹ
răng thôi đã nhận thấy đường đỗ bên trong tan ra trong niềm cảm phục sự tài
khéo của phụ nữ Tràng An. Sự gặp gỡ giữa màu trắng tinh khôi của bột nếp
với màu vàng rực rỡ của bột đậu xanh cùng với sự hoà trộn giữa vị thơm, bùi,
mát của bột với vị ngậy của bột đỗ xanh và của đường mía là sự hội tụ của
tinh tuý đất trời miền Bắc trong dịp cuối xuân khi những đợt gió mùa Đông
Bắc cuối cùng đang ùa về.
3.1.2.1. Sự tinh tế, nâng tầm văn hoá ẩm thực Hà Nội
Cái sự tinh tế, cầu kỳ trong quá trình thưởng thức những món ăn, thức
uống của ẩm thực Tràng An thật ra chưa sách nào tả được một cách đầy đủ.
Nhưng, trong cuộc sống hàng ngày, tùy thuộc vào hoàn cảnh và tâm trạng mỗi
người và cũng tùy thuộc vào cảnh vật, thời tiết xung quanh mà chúng ta có
thể cảm nhận được những tinh hoa của ẩm thực Tràng An ở những mức độ
khác nhau. Thông qua ẩm thực chả cá ở phố Lã Vọng, bánh Tôm Hồ Tây,
Cốm Làng Vòng, Trà ướp hương sen Tây Hồ.
Khác với chả cá Lã Vọng, phải thưởng thức trong không gian phố cổ,
trong căn nhà cổ mới cảm nhận được sự ngon của miếng cá được chế biến
theo lối cổ truyền. Món bánh tôm Hồ Tây lại được thưởng thức theo một cách
86
khác, ở một không gian khác, mặc dù món ăn dân giã mà tinh tế này cũng đã
có lịch sử hàng trăm năm. Chúng tôi có dịp tiếp các anh Nguyễn Văn Bình,
Phạm Khắc Cường và chị Trần Thị Hạnh ở tỉnh Bạc Liêu ra thăm Thủ đô vào
dịp mùa thu năm 2018. Trong tiết thu Hà Nội, trời xanh, mây trắng, nắng
vàng, chúng tôi ngồi bên bờ Hồ Tây thưởng thức món bánh Tôm thật là tuyệt
diệu. Các thực khách phương Nam, khi nhìn thấy món bánh Tôm ở đây liền
liên hệ với món bánh Xèo miền Nam, bởi họ thấy cũng có bột rán vàng xuộm
làm nền cho những con tôm màu hồng nằm gọn trong lòng chiếc bánh. Đúng
là cảm nhận ban đầu và liên tưởng là vậy, nhưng khi ăn thì các anh chị ở Bạc
Liêu lại có nhận xét khác nhau về chất liệu chế biến, về cách chế biến và cách
thưởng thức món ăn này. Tôm để làm bánh ở đây phải là tôm tươi nguyên
chất, vừa đánh ở Hồ Tây lên, còn nhảy tanh tách. Cửa hàng chỉ chọn loại tôm
vừa phải, không to, không nhỏ, nhỏ quá thì sẽ tanh, không đủ độ bùi và
ngọt.Pha chế bột làm bánh Tôm Hồ Tây là một bí quyết mà chỉ đầu bếp ở đây
mới biết. Họ pha bột tẻ với một chút bột mỳ và bột nếp cho chiếc bánh khi
được đưa vào, rán lên trên chảo dầu hướng dương sôi sùng sục thì có mầu
vàng xuộm.
Khi thực khách đưa miếng bánh Tôm vào miệng, chỉ cần cắn nhẹ, bánh
tôm đã tan ra trong miệng lúc nào không hay. Mùi thơm và độ bùi của bánh
tôm hòa cùng vị ngọt của con tôm làm cho ta cảm thấy một sự hài hòa đơn
giản mà hiếm có ở món ăn này. Bánh tôm Hồ Tây có thể được ăn cùng bún lá,
làm từ sợi bún trắng ngần thấm vào bát nước chấm ngọt mà thanh nhờ vị chua
của giấm, vị ngọt của đường, vị mặn của nước mắm cá cơm. Bát nước chấm
không mặn lắm bởi được thả vào đó mấy lát đu đủ xanh và cà rốt hồng làm
cho bữa ăn thêm phần đậm đà với những sắc màu và hương vị hòa quyện vào
nhau, hòa quyện vào đất trời mùa thu thanh cao, mát mẻ. Anh Đủ, anh Cường
và chị Hạnh cảm thấy thật hãnh diện và thỏa mãn khi được thưởng thức món
bánh tôm ngay bên bờ Hồ Tây lịch sử. Cái không gian bao la của trời mây,
sóng nước mở ra trước mắt, xa xa phong cảnh làng quê thanh bình cùng
87
những tòa nhà cao tầng hiện đại in trên nền trời xanh làm cho lòng người thư
thái, thảnh thơi, vừa ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, vừa thưởng thức món
ăn được chế biến từ những con tôm nuôi tự nhiên ở hồ này thật là tuyệt tác.
Cũng vào mùa thu năm đó, chúng tôi mời các lữ khách phương Nam
đến Làng Vòng Hà Nội để thưởng thức món Cốm làng Vòng có từ hàng nghìn
năm lịch sử. Những hạt cốm xanh như ngọc được gói trong lá sen xanh mướt,
tạo cho các lữ khách cảm thấy trong cánh lá sen kia gói gọn cả đất trời. Để
làm ra món ăn chơi mà vô giá này, bà con người nông dân ở làng Vòng phải
chọn những hạt gạo nếp giống ngon, tròn, mẩy để gieo trồng trên những thửa
ruộng màu mỡ, có đủ nước tưới theo quá trình trưởng thành của cây mạ nếp.
Cái khó là phải chăm sóc cẩn thận cho cây mạ non để nó ra những bông lúa
mẩy hạt, nhiều sữa. Khi cây lúa trổ đòng, người nông dân phải theo dõi từng
ngày để đến khi hạt thóc nếp còn non, vừa ngậm sữa vài tuần là phải gặt ngay,
mang về xay, xát và giã rồi sàng sẩy sao cho hạt gạo sạch sẽ, không có vỏ trấu
và các cái mày của hạt thóc. Gạo ngon và tốt thì giã cốm mới dẻo, thơm và có
mầu xanh ngọc tự nhiên, không cần phải nhuộm hay hồ bằng các loại phẩm
nhuộm, hóa chất.
Nghề cốm làng Vòng có lúc suy giảm, nhất là trong thời bao cấp vì gạo
thóc được nhà nước quản lý chặt chẽ, nhưng từ khi đất nước bước vào thời kỳ
đổi mới, nghề làng cốm Vòng được khôi phục. Nhiều gia đình vẫn còn lưu
giữ những mảnh ruộng tốt để trồng lúa nếp và nhiều thanh niên đã cố gắng
tìm hiểu, khôi phục nghề làm cốm vòng để tạo ra nguồn thu nhập cho gia
đình, nhưng quan trọng hơn là lưu giữ nghề truyền thống quê hương.
Cốm làng Vòng dẻo, thơm, mềm, ngọt một cách tự nhiên bởi hạt gạo
nếp hấp thụ tinh hoa của đất trời, nó khác hẳn với các loại cốm ở vùng khác.
Do đó, thực khách có thể ăn no mà không thấy chán. Cái hương vị của cốm
vòng được nhân lên gấp bội phần và ngon ngọt lên gấp bội phần khi được ăn
với chuối tiêu chín quốc, nghĩa là khi quả chuối tiêu ngả sang mầu vàng xậm
với những chấm nhỏ mầu nâu điểm xuyết trên nền vàng. Điều kỳ lạ là chỉ có
vào mùa thu giống chuối này mới đạt đến mức chín quốc như vậy, lúc đó,
88
dường như nắng gió mùa thu Hà Nội đã hút hết nước trong quả chuối này để
nó kết tinh vị ngọt đậm đà và gió thu, nắng thu cũng làm mầu xanh của quả
chuối nhanh chóng bay đi, mà thay vào đó là mầu vàng của nắng thu thanh
cao, dịu ngọt.
Đến Hà Thành vào mùa hè là mùa hoa Sen nở. Khi các lữ khách
phương Nam được mời lên thăm quan các đầm sen Hồ Tây họ cảm thấy như
đây là một không gian khác lạ với những phố phường đông đúc, ngột ngạt,
cũng có người tưởng là cõi tiên, như là mơ là thực. Vào buổi sáng sớm tinh
mơ, khi mặt trời ló rạng đằng Đông đưa những ánh nắng ban mai đầu tiên đến
với trái đất, chúng tôi cùng nhau có mặt ở bên đầm sen Hồ Tây để hòa mình
vào gió trời và hương hoa sen ngào ngạt. Chúng tôi với anh chị đoàn tỉnh Trà
Vinh, An Giang ngồi trong túp lều của bà Dần, chủ đầm sen Tây Hồ để cảm
nhận hương vị thần tiên của mùa hoa Sen Hà Nội, Bà Dần đã cho chúng tôi
thưởng thức món trà Thái Nguyên ướp sen. Bà dùng chiếc thuyền nan, lách
vào giữa đầm sen để nhặt từng cánh chè đã được ủ vào giữa bông hoa sen từ
trước đó. Cánh chè móc câu đen xậm được điểm xuyết bởi những hạt gạo hoa
sen mầu trắng càng trở nên nổi bật và điều đặc biệt là hương thơm của chè
Tân Cương Thái Nguyên hòa trộn với hương thơm ngan ngát của hoa sen mới
hấp dẫn các lữ khách phương xa. Ai cũng muốn nhìn, muốn ngắm, muốn
thưởng thức hương thơm của Trà Sen Tây Hồ. Nhưng trà này không phải chỉ
để ngắm nhìn mà thưởng thức hương vị của nó qua khứu giác, mà bà Dần đã
lấy một bộ ấm chén mầu da lươn, cho một nhúm chè ướp Sen vào đó và rót
nước sôi để pha trà mời chúng tôi cùng uống. Sau khi hãm trà sen và đổ nước
nóng tráng các tách uống trà cho sạch sẽ và tích thêm nhiệt lượng đủ nóng, bà
Dần nhẹ nhàng rót từng tí một vào các tách để cạnh nhau. Giọt nước chè chảy
nhè nhẹ, tí tách nhỏ vào từng cái tách, lúc đó chúng tôi cảm nhận được một
hương thơm ngào ngạt tỏa ra xung quanh. Các anh các chị miền Nam lần lượt
nâng tách trà nóng trên tay và nhấm nháp từng ngụm nhỏ, ai cũng xuýt xoa
khen trà sen Hồ Tây thơm ngon, tinh khiết quá. Cách pha trà của người xứ
Bắc sao cầu kỳ quá. Trong chén trà sen lắng đọng tinh hoa văn hóa ẩm thực từ
89
hàng nhiều thế kỷ trước của thầy giáo Chu Văn An, của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm và của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Ở đây cũng thấy phảng
phất phong cách và triết lý thưởng trà của nhà văn Nguyễn Tuân. Chén trà sen
lắng đọng tinh hoa văn hóa nghìn năm của người Việt Nam, con người Tràng
An. Ở Nam Bộ cũng là vùng có nhiều hoa sen lắm, và chè ở trong Nam cũng
không thiếu, mọi người đều quan sát, chụp ảnh lưu niệm và bảo nhau sẽ đem
phong cách thưởng trà Tràng An vào miền Nam để cho nhiều người cùng
hưởng thụ nét tinh hoa của đất trời. Chén trà sen bên đầm sen Tây Hồ làm cho
chúng tôi đều nhận thấy thoải mái, tĩnh tâm và sảng khoái, khỏe mạnh để
bước vào một ngày mới với bao công việc bộn bề.
Hà Nội đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, ẩm
thực Tràng An cũng đang hội tụ tinh hoa từ ẩm thực Châu Âu, Châu Mỹ, đến
ẩm thực Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc… làm cho văn hóa ẩm thực
Thủ đô thêm đa dạng, phong phú. Bên cạnh những quán bán bánh mỳ pate và
các quán café giải khát, trên đường phố Hà Nội mọc lên nhiều quán KFC bán
đùi gà rán ăn với khoai tây chiên giòn, uống với nước lạnh Coca cola; vài năm
nay xuất hiện rất nhiều quán bán Pizza trên mọi con phố và ngõ ngách Hà
Thành, món Hambuger cũng đã trở nên quen thuộc với thanh niên Hà Nội.
Chúng ta cũng bắt gặp nhiều cửa hàng bán những món ăn Nhật Bản và Hàn
Quốc như: kim chi, Teobukki, SeesonBBQ…đã trở thành những món ăn hàng
ngày mà tầng lớp học sinh, sinh viên đều ưa thích. Rượu Sake, cá Ngừ đại
dương và thịt bò Úc đã được nhiều người Việt Nam biết đến và có những
nhóm người sử dụng thường xuyên, mặc dù giá thành khá cao so với thu nhập
người Việt Nam. Mặc dù những món ăn từ các quốc gia trên thế giới được du
nhập vào Tràng An làm cho phố ẩm thực ở nơi đây thêm đa dạng, nhưng các
lữ khách phương Nam khi đến Hà Nội không mấy ai quan tâm đến những
dòng ẩm thực hiện đại đó, mà tuyệt đại bộ phận lữ khách đều hướng tới và đi
tìm kiếm những món ăn ẩm thực truyền thống quê nhà, những món ăn dân dã
mà hấp dẫn biết bao thế hệ.
Người phương Nam ra đất Bắc để được đến thăm đất tổ, được viếng Bác
90
Hồ, được thăm chiến trường Điện Biên Phủ, được thăm Thăng Long – Đông
Đô, Hà Nội… Trong quá trình thực hiện những chuyến du lịch đó, họ cũng
muốn được thưởng thức những món ăn xứ Bắc và đặc biệt là thưởng thức ẩm
thực Tràng An. Các đoàn khách phương Nam ra Bắc, dù có nhiều người ở các
địa phương khác nhau, nhưng họ đều cảm nhận được các món ăn trong văn
hóa ẩm thực Tràng An rất gần gũi với thiên nhiên Việt Nam, rất gần gũi với
con người Việt Nam. Các món ăn, đồ uống đều ngon lành, bổ dưỡng và tiện
lợi trong quá trình tiếp nhận, chế biến và sử dụng. Người Tràng An thân thiện
và mến khách, nhiệt tình hướng dẫn và trao đổi tỉ mỉ về cách thức pha chế,
nấu nướng và thưởng thức. Có nhiều món ăn vẫn giữ được hương vị truyền
thống từ xa xưa truyền lại, trong đó có sự sáng tạo của nhiều thế hệ làm cho
món ăn ngon hơn, đẹp hơn và phù hợp hơn. Ẩm thực Tràng An chứa đựng và
lưu giữ nhiều nét tinh hoa, tinh tế có thể so sánh với ẩm thực Trung Hoa, ẩm
thực Nhật Bản, nó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam, khẳng định vị
thế một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước, góp phần thu hút
hàng chục triệu khách du lịch quốc tế và nhiều chục triệu khách du lịch nội
địa đến với Thủ đô Hà Nội. Cùng với ẩm thực cả nước, văn hóa ẩm thực
Tràng An đã góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người vươn ra thế
giới, làm cho nhân dân thế giới càng hiểu Việt Nam, yêu mến Việt Nam và
mong muốn đến thăm Việt Nam nhiều hơn.
Người Hà Nội thường quan tâm đến cách sắp xếp mâm cơm sao cho đẹp,
trình bày món ăn làm sao kết hợp được màu sắc, mùi vị và hình tượng.
Thưởng thức món ăn ngon là sự tổng hoà cảm nhận của các giác quan: Thị
giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác. Người Hà Nội không chỉ quan
tâm đến vấn đề ăn uống cái gì, mà còn quan tâm đến cách ăn uống như thế
nào, ở đâu, với ai, lúc nào... Trong ăn uống, có tương khắc và tương hoà:
“Thịt gà kinh giới, ba ba rau dền”.
Chính phong cách ẩm thực của người Hà Nội đã nâng văn hoá ẩm thực
91
Hà Nội lên tầm cao hơn: Đã thành phong tục đẹp của cả dân tộc, đó là “lời
mời”. Đến bữa ăn, ai đang bận hoặc đang dở tay thì phải có người ra mời.
Không thể nói: Bố vào ăn cơm, mà phải nói: Mời bố vào xơi cơm ạ! Khi cả
nhà đã ngồi vào mâm đông đủ, con cháu lần lượt mời từ trên xuống, mời từng
người một, rồi mới được nâng bát, không thể cứ lặng lẽ cúi đầu lùi lũi gắp ăn,
như thế được gọi là “vục mặt xuống mà ăn”. Lời mời không được nói sõng,
phải có chữ “ạ!” sau cùng. Lời mời thể hiện thái độ kính trọng người trên,
thương yêu người dưới, lễ phép, văn minh, lịch sự. Trên mâm có món ngon,
bao giờ bố mẹ cũng gắp nhường ông bà, thông thường ông bà gắp trả lại cho
cháu (người được ưu tiên nhất nhà). Có khi em bé không thích, gắp trả vào
bát của mẹ, người mẹ lại nhường cho bố. Thật hạnh phúc khi có không khí gia
đình thương yêu, nhường nhịn nhau. Khi gắp, trước hết phải gắp vào bát của
mình rồi mới đưa lên miệng, chấm thức ăn phải hứng bát, không rê miếng
thức ăn đã chấm. Ngồi ăn cơm không được nhai tóp tép, nhồm nhoàm, húp
xuỵt xoạt, gõ bát đũa ầm ĩ. Ăn uống phải nhìn nhau mà ăn, vào mâm nên ngồi
vào góc nào cho phải đạo. Khi chan canh, phải bỏ đũa xuống mới cầm thìa,
không được một tay vừa cầm đũa, vừa cầm thìa, khiến đôi đũa khua vòng tròn
trên mâm. Không được dùng thìa chan canh để húp nước canh mà phải múc
nước canh vào bát của mình. Bà hoặc mẹ, cô con gái lớn, chị con dâu bao giờ
cũng ngồi đầu nồi để xới cơm cho cả nhà. Người đầu nồi phải ăn thong thả, ý
tứ quan sát cả nhà, ai sắp ăn hết bát cơm thì dừng tay và xới cơm, không để ai
phải chờ. Chủ nhà mời khách mà rời mâm đứng dậy quá sớm khi mọi người
đang ăn là điều cấm kỵ vì như thế là không tôn trọng khách.
Văn hoá ẩm thực Hà Nội mang đậm tính lịch sử nên việc kế thừa và
nâng cao truyền thống này trong đời sống là rất cần thiết. Văn hoá ẩm thực
luôn biến đổi, có tiếp thu, kế thừa, có đổi mới, phát triển. Những nét đẹp, tinh
tế trong văn hoá ẩm thực của người Hà Nội vẫn cần được gìn giữ và lưu
truyền cho con cháu muôn đời sau. Có thể thấy di sản văn hoá ẩm thực của
92
Hà Nội đã được khoác thêm một lớp áo truyền thống hấp dẫn khách du lịch,
sự tinh tế, cầu kỳ trong cách chế biến, thưởng thức đã được tạo dựng khéo léo
và gán cho nó một ý nghĩa mới về văn hoá ẩm thực Hà Thành.
3.1.2.1. Sự đổi mới, tái hiện không gian văn hoá ẩm thực thông qua
hoạt động du lịch lữ hành
Theo Bobby Chinn, Đại sứ Du lịch Việt Nam tại châu Âu thì "ẩm thực là
cách quảng bá nhanh nhất hình ảnh một đất nước và một nền văn hóa". Hà
Nội là điểm đến hấp dẫn không chỉ của hàng triệu lượt khách du lịch nước
ngoài mà còn là nơi dừng chân của rất nhiều chính khách quốc tế lớn. Trong
các chuyến thăm ngoại giao cấp cao tới Thủ đô, nhiều chính khách đã rất ấn
tượng trước sự độc đáo, hấp dẫn của ẩm thực Hà Nội.
Năm 2000, trong chuyến thăm Hà Nội, gia đình Tổng thống Mỹ Bill
Clinton đã đến ăn phở tại hàng phở Cồ nổi tiếng gần Văn Miếu - Quốc Tử
Giám. Nhờ đó, quán ăn đã trở nên nổi tiếng với tên gọi Phở 2.000.
Tiêu biểu cho đổi mới, tái hiện lại không gian văn hoá ẩm thực thông
qua hoạt động du lịch lữ hành, phải nói đến sự thay đổi của quán Bún chả
Hương Liên. Năm 2016, cựu tổng thống Mỹ Barack Obama có chuyến công
du tới Việt Nam trong sự chào đón của người dân Việt. Trong chuyến ghé
thăm, ông Obama đã có dịp thưởng thức món ăn dân dã Việt Nam cùng cố
đầu bếp nổi tiếng Anthony Bourdain tại quán bún chả Hương Liên, nằm trên
đường Lê Văn Hưu (Hà Nội). Sau 3 năm kể từ bữa tối của chính trị gia Mỹ
quyền lực, quán ăn này hiện nổi tiếng và được nhiều du khách nước ngoài biết
đến.
Qua phỏng vấn một nhóm du khách đến từ Hàn Quốc cho biết đây lần
đầu họ thưởng thức bún chả. "Chúng tôi tìm kiếm các địa điểm bán bún chả
trên mạng và thấy quán bún Hương Liên khá nổi tiếng ở Việt Nam nên đã đến
thử. Hình thức ăn món này khá thú vị, với hương vị khá giống mì lạnh Hàn
93
Quốc", một thành viên trong nhóm chia sẻ.
Kể từ khi ông Obama đến thưởng thức ẩm thực tại quán, điều thay đổi
đầu tiên là không gian của quán, bên trong, chủ quán đã cho in một loạt ảnh
đời thường cũng như những phát biểu của ông Obama khi ăn bún chả tại Hà
Nội, treo khắp tầng 1 và tầng 2 của quán. Khách hàng ăn xong ai cũng phải
chụp lại bàn ăn với tấm ảnh trên tường đầy thích thú. Có điều thú vị nữa là
người ta tới đây ăn bún chả cũng phải giống phong cách Obama, với một chai
bia Hà Nội, uống cả chai, không cần rót ra cốc, khác hẳn so với những gì
thường thấy.
Để níu giữ thực khách, hâm nóng lại chuyện Tổng thống Obama đã từng
đến đây ăn bún chả, quán ăn này đã nghĩ ra khá nhiều cách để gợi nhắc khách
hàng. Trên tường quán treo đầy những menu mới có thêm "combo bún chả
Obama", màn hình ti vi liên tục chạy bức ảnh tổng thống Mỹ chụp ảnh cùng
chủ quán và ảnh ông Obama ngồi ăn bún tại đây được căng lên khắp nơi...
Tất cả các bảng hiệu, ảnh treo tại đây, ngoài tiếng Việt còn có phụ đề
tiếng Anh nhằm phục vụ thực khách nước ngoài. Các bức ảnh ông Obama đều
được phóng thành cỡ lớn, treo khắp tầng 2. Bây giờ đến quán bún này dùng
bữa, thực khách đã có thêm rất nhiều bối cảnh để check-in. Không gian quán,
chỗ nào cũng gợi nhắc đến kỉ niệm ông Obama đến thăm Việt Nam.
Điều khiến thực khách tỏ ra thích thú nhất chính là sau nhiều lời đồn
thổi, cuối cùng quán bún này cũng bày bán "combo Obama". Một suất ăn như
vậy gồm bún chả, 2 miếng nem hải sản và 1 chai bia Hà Nội, giá bán là
85.000 đồng. Đa số khách hàng đều gọi một "combo Obama" là chủ quán và
nhân viên tự hiểu. Tuy nhiên, nếu ai không muốn uống bia hoặc ăn thêm nem
hải sản, có thể sửa thành "combo Obama không bia" hoặc "combo Obama
thêm nem cua". Những tiếng Obama ở đây, vì thế vang lên liên tục.
Ý tưởng suất ăn “combo Obama” được Bà Nguyễn Thị Hằng Nga cho
biết, ý tưởng này là do con gái bà nghĩ ra. Theo lời chị Dương, con gái bà
94
Nga, lý do chị nghĩ ra việc bán bún chả theo combo Obama là vì dù không đề
tên nhưng rất nhiều khách vốn đã quen gọi như vậy. "Vì thế, để tiện cho thực
khách và công bố giá cả rõ ràng, mình mới nghĩ ra cách làm bảng menu mới,
có ghi sẵn giá, thành phần "combo Obama" có những gì và dịch sang tiếng
Anh, phục vụ khách trong và ngoài nước tốt hơn".
Có thể thấy sau khi ông Obama đến, quán bún chả Hương Liên đã thay
đổi từ không gian, đến phong cách phục vụ, kiến tạo thêm văn hoá phục vụ,
cách thưởng thức so với trước khi ông Obama đến. Các công ty du lịch lữ
hành nắm bắt rất nhanh thị hiếu của khách du lịch, tổ chức quảng bá, giới
thiệu cho khách du lịch thưởng thức món bún chả Obama khi đến với Hà Nội,
tạo thành một sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
3.2. Đồ lưu niệm trong hoạt động du lịch lữ hành
Trong chuyến đi và sau mỗi chuyến đi du lịch, thì đồ lưu niệm trở
thành mối quan tâm hàng đầu của khách du lịch. Thông qua đồ lưu niệm
khách du lịch muốn lưu giữ lại những ấn tượng và hình ảnh tốt đẹp về chuyến
du lịch. Đây có thể xem như một phần không thể thiếu trong mỗi chuyến đi.
Từ đây, có thể lan toả ảnh hưởng, chia sẻ cảm xúc về đất nước, con người, về
những điểm đến và ý nghĩa của nó đối với chuyến du lịch.
Do tính chất của đồ lưu niệm như vậy, cho nên trong hoạt động du lịch
lữ hành đã hình thành nên một thị trường đồ lưu niệm hết sức sinh động,
phong phú, phản ánh không chỉ nhu cầu của khách du lịch mà còn kích thích
sức lao động nghệ thuật, sáng tạo của các nghệ nhân và thợ thủ công.
3.2.1. Sự phát triển của thị trường đồ lưu niệm trong hoạt động du
lịch lữ hành
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là kinh đô hội tụ và toả sáng tinh hoa
từ mọi miền đất nước đến tất cả những đô thị, làng quê trên dải đất hình chữ S
bên bờ Thái Bình Dương. Đất nước Việt Nam ta có sự phát triển vượt bậc về
mọi mặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người dân Thủ đô vinh dự được đón tiếp
ngày càng nhiều các đoàn khách du lịch nội địa và quốc tế đến tham quan Hà
95
Nội. Ngoài những nhu cầu thiết yếu của hàng chục triệu khách du lịch trong
một năm về ăn, mặc, ngủ nghỉ và đi lại tham quan các danh thắng, di tích lịch
sử nổi tiếng của Hà Nội thì nhu cầu về mua sắm đồ lưu niệm từ Thủ đô và của
Thủ đô Hà Nội của các đoàn khách du lịch nội địa và quốc tế cũng rất lớn.
Tâm lý các vị khách lữ hành khi đi tham quan, du lịch ở các nước nói chung,
trong đó có Hà Nội, Việt Nam, đều muốn có vật gì đó làm kỷ niệm, để họ nhớ
lại, hồi tưởng lại những vùng đất mà họ đã đi qua.
Có thể nói rằng: đồ lưu niệm là vật lưu giữ những ký ức, những kỷ
niệm của lữ khách với cư dân và vùng đất mà họ đã đến thăm, đồ lưu niệm là
một phần của chuyến đi du lịch của các lữ khách phương xa.
Đồ lưu niệm xuất hiện từ khi nào? Và hình thức trao đổi ra sao từ xưa
đến nay? Đó là điều lý thú nhưng chưa có thông tin cụ thể. Qua sử sách, ta có
thể biết rằng: khi các sứ thần và đoàn tuỳ tùng các nước sang nước ta bang
giao thường được nhà vua ban cho vải, lụa, vàng bạc… đến thế kỷ XVII-
XVIII khi các đoàn thuyền buôn nước ngoài đến nước ta thì việc mua bán
hàng hoá, làm thổ sơn là chủ yếu, còn việc các đoàn khách du lịch có nhu cầu
tìm kiếm, mua đồ lưu niệm cũng có thể được xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ
XX, khi đó cũng chỉ là quá trình mua bán, trao đổi lẻ tẻ mang tính cá nhân, tự
phát chưa tạo thành một thị trường đồ lưu niệm ở Thủ đô. Khi đất nước trải
qua 2 cuộc chiến tranh giữ nước thì việc đón khách du lịch dường như không
thể (trừ một số đoàn khách ngoại giao). Chỉ từ khi đất nước được đổi mới, du
lịch phát triển trở thành ngành công nghiệp không khói và một khía cạnh của
công nghiệp văn hoá thì thị trường đồ lưu niệm mới được phát triển, từ đó khách
du lịch nội địa và quốc tế đến thăm Hà Nội nhiều hơn và mỗi cá nhân, mỗi gia
đình cũng dần dần làm quen hoà nhập với kinh tế thị trường, với quá trình hội
nhập quốc tế và họ đã tìm tòi, sáng tạo, thiết lập nên một thị trường đồ lưu niệm
Thủ đô. Việc tìm hiểu, nghiên cứu thị trường đồ lưu niệm Thủ đô một cách toàn
diện và khoa học sẽ góp phần cải thiện đời sống cho một bộ phận nhân dân,
đồng thời góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đẹp đẽ, thân thiện của đất
96
nước Việt Nam, con người Việt Nam với bạn bè khắp năm châu.
Khách du lịch quốc tế đến thăm Hà Nội với nhiều mục đích khác nhau
như: nghỉ dưỡng, khám phá, trải nghiệm, hội thảo… nhưng dù ở lứa tuổi nào
hay đang làm việc gì thì họ cũng đều muốn tìm kiếm, lựa chọn mua một vài
đồ lưu niệm ở Việt Nam để ghi nhớ chuyến đi đến một quốc gia ở vùng Đông
Nam Á nhiệt đới gió mùa, với những truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời.
Trên thị trường đồ lưu niệm Hà Nội du khách đều ca ngợi vẻ đẹp của
những hiện vật được trưng bày. Tuỳ theo chất liệu và tính chất của mỗi loại
hiện vật mà nghệ nhân thể hiện theo những cách khác nhau. Với những hiện
vật mô tả hình con người, nghệ nhân tập trung thể hiện sự cân đối và thần thái
của vẻ mặt là chủ yếu: từ chất liệu gỗ, đá hoặc đồng, các nghệ nhân đã tạo tác
hình cô gái với thân hình thon thả, cân đối, bước đi uyển chuyển trong trang
phục thướt tha, ở trên bất cứ chất liệu nào, hình ảnh thiếu nữ Việt Nam cũng
được thể hiện những nét đặc trưng tiêu biểu: mặt trái xoan, tóc dài đen, mắt
đen, cặp môi cắn chỉ mầu hồng tươi tắn.
Những mô hình cột cờ Hà Nội, Ô Quan Chưởng… được chạm khắc rất
tinh tế, tỉ mỉ, cân đối, có thể hơi cách điệu nhưng bao giờ cũng được phủ bằng
lớp rêu phong cổ kính là “màu thời gian” làm cho những kiến trúc cổ có hồn
và có tuổi nhiều năm. Mô hình tượng đầu rồng, đầu phượng bằng đất nung
hoặc bằng gỗ chế tạo theo mô típ của rồng phượng thời Lý, Trần ở Hoàng
thành Thăng Long là loại hình đồ lưu niệm được nhiều du khách tìm mua, sự
tinh tế của hiện vật này là ở những hoạ tiết hoa văn hình chữ S cũng những
biến ảo của nó để tạo ra một con vật tưởng tượng nhưng mang theo dấu ấn
của vũ trụ, của mây mưa, sấm chớp và tượng trưng cho quyền lực của vua,
chúa, giữa truyền thống rồng bay lên và hình ảnh thực tế như được hoà quyện
vào nhau và du khách rất thích thú bởi sự ly kỳ, tinh tế đó.
Vẻ đẹp thẩm mỹ của nhóm hiện vật thứ hai là vẻ đẹp mộc mạc thuần
chất, giản dị của người lao động quê mùa; hình tượng chí phèo, thị nở cũng
như chú Tễu, mục đồng, lão nông câu cá… được nhiều du khách mua bởi vì ở
đây có sự gặp gỡ giữa văn chương, hội hoạ, thi ca Việt Nam với thị trường đồ
97
lưu niệm Thủ đô. Mặc dù mỗi tượng có một vẻ khác nhau nhưng nó đều toát
lên vẻ mặt hiền lành, ngộ nghĩnh, chất phác hồn nhiên của người dân quê lam
lũ một nắng hai sương trên đồng ruộng để kiếm ăn hằng ngày.
Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du cũng được các nghệ nhân tìm
hiểu, khai thác, thể hiện qua hình ảnh này Kiều chơi đàn tỳ bà với kiểu tóc
chải ngôi giữa, bỏ xoã về phía sau lưng với trang phục áo dài truyền thống và
đặc biệt là những ngón tay búp măng thon thả tuyệt vời đang nhấn nhá, lướt
trên phím đàn tưởng chừng như có những âm thanh trầm bổng vang lên
thương cảm cho thân phận nàng Kiều tài sắc vẹn toàn mà phải trải qua cuộc
đời đầy sóng gió. Dáng ngồi trầm mặc, vẻ mặt u sầu, mái tóc bung xoã… đã
lột tả được tâm trạng Thuý Kiều, người con gái tài sắc ở thế kỷ XVIII bị vùi
dập bởi chế độ phong kiến đương thời.
Đa số khách du lịch Châu Âu khi đến Thủ đô đều mang theo trong suy
nghĩ về vẻ đẹp cổ điển theo phong cách Hy – La, nhấn mạnh đến sự cân đối
theo tỷ lệ này, tập trung thể hiện sức mạnh của chàng lực sĩ…nhưng khi đến
Việt Nam họ đã ngỡ ngàng và đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi
gặp hình tượng chú Tễu, Chí Phèo, Thị Nở…. bởi vì cái đẹp ở đây đã vượt
qua sự cứng nhắc, máy móc mà nó hướng tới thể hiện sự sống động của nhân
vật, trong cái tưởng như lệch lạc, không cân đối đó hàm chứa một sự vận
động, luôn luôn biến đổi về màu sắc, về hình khối của nhân vật để phản ánh
đúng bản chất của nhân vật, cái đích mà nghệ thuật tạo hình hướng tới.
Trên thị trường đồ lưu niệm Thủ đô còn có một số gallery nghệ thuật
chủ các phòng tranh này là những người yêu nghệ thuật hội hoạ, có khướu
thẩm mỹ, trong đó cũng có một số người là hoạ sĩ hoặc nhà điêu khắc chuyên
nghiệp. Tranh được treo bán ở các phòng tranh này chủ yếu là chất liệu các
loại tranh lụa, tranh sơn mài, sơn dầu với kích thước nhỏ và trung bình, đề tài
của tranh chủ yếu là tranh phong cảnh (Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, chợ Đồng
Xuân, chùa Trấn Quốc…) tranh cô gái Hà Thành ở các không gian khác nhau
(bên bông hoa dơn, bên giếng nước, đang gội đầu, đang dùng gáo dừa múc
nước rửa chân, đang gánh hoa ra chợ…) cảnh sinh hoạt của người dân Thăng
Long – Kẻ chợ trong ngày Tết đầu năm trong lễ hội làng, trong đám cưới.
98
Khá nhiều nhà sưu tầm và người yêu hội hoạ phương Đông đã không ngần ngại
bỏ hàng nghìn USD để được sở hữu tranh của hoạ sĩ Việt Nam, thị trường tranh
ở các gallery nghệ thuật trên phố Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Đường, Nguyễn
Thái Học có những tác phẩm được sáng tác từ các hoạ sĩ trẻ, nhưng nhiều hơn
nữa là những tác phẩm hội hoạ được sao chép từ các tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân
Phái, Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Mai Long, Trọng Kiệm, Trần Đình Cẩn,
nhiều lữ khách thích tìm mua tranh phố cổ của Bùi Xuân Phái.
Qua cuộc phỏng vấn ông M.Adam và bà H.Magarita người Phần Lan
và người Ba Lan chúng tôi được biết người phương Tây yêu thích dòng tranh
này vì họ cảm nhận được cái khiếu thẩm mỹ cũng như bút pháp của hoạ sĩ rất
tinh tế. Mái ngói rêu phong cổ kính, trầm mặc mang theo màu thời gian mang
theo tâm trạng của biết bao thế hệ người dân Hà Thành với vùng đất linh
thiêng và hào hoa này, có cái gì tự hào xen lẫn nuối tiếc.
Trải qua trên 30 năm đổi mới, thị trường đồ lưu niệm Thủ đô từng bước
được hình thành và phát triển. Mạng lưới các cửa hàng đồ lưu niệm đã được
kết nối với nhau và với các đơn vị lữ hành thông qua mối quan hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp bằng điện thoại hoặc các mạng xã hội. Những thông tin cần thiết
đã được các công ty lữ hành và các HDV du lịch thông báo thường xuyên cho
các chủ cửa hàng về thời gian, số lượng, nhu cầu, thị hiếu, khả năng tài chính…
của các đoàn lữ khách sắp tới Hà Nội để chuẩn bị hàng lưu niệm cho phù hợp.
Chủ các cửa hàng bổ sung thêm hàng hoá, sắp xếp lại đồ lưu niệm sao cho gọn
gàng, sạch sẽ, dễ tìm, dễ xem, dễ lựa chọn. Hàng hoá được niêm yết giá cả rõ
ràng, có chú thích bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga… không có hiện tượng
bán đồ lưu niệm dong trên phố, chèo kéo, đeo bám khách du lịch. Tuyệt đối
không có hiện tượng lừa bịp khách trên các tuyến, điểm du lịch, khách từ các
nước đến đều an tâm xem xét, lựa chọn thoải mái.
Đồ lưu niệm được chế tạo tương đối đa dạng, phong phú, có kích thước
nhỏ vừa phải, có trọng lượng khoảng 300-500g, cũng có thể lên tới 1kg.
Không có những món hàng quá to, quá nặng nên khi du khách mua hàng đều
được chủ cửa hàng bao gói cẩn thận để khách hàng mang về cho vào valy, túi
xách một các dễ dàng, không ảnh hưởng nhiều lắm đến số kilogam hành lý
99
được mang theo khi qua cửa khẩu.
Cách phục vụ của các chủ cửa hàng cũng văn minh, thân thiện, hiện
đại. Đa số các cửa hành đều bố trí cho khách tự lựa chọn, tự do thử các hiện
vật như dây chuyền, vòng tay, dây lưng, đồng hồ đeo tay, mũ nón… và sẵn
sàng giải thích, trao đổi với khách, kể cả một vài trường hợp khi khách du lịch
đã mua từ vài ngày trước nhưng muốn đổi mặt hàng khác cũng được đáp ứng
dễ dàng. Điều đó thể hiện tính chuyên nghiệp, sự trung thực của cửa hàng
cũng như khẳng định chất lượng của đồ lưu niệm được trao đổi.
Nhờ phong cách phục vụ văn minh của người Tràng An nghìn năm văn
hiến, nhờ sự bồi dưỡng, trao đổi của cán bộ văn hoá các phường mà uy tín của
thị trường đồ lưu niệm Thủ đô đã không ngừng được tăng lên, có nhiều khách
quốc tế đã viết cảm tưởng ca ngợi cách phục vụ của hệ thống bán đồ lưu niệm
ở Thủ đô. Giá các mặt hàng tương đối thống nhất, nếu có chênh lệch thì cũng
không đáng kể nên khi lữ khách mua hàng xong họ đều vui vẻ và không có
trường hợp nào quay lại khiếu nại, đòi hạ giá. Đôi khi có những vị khách đến
mua hàng để quên ví tiền có giá trị lớn, để quên điện thoại… đều được các
chủ cửa hàng trả lại mà không cần bất cứ điều kiện gì.
Thị trường đồ lưu niệm Thủ đô có một tiềm năng phát triển mạnh mẽ vì
Hà Nội có trên 2500 di tích lịch sử danh lam thắng cảnh phân bổ rải rác ở
khắp các quận, huyện, thị xã. Mạng lưới các tuyến, điểm du lịch dày đặc là cơ
sở để phát triển thị trường đồ lưu niệm.
Khu phố cổ Hà Nội là nơi khách du lịch trong nước và quốc tế thích
đến thăm quan vì ở đây lắng đọng hồn sông núi hàng nghìn năm lịch sử, ở nơi
đây còn lưu giữ những loại hình kiến trúc mang phong cách trung cổ từ thế kỷ
XIX – XX, và nơi đây cũng là một trung tâm kinh tế của vùng đồng bằng Bắc
Bộ và của cả nước, nơi có quan hệ với nhiều làng nghề ở các tỉnh lân cận như
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Nam Định…để tập
hợp, thu hút được nhiều mặt hàng có giá trị, đáp ứng được nhu cầu của khách
du lịch đến từ muôn phương. Du khách nước ngoài đặc biệt hứng thú khi đến
thăm phố cổ Hà Nội, vì họ được cảm nhận cách thức tổ chức cuộc sống, sinh
100
hoạt truyền thống của người dân thủ đô từ hàng trăm năm trước trong những
căn nhà nho nhỏ, có mái ngói lô xô, hội tụ 4 hoặc 5 thế hệ trong một gia đình
cùng chung sống. Trong 36 phố phường Hà Nội xưa, chúng ta dễ dàng nhận
thấy đồ lưu niệm được bán tập trung ở các tuyến phố: Hàng Bông, Hàng Gai,
Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Bè, Cầu Gỗ, Đinh
Tiên Hoàng, Đinh Liệt, Hồ Hoàn Kiếm, Lương Văn can…
Dân sống, buôn bán ở phố cổ Hà Nội, đa số là có nguồn gốc xuất thân
và có quan hệ với nghệ nhân ở làng nghề vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các tuyến
phố cổ chuyên buôn bán một số mặt hàng đặc trưng nhất định. Cư dân phố
Hàng Bạc chuyên bán mua đồ trang sức bằng vàng, bạc, rất nhiều chủ cửa
hàng nơi đây xuất thân từ làng nghề Định Công, hoặc Làng Đồng Sầm Thái
Bình, họ có nghề chế tác kim hoàn nên họ vừa sản xuất ra các sản phẩm hàng
hóa, vừa đặt hàng cho các nghệ nhân ở quê hương thực hiện khi có yêu cầu.
Thương hiệu đồ trang sức, đồ trang trí kim hoàn phố Hàng Bạc đã trở nên nổi
tiếng, thu hút khách du lịch từ trong Nam ra ngoài Bắc, trong đó có cả những
đoàn khách du lịch từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến xem và mua những lắc
bạc, vòng bạc, kiềng bạc…để sử dụng hoặc biếu tặng.
Trên một số tuyến phố Hàng Bông, Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Gai
bầy bán những đồ lưu niệm được sản xuất từ các loại vài, lụa, tơ tằm, tơ
chuối, tơ sen… rất tinh xảo; các đồ lưu niệm ở đây phổ biến là các loại quần
áo, khăn, mũ…được sản xuất thủ công, đơn chiếc theo mô típ truyền thống
nên du khách rất thích thú khi được mua sắm ở đây.
Chị Hoàng Thị Kim Ngân từ thành phố Đà Lạt chia sẻ: Trong Đà Lạt
cũng có những cửa hàng bán đồ lưu niệm, nhưng không tập trung thành phố
phường như ở Hà Nội và hàng hoá cũng không đa dạng như ở phố cổ Hà Nội.
Năm nào chị cũng có dịp ra thăm Thủ đô và chị không quên đến dạo thăm
phố cổ Hà Nội và mua một vài đồ lưu niệm cho mình hoặc cho người thân.
Thông qua đồ lưu niệm đó mà chị đã giới thiệu cho một số người quen về chất
liệu và sự độc đáo của sản phẩm lưu niệm Thủ đô và khá nhiều bạn bè của chị
101
đã thu xếp thời gian ra thăm phố cổ Hà Nội.
Ngoài hệ thống cửa hàng bán đồ lưu niệm ở phố cổ Hà Nội, còn có cửa
hàng, quầy bán đồ lưu niệm ở các điểm tham quan du lịch như ở khu di tích
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hoàng thành Thăng Long, Chùa Một Cột, ở Bảo
tàng lịch sử Quốc gia, Bảo tàng mỹ thuật Hà Nội, ở Chùa Trấn Quốc, khu di
tích Cổ Loa, làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, làng nghề gốm sứ Bát Tràng.
Những quầy bán đồ lưu niệm ở đây, tuy số lượng và quy mô có nhỏ so với ở
phố cổ Hà Nội nhưng đồ lưu niệm lại tập trung hơn vào một số loại chất liệu
hoặc hàng hoá đặc trưng. Đồ lưu niệm ở đây thường gắn với việc kể lại câu
chuyện liên quan đến tổ nghề, các nghệ nhân hoặc các vị thần linh, các nhân
vật được thờ phụng và đặc biệt khách du lịch khi đến thăm làng nghề làm đồ
lưu niệm có thể trải nghiệm để biết sâu hơn về quá trình tạo ra những sản
phẩm lưu niệm mà mình yêu thích.
Việc thiết kế các tour du lịch đến các nơi bán đồ lưu niệm và đến các
làng nghề góp phần làm cho chất lượng tour du lịch tăng lên tạo ra cảm hứng
và sự hiểu biết tường tận của khách du lịch, đồng thời doanh thu của làng
nghề và của người kinh doanh đồ lưu niệm cũng tăng lên.
Thị trường đồ lưu niệm Thủ đô hiện nay hình thành chủ yếu ở khả năng
chuẩn bị, tập trung hàng hóa, trưng bày, giới thiệu sản phẩm nội địa cho các
du khách quốc tế và các du khách trong nước. Chủ cửa hàng đồ lưu niệm hoạt
động chủ yếu là bán lẻ cho khách du lịch đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia
đình. Thị trường đồ lưu niệm Thủ đô còn hạn chế trong thị trường nội địa, chủ
yếu là chủ cửa hàng đồ lưu niệm trao đổi thông tin, hàng hoá với nhau và
nhập hàng từ nghệ nhân ở các làng nghề. Đồ lưu niệm hiện nay hầu hết là bán
ra cho khách du lịch đến Thủ đô mà gần như chưa có (hoặc rất ít) đồ lưu niệm
được mang đến Thủ đô theo chiều ngược lại, nghĩa là còn vắng thiếu bóng
dáng của đồ lưu niệm của cư dân ở các vùng khác, từ các nước khác cung cấp
cho thị trường này.
Trong vài năm gần đây, khi lãnh đạo Thủ đô cho phép mở vài tuyến
phố đi bộ quanh hồ Hoàn Kiếm, phố đi bộ Trịnh Công Sơn ở Tây Hồ, ở khu
102
vực công viên thống nhất thì cũng xuất hiện một số quầy buôn bán đồ lưu
niệm cho khách du lịch theo chu kỳ của phố đi bộ, số chủ quầy này thường là
người từ các quận, huyện của Hà Nội hoặc người ở các tỉnh lân cận dung ô tô
hoặc xe máy, bầy bán hàng hóa trên những bàn gỗ nhỏ để khách du lịch xem
và lựa chọn mua sắm mỗi khi có nhu cầu. Đây là lực lượng bán hàng theo thời
vụ, không thường xuyên liên tục hằng ngày, không có cửa hàng cố định để
chứa sản phẩm hàng hoá nên họ chỉ mang một số ít hàng nhất định đề vừa bán
vừa thăm dò thị trường.
Anh Nguyễn Vũ Tiến bán hàng lưu niệm trên phố Hàng Dầu chia sẻ:
Hằng ngày anh tiếp rất nhiều đoàn khách du lịch quốc tế và trong nước ghé
cửa hàng mua đồ lưu niệm. Cửa hàng trưng bày rất nhiều sản phẩm đồ lưu
niệm từ nón, trống đồng, quạt, mâm gỗ cổ, thiệp 3D, túi xách bằng mây tre
đan, chuồn chuồn tre, các loại túi dệt thổ cẩm. Theo anh Tiến nhu cầu và thị
hiếu của mồi người khách đến rất khác nhau, dựa theo văn hoá, phong tục mà
khách du lịch lựa chọn các sản phẩm khác nhau. Anh Nguyễn Tiến Thành,
đến từ Lâm Đồng cho biết: tôi đi rất nhiều cửa hàng đồ lưu niệm nhưng cửa
hàng này có nhiều món đồ cũ, ẩn chứa văn hoá nông nghiệp xưa kia, tôi tìm
mua về trưng bày, lưu giữ và làm kỷ niệm, tôi rất thích mâm gỗ, cối gỗ và các
bức phù điêu bằng gỗ, thể hiện văn hoá truyền thống làng quê Bắc Bộ.
Qua phỏng vấn một vị khách đến từ Ấn Độ, cho biết họ rất ấn tượng
với hình ảnh chiếc nón lá của Việt Nam; họ đã mua mỗi thành viên trong
đoàn một chiếc nón để làm kỷ niệm. Anh Tiến cho biết tất cả các khách du
lịch đến cửa hàng đều lựa chọn cho mình những chiếc nón để làm kỷ niệm, từ
nón bằng lá được làm bởi nghệ nhân ở làng Chuông (Thanh Oai) đến các tấm
lụa (Vạn Phúc) hay những chiếc nón bằng gốm (Bát Tràng)… đều được du
khách lựa chọn. Đôi khi có những vị khách hỏi mua các sản phẩm lưu niệm
mà ở cửa hàng không có sẵn, anh Tiến phải tìm về các làng nghề truyền thống
để đặt hàng theo yêu cầu của khách du lịch.
Thông qua hoạt động du lịch lữ hành, khi có khách du lịch đến đã tác
động đến những người chủ bán hàng, lẫn người thợ thủ công truyền thống,
thôi thúc họ sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm lại để tạo thành một sản phẩm văn hoá,
103
phục vụ khách du lịch. Chính những người bán hàng và thợ thủ công trong
quá trình đó đã kiến tạo ra nhiều nghĩa khác nhau để phù hợp với thị hiếu, sở
thích và văn hoá của từng khách du lịch.
3.2.2. Bản sắc văn hoá của đồ lưu niệm
Cũng như tất cả các thị trường hàng hoá khác, thị trường đồ lưu niệm
cũng được tạo lập bởi người bán và người mua đồ lưu niệm là chủ yếu, ngoài
ra còn có người chế tạo, sản xuất và người cung cấp những đồ lưu niệm cho
các chủ cửa hàng, chúng ta dễ nhận ra rằng: kinh doanh đồ lưu niệm là những
sản phẩm đặc biệt liên quan đến những giá trị văn hoá, lịch sử và nghệ thuật.
Đồ lưu niệm được bán cho khách du lịch là chủ yếu và những vị khách đó
mang đồ lưu niệm về gia đình mình ở những phương trời khác nhau trên khắp
các châu lục. Mối quan hệ giữa người bán và người mua đồ lưu niệm là quan
hệ đặc biệt: đó là người đại diện cho văn hoá Thăng Long – Hà Nội gửi đến lữ
khách ở các quốc gia khác nhau hoặc ở các địa phương khác nhau, cho nên luôn
thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng và sự lịch thiệp. Mặc dù có thể chỉ gặp nhau một
lần trong đời nhưng kỷ vật từ Thủ đô và kỷ niệm từ những chuyến đi du lịch thì
còn mãi mãi trong tâm trí khách lữ hành không bao giờ phai nhạt.
Ở các cửa hàng bán đồ lưu niệm trưng bày rất nhiều loại hàng hoá khác
nhau từ các loại chất liệu gỗ, đá, đồng sắt, thuỷ tinh, vải lụa, đất nung… với
những chủ đề và loại hình khác nhau như: vòng tay, vòng cổ, hạt chuỗi, cặp tóc,
đồng hồ, tượng phật, tượng thánh, tượng Trần Hưng Đạo, hình cô gái dân tộc với
trang phục khác nhau, các loại quần áo thể thao, nón lá, sáo trúc, đàn các loại
dạng mô hình thu nhỏ hàng chục lần, tượng voi, ngựa, trâu, bò, gà… Nhìn chung
là rất nhiều, rất đa dạng, đồ lưu niệm được bày trong tủ kính hoặc trên kệ gỗ
ngay ngắn và theo từng chủ đề cho khách đến mua hàng lưu niệm để theo dõi.
Tiểu thương buôn bán đồ lưu niệm Thủ đô đa số là người Hà Nội và
người ở phố cổ Hà Thành nhiều đời nên họ có cách giao tiếp rất nhẹ nhàng,
lịch sự. Họ thường cười, chào hỏi khách từ nước nào thông qua trang phục,
cách giao tiếp của họ và đặc điểm nhân chủng đặc trưng (mầu da, mầu tóc,
ánh mắt, giọng nói). Có những chủ cửa hàng bán đồ lưu niệm đã lớn tuổi, có
thể họ biết một chút tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung để giao dịch mua bán
104
với khách hàng, hoặc có người không thạo tiếng thì có con cháu giúp cho làm
phiên dịch. Trong số những cửa hàng bán đồ lưu niệm ở phố Hàng Gai, chúng
tôi có gặp chị Đặng Thị Thanh Trà (42 tuổi) rất giỏi tiếng Anh, sau đó chị cho
biết là chị tốt nghiệp đại học Ngoại thương, đang làm việc cho một công ty
nước ngoài, nhưng ngày nghỉ ra cửa hàng giúp cha mẹ, cũng có một số trường
hợp các chị học đại học ngoại ngữ nhưng không tìm được việc làm phù hợp
nên đã thuê cửa hàng để bán đồ lưu niệm cho khách du lịch trên phố cổ.
Đa số các chủ cửa hàng ở đây cũng phải đi học ngoại ngữ ở các trung
tâm đào tạo ngoại ngữ trong thành phố và họ có môi trường giao tiếp với
người nước ngoài nên khả năng giao tiếp phát triển nhanh và khá tốt. Qua
tham quan khảo sát rất nhiều ngày ở đây, chúng tôi nhận thấy trình độ ngoại
ngữ ở cửa hàng này không đòi hỏi cao lắm, chủ yếu của người bán hàng là
biết chào hỏi, biết giới thiệu tên của những sản phẩm lưu niệm và biết các từ
về chất liệu, mầu sắc, công dụng… của những hiện vật được bày trong cửa
hàng. Cái khó của cuộc hội thoại là nghe để hiểu xem du khách nói gì để mình
đáp ứng hoặc là mô tả những câu chuyện lịch sử xung quanh tượng Hai Bà
Trưng, tượng Trần Hưng Đạo hoặc là giải thích ý nghĩa của hiện tượng thờ
voi, ngựa, rồng, phượng, chó đá… trong hệ thống tâm linh tín ngưỡng Việt
Nam. Đa số người bán hàng ở các cửa hàng có thể giao tiếp được bằng một
vài ngoại ngữ thông dụng như tiếng Anh, Pháp, Nga, tiếng Trung, Nhật Bản,
Hàn Quốc…còn các thứ tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ả Rập là những
ngôn ngữ còn ít người biết đến.
J. Paul là một du khách người Pháp, trong quá trình đi tour tham quan
Hà Nội ông đã mua một số đồ lưu niệm như: trống đồng Đông Sơn thu nhỏ
đúc bằng đồng, mô hình Chùa Một Cột, mô hình bia đá tiến sĩ trong Văn
Miếu – Quốc Tử Giám. Khi được NCS phỏng vấn, ông đã chia sẻ suy nghĩ
của mình, theo ông: những hiện vật là đồ lưu niệm này tuy nhỏ bé, nhưng nó
được chế tác hết sức tinh xảo và rất có hồn, qua những đồ lưu niệm này ông
đã hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, triết lý sống của người Việt Nam và đời
sống tinh thần, tâm linh của người Việt từ hàng nghìn năm trước. J. Paul là
105
một giáo viên đã nghỉ hưu ông đã tới Ấn Độ, Trung Hoa và nhiều quốc gia khác
nên ông có cảm nhận rất tinh tế và cảm phục mô hình Chùa Một Cột, vì theo ông
đó là sự sáng tạo của người Việt trên cơ sở thấm nhuần đạo Phật và ca ngợi sự
thanh cao, sâu sắc của người tu hành khi xây Chùa Một Cột như hình bông sen
vươn lên trên hồ nước có hàng nghìn bông hoa sen nở xung quanh.
J. Paul cũng rất tâm đắc và cảm phục mô hình bia đá khắc tên tiến sĩ, đặt
trên lưng rùa và để trong khu vực trung tâm của Văn Miếu – Quốc Tử Giám
thông qua sự thuyết minh của HDV du lịch ông đã hiểu được ý nghĩa thâm
sâu, cao quý của biểu tượng này. Qua mô hình rùa đá đội bia tiến sĩ đó, ông
biết được rằng từ trên 1000 năm trước vua chúa nước Đại Việt đã đề cao sự
học hành, trọng vọng kẻ sĩ và mong muốn cho đất nước phát triển, vương
triều trường tồn theo thời gian nhờ vào trí tuệ, đạo đức và nhân văn.
Cô E.iza là nữ sinh viên đại học tổng hợp Vasava, người Ba Lan, cô
muốn đến Việt Nam thăm Thủ đô Hà Nội để tìm hiểu thêm về văn hoá
Phương Đông theo chuyên ngành mà cô đang theo học. Cô đã đi tour một
vòng Hà Nội đến các Bảo tàng lịch sử, Bảo tàng mỹ thuật… cô đi xem múa
rối nước, đến thăm Đền Ngọc Sơn chiêm ngưỡng đài nghiên, tháp bút, và cô
cũng đã dạo quanh phố cổ Hà Nội mua một số hiện vật làm kỷ niệm. Khi
được trao đổi với NCS và HDV du lịch cô cảm thấy cô ấn tượng mạnh mẽ với
nghệ thuật trình diễn múa rối nước Việt Nam, cô đã mua tượng chú Tễu sơn
xanh, đỏ, tím, vàng. Cô nhận ra sự hồn nhiên, thông minh, hài hước của chú
Tễu qua nụ cười, ánh mắt và cấu tạo cơ thể nhấn mạnh vào cái bụng to, đóng
khố… Trên thực tế, cô E.iza cũng cảm nhận được sự gần gũi, thân thiện của
người Việt Nam hiện nay.
Ông A. Roberts đến từ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, sau khi đi nhiều nơi
đến thăm Hoàng thành Thăng Long, đến thăm di tích Nhà tù Hoả Lò, đi nhiều
vòng quanh gò Đống Đa chiêm ngưỡng tượng đài vua Quang Trung oai
phong lẫm liệt, ông có nhiều suy nghĩ về con người Việt Nam, đất nước Việt
106
Nam và lịch sử Việt Nam, đặc biệt là quá trình đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Khi gặp ông chúng tôi nhận thấy trên tay ông cầm
lá quốc kỳ cờ đỏ sao vàng, mặc dù lá cờ nhỏ bé cùng với cán cũng nhỏ bé
nhưng đã gây cho ông Roberts nhiều xúc động bởi vì khi cầm lá cờ này trên
tay và nhất là khi được hoà cùng nhịp sống của người Việt Nam ông mới nhận
thấy tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do, khát khao hoà bình của người Việt
Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Ông còn ví von, so sánh Quốc kỳ Việt Nam
chỉ có một ngôi sao, nhưng năng lượng và sự toả sáng của ngôi sao này hơn
hẳn năng lượng của nhiều ngôi sao trên Quốc kỳ các nước và lịch sử hàng
mấy nghìn năm của các bạn đã chứng minh điều đó.
Các đoàn khách đi thăm các quầy lưu niệm để xem những hiện vật
được bán ở đây như thế nào, cũng có một số thành viên mua một vài đồ lưu
niệm như: chiếc mặt nạ đồ chơi làm từ giấy bồi hoặc tre đan, chiếc quạt giấy,
quạt nan hay lá cờ Việt Nam. Dù khách mua hàng hay không mua hàng, mua
nhiều hay mua ít thì người bán hàng vẫn vui vẻ, niềm nở đón tiếp chào hỏi
lịch sử và chân thành. Vì hàng ngày phải giao tiếp với nhiều đoàn khách du
lịch từ các quốc gia khác nhau nên chủ cửa hàng và nhân viên bán hàng luôn
ý thức được vị trí của mình trong mối quan hệ với khách du lịch và họ có ý
thức trong việc sử dụng trang phục gì cho trang nhã, lịch sự (đa số các nữ
nhân viên đều mặc áo dài truyền thống khi đứng bán hàng). Người bán hàng
cũng tự thay đổi một số tập quán của tiểu thương khi phải giao tiếp với người
nước ngoài: quan niệm kiêng kỵ khi người đến đầu tiên chỉ hỏi giá mà không
mua hàng là “xúi quẩy” nên phải “đốt vía đốt vái” hoặc quan niệm chỉ thích
nam giới đến mở hàng để ngày đó sẽ mua may, bán đắt… cũng đã được bỏ
qua, không nặng nề như quan niệm xưa cũ.
Các cửa hàng đồ lưu niệm ở Thủ đô hiện nay được bố trí, sắp xếp theo
cách “Mở” nghĩa là hàng hoá được bầy trên kệ, trong tủ nhưng khách được tự
do đi lại xem, lựa chọn, thử tuỳ theo ý mình (trừ một số đồ lưu niệm quý, có
giá trị nhiều tiền thì được để trong tủ có khoá hoặc trong tủ kính cạnh người
bán hàng). Mặc dù trong cửa hàng có hàng nghìn hiện vật có giá trị, chất liệu,
107
kích thước khác nhau nhưng người bán cũng không bao giờ lo sợ vì bị nhầm
lẫn, mất mát hàng hoá, bởi vì khách du lịch nội địa cũng như quốc tế, đa số là
những người đàng hoàng, có văn hoá, có tiền và họ rất am tường luật pháp
nên chủ cửa hàng và khách hành luôn bình tĩnh, vui vẻ mua bán ngay cả trong
lúc khách hàng tập trung đông hàng chục người, ai chọn được vật gì ưng ý thì
đến quầy thu tiền để trả tiền như giá tiền đã được đính kèm trên mỗi hiện vật.
Trong một không gian chật hẹp, với lượng khách đông nhưng nhờ cách
mua bán trên thị trường đồ lưu niệm Thủ đô đã được tổ chức hiện đại, văn
minh nên du khách rất hài long vì họ được tin tưởng, được tôn trọng và họ có
thể tự do tìm kiếm, lựa chọn những cái gì họ mong muốn, cách ứng xử nhân
văn đó biểu hiện đúng câu ca dao:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
3.2.3. Phục hồi, tái tạo bản sắc dân tộc thông qua đồ lưu niệm
Khách du lịch đến thăm Thủ đô Hà Nội có nguồn gốc rất khác nhau, từ
các quốc gia có truyền thống văn hoá, tôn giáo khác nhau nên thị hiếu và nhu
cầu của họ cũng rất khác nhau, vô cùng đa dạng và phong phú. Do đó, đồ lưu
niệm Hà Thành cũng phải phát triển để nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu của
họ. Trải qua trên 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thị trường đồ lưu niệm
Thủ đô cũng đã tự thân phát triển, đồng thời cũng nhờ sự tác động từ nhu cầu
của khách du lịch mà thị trường đồ lưu niệm đã trở nên ngày càng hoàn thiện.
Về chất liệu và chủ đề của đồ lưu niệm Thủ đô đã có bước phát triển
mạnh mẽ so với thời kinh tế bao cấp. Ngày nay, hầu như các chất liệu đều
được sử dụng chế tác, sản xuất đồ lưu niệm, từ chất liệu giấy đến chất liệu
vải, từ chất liệu đá đến chất liệu đồng, sắt, kẽm đến chất liệu vàng, bạc, từ
mây tre, nứa đến chất liệu gỗ, đất nung, sành, sứ… Tuỳ theo từng chủ đề và
tuỳ theo sự phát triển của khoa học công nghệ mà đồ lưu niệm được làm từ
những chất liệu tương ứng. Chủ đề bao trùm và nổi bật là chủ đề ca ngợi Hồ
Chủ Tịch và Tổ quốc Việt Nam, chúng ta có thể thấy cờ đò sao vàng và ảnh
cũng như tượng các loại của Bác Hồ kính yêu được xuất hiện khắp các tuyến
phố, các quầy bán hàng đồ lưu niệm, biểu tượng lá cờ Tổ quốc Việt Nam
108
cũng rất đa dạng, phong phú: ngoài những lá cờ bằng giấy, vải, lụa và kích
thước nhỏ 20cm-30cm có cán cầm tay, còn có hình cờ đó sao vàng được in
trên áo phông hay là in trên các đồ lưu niệm khác như: túi xách tay, khẩu
trang… Cờ đỏ sao vàng và biểu tượng cờ Tổ quốc Việt Nam được du khách
quốc tế rất yêu thích và hầu như các đoàn lữ khách quốc tế đều tập trung mau
hiện vật tiêu biểu này. Điều đó thể hiện họ gần gũi với Việt Nam, đã hiểu nhất
định về văn hoá Việt Nam và muốn tiếp tục tìm hiểu, khám phá những điều lý
thú của quốc gia châu Á trên bờ Thái Bình Dương – đó là Việt Nam.
Hình tượng Bác Hồ cũng được Nhân dân thế giới biết đến với tấm lòng
kính yêu sâu sắc. Có những khách du lịch cao tuổi đến từ các nước Âu, Mỹ đã
được nghe nói về Bác, xem phim về Bác, nhưng bây giờ mới có dịp đến Thủ
đô Hà Nội để được vào Lăng viếng Bác và tìm ra phố cổ, đến các cửa hàng
lưu niệm để chọn mua tượng Bác Hồ (hoặc những bức tranh thêu, bức ảnh
Bác Hồ) mang về làm kỷ niệm treo ở nơi làm việc hoặc nơi ở, xem đó là một
vinh dự, một niềm tự hào. Tình cảm đó thật đáng trên trọng và đáng quý biết
bao, khi khách du lịch cách xa hàng vạn dặm cũng tìm cách đến Việt Nam để
được nghe những câu chuyện về cuộc sống cao thượng, giản dị của Bác về sự
hy sinh cho đất nước, cho dân tộc của Người. Đồ lưu niệm Thủ đô có thể
được làm từ nhiều chất liệu khác nhau và theo những chủ đề khác nhau: ca
ngợi tổ quốc, phản ánh cuộc sống của người dân Việt Nam ở nông thôn, miền
núi, đô thị, mô phỏng những tác phẩm văn học, nghệ thuật; ca ngợi cảnh đẹp
quê hương, ca ngợi những vị vua chúa, anh hùng dân tộc có công với dân với
nước… Tất cả những chủ đề đó đều nhằm giới thiệu với lữ khách phương xa
về bản sắc văn hoá Việt Nam, về truyền thống lịch sử nghìn năm của kinh đô
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Những sản phẩm bằng gỗ, bằng da bò (da trâu, da cá sấu…) xuất hiện
khá nhiều ở các cửa hàng bán đồ lưu niệm, đó là tượng phật (di lặc, tuyết
xương, a di đà…) bằng gỗ có đường nét văn hoa tràng hạt đeo cổ, áo cà sa
khoác trên mình tạo thành những đường diềm song song uyển chuyển, tượng
cô gái Việt Nam trong trang phục dân tộc Thái, Mường với nhiều hoa văn sặc
sỡ hoặc cô gái thành thị với áo dài, nón lá có dáng nhẹ nhàng, thanh tao.
109
Trống gỗ bọc da 2 mặt và những chiếc quạt gỗ (bằng nan tre, bằng giấy…)
cũng là những hiện vật nhỏ gọn, đặc trưng, tiêu biểu cho văn hoá Hà Thành,
bởi vì trên những tang trống và nan quạt đó có vẽ hình hồ Hoàn Kiếm, Tháp
Rùa, Đền Ngọc Sơn hoặc trống đồng Đông Sơn là nét nhấn văn hoá nhẹ
nhàng mà sâu sắc. Những chiếc thắt lưng da, bao điện thoại và túi xách bằng
da các màu (nâu, đen…) rất đẹp, thu hút sự chú ý của lữ khách, đặc biệt là
những hiện vật bằng đồng (đồng đỏ, đồng thau) vô cùng đa dạng được chế tạo
hết sức tinh xảo nhờ kỹ thuật đúc, cưa, khoan, mài, chạm khảm… cũng được
du khách ưa chuộng, đó là những lọ hoa, chân đèn, chân nến, tượng trâu,
tượng chó… và đặc biệt là mô hình trống đồng Đông Sơn với những hoạ tiết
trang trí hình mặt trời nhiều cánh, hoa văn hình người, hình chim, hình cá…
trong những vòng tròn đồng tâm, xen kẽ là hoa văn Kỷ Hà được nhiều khách
du lịch quan tâm ngắm nghía và mua về làm kỷ niệm.
Đồ lưu niệm gỗ sơn cũng là nhóm hiện vật được nhiều du khách quan
tâm: bát, đĩa, cốc, chén hoặc bộ ấm chén các loại được chế tạo từ gỗ, sau đó
được phủ lên một lớp sơn mầu xanh, đỏ, trắng, vàng… rất đẹp và lộng lẫy.
Nhiều hiện vật được khắc (hoặc viết) thêm hàng chữ: Hanoi, Vietnam. Ngày
nay, mô hình thiệp 3D thể hiện sinh động cảnh Khuê Văn Các, Chùa Một Cột,
Tháp Rùa, Nhà Thờ Lớn, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh các thiếu nữ
Việt trong tà áo dài thướt tha… đó chính là những nét đặc trưng của Hà Nội
đã đi vào cảm nhận của khách quốc tế và lữ khách nội địa đến từ phương xa.
Gốm cũng là một chất liệu được các nhà sản xuất và kinh doanh đồ lưu
niệm quan tâm khai thác, bởi vì công nghệ chế tác đồ gốm đã được người
Việt Nam biết đến từ hàng nghìn năm trước. Hiện nay, đồ gốm lưu niệm là
mặt hàng bán được khá nhiều vì chất liệu nhẹ, giá cả phải chăng, có thể bảo
quản lâu dài trong môi trường tự nhiên. Rất nhiều loại bát, đĩa, cốc chén, ống
cắm bút, tượng… bằng gốm được chế tạo với những kỹ thuật và phong cách
khác nhau. Những mô hình chùa tháp bằng gốm cũng như nhiều hiện vật gia
dụng bình thường khác với kích thước nhỏ khoảng 8cm-10cm rất thuận tiện
cho lữ khách cho vào valy mang về nước cùng với hàng chục những vật kỷ
niệm khác để đặt trên giá sách hoặc trên bàn làm việc của mình khi về đến
110
nhà và những kỷ vật đó là vô giá vì nó là một vật chứng để kể lại những câu
chuyện về vùng đất mà họ đã đến thăm, là niềm vui, niềm tự hào của mỗi con
người nhất là khi tuổi đã cao, sức đã yếu, sau này không thể đi du lịch được
nữa thì những đồ lưu niệm đó còn là ký ức thời trẻ của mỗi người.
Qua khảo sát và phỏng vấn một số chủ cửa hàng bán đồ lưu niệm chúng
tôi nhận thấy mỗi một loại hình đồ lưu niệm khi được đến với khách du lịch đặc
biệt là khách du lịch quốc tế thì nó đã trở thành cầu nối giữa các lữ khách với
lịch sử và văn hoá Việt Nam. Bà Dương Thị Thu Nga (phố Hàng Gai) nói rằng:
Mô hình trống đồng Đông Sơn được nhiều khách quốc tế mua làm kỷ niệm vì
chiếc trống nhỏ bé đó đã lưu giữ và chuyển tải truyền thống lịch sử 4000 năm
của dân tộc và du khách rất hứng thú khi biết rằng người Việt Cổ có tín ngưỡng
thờ cúng thần mặt trời như tín ngưỡng của người Hy Lạp – La Mã cổ đại.
Các du khách là phụ nữ rất vui và thích mua tượng voi chiến có tượng
một người phụ nữ ngồi trên bàn đặt trên lưng voi, chúng ta hiểu rằng đó là
tượng Bà Triệu (Núi Nưa, Thanh Hoá) cưỡi voi đánh giặc Ngô vào thế kỷ III,
giành độc lập dân tộc. Hình tượng nghệ thuật đó có sự gặp gỡ với những
phong trào đề cao vai trò của phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng ở Châu Âu,
Châu Mỹ trong suốt hàng trăm năm nay, nhưng ở nước ta thì từ 2000 năm
trước đã có Hai Bà Trưng, Bà Triệu được Nhân dân yêu mến, tôn thờ vì công
trạng đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
Những mô hình đài nghiên, tháp bút hoặc mô hình bia đá đặt trên lưng
rùa ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng là nhóm hiện vật được nhiều du khách
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan… mua về làm kỷ niệm, bởi vì họ
nói rằng (qua ý kiến của chị Đỗ Hương Dung, chủ một cửa hàng lưu niệm) họ
thán phục và trân trọng tinh thần đề cao đèn sách, tôn trọng tri thức, học hành
của người Việt Nam, khi họ hiểu được những thông điệp mà tổ tiên chúng ta
gửi gắm vào trong những biểu tượng này. Họ muốn mang về nước để kể lại
câu chuyện hiếu học của người Việt Nam cho con cháu họ học tập.
Rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm trưng bày những hiện vật phản ánh
cuộc sống của người dân Việt Nam trong làng xã cổ truyền, đó chính là hình ảnh
những ngôi chùa, ngôi đình với mái đao góc mái cong vút, đó là mô hình của
111
chợ quê, của cây đa, bến nước, con đò… Những cái đã lùi vào dĩ vãng, nhường
chỗ cho những đường cao tốc, những khu công nghiệp, khu đô thị với nhà cao
chọc trời. Có lẽ các lữ khách Châu Âu cũng như chúng ta ngày nay vẫn hoài
niệm về miền quê thanh bình, thơ mộng của nền văn minh nông nghiệp xưa kia.
Nghệ thuật dân gian Việt Nam cũng góp phần làm cho thị trường đồ
lưu niệm Thủ đô thêm phong phú, hấp dẫn. Hình tượng chú tễu bằng gỗ sơn
màu (hoặc đồ gốm) với nét mặt ngộ nghĩnh, đóng khố, cởi trần, khoe cái bụng
phệ với cái rốn lồi được sơn màu đỏ chót, hình các cô thôn nữ trong trang
phục truyền thống áo yếm, áo tứ thân mớ ba, mớ bảy, đầu đội nón quai thao
hoặc hình tượng các cô gái Mường, Thái, H’mông với trang phục truyền
thống vùng sơn cước; hình tượng lão ngư ngồi câu cá bên sông một cách
thảnh thơi, an nhàn… thu hút sự quan tâm, mua sắm của nhiều lữ khách.
Những tác phẩm văn học nghệ thuật cũng được thể hiện rất thành công
ở thị trường đồ lưu niệm, hình tượng con trâu với cặp sừng cong hình lưỡi
liềm đang nghỉ ngơi trên thảm cỏ xanh, có chú mục đồng cưỡi trên lưng trâu
thổi sáo hoặc nhóm hình tượng chí phèo, thị nở bên bụi chuối (theo tiểu
thuyết Chí Phèo của Nam Cao) cũng rất độc đáo và hấp dẫn. Mỗi một món đồ
lưu niệm sẽ góp phần làm cho lữ khách nhớ về đất nước, con người Việt
Nam, góp phần lan toả tinh hoa, bản sắc của văn hoá Việt Nam ra thế giới một
112
cách rất tế nhị, sâu sắc, hiệu quả.
Tiểu kết Chương 3
Ẩm thực và đồ lưu niệm là những nội dung quan trọng trong hoạt động
du lịch lữ hành ở Thủ đô Hà Nội, bởi vì thông qua những hoạt động này đã
góp phần tạo nên hình ảnh của con người và mảnh đất văn hoá Tràng An,
đồng thời tạo nên sự hấp dẫn thu hút sự quan tâm lui tới của hàng triệu khách
du lịch quốc tế và hàng chục triệu khách du lịch trong nước.
Văn hoá ẩm thực Hà Nội mang đậm tính lịch sử nên việc kế thừa và
nâng cao truyền thống này trong đời sống là rất cần thiết. Văn hoá ẩm thực
luôn biến đổi, có tiếp thu, kế thừa, có đổi mới, phát triển. Các cửa hàng ẩm
thực đã thay đổi từ không gian, đến phong cách phục vụ, kiến tạo thêm văn
hoá phục vụ, cách thưởng thức so với trước đây. Các công ty du lịch lữ hành
nắm bắt rất nhanh thị hiếu của khách du lịch, tổ chức quảng bá, giới thiệu cho
khách du lịch thưởng thức ẩm thực đặc sắc khi đến với Hà Nội, tạo thành một
sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
Đồ lưu niệm Thủ đô cũng là nội dung thu hút sự quan tâm của khách du
lịch nội địa và quốc tế. Nếu như ẩm thực Hà Thành giúp cho khách du lịch
thưởng thức tại chỗ và có những cảm nhận tức thời trong tour du lịch của
mình thì đồ lưu niệm là hiện vật mà các lữ khách mua, mang về nhà để nhìn,
để ngắm, để lưu giữ lại những kỷ niệm đẹp đẽ khi họ đến thăm Thủ đô Hà
Nội nói riêng và về đất nước, con người Việt Nam nói chung.
Thông qua hoạt động du lịch lữ hành, khi có khách du lịch đến đã tác
động đến những người chủ bán hàng, lẫn người thợ thủ công truyền thống,
thôi thúc họ sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm lại để tạo thành một sản phẩm văn hoá,
phục vụ khách du lịch. Chính những người bán hàng và thợ thủ công trong
quá trình đó đã kiến tạo ra nhiều nghĩa khác nhau để phù hợp với thị hiếu, sở
thích và văn hoá của từng khách du lịch.
Ẩm thực và đồ lưu niệm Thủ đô Hà Nội đã và đang có sự biến đổi, phát
113
triển theo hướng ngày càng đa dạng, phong phú và ngày càng giản đơn, gọn
nhẹ cho hợp với nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của khách du lịch lữ hành, sự
biến chuyển linh hoạt đó đã tạo ra một nét nhấn, một sự thu hút mạnh mẽ, góp
phần thúc đẩy thị trường du lịch Thủ đô phát triển và góp phần đặt nền móng
114
cho ngành công nghiệp văn hoá Thủ đô tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Chương 4
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
4.1. Bản sắc văn hoá Thủ đô Hà Nội qua truyền thông và các công ty du
lịch lữ hành
Để thu hút khách du lịch, các công ty du lịch lữ hành đã lựa chọn cho mình
những gói tour, sản phẩm du lịch độc đáo nhất của Thủ đô Hà Nội để giới thiệu và
quảng bá. Bằng cách này, họ đã góp phần vào quá trình tái tạo, tạo dựng nên bản
sắc văn hoá riêng của Hà Nội. Những bản sắc được tạo dựng bởi các công ty du
lịch lữ hành ở một mức độ nào đó mang tính tưởng tượng và vì thế có sự khác biệt
lớn với những bản sắc mà người dân tự lựa chọn.
Các di tích lịch sử văn hoá, làng nghề truyền thống, ẩm thực và đồ lưu niệm
ở Thủ đô được lựa chọn để nhằm quảng bá, giới thiệu và tư vấn cho khách du lịch,
thu hút sự quan tâm của những người quan tâm đến du lịch văn hoá. Do đó, trong
chiến lược quảng bá hình ảnh điểm du lịch, những yếu tố được ưu tiên giới thiệu
sao cho hấp dẫn là nguồn gốc, lịch sử hình thành, cảnh quan với bối cảnh tự nhiên
và sự hiếu khách của người dân Thủ đô; thứ hai là văn hoá ẩm thực với các món
ăn hấp dẫn từ tên gọi đến mùi vị và cách bày trí, thưởng thức; thứ ba là sự thuận
tiện về phương tiện giao thông, tiện nghi nơi nghỉ lại và những hoạt động mà
khách du lịch có thể trải nghiệm tại các điểm du lịch; thứ tư là những sản phẩm đồ
lưu niệm có thể mua mang về. Tất cả những yếu tố đó đều chứa đựng bản sắc văn
hoá truyền thống Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Không gian, cảnh quan du lịch và sự hiếu khách của người dân Thủ đô là
yếu tố được nhấn mạnh trong các chiến dịch quảng bá, các chương trình tour du
lịch do các công ty thiết kế. Thủ đô được giới thiệu là nơi dừng chân lý tưởng cho
khách du lịch trong nước và nước ngoài khi đến với Việt Nam, là nơi lưu giữ
nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, du khách có thể tham gia vào
các hoạt động nhộn nhịp 36 phố phường, cũng có thể tìm về các vùng quê yên
bình với các làng nghề truyền thống để trải nghiệm và tìm hiểu thêm về văn hoá
115
địa phương. Khách du lịch, nhất là khách nước ngoài rất thích cảm giác được trải
nghiệm, tìm hiểu về những giá trị đậm đà bản sắc văn hoá như vậy. Kèm theo lời
giới thiệu là những bức ảnh về khung cảnh thiên nhiên, phố phường Hà Nội, các
di tích lịch sử độc đáo, các thành cổ, các hoạt động trải nghiệm như: tour đêm của
Di tích Nhà tù Hoả Lò, đốt lửa trại tại các làng quê… Người dân địa phương,
người dân Thủ đô Hà Nội luôn rất hiếu khách, thân thiện, thanh lịch.
Một bài báo trên mạng viết về cảm nhận của các du khách người Mỹ khi đến
với Thủ đô Hà Nội có đoạn:
“Có một ấn tượng chung mà bất cứ du khách nào cũng dễ dàng nhận ra
đó là sự thân thiện, nhiệt tình và mến khách của người Hà Nội. Sống ở bang
California (Mỹ), bác sỹ Gish đã chọn thủ đô Hà Nội là địa điểm đến du lịch
cho cả gia đình mình. Bác sỹ Gish cho biết cả nhà ông đã đi tham quan hết
những thắng cảnh nổi tiếng, thưởng thức nhiều các món ăn ngon truyền thống
của Hà Nội, tiếp xúc với nhiều người dân ở đây. Song điều gây ấn tượng đối
với gia đình ông là sức sống mãnh liệt của văn hóa truyền thống Hà Nội. Bác
sỹ Gish tâm sự: “Hà Nội gây ấn tượng với tôi bởi vì thành phố bảo tồn được
những di sản văn hóa của mình, ví dụ như Tháp Rùa ở hồ Hoàn Kiếm, các
hoạt động sinh hoạt và kinh doanh của dân cư ở trong khu phố cổ. Tôi nghĩ
rằng Hà Nội đang cố gắng gìn giữ những giá trị văn hóa cốt lõi của những
năm trước đây nhưng đồng thời cũng quyết tâm phát triển thành phố hiện
đại”. Cùng chia sẻ những suy nghĩ này của bác sỹ Gish, ông Goerge Saxton
cũng rất thích đến thăm những địa danh lịch sử của Hà Nội. Với ông đó là
những nơi đáng nhớ trong chuyến thăm. Ông Saxton cho biết: “Tôi chắc chắn
nhớ hồ Hoàn Kiếm, Đền Ngọc Sơn, Văn Miếu - Quốc Tử giám, ngôi nhà sàn
nơi Bác Hồ từng sống và toàn bộ khu vực này. Tôi đặc biệt thích cách người
ta bảo tồn ngôi nhà đó và đấy chính là những gì tôi nhớ về Hà Nội”.
Đối với bà Marcia ở bang Maryland của Mỹ, các món ăn như phở, chả
cá, bún nem hay cà phê của Hà Nội đều ngon tuyệt vời, nhưng ấn tượng đẹp
116
nhất của bà về Hà Nội lại hoàn toàn khác. Ấn tượng đọng lại nhiều nhất trong
chuyến thăm Hà Nội với bà Marcia, đó chính là con người và bản sắc văn hóa
của Hà Nội. Văn hóa ở Hà Nội, rất đậm đà và phong phú. Một trong những
hình ảnh đẹp nhất trong số các nước châu Á đó mà bà từng thấy, đó là hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam mặc áo dài, mà “bất cứ khi nào nhắm mặt lại tôi
đều thấy hình ảnh đó”. Bà Marcia hồ hở cho biết thêm: “Tôi cũng thích hình
ảnh người nông dân đang trồng lúa trên cánh đồng”. Đó là tất cả những gì bà
nhớ về Hà Nội.
Đây cũng chính là những nhận xét của bà Johnson đến từ bang Idaho của
Mỹ, bà cho rằng, khó có thể dùng một từ nào để miêu tả hết về con người Hà
Nội. Chính vì lý do đó, bà đã phải quay lại Hà Nội nhiều lần. Bà Johnson cho
biết: “Người Hà Nội rất tuyệt vời và nhiệt tình giúp đỡ khách lạ. Chúng tôi
đến Việt Nam lần đầu vào năm 1995 với một chút lo ngại rằng sẽ không được
đón tiếp tử tế, nhưng thật bất ngờ chúng tôi đã không gặp phải một tình huống
nào tiêu cực. Mọi người đối với chúng tôi rất tốt, chúng tôi nhận được sự giúp
đỡ bất cứ lúc nào chúng tôi cần. Chúng tôi đã có những người bạn rất thân và
họ đối với vợ chồng chúng tôi rất tốt khi chúng tôi ở đó. Chúng tôi không thể
nào nói hết được về những con người tuyệt vời của Việt Nam”.
Gắn bó với Hà Nội trong nhiều năm liền, 2 vợ chồng ông James Rhode
sống tại bang Alabama cũng rất háo hức được trở lại Hà Nội trong mùa thu
này để mừng thủ đô 1000 năm tuổi. Hà Nội cuốn hút vợ chồng ông bằng một
thứ rất đặc biệt. Ông James kể lại: “Thứ chúng tôi thích nhất ở Hà Nội đó
chính là Dàn nhạc giao hưởng Quốc gia Việt Nam. Đây là một dàn nhạc tuyệt
vời. Tôi phải nói rằng, tôi đã đi nghe nhạc giao hưởng ở khắp nơi trên thế giới
nhưng Dàn nhạc giao hưởng Quốc gia Việt Nam thật xuất sắc. Ngoài ra, ở Hà
Nội nhạc dân tộc cũng rất hay. Năm nay chúng tôi quay lại để kỷ niệm 1000
năm Thăng Long - Hà Nội, chúng tôi không có ý định rời thành phố này.
Chúng tôi chọn Hà Nội để sống bởi vì đây là thành phố không đắt đỏ, mọi
117
người rất thân thiện. Tôi và vợ tôi quyết định chọn Hà Nội là nhà của mình”.
Còn ông Steve Ball, sống tại bang Maine thì nói rằng đối với ông, Hà
Nội là thành phố cổ kính. Hà Nội phản ánh một cách chân thực nhất về văn
hóa của Việt Nam, đây là thành phố đẹp để các du khách đến thăm, đi tản bộ
và được mọi người đón chào. Ông Steve luôn khuyến khích bạn bè đến với
Hà Nội. Nhân dịp Thủ đô Hà Nội 1000 năm tuổi, ông Steve bày tỏ: “Tôi
muốn gửi lời chúc mừng chân thành đến tất cả người dân của thủ đô Hà Nội
nhân dịp sự kiện 1000 năm trọng đại này. Tôi mong muốn Hà Nội tiếp tục
phát triển thịnh vượng. Bản thân tôi cũng trông chờ để đến Hà Nội để chia vui
với người dân Thủ đô về sự kiện này. Tôi mong muốn những điều tốt đẹp
nhất đến với mọi người dân Hà Nội. Xin chào các bạn và hẹn gặp lại ở Việt
Nam”3.
Văn hoá ẩm thực được các công ty du lịch lữ hành quảng bá, xây dựng các
tour thật hấp dẫn đối với khách du lịch. Bài viết về “Ẩm thực Hà Thành: Ghi dấu
ấn bởi những món ăn dân giã” của tác giả Thành Nam trên trang Cổng thông tin
điện tử Chính phủ4 ngày 18/11/2022 viết: “Ngày nay, ẩm thực Hà thành đã được
nâng lên thành nét tinh tế của nghệ thuật ẩm thực. Sự độc đáo, tinh tế và tấm
lòng được người dân Hà Thành trao vào những món ăn và những món ăn này
trở thành nét đẹp của Hà Nội. Những món ăn không thể không nhắc đến là
bún chả, nem rán, phở, bánh cuốn Thanh Trì, chả cá Lã Vọng, bún thang, bún
ốc, bún cua, bánh tôm Hồ Tây… Có thể thấy rằng, văn hóa Thăng Long-Hà
Nội là hội tụ kết tinh, giao lưu và lan tỏa văn hóa các vùng miền. Văn hóa ẩm
thực cũng vậy. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nhận định: "Hà Nội là nơi
bốn phương hội tụ, lại giao lưu với cả nước ngoài cho nên đã tiếp thu nhiều
tinh túy của mọi miền, cả văn minh tinh thần lẫn vật chất trong đó có nghệ
4 https://thanglong.chinhphu.vn/am-thuc-ha-thanh-ghi-dau-an-boi-nhung-mon-an-dan-da- 103221118223110844.htm
118
thuật ẩm thực". Cuộc sống càng hiện đại, con người luôn sáng tạo để chế biến 3 https://vov.vn/ha-noi-ngan-nam/nguoi-ha-noi-than-thien-va-men-khach-153137.vov
những món ăn ngon, hợp với văn hóa ẩm thực trong nước và thế giới, nhưng
những món ăn đượm vị quê hương chắc chắn sẽ luôn là sự lựa chọn không thể
bỏ qua đối với người dân Hà thành và các du khách khi đặt chân đến Hà Nội”.
Hay trong bài viết “Hà Nội ấn tượng trong mắt du khách nước ngoài” của tác
giả Hoàng Lân trên Báo Hànộimới5 ngày 07/01/2020 có đoạn: “Anh Lee
Seung Gi và nhóm bạn người Hàn Quốc đến Hà Nội vào những ngày đầu năm
mới 2020. Đây là lần thứ hai Lee Seung Gi đến Việt Nam và là lần đầu
đến Hà Nội. Thời tiết Hà Nội những ngày đầu năm 2020 khá đẹp, thuận tiện
để anh và nhóm bạn khám phá Thủ đô. Nhiều năm trở lại đây, người Hàn
Quốc rất thích du lịch Việt Nam. Chúng tôi cảm nhận thấy sự gần gũi trong
văn hóa, từ ẩm thực cho đến thói quen sinh hoạt. Tôi thích ẩm thực Hà Nội,
đặc biệt thích các món ăn đường phố như bánh mỳ, bún chả, phở… Vừa rồi,
lần đầu tiên chúng tôi thử cà phê trứng, quả là rất mới mẻ, Lee Seung Gi nói.
Lee Seung Gi và bạn đã có những ngày lang thang, khám phá Hà Nội. Theo
lời vị khách Hàn Quốc này, anh và nhóm bạn đã thăm Khu di tích Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Văn Miếu - Quốc Tử Giám…”.
Sự thuận tiện về phương tiện giao thông, tiện nghi của hệ thống cơ sở lưu trú
và những hoạt động mà du khách có thể trải nghiệm tại các điểm du lịch cũng
được quan tâm không kém. Có lẽ đây là một phần khá quan trọng gây dự tò mà,
chú ý không kém với du khách. Trong bài viết “Du lịch làng nghề Hà Nội: Đến và
trải nghiệm” đăng trên website hanoitourism.gov.vn6 ngày 16/5/2013 có đoạn:
“Điều thú vị nhất đối với du khách trong các tour du lịch tại các làng nghề Hà
Nội là được trải nghiệm cuộc sống nơi đây. Chẳng hạn đến với làng gốm sứ
Bát Tràng, du khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện tuyệt vời giữa nước, lửa
và tâm hồn người Việt. Với trên 2.000 lò gốm, Bát Tràng là niềm tự hào về
5 https://hanoimoi.vn/ha-noi-an-tuong-trong-mat-du-khach-nuoc-ngoai-525249.html 6 https://vietnamtourism.gov.vn/post/11771
119
một làng nghề gốm sứ truyền thống. Thời gian trôi qua, sản phẩm của làng đã
phát triển và trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước với chất lượng, màu
men, kiểu dáng mang nét đặc trưng của làng nghề cổ bên bờ sông Hồng. Tới
tham quan làng gốm cổ Bát Tràng, du khách có thể đi bộ quanh làng hoặc đi
trên những chiếc xe trâu kéo. Du khách cũng có thể tự tay nhào đất, nặn, tạo
cho mình một sản phẩm nào đó tại khu xưởng của một gia đình làm nghề
trong làng. Được chiêm ngưỡng bàn tay khéo léo của những người thợ thủ
công tỷ mẩn vuốt từng chi tiết trên bàn xoay gốm, du khách còn được đến
tham quan nhiều địa điểm đẹp và thú vị khác như: Đền Mẫu, thờ người con
gái Bát Tràng được dân gian suy tôn với mỹ hiệu “Thành Mẫu Bản Dương”,
bức tượng Cửu Long đẹp và cao quý…Đến với làng lụa Vạn Phúc, du khách
được nghe giai điệu quen thuộc của những tiếng thoi đưa dệt lụa. Dưới bàn
tay tài hoa, khéo léo của những người thợ dệt làng Vạn Phúc dựa trên kỹ thuật
truyền thống đã tạo nên nhiều sản phẩm vải lụa độc đáo như vân, sa, nhiễu,
gấm, vóc… được khách hàng trong và người nước ưa chuộng. Đến với Phú
Vinh, một làng quê nổi tiếng bao đời với nghề đan lát. Du khách có thể bắt
gặp cảnh người già, con trẻ say sưa bên những sản phẩm mây tre đan và luôn
nở nụ cười thân thiện đón chào du khách. Du lịch làng nghề Hà Nội là vậy,
song với nhiều người ưa thích sự khám phá, những làng nghề chưa bị các
công ty du lịch khai thác triệt để thường là điểm đến lý tưởng. Trước những
nét đẹp đơn sơ, những giá trị văn hóa còn nguyên hình, nguyên trạng, mỗi
người sẽ có những cảm nhận riêng, những khám riêng cho chính bản thân
mình sau mỗi chuyến đi…”. Trong bài viết “Đánh giá sự phát triển du
lịch bền vững của Hà Nội trong bối cảnh hội nhập ” của TS. Ngô Tuấn
Anh và ThS Phạm Thị Thanh Huyền đăng trên tạp chí Công thương7 đăng
ngày 17/3/2017 có đoạn viết về hệ thống cơ sở lưu trú của Hà Nội như sau:
120
“Năm 2015, Hà Nội có 2.871 cơ sở lưu trú với 45.769 buồng, chiếm 20,4% 7 https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/danh-gia-su-phat-trien-du-lich-ben-vung-cua-ha-noi-trong-boi-canh- hoi-nhap-46595.htm
tổng số cơ sở lưu trú cả nước, tăng gần 4 lần so với năm 2008 (trong đó khách
sạn có 1.050 cơ sở đã thẩm định xếp hạng cho 519 đơn vị với 20.767 buồng;
06 căn hộ du lịch với 1.017 buồng; còn lại là nhà nghỉ với 19.176 buồng);
nhiều khách sạn 5 sao có quy mô lớn, thương hiệu đẳng cấp chất lượng cao đi
vào hoạt động. Các cơ sở lưu trú được đầu tư xây dựng, tiếp tục tăng nhanh,
đủ khả năng đón khách đến Thủ đô và tổ chức được các sự kiện quốc tế lớn.
Hà Nội có 72 khách sạn từ 3-5 sao với 9.844 phòng và 05 căn hộ du lịch
cao cấp (trong đó có 1 căn hộ cao cấp đạt chuẩn 5 sao) với 10.778 buồng
phòng. Lượng phòng khối khách sạn 3-5 sao Hà Nội cung ứng ra thị trường
bằng 55,65% so với TP. Hồ Chí Minh, so với thủ đô các nước trong khu vực
và trên thế giới thì Hà Nội chỉ đứng ở vị trí khá thấp về lượng cung buồng
phòng. Công suất sử dụng phòng trung bình toàn khối hàng năm ổn định mức
57,8%.
Chất lượng dịch vụ trong các khách sạn, đặc biệt khách sạn 4-5 sao,
khách sạn liên doanh khá cao, có cơ sở vật chất, trang thiết bị tiện nghi hiện
đại, dịch vụ phong phú, được điều hành bởi các nhà quản lý chuyên nghiệp,
có chiến lược kinh doanh, quảng bá tiếp thị bài bản, chú trọng đào tạo bồi
dưỡng nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề, ngoại ngữ và giao
tiếp, có đủ điều kiện để tổ chức các hội nghị quốc tế lớn.
Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch thủ đô cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu của các
đối tượng khách; đủ năng lực phục vụ thành công nhiều sự kiện trong nước và
quốc tế. Ngoài ra, nhiều khách sạn đã được các tạp chí uy tín của nước ngoài
bình chọn và được Tổng cục Du lịch và Hiệp hội Khách sạn Việt Nam xét
tặng danh hiệu khách sạn hàng đầu Việt Nam, nổi bật là khách sạn Sofitel
Metropole Hà Nội nằm trong danh sách khách sạn hàng đầu thế giới do Tạp
chí Travel&Leisure Hoa Kỳ bình chọn”.
Những sản phẩm địa phương và đồ lưu niệm của Thủ đô là yếu tố mang đậm
121
dấu ấn bản sắc không thể thiếu trong các lời giới thiệu và thiết kế tour của các
công ty du lịch lữ hành hay các trang du lịch trên báo chí. Trong lời giới thiệu tour
của Công ty Lữ hành Hanoitourist “Tham quan làng cổ Đường Lâm” ghi: “Quý
khách sẽ được trải nghiệm tại một số cơ sở nghề truyền thống nơi đây như làm
kẹo dồi, kẹo lạc…tìm hiểu về cách làm và thưởng thức đặc sản của làng, mua về
làm quà cho người thân”.
Nhìn chung, những nét văn hoá độc đáo ở Thủ đô Hà Nội được giới thiệu
qua các trang báo mạng, trong các tour của các công ty du lịch lữ hành gồm cảnh
quan với bối cảnh tự nhiên và sự hiếu khách của người dân Thủ đô; văn hoá ẩm
thực, sự thuận tiện về phương tiện giao thông, tiện nghi nơi nghỉ lại và những hoạt
động mà khách du lịch có thể trải nghiệm tại các điểm du lịch; những sản phẩm đồ
lưu niệm. Tất cả những yếu tố đó đều chứa đựng bản sắc văn hoá truyền thống
Thủ đô ngàn năm văn hiến.
4.2. Phục hồi, tái tạo văn hoá truyền thống Thủ đô Hà Nội trong
bối cảnh mới
4.2.1. Tái tạo xây dựng lại hệ thống các công trình kiến trúc và các
làng nghề truyền thống
Thông qua cuộc giao lưu văn hóa Việt – Pháp từ cuối thế kỷ XIX sang
đầu thế kỷ XX, thành phố Hà Nội đã có những bước thay đổi nhất định. Mặc
dù người Pháp cho xây dựng một số công trình kiến trúc ở Hà Nội lúc đó là
nhằm mục đích phục vụ cho bộ máy thống trị của Pháp ở Việt Nam, nhưng nó
cũng đã góp phần làm cho Hà Nội có những nét mới mẻ, đặc biệt là từ sau
cách mạng tháng 8/1945 khi chính quyền cách mạng được thành lập thì những
công trình kiến trúc đó thuộc về nhân dân, góp phần phục vụ cho cuộc sống
hàng ngày của nhân dân.
Nhà hát Lớn Hà Nội là một trung tâm biểu diễn nghệ thuật được dây
dựng vào đầu thế kỷ XX theo phong cách kiến trúc cổ điển Pháp từ cuối thế
kỷ XVIII. Nhà hát Lớn được xây dựng trên một quảng trường rộn lớn, bên
ngoài có những hàng cột quy mô hoành tráng với nhiều đường gờ, hoa văn
122
đắp nổi trang trí sinh động. Bên trong là một sân khấu đa năng với khoảng
800 ghế ngồi bọc nhung sang trọng. Nơi đây, đã diễn ra những cuộc nói
chuyện, cuộc mít tinh của các cấp, các ngành của Trung ương và Hà Nội, và ở
đây cũng là nơi đã diễn ra hàng trăm cuộc biểu diễn nghệ thuật thuộc nhiều
thể loại như: hòa nhạc, ca hát, kịch, chèo, ca trù, giao hưởng... lời ca, điệu
nhạc trong khán phòng này luôn luôn có độ trầm ấm vang xa, không bị nhiễu
do hệ thống cách âm chuẩn mực, hệ thống ánh sáng cũng được bố trí hợp lý
làm cho người xem dễ theo dõi, không bị chói mắt. Với một không gian sang
trọng, hiện đại và phù hợp cho trình diễn các loại hình nghệ thuật nên mọi
nghệ sĩ Việt Nam đều mơ ước được biểu diễn ở sân khấu lớn này. Tại nhà hát
lớn đã diễn ra nhiều cuộc gặp mặt, cuộc giao lưu biểu diễn nghệ thuật của các
đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên ở mọi miền đất nước và các
đoàn khách du lịch đến xem.
Khu chợ Đồng Xuân – Bắc qua ở ven sông Hồng và Trung tâm thương
mại Tràng Tiền, cùng với những kiến trúc tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc
Pháp như ngân hàng, tòa nhà Bắc Bộ phủ, ga hàng cỏ, Bảo tàng lịch sử quốc
gia, Bộ Ngoại giao... là những kiến trúc đẹp mắt, quy mô vừa phải, tương
xứng hài hòa với cảnh quan xung quanh đã thu hút hàng triệu lượt khách
trong nước và quốc tế tham quan hàng năm.
Cầu Long Biên được xây dựng từ đầu thế kỷ XX bắc qua sông Hồng
với đường cầu dẫn mềm mại và trên mười nhịp cầu nhấp nhô uyển chuyển là
đỉnh cao của nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng cầu của Pháp ở thời kỳ này, trở
thành một phần của văn hóa và lịch sử Thủ đô. Tuy cây cầu đã bị bom Mỹ tàn
phá một số nhịp trong giai đoạn máy bay Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc
nhưng vẻ đẹp của nó vẫn không bị mất đi mà những thương tích trên cây cầu
trở thành những giá trị thu hút nhiều đoàn khách du lịch trên khắp cả nước.
Nhân dân Hà Nội theo lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước đã dũng cảm
tham gia vào cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lăng, tàn phá của thực dân
123
Pháp và đế quốc Mỹ, đồng thời đã dốc hết sức lực để xây dựng chủ nghĩa xã
hội thực hiện khẩu hiệu: Hà Nội với cả nước và cả nước với Hà Nội. Trải qua
giai đoạn bao cấp đầy khó khăn, thiếu thốn Hà Nội vẫn là điểm đến của du
khách từ mọi miền đất nước, nhân dân Hà Nội – Tràng An thanh lịch vẫn
nhiệt tình và luôn thể hiện tấm lòng hiếu khách của mình.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hà Nội đã có
sự chuyển mình mạnh mẽ, nhân dân Thủ đô đã đoàn kết chung tay cùng nhân
dân cả nước xây dựng lại Thủ đô đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong ước
của Bác Hồ, nhanh chóng làm cho Thủ đô trở thành mảnh đất anh hùng trong
chiến đấu và tiên phong trong xây dựng phát triển đô thị theo hướng hiện đại.
Chỉ trong khoảng 30 năm, Hà Nội đã xây dựng được hàng chục khu đô thị
mới như Linh Đàm, Times city, Roye city... và còn hàng trăm các cụm công
trình, các tòa nhà cao tầng mọc lên khắp phố phường Hà Nội, dọc theo các
trục giao thông chính mới được xây dựng như trục đường Thăng Long, Trần
Duy Hưng, Lê Đức Thọ...
Dân số Thủ đô từ trên 3 triệu người nay đã tăng lên 7,5 triệu người chỉ
sau chưa đầy 30 năm. Với gần 2 triệu xe máy và trên 600.000 xe ô tô nên Hà
Nội luôn xảy ra tình trạng tắc đường vào giờ cao điểm. Để đáp ứng nhu cầu đi
lại của người dân từ trung tâm Thủ đô đi tới các khu công nghiệp ở vùng
ngoại thành và một số khu đô thị mới, chính quyền Hà Nội đã chủ động đề
xuất và được Trung ương cho phép, hỗ trợ xây dựng thêm nhiều cây cầu bắc
qua sông Hồng như: Cầu Nhật Tân, Đông Trù, Vĩnh Tuy, Chương Dương,
Thăng Long... đây là những cây cầu hiện đại, đẹp mắt trở thành niềm tự hào
của người dân Thủ đô cũng như đồng bào cả nước. Hệ thống cơ sở hạ tầng
đảm bảo giúp cho Hà Nội hiện đai hơn, thuận lợi hơn trong việc đi lại, tạo
thuận tiện cho các đoàn tham quan du lịch đến thăm Hà Nội từ các hướng
khác nhau.
Hà Nội về đêm càng đẹp lộng lẫy nguy nga bởi hệ thống đèn điện, đèn
124
trang trí các loại dọc theo các dãy phố, các hàng cây và trên những tòa nhà
cao tầng hiện đại. Du khách ở các địa phương về Thủ đô không thể không cố
gắng ở lại Hà Nội một vài đêm để chiêm ngưỡng vẻ đẹp rực rỡ và hiện đại
này. Hàng trăm bảng quảng cáo cỡ lớn đặt dọc theo các tuyến đường ra sân
bay Nội Bài cùng hệ thống quảng cáo điện tử đặt ở các quận, huyện, thị xã và
ở một số xã, phường, thị trấn làm cho Thủ đô gần gũi hơn với Thủ đô của các
nước Châu Âu.
Thủ đô Hà Nội được mở rộng vào năm 2008 bao gồm diện tích Hà Nội
và Hà Tây, tổng diện tích Hà Nội hiện nay rộng 3.300km2 được phân chia
thành 30 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã trực thuộc thành phố. Mặc
dù thành phố mở rộng ra địa bàn một số địa phương thuộc vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa nhưng được sự quan tâm của lãnh đạo thành phố qua các
nhiệm kỳ mà hầu như các thôn, xóm, xã, phường đều được cung cấp điện lưới
và nước sạch. Tất cả các cụm dân cư thuộc trung tâm thành phố hay ở vùng
xa trung tâm đều được trang bị hạ tầng kỹ thuật của vô tuyến truyền hình,
phát thanh và mạng internet cũng như trang bị hệ thống liên lạc điện thoại vô
tuyến, hữu tuyến với hàng chục nghìn đài tăng cường năng lượng cho quá
trình thu, phát sóng điện thoại di động...giúp cho mọi đoàn khách du lịch cũng
như mọi người dân có thể hòa mạng bất kỳ chỗ nào hoặc liên lạc với đơn vị,
người thân trên suốt hành trình ở các điểm ăn, nghỉ không làm gián đoạn công
việc sản xuất, kinh doanh và gián đoạn quan hệ với người thân khi tham gia
vào các tour du lịch đến Thủ đô.
Đến với Thủ đô Hà Nội mọi lữ khách có thể chứng kiến sự phát triển và
ứng dụng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên nhiều lĩnh vực, họ được
trở thành cư dân của Thủ đô và đồng thời cũng là công dân toàn cầu được kết
nối với bất cứ địa danh nào trên thế giới thông qua công nghệ điện tử và công
nghệ số thông qua mạng xã hội google, facebook, viber, zalo, youtube,
Twitter,... Hệ thống mạng xã hội bao trùm trên các khu vực ở Thủ đô đã giúp
125
cho các lữ khách có thể chủ động tìm đường đến các địa danh lịch sử hoặc
đến các trung tâm sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, đồng thời mạng xã hội cũng
giúp cho các lữ khách có thể tìm đến các khách sạn, nhà hàng mà lữ khách
mong muốn. Nhờ mạng xã hội hiện đại và có chất lượng cao mà lữ khách đến
Thủ đô vẫn có thể kết nối với các thành viên trong gia đình và trong đơn vị
công tác, kết nối, liên hệ với một cá nhân nào đó mà không bị rò rỉ, lọt thông
tin ra ngoài, không gian cá nhân và không gian xã hội vẫn được tôn trọng.
Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ các loại ở Hà Nội đã được đầu tư xây
dựng, nâng cấp thường xuyên nhờ sự hợp tác với các tập đoàn kinh doanh
khách sạn nổi tiếng thế giới đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Hàn Quốc,
Trung Quốc... Một loạt khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao quốc tế đã lần lượt đưa
vào khai thác từ các năm trước đây như khách sạn Metropole, Nikko, Hòa
Bình, Daewoo, Melia Hà Nội... Một số khách sạn này đã vinh dự được đón
tiếp nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới. Sau những khách sạn đẳng cấp 5
sao là hệ thống khách sạn 4 sao, 3 sao, 2 sao được xây dựng rải rác khắp các
quận trung tâm như hệ thống khách sạn của Công ty du lịch Kim Liên với
hàng nghìn phòng lưu trú các loại....
Hệ thống khách sạn Thủ đô liên kết chặt chẽ với nhau để phục vụ các
đoàn khách du lịch nội địa và quốc tế với những nhu cầu khác nhau. Với năng
lực phục vụ hàng triệu khách du lịch trong cùng một thời điểm nên lữ khách
có thể lựa chọn tùy theo ý thích và tùy theo năng lực tài chính. Các khách sạn
ở Thủ đô đều được thiết kế độc đáo, trên một diện tích rộng rãi có tầng hầm
hoặc sân để xe ô tô, có hệ thống nhà hàng ăn uống, tổ chức sự kiện cho các
đối tượng khách hàng và hệ thống quầy bán hàng lưu niệm, masage, cafe...
Du khách cũng có thể thưởng thức các món ăn ở bên ngoài khách sạn đó là
những hệ thống nhà hàng dịch vụ ăn uống dọc theo các tuyến phố Hà Nội, đặc
biệt khu vực phố cổ như Tạ Hiện, Mã Mây, Hàng Mành, Hàng Nón, Hàng
126
Buồm, Hàng Cân, Hàng Điếu...
Với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, phố cổ Hà Nội là điểm hội tụ nhân
tài bách nghệ khắp bốn phương. Để thúc đẩy phát triển kinh tế đô thị, khôi
phục hoạt động của các phố nghề, phố chuyên doanh trong khu phố cổ Hà Nội
(phố Hàng), tiềm năng của làng nghề truyền thống trong và xung quanh Hà
Nội. Nghề thủ công truyền thống đang cần sự kết nối và tiếp sức của các nhà
thiết kế, nhà đầu tư và đội ngũ doanh nhân để mỗi sản phẩm thủ công truyền
thống mang trong mình thông điệp di sản có tính đại diện của từng địa
phương và khu vực. Để các sản phẩm thủ công trở thành món quà lưu niệm
được du khách ưu chuộng, sáng tạo sản phẩm mới dựa trên giá trị cốt lõi
truyền thống, địa phương cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thiết kế mẫu mã
sản phẩm, bao bì, nhãn mác đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật...
Việc khôi phục và xây dựng lại các làng nghề truyền thống đã được
quan tâm, gắn với phát triển du lịch. Thành phố Hà Nội có lịch sử nghìn năm
văn hiến với kho tàng di sản văn hóa giàu giá trị. Thành phố cũng là nơi tập
trung số lượng làng nghề và các nghệ nhân nhiều nhất cả nước. Trong số gần
5.400 làng nghề ở Việt Nam, Hà Nội chiếm 1/3 với khoảng 1.350 làng nghề.
Tính đến hết năm 2021, Hà Nội có 318 làng nghề, làng nghề truyền thống tiêu
biểu được công nhận thuộc 23 quận, huyện và thị xã, trong đó có 48 làng
được công nhận danh hiệu Làng nghề truyền thống, 270 làng được công nhận
danh hiệu Làng nghề (làng nghề sơn mài, khảm trai; làng nghề nón, mũ lá;
làng nghề mây tre, giang đan; làng nghề chế biến lâm sản; làng nghề thêu ren;
làng nghề dệt may; làng nghề da giày, khâu bóng; làng nghề cơ kim khí; làng
nghề chạm, điêu khắc; làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm; làng nghề
cây sinh vật cảnh và các làng nghề thuộc các ngành nghề khác, như gốm sứ,
làm đàn, át quỳ vàng bạc…). Năm 2022, Hà Nội phấn đấu công nhận thêm 10
làng nghề, làng nghề truyền thống; hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xác nhận
quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể cho 20 làng nghề, làng nghề truyền thống và
127
40 làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận thuộc danh mục được
đánh giá tác động môi trường. Các làng nghề Hà Nội cũng có 47 nghề trong
tổng số 52 nghề truyền thống của cả nước, hội tụ đủ các nhóm nghề. Các làng
nghề của Hà Nội có tính sáng tạo cao với các sản phẩm thủ công đa dạng, độc
đáo, giàu bản sắc văn hóa, như đúc đồng Ngũ Xã, kim hoàn Định Công, nghề
mây tre đan Phú Vinh, chuồn chuồn tre Thạch Xá, nón Chuông, sơn mài Hạ
Thái, quạt Chàng Sơn, rối nước Đào Thục, hoa Tây Tựu, thêu Quất Động…
đã nổi tiếng khắp cả nước. Đặc biệt, sản phẩm của làng lụa Vạn Phúc, làng
gốm Bát Tràng hay làng cốm Mễ Trì… đã được công nhận là thương hiệu
quốc gia. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống Hà Nội có sự kết hợp
giữa văn hóa và trình độ kỹ thuật của người làm nghề, kết tinh giá trị thẩm
mỹ, bàn tay và khối óc tài hoa của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ; không chỉ
có ý nghĩa về mặt kinh tế cho người dân, mà còn phản ánh sinh động lối sống,
phong tục, tập quán và ước mơ, khát vọng của người Thăng Long từ xưa đến
nay. Do đó, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh hoa của các làng nghề
truyền thống Hà Nội vừa khơi dậy và lan tỏa sức sáng tạo, vừa góp phần hình
thành thương hiệu riêng.
Việc thành phố Hà Nội chính thức trở thành thành viên Mạng lưới các
thành phố sáng tạo của UNESCO được người dân kỳ vọng về một hình ảnh
mới của Thủ đô với vị thế ngày càng nâng cao, các lĩnh vực sáng tạo văn hóa
được quảng bá rộng hơn, tạo môi trường thúc đẩy sự sáng tạo, biến thiết kế
sáng tạo trở thành giải pháp phát triển văn hóa, kết nối hiện tại và tương lai.
Làng nghề truyền thống Hà Nội với nhiều ưu thế nổi bật đã và đang góp phần
bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc và thúc đẩy thiết kế sáng tạo trong quá phát
triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Du lịch làng nghề được đánh giá là loại hình du lịch có nhiều tiềm năng
bởi tính sinh động, đa dạng và phong phú. Hà Nội hiện có 806 làng nghề với
hơn 300 làng nghề truyền thống tiêu biểu, có nhiều lợi thế phát triển du
128
lịch, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với Thủ đô. Những năm
qua, nhiều làng nghề trên địa bàn Hà Nội đã tận dụng lợi thế sẵn có để khai
thác tiềm năng du lịch và đã có những thành công bước đầu, trở thành điểm
đến hấp dẫn du khách. Làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc… đã và đang
thành công trong việc phát triển du lịch làng nghề khi đón nhiều lượt khách
du lịch trong ngày với các hoạt động tham quan nơi sản xuất, mua hàng làm
quà lưu niệm. Hà Nội còn nhiều làng nghề lâu đời khác như mây tre đan Phú
Vinh (huyện Chương Mỹ), thêu Quất Động (huyện Thường Tín), tò he Xuân
La, khảm trai Chuôn Ngọ (huyện Phú Xuyên), làng Kiêu Kỵ (nơi duy nhất
trong cả nước làm nghề vàng, bạc quỳ), phường rối Chàng Sơn (huyện Thạch
Thất... có tiềm năng lớn trong việc phát triển trở thành điểm du lịch, có thể
gắn kết với các sản phẩm du lịch khác để phát triển bền vững.
Các làng nghề thủ công truyền thống của Hà Nội ngày càng hấp dẫn du
khách bởi những giá trị văn hóa lâu đời và sự sáng tạo của những người thợ
làng nghề qua từng sản phẩm thủ công đặc trưng. Du khách đến với làng nghề
của Hà Nội không chỉ được ngắm cảnh quan của một làng quê đặc trưng vùng
đồng bằng Bắc bộ với cây đa, giếng nước, sân đình, mà còn được tham quan
nơi sản xuất, trực tiếp tiếp xúc với thợ thủ công và tham gia làm thử một vài
công đoạn sản xuất các sản phẩm. Điều này tạo nên sức hấp dẫn riêng của du
lịch làng nghề.
4.2.2. Khôi phục và phát triển ẩm thực truyền thống
Du lịch phát triển ở Thủ đô Hà Nội đã đem lại rất nhiều sự thuận lợi cho
việc bảo tồn và phát huy những di tích lịch sử văn hoá, ngoài việc khôi phục
và phát triển các công trình kiến trúc và làng nghề truyền thống, thì ẩm thực
cũng là di sản văn hoá độc đáo của Thủ đô Hà Nội. Đối với ẩm thực việc lên
thực đơn một cách phong phú, đa dạng, hấp dẫn với từng du khách cũng
không kém phần quan trọng. Các món ăn được lựa chọn chế biến vừa phù hợp
129
với nhu cầu của du khách vừa mang bản sắc văn hoá riêng của người Tràng
An. Giá cả cũng rất phải chăng tuỳ vào đoàn đông người hay ít người, nhiều
món hay ít món, theo nhu cầu của khách du lịch.
Qua khảo sát thực đơn của 06 đoàn khách của ba công ty du lịch lữ hành:
Công ty Lữ Hành Hanoitourist, Công ty cổ phần du lịch Vietsense, Công ty
TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương chúng tôi thấy:
Đối với du khách là người nước ngoài thường chọn cho mình thực đơn gồm
các món đặc trưng như: nem rán, gà rán, phở, chả cá, bún thang, bún chả, nộm
bò khô hầu như lúc nào cũng có trong thực đơn của các đoàn khách.
Đối với khách du lịch nội địa thường chọn thực đơn gồm các món: Gà hấp,
nem rán, rau luộc, thịt lợn rang, cơm canh cua rau đay, cá nướng, lẩu riêu cua,
bắp bò… cũng có đoàn khách đặt ăn chuyên đề các món như: phở, bún chả đều
là những món mang đậm nét văn hoá ẩm thực truyền thống của Hà Nội.
Khách du lịch đến với Hà Nội rất đa dạng và nhiều thành phần, mỗi một
thành phần du khách đến Thủ đô lại có những sở thích khác nhau. Hình ảnh
khách du lịch nước ngoài thong dong qua các con phố nhỏ ở khu vực phố cổ
thưởng thức các món ẩm thực, nhâm nhi cùng chai bia ở vìa hè trên phố Tạ Hiện
đã trở nên rất phổ biến, hoạt động này diễn ra đến 2 hoặc 3 giờ sáng. Trong quá
trình đó họ rất quan tâm đến quang cảnh và tìm hiểu các nét văn hoá truyền
thống thông qua các quảng cáo của các công ty du lịch lữ hành, các tờ rơi hay
các mặt hàng đồ lưu niệm truyền thống, đối với khách du lịch nước ngoài họ rất
thích mua cho mình các quà lưu niệm mang đậm dấu ấn văn hoá địa phương,
còn đối với ẩm thực họ cũng rất thích các món ăn của Hà Nội. Các món ăn như
gà rán, nem rán được du khách nước ngoài quan tâm lựa chọn, anh Nguyễn
Xuân Trường, hướng dẫn viên du lịch Công ty Lữ hành Hanoitourist cho biết:
“Khách du lịch nước ngoài ít người ăn được món ăn có độ cứng, nhiều xương
như cá, thích các món ăn có độ mềm như gà rán, nem rán”. Khi được hỏi thích
ăn món gì nhất ở Hà Nội thì Adam Smit trả lời: “Đến đây chỉ thích ăn nem rán
130
và gà rán và phở, còn sợ món cá lắm vì có nhiều xương”. Từ thực tế trên cho
thấy du khách nước ngoài đối với ẩm thực điều mà họ chú ý không phải là
thưởng thức các hương vị của món ăn mà là cách chế biến chúng như thế nào.
Đối với khách du lịch nội địa khi đến Hà Nội ngoài các món ăn truyền
thống thì cũng rất thích trải nghiệm ẩm thực đường phố. Nộm thịt bò khô Hà
Thành đã làm cho nhiều lữ khách phương Nam nhớ mãi. Nộm được chế biến
từ quả đu đủ xanh đanh độ bánh tẻ, không non và cũng không già. Sau khi
được gọt vỏ cẩn thận, cùi đu đủ được nạo thành sợi nhỏ đều nhau, vừa mềm,
vừa giòn khi được sử dụng, đu đủ sợi được để hơi se lại, khô ráo, sau đó trộn
với một chút nước mắm, dấm, nước đường. Phía trên là những sợi thịt bò khô
đỏ au, đan xen với một chút lá húng láng thơm dậy mùi hấp dẫn. Cái ngon và
thu hút thực khách của nộm thịt bò khô Hà Nội là ở sự kết hợp giữa vị ngọt,
chua, cay, của nước chấm thanh ngọt dịu nhẹ được rưới lên các sợi nộm đu đủ
xanh non và điểm xuyết một chút tương ớt màu đỏ, nhánh húng láng màu
xanh, những hạt lạc rang tạo nên hương thơm và vị bùi bùi, ngậy ngậy cho
thực khách. Mùa hè nóng bức, ngột ngạt nên ăn cơm không thấy ngon, nhưng
các lữ khách phương Nam ra Bắc khi thưởng thức đĩa nộm thịt bò khô dân giã
được bán bởi những người bán dạo trên chiếc xe đẩy bằng tay kêu lọc cọc hòa
cùng tiếng kéo cắt kêu tanh tách vô cùng hấp dẫn. Mỗi người có thể dung tới
vài ba đĩa nộm bò khô mà không thấy chán, bụng no rồi mà miệng vẫn muốn
ăn và anh Xuân Hòa An khi về Nam Bộ rồi vẫn gọi điện và nhắn tin ra Bắc
hỏi thăm chủ bán nộm ven bờ hồ Hoàn Kiếm và hứa sẽ trở lại Hà Thành để ăn
món nộm dân giã giữa lòng Thủ đô. Trong văn hóa ẩm thực, có những người
khi được ăn những món ăn đường phố dân giã như nộm bò khô, con người
cảm thấy được tự do, phóng khoáng, được ăn nói vui vẻ với người thân ngay
trong lúc ăn uống một cách thoải mái giữa đất trời, không phải ngồi trong
phòng ăn với 04 bức tường, có quạt hay điều hòa nhiệt độ ngột ngạt.
Hay như đoàn khách đến từ miền Nam đánh giá: Cái ngon của bánh
131
cuốn Thanh Trì còn được tăng lên khi được ăn với loại nước chấm đặc biệt
được pha từ nước mắm Cát Hải nguyên chất với nước lọc tinh khiết cho nó
vừa phải không mặn không nhạt, tạo màu vàng mật ong từ những thìa nhỏ
đường cát cùng với những lát ớt đỏ tươi được thái chéo góc và một chút hạt
tiêu Phú Quốc xay nhỏ tạo vị cay nhè nhẹ mà mỗi thực khách sẽ cảm nhận
được khi thấy tê tê đầu lưỡi. Độ chua từ dấm xứ Thanh hoặc từ những lát
chanh tươi Thanh Hà (Hải Dương) tuỳ theo thị hiếu của từng thực khách làm
cho miếng bánh cuốn trở nên hấp dẫn vô cùng. Hà Thành xưa còn phổ biến
cách pha nước chấm bánh cuốn Thanh Trì với cà cuống tạo ra một hương vị
độc đáo khi thưởng thức món ăn bình dân mà độc đáo này. Cà cuống là một
loài côn trùng có cánh, thuộc họ nhà ve sầu, nhưng kích thước to hơn dài
khoảng 5-7cm, mình dẹt, thân có đốt, màu xám, có 6 chân, cánh 2 lớp có thể
bay cao vài chục mét. Vào hè hằng năm là cà cuống bay nhiều quanh những
ngọn đèn đường phố vào ban đêm. Người Hà Thành đã phát hiện ra hương
thơm vị cay chứa trong bầu nhỏ phía đuôi con cà cuống là một loại tinh dầu
đặc biệt, khi nhỏ vài giọt tinh dầu nguyên chất này vào bát nước chấm, ngoáy
đều lên, thực khách sẽ cảm thấy mùi thơm của cà cuống hoà cùng mùi thơm
của nước mắm chanh pha lẫn vị cay của hành, ớt, hạt tiêu… là một hương vị
hấp dẫn bất cứ thực khách nào. Bánh cuốn cà cuống được điểm xuyết một vài
ngọn húng láng mầu tím, vị cay thơm nhè nhẹ làm cho thực khách cảm thấy
sự hội tụ của hương vị đất trời.
Có thể thấy với du khách nước ngoài, điểm hấp dẫn không phải là hương vị
món ăn mà là cách chế biến các món ăn đó thế nào, còn đối với khách du lịch
trong nước ngoài cách pha chế thì hương vị là cái thu hút, hấp dẫn họ nhiều nhất.
Du khách thưởng thức món ăn không chỉ ở hương vị mà ở cách pha chế, chế
biến cùng với không gian phong phú, mang đậm bản sắc phố phường Hà Nội
xưa. Cách lựa chọn và chế biến món ăn của người dân Thủ đô phù hợp với nhu
cầu của khách du lịch đã đem lại lợi nhuận không chỉ về kinh tế mà thông qua
món ăn họ đã gửi thông điệp và trao truyền thông điệp bản sắc văn hoá, một bản
132
sắc mang tính lựa chọn đến với du khách. Đó chính là một hình thức quảng bá và
bảo tồn bản sắc mà môi trường du lịch đóng một vai trò rất quan trọng. Và điều
này đúng với quan điểm của Mallita (2011) việc lựa chọn những thực hành văn
hoá do chính chủ thể văn hoá của cộng đồng đó không những làm cho bản sắc
mang tính lựa chọn mà còn là phương pháp bảo tồn hữu hiệu nhất.
4.3. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động du lịch lữ hành ở Thủ đô
Đã từ lâu các quốc gia đang phát triển và cả quốc gia phát triển đều tập
trung đầu tư cho các ngành dịch vụ ngày càng nhiều hơn so với các ngành
thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tỷ trọng kinh tế do các
ngành dịch vụ ngày càng cao trên quy mô toàn cầu và ở nhiều quốc gia phát
triển tỷ trọng đó chiếm tới 70% hoặc 80%. Do hiệu quả của các ngành dịch vụ
đem lại cho các quốc gia cả về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường mà
họ gọi du lịch và phục vụ du lịch là ngành công nghiệp không khói.
Du lịch Thủ đô trong 3 năm khảo sát đã có những tiến bộ đặc biệt về quy
mô cũng như về chất lượng và hiệu quả nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(4.0) và nền kinh tế tự động hoá, số hoá mà các quốc gia ngày càng xích lại
gần nhau hơn, đồng thời cạnh tranh cũng quyết liệt hơn. Du lịch Thủ đô cũng
đang trải qua và đứng trước những cơ hội và thách thức mới rất đa dạng và
phức tạp. Vì vậy, muốn cho ngành du lịch Thủ đô tiếp tục đứng vững và phát
triển chúng ta cũng cần phải tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết thoả đáng
nhưng vấn đề đặt ra cho ngành du lịch Thủ đô hiện nay. Du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp, hội tụ trong nó những kiến thức và quy luật về kinh tế, văn
hoá, xã hội, luật pháp, chính trị, an ninh… Trong khuôn khổ của luận án này,
NCS xin nêu lên và phân tích một số vấn đề cơ bản sau đây.
4.3.1. Vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch
Chất lượng dịch vụ khách du lịch là một khái niệm rộng, bao gồm cả
những tiêu chí cụ thể và cả những tiêu chí trừu tượng. Theo lẽ thông thường
133
người ta hiểu chất lượng dịch vụ là tốt khi lữ khách được đáp ứng đầy đủ
những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, mua sắm, vui chơi giải trí theo hợp đồng
đã ký kết. Nhưng điều cần thiết và quan trọng đối với ngành du lịch Thủ đô
là: Du khách cảm thấy như thế nào khi tham gia tour du lịch, khi trải nghiệm
những hoạt động, sinh hoạt trên suốt hành trình. Họ cảm thấy có hài lòng hay
không hài lòng? Sự hài lòng đó là thực sự hay chỉ là những nụ cười, những lời
cảm ơn, những cái bắt tay mang tính xã giao.
Trên thực tế khi kết thúc tour du lịch có những lữ khách đã khóc, đã xúc
động cảm ơn HDV du lịch và đơn vị tổ chức tour du lịch cho họ đi thăm Hà Nội
cũng có những khách du lịch đến thăm Thủ đô lần thứ 2 lần thứ 3 như chị Cao
Khiết (người Trung Quốc) hoặc anh B. Adam (người Ba Lan) …nhưng những
trường hợp như vậy còn quá ít mà đa số khách du lịch quốc tế chỉ đến thăm Thủ
đô một lần và nhiều năm chưa quay lại. Hiện tượng đó nói lên điều gì? Đó là
điều trăn trở, suy nghĩ của những người làm công tác quản lý ngành du lịch và
cũng là vấn đề mà trong quá trình khảo sát, nghiên cứu thu hút tâm trí của NCS.
NCS thấy rằng công ty du lịch lữ hành nào cũng muốn lan toả tầm ảnh
hưởng cũng muốn thu hút thật nhiều khách du lịch nội địa và quốc tế đến với
công ty mình để nhân viên có việc làm, có thu nhập cao… nhưng trên thực tế
có nhiều công ty lữ hành không duy trì được hoạt động của đơn vị mình, thậm
chí có những công ty phá sản. Mấu chốt của vấn đề chính là không ngừng
nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, mỗi một đơn vị trong ngành du lịch
muốn đề ra được đường lối kinh doanh đúng và dịch vụ có hiệu quả thì phải
nhận dạng đúng và đủ những thách thức đối với du lịch Thủ đô hiện nay. Đó
là thách thức giữa số lượng khách du lịch đến Hà Nội ngày càng đông (trên 10
triệu người/năm) và nhu cầu của khách ngày càng cao, đa dạng với trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý còn yếu của cán bộ và nhân viên
trong ngành du lịch Thủ đô; đó là thách thức giữa sự phát triển ồ ạt của du
134
lịch nội địa và quốc tế (khách Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga đến du lịch Thủ
đô theo những đoàn đông hằng trăm người) với sự lạc hậu của những văn bản
quy định và những chế tài xử lý chưa tương thích.
Để vượt qua những thách thức trên không ngừng nâng cao chất lượng
dịch vụ, chúng ta cần phải quan tâm đến những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là vấn đề con người trong ngành du lịch Thủ đô, hiện nay các
công ty du lịch lữ hành thường tuyển dụng nhân viên tốt nghiệp cử nhân du
lịch ở Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Khoa học xã hội và nhân văn sau
đó là sinh viên tốt nghiệp ở các trường cao đẳng du lịch Hà Nội, Đại học Mở
Hà Nội. Số nhân viên tốt nghiệp từ những trường nói trên có ưu điểm là được
đào tạo bài bản, được học các môn khoa học xã hội nhân văn cùng một số
môn học về kỹ năng ký kết hợp đồng, kỹ năng hướng dẫn… nhưng số nhân
viên này rất ít người có thể sử dụng được một ngoại ngữ thành thạo nên rất
hạn chế trong quá trình hoạt động, marketing, quảng cáo, ký kết hợp đồng
hoặc hướng dẫn khách du lịch tại các tuyến, điểm. Mặt khác, số cán bộ này
thiếu kiến thức thực tế, đa số chỉ tìm hiểu thông tin thị trường, thông tin khách
hàng… qua mạng xã hội nên nhiều khi tiếp thị sai, ký kết hợp đồng không sát
thực tế (có khi giá quá cao nên khách không sử dụng dịch vụ hoặc giá lại quá
thấp dẫn đến chỉ vừa đủ chi phí mà không có lãi…).
Để khắc phục những hạn chế trên, Công ty Lữ Hành Hanoitourist đã
nhận thêm một số sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học Ngoại ngữ, đại
học Ngoại thương, đại học Ngoại giao, số sinh viên tốt nghiệp tại những
trường này có trình độ ngoại ngữ tốt hơn, nhưng đó là lĩnh vực thương mại
hoặc giao tiếp xã hội mà còn thiếu những vốn từ, những thuật ngữ về du lịch,
về ngân hàng tài chính, về văn hóa, lịch sử và đặc biệt là bị hổng cả mảng
kiến thức về du lịch lữ hành, khách sạn, nhà hàng… Nếu họ tích cực học thêm
hoặc tham gia các lớp bồi dưỡng cũng phải mất khoảng một thời gian dài.
135
Như vậy là trong công ty tồn tại hai nhóm cán bộ song song: nhóm biết ngoại
ngữ nhưng lại thiếu kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn về du lịch lữ hành và
ngược lại, nhóm được đào tạo du lịch lữ hành thì lại yếu ngoại ngữ.
Để lấp chỗ trống và khắc phục khó khăn đó lãnh đạo các công ty phải
thuê HDV tự do bên ngoài chuyên đưa dẫn khách quốc tế tiếng Anh, Pháp,
Nga, Trung… những HDV tự do này có hàng chục năm kinh nghiệm đã từng
đón, đưa hàng trăm đoàn khách quốc tế nên họ có năng lực chuyên môn khá
hơn nhiều so với nhóm cán bộ nhân viên hợp đồng dài hạn ở công ty, nhưng
khi mời HDV tự do này cũng có nhiều trục trặc, băn khoăn bởi vì lịch làm
việc của họ dày đặc, liên tục nhiều khi có đoàn khách quốc tế mà không thuê
được HDV như ý, phải sử dụng HDV kém hơn, cũng có nhiều HDV tốt, có uy
tín nhưng HDV tự do thường không quan tâm nhiều đến việc giữ gìn thương
hiệu và uy tín của công ty mà họ luôn tìm mọi cách để kiếm tiền của du khách
khi tham gia tour; họ thường dịch vụ đổi tiền với giá cao hơn bình thường
hoặc ngầm thỏa thuận với các cửa hàng bán đồ lưu niệm, các hiệu sịch vụ spa,
masage… để ăn tiền chênh lệch rất cao khi lữ khách có những nhu cầu cá
nhân, đột xuất. Những hoạt động đó khá phổ biến hiện nay và lữ khách đã đi
du lịch nhiều nơi nên họ đều biết cả nhưng phải lặng lẽ chấp nhận với sự bực
bội hoặc không hài lòng.
Để khắc phục tình trạng này thì các trung tâm đào tạo du lịch phải thay
đổi chương trình đào tạo hiện đại hơn, sát hợp với thực tế và đặc biệt là phải
nâng cao trình độ ngoại ngữ cho sinh viên để sau 4 năm học ra trường họ có
thể sử dụng thành thạo ngoại ngữ vào chuyên môn du lịch lữ hành của mình.
Thứ hai, là vấn đề tổ chức bộ máy của ngành du lịch Thủ đô. Thủ đô là
thành phố lớn nên Sở Du lịch đã được thành lập riêng, tách ra khỏi Sở Văn
hóa và Thể thao, Sở thực hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa
bàn Thành phố, Sở vừa quản lý các công ty du lịch lữ hành về mọi mặt, vừa
chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra mọi hoạt động du lịch lữ hành trên địa
136
bàn. Điều đó đã giúp cho việc quản lý nhà nước sâu sát, kịp thời hơn, mô hình
tổ chức của mỗi công ty du lịch hiện nay khá đơn giản, không nhiều nhân viên
dư thừa như trước để công ty tiết kiệm chi phí, phát huy năng lực sở trường
của từng người trong công ty. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là việc xây dựng
một mạng lưới liên ngành để kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách du lịch hoặc
kịp thời ứng biến với những biến đổi của thị trường theo mùa, theo các kỳ
nghỉ lễ, tết dài ngày hoặc khi có thiên tai, dịch bệnh.
Hệ thống tổ chức của các đơn vị du lịch và phục vụ du lịch như khách
sạn, nhà hàng, ô tô, di tích lịch sử văn hóa… trên địa bàn Hà Nội đã được
phối hợp, liên thông trong một chừng mực nhất định thông qua việc ký kết
hợp đồng trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua liên lạc bằng điện thoại, tin nhắn,
hình ảnh trên mạng xã hội. Trong điều kiện bình thường thì sự phối hợp, kết
hợp giữa các đơn vị trong ngành du lịch là tạm ổn định, đa số đáp ứng được
nhu cầu của các đoàn lữ khách. Nhưng trong những dịp cán bộ, viên chức,
công nhân được nghỉ lễ nhân dịp nghỉ tết âm lịch dài ngày, nhân dịp giỗ tổ
Hùng Vương (10/3 âm lịch), nhân dịp Hội xuân ở Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, ở các đền, phủ, đình, chùa… thì việc phục vụ khách du lịch nội địa và
quốc tế gần như bộc lộ rất nhiều những thiếu sót mà thiếu sót này được lập đi
lập lại đã nhiều năm. Đó là máy bay chậm chuyến, dồn khách không đúng
như giờ bay, chuyên bay ghi trên vé, thiếu ô tô vận chuyển khách du lịch,
đường giao thông bị tắc nghẽn, bị ùn ứ cản trở việc giao thông đi lại gây khó
khăn cho các công ty thực hiện hợp đồng du lịch, khách sạn, nhà hàng, các địa
điểm tham quan du lịch, nghỉ dưỡng tập trung quá đông người trong một vài
ngày dẫn đến phòng nghỉ thiếu, không đạt chuẩn như quy định. Bữa ăn cũng
kém chất lượng, giá cả tăng vọt khó kiểm soát, nguồn gốc thực phẩm rất đa
dạng, có những khi thực khách không được thưởng thức món ăn tươi ngon;
các điểm vui chơi giải trí, các đền phủ thực hành nghi lễ tâm linh, các lễ hội
(Yên Tử, Bái Đính, Chùa Hương…) luôn luôn quá tải làm cho khách du lịch
137
cảm thấy mệt mỏi vì phải chờ đợi, chen lấn. Vì thế mà hằng năm cứ đến mùa
lễ hội đầu xuân, cứ đến những dịp nghỉ lễ, tết thì ngành du lịch phải chịu quá
nhiều áp lực, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khắc phục
được những tồn tại yếu kém bởi tình trạng chen lấn, xô đẩy, bởi những hoạt
động tiêu cực của một bộ phận người dân tham gia du lịch, chính vì thế mà
hình ảnh về du lịch Thủ đô, cũng như du lịch ở một số địa phương khác đã bị
xấu xí, đã bị lu mờ và bị nhiều lữ khách than phiền.
Chính là trong những thời điểm lịch sử quan trọng mà du khách từ các
địa phương và từ các quốc gia mới tập trung về Thủ đô, nếu chúng ta cải tiến
cách phục vụ, nâng cao chất lượng thì doanh số thu được trong dịp nghỉ tết
hoặc nghỉ lễ 30/4 và 1/5 có thể bằng doanh thu cả một tháng bình thường và
một năm có khoảng gần mười thời cơ cho du lịch gặt hái cả về kinh tế, cả về
xây dựng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. NCS đã trao đổi với nhiều
chuyên gia văn hoá, với một số chuyên gia du lịch lữ hành về vấn đề này,
đồng thời cũng suy nghĩ và mong muốn để làm sau ngay trong những thời
điểm tập trung nhiều đoàn khách du lịch về thăm Thủ đô mà chúng ta vẫn
phục vụ tốt, vẫn giữ gìn được hình ảnh tốt đẹp của du lịch Thủ đô. Từ những
kinh nghiệm khi được tham gia dự hội thảo về giữ gìn trật tự văn hoá trong
những dịp lễ khai ấn Đền Trần (Nam Định), từ việc tiếp thu ý tưởng của các
nhà quản lý, tổ chức lễ giỗ Tổ Hùng Vương, NCS và một số người cùng quan
điểm đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau đây:
Cần tìm cách mở rộng, phát triển không gian xung quanh các di tích lịch
sử văn hoá để đủ sức đón tiếp nhiều đoàn khách du lịch cùng tập trung ở một
thời điểm, không gian đó có thể là những vùng đất, vùng đồi núi, hoặc sông,
hồ bên cạnh và liên quan đến di tích, tiếp đó là cơ quan có thẩm quyền kết
hợp với các nhà khoa học nghiên cứu, cho phép mở rộng thời gian tổ chức sự
kiện dài thêm, không chỉ một ngày hoặc hai ngày như các cụ vẫn làm từ trước
đến nay, mà chúng ta có thể kéo dài ra vài ngày nữa theo cách triển khai vẫn
138
lấy giờ thiêng, ngày thiêng là trung tâm, nhưng tổ chức sớm hơn một vài ngày
và muộn hơn một vài ngày tương ứng với thời gian được phép nghỉ của nhà
nước hoặc dài hơn nữa cho Nhân dân và khách du lịch quốc tế trải nghiệm.
Nếu chúng ta tổ chức dãn rộng ra theo hai chiều không gian và thời gian,
đồng thời cơ quan quản lý các di tích lịch sử văn hoá bố trí cho các đoàn
khách đến vào những khoảng thời gian theo kế hoạch thì sẽ tránh được sự
“dồn toa” của khách, chất lượng sẽ được nâng cao.
Cũng có thể nhà nước nghiên cứu cho các trung tâm văn hoá du lịch ở
các địa phương, đặc biệt là ở các thành phố Huế, Thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Cần Thơ cũng xây dựng những chương trình tổ chức sự kiện mang
tầm cỡ quốc gia để phục vụ khách du lịch ở các vùng miền Trung, miền Nam,
tạo nên một hình ảnh tham gia các sự kiện của Nhân dân trên mọi miền đất nước.
4.3.2. Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá gắn với
hoạt động du lịch lữ hành
Về mặt nguyên tắc, việc bảo tồn phát huy giá trị các di sản văn hoá là
trách nhiệm chung của mọi công dân Việt Nam ứng xử với các di tích lịch sử
văn hoá và di sản văn hoá quốc gia cũng như di sản văn hoá được Unesco
công nhận là di sản văn hoá thế giới. Điều đó có nghĩa là nếu các nhà quản lý
văn hoá và các cán bộ, nhân viên có trách nhiệm trực tiếp nghiên cứu, bảo
quản, tu bổ… các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử trên địa bàn Thành
phố Hà Nội. Sự bảo tồn đó mang tính chất chuyên môn về kiến trúc, điều
khắc, lịch sử, bảo tồn, xử lý chống mối mọt… nhưng muốn cho di sản văn
hoá, di tích lịch sử danh thắng Thủ đô phát huy hết giá trị của nó rất cần đến
sự hợp tác của một số ngành liên quan mà trước hết là những người làm công
tác du lịch lữ hành, bởi vì chỉ khi có nhiều người biết đến vẻ đẹp của các kiến
trúc, biết đến những câu chuyện, những vấn đề xảy ra xung quanh kiến trúc
đó nhờ những hoạt động của con người từ xưa đến nay, đồng thời có nhiều
139
người thực hiện, làm theo những giá trị đạo đức, những triết lý nhân sinh của
tôn giáo, tín ngưỡng dân gian làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, khi đó là
đã góp phần phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hoá.
Trong thực tế, các công ty du lịch lữ hành được khảo sát, nghiên cứu như
Công ty Lữ Hành Hanoitourist, Công ty cổ phần du lịch Vietsense, Công ty
TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương đều hướng mọi hoạt động của
mình vào việc tuyên truyền quảng bá, hướng dẫn để cho các đoàn lữ khách
nội địa và quốc tế hiểu biết sâu hơn về lịch sử văn hoá Thủ đô, về những giá
trị lịch sử, giá trị tâm linh, giá trị đạo đức…của các di sản văn hoá Thủ đô.
Chúng ta biết rằng bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, di sản
văn hoá là hai mặt của một vấn đề: Bảo tồn để phát huy và phát huy để bảo
tồn. Trong bảo tồn có phát huy và trong phát huy có bảo tồn, muốn làm được
điều đó một cách hiệu quả nhất và phù hợp với chuyên môn nhất đối với các
nhân viên của các công ty du lịch lữ hành mà trực tiếp là các HDV du lịch thì
ngay từ khi ký hợp đồng dịch vụ du lịch với các đoàn lữ khách, trong bản hợp
đồng của các công ty đã phải có những điều quy định chặt chẽ, phù hợp để
người tham gia du lịch hiểu biết, chấp hành đúng luật pháp Việt Nam, chấp
hành đúng luật di sản và góp phần xây dựng không gian văn hoá du lịch văn
minh, tiến bộ.
Xây dựng không gian văn hoá du lịch văn minh, tiến bộ là một vấn đề
cấp bách đặt ra đối với hoạt động tham quan du lịch của khách du lịch nội địa
và quốc tế ở các điểm du lịch Thủ đô hiện nay.
Năm 2018, Công ty Lữ Hành Hanoitourist đón 95 đoàn khách du lịch nội
địa và quốc tế, số lượng khách lữ hành lên tới 2.648 người, đó là một lượng
khách không phải là nhiều nhất nhưng cũng là một con số đáng để họ được
trải nghiệm trong hoạt động đa dạng ở các điểm du lịch Thủ đô và cũng đồng
thời tham gia vào xây dựng không gian văn hoá du lịch Thủ đô văn minh. Để
các lữ khách chủ động trong mọi hoạt động của mình trong suốt hành trình ở
140
các tuyến, điểm du lịch thì ngay từ buổi tiếp xúc ban đầu, HDV du lịch của
công ty đã chia sẻ, phổ biến và nhắc nhở khách du lịch đặc biệt là khách quốc
tế về những quy định trang phục khi đến tham quan ở các nơi tâm linh… Cụ
thể là yêu cầu khách du lịch không được mặc trang phục quá ngắn, quá bé,
không kín đáo khi vào thăm các di tích lịch sử văn hoá tâm linh, không để
hiện tượng du khách nam mặc quần đùi, áo may ô 3 lỗ, hoặc khách nữ mặc
quần quá ngắn, áo 2 dây hoặc để hở phần bụng quá nhiều khi tham gia du lịch
cùng với đoàn khách. Đa số du khách đều hiểu và tự giác chấp hành vui vẻ,
nhưng cũng có một số trường hợp do họ vội vàng mà quên mất khi xuống ô tô
để vào thăm các di tích mới nhớ ra. Theo đúng nội quy được thông báo bằng
tiếng Việt và tiếng Anh, Pháp… ở Đền Ngọc Sơn, Văn Miếu – Quốc Tử Giám…
thì vị khách đó không được vào trong không gian của di tích mà phải đứng ngoài
chờ, khi đoàn ra thì nhập cùng đoàn. Nếu như vậy thì du khách sẽ buồn bởi vì họ
bỏ tiền ta mà không được trải nghiệm, tham quan (mặc dù lỗi đó là chính bản
thân họ gây ra). HDV du lịch của công ty đã nhanh chóng xử lý tình huống này
bằng cách mua một tấm lụa Hà Đông cho du khách này để cuốn quanh người và
khi đó mọi việc đã được giải quyết, cái quần sóc ngắn quá mức và lại bị tác động
cho tạo ra một vài vết rách “nghệ thuật” đã được che đi và cô gái người Hà Lan
này đã thực hiện được mơ ước của mình. Từ những xử lý lẻ tẻ của HDV du lịch
ở các công ty như vậy mà Ban Quản lý di tích lịch sử danh thắng Đền Ngọc Sơn
đã quyết định đầu tư chế tạo một số mảnh vải, mầu ghi sáng, chất liệu coton để
cho khách du lịch mượn khi cần thiết để hoàn thành chương trình du lịch của
mình và không gian văn hoá tâm linh không hề bị ảnh hưởng.
Vấn đề tiếp theo là việc một số lữ khách khi đến các di tích lịch sử thích
khắc, vẽ tên mình và tên người yêu lên các tượng đá, tượng gỗ, lên các bệ thờ
thần Phật hoặc lên các cột đình chùa… mặc dù hành vi này là nghiêm cấm và
nhân viên bảo vệ các di tích luôn luôn tuần hành, theo dõi nhưng vấn nạn này
vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Một ai đó viết, vẽ, khắc tên lên một số hiện vật ở di
141
tích lịch sử đã làm cho nó trở nên xấu xí, bẩn thỉu và nhếch nhác, từ đó có thể
nhiều người sẽ làm theo, do đó di tích đã bị xâm hại và không gian văn hoá du
lịch đã không còn nguyên vẹn.
Việc viết, vẽ, khắc tên mình lên di tích lịch sử là một hiện tượng khá phổ
biến ở nhiều quốc gia, khi đi tham quan ở Trung Quốc, ở Ý, Pháp, Đức,
Nga… chúng tôi cũng thấy những hiện tượng tương tự. Có lẽ tâm lý muốn lưu
danh ở chốn linh thiêng hoặc muốn để lại bút tích cho hậu thế là một tâm lý
phổ biến của con người từ hàng nghìn năm trước. Nếu đó là vị vua, chúa thì
sẽ cho bầy tôi tạo tác bia đá để khắc bài phú, bài thơ của mình, nếu một hầu
tước, bá tước chúa tể một vùng rộng lớn cũng có thể dựng bia đúc chuông,
xây một kiến trúc để đánh dấu một sự kiện nào đó gắn với cuộc đời ông ta
(như ông đã đến đó cùng vợ ngày nào hoặc tổ chức tiệc tùng hôn lễ ở đây
hoặc có trận chiến đại thắng quân thù…).
Những vĩ nhân hoặc người giầu có, chức tước cao mong muốn và làm
như vậy, còn người bình dân cũng có mong muốn như vậy nhưng họ phải làm
vụng trộm bằng cách tìm cách khắc phục tên mình lên hiện vật đó, đó là điều
đáng trách và cũng là hành vi bị pháp luật trừng phạt bằng cách phạt tiền hoặc
truy tố (nếu xâm hại di tích nghiêm trọng).
Chúng tôi nghĩ rằng, các công ty lữ hành có thể đề nghị cơ quan có thẩm
quyền về quản lý văn hoá hãy tìm cách để các lữ khách có tâm lý muốn để lại
kỷ nhiệm, để lại bút tích của họ một cách văn hoá, đúng pháp luật thì cũng
góp phần thu hút khách du lịch đến nhiều hơn. Chúng tôi nghĩ rằng: nếu như
ở một số di tích có không gian rộng rãi, chúng ta có thể cho xây những bức
tường bằng gạch hoặc bằng đá để cho mỗi lữ khách có thể ký tên vào một ô
chứng tỏ họ đã đến nơi này và tất nhiên họ phải trả một khoản phí nhất định
(tuỳ theo vị trí và tuỳ theo diện tích mà họ sử dụng).
Một vấn đề đặt ra đối với du lịch Thủ đô là việc không gian văn hoá ở
các điểm du lịch bị ô nhiễm do rác thải nhựa và rác thải nói chung do khách
142
du lịch thải ra khi đến thăm di tích. Đến bất kỳ di tích nào hiện nay, chúng ta
cũng thấy rác thải nhựa và các loại rác bằng giấy, bằng lá, bằng thức ăn thừa
do khách du lịch thải ra. Người ta có thể xử lý rác từ giấy, lá tương đối dễ
dàng nhờ quá trình thu gom và đốt cháy, nhưng với rác thải nhựa là một vấn
đề khá phức tạp, bởi vì các đoàn khách du lịch thường mang theo nước uống
đóng chai nhựa, bình nhựa, cốc nhựa hoặc túi nilon, thức ăn của khách trong
suốt hành trình ở các tuyến, điểm du lịch cũng có lúc được thiết kế mang theo
từng xuất ăn đựng trong các hộp nhựa, túi nhựa…
Rác thải nhựa hiện nay đang tấn công con người ở khắp nơi từ thành phố
đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo, từ nơi vui chơi giải trí đến nơi thờ
cúng linh thiêng, mặc dù ai cũng biết rác thải nhựa phải sau 500 năm hoặc lâu
hơn nữa mới tự tiêu huỷ trong môi trường tự nhiên và những vi lượng của rác
thải nhựa tan vào nước sông, biển tan vào lòng đất lẫn với thức ăn của cá tôm,
gia cầm… thì sẽ rất độc hại với sức khoẻ con người, nhưng do sự tiện lợi và kinh
tế của đồ đựng bằng nhựa đã làm cho chúng ta không thể không sử dụng. Rác
thải nhựa do du khách xả thải ra ở các di tích lịch sử là rất lớn nếu như mỗi du
khách trong một ngày sử dụng từ 10 đến 20 cốc chén nhựa, túi nilon, và với
lượng khách quốc tế trên một triệu người và khách nội địa trên 10 triệu người
đến thăm Thủ đô mỗi năm thì rác thải nhựa lên tới vài trăm tấn. Việc hạn chế, đi
đến chấm dứt việc xả thải rác thải nhựa ở các di tích lịch sử, tuyến điểm du lịch
là một vấn đề quan trọng nếu khắc phục được tình trạng đó thì chúng ta mới xây
dựng được không gian văn hoá du lịch lành mạnh, trong đó có sự đóng góp
không nhỏ của các công ty du lịch Thủ đô và khách du lịch đến Thủ đô.
Để góp phần giảm lượng rác thải nhựa ở các điểm du lịch, các công ty du
lịch có thể tìm ra biện pháp tham gia một cách tích cực, trước hết công ty cần
tuyên truyền, vận động khách du lịch của công ty mình hạn chế hoặc không sử
dụng đồ dùng ăn uống một lần bằng nhựa (cốc nhựa, bát nhựa, chai nhựa, túi
nilon khó phân huỷ…) trong suốt hành trình để du khách tự giác nhận ra tác hại
của việc làm này và tự tìm cách khắc phục. Nhưng nếu chỉ tuyên truyền vận
143
động thì hiệu quả không cao vì du khách rất khó khi phải thay đổi thói quen cố
hữu và cũng rất khó khước từ sự tiện lợi của loại dụng cụ bằng nhựa này. Cho
nên, các công ty du lịch hãy kết nối và thiết kế tour tuyến du lịch hợp lý để du
khách không phải ăn uống tại điểm du lịch mà ăn uống ở khách sạn, nhà hàng.
Nếu như phải đến các điểm xa cần phải mang theo nước uống thì tìm cách liên
hệ với những công ty giải khát cung cấp những chai nước bằng bìa không thấm
nước hoặc sử dụng những túi nhựa đời mới nhanh chóng được phân huỷ trong
điều kiện bình thường. Việc khuyến khích du khách dần dần nói không với đồ
nhựa trong ăn uống, sinh hoạt cũng có thể thực hiện bằng việc giảm giá tour
hoặc tặng du khách đồ uống không đựng trong chai nhựa (miễn phí).
Xây dựng không gian văn hoá du lịch văn minh, tiến bộ cần có sự chung
tay góp sức của nhiều người nhưng trước hết là trách nhiệm của các công ty
du lịch và các đoàn lữ khách đến thăm Thủ đô.
4.3.3. Vấn đề xây dựng thương hiệu du lịch Thủ đô
Thương hiệu là uy tín, là tài sản vô giá của bất cứ ngành nghề kinh
doanh dịch vụ nào và nếu như muốn cho sự nghiệp kinh doanh dịch vụ phát
triển thì ai cũng phải chăm lo xây dựng thương hiệu cho gia đình mình, cho
cửa hàng mình. Cho ngành nghề hoặc cho chuỗi các hoạt động của tổ chức,
đơn vị mình có thể hiểu nôm na thương hiệu là hình ảnh, là chất lượng, uy tín
mang tính tiêu biểu, đặc trưng của một cơ sở kinh doanh nào đó để từ đó tạo
ra sức hút đối với khách hàng và cũng từ đó mà cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ được phát triển. Trên địa bàn Thủ đô Hà Nội hiện nay ngành du lịch
đã phát triển khá toàn diện và mạnh mẽ đã trở thành một ngành nghề, một lĩnh
vực được nhân dân, lữ khách ở nhiều tỉnh thành trong nước biết đến và được
du khách từ nhiều nước khác nhau quan tâm.
Thương hiệu nói chung và thương hiệu du lịch Thủ đô nói riêng có thể
được thể hiện ở những khía cạnh khác nhau như lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ,
sản xuất, trang phục của nhân viên cùng trình độ chuyên môn và thái độ ứng xử
144
của họ trong quá trình triển khai mọi hoạt động, logo của hang (đơn vị) và điều
quan trọng là chất lượng hàng hoá kinh doanh, dịch vụ tốt đẹp, đáp ứng thoả
mãn nhu cầu của quý khách hàng từ đó mà có hàng vạn, hàng triệu người theo
dõi, ủng hộ, quan tâm, ngưỡng mộ góp phần thúc đẩy đơn vị phát triển không
ngừng cả về quy mô, số lượng và cả về uy tín, tầm ảnh hưởng và tài chính.
Muốn cho du lịch Thủ đô phát triển đủ sức đứng vững trước mọi khó
khăn, trước sức ép cạnh tranh của các công ty du lịch khác ở trong nước và
quốc tế, trở thành một bộ phận quan trọng của ngành công nghiệp văn hoá thì
du lịch Thủ đô phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, phát triển, sáng tạo không
ngừng để tìm ra hướng đi độc đáo, phù hợp với hoàn cảnh thị trường trong
nước, quốc tế, trở thành trung tâm lớn mạnh hội tụ, thu hút sự hợp tác, trao
đổi, cộng tác của các công ty thuộc du lịch lữ hành trong khu vực và quốc tế,
đồng thời tạo được tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các thị trường khách du lịch
nhằm thu hút ngày càng nhiều các tour du lịch đến Hà Nội.
Du lịch Thủ đô phải phát hiện, tìm ra được những gì là bản sắc Việt, bản
sắc của Thủ đô, tôn vinh những giá trị độc đáo một cách thuyết phục. Công ty
Lữ Hành Hanoitourist đã tập trung tìm hiểu, khai thác những giá trị độc đáo
của làng cổ Đường Lâm, làng gốm Bát Tràng và những kiến trúc Pháp ở Thủ
đô qua hàng nghìn biệt thự các loại được xây dựng từ những thập niên đầu thế
kỷ XX. Công ty cổ phần du lịch Vietsense tập trung giới thiệu cho khách du
lịch về lễ hội Chùa Hương, về ẩm thực Hà Thành, về chùa tháp và một số bảo
tàng ở Thủ đô. Công ty TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương tập
trung sự chú ý đến những giá trị văn hoá nghệ thuật của kiến trúc phật giáo,
của nghệ thuật ca trù, múa rối nước của những giá trị văn hoá nghệ thuật, tâm
linh, lịch sử của những di tích quanh hồ Hoàn Kiếm.
Mặc dù cách tiếp cận khác nhau và một số nội dung tiếp cận cũng khác nhau
nhưng nhìn chung 3 công ty du lịch lữ hành ở Thủ đô đã đi đúng hướng, bởi vì tuỳ
145
theo thời điểm lịch sử và tuỳ theo nhu cầu của những đoàn khách du lịch mà họ đã
lựa chọn được những di tích, di sản tiêu biểu, độc đáo để tôn vinh những giá trị
khác nhau của Thủ đô Hà Nội, của người Tràng An thanh lịch, văn minh.
Nếu có đoàn khách muốn tìm hiểu về lịch sử cách mạng Việt Nam ở địa
bàn Hà Nội, HDV du lịch đã lập tour đưa khách đến thăm Lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh, thăm bảo tàng Hồ Chí Minh hoặc bảo tàng phòng không, không
quân, di tích Nhà tù Hoả Lò… Nếu có đoàn khách muốn tìm hiểu về truyền
thống lịch sử lâu đời của người Việt trên đất Thủ đô, các công ty du lịch đã
thiết kế để đoàn đến thăm khu di tích Cổ Loa (Đông Anh) thăm Văn Miếu –
Quốc Tử Giám, thăm tứ trấn Thăng Long, thăm hồ Hoàn Kiếm.
Tất cả những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể trên địa bàn Thủ đô
vừa là bản sắc độc đáo của du lịch văn hoá Thủ đô vừa góp phần tạo nên bản
sắc văn hoá Việt Nam. Những giá trị độc đáo của lịch sử, văn hoá, tâm linh
trên đất Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội đã được tuyên truyền, tôn vinh một
cách khoa học, thuyết phục và có chiều sâu.
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật hiện nay, với tốc độ
phát triển nhanh của Internet và mạng xã hội trên nền tảng của công nghệ số, nền
kinh tế số và quá trình số háo đang diễn ra mọi lúc, mọi nơi đòi hỏi các công ty
du lịch Thủ đô phải tiếp tục không ngừng sáng tạo, phải tìm cách tiếp cận giản dị
nhất, cụ thể nhất sao cho mọi lữ khách từ trẻ đến giá, từ nam đến nữ dù ở quốc
gia khác nhau, có nền văn hoá và tôn giáo khác nhau vẫn có thể hiểu và tiếp thu
cảm nhận được những nội dung chúng ta muốn truyền đạt, những tình cảm khát
vọng mà dân ta đang hướng tới, những giá trị cao cả mà dân tộc ta vẫn tôn thờ.
Tránh những nội dung xa lạ, không thực tế, tránh những cách dùng từ ngữ ví von
không chính xác hoặc khó hiểu làm cho lữ khách không thấu hiểu, không chia sẻ
được với những gì mà họ được trải nghiệm ở Thủ đô.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và tiếp xúc với một số lữ khách đến
thăm Thủ đô, chúng tôi được chia sẻ từ một số vị khách nước ngoài như sau:
Chị Xretlama và chị Tanhia người Nga đã đến Việt Nam 2 lần và đang
146
sống ở Việt Nam, khi được nghe về truyền thuyết thần Kim Quy giúp An
Dương Vương xây loa thành chị thấy rất lý thú và hiểu được sự nghiệp An
Dương Vương thành công là nhờ sự giúp đỡ của thần linh. Nhưng hai chị băn
khoăn một điều: Truyền thuyết rất hay nhưng có những điều phi logic và các
chị muốn rằng được nghe HDV phân tích, liên hệ truyền thuyết đó với đời
sống hiện nay thì sẽ tốt hơn nhiều.
Hoặc là anh David người Anh muốn tìm hiểu về truyền thuyết thần thoại
Phương Đông nên khi được nghe về Thăng Long tứ trấn, được nghe về Ngựa
trắng giúp vua nhà Lý xây dựng kinh thành thì anh cảm thấy rất thần bí và cảm
phục trí tưởng tượng của người xưa. Nhưng điều đó có giúp gì cho nhận thức,
cho niềm tin và cho cuộc sống của con người ngày nay không? Đó là điều anh
muốn được nghe HDV trình bày thêm trong quá trình dẫn khách đi tour.
Logo là một biểu tượng, là thành tố rất quan trọng của thương hiệu du
lịch. Từ 20 năm trước biểu tượng du lịch Việt Nam là hình ảnh một thiếu nữ
mặc áo dài, đội nón lá, mỉm cười, nghiêng mình chào đón khách du lịch.
Trong hội chợ du lịch quốc tế ở Berlin (năm 2003) hình ảnh đó được rất nhiều
du khách quốc tế đến xem và ca ngợi vì đã để lại hình ảnh đầy ấn tượng về
phụ nữ Việt Nam, con người Việt Nam. Biểu tượng du lịch đó để cạnh biểu
tượng con lạc đà trên sa mạc cùng người đàn ông Ả Rập hoặc đặt cùng biểu
tượng trên thảo nguyên mênh mông đến tận chân trời có ngôi nhà nửa chìm,
nửa nổi của người du mục Mông Cổ và đàn cừu trắng đứng quanh đều rất ấn
tượng và đều rất độc đáo, giúp người xem có thể nhận ra ngay chủ thể của
những logo biểu tượng này.
Vậy, đối với du lịch Thủ đô có nên tạo ra một logo biểu tượng cho riêng
vùng đất linh thiêng và hào hoa này không? Nhiều người cho rằng nếu có thì
càng tốt, càng thu hút được sự quan tâm và có thể sẽ có nhiều đoàn lữ khách
đến Thủ đô để tìm hiểu sâu hơn, cụ thể hơn những hình ảnh trên logo đó.
Hiện nay, nói đến Hà Nội có thể chúng ta thấy có một số hình ảnh tiêu biểu
đó là Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, đó là Tháp Rùa trên
hồ Hoàn Kiếm, đó là cầu Long Biên bắc qua sông Hồng và cũng có khi là đài
147
nghiên, tháp bút bên Đền Ngọc Sơn hoặc bia tiến sĩ trong Văn Miếu – Quốc
Tử Giám… Rõ ràng là trên đất Thăng Long mấy nghìn năm lịch sử hiện có rất
nhiều kiến trúc đặc sắc có thể là đặc trưng của Thăng Long – Đông Đô – Hà
Nội nhưng chúng ta nhận thấy Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử
Giám là được sử dụng với tần số nhiều nhất, sau đó đến Tháp Rùa và hồ Hoàn
Kiếm, logo du lịch một vùng cần sự đặc trưng, độc đáo, tiêu biểu và có ảnh
hưởng sâu rộng trong dân chúng.
Chúng tôi cho rằng biểu tượng cho du lịch Thủ đô, nếu có thể nên là một
hình ảnh kép của hồ Hoàn Kiếm (với Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn và đài nghiên,
tháp bút) cùng với hình ảnh Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Như vậy, ở đây hội tụ những gì tinh hoa, đặc sắc nhất của Hà Nội, về địa lý,
lịch sử, văn hoá. Nếu có sự thống nhất trong biểu tượng thì du lịch Thủ đô sẽ
148
thu hút khách nhiều hơn, sức lan toả rộng hơn.
Tiểu kết Chương 4
Khi ngành du lịch Thủ đô phục vụ khách du lịch từ mọi nơi đến thăm Hà
Nội, ngành du lịch Thủ đô đã không ngừng phát triển về quy mô, tốc độ, chất
lượng để đáp ứng nhu cầu của khách và ngược lại khách du lịch cũng hiểu
biết sâu hơn về văn hoá Thăng Long, về con người Tràng An và thông qua đó
họ hiểu một phần về con người Việt Nam, đất nước Việt Nam từ đó góp phần
thúc đẩy kinh tế du lịch dịch vụ Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn.
Có thể nói, những nét văn hoá độc đáo ở Thủ đô Hà Nội được giới thiệu qua
các trang báo mạng, trong các tour của các công ty du lịch lữ hành gồm cảnh quan
với bối cảnh tự nhiên và sự hiếu khách của người dân Thủ đô; văn hoá ẩm thực,
sự thuận tiện về phương tiện giao thông, tiện nghi nơi nghỉ lại và những hoạt động
mà khách du lịch có thể trải nghiệm tại các điểm du lịch; những sản phẩm đồ lưu
niệm. Tất cả những yếu tố đó đều chứa đựng bản sắc văn hoá truyền thống Thủ đô
ngàn năm văn hiến.
Các làng nghề thủ công truyền thống của Hà Nội ngày càng hấp dẫn du
khách bởi những giá trị văn hóa lâu đời và sự sáng tạo của những người thợ
làng nghề qua từng sản phẩm thủ công đặc trưng. Du khách đến với làng nghề
của Hà Nội không chỉ được ngắm cảnh quan của một làng quê đặc trưng vùng
đồng bằng Bắc bộ với cây đa, giếng nước, sân đình, mà còn được tham quan
nơi sản xuất, trực tiếp tiếp xúc với thợ thủ công và tham gia làm thử một vài
công đoạn sản xuất các sản phẩm. Điều này tạo nên sức hấp dẫn riêng của du
lịch làng nghề.
Cách lựa chọn và chế biến món ăn của người dân Thủ đô phù hợp với nhu
cầu của khách du lịch đã đem lại lợi nhuận không chỉ về kinh tế mà thông qua
món ăn họ đã gửi thông điệp và trao truyền thông điệp bản sắc văn hoá, một bản
sắc mang tính lựa chọn đến với du khách. Đó chính là một hình thức quảng bá và
149
bảo tồn bản sắc mà môi trường du lịch đóng một vai trò rất quan trọng.
Trước các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, du lịch Thủ đô phải phấn đấu
vượt qua những thách thức về kinh tế, xã hội để bảo tồn, phát huy giá trị của các
di tích lịch sử văn hoá, xây dựng không gian văn hoá du lịch văn minh, tiến bộ,
an toàn, trong sạch. Đồng thời xây dựng chương trình phối hợp nhịp nhàng với
các đơn vị quản lý các di sản văn hoá và cộng tác chặt chẽ với một số địa
phương và một số ngành nghề có liên quan sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
150
của công nghiệp văn hoá Thủ đô có nhiều tiềm năng và nhiều triển vọng.
KẾT LUẬN
Từ quá trình thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và kết quả đạt được ở
từng chương, luận án bước đầu đưa ra các kết luận sau đây:
1. Từ khi du lịch được xem là nhu cầu thiết yếu của con người, nó càng
ngày càng được quan tâm, đáp ứng theo nhiều cấp độ, mức độ khác nhau tuỳ
từng quốc gia, điều kiện, hoàn cảnh. Nó không chỉ còn là một lĩnh vực một
loại hình hoạt động văn hoá theo quan niệm truyền thống mà còn trở thành
một ngành dịch vụ kinh tế năng động, một nguồn lực để phát triển. Trong đó,
tích hợp được cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, giá trị phổ quát lẫn giá trị
đặc thù. Đồng thời nó hướng tới nhiều mục tiêu, đáp ứng nhiều nhu cầu ngày
càng đa dạng của con người.
Du lịch đã trở thành một bộ môn, một lĩnh vực nghiên cứu đào tạo, có cơ
sở lý luận và thực tiễn, có đối tượng mục tiêu xác định, có hệ phương pháp
nghiên cứu tiếp cận dựa trên các thành tựu cơ bản của bộ môn Nhân học du
lịch và Văn hoá học. Thực tiễn hoạt động du lịch lữ hành của Việt Nam nói
chung, Thủ đô Hà Nội nói riêng đã và đang diễn ra hết sức sôi động, thông
qua các hoạt động du lịch lữ hành đã góp phần kiến tạo thêm bản sắc văn hoá
mới cho cộng đồng, địa phương và các điểm đến du lịch, kiến tạo thêm nhiều
ý nghĩa mới cho các điểm đến góp phần kiến tạo thêm các sản phẩm du lịch
độc đáo, hấp dẫn. Thông qua đó, cũng tác động đến các điểm đến, cộng đồng
đia phương, các công ty lữ hành tạo ra các sản phẩm du lịch mới độc đáo, đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch góp phần kiến tạo nên bản sắc văn hoá mới.
2. Du lịch lữ hành đã tác động tích cực đến các điểm đến này, bản thân
họ đã xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, kết hợp với công tác truyền
thông, quảng bá của các công ty du lịch lữ hành đến khách du lịch, việc tái tạo
tại các câu chuyện, tạo dựng lại các mô hình trải nghiệm mới góp phần lưu
giữ, bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử và truyền thống văn hoá tốt đẹp của
151
dân tộc ta. Thực tiễn cho thấy thông qua chính nhu cầu của khách du lịch,
người dân phục vụ du lịch chủ động tạo dựng lại văn hoá truyền thống và trao
truyền lại cho du khách thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tế. Đồng
thời, để đáp ứng lại nhu cầu của khách du lịch, người dân cũng không ngừng
sáng tạo, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng. Tuy nhiên, từ
thực tiễn cũng cho thấy các dấu hiệu tiêu cực, cần được khắc phục kịp thời.
3. Thông qua hoạt động du lịch lữ hành, khi có khách du lịch đến đã tác
động đến những người chủ bán hàng, lẫn người thợ thủ công truyền thống,
thôi thúc họ sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm lại để tạo thành một sản phẩm văn hoá,
phục vụ khách du lịch. Chính những người bán hàng và thợ thủ công trong
quá trình đó đã kiến tạo ra nhiều nghĩa khác nhau để phù hợp với thị hiếu, sở
thích và văn hoá của từng khách du lịch. Ẩm thực và đồ lưu niệm Thủ đô Hà
Nội đã và đang có sự biến đổi, phát triển theo hướng ngày càng đa dạng,
phong phú và ngày càng giản đơn, gọn nhẹ cho hợp với nhu cầu và thị hiếu
thẩm mỹ của khách du lịch lữ hành, sự biến chuyển linh hoạt đó đã tạo ra một
nét nhấn, một sự thu hút mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy thị trường du lịch Thủ
đô phát triển và góp phần đặt nền móng cho ngành công nghiệp văn hoá Thủ
đô tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
4. Có thể nói, những nét văn hoá độc đáo ở Thủ đô Hà Nội được giới thiệu
qua các trang báo mạng, trong các tour của các công ty du lịch lữ hành gồm cảnh
quan với bối cảnh tự nhiên và sự hiếu khách của người dân Thủ đô; văn hoá ẩm
thực, sự thuận tiện về phương tiện giao thông, tiện nghi nơi nghỉ lại và những hoạt
động mà khách du lịch có thể trải nghiệm tại các điểm du lịch; những sản phẩm đồ
lưu niệm. Tất cả những yếu tố đó đều chứa đựng bản sắc văn hoá truyền thống
Thủ đô ngàn năm văn hiến
5. Với các kết quả khảo sát, nghiên cứu của luận án, có thể bước đầu
hướng đến sự nhận diện loại hình du lịch lữ hành đang phát triển mạnh mẽ ở
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, ngõ hầu chỉ ra bản chất
152
mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá, đặc điểm từng khâu, từng yếu tố trong
quá trình tổ chức, triển khai hoạt động du lịch, đánh giá hiệu quả của nó. Từ
đó đưa ra các nhận định, nhận xét, lý giải nhằm góp phần xây dựng cơ sở dữ
liệu, xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược phát triển.
Với kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn trên địa bàn Thủ đô Hà Nội nói riêng,
Việt Nam nói chung có thể thấy: Các di tích lịch sử văn hoá, các làng nghề
truyền thống đang tỏ ra có sức hấp dẫn đặc biệt trở thành điểm đến; còn văn
hoá ẩm thực và đồ lưu niệm trở thành điểm dừng quen thuộc của khách du
lịch lữ hành. Sức hấp dẫn từ các điểm đến và điểm dừng đó là gì? Ý nghĩa của
nó như thế nào đối với nhà quản lý và khách du lịch? Lợi ích vật chất và tinh
thần mang lại ra sao? Các ứng xử trong quá trình xúc tiến du lịch thế
nào?...không chỉ là câu hỏi đặt ra cho thực tiễn quản lý điều hành, mà còn là
câu hỏi đặt ra trong nhận thức, tư duy lý luận, tư duy quản lý.
6. Phát triển du lịch đã mang lại nhiều màu sắc cho văn hoá của Thủ đô.
Để phát triển du lịch, người dân cũng như các công ty du lịch lữ hành Thủ đô
đã chủ động tham gia vào hoạt động du lịch, lựa chọn những di tích lịch sử,
làng nghề truyền thống để tạo nên một bản sắc mang tính lựa chọn, tính bối
cảnh. Những hoạt động quảng bá của các công ty du lịch lữ hành nhằm thu
hút sự chú ý của du khách cũng đã tạo nên một bản sắc mang tính tạo dựng.
Việc khôi phục và phát huy những di sản văn hoá trong hoạt động du lịch lữ
hành hiện nay đã chứng minh bản sắc không ổn định, tĩnh lặng mà luôn vận
động, phát triển. Phát triển du lịch không những không làm hỏng hay phá vỡ
văn hoá truyền thống mà ngược lại du lịch đang khuyến khích người dân, thợ
thủ công, người bán hàng… chung tay tái tạo (phục hồi) di sản, sáng tạo văn
153
hoá, nâng tầm ẩm thực phù hợp với lối sống mới trên cơ sở cái truyền thống.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Văn Tân (2021), “Vai trò của vốn văn hóa trong việc nâng cao
sức hút đối với du khách”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Phát huy vốn
văn hoá trong phát triển kinh tế: cơ sở lý luận, phương pháp nghiên
cứu và tiêu chí đánh giá”, tháng 12 năm 2021.
2. Nguyễn Văn Tân (2022), “Vai trò của vốn văn hóa trong việc nâng
cao sức hút đối với du khách”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
3. Nguyễn Văn Tân (2022), “Mỹ thuật ứng dụng trong thị trường văn hoá
154
du lịch Thủ đô hiện nay”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ngô Thị Diệu An, Giáo trình Tổng quan du lịch, Trường Đại học Văn
hoá Hà Nội, Nxb Đà Nẵng – 2014.
2. Nguyễn Hoàng Ánh (2007), “Về văn hóa tiêu dùng Việt Nam”, Tạp chí
Hoạt động khoa học (Bộ Khoa học và Công nghệ).
3. Vũ Bằng (2000), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin.
4. Nguyễn Thị Bảy (2007), Văn hóa ẩm thực dân gian Hà Nội, Viện
Nghiên cứu Văn hóa.
5. Hồng Bích, Quà lưu niệm cho khách du lịch. “Bản chất” của quà lưu
niệm – 2010.
6. Hoàng Cầm (2014). “Du lịch văn hoá và vấn đề bảo vệ, phát huy di sản ở
người Lạch, Lạc Dương, Lâm Đồng”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4,
tr.3-13.
7. Bùi Hạnh Cẩn (1984), Điểm về lịch sử Thăng Long Hà Nội với sự kiện dời
đô từ Hoa Lư và đặt tên Thăng Long - biểu tượng "Rồng bay", khẳng định
khí thế đi lên của mảnh đất đế đô ngàn năm văn hiến, Thông tin khoa học
xã hội.
8. Trịnh Xuân Dũng (2001), Nghiên cứu các món ăn phù hợp với khách du
lịch ở một số nước là thị trường trọng điểm gửi khách tới Việt Nam, Đề
tài khoa học cấp bộ - Tổng cục Du lịch Việt Nam.
9. Trịnh Xuân Dũng (2005), Bar và đồ uống, Nxb Lao động - Xã hội.
10. Bùi Thiết (1993-1994), Cổ Loa – thành lỹ quân sự hay đô thị cổ, Những
phát hiện mới về khảo cổ học.
11. Nguyễn Văn Đính, Phạm Hồng Chương (2004), Kinh tế du lịch, Nxb
155
Lao động-Xã hội.
12. Nguyễn Thu Hạnh (2006), Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch biển
đảo tại vùng du lịch Bắc bộ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
13. Lê Như Hoa (2000), Văn hóa Thăng Long – khởi đầu rực rỡ của nền văn
hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
14. Đỗ Thanh Hoa (2008), Một số vấn đề đặt ra trong quản lý và phát triển
du lịch tại các khu vực di sản thế giới ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ.
15. Nguyễn Thị Nguyên Hồng (2004), Khai thác tiềm năng phát triển du
lịch sinh thái của Hà Nội và phụ cận, Luận án Tiến sỹ Kinh tế.
16. Thượng Hồng (2002), Miếng ngon Sài Gòn, Nxb Thanh niên.
17. Lê Thanh Hương, Đôi nét về sơn mài Việt Nam, Hội mỹ thuật Việt Nam.
18. Lê Hồng Hạnh (2008), di sản văn hoá truyền thống với vấn đề phát triển
du lịch (Trên cơ sở khảo sát địa bàn tỉnh Hưng Yên), Luận án Tiến sĩ
Văn hoá học, Viện Văn hoá nghệ thuật.
19. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn
hoá – Thông tin, Hà Nội.
20. Nguyễn Trùng Khánh (2011), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế: kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á
và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế.
21. Tiểu Kiều (2004), Huế, ăn hương mặc hoa, Nxb Trẻ.
22. Phan Thanh Khôi, Đỗ Xuân Tuất (2016), Một vài suy nghĩ về xây dựng văn
hóa tiêu dùng, nguồn: http://lyluanchinhtri.vn, truy cập ngày 27/4/2016.
23. Nguyễn Xuân Lãn, Phạm Thị Lan Hương, Đường Thị Liên Hà (2014),
Hành vi người tiêu dùng, Nxb Tài chính.
24. Phạm Trung Lương chủ biên (2001), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
156
25. Thạch Lam (2016), “Hà Nội ba mươi sáu phố phường”, Nxb Văn học.
26. Trần Thị Thanh Liêm (chủ biên), Từ điển hán việt hiện đại. Nxb KHXH
Hà Nội - 2007.
27. Phạm Trung Lương (2000) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành
“Đánh giá hiệu quả xã hội của hoạt động du lịch – Lấy ví dụ tại trung
tâm du lịch thành phố Hạ Long”.
28. Phạm Trung Lương (2008) với đề tài cấp Bộ: “Cơ sở khoa học phát triển
du lịch đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ”.
29. Luật Du lịch năm 2017;
30. Lê Ngọc Quỳnh Mai (2015), “Khai thác văn hóa ẩm thực phục vụ phát
triển du lịch tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
31. Đổng Ngọc Minh- Vương Đình Lôi (2001), Kinh tế du lịch và Du lịch
học, Nxb Trẻ.
32. Nguyễn Văn Mạnh và Phạm Hồng Chương (2009) với cuốn sách “Giáo
trình Quản trị kinh doanh lữ hành”.
33. Lưu Văn Nghiêm (2001), Marketing trong kinh doanh dịch vụ, Nxb Thống kê.
34. Nguyễn Nhã (2009), Bản sắc dân tộc Việt Nam, Nxb Thống kê.
35. Huỳnh Thị Bích Ngọc (2015) “Nhận diện nét thanh lịch Hà Nội trong ẩm
thực qua tư liệu văn chương từ hướng tiếp cận văn học – văn hóa”.
36. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá – Thông tin,
Hà Nội.
37. Bùi Xuân Nhàn (2004), Cơ sở lý luận, thực tiễn và các giải pháp đẩy
mạnh xúc tiến điểm đến du lịch của ngành du lịch Việt Nam tới năm
2010, Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến điểm
đến du lịch Việt Nam", Đại học Thương mại, tr9-17.
38. Dương Văn Sáu (2013), Văn hóa du lịch: Sản phẩm của văn hóa Việt
Nam trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, Trường đại học
157
Văn hóa Hà Nội.
39. Trần Thanh Sáng (2012), Văn hóa tiêu dùng của khách du lịch Việt Nam
trong các tour du lịch Trung Quốc, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
40. Đào Duy Tuấn (2012), Khai thác các giá trị truyền thống phục vụ phát
triển du lịch (Nghiên cứu trường hợp làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị
xã Sơn Tây), Luận án Tiến sĩ Văn hoá học, Học viện Khoa học xã hội.
41. Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn
thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
42. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh.
43. PGS.TS. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa và phát triển – Từ lý luận
đến thực tiễn, Nxb Chính trị – Hành chính, Hà Nội.
44. PGS.TS. Phạm Ngọc Trung (2013), Giáo trình Cơ sở Văn hóa Việt Nam,
Nxb Hà Nội.
45. PGS.TS Phạm Ngọc Trung (2018), Đào tạo hướng dẫn viên du lịch chất
lượng cao – yếu tố quyết định sự thành công của tour du lịch, Kỷ yếu
hội thảo khoa học quốc gia, HN tháng 11/2018.
46. Nguyễn Tuân (1998),“Cảnh sắc và hương vị đất nước”.
47. PGS. TS Phạm Ngọc Trung (2018), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
48. Phương Thanh Thủy, Sản phẩm thân thiện với môi trường, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam.
49. Lê Ngọc Thắng (2001), Văn hoá tộc người và hoạt động du lịch, Tạp chí
Dân tộc học, số 3, tr.16-20.
50. Trần Chiến Thắng (2003), Vấn đề bảo vệ bản sắc văn hoá trong bối cảnh
158
toàn cầu hoá, Tạp chí Di sản văn hoá, số 4, tr.16.
51. Nguyễn Văn Thắng (2010), Di sản văn hoá với phát triển du lịch”, Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế: Văn hoá trong thế giới hội nhập”, Nxb Văn hoá –
Thông tin, Hà Nội.
52. Tổng cục Du lịch, Trung tâm công nghệ thông tin du lịch, Non nước Việt
Nam, Hà Nội 2000.
53. Tổng cục Du lịch, Niên giám Du lịch Việt Nam 2008 – 2013.
54. Tổng cục Du lịch, Tạp chí Du lịch Việt Nam, các số 2005 – 2013.
55. Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội giai đoạn
2016-2020 và những năm tiếp theo.
56. Thông báo số 179/TB-TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong
tình hình mới năm 1998.
57. Thông báo số 179/TB-TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong
tình hình mới năm 1998.
58. Kỷ yếu hội thảo (2004), Xúc tiến phát triển du lịch Việt Nam, Trường
Đại học Thương Mại.
59. Kỷ yếu hội thảo (2011),Nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Trường Đại học Thương Mại.
60. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%9F
61. http://www.vtr.org.vn/net-hap-dan-cua-am-thuc-duong-pho.html
62. https://news.zing.vn/net-am-thuc-dac-trung-cua-3-mien-bac-trung-nam-
post407298.html
https://vietnamtourism.gov.vn/post/32531 63.
64. https://sodulich.hanoi.gov.vn/tin-tuc-su-kien/trong-nuoc-va-quoc-te/xu-
huong-phat-trien-cua-du-lich-the-gioi-trong-giai-doan-toi.html.
65. Nguyễn Như Ý (chủ biên). Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, tái bản lần 12.
66. Từ điển Bách Khoa Việt Nam, t4. Nxb từ điển bách khoa, Hà Nội
159
(2005).
67. Du lịch Việt Nam, Bao giờ sản phẩm thủ công truyền thống trở thành
hàng hóa, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số tháng 03/2013.
68. Bách khoa thư Hà Nội: Tập khoa học và công nghệ.
69. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012) với báo cáo: “Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030”.
70. Báo cáo kết quả hoạt động du lịch giai đoạn 2016-2020 của Sở Du lịch
thành phố Hà Nội.
71. Giáo trình “Du lịch văn hóa những vấn đề lý luận và nghiệp vụ” do
PGS.TS Trần Thúy Anh (2014).
72. Sở Công thương Hà Nội: Làng nghề Hà Nội.
Tiếng Anh
73. A. lockwood, S.Medlik (2001), Tourism and Hospitality in.
74. Cohen. Erik (1998), Authenticity and Commoditization in Tourism,
Annalas of Tourism Research, volume 15, pp 371-386.
75. Cevat Tosun, S.Pinar Temizkan, Dallen J.Timothy, Alan Fyall, 8th
March 2007, Tourist shopping experiences and satisfaction, International
journal of tourism research, volume 9, issue 2, pg.87-102. 41.
76. Greenwood Davydd J (1977), “Culture by Pound: Anthropological
Perspective on Tourism as Cutural Commoditization”, In Host and
Guest: The Anthropology of tourism, edited by smith Valene L,
University of Pennsylvania Press.
77. Peyvel,Emmanuelle, 2016. L’invitation au voyage. Gesographie
postcoloniale du tourisme domestique au Vietnam. Lyon: ENS esditions.
78. Stacey Menzel Baker, Susan Schultz Kleine and Heather E. Bowen,
2006, On the symbolic meanings of souvenirs for children, Research in
160
Consumer Behavior, volume 10, pg.213- 252.
PHỤ LỤC
161
Các mô hình thiệp 3D
162
(Nguồn: Tác giả)
163
Các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại khu vực phố cổ (Nguồn: Tác giả)
Khách du lịch thăm quan Hồ Hoàn Kiếm (Nguồn: Intenet)
164
Khách thăm quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Nguồn: Tác giả)
165
Khách du lịch thăm quan làng cổ Đường Lâm (Nguồn: Tác giả)
Chả cá: Nguồn – Tác giả
166
Bún thang: Nguồn – Tác giả
Suất ăn bún chả Obama (Nguồn: Internet)
167
Hình ảnh tổng thống Obama (Nguồn: Internet)
DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP TƯ LIỆU
1. Ông Nguyễn Hoàng Minh – Trưởng phòng Du lịch nội địa, Công ty cổ
phần du lịch Vietsense
2. Ông Nguyễn Văn Bình – Nhân viên Công ty Lữ hành Hanoitourist.
3. Ông Nguyễn Văn Bắc – Trưởng bộ phận du lịch trong nước, Công ty
TNHH Lữ hành và dịch vụ quốc tế Ánh Dương.
4. Ông Nguyễn Văn Hùng – số nhà 1469 đường Mông Phụ, Đường Lâm, Sơn
Tây, Hà Nội
5. Ông Lê Xuân Kiêu – Giám đốc Trung tâm hoạt động Văn hoá Khoa học
Văn Miếu – Quốc Tử Giám
6. Bà Nguyễn Bích Thuỷ - Trưởng ban Quản lý Di tích Nhà tù Hoả Lò.
7. Ông Trịnh Xuân Tùng – Trưởng phòng Quản lý Lữ hành, Sở Du lịch Hà
Nội
8. Ông Đỗ Hồng Điệp – Phó Trưởng ban Quản lý Di tích danh thắng Hà Nội
9. Ông Nguyễn Ngọc An – Phó Trưởng ban Quản lý Di tích làng cổ Đường
168
Lâm.

