BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

------------ 0 -----------

NGUYỄN VĂN ĐỊNH

HIỆU QUẢ CAN THIỆP TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

TẠI CỘNG ĐỒNG Ở 5 HUYỆN CỦA NGHỆ AN,

2008 - 2012

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Nguyễn Văn Định

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giáo sư -

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Long, Thứ trưởng Bộ Y tế và Phó giáo sư - Tiến sỹ Phan Trọng

Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh, là những người thầy trực tiếp hướng

dẫn, truyền thụ kiến thức cho tôi, dẫn dắt tôi trên con đường nghiên cứu khoa học.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng

Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương và Lãnh đạo Viện, Phòng Đào tạo sau đại học đã

luôn quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo tận tình trong quá trình thực hiện luận án và tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của tôi.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tập thể Khoa HIV - Viện Vệ

sinh Dịch tễ Trung ương đã trực tiếp giúp đỡ tôi tổ chức thực hiện nghiên cứu và hoàn

thành luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc - Sở Y tế Nghệ An, Ban Giám đốc và

tập thể cán bộ, nhân viên Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS Nghệ An đã động viên,

cổ vũ và hỗ trợ nhiệt tình cho tôi trong suốt quá trình học tập.

Xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc và các cán bộ Trung tâm Y tế 5

huyện/thành/thị, cán bộ các phòng khám ngoại trú đã hỗ trợ tôi trong triển khai nghiên

cứu, thu thập số liệu cho luận án.

Xin trân trọng cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và đồng nghiệp, những

người luôn chia sẻ cùng tôi những khó khăn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành

luận án này.

Sau cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, những người đã luôn

động viên, chia sẻ và hết lòng ủng hộ tôi trong thời gian qua.

Nguyễn Văn Định

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa i

Lời cam đoan ii

Lời cảm ơn iii

Mục lục iv

Danh mục các chữ viết tắt viii

Danh mục các bảng x

Danh mục các biểu đồ xii

Danh mục các hình, sơ đồ xiii

ĐẶT VẤN 1

ĐỀ...........................................................................................................

Chương 1: TỔNG QUAN......................................................................................... 3

1.1. Một số thông tin cơ bản về HIV/AIDS.............................................................. 3

1.1.1. Khái niệm nhiễm HIV/AIDS.......................................................................... 3

1.1.2. Tác nhân gây bệnh.......................................................................................... 3

1.1.3. Nhiễm HIV là nhiễm suốt đời......................................................................... 4

1.1.4. Dịch HIV là một dịch ẩn................................................................................. 4

1.2. Tình hình nhiễm HIV trên Thế giới và Việt Nam.............................................. 5

1.2.1. Trên Thế giới................................................................................................... 5

1.2.2. Tại Việt Nam................................................................................................... 7

1.2.3 Tại Nghệ An.................................................................................................... 8

1.3. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS......................... 11

1.3.1. Tiêm chích ma túy không an toàn.................................................................. 11

1.3.2. Quan hệ tình dục không an toàn...................................................................... 12

1.3.3. Nguy cơ phối hợp............................................................................................ 13

1.4. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS........................... 14

1.4.1. Trên Thế giới................................................................................................... 14

1.4.2. Tại Việt Nam................................................................................................... 19

1.4.3. Tại Nghệ An.................................................................................................... 23

1.5. Hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng

đồng................................................................................................................... 29

1.5.1. Khái niệm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng

đồng................................................................................................................. 29

1.5.2. Cơ sở hình thành chiến lược tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS dựa vào cộng đồng........................................................................ 31

1.5.3. Nguyên tắc tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào

cộng đồng........................................................................................................ 34

1.5.4. Nội dung tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng

đồng................................................................................................................. 34

1.5.5. Một số yếu tố bảo đảm sự thành công của hoạt động tư vấn, chăm sóc và

hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng........................................ 36

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………… 38

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu..................................................... 38

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………….... 38

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu………………………………………………………... 38

2.1.3. Thời gian nghiên cứu……………………………………………………….. 42

2.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………............................................ 42

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu…………………………………………………………. 42

2.2.2. Điều tra cắt ngang lần 1……………….......................................................... 42

2.2.3. Điều tra cắt ngang lần 2…………………………………………………….. 43

2.2.4. Xây dựng nội dung biện pháp can thiệp...…………………………………... 44

2.2.5. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu…………………………………………. 53

2.2.6. Kỹ thuật thu thập thông tin và chỉ số nghiên cứu…………………………... 54

2.3. Phương pháp xử lý số liệu…………………...................................................... 57

2.4. Các biện pháp khống chế sai số………………………………………………. 58

2.5. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu…………………………………………. 58

2.6. Lực lượng tham gia và tổ chức thực hiện……………………………………... 59

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................... 61

3.1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và hành vi nguy

cơ tại thời điểm trước can thiệp (2008)………………………………………. 61

3.1.1. Một số đặc điểm người nhiễm HIV/AIDS………………………………….. 61

3.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV…………………………………………………….. 64

3.1.3. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS…………………………………. 67

3.1.4. Biểu hiện lâm sàng và tiếp cận dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ của người nhiễm

HIV/AIDS…………………………………………………………………... 71

3.1.5. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS...................... 74

3.2. Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại

cộng đồng sau 4 năm triển khai (2008 - 2012)………………………………... 84

3.2.1. Hiệu quả hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV ……………………………….. 84

3.2.2. Hiệu quả chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS……………………... 85

3.2.3. Hiệu quả về tiếp cận dịch vụ của người nhiễm 86

HIV/AIDS………………….

3.2.4. Thay đổi về hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS... 88

Chương 4: BÀN LUẬN............................................................................................ 91

4.1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và hành vi nguy

cơ tại thời điểm trước can thiệp............................................................…………… 91

4.1.1. Một số đặc điểm của người nhiễm HIV/AIDS............................................... 91

4.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV.................................................................................. 93

4.1.3. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS..................................................... 97

4.1.4. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS............................................... 105

4.1.5. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS...................... 109

4.2. Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại

cộng đồng sau 4 năm can thiệp……………………………………………….. 117

4.2.1. Hiệu quả về tư vấn, xét nghiệm HIV.............................................................. 117

4.2.2. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS từ gia đình và cộng đồng 119

............

4.2.3. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS............................................... 120

4.2.4. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS...................... 121

4.2.5. Ưu điểm, hạn chế và khả năng áp dụng mô hình tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ

người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng........................................................... 124

KẾT LUẬN……………………………………………........................................... 128

KHUYẾN NGHỊ…………………………………………………………………... 130

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ………………... 131

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS Acquired Immunodeficiency Syndrome

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

ARV Anti Retro Virus

Thuốc điều trị kháng retro vi rút

BCS Bao cao su

BKT Bơm kim tiêm

BLTQĐTD Bệnh lây truyền qua đường tình dục.

BTBC Bạn tình bất chợt

BTTX Bạn tình thường xuyên

CSHQ Chỉ số hiệu quả

DPLTMC Dự phòng lây truyền mẹ con

QHTD Quan hệ tình dục

ESTHER Network for Therapeutic Solidarity in Hospitals

Tổ chức liên đới mạng điều trị

FHI Family Health International

Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế

GDVĐĐ Giáo dục viên đồng đẳng

GMD Gái mại dâm

HIV Human Immunodeficiency Virus

Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người

Life - GAP Vietnam-USA Collaboration Project on HIV/AIDS Prevention and

Care in Vietnam

Dự án “Dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS tại Việt Nam”

MSM Men who have sex with men

Quan hệ tình dục đồng giới nam

NCMT Nghiện chích ma túy

NTCH Nhiễm trùng cơ hội

OR Odds Ratio - Tỷ suất chênh

PEPFAR The United States President’s Emergency Plan for AIDS Relief

Chương trình hỗ trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ

PKNT Phòng khám ngoại trú

PNBD Phụ nữ bán dâm

QTC Dự án "Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS"

TCMT Tiêm chích ma túy

TVCSHT Tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ

TVXNTN Tư vấn xét nghiệm tự nguyện

UNAIDS The Joint United Nations Programme on AIDS

Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về AIDS

WHO World Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Phân bố lũy tích nhiễm HIV/AIDS tại Nghệ An tính đến 31/12/2013….. 8

Bảng 1.2. Phân bố bệnh nhân điều trị ARV tại các cơ sở điều trị tỉnh Nghệ An....... 25

Bảng 1.3. Ưu điểm và hạn chế của tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS dựa vào cộng đồng so với dựa vào cơ sở y tế......................... 33

Bảng 2.1. Liệt kê các hoạt động đào tạo tập huấn cho mạng lưới tham gia............... 49

Bảng 2.2. Liệt kê các hoạt động tư vấn, xét nghiệm tại các phòng tư vấn sức khỏe

cộng đồng.................................................................................................. 50

Bảng 2.3. Liệt kê các hoạt động tư vấn, hỗ trợ tại cộng đồng và dự phòng lây

truyền mẹ - con.......................................................................................... 51

Bảng 2.4. Liệt kê các hoạt động truyền thông và can thiệp giảm hại........................ 52

Bảng 2.5. Phân bố đối tượng được chọn vào nghiên cứu tại các địa bàn………….. 54

Bảng 3.1. Phân bố người nhiễm HIV theo tuổi, giới tính và dân tộc……................ 61

Bảng 3.2. Phân bố theo tình trạng hôn nhân và người sống cùng…………………. 63

Bảng 3.3. Thời gian nhiễm HIV và nhận biết lý do nhiễm HIV…………………... 64

Bảng 3.4. Nội dung, chất lượng và loại hình tư vấn xét nghiệm HIV……………... 65

Bảng 3.5. Tần suất, nội dung tư vấn hỗ trợ sau nhiễm HIV và xét nghiệm HIV của

bạn tình……………...…………………………………………………... 66

Bảng 3.6. Chăm sóc, hỗ trợ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS………... 68

Bảng 3.7. Các tổ chức, đơn vị chăm sóc tại nhà cho người nhiễm HIV/AIDS…….. 70

Bảng 3.8. Tiếp cận chăm sóc, điều trị trong vòng 6 tháng trước điều tra………...... 72

Bảng 3.9. Biểu hiện triệu chứng lâm sàng của người nhiễm HIV/AIDS…………... 73

Bảng 3.10. Tiếp cận dịch vụ giảm tác hại và thông tin phòng chống AIDS 6 tháng

trước điều tra…………………………………………………………... 73

Bảng 3.11. Hành vi tiêm chích ma túy không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS. 74

Bảng 3.12. Quan hệ tình dục và loại bạn tình của nam nhiễm HIV………………... 75

Bảng 3.13. Hành vi quan hệ tình dục không an toàn của nữ nhiễm HIV/AIDS…… 76

Bảng 3.14. Các yếu tố liên quan đến hành vi dùng chung bơm kim tiêm của đối

tượng nghiên cứu năm 2008.................................................................... 78

Bảng 3.15. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ luôn luôn sử dụng bao cao su khi quan

hệ tình dục với các loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu năm 2008… 81

Bảng 3.16. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi

QHTD với các loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu năm 2008......... 83

Bảng 3.17. Thay đổi tiếp cận dịch vụ giảm tác hại và thông tin truyền thông……... 87

Bảng 3.18. Thay đổi về hành vi QHTD không an toàn của nam và nữ nhiễm với

bạn tình thường xuyên…………………………………………………. 89

Bảng 3.19. Thay đổi về hành vi sinh con sau nhiễm 90

HIV…………………………..

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Trình độ học vấn của người nhiễm HIV/AIDS………………………. 62

Biểu đồ 3.2. Phân bố nghề nghiệp của người nhiễm HIV/AIDS…………………... 62

Biểu đồ 3.3. Kết quả xét nghiệm HIV của bạn tình thường xuyên………………… 67

Biểu đồ 3.4. Tình trạng vệ sinh ăn uống của người nhiễm HIV/AIDS…………… 67

Biểu đồ 3.5. Thái độ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS……………….. 69

Biểu đồ 3.6. Thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS…………….. 69

71 Biểu đồ 3.7. Mong muốn/nhu cầu của người nhiễm HIV/AIDS………………….

71 Biểu đồ 3.8. Biểu hiện triệu chứng của người nhiễm HIV/AIDS…………………

Biểu đồ 3.9. Tình trạng không dùng BCS lần QHTD gần nhất và không thường

xuyên dùng BCS 12 tháng qua với bạn tình của nam nhiễm HIV...... 75

Biểu đồ 3.10. Người gợi ý dùng BCS khi QHTD với bạn tình của nam nhiễm HIV 76

Biểu đồ 3.11. Tình trạng không dùng BCS lần QHTD gần nhất và không thường

xuyên dùng BCS 12 tháng qua với bạn tình của nữ nhiễm HIV........ 77

Biểu đồ 3.12. Một số đặc điểm sinh con của người nhiễm HIV…………………… 78

Biểu đồ 3.13. Thay đổi chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV…………….. 84

Biểu đồ 3.14. Thay đổi nhu cầu tiếp cận dịch vụ tư vấn xét nghiệm và hành vi

nguy cơ sau tư vấn xét nghiệm HIV……………................................ 84

Biểu đồ 3.15. Thay đổi thói quen và ý thức vệ sinh dinh dưỡng…………………... 85

Biểu đồ 3.16. Thay đổi thái độ của gia đình và cộng đồng………………………… 85

Biểu đồ 3.17. Thay đổi sự chăm sóc, hỗ trợ của gia đình và cộng đồng…………… 86

Biểu đồ 3.18. Thay đổi tiếp cận dịch vụ chăm sóc, điều trị của người nhiễm HIV... 86

Biểu đồ 3.19. Thay đổi hành vi tiêm chích ma túy không an toàn…………………. 88

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ

Biểu đồ 3.20. Thay đổi hành vi QHTD không an toàn của nam nhiễm với GMD… 88

Hình 1.1. Hình dạng HIV…………………………………………………………... 4

Hình 1.2. Ước tính số còn sống nhiễm HIV/AIDS toàn cầu đến cuối năm 2012….. 6

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết các nội dung cơ bản của chăm sóc người nhiễm

HIV/AIDS tại cộng 35

đồng………………………………………………..

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ triển khai nghiên cứu……………………………………………. 43

Sơ đồ 2.2. Sơ đồ biện pháp can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm tại

ĐẶT VẤN ĐỀ

cộng đồng…………………………………………………………………………... 45

Năm 1996 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại Nghệ An được phát hiện và từ đó cho

tới nay con số người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn liên tục tăng. Tính đến 31/12/2013, số

người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện tại Nghệ An đã lên tới 7.294 người, trong đó 4.323

người biểu hiện AIDS và 2.571 người đã chết do AIDS. Hiện tại, Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6

của cả nước về số người nhiễm HIV/AIDS còn sống với khoảng 5.545 người [82], [83].

Nhận thức được mối hiểm hoạ to lớn của đại dịch HIV/AIDS, nhằm ngăn chặn sự lan

truyền của HIV. Trong những năm qua, nhiều hoạt động phòng chống HIV/AIDS đã được

triển khai thực hiện. Đặc biệt, từ năm 2007, sau khi Nghệ An được đưa vào một trong 7 tỉnh

trọng điểm của chương trình PEPFAR Hoa Kỳ thì các hoạt động phòng chống HIV/AIDS

thực sự chuyển biến mạnh mẽ và thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ [82].

Về hoạt động tư vấn, chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS tại Nghệ An.

Tính đến 31/12/2013, có 9 PKNT được triển khai ngoài cộng đồng (trong đó có 1 PKNT trẻ

em), 2 cơ sở điều trị trong trung tâm 05 - 06 và 2 cơ sở điều trị trong trại giam. Ngoài ra,

trên địa bàn tỉnh còn có 11 phòng tư vấn, 12 nhóm GDVĐĐ, 5 câu lạc bộ người nhiễm và

nhiều dịch vụ khác như dự phòng lây truyền mẹ - con, khám và điều trị BLTQĐTD, khám

và điều trị Lao/HIV... Có thể nói với sự hỗ trợ tích cực của các chương trình, dự án, sự vào

cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong thời gian qua hoạt động tư vấn,

chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS đã có sự chuyển biển mạnh mẽ với hàng ngàn

người được TVXNTN, người nhiễm HIV/AIDS đã chủ động công khai danh tính để hưởng

thụ các dịch vụ và tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, được quản lý và

được tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ tại nhà, tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ và nhiều hoạt

động hỗ trợ khác từ các tổ chức, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn. Tính đến cuối 2013, số

người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị ARV tại các phòng khám ngoại trú là 2.223

người, trong đó có 105 là trẻ em [82].

Tuy nhiên, hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ An vẫn còn một số tồn tại,

như: độ bao phủ của các dịch vụ chưa cao, nhiều huyện vùng xa, miền núi cao việc tiếp cận

với các dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều khó khăn, hoạt động tư vấn, chăm

sóc, hỗ trợ và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều bất cập; lây nhiễm HIV vẫn

chưa có dấu hiệu thuyên giảm, số người nhiễm HIV tiến triển thành AIDS và nhu cầu chăm

sóc, điều trị ngày càng nhiều [82].

Thực trạng hành vi nguy cơ lây truyền HIV và tư vấn, chăm sóc, điều trị người nhiễm

HIV/AIDS đã được một số nghiên cứu đề cập, nhưng chưa đầy đủ, chưa có tính đại diện để

làm cơ sở cho việc chăm sóc người nhiễm và khống chế sự lan truyền HIV. Mặt khác, hoạt

động phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng và hiệu quả của nó tại Nghệ An chưa có nghiên

cứu nào phân tích, đánh giá. Từ thực tế trên, chúng tôi đề xuất nghiên cứu: "Hiệu quả can

thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ

An, 2008 - 2012" với các mục tiêu sau:

1. Mô tả hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng và

hành vi nguy cơ trước can thiệp tại 5 huyện của Nghệ An năm 2008.

2. Đánh giá hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại

cộng đồng, 2008 - 2012.

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIV/AIDS

1.1.1. Khái niệm nhiễm HIV/AIDS

HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh " Human Immunodeficiency Virus", là vi

rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác

nhân gây bệnh [68].

AIDS được viết tắt từ tiếng Anh "Acquired Immunodeficiency Syndrome", có nghĩa

là "hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải" do nhiễm vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở

người - HIV (Human Immunodeficiency Virus). HIV tấn công, tiêu huỷ dần các tế bào miễn

dịch và làm suy giảm hệ thống miễn dịch của cơ thể. AIDS là giai đoạn cuối của quá trình

nhiễm HIV, khi cơ thể không còn khả năng chống đỡ, nên dễ mắc thêm nhiều loại bệnh cơ

hội dẫn đến tử vong [68].

1.1.2. Tác nhân gây bệnh

HIV có 2 týp huyết thanh HIV-1 và HIV-2 do Montagnier cùng cộng sự (Viện

Pasteur Paris) tìm ra năm 1983 - 1986 tại Trung Phi. Đây là các Retrovius (vi rút sao mã

ngược) có vật liệu di truyền ARN, thuộc họ Lentivirus (vi rút chậm). Đích tấn công của HIV

là các tế bào miễn dịch có điểm tiếp nhận CD4 (tế bào Lympho T, niêm mạc ruột ưa crôm,

niêm mạc đường hô hấp, đệm thần kinh và tế bào thượng bì). HIV lây nhiễm, nhân lên và

tiêu diệt tế bào miễn dịch của cơ thể. Hàng ngày, có hàng tỷ HIV được tạo thành và cũng có

hàng tỷ tế bào miễn dịch của cơ thể bị tiêu hủy [47], [86], [88], [110].

Trên kính hiện vi điện tử, HIV có cấu trúc hình cầu, đường kính trung bình khoảng

110 nm (dao động từ 70 - 130 nm). HIV có đặc điểm chung của họ Retroviridae. Hạt vi rút

hoàn chỉnh (virion) có cấu tạo gồm 3 lớp: vỏ ngoài, vỏ trong và lõi [47], [88], [110].

Hình 1.1. Hình dạng HIV

1.1.3. Nhiễm HIV là nhiễm suốt đời

Đối với các nhiễm trùng thông thường, mầm bệnh chỉ tồn tại một thời gian ngắn

trong cơ thể. Riêng HIV, một khi đã tích hợp vào bộ gen của tế bào chủ, sẽ tồn tại cùng với

vật chủ suốt đời, vì vậy người nhiễm HIV/AIDS có thể truyền bệnh cho người khác suốt cả

đời mình [45], [55], [106], [114].

1.1.4. Dịch HIV/AIDS là một dịch ẩn

Thời gian từ khi một người nhiễm HIV đến khi diễn biến thành AIDS trung bình

khoảng 5 - 7 năm. Trong thời gian này, mặc dù không có triệu chứng gì trên lâm sàng,

nhưng người nhiễm HIV vẫn luôn có khả năng lây nhiễm cho người khác. Đến khi có biểu

hiện của AIDS thì người nhiễm đã có thể gây bệnh cho nhiều người. Do vậy, dịch

HIV/AIDS là một dịch ẩn rất khó phòng, chống [7], [42].

1.2. TÌNH HÌNH NHIỄM HIV TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.2.1. Trên thế giới

Kể từ khi ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Los Angeles, Hoa Kỳ vào năm

1981, đến 31/12/2012, UNAIDS và WHO đã công bố có khoảng 35,3 triệu người nhiễm

HIV/AIDS còn sống, trong đó có 32,1 triệu người lớn và 3,3 triệu trẻ em. Riêng trong năm

2012, 3,3 triệu người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện và 1,6 triệu người tử vong do AIDS,

có gần 1/7 số chết là trẻ em. Mỗi ngày trôi qua, trên thế giới có thêm 6.300 người mới

nhiễm HIV, 95% các trường hợp này ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Số người

nhiễm HIV/AIDS hiện còn sống phần lớn ở các nước khu vực cận Sahara châu Phi (25

triệu), ở vùng Nam và Đông Nam Á (3,9 triệu) [116], [142].

Châu Phi là châu lục chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch HIV/AIDS. Tại vùng

cận Sahara châu Phi, với dân số chỉ chiếm 10% dân số thế giới, nhưng đã có khoảng 25 triệu

người (23,5 - 26,6) đang sống bị nhiễm HIV, chiếm 70,8% tổng số người nhiễm HIV/AIDS

còn sống toàn thế giới. Trong năm 2012, tại vùng cận Sahara, ước tính có khoảng 1,6 triệu

(1,4 - 1,8) người mới bị nhiễm HIV [132], [133], [142]. Ước tính trong năm 2012, AIDS đã

cướp đi sinh mạng của khoảng 1,2 triệu người dân châu Phi (1,1 - 1,3), chiếm 75% số người

đã chết do AIDS trên toàn thế giới [134], [142].

Tại châu Á và Thái Bình Dương: ước tính có khoảng 5 triệu người đang sống bị

nhiễm HIV/AIDS. Trong năm 2012, ước tính có 351.000 người mới bị nhiễm HIV và có

khoảng 261.000 người bị chết do AIDS [132], [142].

Tại Ấn Độ, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở người trưởng thành là 0,27% với số lượng

khoảng 2,1 triệu người đang sống bị nhiễm HIV/AIDS, trong đó 39% là phụ nữ và 7% là trẻ

em. Nhìn chung, dịch HIV/AIDS của Ấn Độ đang chậm lại, với mức giảm 57% số ca nhiễm

mới năm 2011 so với năm 2000, và giảm 29% các trường hợp tử vong liên quan đến AIDS

năm 2011 so với 2007 [131], [132], [142].

Nguồn: Báo cáo của UNAIDS [142]

Hình 1.2. Ước tính số còn sống nhiễm HIV/AIDS toàn cầu đến cuối năm 2012

Tại vùng Nam Á và Đông Nam châu Á, trong năm 2012, có khoảng 270.000 người

mới bị nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV/AIDS còn sống ở vùng này lên 3,9 triệu

người. Các nước trong vùng có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao là Thái Lan, Campuchia,

Myanmar [131], [132], [142].

Tại châu Mỹ La tinh: mức độ lây nhiễm HIV ít thay đổi, ước tính có 86.000 người

trong vùng bị nhiễm HIV trong năm 2012, nâng tổng số người đang sống bị nhiễm

HIV/AIDS lên 1,5 triệu người. QHTD không an toàn giữa nam giới với nam giới và nam

giới với gái mại dâm là con đường lây nhiễm HIV chủ yếu trong khu vực [142].

Tại vùng Caribe, tính đến năm 2012, ước tính có 250.000 người nhiễm HIV/AIDS

đang còn sống. Trong năm 2012, có 12.000 người mới bị lây nhiễm HIV và 11.000 người đã

chết do AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV trung bình ở người lớn vùng này là 1%. Con đường lây

truyền chủ yếu vẫn là quan hệ tình dục khác giới không an toàn [132], [142].

Tại khu vực Đông Âu và Trung Á: ước tính có khoảng 1,3 triệu người đang sống bị

nhiễm HIV, 90% số người này đang sống tại Nga và Ucraine. Trong năm 2012 có 130.000

người trong vùng mới bị lây nhiễm HIV và 91.000 người đã chết vì AIDS. Tiêm chích ma

túy là con đường lây truyền HIV chủ yếu tại khu vực này với 62% những trường hợp mới

nhiễm HIV là do TCMT [142].

Tại các nước phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ: ước tính có khoảng 2,16 triệu người

đang sống bị nhiễm HIV/AIDS, trong đó có khoảng 77.000 người mới bị nhiễm HIV trong

năm 2012. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, trong năm 2012 ước tính có 49.000 ca nhiễm mới HIV,

đưa tổng số người bị nhiễm HIV/AIDS còn sống lên 1,3 triệu người, tỷ lệ lây nhiễm qua

tình dục đồng giới nam chiếm tới 38,8% tổng số nhiễm mới ở nam giới trong năm 2012

[112], [142].

1.2.2. Tại Việt Nam

Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1990

ở thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến hết năm 2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống

là 210.703, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 61.669 và 63.372 trường hợp tử vong do

AIDS. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo số báo cáo là 239 người trên 100.000 dân, tỉnh Điện

Biên vẫn là địa phương có tỷ lệ nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất cả nước (1.015,8),

tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh (677), thứ 3 là Thái Nguyên (610,6) [4], [101].

Về địa bàn phân bố dịch: tính đến hết năm 2012, toàn quốc đã phát hiện người nhiễm

HIV/AIDS tại 79,1% xã/phường (tăng 1,6% so với cuối năm 2011), gần 98% quận/huyện và

63/63 tỉnh/thành phố [4], [101].

Riêng trong năm 2012, cả nước phát hiện 14.127 trường hợp nhiễm HIV, 6.734 bệnh

nhân AIDS và 2.149 người tử vong do AIDS. So với năm 2011, số trường hợp nhiễm HIV

phát hiện và báo cáo giảm 26%, số người tử vong giảm gần 2 lần. 10 tỉnh có số trường hợp

xét nghiệm phát hiện dương tính lớn nhất trong năm 2012 và tỷ lệ tương ứng so với tổng số

cả nước trong năm 2012, bao gồm thành phố Hồ Chí Minh: 2.721 trường hợp (chiếm

19,3%); Hà Nội: 751 trường hợp (chiếm 5,3%); Điện Biên: 671 (chiếm 4,8%); Nghệ An:

575 trường hợp (chiếm 4,1%); Thái Nguyên: 479 trường hợp (chiếm 3,2%); Cần Thơ: 422

trường hợp (chiếm 3,0%); Thanh Hóa: 335 trường hợp (chiếm 2,4%); Yên Bái: 328 trường

hợp (chiếm 2,3%). Các tỉnh có số người nhiễm HIV/AIDS phát hiện trong năm 2012 tăng

với năm 2011, bao gồm Đồng Nai (0,6%); Đắk Lắk (0,4%), Cần Thơ (0,3%); Tây Ninh

(0,3%); Bình Định (0,1%); các tỉnh khác tăng nhẹ như Trà Vinh, Lào Cai [4].

1.2.3. Tại Nghệ An.

Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Nghệ An là vào năm 1996. Tính

đến ngày 31/12/2013, lũy tích số người nhiễm HIV ở Nghệ An đã lên tới 7.294 người, với

4.323 người chuyển sang AIDS, 2.571 người đã chết do AIDS. Phân bố theo địa dư, 20/20

huyện/thành/thị, với 413/480 xã phường (86,0%) đã có người nhiễm HIV/AIDS. Hiện tại,

Nghệ An là tỉnh xếp thứ 6 của cả nước về số người nhiễm HIV/AIDS còn sống [82], [83].

Bảng 1.1. Phân bố lũy tích nhiễm HIV/AIDS tại Nghệ An tính đến 31/12/2013

Thứ tự Địa phương Nhiễm HIV Chuyển AIDS Chết do AIDS

1 TP. Vinh 11..992288 11..334488 886666

2 Quế Phong 11..007733 332244 115522

3 Tương Dương 885511 553377 337711

4 Quỳ Châu 449977 223333 113300

5 Đô Lương 339933 224422 116666

6 Diễn Châu 334466 222299 111177

Thứ tự Địa phương Nhiễm HIV Chuyển AIDS Chết do AIDS

TX Thái Hoà 7 331122 118899 9911

Thanh Chương 8 226622 115599 9944

Con Cuông 9 223322 117722 112266

Quỳ Hợp 10 222255 114444 7722

Nghĩa Đàn 11 117777 110099 5511

Nghi Lộc 12 114466 8855 3388

Yên Thành 13 114455 9933 3399

Tân Kỳ 14 113344 7766 2299

Nam Đàn 15 113322 110000 6688

Hưng Nguyên 16 112299 9999 5566

Quỳnh Lưu 17 112244 7777 3322

TX Cửa Lò 18 7799 4477 3355

Kỳ Sơn 19 6633 3322 2244

Anh Sơn 20 4466 2288 1144

Nguồn: Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Nghệ An

Cộng 77..229944 44..332233 22..557711

Theo số liệu báo cáo của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Nghệ An: trong 5 năm

từ 2009 đến 2013, số liệu người nhiễm HIV/AIDS mới phát hiện toàn tỉnh nằm trong

khoảng từ 553 - 575, riêng năm 2013 là 510 người, giảm 65 người so với năm 2012. Thành

phố Vinh hiện vẫn là địa phương có số người nhiễm cao nhất với 1.928 người. 3 huyện có

tổng số người nhiễm tăng cao nhất trong 5 năm (2009-2013) là Quế Phong (818), Tương

Dương (353), Quỳ Châu (308). Đây là 3 huyện nằm ở miền núi phía Tây của Nghệ An và

giáp với biên giới Cộng hòa nhân dân Lào. Như vậy, mặc dù dịch HIV/AIDS ở Nghệ An có

xu hướng chững lại, nhưng trong khi các huyện vùng trung tâm và đồng bằng có xu hướng

giảm nhẹ, thì các huyện miền núi cao dịch lại tăng cao. Điều này phù hợp với thực tế là tình

hình buôn bán ma túy và số người NCMT tại các huyện đang tăng nhanh trong những năm

gần đây. Bên cạnh đó, do điều kiện phức tạp về địa lý, hạn hẹp về kinh phí nên độ bao phủ

của các chương trình dự án, các dịch vụ về phòng chống HIV/AIDS tại các địa phương này

còn rất thấp, đặc biệt là chương trình can thiệp giảm hại [82], [83].

Về phân bố nhiễm mới HIV qua các năm cho thấy: nữ giới nhiễm HIV đang có xu

hướng tăng, nữ chỉ chiếm dưới 10,0% số nhiễm mới hàng năm từ 1999 - 2003, nhưng đã

tăng lên đến trên 20,0% trong 3 năm gần đây nhất.

Phân tích nhiễm HIV theo nhóm đối tượng: đối tượng TCMT chiếm chủ yếu trong số

nhiễm mới hàng năm và đang có xu hướng giảm dần, từ 94,7% năm 2000, xuống 90,8%

năm 2006 và 76,4% năm 2013. Ngược lại, lây nhiễm HIV qua QHTD với các nhóm bạn tình

lại tăng dần qua các năm: từ 2,5% năm 2000 lên 6,7% năm 2006 và 21,8% năm 2013.

Phân tích nhiễm HIV/AIDS theo tuổi: đang có xu hướng tăng dần của nhóm tuổi 30 -

39 và giảm dần của nhóm tuổi 20 - 29 từ năm 2010 đến nay. Nhóm tuổi 20 - 29 giảm từ

51,9% (2010) xuống 35,1 (2013), nhóm 30 - 39 từ 34,6% (2010) lên 50,2% (2013).

Số liệu giám sát trọng điểm qua các năm cho thấy: tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm

TCMT cao nhất vào năm 2005 (34,3%), sau đó giảm dần qua các năm và ở mức 12% năm

2012 và 2013. Nhóm PNBD có tỷ nhiễm HIV cao trong những năm đầu và cao nhất vào

năm 2008 (7,8%), giảm dần những năm gần đây và còn 1% năm 2013. Nhóm nam mắc

BLTQĐTD có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất năm 2007 (6,8%) và giảm xuống còn 2,0% năm

2013. Đặc biệt, từ năm 2009 Nghệ An bắt đầu lấy mẫu giám sát trọng điểm nhóm đồng bào

dân tộc miền núi tuổi từ 15 - 49 và kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm trong nhóm này rất cao, cao

nhất là năm 2010 với 5,5%, 2012 là 4,5% và năm 2013 là 1,5%. Điều này cũng phù hợp với

tình trạng số người nhiễm HIV/AIDS phát hiện mới tăng nhanh tại các địa phương này và

chủ yếu lây nhiễm trong nhóm NCMT [82], [83].

1.3. HÀNH VI NGUY CƠ LÂY TRUYỀN HIV TỪ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

Nguy cơ lây nhiễm HIV được định nghĩa như là khả năng của một người có thể bị lây

nhiễm HIV. Những hành vi nhất định tạo ra, làm tăng và duy trì khả năng lây nhiễm được

coi là nguy cơ (UNAIDS, 1998). Những hành vi đó bao gồm TCMT, QHTD không an toàn

và QHTD với nhiều bạn tình trong thời gian dài không sử dụng hoặc ít sử dụng BCS

(UNAIDS, 2007). Nguy cơ nhiễm HIV nảy sinh do cá nhân bị lôi kéo vào các hành vi nguy

cơ từ nhiều lý do khác nhau như thiếu thông tin, không có khả năng đàm phán về tình dục

an toàn, không sẵn có BCS… Những năm gần đây, sự tiếp cận với HIV/AIDS đã được mở

rộng không chỉ tập trung vào nguy cơ cá nhân mà còn vào cả yếu tố môi trường, xã hội,

cũng như vai trò ảnh hưởng đến nguy cơ từ các mối quan hệ và bất bình đẳng giới

(UNAIDS, 1998) [59], [135].

1.3.1. Tiêm chích ma túy không an toàn.

Hiện nay, Việt Nam và một số nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương lây nhiễm

HIV trong nhóm những người TCMT đã, đang và tiếp tục có xu hướng gia tăng. Tại Việt

Nam, nghiên cứu của Nguyễn Trần Hiển và cộng sự trong 1.519 người TCMT tại TP. Hồ

Chí Minh về yếu tố nguy cơ nhiễm HIV và dùng chung BKT của họ. Kết quả cho thấy, tỷ lệ

nhiễm HIV tăng từ 27,0% năm 1997 lên 38,0% vào năm 1998 ở các cơ sở cai nghiện, tỷ lệ

nhiễm HIV trong nhóm TCMT tại cộng đồng cũng tăng cao hơn [46].

Năm 1997, trong một nghiên cứu ở các đối tượng TCMT nhiễm HIV tại 5 tỉnh miền

Bắc, Nguyễn Chí Phi và cộng sự đã nhận thấy: 96,0% các đối tượng TCMT, HIV dương

tính đã từng dùng BKT, chỉ có 5,0% trong số đối tượng nghiên cứu biết cách và đã làm sạch

BKT đúng cách và 18,9% người nhiễm HIV/AIDS dùng BKT sạch [65].

Năm 2002, điều tra của ngân hàng Phát triển châu Á, cho thấy: tỷ lệ dùng BKT của

nhóm người nhiễm HIV/AIDS đã từng TCMT rất cao (Đồng Tháp: 61,5%, Kiên Giang:

55,2% Lai Châu: 54,8% và An Giang: 25,0%) [21]. Cũng trong năm 2002, điều tra lượng

giá nguy cơ nhiễm HIV/AIDS của ngân hàng Thế giới cũng cho thấy: tỷ lệ đối tượng còn

TCMT trong tháng trước điều tra cao (Thanh Hoá: 93,0%, Nghệ An 81,7%, Hà Tĩnh:

77,8%, Bình Dương: 88,9%, Long An: 86,8%). Tỷ lệ đối tượng dùng lại BKT trong tháng

trước điều tra cũng cao (Thanh Hoá 97,5%, Nghệ An: 47,6%, Hà Tĩnh: 55,6% , Bình

Dương: 67,5%, Long An: 32,9% [17].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà (2004) về hành vi TCMT trong nhóm người

nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Phú Thọ cho kết quả: Hầu hết đối tượng đã từng TCMT (97,8%),

tỷ lệ TCMT trong tháng trước điều tra cao (79,8%) và gần một nửa (47,9%) người nhiễm

HIV/AIDS đưa BKT đã qua sử dụng cho người khác dùng [41]. Nghiên cứu của Lê Trường

Sơn tại Thanh Hóa cũng cho thấy: 89,4% đối tượng đã từng TCMT và 48,2% trong số đó

vẫn tiếp tục dùng BKT sau khi nhiễm HIV [72].

Các số liệu trên cho thấy mức độ nguy hiểm của đại dịch HIV/AIDS không chỉ thể

hiện ở tình trạng lây lan HIV từ người nhiễm ra cộng đồng, mà còn ở tình trạng tái nhiễm vi

rút đối với người đã nhiễm HIV.

1.3.2. Quan hệ tình dục không an toàn

Quan hệ tình dục không an toàn cũng có nguy cơ lây nhiễm HIV cao tại Việt Nam

nhất là nhóm người nhiễm HIV/AIDS vì họ vẫn tiếp tục quan hệ tình dục không an toàn với

các loại bạn tình sau khi biết đã nhiễm HIV.

Khi nghiên cứu hành vi quan hệ tình dục của 396 người TCMT có HIV dương tính

tại 5 tỉnh miền Bắc Việt Nam, Nguyễn Chí Phi và cộng sự đã cho nhận xét: tỷ lệ có quan hệ

tình dục ở nhóm đối tượng này rất cao, hầu hết có quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ

tình dục lần đầu thường với gái mại dâm và có liên quan đến việc sử dụng ma tuý, có 48,6%

sử dụng BCS trong quan hệ tình dục, nhưng chỉ có 71,7% trong số này sử dụng BCS đúng

cách [65].

Kết quả điều tra của ngân hàng Phát triển châu Á năm 2002 trên các đối tượng nhiễm

HIV/AIDS cho thấy: tỷ lệ dùng BCS trong lần quan hệ tình dục gần nhất của đối tượng tại

Lai Châu: 50,0%, An Giang: 50,0%, Kiên Giang: 34,7%, Đồng Tháp: 23,0%. Mặt khác,

phần lớn người nhiễm HIV/AIDS có quan hệ tình dục với gái mại dâm trong 12 tháng trước

điều tra, nhưng tỷ lệ luôn sử dụng BKT khá thấp (Lai Châu: 42,3%, An Giang: 34,6%, Kiên

Giang: 22,4%, Đồng tháp: 19,6%) [21].

Kết quả điều tra của ngân hàng Thế giới năm 2002 cũng nhận xét: người nhiễm

HIV/AIDS không thường xuyên sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình, nhất là với

gái mại dâm [17].

1.3.3. Nguy cơ phối hợp

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy: có sự đan xen giữa hai nhóm hành vi nguy cơ

này. Một tỷ lệ khá cao người nhiễm HIV/AIDS vừa TCMT có dùng chung BKT, vừa có

QHTD không dùng BCS thường xuyên. Mặt khác, một số người nhiễm HIV/AIDS vừa có

hoạt động mại dâm không dùng BCS, vừa TCMT có dùng chung BKT. Do vậy, một số đối

tượng nhiễm HIV/AIDS đã không thể xác định được nguyên nhân lây nhiễm HIV của bản

thân do TCMT hay do QHTD [3], [18], [73], [78].

Số liệu giám sát hành vi vòng 1 tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng: những hành vi đan

xen có thể có những nguy cơ lây nhiễm HIV đặc biệt cao. Gái mại dâm đồng thời TCMT có

nguy cơ lây truyền HIV cao hơn rất nhiều so với những gái mại dâm không TCMT. Người

TCMT có QHTD với GMD có nguy cơ lây truyền HIV cao hơn rất nhiều so với những đối

tượng TCMT không có QHTD với GMD do họ không thường xuyên sử dụng BCS khi

QHTD, có nhiều bạn tình hơn và dùng chung BKT trong TCMT thường xuyên hơn [3],

[18], [98]. Theo nhận định của UNAIDS: sự kết hợp giữa TCMT và mại dâm là một sự phối

hợp chết người và đang châm ngòi cho một vụ dịch nghiêm trọng ở Việt Nam. Tại thành

phố Hồ Chí Minh, một nghiên cứu đã cho thấy: 38,0% gái mại dâm có TCMT và khoảng

một nửa số đó đã bị nhiễm HIV, trong khi chỉ 8,0% gái mại dâm không TCMT bị nhiễm

bệnh. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra: tỷ lệ GMD có TCMT sử dụng BCS chỉ bằng một

nửa của số GMD không TCMT; tỷ lệ sử dụng BCS ở gái mại dâm đường phố có TCMT,

dùng chung BKT thấp hơn 6 lần so với GMD không TCMT. Nói cách khác, những GMD có

nguy cơ lây nhiễm HIV cao nhất lại chính là người ít thường xuyên sử dụng BCS nhất [3],

[39], [51].

Ngoài ra, nguy cơ lây truyền từ mẹ nhiễm HIV/AIDS sang con cũng xuất hiện ngày

càng nhiều hơn và bắt đầu được nghiên cứu, tìm hiểu.

1.4. TÌNH HÌNH TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

1.4.1. Trên thế giới

Cho tới nay, thế giới vẫn chưa có thuốc điều trị khỏi và chưa có vắc xin phòng bệnh

đặc hiệu về HIV/AIDS, vì vậy trong những năm qua các biện pháp nhằm hạn chế đến mức

tối đa tác hại và sự lan truyền HIV ra cộng đồng là dự phòng với 3 mục tiêu chính:

- Hạn chế tốc độ lây lan HIV.

- Làm chậm quá trình tiến triển của bệnh.

- Làm giảm ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội của HIV/AIDS.

Tại các nước đang trong giai đoạn dịch tập trung, HIV chủ yếu lan truyền trong các

nhóm nguy cơ cao (TCMT và GMD). Do đó, các hoạt động giảm tác hại được thực hiện tập

trung vào các nhóm này nhằm hạn chế sự lây truyên HIV ra cộng đồng. Bốn nhóm biện

pháp chính trong phòng chống HIV/AIDS, đó là [16], [22], [60]:

- Thông tin, giáo dục, truyền thông và truyền thông thay đổi hành vi.

- Can thiệp giảm tác hại trong nhóm đối tượng nguy cơ cao (cấp phát BKT sạch, cấp

phát và tiếp thị xã hội BCS, điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

Methadone…).

- Giám sát HIV/AIDS (giám sát huyết thanh, giám sát hành vi, giám sát thế hệ 2),

phát hiện và điều trị sớm các BLTQĐTD, bệnh lao.

- Tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị người nhiễm HIV/AIDS.

Hoạt động tư vấn, xét nghiệm tự nguyện là một nội dung quan trọng. Đó là chương

trình can thiệp dự phòng HIV dựa trên nhu cầu của đối tượng tư vấn, nó cung cấp cơ hội cho

đối tượng hiểu được nguy cơ nhiễm HIV và biết được kết quả xét nghiệm HIV của mình

một cách bí mật [23], [27]. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, TVXNTN là bộ phận quan trọng

trong chương trình phòng chống HIV/AIDS, đóng vai trò vừa dự phòng lây truyền HIV, vừa

chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS. Dựa trên nền tảng TVXNTN, các dịch vụ dự phòng,

chăm sóc và hỗ trợ khác được hình thành như chăm sóc y tế, giáo dục đồng đẳng, can thiệp

giảm tác hại, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con… [23], [24], [27]. Các nghiên cứu trên thế

giới gần đây còn chỉ ra rằng TVXNTN là loại hình can thiệp có chi phí thấp nhưng mang lại

hiệu quả cao trong phòng lây nhiễm HIV.

Hiện nay, số lượng người sử dụng xét nghiệm HIV và dịch vụ tư vấn đã tăng gấp

nhiều lần trong 10 năm qua. Tuy vậy, tỷ lệ đáp ứng so với số muốn làm xét nghiệm vẫn còn

thấp. Trong năm 2003, ước tính có 0,2% người lớn ở các nước có thu nhập thấp và trung

bình nhận được các dịch vụ TVXNTN. Họ ngại không đi xét nghiệm vì nhiều nguyên nhân,

như: khó tiếp cận các dịch vụ xét nghiệm và điều trị ; sợ kỳ thị và phân biệt đối xử; sợ xét

nghiệm sẽ dương tính… Điều đó đồng nghĩa với việc hàng ngàn cơ hội tiếp cận điều trị,

chăm sóc, hỗ trợ và dự phòng đang bị bỏ qua. Để giải quyết vấn đề này, UNAIDS và WHO

đã và đang hỗ trợ chương trình mở rộng tiếp cận với xét nghiệm và tư vấn HIV thông qua

việc phát triển các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm ban đầu lồng ghép với các hoạt động chăm

sóc sức khỏe sẵn có tại các cơ sở y tế. Những nỗ lực như vậy không những cần thiết cho cải

thiện sức khỏe từng cá nhân mà còn thiết yếu cho tiếp cận toàn cầu trong dự phòng, chăm

sóc, hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS [138].

Hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS cũng đang được đặt ra là một

trọng tâm của chương trình phòng chống HIV/AIDS. Zămbia là một trong những nước châu

Phi đầu tiên thực hiện dịch vụ chăm sóc HIV/AIDS tại nhà. Dịch vụ này đã được quốc tế

công nhận vì chất lượng hoạt động cao. Kinh nghiệm phòng chống AIDS tại một số nước

như Brazil, Ấn Độ, Thái Lan và nhiều quốc gia khác cũng cho thấy: tăng cường chăm sóc,

hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS là biện pháp tốt nhất để khống chế, đẩy lùi đại dịch

HIV/AIDS do giảm sự sợ hãi, kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS, làm tăng

số người đến xét nghiệm và tư vấn HIV/AIDS [7], [136].

Nhận thức tầm quan trọng của điều trị, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS,

chính sách của UNAIDS về vấn đề này nêu rõ: điều trị, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS là một nhân tố quan trọng trong việc đáp ứng bệnh dịch, không chỉ trực tiếp

mang lại lợi ích cho người nhiễm, mà còn làm giảm những tác động đến kinh tế, xã hội và

đẩy mạnh dự phòng lây nhiễm HIV. Chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV/AIDS có các nội

dung: tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ dinh dưỡng, thực phẩm và điều trị (điều trị

thuốc kháng vi rút và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội) [136].

Với các nội dung chăm sóc và hỗ trợ dinh dưỡng, thực phẩm, UNAIDS xác định:

dinh dưỡng tốt đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe cho người nhiễm

HIV/AIDS. Dinh dưỡng đầy đủ rất cần thiết để duy trì hệ thống miễn dịch, giữ vững hoạt

động thể chất, đảm bảo chất lượng sống con người. Ở hầu hết các nước bị ảnh hưởng nặng

nề bởi HIV/AIDS, sự khan hiếm lương thực và đói nghèo đã làm cho việc đảm bảo dinh

dưỡng gần như không thực hiện được. Thực phẩm là một phần trong gói liệu pháp kháng vi

rút toàn diện. Nhu cầu hỗ trợ về thực phẩm và dinh dưỡng cũng nằm trong chương trình dự

phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. Vì vậy, dinh dưỡng nên trở thành một nội dung lồng

ghép trong đáp ứng của mỗi quốc gia với HIV/AIDS. Đặc biệt, chương trình của UNAIDS

đã khuyến cáo việc tăng cường cam kết chính sách với dinh dưỡng và HIV trong khuôn khổ

chương trình nghị sự về sức khỏe của mỗi nước, tăng cường thành tố dinh dưỡng trong các

chính sách và chương trình HIV/AIDS, cũng như lồng ghép chương trình HIV/AIDS với

chính sách và chương trình dinh dưỡng quốc gia [137].

Về nội dung điều trị kháng vi rút sao mã ngược (ARV): Vấn đề hỗ trợ thuốc điều trị

kháng vi rút sao mã ngược hiệu quả cao được bắt đầu thực hiện từ năm 1996 đã mở ra

những triển vọng mới, mang lại hy vọng kéo dài cuộc sống cho người nhiễm HIV/AIDS. Ở

các nước phát triển, việc kết hợp TVCSHT với liệu pháp điều trị ARV gần đây đã được triển

khai rộng rãi làm cải thiện cuộc sống cho những người nhiễm HIV/AIDS, đồng thời còn làm

thay đổi nhận thức về HIV/AIDS từ một bệnh chết người sang một bệnh mạn tính, có thể

điều trị được [62]. Thế nhưng, với những nước nghèo hơn, đặc biệt các khu vực dịch

HIV/AIDS đang phát triển mạnh, sự thay đổi nhận thức này chưa được coi trọng. Năm

2003, ở các nước đang phát triển, trong số 6 triệu người cần được điều trị ARV thì chỉ

khoảng 480.000 người (8,0%) nhận được thuốc. Tháng 9 năm 2003 Tổ chức Y tế Thế giới,

Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Quỹ Toàn cầu phòng chống

HIV/AIDS đã tuyên bố việc tiếp cận với điều trị ARV là một vấn đề cấp bách toàn cầu.

Những tổ chức này cùng các đối tác khác đã kêu gọi nỗ lực nhằm thực hiện mục tiêu có 3

triệu người (trong tổng số 7 triệu người cần điều trị) ở các nước đang phát triển (trong đó có

các nước thuộc khu vực Thái Bình Dương: Campuchia, Trung Quốc, Papua New Guinea và

Việt Nam) được điều trị ARV vào cuối năm 2005 (sáng kiến 3x5 – Three by Five Initiative).

Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2005, mục tiêu này mới thực hiện đạt khoảng 1,3 triệu người

được điều trị ARV [8], [43].

Do các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ và phối hợp điều trị HIV/AIDS còn ở quy mô nhỏ

hoặc chưa có, một số nước đã gặp khó khăn trong việc thiết lập hệ thống chăm sóc, hỗ trợ

toàn diện (gồm các dịch vụ y tế, hỗ trợ tâm lý, dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS và điều phối

sự tham gia của các cơ quan ban ngành) để thúc đẩy và mở rộng điều trị ARV. Các dự án

thực địa được triển khai thí điểm là cơ sở để nhân rộng mô hình. Việc sử dụng hệ thống

chăm sóc toàn diện sẵn có để mở rộng điều trị ARV được áp dụng ở nhiều nước như Brazil,

Thái Lan… Tại Thái Lan, với sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ, ngày càng có nhiều

người nhiễm HIV/AIDS được tiếp cận với các dịch vụ TVCSHT, đặc biệt là dịch vụ điều trị

ARV. Năm 2004 có 50.000 người tiếp cận dịch vụ này, năm 2005 có 80.000 người và dự

kiến đến cuối năm 2006 toàn bộ người nhiễm HIV/AIDS ở Thái Lan được tiếp cận, chăm

sóc và điều trị ARV [43].

Để giải quyết những vấn đề thực tế trên, UNAIDS và các đối tác hiện đang tập trung

vào nội dung nâng cao năng lực cho các chương trình chăm sóc sức khỏe ở những nước có

thu nhập thấp và trung bình nhằm cung cấp những dịch vụ toàn diện cho người nhiễm

HIV/AIDS. Sự tăng cường hợp tác và phối hợp giữa nhiều ban ngành, đoàn thể đã đáp ứng

nhu cầu của người nhiễm, giải quyết mục tiêu dự phòng lây nhiễm HIV, giảm nhẹ đói

nghèo, giảm kỳ thị và phân biệt đối xử. Sự phối hợp này, thông thường mang lại hiệu quả

tối ưu tại cộng đồng. Chiến lược nhằm giải quyết đồng thời các vấn đề sức khỏe bao gồm:

xây dựng và tăng cường các cơ sở y tế sẵn có, tăng số lượng và chất lượng cán bộ y tế, tăng

các dịch vụ phối hợp và lồng ghép [136].

Với những nỗ lực không ngừng đó, tính đến cuối năm 2012, thế giới đã có 9,7 triệu

người tiếp cận được với điều trị ARV, trong đó có 7,5 triệu người ở châu Phi. Số trẻ em

dưới 15 tuổi được điều trị là 630.000 và có 900.000 phụ nữ mang thai được điều trị

DPLTMC. Nhu cầu đến năm 2015, cần đưa được 15 triệu người vào điều trị ARV [141],

[143].

Ngoài ra, những kinh nghiệm trên thế giới cũng đã được đúc rút trong việc triển khai

nội dung TVCSHT cho người nhiễm HIV/AIDS, đó là [62]:

- Đơn giản và chuẩn hóa.

- Có sự tham gia của những người nhiễm HIV/AIDS.

- Thực hiện trong một mạng lưới chăm sóc, hỗ trợ thích hợp, sẵn có và với gói dịch

vụ toàn diện (gồm: tư vấn và xét nghiệm HIV, chăm sóc lâm sàng, hỗ trợ tâm lý và kinh tế

xã hội, dự phòng lây nhiễm HIV và huy động sự hợp tác).

1.4.2.1. Những kết quả đạt được

1.4.2. Tại Việt Nam

Năm 1992, Bộ Y tế đưa ra hướng dẫn thành lập mạng lưới tư vấn toàn quốc từ cấp

tỉnh/thành phố tới quận/huyện, xã/phường. Hoạt động tư vấn đã được thực hiện từ thời điểm

đó. Mặc dù đã thành công trong việc xây dựng hệ thống xét nghiệm ở tất cả các tỉnh/thành

phố, tuy vậy, trước năm 2000 xét nghiệm tự nguyện chưa thực sự được thực hiện tại Việt

Nam. Hầu hết các xét nghiệm được làm trước đó là bắt buộc và gắn với giám sát dịch tễ học

HIV (giám sát trọng điểm). Việc xét nghiệm sẵn có không làm cho nó trở nên tự nguyện, tư

vấn trước và sau xét nghiệm mới chỉ thực hành một cách qua loa. Theo kết quả của chương

trình giám sát hành vi năm 2000, chỉ có khoảng một nửa GMD và đối tượng TCMT đã từng

làm xét nghiệm HIV tự nguyện [98].

Về nội dung chăm sóc, hỗ trợ: tháng 4 năm 1996, Ban AIDS Bộ Y tế tiến hành triển

khai thí điểm mô hình Quản lý - Chăm sóc - Tư vấn tại thành phố Hồ Chí Minh, An Giang

và Khánh Hoà. Sau một năm thực hiện, mô hình đã được nhân rộng ra 20 tỉnh/thành phố có

tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất vào thời điểm đó. Tuy nhiên, hoạt động của mô hình đã gặp nhiều

khó khăn, nhất là với nội dung tư vấn. Mặt khác, do thiếu thuốc điều trị, tỷ lệ người nhiễm

HIV/AIDS được quản lý, chăm sóc, hỗ trợ thấp cùng sự sợ hãi dẫn đến kỳ thị, phân biệt đối

xử đã làm hiệu quả của mô hình không cao. Tại Đà Nẵng, 71,1% người nhiễm HIV/AIDS

và 45,0% thân nhân của họ không muốn người khác biết tình trạng nhiễm HIV của mình

hoặc người thân [58].

Tại Việt Nam, người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu đang sống ở 2 khu vực: tại cộng

đồng và trong các trại tạm giam, trại giam, các cơ sở giáo dục lao động xã hội (thường gọi là

các trung tâm 05, 06). Tại cộng đồng, việc quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm

HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn do đối tượng thường xuyên thay đổi địa chỉ, phải chuyển

đến các địa phương khác sinh sống vì sợ bị phân biệt đối xử và nhiều người phải đi làm ăn,

lao động xa quê để kiếm sống. Mặt khác, lực lượng cán bộ y tế mỏng, kiêm nhiệm nhiều

việc nên khó đảm đương được công việc khi số người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS gia

tăng nhanh chóng. Kinh phí dành cho những nội dung hoạt động này cũng rất hạn hẹp. Tính

đến cuối năm 2000, trong số những người nhiễm HIV/AIDS quản lý được theo danh sách

(khoảng 45% số phát hiện), chỉ có dưới 10% được khám sức khỏe định kỳ. Một số địa

phương triển khai các nhóm/câu lạc bộ người nhiễm, như: “Bạn giúp bạn”, “Vì ngày mai

tươi sáng”, “Bầu trời xanh”, “ Hoa phượng đỏ”… nhưng số người tham gia sinh hoạt thấp,

mới chỉ khoảng 16% số người nhiễm phát hiện tham gia [15], [95], [96]. Trong trại tạm

giam, trại giam, các trung tâm 05, 06, những người nhiễm HIV/AIDS hầu như không được

tư vấn và chăm sóc. Một mặt, người nhiễm không được thông báo về tình trạng nhiễm HIV

vì sợ những phản ứng tiêu cực, mặt khác, nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế ở

những nơi này rất hạn chế nên cũng không đáp ứng được nhu cầu điều trị. Chỉ đến khi ra

trại, một số người nhiễm mới được thông báo về tình trạng bệnh và khi về nhà họ thường

sống tiêu cực và tiếp tục có hành vi nguy cơ lây truyền HIV cho cộng đồng dân cư.

Với sự quan tâm của chính phủ và sự hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật của các tổ chức quốc

tế, các chương trình chăm sóc, hỗ trợ, điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS từ năm 2005 đã

được tăng cường, đẩy mạnh và đã có những tiến bộ rõ rệt, đạt được nhiều kết quả khả quan:

- Hệ thống y tế nhà nước đang được củng cố ở các tuyến để đáp ứng nhu cầu chăm sóc, hỗ

trợ và điều trị người nhiễm HIV/AIDS.

+ Tuyến trung ương: Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới, Bệnh viện nhiệt đới

TP. Hồ Chí Minh và Bệnh viện Trung ương Huế có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức thực hiện

chăm sóc, hỗ trợ và điều trị bệnh nhân AIDS; kiểm tra, giám sát hỗ trợ và đánh giá các hoạt

động tại địa phương.

+ Tuyến tỉnh/thành phố: triển khai các hoạt động TVCSHT và điều trị bệnh nhân nội,

ngoại trú. Đặc biệt, tại 40 tỉnh/thành phố, với sự hỗ trợ của dự án “Dự phòng và chăm sóc

HIV/AIDS tại Việt Nam” (dự án LIFE-GAP), đã thiết lập các phòng khám ngoại trú, phòng

TVXNTN, gắn tư vấn xét nghiệm HIV với dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

+ Tuyến quận/huyện: dự án “Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

và các hoạt động phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng tại Việt Nam” (dự án Quỹ

Toàn cầu) ngoài việc tổ chức thực hiện các phòng TVXNTN và hoạt động chăm sóc, hỗ trợ

cho người nhiễm tại tuyến tỉnh, còn thiết lập hệ thống tư vấn, xét nghiệm và chăm sóc hỗ trợ

tại 100 quận/huyện thuộc 20 tỉnh/thành phố. Mục tiêu của dự án nhằm tăng cường năng lực

cho hệ thống y tế sẵn có tuyến quận/huyện để người nhiễm HIV/AIDS có thể dễ dàng tiếp

cận các dịch vụ TVCSHT tại nơi họ sinh sống, bảo đảm việc hỗ trợ tuân thủ điều trị ARV và

chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm lâu dài.

- Chương trình phòng,chống HIV/AIDS Quốc gia trong thời gian qua đã được đầu tư kinh

phí và kỹ thuật cho các hoạt động TVCSHT, bao gồm cả điều trị ARV. Chỉ tính riêng việc

tiếp cận thuốc kháng HIV: năm 2002, chương trình phòng chống HIV/AIDS đã dành 5%

ngân sách để mua thuốc điều trị, tỷ lệ này tăng lên 7% vào năm 2003, 13% năm 2004 và

năm 2005 là 15%. Cùng với sự hỗ trợ của các dự án điều trị như PEPFAR, Quỹ Toàn cầu,

Quỹ Clinton, dự án ESTHER và nguồn thuốc của Chương trình mục tiêu Quốc gia, đến cuối

năm 2006 có khoảng trên 7.000 bệnh nhân (chiếm khoảng 30% bệnh nhân đủ tiêu chuẩn

điều trị) đã tiếp cận được thuốc kháng HIV [54].

- Tính đến 30/9/2012, trên toàn quốc có 69.882 người đang được điều trị bằng thuốc kháng

vi rút (ARV), trong đó có 66.167 người lớn và 3.715 trẻ em. Tổng số bệnh nhân điều trị tại

10 tỉnh/thành cao nhất cả nước là 48.367, chiếm 69,2% số người nhiễm HIV/AIDS đang

điều trị toàn quốc. Thành phố Hồ Chí Minh có số người đang điều trị ARV cao nhất cả nước

với 21.350 người, chiếm 30,6% số bệnh nhân đang điều trị trên toàn quốc [4].

1.4.2.2. Những khó khăn, tồn tại

Chương trình tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS trong thời gian qua

đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, đặc biệt là từ giai đoạn 2010 đến nay.

Tuy nhiên, công tác TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam còn gặp phải một số

khó khăn tồn tại:

- Bộ máy tổ chức và năng lực phục vụ hoạt động TVCSHT còn hạn chế, chưa đáp

ứng được yêu cầu về chuyên môn; chế độ, chính sách cho cán bộ y tế và người nhiễm

HIV/AIDS còn nhiều bất cập.

- Thiếu kinh phí cho các hoạt động TVCSHT; hệ thống theo dõi, đánh giá và điều

phối các chương trình, dự án về các hoạt động TVCSHT chưa tốt.

- Hệ thống chuyển tuyến và phối hợp giữa các tuyến chưa nhịp nhàng; sự tham gia

của các ban ngành, tổ chức xã hội hạn chế; các dịch vụ về việc làm, các trung tâm chăm sóc

hỗ trợ người nhiễm, chăm sóc trẻ nhiễm hoặc ảnh hưởng bởi HIV bị bỏ rơi còn rất thiếu.

- Sự tham gia của người nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế, vẫn còn sự kỳ thị và phân

biệt đối xử nên người nhiễm không dám công khai tình trạng nhiễm và không tiếp cận với

các dịch vụ TVCSHT [8], [32], [52].

1.4.3. Tại Nghệ An

1.4.3.1. Những kết quả đạt được

Nghệ An là một tỉnh nằm ở Bắc Trung bộ, có ranh giới phía Bắc giáp Thanh Hoá,

phía nam giáp Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển và phía Tây giáp nước bạn Lào, có diện tích

16.499 km2, dân số 3.102.768 người ( tính đến 31/12/2012). Toàn tỉnh có 20 huyện, thành,

thị (TP. Vinh, TX. Cửa Lò, TX. Thái Hoà và 17 huyện, trong đó có 10 huyện miền núi).

Phía tây có 419 km đường biên giới tiếp giáp với nước bạn Lào, hai cửa khẩu quốc tế và

nhiều đường tiểu mạch qua Lào thuận lợi; bờ biển dài 93 km, một hải cảng lớn (cảng Cửa

Lò), thị xã Cửa Lò và 3 huyện (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc) là những điểm du lịch

biển nổi tiếng và có giao lưu thương mại bằng đường biển với bên ngoài. Trong những năm

qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội như buôn

bán, sử dụng ma tuý có chiều hướng tăng nhanh, số thanh thiếu niên thiếu việc làm, lêu lổng

dẫn đến nghiện ma tuý ngày càng nhiều, tệ nạn mại dâm cũng ngày càng phát triển và hoạt

động tinh vi, khó kiểm soát. Đặc biệt, Nghệ An được coi là trạm trung chuyển ma tuý từ Lào

sang để từ đó vận chuyển ra Bắc hay vào Nam [89].

Trước tình hình dịch HIV/AIDS ngày càng lan rộng, người nhiễm HIV chuyển thành

AIDS ngày càng nhiều, tăng cường triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS là vấn

đề hết sức cấp thiết. Nhận thức được mối hiểm hoạ to lớn của đại dịch HIV/AIDS, nhằm

ngăn chặn sự lan truyền của HIV, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của dịch, từng bước cải

thiện sức khoẻ, tinh thần và kéo dài cuộc sống cho người nhiễm HIV/AIDS. Trong những

năm qua, tại Nghệ An nhiều hoạt động phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai thực hiện

theo các nội dung của Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và

tầm nhìn năm 2020. Cùng với việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về phòng

chống HIV/AIDS thì sự hỗ trợ của các chương trình dự án là rất có ý nghĩa, đặc biệt là từ

năm 2007, sau khi Nghệ An được đưa vào một trong 7 tỉnh trọng điểm của chương trình

PEPFAR Hoa Kỳ thì các hoạt động thực sự chuyển biến mạnh mẽ và thu được những kết

quả bước đầu đáng phấn khởi: từ công tác truyền thông, tư vấn thay đổi hành vi, chống sự

kỳ thị phân biệt đối xử; can thiệp giảm hại, cung cấp BKT, BCS ngăn chặn đường lây truyền

của HIV; xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao năng lực và kiện toàn hệ thống mạng

lưới làm công tác phòng chống HIV/AIDS các cấp; giám sát phát hiện, giám sát trọng điểm,

theo dõi, quản lý về người nhiễm HIV/AIDS; đến các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ, điều trị

cho người nhiễm HIV/AIDS... đều được quan tâm chú trọng [82].

Tháng 10/2006, với sự hỗ trợ của nguồn thuốc ARV từ chương trình mục tiêu quốc

gia phòng chống HIV/AIDS, tại Nghệ An đã đưa vào điều trị ARV đợt đầu tiên cho bệnh

nhân HIV/AIDS với số lượng 15 bệnh nhân. Tháng 3 năm 2007 số bệnh nhân điều trị được

tăng lên do sự hỗ trợ của Dự án quỹ toàn cầu. Từ tháng 10 năm 2007, số lượng bệnh nhân

điều trị mới thực sự tăng lên rõ rệt do sự hỗ trợ của dự án Life- GAP, chương trình FHI

(nguồn thuốc từ chương trình PEPFAR) sau khi Nghệ An được phê duyệt là tỉnh trọng điểm

thứ 7 của cả nước về phòng chống HIV/AIDS. Tính đến 31/12/2013, tại Nghệ An có 13 cở

sở điều trị nhiễm HIV/AIDS, gồm: 9 PKNT được triển khai ngoài cộng đồng (trong đó có 1

PKNT trẻ em), 2 cơ sở điều trị trong trung tâm 05 - 06 và 2 cơ sở điều trị trong trại giam.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 11 phòng tư vấn, 12 nhóm GDVĐĐ, 5 câu lạc bộ người

nhiễm và nhiều dịch vụ khác như dự phòng lây truyền mẹ - con, khám và điều trị

BLTQĐTD, khám và điều trị Lao/HIV... Có thể nói với sự hỗ trợ tích cực của các chương

trình, dự án, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong thời gian qua,

hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS đã có sự chuyển biển mạnh mẽ

với hàng chục ngàn người được TVXNTN, người nhiễm HIV/AIDS đã chủ động công khai

danh tính để hưởng thụ các dịch vụ và tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS,

được quản lý và được tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ tại nhà, tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ

và nhiều hoạt động hỗ trợ khác từ các tổ chức, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn. Tính đến

cuối 2013, số người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị ARV tại các phòng khám ngoại

trú là 2.223 người, trong đó có 105 là trẻ em [82].

Bảng 1.2. Phân bố bệnh nhân điều trị ARV tại các cơ sở điều trị tỉnh Nghệ An

TT Tên phòng khám Số bệnh nhân điều trị ARV

1 PKNT bệnh viện Đa khoa tỉnh 940

2 PKNT bệnh viện Sản Nhi 105

3 PKNT bệnh viện Đa khoa Diễn Châu 266

4 PKNT Trung tâm Y tế Hưng Nguyên 81

PKNT Trung tâm Y tế TX. Thái Hoà 5 319

PKNT Trung tâm Y tế TP. Vinh 6 105

PKNT Bệnh viện Đa khoa Tương Dương 7 96

Trung tâm GD LĐ XH 1 8 8

Trung tâm GD LĐ XH 2 9 20

10 Trại giam số 3 - Bộ Công an 64

11 Trại giam số 6 - Bộ Công an 63

12 PKNT Trung tâm Y tế Quế Phong 126

13 PKNT Bệnh viện Đa khoa Quỳ Châu 30

Tổng cộng 2.223

Tuy nhiên, do mức độ hạn hẹp của nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia,

sự phân bố có chừng mực về nguồn lực và phạm vi, nội dung triển khai hoạt động của các

chương trình, dự án và đặc biệt là cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nhân lực còn quá mỏng của

hệ thống phòng chống HIV/AIDS các cấp nên hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ

An vẫn còn một số tồn tại, như: Độ bao phủ của các chương trình dự án chưa cao, nhiều

huyện vùng xa, miền núi cao chưa được triển khai các dự án, việc tiếp cận với các dịch vụ

của người nhiễm HIV/AIDS ở các địa phương này còn nhiều khó khăn, bất cập [82].

1.4.3.2. Tình hình tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại địa bàn triển khai

nghiên cứu.

Nghiên cứu được triển khai tại 5 huyện/thành/thị, gồm: thành phố Vinh, các huyện

Đô Lương, Hưng nguyên, Nghi Lộc và thị xã Thái Hòa.

Địa bàn nghiên cứu bao phủ 122 xã/phường (chiếm 25,4% xã/phường toàn tỉnh).

Trong đó, 6/10 phường/xã có người dân tộc thiểu số (dân tộc Thanh, Thái, Thổ) tại thị xã

Thái Hòa. Dân số của toàn địa bàn nghiên cứu 844.357 người (chiếm 27,6% tổng dân số

toàn tỉnh), trong đó có 5.751 người là người dân tộc thiểu số. Tổng số người nhiễm

HIV/AIDS còn sống (tại thời điểm 6/2008) của 5 huyện nghiên cứu là 1.377 người, chiếm

53,7% số nhiễm HIV/AIDS còn sống của toàn tỉnh.

Về tình hình triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại các huyện nghiên

cứu: cũng giống như tình trạng chung của toàn tỉnh, từ năm 2008 trở về trước, các hoạt động

phòng chống HIV/AIDS tại các địa bàn nghiên cứu còn gặp rất nhiều khó khăn. Sự hỗ trợ

của các chương trình dự án giai đoạn này còn hạn chế, nguồn lực của chương trình mục tiêu

quốc cũng rất hạn hẹp nên việc triển khai các hoạt động phòng chống HIV/AIDS nói chung

và hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS nói riêng còn gặp nhiều khó

khăn. Các dịch vụ về chăm sóc, điều trị triển khai còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao.

Tình hình triển khai các hoạt động tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

tại thời điểm tháng 6/2008 ở các địa bàn triển khai nghiên cứu [82]:

Tại thành phố Vinh, với sự hỗ trợ của dự án LIFE - GAP các hoạt động được triển

khai bao gồm: một PKNT đặt tại khoa Lây - bệnh viện Hữu nghị Đa khoa tỉnh đảm nhận

việc điều trị cho bệnh nhân toàn tỉnh, PKNT này là tuyến cuối, cao nhất của hệ thống khám

và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS toàn tỉnh; một phòng TVXNTN đặt tại Trung tâm Y

tế dự phòng tỉnh, tiếp nhận tư vấn cho khách hàng trên địa bàn thành phố Vinh, các huyện

trong toàn tỉnh và cả khách hành đến từ tỉnh Hà Tĩnh (với số lượng khách hàng từ 100 -

120/tháng); 2 nhóm tiếp cận cộng đồng (1 nhóm TCMT và 1 nhóm PNMD), với số lượng 12

nhân viên mỗi nhóm, hoạt động bán thời gian để tiếp cận, truyền thông thay đổi hành vi cho

cho các đối tượng nguy cơ cao. Dự án Phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam do ngân hàng

Thế giới tài trợ (dự án WB) tổ chức 2 nhóm GDVĐĐ triển khai hoạt động can thiệp giảm

tác hại cho người NCMT và PNMD, các nhóm này gắn với địa bàn phường/xã nơi GDVĐĐ

sinh sống và hoạt động không trùng lắp với các nhóm của dự án LIFE - GAP về địa bàn và

nội dung. Ngoài ra, trên địa bàn Vinh còn có các CTV và chuyên trách phòng chống

HIV/AIDS của xã/phường do chương trình mục tiêu (CTMT) quốc gia triển khai, tuy nhiên

hoạt động của chương trình này còn mỏng và hiệu quả chưa cao do nguồn kinh phí hạn hẹp

và phụ cấp chi trả cho người tham gia thấp. Như vậy, trên địa bàn thành phố Vinh, mặc dù

đã có khá nhiều các hoạt động phòng chống HIV/AIDS được triển khai, nhưng nội dung tư

vấn, chăm sóc, hỗ trợ cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng chưa được triển khai và

việc triển khai can thiệp nội dung này là đòi hỏi cấp thiết.

Tại huyện Đô Lương: Đô Lương là huyện miền núi nằm ở Tây Nam của tỉnh và là

huyện có số người nhiễm HIV cao (đứng thứ 4 toàn tỉnh), nhưng tại đây mới chỉ có CTMT

quốc gia triển khai các hoạt động của CTV và chuyên trách tại tuyến xã và chủ yếu tập trung

ở 7 xã trọng điểm. Từ thực tế đó, việc triển khai can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người

nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở huyện Đô Lương là vấn đề cấp thiết.

Tại huyện Hưng Nguyên: Hưng Nguyên là huyện đồng bằng nằm giáp thành phố

Vinh về phía Tây Nam, là vùng đệm của thành phố và vì vậy, có các nhóm nguy cơ về

TCMT và cả PNMD. Tuy vậy, tại huyện này cũng chỉ có CTMT quốc gia triển khai các hoạt

động và cơ bản dựa vào CTV và chuyên trách tại tuyến xã, tập trung chủ yếu ở 6 xã trọng

điểm. Như vậy, việc triển khai can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

tại cộng đồng ở huyện Hưng Nguyên là ưu tiên cần được quan tâm, phù hợp với thực tế đòi

hỏi.

Tại huyện Nghi Lộc: Nghi Lộc là huyện đồng bằng ven biển nằm giáp thành phố

Vinh về phía Bắc và Đông Bắc, là vùng đang có xu hướng mở rộng của TP. Vinh nên các

khu công nghiệp phát triển mạnh, các bãi tắm và khu du lịch nhỏ ven biển cũng khá phát

triển. Vì lẽ đó, Nghi Lộc cũng là điểm nóng có các nhóm nguy cơ cao cả về TCMT và cả về

PNMD. Tuy nhiên, hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại đây cũng chỉ dựa vào CTMT

quốc gia với hệ thống chuyên trách và CTV tuyến xã và chủ yếu tập trung tại 6 xã trọng

điểm. Vì vậy, việc triển khai can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại

cộng ở huyện Nghi Lộc là vấn đề đòi hỏi cấp thiết.

Tại thị xã Thái Hòa: Thái Hòa là thị xã miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh, là thị

xã mới được thành lập từ đầu năm 2008. Thị xã Thái Hòa có 6/10 xã/phường có người dân

tộc sinh sống (dân tộc Thanh, Thái, Thổ), đời sống dân cư còn rất khó khăn, do nghề nghiệp

chính là nông nghiệp và lâm nghiệp, thu nhập thấp, trình độ dân trí thấp và còn nhiều tập

tục. Vì vậy, việc tiếp cận với các dịch vụ về HIV/AIDS, đặc biệt là dịch vụ chăm sóc, điều

trị còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Thái Hòa cũng

chủ yếu tập trung tại 6 xã trọng điểm và chỉ dựa vào CTMT quốc gia triển khai. Các hoạt

động và dịch vụ về phòng chống HIV/AIDS tại Thái Hòa còn hết sức ít ỏi và việc triển khai

can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ tại cộng là vấn đề cấp thiết đặt ra, đặc biệt là địa bàn có

đối tượng cần sự quan tâm về các chính sách xã hội đó là người dân tộc thiểu số.

Như vậy, việc triển khai can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

tại cộng đồng ở các huyện can thiệp đáp ứng được đòi hỏi về tính mới, tính cấp thiết của

nghiên cứu đó là: các hoạt động của can thiệp chỉ triển khai tại các huyện này mà không có

huyện nào khác được triển khai hoạt động tương tự; hoạt động được triển khai tại vùng

trọng điểm nhất tỉnh đó là thành phố Vinh và can thiệp vào nhóm đồng bào dân tộc miền núi

của Nghệ An, đây cũng là hoạt động đầu tiên về lĩnh vực này được triển khai tại các huyện

miền núi và đáp ứng được nhu cầu thực tế, mong mỏi của người dân tại các địa bàn can

thiệp, đặc biệt là địa bàn có người dân tộc sinh sống tại thị xã Thái Hòa. Vì lẽ đó, can thiệp

sẽ đóng góp không những cho chương trình phòng chống HIV/AIDS, mà còn có ý nghĩa

thiết thực trong việc thực hiện các chính sách xã hội đối với các vùng, miền và đối tượng

khó khăn mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta đề ra. Hơn nữa, từ trước đến nay chưa có

nghiên cứu nào được thực hiện về đánh giá hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ

người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở Nghệ An.

1.5. HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

1.5.1. Khái niệm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng

Hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng là biện pháp chăm

sóc, hỗ trợ, điều trị và dự phòng toàn diện dựa vào cộng đồng mới được tiến hành tại Việt

Nam trong những năm gần đây. TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng được

phát triển từ chương trình quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm HIV/AIDS với 2 nội dung

chính: tư vấn và chăm sóc, hỗ trợ. Ngoài ra, nó còn gắn kết nhiều chương trình khác sẵn có.

Những nội dung này được thực hiện tại cộng đồng và dựa vào cộng đồng.

TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng được quy định là các hoạt

động từ tuyến quận/huyện tới xã/phường, là việc tiếp cận tại chính cộng đồng nơi người

nhiễm đang sinh sống, sử dụng lực lượng và sức mạnh của chính cộng đồng đó nhằm tư

vấn, chăm sóc và hỗ trợ cho họ. TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng

không hoàn toàn thay thế chức năng bác sỹ chuyên khoa hay chuyên gia tư vấn. Khi người

bệnh cần điều trị trong bệnh viện hoặc cần xét nghiệm và tư vấn chuyên sâu thì được đưa

vào viện hoặc tới cơ sở TVXNTN cấp tỉnh/thành phố [52], [93].

Trong TVCSHT người ta đề cập đến 2 thành tố chính là hệ thống cung cấp các dịch

vụ và những người được hưởng các dịch vụ đó. Hệ thống cung cấp dịch vụ là mạng lưới cơ

sở y tế, các tổ chức xã hội, đoàn thể, cộng đồng và gia đình người nhiễm (thậm chí chính

người nhiễm HIV cũng chính là nguồn cung cấp), trong đó các cơ sở y tế đóng vai trò là

nòng cốt trong việc hướng dẫn tư vấn và chăm sóc. Người được hưởng các dịch vụ là người

nhiễm và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Người nhiễm được xác định là tâm

điểm của dịch vụ TVCSHT [7], [12].

Hiện nay trên thế giới, chăm sóc, hỗ trợ dựa vào gia đình và cộng đồng được tiến

hành rộng rãi, nó thể hiện tính sáng tạo và bền vững trong việc đem lại niềm an ủi và hy

vọng cho những người nhiễm HIV/AIDS. Phần lớn người nhiễm HIV/AIDS ở các nước có

thu nhập thấp và trung bình được chăm sóc tại nhà, do các dịch vụ chăm sóc sức khỏe vượt

xa tầm với của họ. Có nhiều hình thức chăm sóc tại gia đình và cộng đồng nhưng thông

thường nó được tiến hành bởi người nhà, bạn bè, đồng đẳng viên hoặc các tình nguyện viên

và với sự hỗ trợ ít nhiều của nhân viên y tế, mà thông thường là các y tá [95].

1.5.2. Cơ sở hình thành Chiến lược tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

dựa vào cộng đồng

1.5.2.1. Đặc điểm của nhiễm HIV/AIDS

- Nhiễm HIV/AIDS là một bệnh mãn tính, người mắc bệnh thậm chí không biết tình trạng

bệnh của mình, nên đòi hỏi sự TVCSHT suốt đời.

- Nhiễm HIV/AIDS liên quan đến các hành vi nguy cơ và nhiều khía cạnh của cộng đồng

như vấn đề tệ nạn xã hội, phong tục, dân trí…

- Mặc dù chưa có thuốc điều trị khỏi bệnh và vắc xin dự phòng hữu hiệu nhưng vẫn có thể

phòng tránh lây nhiễm khi thực hiện thường xuyên các hành vi an toàn, vẫn có thể kéo dài

cuộc sống thông qua việc tuân thủ nghiêm quy trình điều trị ARV tại cộng đồng…[43], [86],

[88].

1.5.2.2. Tâm lý người nhiễm và nhu cầu chăm sóc toàn diện

Người bị nhiễm HIV/AIDS luôn có tình trạng khủng hoảng về tâm lý, sợ bị phân biệt

đối xử hoặc có các phản ứng tiêu cực làm lây nhiễm HIV cho người khác. Người nhiễm

HIV/AIDS cũng như những người mắc các bệnh mạn tính khác cần được chăm sóc toàn

diện về các vấn đề:

- Tư vấn, chăm sóc các rối loạn tâm lý;

- Hỗ trợ kinh tế (dinh dưỡng và các nhu cầu thiết yếu);

- Bảo vệ các quyền con người được luật pháp quy định;

- Chăm sóc trẻ em/con cái của họ;

- Chăm sóc y tế, điều trị thuốc khi bệnh nặng;

Ngoài ra, người nhiễm và gia đình họ cũng cần được tư vấn, cung cấp kiến thức và

kỹ năng chăm sóc, tự chăm sóc tại nhà. Như vậy, ở giai đoạn cuối của bệnh, người nhiễm

HIV/AIDS mới cần nhiều sự chăm sóc y tế và điều trị tại bệnh viện. Trong giai đoạn nhiễm

HIV, nhu cầu lớn nhất của họ là các hỗ trợ tâm lý và xã hội tại cộng đồng [8], [52], [62].

1.5.2.3. Môi trường xã hội

- Do sợ bị lây nhiễm nên trong nhận thức của mọi người xuất hiện tình trạng kỳ thị và phân

biệt đối xử. Việc tiến hành các hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng

sẽ giúp người dân có cách nhìn đúng hơn về căn bệnh, làm giảm tình trạng này.

- Thực tế hiện nay, TVCSHT cho người nhiễm HIV/AIDS đang gặp nhiều khó khăn. Sự

tham gia nhiều hơn của các ban ngành và cộng đồng sẽ tăng hiệu quả công tác phòng chống

HIV/AIDS nói chung và TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng nói riêng [8],

[52], [62].

1.5.2.4. Hệ thống y tế

- Hệ thống y tế luôn quá tải ngay cả khi chưa có hoạt động chăm sóc và điều trị cho người

nhiễm HIV/AIDS. Do vậy, không thể đáp ứng được nhu cầu người nhiễm và xã hội nếu chỉ

một mình ngành y tế đảm đương công việc này.

- Thuốc ARV rất đắt tiền, ngân sách nhà nước không thể đảm nhiệm hoàn toàn, đòi hỏi sự

quan tâm, hỗ trợ của cộng đồng cũng như việc xã hội hóa công tác TVCSHT người nhiễm

HIV/AIDS [8], [30], [52].

- So với triển khai ở cộng đồng, hoạt động TVCSHT tại cơ sở y tế có một vài ưu điểm song

gặp nhiều hạn chế, khó khăn hơn.

1.5.2.5. Lợi ích của tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm dựa vào cộng đồng

- Việc chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng sẽ giúp cho họ tránh được các nhiễm

trùng bệnh viện, điều mà có thể là mối nguy hại thường trực đối với những người có hệ

miễn dịch đã suy giảm.

- Chăm sóc tại cộng đồng làm giảm mặc cảm của người nhiễm, giúp họ vượt qua được sự kỳ

thị và phân biệt đối xử của cộng đồng.

- Gia đình và người nhiễm cảm thấy tự tin, thoải mái hơn khi họ có khả năng chăm sóc

thành viên trong gia đình và bản thân một cách hiệu quả.

- Chăm sóc tại cộng đồng giảm bớt tốn kém cho gia đình do không phải trả tiền viện phí,

không mất thời gian thăm nuôi cũng như chi phí đi lại; giải quyết tình trạng quá tải bệnh

viện và giảm chi phí cho hệ thống y tế [8].

Bảng 1.3. Ưu điểm và hạn chế của tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS dựa vào cộng đồng so với dựa vào cơ sở y tế

STT Nội dung TVCSHT dựa vào cơ sở y tế TVCSHT dựa vào cộng đồng

1 Vai trò hướng dẫn TVCSHT Nòng cốt, chỉ đạo Hỗ trợ, thực hiện

2 Cung cấp dịch vụ TVCSHT chuyên Tốt, thực hiện được Hạn chế, không

sâu thực hiện được

3 Tuyến cung cấp dịch vụ Bệnh viện/cơ sở Cộng đồng

TVXNTN tuyến (quận/huyện,

tỉnh, trung ương xã/phường)

4 Mức độ thực hiện dịch vụ Quá tải Có thể đáp ứng

5 Mức độ đáp ứng Cho ít người Cho nhiều người

6 Khả năng tiếp cận dịch vụ Hạn chế Thuận lợi hơn

7 Chăm sóc bệnh nhân AIDS giai Không thích hợp Thích hợp

đoạn cuối, trẻ nhiễm HIV bị bỏ rơi

8 Kỳ thị, phân biết đối xử Nhiều Ít

9 Giá thành Đắt Chấp nhận được

10 Mức độ huy động ban ngành tham Hạn chế Tốt hơn

gia

1.5.3. Nguyên tắc tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng

đồng

- TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS là quá trình lâu dài, toàn diện, liên tục.

- Người nhiễm HIV/AIDS có quyền được TVCSHT toàn diện và phù hợp như những

người khác trong cộng đồng, không phân biệt đối xử.

- Đáp ứng dịch vụ chăm sóc phù hợp cho người nhiễm HIV/AIDS trên nguyên tắc bí

mật, quản lý tốt hồ sơ bệnh án, tư vấn trước khi thông báo.

- Người nhiễm HIV/AIDS có quyền tham gia vào việc lập kế hoạch và thực hiện các

chương trình chăm sóc và điều trị.

- Cơ sở cho việc chăm sóc và điều trị những người nhiễm HIV/AIDS là can thiệp

sớm, theo dõi chặt chẽ và hỗ trợ tăng cường sức khỏe.

- Khuyến khích và hỗ trợ các dịch vụ TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS dựa vào

cộng đồng, lồng ghép với mạng lưới chăm sóc sức khỏe ban đầu.

- Xác định chăm sóc, điều trị HIV/AIDS cũng giống bệnh truyền nhiễm, BLTQĐTD

và các bệnh mạn tính nguy hiểm khác. Thực hiện đầy đủ quy trình an toàn khi chăm sóc

người nhiễm HIV/AIDS [8], [19].

1.5.4. Nội dung tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng

Người nhiễm HIV/AIDS phải đối mặt với nhiều khó khăn về thể chất, kinh tế, tâm lý,

xã hội và vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử. Vì vậy, TVCSHT cho họ tại cộng đồng rất đa

dạng, bao gồm các nội dung sau:

- Tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện: được coi là đầu vào của mọi hoạt động dự

phòng và chăm sóc. TVXNTN giúp khách hàng tiếp cận các dịch vụ, thúc đẩy thực hiện

hành vi an toàn cũng như hỗ trợ người nhiễm vượt qua khủng hoảng tâm lý, sẵn sàng tiếp

cận với các dịch vụ y tế, xã hội. TVXNTN có 3 cấp độ: tư vấn trước xét nghiệm, tư vấn sau

xét nghiệm và tư vấn hỗ trợ thường xuyên [1], [23], [24], [107].

- Chăm sóc/quản lý lâm sàng: bao gồm điều trị dự phòng, chẩn đoán và điều trị

nhiễm trùng cơ hội (kể cả bệnh Lao), quản lý và hỗ trợ tuân thủ điều trị ARV, điều trị triệu

chứng và giảm đau trong chăm sóc giảm nhẹ.

- Hỗ trợ tâm lý và kinh tế - xã hội: bao gồm hỗ trợ đồng đẳng; hỗ trợ việc làm; hỗ trợ

kinh tế (dinh dưỡng và các nhu cầu thiết yếu); cung cấp các dịch vụ y tế giá rẻ; giảm kỳ thị

và phân biệt đối xử; hỗ trợ cuối đời; bảo vệ các quyền của người nhiễm, miễn học phí cho

các đối tượng trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

- Dự phòng lây nhiễm HIV: bao gồm khuyến khích tình dục an toàn, các biện pháp

giảm tác hại trong nhóm nguy cơ cao, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con, điều trị dự

phòng sau phơi nhiễm, dự phòng phổ cập.

- Phối hợp với các dịch vụ sức khỏe và huy động cộng đồng: bao gồm các chương

trình lồng ghép dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và huy động sự tham gia của các

ban ngành, đoàn thể (kể cả người nhiễm HIV/AIDS) vào hoạt động TVCSHT [8].

Tư vấn và xét nghiệm HIV Chăm sóc lâm sàng

Phòng lây nhiễm HIV Hỗ trợ tâm lý và kinh tế - xã hội

Phối hợp các dịch vụ sức khỏe và huy động ban ngành (bao gồm cả người nhiễm) tham gia TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS

- Cải thiện chất lượng cuộc sống - Đẩy mạnh phòng lây nhiễm HIV

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết các nội dung cơ bản của chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng [12]

1.5.5. Một số yếu tố bảo đảm sự thành công của hoạt động tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ

người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng

1.5.5.1. Chăm sóc liên tục và phân tuyến hoạt động

Người nhiễm HIV/AIDS cần nhận được TVCSHT liên tục, đều đặn (hàng tháng,

hàng tuần, thậm chí hàng ngày) và gần nơi người nhiễm HIV/AIDS sinh sống. Mặt khác,

nhiều loại dịch vụ cần phải luôn sẵn có cùng một lúc tại các tuyến và được phối hợp chặt

chẽ với nhau. Các hoạt động TVCSHT dựa vào cộng đồng (được xác định từ tuyến

quận/huyện trở xuống) có phân tuyến hoạt động như sau:

- Gia đình và cộng đồng: những hoạt động được chăm sóc bởi nhân viên y tế

thôn/bản, tình nguyện viên/đồng đẳng viên, gia đình người nhiễm, các tổ chức chăm sóc

người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng.

- Trạm y tế xã/phường: đây là cơ sở y tế gần dân nhất trong hệ thống y tế quốc gia.

Trạm y tế xã/phường có vai trò quan trọng trong việc theo dõi, quản lý người nhiễm HIV

chưa có triệu chứng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, đảm bảo tuân thủ điều trị ARV và điều trị

dự phòng nhiễm trùng cơ hội, chăm sóc và hỗ trợ bệnh nhân AIDS tại gia đình và cộng

đồng.

- Tuyến quận/huyện: trung tâm y tế quận/huyện là đầu mối cung cấp dịch vụ toàn

diện cho người nhiễm HIV/AIDS bao gồm cả tư vấn, xét nghiệm HIV; điều trị và dự phòng

nhiễm trùng cơ hội, điều trị ARV; hỗ trợ về tâm lý xã hội và các hỗ trợ khác. Tuyến

quận/huyện chịu trách nhiệm theo dõi tuân thủ điều trị, hỗ trợ và giám sát cán bộ y tế

xã/phường và chuyển tuyến điều trị khi cần thiết [7], [8].

1.5.5.2. Điều phối các thành viên trong đơn vị chăm sóc toàn diện

Để thực hiện việc TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS toàn diện thông qua chăm sóc

liên tục đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể cùng

với vai trò điều phối của y tế. Một số thành tố chủ chốt trong đơn vị chăm sóc toàn diện bao

gồm:

- Ban điều phối TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại quận/huyện: thành viên là đại

diện các ban ngành, đoàn thể, chính quyền. Ban này có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, điều

phối các dịch vụ và hỗ trợ hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS đạt hiệu quả.

- Nhóm chăm sóc: chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS được thực hiện bởi một nhóm

gồm nhân viên y tế, nhân viên một số tổ chức xã hội và người nhiễm HIV với những nhiệm

vụ cụ thể và được đào tạo đầy đủ. Mục đích chính của nhóm chăm sóc này là nâng cao chất

lượng các dịch vụ, nhấn mạnh việc chăm sóc mạn tính tại cộng đồng.

- Sự tham gia của người nhiễm và cộng đồng: chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm dựa vào

cộng đồng cần tăng cường vai trò và sự tham gia của chính người nhiễm và gia đình họ; cần

lồng ghép các hoạt động TVCSHT vào các hoạt động khám chữa bệnh thường xuyên cũng

như hoạt động khác của các ban ngành nhằm huy động sự tham gia mạnh mẽ của cộng đồng

[7], [8].

1.5.5.3. Gắn kết giữa tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm với hoạt động của mạng

lưới y tế cơ sở

Điều quan trọng đặc biệt và có tính chất quyết định: các dịch vụ TVCSHT người

nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng được xây dựng dựa trên các cơ sở sẵn có, gắn kết chặt

chẽ với mạng lưới y tế quốc gia tại các cơ sở, không cần đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng

(nhất là trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế). Do vậy, mô hình này mang tính bền vững

cao và khác biệt với tất cả các chương trình, dự án HIV/AIDS đã triển khai trước đây. Hơn

nữa tại Việt Nam, mô hình tổ chức bộ máy y tế với các đặc điểm: cơ sở y tế gần dân, rộng

khắp mọi khu vực; xây dựng theo hướng dự phòng chủ động, tích cực và phân tuyến kỹ

thuật phù hợp…, thì mô hình hoạt động lồng ghép này chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi,

đảm bảo việc triển khai thành công và bền vững [61].

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là người nhiễm HIV/AIDS đang được quản lý tại gia đình với

các tiêu chuẩn:

- Đã được xét nghiệm khẳng định HIV dương tính.

- Đã biết về tình trạng nhiễm HIV/AIDS của bản thân.

- Hiện đang sống tại gia đình, có danh sách hồ sơ quản lý, được thông báo và

đồng ý tham gia nghiên cứu.

 Không chọn người nhiễm HIV/AIDS sau vào nghiên cứu:

- Người đang ở trong các trung tâm 05, 06.

- Người không đủ khả năng minh mẫn để trả lời phỏng vấn.

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:

Nghiên cứu được thực hiện tại 5 huyện, thành phố, thị xã của tỉnh Nghệ An, gồm:

thành phố Vinh, các huyện Đô Lương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thị xã Thái Hòa.

Tiêu chuẩn lựa chọn địa bàn nghiên cứu:

- Có số người nhiễm HIV/AIDS cao.

- Là khu vực trọng điểm về tệ nạn ma tuý và mại dâm của tỉnh.

- Đội ngũ chuyên trách phòng chống AIDS hoạt động tích cực và có khả

năng tiếp nhận, triển khai các dự án can thiệp cộng đồng.

- Cam kết tham gia và tổ chức triển khai các nội dung hoạt động trên địa bàn,

lồng ghép với chương trình phòng chống AIDS quốc gia.

Cụ thể về tình hình kinh tế - xã hội của 5 địa bàn nghiên cứu như sau:

Thành phố Vinh:

Thành phố Vinh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, là trung tâm của tỉnh Nghệ An về

chính trị, văn hoá và xã hội, có diện tích 104,9 km2, dân số 273.834 người (năm 2008), với

25 xã/phường. Thành phố Vinh nằm trong hành lang kinh tế Đông Tây, nối liền Myanma -

Thái Lan - Lào - Việt Nam - Biển Đông. Nằm trên các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế.

Với vị trí đó, thành phố Vinh đóng vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế, thương mại, du

lịch, vận chuyển hàng hoá với cả nước và các nước khác trong khu vực. Nhờ những đặc

điểm địa lý thuận lợi, kinh tế phát triển nhanh, thu hút nhiều dự án đầu tư, khách du lịch

trong, ngoài nước [90], [91].

Tuy nhiên, do thành phố Vinh nằm dọc theo Quốc lộ 1A, là điểm trung chuyển ma

tuý từ Lào sang thông qua quốc lộ 7, 8 và từ Bắc vào Nam nên tình hình nghiện chích ma

túy rất phức tạp. Theo thống kê của Sở Công an và Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội, tính

đến tháng 6/2008, trên địa bàn thành phố Vinh có 850 người sử dụng ma túy có hồ sơ quản

lý. Đa số là sử dụng ma túy dạng tiêm chích. Thành phố Vinh có nhiều nhà hàng, khách sạn,

quán karaoke, quán cắt tóc, gội đầu trá hình… làm gia tăng số người hoạt động mại dâm.

Ước tính có trên 200 người hoạt động mại dâm. TCMT và mại dâm là hai nguyên nhân

chính làm lây nhiễm HIV tại thành phố Vinh [90], [91].

Tính đến 30/6/2008, lũy tích số người nhiễm HIV/AIDS ở thành phố Vinh là 1.610

người, trong đó có 1.014 chuyển sang AIDS và 656 người đã chết do AIDS. Thành phố

Vinh là địa bàn có số người nhiễm HIV cao nhất tỉnh (chiếm 37,2% toàn tỉnh) với 954

người nhiễm còn sống [82], [83].

Huyện Đô Lương:

Đô Lương là một huyện miền núi, nằm cách thành phố Vinh 80 km về phía Tây theo

Quốc lộ 46, có diện tích 350,7 km2, dân số 197.710 người (năm 2008), với 32 xã và 1 thị

trấn. Trung tâm huyện là điểm giao giữa Quốc lộ 46 và Quốc lộ 7. Quốc lộ 7 là tuyến đường

trọng yếu vận chuyển ma tuý từ Lào và các huyện miền Tây Nghệ An về thành phố Vinh rồi

phân phối đi các nơi. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, một bộ

phận nhỏ cư dân ở thị trấn sống bằng nghề dịch vụ thương mại. Những năm gần đây Đô

Lương đang phát triển mạnh công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nhiều nhà máy, xí nghiệp

được triển khai như may mặc, xi măng… Đời sống của dân cư ở mức trung bình [90], [91].

Tính đến tháng 6/2008, trên địa bàn huyện Đô Lương có 239 người sử dụng ma túy

có hồ sơ quản lý. Lũy tích số người nhiễm HIV/AIDS ở huyện Đô Lương tính đến

30/6/2008 là 249 người, trong đó có 151 người chuyển sang AIDS và 108 người đã chết do

AIDS [82], [83].

Huyện Hưng Nguyên:.

Hưng Nguyên là huyện đồng bằng nằm ở tả ngạn sông Lam, giáp thành phố Vinh về

phía tây, với diện tích 159,2 km2, dân số 111.688 người (năm 2008), có 23 xã và 1 thị trấn.

Hưng Nguyên là vùng đệm của thành phố Vinh, cơ cấu kinh tế chủ yếu là sản xuất nông

nghiệp, một số xã phát triển mạnh nghề sản xuất rau xanh phục vụ cho thành phố Vinh. Trên

địa bàn của huyện có dòng sông Lam chảy qua. Tại những xã ven sông này là nơi diễn ra

nhiều hoạt động buôn bán và một bộ phận dân cư sống bằng nghề chài luới, trẻ em thất học

nhiều. Đặc biệt, xã Hưng Long là tụ điểm buôn bán ma tuý lớn nhất tỉnh và là nơi trung

chuyển ma tuý đi Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác trên cả nước.

Đời sống dân cư của huyện ở mức trung bình [90], [91].

Theo thống kê, tính đến 6/2008 huyện Hưng Nguyên có 147 người sử dụng ma túy

và 25 phụ nữ hành nghề mại dâm. Về tình hình nhiễm HIV/AIDS, tính đến cuối tháng 6

năm 2008, lũy tích số người nhiễm HIV/AIDS là 96 người, trong đó 62 người chuyển sang

AIDS và có 33 người đã chết do AIDS [82], [83].

Huyện Nghi Lộc:

Nghi Lộc là một huyện ven biển nằm giáp thành phố Vinh về phía Bắc trên Quốc lộ

1A, có diện tích 347,8 km2, dân số 195.647 người, với 29 xã và 1 thị trấn. Nền kinh tế chủ

yếu là nông nghiệp, ngoài ra còn có ngư nghiệp và dịch vụ thương mại. Trên địa bàn huyện

có khu resort Bãi Lữ, các bãi tắm nhỏ ven biển thu hút khách du lịch chủ yếu là vào mùa hè.

Khu công nghiệp Nam Cấm với nhiều dự án đầu tư như: nhà máy bia Hà Nội, nhà máy chế

tác đá… thu hút nhiều lao động trong và ngoài tỉnh [90], [91].

Theo thống kê của Sở Công an và Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội, đến 6/2008

trên địa bàn huyện Nghi Lộc có 95 người sử dụng ma túy. Tính đến 30/6/2008, lũy tích số

người nhiễm HIV/AIDS ở huyện Nghi Lộc là 93 người, trong đó có 49 người chuyển sang

AIDS và 26 người đã chết do AIDS [82], [83].

Thị xã Thái Hòa:

Thái Hòa là một thị xã miền núi, cách thành phố Vinh 100 km về phía Tây Bắc theo

quốc lộ 48, có diện tích 135,2 Km2, dân số 65.478 (năm 2008) người, với 10 phường/xã.

Thị xã Thái Hòa có 5.751 người là dân tộc thiểu số, gồm: Thanh, Thái, Thổ chiếm tỷ lệ

8,8% so với tổng dân số. Thái Hòa xưa kia là thủ phủ của Phủ Quỳ, là trung tâm kinh tế, văn

hóa, xã hội của vùng Tây Bắc tỉnh Nghệ An. Thái Hòa là địa phương nổi tiếng về tài nguyên

thiên nhiên phong phú, có vùng đất đỏ bazan rộng lớn, lâu nay được biết đến bởi nhiều sản

phẩm từ cây công nghiệp như chè, cao su, cà phê Phủ Quỳ, cam Thái Hòa... Hiện nay, thị xã

Thái Hòa có 2 nhà máy chế biến nông sản hiện đại đó là Công ty sữa TH-True Milk và nhà

máy đường Tat & Line với vùng sản xuất nguyên liệu rộng lớn thu hút nhiều lao động [90],

[91].

Thị xã Thái Hoà một thời là điểm tập trung của những người đi tìm đá đỏ ở Quỳ

Châu, từ đó kéo theo các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý. Theo thống kê của Sở Công an

và Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội, trên địa bàn thị xã Thái Hòa có 172 người sử dụng

ma túy (tháng 6/2008). Tính đến 30/6/2008, lũy tích số người nhiễm HIV/AIDS ở thị xã

Thái Hòa là 216 người, trong đó có 106 người chuyển sang AIDS và 64 người đã chết do

AIDS [82], [83].

2.1.3. Thời gian nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2008 đến tháng 10/2012.

- Điều tra lần 1: 7/2008 - 10/2008 (đánh giá trước can thiệp)

- Tiến hành các hoạt động can thiệp cộng đồng: 10/2008 - 6/2012

- Điều tra lần 2: 7/2012 - 10/2012 (đánh giá sau can thiệp cộng đồng)

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

Để hoàn thành các mục tiêu mà đề tài đưa ra, nghiên cứu sử dụng Phương pháp

nghiên cứu can thiệp cộng đồng ((so sánh trước - sau thông qua hai cuộc điều tra cắt ngang

trước và sau can thiệp).

- Sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra cắt ngang (Cross Sectional study),

kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp.

- Tiến hành thu thập số liệu thông qua bộ câu hỏi phỏng vấn được nhóm

nghiên cứu xây dựng.

Kết quả của điều tra trước can thiệp sẽ cung cấp các thông tin làm cơ sở cho việc xây

dựng và hoàn thiện các nội dung can thiệp phù hợp.

2.2.2. Điều tra cắt ngang lần 1

- Mô tả hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS trước can thiệp, bao gồm: một

số đặc điểm của người nhiễm HIV/AIDS, hiểu biết của người nhiễm HIV/AIDS về tình

trạng bệnh và các biện pháp nâng cao sức khoẻ; các biểu hiện NTCH; hoạt động tư vấn xét

nghiệm HIV; chăm sóc, hỗ trợ và tiếp cận dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS.

- Mô tả về hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS bao gồm:

hành vi TCMT không an toàn; QHTD không an toàn; sinh con sau nhiễm HIV và ảnh hưởng

của một số yếu tố tới hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS.

2.2.3. Điều tra cắt ngang lần 2

Sau 4 năm can thiệp, nghiên cứu định lượng lần 2 được tiến hành để đánh giá hiệu

quả các hoạt động. Bộ phiếu phỏng vấn cũ được sử dụng lại để phục vụ cho việc thu thập

thông tin cho đánh giá lần này.

QUẦN THỂ NGHIÊN CỨU Người nhiễm HIV/AIDS đang được quản lý tại cộng đồng ở 5 địa bàn: TP. Vinh, Hưng Nguyên, Đô Lương, Nghi Lộc và TX Thái Hòa

Điều tra cắt ngang trước can thiệp (Đánh giá nhu cầu can thiệp)

Triển khai các biện pháp can thiệp cộng đồng

Điều tra cắt ngang sau can thiệp.

(Đánh giá hiệu quả can thiệp)

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ triển khai nghiên cứu

2.2.4. Xây dựng nội dung biện pháp can thiệp

Dựa vào khung lý thuyết các nội dung cơ bản của chăm sóc, hỗ trợ đối với người

nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng [7], [52], kết quả đánh giá trước can thiệp và tham khảo các

tài liệu [34], [35], [87], xây dựng nội dung biện pháp can thiệp. Nội dung biện pháp can

thiệp dựa chủ yếu trên hoạt động của 3 nhóm: nhóm tư vấn viên, nhóm giáo dục đồng đẳng

và nhóm CTV xã/phường.

2.2.4.1. Nguyên tắc xây dựng nội dung biện pháp can thiệp

- Áp dụng và triển khai mô hình TVCSHT dựa vào cộng đồng mà WHO khuyến cáo đối

với các nước có mạng lưới y tế cơ sở nhưng nguồn lực dành cho các hoạt động phòng chống

AIDS còn hạn chế.

- Không lập các hoạt động riêng mà bám sát vào hệ thống y tế, hỗ trợ hệ thống y tế theo

Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS. Điều này đảm bảo các nội dung được tiến

hành với kinh phí tối thiểu, sẽ tiếp tục hoạt động khi nghiên cứu kết thúc và do vậy có tính

bền vững cao.

- Được triển khai chủ yếu tại tuyến huyện và tuyến xã với sự hỗ trợ, chỉ đạo của tuyến

tỉnh và trung ương.

- Về cơ bản, nội dung can thiệp được sử dụng thống nhất tại cộng đồng của 5 huyện triển

khai. Tuy nhiên, do những đặc điểm khác nhau trong hành vi nguy cơ của đối tượng cũng

như thực trạng công tác TVCSHT tại mỗi huyện, các hoạt động can thiệp đã được điều

chỉnh linh hoạt trong triển khai từng nội dung cụ thể: ngoài các nội dung cơ bản của công

tác TVCSHT, hoạt động tại Đô Lương, Thái Hòa, Nghi Lộc tập trung nhiều hơn cho việc tư

vấn giảm hành vi nguy cơ và chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm là đối tượng TCMT. Trong khi

đó, tại thành phố Vinh, Hưng Nguyên nội dung can thiệp chú trọng cả cho việc tư vấn và

chăm sóc, hỗ trợ giảm hành vi nguy cơ lây nhiễm qua TCMT và cả qua QHTD. Riêng thị xã

Thái Hòa, lưu ý đặc thù có người dân tộc thiểu số để có biện pháp can thiệp hiệu quả, nhất

là loại hình và tài liệu truyền thông.

BAN ĐIỀU PHỐI CÁC HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP TẠI CỘNG ĐỒNG

Người nhiễm HIV/AIDS nhận được:

Nhóm Tư vấn viên Nhóm Giáo dục đồng đẳng Nhóm CTV xã/phường

- Chăm sóc lâm sàng - Dự phòng lây nhiễm HIV - Hỗ trợ tâm lý và kinh tế - xã hội - Các dịch vụ sức khỏe và sự hỗ trợ của ban ngành, tổ chức, đoàn thể.

 TĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ, KÉO DÀI CUỘC

SỐNG CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

 TĂNG HIỆU QUẢ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV

- Tư vấn và xét nghiệm HIV

Sơ đồ 2.2. Sơ đồ biện pháp can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm tại cộng

đồng

2.2.4.2. Thiết lập mạng lưới

* Thành lập Ban điều phối:

- Mỗi huyện thành lập một Ban điều phối với 5-6 thành viên theo các tiêu chuẩn: là cán

bộ chương trình phòng chống HIV/AIDS; có kinh nghiệm truyền thông và TVCSHT người

nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng; có khả năng dành thời gian cho các hoạt động.

- Thành phần và cơ cấu của ban gồm: 1 lãnh đạo trung tâm Y tế là trưởng ban. 1 lãnh

đạo BVĐK là phó ban, 1 cán bộ chuyên trách phòng chống HIV/AIDS, 1 cán bộ phụ trách

PKNT, 1 cán bộ chuyên trách Lao và 1 đại diện ban ngành đoàn thể ( Mặt trận, phụ nữ, hội

chữ thập đỏ…).

- Nhiệm vụ của Ban điều phối: làm đầu mối tổ chức các hoạt động tại tuyến huyện; phối

hợp, tổ chức và thực hiện các hoạt động theo nội dung chuyên môn; giám sát và hỗ trợ hoạt

động các nhóm Tư vấn viên, nhóm Giáo dục đồng đẳng và nhóm Cộng tác viên xã phường.

* Thành lập nhóm tư vấn viên:

- Mỗi huyện thành lập một nhóm Tư vấn viên gồm 4 người (trong đó có 1 cán bộ xét

nghiện) làm việc bán thời gian tại “ Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng”, đặt tại Trung tâm y

tế các huyện.

- Tư vấn viên có nhiệm vụ: tư vấn và xét nghiệm đối tượng có nguy cơ cao, phụ nữ

mang thai, người nhiễm HIV/AIDS và các đối tượng khác; gửi mẫu huyết thanh dương tính

về trung tâm phòng chống HIV/AIDS để khẳng định; tư vấn sau xét nghiệm và giới thiệu

dịch vụ chuyển gửi….

* Thành lập nhóm Giáo dục đồng đẳng:

- Mỗi huyện thành lập nhóm Giáo dục đồng dẳng với 5-6 thành viên, là người nhiễm

HIV/AIDS và người phụ trách nhóm là 1 cán bộ Trung tâm y tế huyện. Các thành viên là

những người tình nguyện, nhiệt tình, có kỹ năng, có khả năng tiếp thu và được đào tạo các

nội dung theo yêu cầu nhiệm vụ.

- Nhiệm vụ giáo dục viên đồng đẳng:

Triển khai các hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng, bao gồm:

tham gia các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông; phân phát tờ rơi, BKT, BCS dự

phòng lây nhiễm HIV; hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ về tinh thần, hỗ trợ

tuân thủ điều trị ARV, kỹ năng chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại gia đình; trực tiếp

chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS không có người thân chăm sóc...

* Thành lập nhóm Cộng tác viên xã/phường:

- Mỗi huyện thành lập một nhóm CTV xã/phường (mỗi xã triển khai hoạt động chọn 1

người, là trưởng trạm hoặc cán bộ trạm y tế) với các tiêu chuẩn: là người có kinh nghiệm

trong công tác truyền thông, TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS; năng động, biết cách vận

động quàn chùng; làm việc bán thời gian cho các hoạt động TVCSHT người nhiễm

HIV/AIDS tại cộng đồng.

- Nhiệm vụ của CTV xã/phường: là đầu mối triển khai các hoạt động tại tuyến

xã/phường; phối hợp các hoạt độngTVCSHT với chương trình phòng chống AIDS quốc gia;

trực tiếp triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông và TVCSHT người

nhiễm HIV/AIDS tại các xã/phường [12], [13], [14].

Ngoài ra, tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương và nguồn kinh phí hỗ trợ. Các câu lạc

bộ người nhiễm được thành lập, với trưởng nhóm là một cán bộ trung tâm y tế, các thành

viên là người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn huyện. Câu lạc bộ sinh hoạt định kỳ 1

lần/tháng, là nơi chia sẻ tâm tư, khó khăn vướng mắc trong cuộc sống của người nhiễm, giới

thiệu việc làm, trao đổi thông tin phòng lây nhiễm và chăm sóc điều trị, hỗ trợ tuân thủ điều

trị…

2.2.4.3. Triển khai đào tạo tập huấn cán bộ

Sau khi thiết lập mạng lưới, các cán bộ hoạt động trong mạng lưới được tập huấn về

các nội dung:

- Các khái niệm về quản lý, chăm sóc, hỗ trợ và tư vấn HIV/AIDS.

- Các bước triển khai hoạt động tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

tại cộng đồng.

- Các kiến thức và kỹ năng về tư vấn, bao gồm tư vấn cho người bệnh, gia đình người

bệnh và cộng đồng xung quanh.

- Các kiến thức và kỹ năng thực hành chăm sóc, hỗ trợ và điều trị NTCH, theo dõi

việc sử dụng thuốc điều trị đặc hiệu.

- Các kỹ năng thông tin - giáo dục - truyền thông về HIV/AIDS.

- Công tác quản lý và báo cáo số liệu.

2.2.4.4. Triển khai các nội dung can thiệp

- Cán bộ chuyên trách tuyến tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, chỉ đạo tuyến huyện, xã

thực hiện các bước triển khai nội dung can thiệp. Đồng thời hướng dẫn cách giải quyết

những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác này. Hàng quý, Trung tâm phòng chống

HIV/AIDS tỉnh có trách nhiệm tổ chức các buổi giao ban định kỳ để đánh giá kết quả đạt

được, những khó khăn vướng mắc và từ đó đề ra các biện pháp khắc phục.

- Tại tuyến huyện: hoạt động TVCSHT được triển khai chủ yếu tại các “Phòng tư vấn

sức khỏe cộng đồng” và các phòng khám ngoại trú, dưới sự chỉ đạo và điều phối của Ban

điều phối huyện. Tiến hành cung cấp các dịch vụ cho người nhiễm HIV/AIDS bao gồm: tư

vấn trước và sau xét nghiệm, tư vấn hỗ trợ thường xuyên; quản lý hồ sơ và theo dõi sức

khỏe; chăm sóc điều trị và dự phòng nhiễm trùng cơ hội; phối hợp chuyển, khám và điều trị

Lao, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, điều trị dự phòng mẹ - con; theo dõi điều trị

ARV và chuyển tuyến trên khi cần thiết.

- Tại tuyến xã: các hoạt động TVCSHT cho người nhiễm HIV chủ yếu được tiến

hành tại nhà và trạm y tế, bao gồm: theo dõi tuân thủ điều trị ARV, điều trị triệu chứng,

chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng tại nhà, tư vấn an ủi động viên trực tiếp, cấp phát BKT,

BCS, tờ rơi… và chuyển tuyến khi cần thiết.

Nội dung can thiệp cụ thể đối với đối tượng tham gia nghiên cứu:

- Đối tượng nhiễm HIV/AIDS được quản lý trên địa bàn

- Được tư vấn bởi đồng đẳng viên, cộng tác viên.

- Được chăm sóc, hỗ trợ tại nhà.

- Được truyền thông trực tiếp (nói chuyện, tư vấn nhóm).

- Được cấp phát tờ rơi.

- Được nhận thuốc nhiễm trùng cơ hội, gói chăm sóc toàn diện tại nhà.

- Được tư vấn để chuyển tuyến, chuyển tiếp kịp thời.

- Được sinh hoạt câu lạc bộ người nhiễm.

- Được cấp phát BCS miễn phí.

- Được cấp phát BKT miễn phí.

- Tập huấn định kỳ và nâng cao về tư vấn, chăm sóc và điều trị cho đồng đẳng viên, cộng

tác viên, người nhà chăm sóc…

- Truyền thông qua hệ thống truyền thanh xã/phường.

2.2.4.5. Các hoạt động chính được thực hiện trong 4 năm can thiệp

Từ 10/2008

2010

2011

2012

Bảng 2.1. Liệt kê các hoạt động đào tạo tập huấn cho mạng lưới tham gia

đến 12/2009 Số cuộc

Số người

Số cuộc

Số người

Số cuộc

Số người

Số cuộc

Số người

TT Nội dung tập huấn

1 TVXNTN cho tư vấn viên

2 5 5 40 141 1 1 38 42 1 1 32 36 1 1 30 30

3 2 70 1 32 1 30 1 31

4 2 60 1 35 1 32 1 30

5 5 150 2 62 1 40 0 0

3 65 1 20 1 22 1 18 6

5 142 0 0 2 63 0 0 7

Chăm sóc, hỗ trợ cho nhân viên y tế, chuyên trách xã Chăm sóc, hỗ trợ cho cộng tác viên Chăm sóc, hỗ trợ cho đồng đẳng viên Chăm sóc, hỗ trợ cho người nhà chăm sóc Quản lý và điều trị và điều trị người nhiễm HIV/AIDS cho chuyên trách huyện, cán bộ PKNT Dự phòng phổ cập, kiểm soát và dự phòng lây nhiễm Lao cho chuyên trách huyện, xã và CTV

Sau 4 năm can thiệp đã tổ chức được 8 lớp tập huấn về TVXNTN cho 140 tư vấn

viên; 26 lớp về chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS cho 821 nhân viên y tế, chuyên

trách phòng chống HIV/AIDS xã/phường, tư vấn viên, cộng tác viên, giáo dục viên đồng

đẳng và người nhà chăm sóc; tổ chức 6 lớp về quản lý và điều trị người nhiễm HIV/AIDS

cho 125 chuyên trách phòng chống HIV/AIDS tuyến huyện và cán bộ PKNT; 7 lớp về dự

phòng phổ cập, kiểm soát nhiễm khuẩn và dự phòng lây nhiễm Lao cho 205 nhân viên y tế

huyện, chuyên trách và cộng tác viên xã/phường.

Bảng 2.2. Liệt kê các hoạt động tư vấn, xét nghiệm tại các phòng tư vấn sức khỏe

cộng đồng

Từ 10/2008 Kết quả 2010 2011 2012 Cộng 4 năm đến 12/2009

Số lượt người đến phòng 3.736 3.723 3.575 3.202 14.236

TVXNTN

Số người được xét nghiệm HIV 3.316 3.351 3.178 2.834 12.679

Số người có kết quả HIV (+) 144 130 112 109 495

Tỷ lệ (+)/Số xét nghiệm 4,4 % 3,9% 3,5% 3,8% 3,9%

Số khách hàng trung 49,8 62,0 59,6 53,4 55,8

bình/tháng/phòng TVXNTN

Tại 5 phòng TVXNTN: tư vấn cho 14.236 lượt thuộc đối tượng nguy cơ cao, xét

nghiệm HIV cho 12.679 đối tượng, trong đó có 495 trường hợp dương tính (chiếm 3,9%).

Các trường hợp dương tính này được chuyển đến các cơ sở điều trị để được theo dõi quản

lý, điều trị nhiễm trùng cơ hội và điều trị ARV. Hàng tháng trung bình mỗi cơ sở TVXNTN

đã tư vấn, xét nghiệm cho khoảng 50 - 60 khách hàng.

Bảng 2.3. Liệt kê các hoạt động tư vấn, hỗ trợ tại cộng đồng và dự phòng lây

truyền mẹ - con

Cộng 4 năm Từ 10/2008 Kết quả 2010 2011 2012 đến 12/2009

Số lượt người nhiễm HIV/AIDS 1.522 1.320 1.398 1.332 5.572

được tư vấn, hỗ trợ

Số lượt người nhiễm HIV/AIDS 681 638 642 625 2.586

được thăm viếng, chăm sóc tại

nhà

Số phụ nữ mang thai được tư 2.156 1.989 2.015 2.090 8.250

vấn, xét nghiệm HIV

Số phụ nữ mang thai có kết quả 3 2 3 3 11

xét nghiệm HIV dương tính

Số phụ nữ mang thai nhiễm 3 2 3 3 11

HIV/AIDS được điều trị

DPLTMC

Tại cộng đồng, các đồng đẳng viên, cộng tác viên, chuyên trách xã/phường đã tiếp

cận và tiến hành các hoạt động TVCSHT cho 5.572 lượt người nhiễm HIV/AIDS; thăm

viếng, chăm sóc tại nhà cho 2.586 lượt người nhiễm HIV/AIDS; tư vấn và xét nghiệm HIV

cho 8.250 phụ nữ mang thai; phát hiện 11 phụ nữ mang thai dương tính HIV và điều trị dự

phòng lây truyền mẹ - con cho 11/11 số trường hợp phụ nữ mang thai có xét nghiệm HIV

dương tính.

Bảng 2.4. Liệt kê các hoạt động truyền thông và can thiệp giảm hại

Từ 10/2008 Kết quả 2010 2011 2012 Cộng 4 năm đến 12/2009

Số phóng sự, tin bài được phát 62 51 52 50 215

trên PTTH tỉnh, huyện

Số phóng sự, tin bài được phát 206 187 184 173 750

trên loa truyền thanh xã/phường

Số buổi nói chuyện truyền thông 319 305 308 299 1.231

nhóm trực tiếp

Số tờ rơi được phân phát 5.200 5.000 5.000 4.800 20.000

Số áp phích được dán 200 180 180 160 700

Số BKT được cấp phát 80.000 75.000 75.000 70.000 300.000

Số BCS được cấp phát 100.000 95.000 85.000 70.000 350.000

Tổ chức các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông và chống kỳ thị, phân

biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS: phát 215 phóng sự và tin bài trên đài phát thanh và

truyền hình tỉnh, huyện; 750 bài phát thanh tuyên truyên trên hệ thống loa truyền thanh

xã/phường; tổ chức nói chuyện truyền thông nhóm trực tiếp cho 1.231 lần tại cộng đồng;

phân phát 20.000 tờ rơi, 700 áp phích, 300.000 BKT, 350.000 BCS cho các địa bàn triển

khai nghiên cứu.

Ngoài ra, chương trình còn tiến hành các hoạt động phối hợp với các dự án hiện

có trên địa bàn, chương trình mục tiêu quốc gia tổ chức các buổi tọa đàm trên đài phát thanh

truyền hình tỉnh/huyện, mít tinh diễu hành hưởng ứng tháng hành động quốc gia và ngày thế

giới phòng chống AIDS 01/12 hàng năm, tháng chiến dịch dự phòng lây truyền mẹ - con…

2.2.5. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

* Cỡ mẫu nghiên cứu:

Áp dụng phương pháp tính cỡ mẫu cho thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng, so

2

Z

P 1(2

 ZP )

P

)1

P

1(2

P

)2

P

  1

sánh trước và sau can thiệp, cỡ mẫu được tính theo công thức:

n

 1(1 2

)

P 1

  1 P ( 2

Trong đó:

n: Cỡ mẫu nghiên cứu

P1: Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được quản lý TVCSHT trước can thiệp.

Theo số liệu đánh giá của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Nghệ

An năm 2007. p1 = 52% [84].

P2: Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được quản lý TVCSHT sau can thiệp.

P

P 1(

P

2/)2

Mong muốn đạt được p2 = 66%. (Tăng 14% so với trước can thiệp)

.

Z1-α : Hệ số tin cậy, tương ứng với mức ý nghĩa α = 5%

1Z

: Hệ số z tương ứng với hiệu suất mẫu mong muốn ß = 0,05 (hay

power = 95%).

Ta tính được n = 265. Cỡ mẫu này được áp dụng cho điều tra lần 1 trước can thiệp và

điều tra lần 2 sau can thiệp.

Trên thực tế, đã điều tra lần 1 trước can thiệp 335 người. Điều tra lần 2 sau can thiêp

là 308 người.

- Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, có chủ đích kết hợp chọn ngẫu nhiên.

- Chọn chủ đích 5 huyện theo các tiêu chuẩn đã nêu ở mục 2.1.2.

- Để có tính đại diện cao theo vùng địa lý, cỡ mẫu 265 được chia cho 5 địa bàn nghiên cứu

theo tỷ lệ với tổng số người nhiễm đang còn sống, quản lý được của từng huyện.

- Lập khung mẫu tại mỗi huyện là danh sách người nhiễm HIV/AIDS đang quản lý tại cộng

đồng của từng huyện và có địa chỉ đến tận xã/phường (N). Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu

nhiên hệ thống đối với từng huyện: tính hệ số k = N/số đối tượng cần chọn, chọn số ngẫu nhiên ban

đầu x < hệ số k là số của đối tượng đầu tiên được chọn đưa vào nghiên cứu, đối tượng tiếp theo có

số thứ tự là x + nk, trong đó n nhận giá trị từ 1 đến tối đa là tổng số đối tượng cần điều tra của

huyện. Trường hợp đối tượng được chọn từ chối tham gia, nhóm nghiên cứu tiếp tục chọn đối tượng

tiếp theo phương pháp trên cho đến khi đạt được cỡ mẫu quy định.

* Phương pháp chọn mẫu:

Bảng 2.5. Phân bố đối tượng được chọn vào nghiên cứu tại các địa bàn

Điều tra trước can thiệp Điều tra sau can thiệp

Số người nhiễm

Số đối

Số người nhiễm

Số đối

HIV/AIDS còn

tượng điều

HIV/AIDS còn

tượng điều

sống (6/2008)

sống (6/2012)

tra

tra

TT Đại bàn (2008) (2012)

1 TP. Vinh 954 230 1.010 196

2 H. Đô Lương 141 34 200 39

3 H. Hưng Nguyên 63 16 64 13

4 H. Nghi Lộc 67 18 96 19

5 TX. Thái Hòa 152 37 209 41

Tổng cộng 1.377 335 1.579 308

2.2.6. Kỹ thuật thu thập thông tin và chỉ số nghiên cứu

Số liệu được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp người nhiễm HIV/AIDS bằng bộ câu

hỏi có cấu trúc. Căn cứ vào 32 chỉ số và mục tiêu của nghiên cứu, bộ câu hỏi phỏng phấn

được xây dựng để phục vụ cho điều tra thu thập số liệu. Bộ phiếu phỏng vấn lần 1 được sử

dụng lại để thu thập thông tin cho việc đánh giá lần 2. Để hoàn thành việc thu thập thông tin

của một bộ phiếu phỏng vấn phải mất thời gian khoảng 40 phút (phụ lục 2).

Bộ chỉ số nghiên cứu gồm 4 phần, 32 chỉ số:

Phần 1. Tư vấn xét nghiệm HIV (5 chỉ số)

Chỉ số 1 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS tự nguyện xét nghiệm HIV.

Chỉ số 2 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV được tư vấn đúng trước xét nghiệm.

(được tư vấn đầy đủ các nội dung theo yêu cầu tư vấn trước xét nghiệm)

Chỉ số 3 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS được tư vấn đúng sau xét nghiệm.

(được tư vấn đầy đủ các nội dung theo yêu cầu tư vấn trước xét nghiệm)

Chỉ số 4 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS được tư vấn hỗ trợ thường xuyên.

Chỉ số 5 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có bạn tình làm xét nghiệm.

Phần 2. Chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS (8 chỉ số)

Chỉ số 6 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có thói quen uống nước lã.

Chỉ số 7 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có thói quen uống nước đá.

Chỉ số 8 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có thói quen ăn rau sống.

Chỉ số 9 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có thói quen ăn thức ăn của bữa trước

không hâm nóng lại.

Chỉ số 10 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS bị gia đình ruồng bỏ, xa lánh.

Chỉ số 11 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận được chăm sóc, hỗ trợ của gia

đình.

Chỉ số 12 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS bị cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh

Chỉ số 13 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận được chăm sóc hỗ trợ của cộng

đồng.

Phần 3. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc, điều trị và can thiêp giảm hại của người

nhiễm HIV/AIDS (8 chỉ số)

Chỉ số 14 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận thuốc điều trị NTCH 6 tháng

qua.

Chỉ số 15 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị ARV.

Chỉ số 16 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS được chụp X- Quang phổi phát hiện

Lao.

Chỉ số 17 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận được BCS miễn phí.

Chỉ số 18 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận được BKT miễn phí.

Chỉ số 19 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ từ đồng đẳng viên.

Chỉ số 20 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS được sinh hoạt câu lạc bộ.

Chỉ số 21 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS nhận được tờ rơi, tờ bướm.

Phần 4. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV ở người nhiễm HIV/AIDS

(9 chỉ số)

Chỉ số 22 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có TCMT còn tiêm chích ma túy trong

tháng trước điều tra.

Chỉ số 23 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS có TCMT dùng chung BKT.

Chỉ số 24 Tỷ lệ (%) nam nhiễm HIV/AIDS có QHTD với GMD 12 tháng trước

điều tra.

Chỉ số 25 Tỷ lệ (%) nam nhiễm HIV/AIDS không sử dụng BCS trong lần QHTD

gần nhất với GMD.

Chỉ số 26 Tỷ lệ (%) nam nhiễm HIV/AIDS không thường xuyên sử dụng BCS với

GMD trong 12 tháng trước điều tra.

Chỉ số 27 Tỷ lệ (%) nam nhiễm HIV/AIDS không sử dụng BCS lần QHTD gần

nhất với bạn tình thường xuyên.

Chỉ số 28 Tỷ lệ (%) nam nhiễm HIV/AIDS không thường xuyên sử dụng BCS với

bạn tình thường xuyên 12 tháng trước điều tra.

Chỉ số 29 Tỷ lệ (%) nữ nhiễm HIV/AIDS không sử dụng BCS lần QHTD gần nhất

với bạn tình thường xuyên.

Chỉ số 30 Tỷ lệ (%) nữ nhiễm HIV/AIDS không thường xuyên sử dụng BCS với

bạn tình thường xuyên 12 tháng trước điều tra

Chỉ số 31 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS vẫn sinh con sau nhiễm HIV.

2.3. Phương pháp xử lý số liệu

Chỉ số 32 Tỷ lệ (%) người nhiễm HIV/AIDS dự định sinh con trong thời gian tới.

- Số liệu được nhập, sử dụng phần mềm EPI - Info bản 6.04 (WHO, 1998).

- Nhằm kiểm soát chất lượng, toàn bộ số liệu được nhập hai lần.

- Sử dụng phần mềm STATA 10 để phân tích.

+ Số liệu được làm sạch, mã hoá lại, được chỉnh lý đảm bảo tính chính xác, thống

nhất và hoàn chỉnh.

+ Trước khi phân tích số liệu, sự phân bố của mỗi biến được phân tích mô tả. Các

biến kết quả bao gồm: đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, đặc điểm về tư vấn xét nghiệm,

chăm sóc hỗ trợ, tiếp cận dịch vụ và hành vi nguy cơ của đối tượng nghiên cứu.

+ Một số phép so sánh đơn biến, đa biến biến được thực hiện để tìm hiểu sự liên quan

giữa các hành vi nguy cơ và các mức độ của yếu tố ảnh hưởng. Sử dụng kiểm định χ2, loại

bỏ giả thuyết Ho với mức độ ý nghĩa 0,05.

+ Phép hồi quy Logistic được áp dụng để ước tính tỷ suất chênh cho kiến thức, thái

độ, hành vi trong dự phòng lây nhiễm HIV và mỗi yếu tố nguy cơ.

+ Phân tích đa biến: mô hình hồi quy logistic được sử dụng để phân tích đa biến. Các

biến lựa chọn vào mô hình logistic dựa trên hiểu biết trước và mức độ tỷ suất nguy cơ trong

phân tích đơn biến.

- Để đánh giá hiệu quả trước và sau can thiệp trên các chỉ số nghiên cứu, chỉ số hiệu

quả (CSHQ) được tính cho từng chỉ số :

| p1 - p2 |

CSHQ (%) = x 100

p1

Trong đó:

p1: tỷ lệ trước can thiệp

2.4. Các biện pháp khống chế sai số:

p2: tỷ lệ sau can thiệp

- Cỡ mẫu nghiên cứu và cách chọn mẫu được thực hiện đúng theo qui cách và phù hợp với

thiết kế, mục tiêu nghiên cứu để hạn chế các sai số ngẫu nhiên.

- Bộ câu hỏi được thiết kế rõ ràng, dễ hiểu, không ẩn ý, tránh sự hiểu nhầm. Trước khi điều

tra tại thực địa đã được điều tra thử, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện.

- Điều tra viên và giám sát viên được tập huấn thống nhất về phương pháp điều tra, được

thử nghiệm bộ công cụ và thực hành kỹ năng điều tra.

- Quá trình điều tra được giám sát chặt chẽ thông qua hoạt động giám sát thực địa và kiểm

tra chất lượng phiếu điều tra ngay tại cộng đồng, khi cần thiết điều tra viên có thể gặp lại đối

2.5. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

tượng để bổ sung thông tin.

- Nghiên cứu được Hội đồng khoa học và đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện Vệ

sinh Dịch tễ Trung ương thông qua.

- Được sự đồng ý thống nhất của chính quyền và y tế tại các địa bàn triển khai nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu đã được thông báo về các thông tin có liên quan tới nghiên cứu, lấy

ý kiến đồng ý tham gia và có quyền từ chối tham gia nghiên cứu.

- Đảm bảo các thông tin được giữ bí mật theo đúng quy định tại Luật số 64/2006/QH11 về

phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

(HIV/AIDS).

- Kết quả nghiên cứu sẽ được phản hồi tới các cơ quan chức năng địa phương làm cơ sở để

lập kế hoạch cho các hoạt động HIV/AIDS tại các địa phương.

- Trong quá trình nghiên cứu, lồng ghép tư vấn, giới thiệu cơ sở dịch vụ, chính sách quan

tâm, hỗ trợ miễn phí đối với người nhiễm HIV/AIDS… cho đối tượng nghiên cứu, đặc biệt

2.6. Lực lượng tham gia và tổ chức thực hiện

là đối tượng người dân tộc thiểu số. nhóm khó tiếp cận thông tin và dễ bị tổn thương.

- Điều tra viên là các cán bộ của Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh và Trung

tâm Y tế các huyện triển khai nghiên cứu. Các điều tra viên phải có đầy đủ các tiêu chuẩn:

có kỹ năng và kinh nghiệm điều tra cộng đồng, có khả năng tiếp cận và khai thác thông tin

từ người nhiễm HIV/AIDS; nhiệt tình, có trách nhiệm, trung thực và nghiêm túc trong

nghiên cứu; Có thời gian và khả năng làm việc đối với các điều tra xã hội học nhất là các

nội dung liên quan đến HIV/AIDS; tất cả điều tra viên được tập huấn kiến thức và kỹ năng

điều tra trước khi tham gia nghiên cứu.

- Giám sát viên là các cán bộ của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, nghiên cứu sinh

và các cán bộ có kinh nghiệm của Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Nghệ An. Các

giám sát viên được tập huấn đầy đủ các nội dung và kỹ năng giám sát theo yêu cầu và trực

tiếp tham gia đào tạo cho điều tra viên trước mỗi cuộc điều tra. Các nội dung tập huấn bao

gồm: mục tiêu của cuộc điều tra, phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu, các kỹ năng

phỏng vấn, nội dung và ý nghĩa của từng câu hỏi; cách thu thập thông tin, cách kiểm tra

phiếu điều tra và thực hành sử dụng bộ câu hỏi…

- Nghiên cứu sinh trên cương vị là Giám đốc Trung tâm phòng chống HIV/AIDS,

trực tiếp tham gia xây dựng kế hoạch nghiên cứu, bộ công cụ nghiên cứu và trực tiếp giám

sát điều tra tại cộng đồng, kịp thời hỗ trợ giám sát viên, điều tra viên và giải quyết những

khó khăn trong quá trình thu thập số liệu.

- Nơi thực hiện phỏng vấn: để đảm bảo tính riêng tư, không bị phân tán trong thời

gian phỏng vấn và người phỏng vấn cảm thấy thoải mái, dễ chịu trong quá trình phỏng vấn,

các cuộc phỏng vấn chủ yếu thực hiện tại nhà của đối tượng điều tra. Trường hợp đối tượng

điều tra mà gia đình và cộng đồng chưa biết hoặc e ngại việc tiếp cận tại nhà, có thể hẹn và

thực hiện phỏng vấn tại nhà ĐĐV, CTV hoặc các địa điểm tế nhị khác như quán cà phê,

quán nước… nhưng phải đáp ứng các điều kiện trên và đảm bảo không có sự can thiệp của

các cơ quan chức năng trong thời gian phỏng vấn.

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. THỰC TRẠNG TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

VÀ HÀNH VI NGUY CƠ TẠI THỜI ĐIỂM TRƯỚC CAN THIỆP (2008)

3.1.1. Một số đặc điểm người nhiễm HIV/AIDS

Bảng 3.1. Phân bố người nhiễm HIV/AIDS theo tuổi, giới tính và dân tộc (n=335)

Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %

Nhóm tuổi

≤ 19 4 1,2

20-29 151 45,1

30-39 163 48,6

≥ 40 17 5,1

Giới tính

- Nam 276 82,4

- Nữ 59 17,6

Dân tộc

- Kinh 333 99,4

- Khác 2 0,6

Kết quả bảng 3.1 (trước thời điểm tiến hành các hoạt động can thiệp cộng đồng năm

2008) cho thấy: nhóm tuổi của người nhiễm HIV/AIDS tham gia nghiên cứu có tỷ lệ cao

nhất là 30-39 tuổi (48,6%), tiếp đến 20-29 tuổi (45,1%). Nam giới chiếm 82,4% và nữ giới

(17,6%). Về dân tộc, hầu hết người nhiễm HIV là người kinh (99,4%), có 0,6% là người dân

Tiểu học (3,0% )

CĐ/ĐH (2,1% )

THCS (49,7% )

PTTH (45,2% )

tộc Thái và Thổ.

Biểu đồ 3.1. Trình độ học vấn của người nhiễm HIV/AIDS (n=335)

Biểu đồ 3.1. cho thấy: đa số người nhiễm HIV/AIDS có trình độ THCS (49,7%), tiếp

Tỷ lệ %

50

40,5

40

30,9

30

18,9

20

10

5,1

3,3

0,9

0,3

0

Thất nghiệp Nông dân Nghề không

Lái xe

Công nhân

HS/SV

ổn định

Nhân viên HC

đến PTTH (45,2%), tiểu học 3,0% và có 2,1% là cao đẳng/đại học.

Biểu đồ 3.2. Phân bố nghề nghiệp của người nhiễm HIV/AIDS (n=335)

Kết quả biểu đồ 3.2 cho thấy: đối tượng tham gia nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao là thất

nghiệp (40,5%), tiếp đến là nông dân (30,9%), nghề không ổn định (18,9%), lái xe (5,1%),

có 0,9% là học sinh/sinh viên và 0,3% là nhân viên hành chính.

Bảng 3.2. Phân bố theo tình trạng hôn nhân và người sống cùng (n=334)

Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %

Tình trạng hôn nhân

- Độc thân 168 50,3

- Có vợ/chồng 119 35,6

- Ly dị/góa/ly thân 44 13,2

- Sống chung không kết hôn 3 0,9

Người nhiễm sống cùng

- Bố mẹ 231 69,2

- Anh chị em 137 41,0

- Vợ/chồng/con cái 133 39,8

- Với họ hàng 47 14,1

- Với bạn bè/lang thang 49 14,7

- Sống một mình 9 2,7

Bảng 3.2 cho thấy: đa số người nhiễm HIV/AIDS là độc thân (50,3%), đang có

vợ/chồng (35,6%), 13,2% là ly dị/goá/ly thân, sống chung không kết hôn (0,9%). Phần lớn

người nhiễm HIV/AIDS sống cùng bố mẹ (69,2%), sống với anh chị em (41,0%), tiếp đến là

vợ/chồng/con cái (39,8%), sống với bạn bè/lang thang (14,7%), có 14,1% sống cùng họ

3.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV

hàng và 2,7% người nhiễm HIV sống một mình.

3.1.2.1. Một số đặc điểm tư vấn xét nghiệm HIVcủa đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.3. Thời gian nhiễm HIV và nhận biết lý do nhiễm HIV (n=335)

Đặc điểm tư vấn xét nghiệm Số lượng Tỷ lệ %

Thời gian nhiễm HIV

< 1 năm 13 3,9

1 - 4 năm 147 43,9

5 - 9 năm 152 45,3

≥ 10 năm 23 6,9

Nhận biết lý do nhiễm HIV

- Tình dục đồng giới 1 0,3

- Tình dục với GMD 14 4,2

- Tình dục với bạn tình 10 3,0

8 2,4 - Tình dục với nhiều người (mại dâm)

- QHTD với vợ/chồng 49 14,6

- TCMT 247 73,7

- Không biết 6 1,8

Bảng 3.3 cho ta thấy: thời gian tính từ khi biết bị nhiễm HIV đến thời điểm điều tra,

chiếm tỷ lệ cao nhất là từ 5 - 9 năm (45,3%); từ 1 - 4 năm (43,9%), dưới 1 năm là 3,9% và

có 6,9% đối tượng nghiên cứu sống chung với HIV từ 10 năm trở lên.

Về lý do nhiễm HIV, có tỷ lệ cao nhất là do tiêm chích ma tuý (73,7%), tiếp đến

QHTD với vợ/chồng (14,6%), tình dục với GMD (4,2%), tình dục với bạn tình (3,0%), tình

dục với nhiều người (mại dâm) (2,4%), có 1,8% không xác định được lý do nhiễm.

Bảng 3.4. Nội dung, chất lượng và loại hình tư vấn xét nghiệm HIV (n=332)

Nội dung tư vấn xét nghiệm Số lượng Tỷ lệ %

Tư vấn trước xét nghiệm

- Trao đổi nguy cơ nhiễm 306 92,2

- Giải thích kết quả 256 77,1

- Cách phòng lây truyền 280 84,3

- Làm gì khi biết kết quả 237 71,4

Được tư vấn đúng trước xét nghiệm

227 68,4 (là được tư vấn đầy đủ các nội dung trên)

Tư vấn sau xét nghiệm

- Giải thích kết quả 308 92,8

- Cách phòng lây truyền 314 94,6

- Làm gì khi biết kết quả 309 93,1

- Giới thiêu nơi giúp đỡ 293 88,3

Được tư vấn đúng sau xét nghiệm 271 81,6

(là được tư vấn đầy đủ các nội dung trên)

Loại hình xét nghiệm HIV

- Tự nguyện xét nghiệm 56 16,9

- Bắt buộc xét nghiệm 276 83,1

Thời gian trung bình nhận được kết quả xét 14,4 ngày

nghiệm HIV (95% CI: 13,08 - 15,66)

Bảng 3.4 cho thấy: đa số người nhiễm HIV được tư vấn trước và sau xét nghiệm. Nội

dung tư vấn trước xét nghiệm, cao nhất là trao đổi về nguy cơ nhiễm HIV (92,2%), thấp

nhất là làm gì khi biết kết quả xét nghiệm HIV (71,4%). Nội dung tư vấn sau xét nghiệm,

cao nhất là cách dự phòng lây truyền HIV (94,6%), thấp nhất là giới thiệu nơi giúp đỡ

(88,3%). Số người được tư vấn đúng trước và sau xét nghiệm là tương đối cao, được tư vấn

đúng sau xét nghiệm cao hơn (81,6%) và tư vấn đúng trước xét nghiệm là 68,4%. Về loại

hình xét nghiệm, 83,1% đối tượng xét nghiệm HIV là tự nguyện và vẫn có tới 16,9% xét

nghiệm HIV là do bắt buộc. Thời gian trung bình nhận được kết quả xét nghiệm HIV là 14,4

ngày (chậm nhất là 90 ngày).

3.1.2.2. Tư vấn hỗ trợ thường xuyên và tư vấn, xét nghiện bạn tình người nhiễm

Bảng 3.5. Tần suất, nội dung tư vấn hỗ trợ sau nhiễm HIV và xét nghiệm HIV của bạn

tình thường xuyên (333)

Tần suất và nội dung tư vấn Số lượng Tỷ lệ %

Tần suất tư vấn hỗ trợ

- Hàng tháng 220 66,1

- Hàng 6 tháng 79 23,7

- Hàng năm 18 5,4

- Không lần nào trong năm 16 4,8

Nội dung tư vấn hỗ trợ

- An ủi động viên 312 93,7

- Thay đổi hành vi 320 96,1

- Chăm sóc sức khoẻ 319 95,8

- Dinh dưỡng và vệ sinh 305 91,6

- Các thuốc điều trị 293 88,0

Bạn tình làm xét nghiệm HIV 22 66,1

Bảng 3.5 cho ta thấy: tần suất tư vấn hàng tháng (66,1%), hàng 6 tháng (23,7%),

hàng năm (5,4%), có 4,8% người nhiễm HIV/AIDS không được tư vấn lần nào trong năm

qua. Về nội dung tư vấn, hầu hết người nhiễm HIV được tư vấn về thay đổi hành vi (96,1%)

và về chăm sóc sức khỏe (95,8%), an ủi động viên (93,7%), dinh dưỡng và vệ sinh (91,6%),

về các thuốc điều trị (88,0%). Tỷ lệ có bạn tình thường xuyên làm xét nghiệm HIV không

cao (66,1%).

Không biết 1,7%

Dương tính 47,4%

Âm tính 50,9%

Biểu đồ 3.3. Kết quả xét nghiệm HIV của bạn tình thường xuyên (n=332)

Biểu đồ 3.3 cho thấy: tỷ lệ bạn tình của người nhiễm HIV/AIDS có kết quả xét

nghiệm HIV dương tính cao (47,4%), bạn tình có kết quả xét nghiệm âm tính là 50,9% và có

3.1.3. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

1,7% không biết kết quả xét nghiệm của bạn tình.

Tỷ lệ %

100

87,9

86,1

90

78,3

80

70

60

50

34,6

40

30

20

10

0

Uống nước lã

Uống nước đá

Ăn rau sống

Ăn thức ăn nấu hôm trước

3.1.3.1. Vệ sinh dinh dưỡng của người nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.4. Tình trạng vệ sinh ăn uống của người nhiễm HIV/AIDS (n=330)

Biểu đồ 3.4 cho thấy: trong số 330 người trả lời cho thấy, tình trạng người nhiễm

HIV có thói quen ăn rau sống là cao nhất (87,9%), tiếp đến là uống nước đá hàng quán

(86,1%), ăn thức ăn nấu hôm trước không đun nóng lại (78,3%), đặc biệt có 34,6% uống

nước lã.

3.1.3.2. Chăm sóc và hỗ trợ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS

Bảng 3.6. Chăm sóc, hỗ trợ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS (n=299)

Chăm sóc hỗ trợ của gia đình Số lượng Tỷ lệ %

Người chăm sóc sức khoẻ tốt nhất

- Bố, mẹ 190 63,6

- vợ/chồng/con cái 90 30,0

- Anh chị em/họ hàng 18 6,0

- Đồng đẳng viên/Bạn bè 1 0,3

Người chăm sóc sức khoẻ thường xuyên nhất

- Bố, mẹ 198 66,2

- vợ/chồng/con cái 91 30,4

- Anh chị em/họ hàng 6 2,0

- Đồng đẳng viên/Bạn bè 4 1,3

Người nhà được tập huấn về chăm sóc hỗ trợ 183 61,2

Kết quả bảng 3.6 cho thấy: về người chăm sóc sức khoẻ tốt nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất

là bố mẹ (63,6%), tiếp đến là vợ/chồng/con cái (30,0%), anh, chị em/họ hàng (6,0%), có

0,3% người chăm sóc tốt nhất là đồng đẳng viên/bạn thân. Về người chăm sóc sức khoẻ

thường xuyên nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất là bố mẹ (66,2%), tiếp đến là vợ/chồng/con cái

(30,4%), anh, chị em/họ hàng (2,0%), đồng đẳng viên/bạn thân (1,3%). Tỷ lệ người chăm

Tỷ lệ %

100

89,0

90

80

70

60

50

40

30

20

8,3

10

2,7

0

Chấp nhận, hỗ trợ

Chưa biết nhiễm HIV

Ruồng bỏ, xa lánh

sóc cho người nhiễm HIV/AIDS được tập huấn (61,2%), chưa được tập huấn (38,8%).

Biểu đồ 3.5. Thái độ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS (n=335)

Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 3.5 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV được chấp nhận,

chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ là 89,0%, có 2,7% cho rằng bị người nhà ruồng bỏ, xa lánh

và 8,3% gia đình chưa biết tình trạng nhiễm HIV của đối tượng.

3.1.3.3. Chăm sóc và hỗ trợ của cộng đồng với người nhiễm HIV/AIDS

Tỷ lệ %

70

60

54,7

50

40

35,7

30

20

10

5,1

4,5

0

Chấp nhận

Hỗ trợ, giúp đỡ

Ruồng bỏ, xa lánh

Chưa biết nhiễm HIV

Biểu đồ 3.6. Thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS (n=335)

Kết quả nghiên cứu về thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS tại

biểu đồ 3.6 cho thấy: chiếm tỷ lệ cao nhất là được cộng đồng chấp nhận (54,7%), tiếp đến

hỗ trợ và giúp đỡ (35,7%), cộng đồng chưa biết bị nhiễm HIV (5,1%), có 4,5% cho rằng bị

cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh.

Bảng 3.7. Các tổ chức, đơn vị chăm sóc tại nhà cho người nhiễm HIV/AIDS(n= 144)

Chăm sóc, hỗ trợ tại nhà từ cộng đồng Số lượng Tỷ lệ %

Nhận được chăm sóc tại nhà từ cộng đồng 115 79,9

Các tổ chức, đơn vị chăm sóc (n=115)

- Cán bộ Y tế phường/xã 112 97,4

- Cán bộ PKNT huyện/thị 70 60,9

- Cán bộ Bệnh viện tỉnh 14 12,2

- Cán bộ Tổ chức phi chính phủ 20 17,4

- Cán bộ Đoàn thể xã hội 58 50,4

- Cán bộ Hội chữ thập đỏ 7 6,1

- Đồng đẳng viên 73 63,5

Kết quả bảng 3.7 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận được chăm sóc, hỗ trợ

tại nhà từ các đơn vị/tổ chức khá cao (79,9%), trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là nhân viên y

tế phường/xã (97,4%), tiếp đến là đồng đẳng viên (63,5%), nhân viên PKNT huyện thị

(60,9), cán bộ đoàn thể xã hội (50,4%), cán bộ của tổ chức phi chính phủ (17,4%), nhân viên

Tỷ lệ %

91,0

88,6

78,1

73,0

67,0

62,2

54,8

31,5

30,7

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Việc làm Tiền, vật

Điều trị ARV

Điều trị NTCH

Được tư vấn

chất

Cai nghiện

Đối xử bình đẳng

An ủi, động viên

S inh hoạt nhóm

PKNT bệnh viện tỉnh (12,2%), có 6,1% là cán bộ hội chữ thập đỏ.

Biểu đồ 3.7. Mong muốn/nhu cầu của người nhiễm HIV/AIDS (n=332)

Phân tích bảng 3.7 cho thấy: mong muốn/nhu cầu phổ biến nhất của người nhiễm

HIV/AIDS là được điều trị ARV (91,0%), đa số mong muốn được đối xử bình đẳng

(88,6%), được an ủi, động viên, thông cảm (78,1%), tiếp đến là được điều trị NTCH

(73,0%), được tư vấn (67,0%), việc làm (62,2%), được hỗ trợ tiền, vật chất (54,8%), được

3.1.4. Biểu hiện lâm sàng và tiếp cận dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ của người nhiễm

HIV/AIDS

Không biết 17,1%

Không có triệu chứng 22,3%

Có triệu chứng 60,6%

cai nghiện (30,7%) và nhu cầu được tổ chức sinh hoạt nhóm là 31,5%.

Biểu đồ 3.8. Biểu hiện triệu chứng của người nhiễm HIV/AIDS (n=327)

Biểu đồ 3.8 cho ta thấy: tỷ lệ có biểu hiện triệu chứng lâm sàng trong 6 tháng trước

điều tra (60,6%), không có biểu hiện triệu chứng (22,3%) và tỷ lệ trả lời không biết là

17,1%.

Bảng 3.8. Tiếp cận chăm sóc, điều trị trong vòng 6 tháng trước điều tra (n=332)

Tiếp cận dịch vụ chăm sóc, điều trị Số lượng Tỷ lệ %

Nhận thuốc ARV 88 26,5

Thời gian điều trị ARV trung bình 12,4 tháng

(95% CI: 11,02 – 13,78)

Nhận được thuốc điều trị dự phòng Cotrimoxazole 124 37,5

Nhận thuốc điều trị NTCH 133 40,0

Được chụp X - Quang phát hiện Lao 115 34,7

- Được chẩn đoán mắc Lao (n=115) 14 12,2

- Nhận thuốc điều trị Lao (n=14) 12 85,7

Khám, điều trị BLTQĐTD 9 2,7

Bảng 3.8 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị ARV thấp

(26,5%), thời gian điều trị ARV trung bình ngắn (12,4 tháng); tỷ lệ được điều trị dự phòng

bằng Cotrimoxazole (37,5%); được điều trị NTCH (40,0%). Về chẩn đoán và điều trị Lao:

có 34,7% được chụp XQ phổi phát hiện Lao, được chẩn đoán mắc bệnh Lao là 12,2% và

85,7% trong số này được điều trị Lao miễn phí. Tỷ lệ người nhiễm HIV được khám và điều

trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục thấp (2,7%).

Bảng 3.9. Biểu hiện triệu chứng lâm sàng của người nhiễm HIV/AIDS (n=330)

Các triệu chứng biểu hiện Số lượng Tỷ lệ %

- Sút cân > 10% 55 16,7

- Sốt kéo dài hơn 1 tháng 44 13,3

- Tiêu chảy hơn 1 tháng 34 10,3

- Ho kéo dài hơn 1 tháng 51 15,5

- Nuốt đau 82 24,8

- Triệu chứng khác 94 28,5

Biểu đồ 3.9 cho thấy: tỷ lệ biểu hiện triệu chứng nuốt đau cao nhất (24,8%), tiếp đến

là sút cân >10% (16,7%), ho kéo dài hơn một tháng (15,5%), sốt kéo dài hơn 1 tháng

(13,3%), tiêu chảy hơn 1 tháng (10,3%) và có 28,5% biểu hiện các triệu chúng khác như:

Zona thần kinh; đau cơ, khớp; đau đầu, cảm cúm; viêm da, nấm da, mẩn ngứa;…

Bảng 3.10. Tiếp cận dịch vụ giảm tác hại và thông tin phòng chống AIDS 6 tháng trước

điều tra (n=333)

Nội dung Số lượng Tỷ lệ %

Tiếp cận dịch vụ giảm tác hại

- Nhận BCS 209 62,8

- Nhận BKT 160 48,1

- Nhận được lời khuyên từ đồng đẳng viên 224 67,3

- Nhận được lời khuyên từ cán bộ y tế 303 91,0

- Nhận được lời khuyên từ cán bộ đoàn thể xã hội 132 39,6

Tiếp cận thông tin phòng chống AIDS

- Nhận tờ rơi 278 83,5

- Được sinh hoạt Câu lạc bộ 50 15,0

Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.10 cho thấy: về tiếp cận dịch vụ can thiệp giảm hại, tỷ

lệ người nhiễm HIV nhận được lời khuyên từ cán bộ y tế (91,0%), từ đồng đẳng viên

(67,3%), cán bộ đoàn thể xã hội (39,6%), nhận được BCS (62,8%), nhận được BKT

(48,1%). Về tiếp cận thông tin phòng chống AIDS, tỷ lệ người nhiễm HIV nhận được tờ rơi

3.1.5. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS

3.1.5.1. Tiêm chích ma tuý không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS

trong 6 tháng qua cao (84,1%), tỷ lệ được tham gia sinh hoạt câu lạc bộ thấp (15,0%).

Bảng 3.11. Hành vi tiêm chích ma túy không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS

Hành vi TCMT Số lượng Tỷ lệ %

Đã từng TCMT (n=329) 258 78,4

Còn TCMT trong tháng trước điều tra (n=258) 173 67,1

Dùng chung BKT trong tháng trước điều tra (n=172) 42 24,4

Trong đó:

- Dùng lại BKT của người khác đã sử dụng 39 22,9

- Đưa BKT đã dùng cho người khác sử dụng 21 12,2

Kết quả bảng 3.11 cho thấy: tỷ lệ đối tượng đã từng TCMT 78,4%. Trong đó, tỷ lệ có

TCMT trong tháng qua của người nhiễm HIV đã từng TCMT là 67,1%. Tỷ dùng chung

BKT trong tháng trước điều tra là 24,4%, trong đó tỷ lệ dùng lại BKT của người khác đã sử

3.1.5.2. Quan hệ tình dục không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS

dụng (22,9%) và tỷ lệ đưa BKT sau khi sử dụng cho người khác dùng (12,2%).

Bảng 3.12. Quan hệ tình dục và loại bạn tình của nam nhiễm HIV/AIDS

Hành vi quan hệ tình dục

Số lượng 238 Tỷ lệ % 86,2

Đã từng quan hệ tình dục (n= 276) Tuổi trung bình lần QHTD đầu tiên

21,3 tuổi (95% CI: 20,87 – 21,76)

Có QHTD trong vòng 12 tháng trước điều tra (n=238) Loại bạn tình có QHTD 12 tháng trước điều tra (n=214)

- Vợ và người yêu - Gái mại dâm - Bạn tình bất chợt không phải trả tiền 214 156 77 61 89,9 72,9 36,0 28,5

Bảng 3.12 cho thấy: tỷ lệ nam nhiễm HIV/AIDS đã từng QHTD chiếm 86,2%, tuổi

trung bình QHTD lần đầu tiên là 21,3 tuổi. Có 89,9% nam nhiễm HIV/AIDS QHTD trong

vòng 12 tháng trước điều tra. Về QHTD với các loại bạn tình của nam nhiễm HIV/AIDS, tỷ

lệ QHTD với vợ/người yêu là cao nhất (72,9%), tiếp đến là với GMD (36,0%), thấp nhất là

với bạn tình bất chợt (28,5%).

Tỷ lệ %

Lần gần nhất

12 tháng qua

70

57,1

60

50

42,6

40

30

23,7

18,2

16,7

20

13,1

10

0

Vợ/người yêu (n=156)

Gái mại dâm (n=77)

Bạn tình bất chợt (n=61)

Biểu đồ 3.9. Tình trạng không dùng BCS lần QHTD gần nhất và không thường xuyên

dùng BCS 12 tháng qua với các loại bạn tình của nam nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.9 cho thấy: tỷ lệ không dùng BCS lần QHTD gần nhất với vợ/người yêu

của nam nhiễm (14,7%), với GMD (18,2%), với bạn tình bất chợt (16,7%). Tỷ lệ không

thường xuyên dùng BCS trong 12 tháng qua với vợ/người yêu (23,7%), với GMD (57,1%)

Tỷ lệ %

Tự bản thân

Bạn tình

Cùng quyết định

80

70

55,1

60

54,2

50

40,6

35,9

40

29,3

28,6

30

23,5

16,5

16,3

20

10

0

Vợ/người yêu (n=133)

Gái mại dâm (n=64)

Bạn tình bất chợt (n=49)

và với bạn tình bất chợt (42,6%).

Biểu đồ 3.10. Người gợi ý dùng bao cao su khi quan hệ tình dục với bạn tình của nam

nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.10 cho thấy: người gợi ý dùng BCS trong QHTD với vợ/người yêu chủ yếu

là tự bản thân người nhiễm (54,2%), cùng quyết định (29,3%) và bạn tình gợi ý (16,5%);

QHTD với GMD, cao nhất là bạn tình (40,6%), tiếp đến tự bản thân (35,9%) và cùng quyết

định (23,5%); QHTD với bạn tình bất chợt, cùng quyết định chiếm đa số (55,1%), bạn tình

(28,6%) và thấp nhất là tự bản thân (16,3%).

Bảng 3.13. Hành vi quan hệ tình dục không an toàn của nữ nhiễm HIV/AIDS

Hành vi QHTD

Đã từng QHTD (n=58) Số lượng 58 Tỷ lệ % 100,0

Tuổi trung bình lần QHTD đầu tiên

21,2 tuổi (95% CI: 20,17 – 22,12)

Có QHTD trong 12 tháng trước điều tra (n=58) Loại bạn tình có QHTD 12 tháng trước điều tra (n=36)

- Chồng/người yêu - Bạn tình bất chợt - Khách làng chơi 36 26 8 7 62,1 72,2 22,2 19,4

Bảng 3.13 cho thấy: 100% đối tượng nghiên cứu là đều đã từng QHTD, tuổi trung

bình QHTD lần đầu tiên là 21,2 tuổi. Có 62,1% nữ nhiễm HIV có QHTD trong vòng 12

tháng trước điều tra. Về QHTD với các loại bạn tình của nữ nhiễm HIV, tỷ lệ QHTD với

chồng/người yêu là cao nhất (72,2%), tiếp đến là với bạn tình bất chợt (22,2%), với khách

Lần gần nhất

12 tháng qua

Tỷ lệ %

80

70

62,5

62,1

62,5

60

50

43,3

40

25,0

30

20

12,5

10

0

Chồng/người yêu (n=29)

Khách làng chơi (n=8)

Bạn tình bất chợt (n=8)

làng chơi (19,4%).

Biểu đồ 3.11. Tình trạng không dùng BCS lần QHTD gần nhất và không thường xuyên

dùng BCS 12 tháng qua với các loại bạn tình của nữ nhiễm HIV

Biểu đồ 3.11 cho thấy: tỷ lệ không dùng BCS lần QHTD gần nhất của nữ nhiễm HIV

với chồng/người yêu là cao nhất (43,3%), với khách làng chơi (25,0%), thấp nhất là với bạn

tình bất chợt (12,5%). Tỷ lệ không thường xuyên dùng BCS trong 12 tháng qua với

chồng/người yêu (62,1%), với khách làng chơi và với bạn tình bất chợt đều chiếm tỷ lệ

62,5%.

3.1.5.3. Sinh con sau nhiễm HIV

Tỷ lệ %

30

25

20

20

15

8,6

10

6,9

5

0

Vẫn s inh con s au nhiễ m HIV (n=175)

Được dùng thuốc dự phòng mẹ -con (n=35)

Dự định s inh con thời gian tới (n=175)

Biểu đồ 3.12. Một số đặc điểm sinh con của người nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.12 cho thấy, tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV của đối tượng nghiên cứu đã lập

gia đình là khá cao (20%) và chỉ có 8,6% trong số này được dùng thuốc dự phòng lây truyền

3.1.5.4. Ảnh hưởng một số yếu tố đến hành vi nguy cơ lây truyền HIV

mẹ - con. Có 6,9% người nhiễm HIV dự định sinh con thời gian tới.

Bảng 3.14. Các yếu tố liên quan đến hành vi dùng chung bơm kim tiêm của đối tượng

nghiên cứu năm 2008

Dùng chung BKT

Đặc điểm Có Không OR (95% CI)

n % n %

Trình độ học vấn

THCS trở xuống 18 42,9 69 53,1 0,66

(0,31- 1,61) PTTH trở lên 24 57,1 61 46,9

Tình trạng hôn nhân

Độc thân/ly dị/góa/ly thân 32 76,2 84 64,6

1,75 (0,74- 4,20) Hiện đang sống với vợ/chồng 10 23,8 46 35,4

Nghề nghiệp

Thất nghiệp 24 57,1 52 40,0 2

(0,93- 4,30) Nghề khác 18 42,9 78 60,0

Dùng chung BKT OR Đặc điểm Có Không (95% CI)

n % n %

Tư vấn thường xuyên

20,5 32 26,2 Không 8 0,73

(0,27- 1,87) 79,5 90 73,8 Có 31

Được điều trị ARV

85,7 101 78,3 Không 36 1,66

(0,59- 4,90) 14,3 28 21,7 Có 6

Được gia đình chấp nhận, chăm sóc, hỗ trợ

19,4 33 28,4 Không 7 0,61

(0,22- 1,64) 80,6 83 71,6 Có 29

Thái độ của cộng đồng

Ruồng bỏ 5,0 4 3,3 2

1,55 (0,19- 10,43) Chấp nhận, hỗ trợ, chăm sóc 95,0 118 96,7 38

Nhận được hỗ trợ trong 6 tháng qua

18 32,1 14,8 Không 4

0,37 (0,09- 1,36) 38 67,9 85,2 Có 23

Nhận được hỗ trợ BKT

48 36,9 35,7 Không 15

0,95 (0,43- 2,08) 82 63,1 64,3 Có 27

Nhận được hỗ trợ tờ rơi

19 14,6 19,1 Không 8

1,37 (0,50- 3,70) 111 85,4 80,9 Có 34

Nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên

26 20,0 30,1 Không 16 2,46

104 80,0 69,9 Có 26 (1,08- 5,61)

Nhận được hỗ trợ từ cán bộ y tế

16 12,3 9,5 Không 4 0,75

(0,20- 2,60) 114 87,7 90,5 Có 38

Người chăm sóc được tập huấn

40,0 40 34,2 Không 14

1,28 (0,55- 2,98) 60,0 77 65,8 Có 21

Kết quả phân tích bảng 3.14 về mối liên quan giữa các đặc điểm của nhóm đối tượng

nghiên cứu với hành vi dùng chung bơm kim tiêm cho thấy: việc nhận được hỗ trợ từ đồng

đẳng viên có ảnh hưởng đến hành vi dùng chung BKT. Nhóm đối tượng nghiên cứu không

được nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên có nguy cơ dùng chung bơm kiêm tiêm gấp 2,46 lần

nhóm có nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

(OR=2,46; 95%CI: 1,08-5,61). Các yếu tố: tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, được điều trị

ARV, thái độ của cộng đồng, nhận được tờ rơi, tờ bướm, người chăm sóc được tập huấn đều

có tỷ suất chênh (OR) trên 1 đối với hành vi dùng chung BKT. Tuy nhiên, sự khác biệt này

không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3.15. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi QHTD với các

loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu năm 2008

Luôn sử dụng BCS

Không Có Đặc điểm OR (95% CI) n % n %

Trình độ học vấn

THCS trở xuống 72 52,6 65 57,5

0,82 (0,48- 1,39) PTTH trở lên 65 47,4 48 42,5

Tình trạng hôn nhân

Độc thân/ly dị/góa/ly thân 96 70,1 38 33,6

Hiện đang sống với vợ/chồng 41 29,9 75 66,4 4,62 (2,62- 8,19)

Nghề nghiệp

Thất nghiệp 60 43,8 37 32,7 1,6

(0,92- 2,78) Nghề khác 77 56,2 76 67,3

Tư vấn thường xuyên

Không 47 37,9 28 25,2 1,81

(0,99- 3,30) Có 77 62,1 83 74,8

Được điều trị ARV

Không 115 85,2 69 61,1

Có 20 14,8 44 38,9 3,67 (1,92- 7,05)

Luôn sử dụng BCS OR Đặc điểm Không Có (95% CI) n % n %

Được gia đình chấp nhận, chăm sóc, hỗ trợ

Không 36 30,3 21 19,4 1,80

(0,93- 3,49) Có 83 69,7 87 80,6

Thái độ của cộng đồng

Ruồng bỏ 7 5,7 5 4,6 1,25 Chấp nhận, hỗ trợ, chăm sóc (0,34- 4,72) 115 94,3 103 93,4

Nhận được hỗ trợ trong 6 tháng qua

Không 22 40 12 21,8 2,39

(0,96- 6,02) Có 33 60 43 78,2

Nhận được hỗ trợ BCS

Không 49 35,8 19 16,8

Có 88 64,2 94 83,2 2,75 (1,45- 5,28)

Nhận được hỗ trợ tờ rơi

Không 26 19,0 14 12,4

1,66 (0,78- 3,56) Có 111 81,0 99 87,6

Nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên

Không 60 43,8 24 21,2

Có 77 56,2 89 78,8 2,89 (1,59- 5,28)

Nhận được hỗ trợ từ cán bộ y tế

Không 17 12,4 6 5,3

2,53 (0,90- 7,47) Có 120 87,6 107 94,7

Người chăm sóc được tập huấn

Không 54 46,6 35 32,4 1,82

Có 62 53,4 73 67,6 (1,02- 3,25)

Kết quả phân tích mỗi liên quan giữa các đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu

với hành vi thường xuyên sử dụng bao cao su khi QHTD với các loại bạn tình trong 12

tháng trước thời điểm điều tra được thể hiện trong bảng 3.15 Theo bảng kết quả này, các đặc

điểm có mối liên quan bao gồm tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, được tư vấn thường

xuyên, được điều trị ARV, được nhận hỗ trợ trong 6 tháng trước điều tra, được nhận hỗ trợ

bao cao su, được nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên và người chăm sóc được tập huấn. Cụ thể,

về tình trạng hôn nhân nhóm hiện đang sống với vợ/chồng có hành vi luôn sử dụng BCS

trong 12 tháng trước điều tra gấp 4,62 lần nhóm độc thân, ly hôn hoặc góa (OR=4,62;

95%CI: 2,62- 8,19). Nhóm đối tượng nghiên cứu được điều trị ARV luôn sử dụng BCS

trong 12 tháng với các loại bạn tình hơn 3,67 lần so với nhóm không được nhận các dịch vụ

này và các sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=3,67; 95%CI: 1,92-7,05). Về hoạt

động hỗ trợ, nhóm đối tượng nghiên cứu nhận được hỗ trợ BCS, được hỗ trợ từ ĐĐV có

hành vi luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình trong 12 tháng trước điều tra hơn

lần lượt 2,75 và 2,89 lần so với nhóm đối tượng không được hỗ trợ (OR=2,75; 95%CI: 1,45-

5,28 và OR=2,89; 95%CI: 1,59-5,28). Những người nhiễm HIV có người chăm sóc được

tập huấn cũng có hành vi luôn sử dụng BCS trong 12 tháng gấp 1,82 lần so với nhóm người

nhiễm có người chăm sóc không được tập huấn và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống

kê (OR=1,82; 95%CI: 1,02-3,25).

Bảng 3.16. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi QHTD

với các loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu năm 2008

Đặc điểm OR Khoảng tin cậy (95%)

Tình trạng hôn nhân (Hiện sống một mình) 7,7 4,02 - 14,56 Hiện đang sống với vợ/chồng

Được điều trị ARV (Không) 2,4 1,11 - 5,19 Có

Nhận được hỗ trợ BCS (Không) 2,6 1,24 - 5,35 Có

Nhận được hỗ trợ từ ĐĐV (Không) 2,4 1,16 - 4,86 Có

Kết quả bảng 3.16 phân tích đa biến các yếu tố có mối liên quan ở trên đến hành vi

luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình trong 12 tháng trước thời điểm phỏng

vấn cho thấy, các đặc điểm về tình trạng hôn nhân, được điều trị ARV, được hỗ trợ BCS và

nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên thực sự có ảnh hưởng đến hành vi luôn sử dụng BCS khi

QHTD với các loại bạn tình của đối tượng nghiên cứu.

3.2. HIỆU QUẢ CAN THIỆP TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM

HIV/AIDS TẠI CỘNG ĐỒNG SAU 4 NĂM TRIỂN KHAI (2008 - 2012)

3.2.1. Hiệu quả hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV

Tỷ lệ %

Trước can thiệp

Sau can thiệp

86,7

81,6

80,8

76,6

68,4

66,1

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Tư vấn đúng trước xé t nghiệ m

Tư vấn đúng s au xé t nghiệ m

Tư vấn hỗ trợ ít nhất 1 lần/tháng*

(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01

Biểu đồ 3.13. Thay đổi chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV

Kết quả biểu đồ 3.13 cho thấy: sau 4 năm can thiệp, tỷ lệ người nhiễm được tư vấn

đúng trước xét nghiệm tăng từ 68,4% lên 76,6% (CSHQ 12,0%); được tư vấn đúng sau xét

nghiệm tăng từ 81,6% lên 86,7% (CSHQ 6,3%). Sự thay đổi của các chỉ số này chưa có ý

nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ người được tư vấn hỗ trợ thường xuyên tăng từ

Tỷ lệ %

Trước can thiệp

S au can thiệp

100

88,3

90

83,2

83,3

80

66,1

70

60

50

40

30

20

10

0

Tự nguyệ n xé t nghiệ m

B ạn tình làm xé t nghiệ m*

(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01

66,1% lên 80,8% (CSHQ: 22,2%), có ý ngĩa thống kê (p < 0,01).

Biểu đồ 3.14. Thay đổi nhu cầu tiếp cận dịch vụ tư vấn xét nghiệm và bạn tình làm xét nghiệm HIV

Phân tích biểu đồ 3.14 nhận thấy: tỷ lệ bạn tình người nhiễm HIV làm xét nghiệm

HIV tăng cao, từ 66,1% lên 83,3% (CSHQ: 26,0%), có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Song tỷ

lệ người nhiễm HIV/AIDS tự nguyện xét nghiệm HIV tăng ít từ 83,2% lên 88,3% (CSHQ:

6,1%).

3.2.2. Hiệu quả chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

Trước can thiệp

Sau can thiệp

Tỷ lệ %

100

41,2

93,8

86,1

34,5

77,9

90 80

70 60

50

89,0

37,7

85,5

40

30

20 10

0

Uống nước lã

Uống nước đá

Ăn rau sống

Ăn thức ăn nấu hôm trước*

(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01

Biểu đồ 3.15. Thay đổi thói quen và ý thức vệ sinh dinh dưỡng

Kết quả biểu đồ 3.15 cho biết: đa số người nhiễm HIV/AIDS chưa quan tâm đầy đủ

về các nội dung chăm sóc dinh dưỡng. Ngoài tỷ lệ người nhiễm ăn thức ăn nấu ngày hôm

(không đun nóng lại) trước giảm rõ sau can thiệp (CSHQ: 51,6%, p<0,01) Các chỉ số khác

Tỷ lệ %

Trước can thiệp

Sau can thiệp

10

9

8

7

6

4,5

5

3,6

4

2,7

3

2

1,3

1

0

Gia đình ruồng bỏ, xa lánh

Cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh

(uống nước lã, uống nước đá và ăn rau sống) không giảm sau can thiệp.

Biểu đồ 3.16. Thay đổi thái độ của gia đình và cộng đồng

Quan sát biểu đồ 3.16 cho thấy, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS bị gia đình và cộng

đồng ruồng bỏ, xa lánh đã giảm sau 4 năm can thiệp, tương ứng từ 2,7% xuống 1,3%

(CSHQ: 51,9%) và từ 4,5% xuống 3,6% (CSHQ: 20,0%). Song sự thay đổi của các chỉ số

Trước can thiệ p

Sau can thiệ p

Tỷ lệ %

100

91,4

90

82,2

80

66,9

70

60

50

35,7

40

30

20

10

0

Được chăm s óc, hỗ trợ của gia đình*

Được chăm s óc hỗ trợ của cộng đồng*

(*) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01

này chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Biểu đồ 3.17. Thay đổi sự chăm sóc, hỗ trợ của gia đình và cộng đồng

Biểu đồ 3.17 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm được gia đình chăm sóc, hỗ trợ tăng từ

82,2% lên 91,4% (CSHQ: 11,2%), có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Tỷ lệ người nhiễm nhận

được chăm sóc, hỗ trợ của cộng đồng tăng từ 35,7% lên 66,9% (CSHQ: 87,4%), có ý nghĩa

thống kê (p<0.01).

Tỷ lệ%

Sau can thiệp

Trước can thiệ p

100

46,1

90

80

70

84,1

60

63,0

50

26,5

40,0

40

37,5

30

20

10

0

Được điều trị ARV *

Được nhận thuốc NTCH*

Chụp XQ phổi phát hiện Lao*

(*): sự k hác biệt có ý nghĩa thống k ê với p < 0,01 (**): sự k hác biệt có ý nghĩa thống k ê với p < 0,05

3.2.3. Hiệu quả về tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.18. Thay đổi tiếp cận dịch vụ chăm sóc, điều trị của người nhiễm HIV

Các chỉ số đánh giá ở biểu đồ 3.18 cho thấy: người nhiễm HIV/AIDS tại các địa bàn

triển khai can thiệp đã tiếp cận với các dịch vụ dễ dàng hơn. Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS

được điều trị ARV tăng rõ rệt từ 26,5% lên 84,1% (CSHQ: 217,4%), tỷ lệ nhận được thuốc

NTCH tăng từ 40,0% lên 63,0% (CSHQ: 57,5%), tỷ lệ được chụp XQ phát hiện Lao tăng từ

34,7% lên 52,3% (CSHQ: 50,7%), có ý nghĩa thống kê (p< 0,01).

Bảng 3.17. Thay đổi tiếp cận dịch vụ giảm tác hại và thông tin truyền thông

Trước can thiệp (tỷ lệ %) (n= 333)

Sau can thiệp (tỷ lệ %) (n=308)

Chỉ số nghiên cứu Giá trị p CSHQ (%)

Nhận được BCS 62,8 72,4 15,3 0,009

Nhận được BKT 48,1 57,5 19,5 0,000

Được hỗ trợ từ đồng 91,0 94,5 40,4 0,047

đẳng

Được sinh hoạt câu lạc 16,8 24,0 42,9 0,000

bộ

Nhận được tờ rơi, tờ 83,5 73,1 - -

bướm

Kết quả bảng 3.17 cho thấy: có sự thay đổi rõ rệt (p< 0,05) ở các chỉ số đánh giá khả

năng tiếp cận dịch vụ giảm tác hại. Tỷ lệ người nhiễm nhận BCS tăng từ 62,8 lên 72,4

(CSHQ: 15,3%), nhận BKT tăng từ 48,7% lên 57,5% (CSHQ: 19,5%), được hỗ trợ từ đồng

đẳng viên tăng từ 91,0% lên 94,5% (CSHQ: 40,4%). Về tiếp cận thông tin phòng chống

AIDS, tỷ lệ được sinh hoạt câu lạc bộ của đối tượng tăng đáng kể từ 16,8% lên 24,0%

(CSHQ: 42,9%) có ý nghĩ thống kê (p< 0,05). Tuy vậy tỷ lệ người nhiễm HIV nhận được tờ

rơi, tờ bướm trong 6 tháng trước điều tra không tăng mà giảm so với trước can thiệp.

Trước can thiệ p

Sau can thiệ p

80

67,1

70

60

50

38,7

40

30

18,0

20

15,5

10

0

Còn TCMT tháng trước điề u tra*

Dùng chung BKT

(*): sự k hác biệt có ý nghĩa thống k ê với p < 0,01

3.2.4. Thay đổi về hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS

Biểu đồ 3.19. Thay đổi hành vi tiêm chích ma túy không an toàn

Kết quả biểu đồ 3.19 cho thấy: người nhiễm HIV/AIDS còn TCMT trong tháng trước

điều tra giảm rõ rệt sau 4 năm can thiệp từ 67,1% xuống 38,7% (CSHQ 42,3%) có ý nghĩa

thống kê (p < 0,01). Tuy vậy, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS dùng chung BKT trong tháng

trước điều tra giảm không đáng kể (từ 18,0% xuống 15,5%), sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (p > 0,05).

Trước can thiệ p

Sau can thiệ p

80

70

57,1

60

50

42,4

40

27,9

26,5

30

18,2

20

8,9

10

0

Có QHTD với GMD 12 tháng trước điều tra

Không dùng BCS lần QHTD gần nhất

Không thường xuyên dùng BCS 12 tháng trước

Biểu đồ 3.20. Thay đổi hành vi QHTD không an toàn của nam nhiễm với GMD

Phân tích biểu đồ 3.20 cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có QHTD với GMD

12 tháng trước điều tra chỉ giảm nhẹ từ 27,9% xuống 26,5% (CSHQ 5,0%). Các tỷ lệ người

nhiễm HIV/AIDS không dùng BCS trong lần QHTD gần nhất và không thường xuyên dùng

BCS 12 tháng trước có giảm nhiều hơn, tương ứng từ 18,2% xuống 8,9% (CSHQ 51,1%) và

từ 57,1% xuống 42,4% (CSHQ 25,7%). Tuy nhiên, sự thay đổi của các chỉ số này chưa có ý

nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3.18. Thay đổi về hành vi QHTD không an toàn của nam và nữ nhiễm với bạn tình

Trước can thiệp

Sau can thiệp

thường xuyên

(tỷ lệ %)

(Tỷ lệ %)

Chỉ số nghiên cứu CSHQ Giá trị p

(Tỷ lệ %)

Nữ nhiễm HIV (n= 29) (n= 60)

- Không dùng BCS lần 44,8 35,0 21,9 0,371 QHTD gần nhất

- Không thường xuyên 62,1 50,0 19,5 0,284 dùng BCS 12 tháng

trước điều tra

Nam nhiễm HIV (n= 156) (n= 147)

- Không dùng BCS lần 14,7 15,7 - - QHTD gần nhất

- Không thường xuyên 23,7 36,7 - - dùng BCS 12 tháng

trước điều tra

Số liệu ở bảng 3.18 cho thấy đã có sự chuyển biến về hành vi QHTD không an toàn

của nữ nhiễm HIV với bạn tình thường xuyên: tỷ lệ không dùng BCS lần QHTD gần nhất

giảm từ 44,8% xuống 35,0% (CSHQ: 21,9%), tỷ lệ không thường xuyên dùng BCS 12 tháng

trước điều tra giảm từ 62,1% xuống 50,0% (CSHQ: 19,5%). Tuy nhiên, sự thay đổi của các

chỉ số này chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chưa có

sự cải thiện về hành vi tình dục không an toàn của nam nhiễm khi QHTD với bạn tình

thường xuyên, các chỉ số chưa giảm sau can thiệp.

Trước can thiệp

Sau can thiệp

Bảng 3.19. Thay đổi về hành vi sinh con sau nhiễm HIV

(tỷ lệ %)

(tỷ lệ %)

Chỉ số nghiên cứu CSHQ Giá trị p

(n= 175)

(n=247)

(Tỷ lệ %)

Sinh con sau nhiễm HIV 20,0 15,7 21,5 0,262

Dự định sinh con thời 6,9 15,4 - -

gian tới

Phân tích bảng 3.19 cho thấy, sau 4 năm can thiệp, người nhiễm HIV/AIDS đã có sự

thay đổi hành vi nguy cơ khi biết tình trạng bệnh của mình, tỷ lệ sinh con sau nhiễm khi biết

nhiễm HIV đã giảm từ 20,0% xuống còn 15,7% (CSHQ: 21,5%), tuy nhiên sự thay đổi này

chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Đặc biệt, tỷ lệ mong muốn sinh con trong thời gian tới

không giảm sau can thiệp, tăng từ 6,9% lên 15,4%.

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. THỰC TRẠNG TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

4.1.1. Một số đặc điểm của người nhiễm HIV/AIDS

TẠI CỘNG ĐỒNG VÀ HÀNH VI NGUY CƠ TRƯỚC CAN THIỆP

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ người nhiễm HIV ở nhóm 30-39 tuổi phát

hiện hàng năm có xu hướng dịch chuyển tăng khi so sánh nhóm tuổi này trong nghiên cứu

của chúng tôi (48,6%) với kết quả nghiên cứu của Quỹ toàn cầu tại Nghệ An năm 2006

(38,0%) [6] và nghiên cứu của Nguyễn Văn Định năm 2004 cũng tại Nghệ An (23,8%) [38].

Nghiên cứu của Vũ Công Thảo năm 2009 tại 3 PKNT của Nghệ An, Hà Nội và Hồ Chí

Minh cũng cho thấy, nhóm tuổi 30-39 tuổi cũng chiếm cao nhất (54,5%) [75]. Với tỷ lệ

93,7% người nhiễm HIV/AIDS trong nhóm tuổi 20 - 39 tuổi tại nghiên cứu này cho thấy

những tác động xấu về kinh tế và xã hội của đại dịch HIV/AIDS, bởi đối tượng phần lớn

đang ở độ tuổi lao động, là trụ cột kinh tế của gia đình và đang có khả năng cống hiến cho

xã hội.

Về giới tính, nam chiếm chủ yếu trong đối tượng nghiên cứu (82,4%). Tuy nhiên, nữ

giới có xu hướng tăng so với những năm trước đây cũng tại Nghệ An (nghiên cứu cửu QTC

năm 2006: 10,5% [6]; nghiên cứu tại Nghệ An năm 2004: 9,4% [38]). Nghiên cứu năm 2009

tại 3 PKNT của Nghệ An, Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng cho kết quả nữ giới chiếm tới

27,2% [75]. Số liệu thống kê trên toàn quốc và các nghiên cứu cũng cho thấy: lây truyền

HIV chủ yếu vẫn qua đường TCMT; lây nhiễm qua QHTD đang có xu hướng tăng lên, đặc

biệt tại các tỉnh miền Nam; tỷ lệ nam nhiễm HIV giảm dần và tỷ lệ nữ tăng dần tương ứng

tại miền Trung và miền Nam [2], [4], [11], [33], [53]. [60], [101]. Điều này khác biệt với

một số khu vực trên thế giới: tại vùng Cận Sahara, nữ giới chiếm phần lớn các trường hợp

nhiễm và hình thái lây nhiễm chủ yếu tại đây qua con đường tình dục khác giới [132], [133].

Đối với trình độ học vấn, chiến 1/2 người nhiễm HIV/AIDS trong nghiên cứu này

(50%) có trình độ học vấn thấp (từ THCS trở xuống). Kết quả này tương đương khi so sánh

với kết quả nghiên cứu của QTC năm 2006 tại Nghệ An (53,6%), nhưng thấp hơn khu vực

miền Bắc (60,9%) và khu vực miền Trung và miền Nam (83,4%) [6]. Các nghiên cứu trên

thế giới cũng cho thấy có mối liên quan giữa trình độ học vấn thấp và nguy cơ lây nhiễm

HIV/AIDS [132], [133]. Trình độ học vấn thấp ảnh hưởng nhận thức đúng về HIV/AIDS và

hạn chế kỹ năng kiểm soát hành vi nguy cơ lây truyền HIV. Trình độ học vấn, do vậy, được

xem là một trong những cơ sở cho việc thiết kế các thông điệp và kế hoạch can thiệp truyền

thông phòng lây nhiễm và thay đổi hành vi cho đối tượng nguy cơ cao và nhiễm HIV/AIDS.

Mặt khác, về tình trạng hôn nhân, gia đình: 50,3% người nhiễm HIV/AIDS chưa lập

gia đình (độc thân), 13,2% ly dị/góa/ly thân; Tỷ lệ độc thân tại nghiên cứu này thấp hơn so

với kết quả nghiên cứu của QTC năm 2006 tại Nghệ An (63,7%) và tương đương khu vực

miền Bắc (49,1%), nhưng cao hơn khu vực miền Trung và miền Nam (46,7%) [6]. Tại Việt

Nam, người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu nằm trong độ tuổi dưới 30 là đối tượng NCMT hoặc

GMD. Những yếu tố đó làm họ chắc chắn gặp khó khăn trong việc kết hôn hoặc duy trì

hạnh phúc gia đình. Người nhiễm HIV/AIDS chưa lập gia đình, không sống cùng gia đình

(bố, mẹ, vợ/chồng) thường có nhận thức và hành vi tiêu cực hơn so với những người nhiễm

đã có gia đình và sống cùng gia đình. Điều này cho thấy, cần tăng cường các nội dung tư

vấn về an toàn tình dục, vấn đề hôn nhân, sinh con... cho người nhiễm HIV/AIDS trong các

chương trình can thiệp.

Về nghề nghiệp: phần lớn người nhiễm HIV/AIDS trong nghiên cứu (59,4%) không

có việc làm hoặc việc làm không ổn định và chiếm 30,9% là nông dân. Một số nghiên cứu

trong thời gian qua [6], [28], [41], [49], [72] cũng đưa ra những nhận xét tương tự. Không

có việc làm, nghề nghiệp không ổn định hoặc làm nghề nông với mức thu nhập thấp sẽ là

cản trở không nhỏ đối với các hoạt động TVCSHT, do người nhiễm HIV/AIDS khó có điều

4.1.2. Tư vấn xét nghiệm HIV

kiện tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ.

4.1.2.1. Một số đặc điểm tư vấn, xét nghiệm HIVcủa đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cho thấy: có 47,8% đối tượng đã biết tình trạng nhiễm HIV của

mình trong thời gian dưới 5 năm trước thời điểm điều tra. Kết quả này thấp hơn so với kết

quả nghiên cứu của Quỹ toàn cầu năm 2006 tại Nghệ An (62,7%), khu vực miền Bắc

(71,7%), miền Trung và miền Nam (79,0%) [6]. Với tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS sống từ 5

năm trở lên chiếm trên 1/2 tổng số đối tượng điều tra cho thấy, đến năm 2008, các dịch vụ

TVCSHT người nhiễm đã được cải thiện hơn và đã làm tăng tuổi thọ của người nhiễm

HIV/AIDS so với những năm trước đây,

Về nhận thức lý do nhiễm HIV: 73,6% người nhiễm cho rằng lý do nhiễm HIV là do

TCMT. Bên cạnh đó, lây truyền qua QHTD cũng được ghi nhận với tỷ lệ 24,6%. Kết quả

này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Quỹ toàn cầu năm 2006 tại khu vực miền Bắc

(74,8% và 22,7%), nhưng cao hơn ở lý do TCMT và thấp hơn ở lý do qua QHTD so với khu

vực miền Trung và miền Nam (48,7% và 43,1%) [6]. Kết quả này phù hợp với các hình thái

lây truyền HIV tại Việt Nam với sự khác nhau tương đối rõ rệt giữa miền Bắc và miền Nam,

đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [4], [33], [60], [101]. Kết quả nghiên cứu

cũng cho thấy có 17,7% tự nhận nhiễm HIV qua QHTD với bạn tình không mại dâm (bao

gồm cả tình dục vợ/chồng), điều này cũng phù hợp với một thực tế hiện nay đó là người

nhiễm HIV hiện chủ yếu là đối tượng nam giới trẻ tuổi và việc họ lây nhiễm cho vợ và bạn

tình thông qua QHTD là điều mà thời gian tới sẽ có xu hướng gia tăng. Những kết quả trên

cho thấy: hoạt động can thiệp thời gian tới cần tập trung vào phòng lây nhiễm qua TCMT

và QHTD không an toàn trong 2 nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao nhất này.

Về loại hình xét nghiệm: trước nhu cầu được tư vấn và phát hiện sớm người nhiễm

HIV, từ năm 2002 Nghệ An đã triển khai 1 phòng tư vấn, xét nghiệm tự nguyện tại TTYT

dự phòng tỉnh do dự án LIFE - GAP hỗ trợ, từ năm 2004 các hoạt động tư vấn xét nghiệm

được mở rộng do hỗ trợ của dự án Quỹ toàn cầu, đặc biệt là từ năm 2007 sau khi Nghệ An

được đưa vào tỉnh trọng điểm của chương trình PEPFAR thì nhiều phòng tư vấn được triển

khai. Điều này lý giải tỷ lệ xét nghiệm tự nguyện của đối tượng điều tra là khá cao (83,1%).

Mặt khác, nhiều trường hợp được phát hiện dương tính là do khi đi khám chữa bệnh tại các

cơ sở y tế, tại đây nhiều khoa phòng, lĩnh vực vẫn yêu cầu bắt buộc bệnh nhân xét nghiệm

HIV, một số khác phát hiện trong trung tâm 05, 06, trại giam và trại tạm giam cũng tương

tự. Thêm vào đó, vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng,

điều này đã hạn chế những người có hành vi nguy cơ cao tự nguyện đến tư vấn, xét nghiệm.

Theo báo cáo của Cục Phòng chống HIV/AIDS tính đến năm 2006 mới chỉ có 20-30% đối

tượng TCMT tiếp cận được dịch vụ TVXNTN [32].

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: việc tư vấn trước và sau xét nghiệm bước đầu

đã được quan tâm với hầu hết các nội dung cần tư vấn trước và sau xét nghiệm đều có tỷ lệ

khá cao. Nếu so sánh 2 nội dung, tư vấn sau xét nghiệm được quan tâm hơn tư vấn trước xét

nghiệm. Các nội dung thảo luận trong tư vấn trước xét nghiệm tập trung nhiều nhất vào trao

đổi nguy cơ: 92,2%, sau xét nghiệm: chú trọng nhiều nhất là giải thích kết quả (92,8%) và

cách phòng lây truyền (94,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ tư vấn đúng trước xét nghiệm còn thấp

(68,4%) và tư vấn sau đúng sau xét nghiệm chưa cao (81,6%). Người nhiễm HIV/AIDS cần

được tư vấn đầy đủ các nội dung trước xét nghiệm để có sự chuẩn bị tâm lý vững vàng khi

đón nhận các khả năng của kết quả xét nghiệm HIV. Tư vấn sau xét nghiệm đặc biệt quan

trọng nhằm hướng cho đối tượng cách xử trí, đối phó với những khủng hoảng về tâm lý

cũng như giới thiệu những dịch vụ hỗ trợ.

Với tỷ lệ 47,4% HIV dương tính trong số 66,1% bạn tình của đối tượng nhiễm

HIV/AIDS đã được xét nghiệm HIV là một bằng chứng cho mối nguy cơ này. Việc người

nhiễm HIV/AIDS và bạn tình biết được biết tình trạng huyết thanh là một yếu tố quan trọng

giúp dự phòng lây nhiễm HIV hiệu quả. Tuy vậy, tại địa bàn nghiên cứu, việc biết được tình

trạng bệnh dường như chưa tác động mạnh đến việc thay đổi hành vi nguy cơ cao trong đối

tượng nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu tại Thanh Hóa [72] cũng có nhận xét: chưa thấy rõ

mối liên quan giữa tư vấn xét nghiệm với thay đổi hành vi nguy cơ lây truyền HIV của

người nhiễm HIV/AIDS. Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm, tìm lời lý giải để có những

điều chỉnh thích hợp trong việc dự phòng sự lan tràn HIV từ người nhiễm ra cộng đồng

trong thời gian tới.

4.1.2.2. Tư vấn hỗ trợ thường xuyên và tư vấn, xét nghiện bạn tình người nhiễm

Với 10,2% người nhiễm không được tư vấn lần nào hoặc chỉ 1 lần trong năm trước

điều tra và chỉ có 66,1% đối tượng được tư vấn hàng tháng cho thấy: công tác quản lý, theo

dõi và tư vấn hỗ trợ thường xuyên cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều hạn chế. Một điều

dễ nhận thấy: người nhiễm do những khủng hoảng tâm lý sau nhiễm bệnh, những diễn biến

của nhiễm trùng cơ hội, nhu cầu thông tin về sử dụng thuốc điều trị ARV... họ rất cần được

tư vấn hỗ trợ thường xuyên (hàng tháng hoặc thậm chí hàng tuần). Mặt khác, những biện

pháp nhằm thay đổi hành vi nguy cơ lây truyền HIV cho đối tượng này cũng cần vai trò của

hoạt động tư vấn để thường xuyên khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ tâm lý cho họ.

Trong thời gian tới, để cải thiện nội dung cũng như chất lượng tư vấn hỗ trợ thường

xuyên, cần tăng cường, nâng cấp các cơ sở TVXNTN và mạng lưới tư vấn viên tuyến tỉnh,

huyện, đảm bảo đủ về số lượng, có trình độ, đáp ứng nhu cầu tư vấn xét nghiệm cho người

nhiễm HIV/AIDS và đối tượng nguy cơ cao ngày càng lớn tại cộng đồng.

Nghiên cứu cho thấy mới chỉ có 66,1% bạn tình của người nhiễm được xét nghiệm

HIV, trong số xét nghiệm có 47,4% HIV dương tính. Như vậy, TVXNTN cho bạn tình

người nhiễm còn hạn chế. Mặt khác, kết quả nghiên cứu còn cho thấy nguy cơ cao nhiễm

HIV trong bạn tình của đối tượng này. Điều đó đồng nghĩa với việc chưa thấy rõ vai trò của

bạn tình trong các hoạt động TVXNTN cũng như trong việc khuyến khích, hỗ trợ thay đổi

hành vi trong đối tượng nhiễm HIV.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đề cập đến vai trò các cặp bạn tình nhiễm HIV trong

việc giảm hành vi nguy cơ liên quan đến hiệu quả tư TVXNTN và các chương trình can

thiệp khác. Những nghiên cứu ở châu Phi thường xuyên báo cáo về sự liên quan giữa

TVXNTN với giảm hành vi nguy cơ và tỷ lệ chuyển dạng huyết thanh thấp hơn giữa các cặp

có một người đã nhiễm HIV. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra: TVXNTN có tiềm năng dự

phòng tốt cho những cặp có QHTD khác giới và khuyến nghị TVXNTN cho những đối

tượng này cần được thực hành rộng hơn tại châu Phi [124]. Tại Zambia, ngày càng nhiều

người trẻ tuổi yêu cầu được tư vấn, xét nghiệm và tham gia các chương trình dự phòng vì

những lý do khác nhau: chuẩn bị kết hôn (khoảng 20% khách hàng), dự định sinh con hoặc

sau QHTD không được bảo vệ với BTBC [109]. Tại Malawi, 77,0% đối tượng tìm kiếm

dịch vụ TVXNTN do được khuyến khích bởi những người đã biết tình trạng nhiễm của họ.

Tỷ lệ nhiễm HIV trong số này: 31,0% [150].

Nghiên cứu tổng quan từ 34 kết quả nghiên cứu đã xuất bản của 18 nước đang phát

triển cho thấy: bằng chứng về hiệu quả của chương trình TVXNTN có nhiều hứa hẹn và

chương trình này có hiệu quả tốt nhất khi tác động trực tiếp vào các cặp mà một người đã

nhiễm HIV/AIDS [123]. Tại Kenya và Tanzania, một nghiên cứu về chi phí - hiệu quả cho

biết: chi phí cho ngăn ngừa một trường hợp nhiễm là 249 - 348 đô la Mỹ. Can thiệp đạt hiệu

quả về chi phí cao nhất đối với những người nhiễm HIV và những cặp bạn tình/bạn chích

của họ [128]. Nghiên cứu thử nghiệm cộng đồng ngẫu nhiên có đối chứng ở Kenya và

Tanzania cũng cho thấy: những cặp bạn tình mà trong đó có một hoặc cả hai người nhiễm

HIV giảm rõ ràng các QHTD không được bảo vệ hơn những cặp mà cả hai đều chưa nhiễm.

Những kết quả này cho thấy hiệu quả của các dịch vụ TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS

trong nâng cao thay đổi hành vi [129].

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy: hoạt động TVXNTN tại Nghệ An chưa đảm

bảo chất lượng và còn hạn chế. Các nghiên cứu cho thấy, Việt Nam có một khoảng cách

nhất định so với các nước trên thế giới trong công tác này. Tại Mỹ: hoạt động TVXNTN

được triển khai ở phạm vi khá rộng trên tất cả các bang, các thành phố và các hạt [108],

[126]. Hoạt động này không những được triển khai tại các trung tâm xét nghiệm và tư vấn

riêng, mà còn được lồng ghép vào các chương trình quốc gia như chương trình cai nghiện,

chương trình dự phòng lây truyền mẹ - con ở phụ nữ có thai... trong việc tổ chức xét

nghiệm, dịch vụ y tế công cộng ở Mỹ đã áp dụng kỹ thuật xét nghiệm nhanh (trả lời tại chỗ

sau 10 - 15 phút) để khắc phục nhược điểm về thời gian của các kỹ thuật khác (có thể làm

mất trên 70% số lượng người đến tư vấn). Tại Thái Lan: TVXNTN là nội dung quan trọng

trong 5 nội dung thiết lập và nâng cao mạng lưới chăm sóc y tế quốc gia. Hoạt động tư vấn

được đưa vào chính quy và triển khai từ tỉnh/thành đến xã/phường [1]. Tại Nam Phi nhiều

nghiên cứu phân tích về chi phí - hiệu quả, so sánh giữa các chương trình phòng lây nhiễm

HIV đã chỉ ra: tư vấn là chiến lược chi phí hiệu quả nhất trong các chiến lược dự phòng lây

nhiễm HIV [148]. Như vậy, hoạt động TVXNTN của Việt Nam trong thời gian tới là nội

4.1.3. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS

dung cần được đẩy mạnh nhằm theo kịp tiến trình của thế giới và khu vực.

4.1.3.1. Chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng của người nhiễm HIV/AIDS

Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc thực hiện chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng của

người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều hạn chế. Do điều kiện kinh tế và sự hiểu biết chưa đầy

đủ nên đối tượng ăn uống thất thường, hoặc thường xuyên bỏ bữa do TCMT. Đối tượng sau

khi biết nhiễm HIV vẫn thường xuyên uống nước lã, nước đá, ăn rau sống và thức ăn còn lại

của bữa trước (không đun lại). Đây là những hành vi rất bất lợi cho sức khỏe của người

nhiễm HIV/AIDS.

Chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng là vấn đề cần đặc biệt quan tâm đối với người

nhiễm HIV/AIDS. Dinh dưỡng và HIV/AIDS có mối liên quan mật thiết với nhau. Bất kỳ

một suy giảm miễn dịch do HIV/AIDS nào cũng dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng. Ở hầu

hết những người nhiễm HIV, đặc biệt là bệnh nhân AIDS đều có tình trạng sút cân và suy

mòn cơ thể. Suy dinh dưỡng có thể vừa đóng góp nhưng đồng thời cũng là kết quả của sự

tiến triển HIV/AIDS [50], [106], thêm vào đó, tại Việt Nam và một số quốc gia khác, phần

lớn những người nhiễm HIV/AIDS là đối tượng nghiện ma túy -những người cũng thường

có những rối loạn về chuyển hóa dinh dưỡng. Như vậy, một chế độ dinh dưỡng tốt sẽ hạn

chế tình trạng rối loạn này ở những người nhiễm HIV/AIDS. Hơn nữa, một khẩu phần ăn

hợp lý giàu protein, vitamin và an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ giúp cơ thể người nhiễm HIV

duy trì khả năng miễn dịch đang ngày một suy yếu. Trái lại, nếu chế độ dinh dưỡng không

hợp lý và không hợp vệ sinh sẽ gây nên tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, dẫn đến tiêu

chảy và những rối loạn nặng nề khác cho bệnh nhân [52], [64].

Các nghiên cứu và thực tiễn cho thấy: cách phòng bệnh hiệu quả nhất là giữ gìn sức

khỏe, nâng cao sức đề kháng của cơ thể. Dinh dưỡng giữ vai trò rất quan trọng trong việc

phòng và điều trị bệnh, đặc biệt đối với người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS. Người nhiễm

HIV/AIDS nên ăn nhiều bữa với thức ăn được nấu nhừ, mỗi bữa ăn vừa đủ (cả số lượng và

chất lượng); cần uống nhiều nước sạch, bổ dưỡng để tránh mất nước và tăng cường sức

khỏe. Khẩu phần ăn hàng ngày của người nhiễm HIV/AIDS cần đầy đủ và cân đối giữa thức

ăn bổ dưỡng chứa nhiều đạm, sắt, can xi: các loại đậu (đậu nành, đậu phụ, đậu tương và các

loại hạt khác), trứng, thịt, cá, sữa; với các loại thức ăn cung cấp nhiều năng lượng: ngũ cốc,

các loại khoai, củ, đường; và các loại thức ăn nhiều vitamin để tăng cường sức đề kháng:

các loại trái cây, rau quả.... [52], [145].

Để thực hiện vệ sinh dinh dưỡng cho người nhiễm HIV/AIDS (cũng như mọi người

khác), Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo: sử dụng nước và thực phẩm sạch; dùng riêng dụng

cụ chế biến thức ăn sống và chín; chỉ dùng các loại thức ăn vừa nấu và không bị ô nhiễm;

không ăn thực phẩm sống hoặc nấu chưa chín (tái), nhất là thức ăn bổ dưỡng giàu đạm; rửa

rau, quả kỹ bằng nước sạch và ngâm trong dung dịch sát trùng (nước muối, thuốc tím...);

đậy kín thực phẩm tránh ruồi, muỗi; giữ thực phẩm đúng cách, tránh ôi thiu; cẩn thận với

những thức ăn để ngoài tủ lạnh quá 12 giờ; chỉ dùng thức ăn cũ (bữa trước) sau khi đã đun

lại ở nhiệt độ cao [52], [145].

Một số nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến vấn đề chăm sóc dinh dưỡng cho

người nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu tại Rajasthan - Ấn Độ, nơi mà suy dinh dưỡng chiếm

khoảng 50% dân cư, cho kết quả: HIV/AIDS đã làm tăng tỷ lệ và sự trầm trọng của tình

trạng suy dinh dưỡng tại địa phương này. Suy dinh dưỡng ở nam nhiễm cao hơn nữ nhiễm

với các tỷ lệ tương ứng 74,0% và 68,0%, nông thôn cao hơn thành thị với các tỷ lệ tương

ứng 76,0% và 69,0%, giai đoạn 2,3 và 4 (theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới) cao hơn

giai đoạn 1 với các tỷ lệ tương ứng 74,0% và 56,0%. Như vậy, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở người

nhiễm HIV cao hơn so với nhóm dân cư khác và tỷ lệ suy dinh dưỡng cao ở những người

nhiễm HIV/AIDS có thể làm giảm tuổi thọ, chất lượng sống cũng như đáp ứng lâm sàng

trong những đối tượng này [127].

Một nghiên cứu khác tại Jakarta, Indonesia [122], thử nghiệm lâm sàng can thiệp

dinh dưỡng cho 20 người nhiễm HIV và 7 bệnh nhân AIDS với những thực đơn đặc biệt dựa

trên cơ sở bổ sung các vi chất dinh dưỡng, chống oxy hóa và điều chỉnh hàm lượng calo phù

hợp đã làm chậm tiến triển của bệnh AIDS. Nghiên cứu đưa ra kết luận: tình trạng dinh

dưỡng của những người nhiễm HIV/AIDS có vai trò quan trọng đối với tình trạng sống còn

của người bệnh. Suy chức năng chuyển hóa, đặc biệt việc thiếu các yếu tố vi lượng sẽ làm

tiên lượng xấu đối với bệnh nhân. Vấn đề chăm sóc dinh dưỡng có thể được sử dụng như

một biện pháp điều trị và quản lý người nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu tại Ghana [105]

cũng cho những nhận xét tương tự. Nghiên cứu khác tại vùng Cận Sahara châu Phi [106]

đưa ra khuyến nghị rằng: việc can thiệp sớm nhằm tăng năng lượng và protein cho người

nhiễm HIV/AIDS sẽ giúp họ tăng nguồn dự trữ và giảm tình trạng dễ bị sụt cân liên quan

đến tiêu chảy và các nhiễm trùng cơ hội khác. Sự bổ sung các vi chất dinh dưỡng sẽ giúp

tăng cường hệ thống miễn dịch, giảm những hậu quả bất lợi do hoạt độ quá sức của hệ thống

oxy hóa liên quan tới nhiễm trùng và kéo dài sự sống của bệnh nhân, giúp duy trì sức khỏe

và tăng cường chất lượng sống cho họ.

4.1.3.2. Sự quan tâm và hỗ trợ của gia đình đối với người nhiễm HIV/AIDS

Về nhận thức, sự quan tâm và hỗ trợ của gia đình người nhiễm được đánh giá có vai

trò rất quan trọng. Người nhiễm HIV/AIDS dù có hay chưa có biểu hiện triệu chứng của

NTCH đều rất cần sự chăm sóc tại nhà của gia đình và người thân. Bên cạnh việc sợ bệnh,

người nhiễm luôn có tình trạng khủng hoảng, sợ bị phân biệt đối xử, lo lắng, buồn rầu... Do

vậy, những quan tâm, chăm sóc từ gia đình trở nên rất quan trọng. Hơn ai hết, các thành

viên trong gia đình có thể hiểu thấu đáo tâm tư, nguyện vọng của người nhiễm HIV/AIDS.

Được chăm sóc tại nhà, người nhiễm sẽ được động viên, hỗ trợ về mặt tinh thần, dinh

dưỡng. Điều này sẽ cải thiện cuộc sống của họ, giúp họ sống lành mạnh hơn, có ý nghĩa hơn

và đặc biệt tạo động lực giúp họ thay đổi hành vi nguy cơ, góp phần ngăn chặn sự lây lan

của dịch HIV/AIDS. Mặt khác, thực hiện chăm sóc tại gia đình còn là một trong những

chiến lược quan trọng đối với việc hỗ trợ và chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV. Ngoài

ra, chăm sóc tại nhà còn làm giảm chi phí gia đình, giảm gánh nặng cho hệ thống bệnh viện

và các cơ sở y tế.

Thực tế trong nghiên cứu này: tỷ lệ 2,7% người nhiễm bị gia đình ruồng bỏ, xa lánh.

Điều này có thể giải thích, do phần lớn người nhiễm HIV là đối tượng nghiện ma túy.

Nghiện ma túy là một tình trạng khó che dấu và đây là một tệ nạn mà xã hội lên án. Mặt

khác, những đối tượng này thường làm cho kinh tế gia đình khánh kiệt. Nhiều đối tượng để

có tiền TCMT đã lừa đảo, trộm cắp trong chính những người thân, trong gia đình mình.

Điều này cho thấy, dường như những đối tượng nhiễm HIV không do TCMT dễ được gia

đình chấp nhận hơn, đặc biệt là với những người nhiễm HIV mà nguyên nhân là do hậu quả

của sự truyền từ vợ/chồng họ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ người nhiễm bị gia

đình ruồng bỏ, xa lánh xấp xỉ nghiên cứu của Quỹ toàn cầu năm 2006 tại khu vực miền Bắc

(1,8%) và khu vực miền Trung và miền Nam (3,1%) [6]. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu

nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với những đánh giá trong điều tra của Ngân

hàng Phát triển châu Á và Ngân hàng Thế giới năm 2002 [17], [21]. Điều này cho thấy, với

việc đáp ứng mạnh mẽ của các chương trình phòng chống HIV/AIDS, trong đó có vai trò

của truyền thông kiến thức về lây nhiễm HIV, về luật pháp... thì sự ruồng bỏ, xa lánh của

gia đình đối với người nhiễm HIV ngày càng giảm đi.

Kết quả trong nghiên cứu này còn chỉ ra: tỷ lệ đối tượng được chăm sóc tại nhà khi

ốm đau khá cao (98,0%) tương nghiên cứu của Quỹ toàn cầu năm 2006 tại khu vực miền

Bắc (97,8%) và cao hơn so với khu vực miền Trung và miền Nam (95,8%) [6] và cũng cao

hơn nhiều nghiên cứu tại Nghệ An năm 2004 (88,6%) [38]. Người chăm sóc sức khỏe

thường xuyên khi đối tượng ốm đau chủ yếu là bố, mẹ (66,2%) và vợ/chồng/con cái

(30,4%). Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu gần đây tại Việt Nam [6], [17], [21],

[72]. Các điều tra trên thế giới cũng cho biết vai trò quan trọng của gia đình đối với người

nhiễm HIV. Một nghiên cứu tại Trung Quốc [118] cho thấy: sự hỗ trợ của gia đình đóng vai

trò rất quan trọng với người nhiễm trong việc bộc lộ tình trạng bệnh, điều trị và chăm sóc,

ổn định tâm lý, cũng như giảm kỳ thị, phân biệt đối xử liên quan đến HIV. Do niềm tin

mạnh mẽ vào giá trị của gia đình, phần lớn những người cung cấp dịch vụ tại Trung Quốc

đã thông báo về tình trạng của người nhiễm cho gia đình trước tiên. Sau đó gia đình có trách

nhiệm thông báo tình trạng này với người nhiễm. Những thành viên trong gia đình không

những tiến hành các chăm sóc cơ bản và hỗ trợ tâm lý hàng ngày, mà ở hầu hết các trường

hợp, gia đình còn là nguồn hỗ trợ tài chính cơ bản cho người nhiễm và con cái họ. Chất

lượng cuộc sống của người nhiễm và các thành viên trong gia đình phụ thuộc vào cách họ

giải quyết với sự khủng hoảng và sự kỳ thị, với các khó khăn về tài chính, với vấn đề chăm

sóc, điều trị...

Để chăm sóc người nhiễm, các thành viên gia đình thường sử dụng vốn kiến thức

chung, sẵn có. Tại nghiên cứu này, chỉ có 61,2% người nhà chăm sóc cho đối tượng được

tập huấn về TVCSHT cho người nhiễm HIV/AIDS tại nhà. Nghiên cứu tại Thái Nguyên

[125] nhằm đánh giá hiệu quả của việc tập huấn cho gia đình người nhiễm cho kết quả: sau

tập huấn, những thành viên trong gia đình không còn lo lắng và lúng túng khi chăm sóc

HIV/AIDS. Họ biết cách phòng lây nhiễm HIV cho bản thân và người xung quanh. Nhờ

vậy, những người nhiễm cũng giảm lo lắng và cảm giác tự ti, điều đó giúp họ sống tự tin,

khỏe mạnh và có ích hơn (sống tích cực). Như vậy, kiến thức được cải thiện sẽ giúp cho các

thành viên trong gia đình người nhiễm và cộng đồng giảm được sự kỳ thị và phân biệt đối

xử.

4.1.3.3. Sự quan tâm và hỗ trợ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS

Cũng như gia đình, sự quan tâm và hỗ trợ của cộng đồng với người nhiễm HIV/AIDS

còn hạn chế. Mặc dù vậy, so với những năm trước đây, sự quan tâm và hỗ trợ của cộng đồng

đối với người nhiễm nhiễm HIV đã được cải thiện một bước. Điều này cho thấy, trong thời

gian qua, công tác tuyên truyền được triển khai rộng rãi với nhiều nội dung và hình thức

phong phú, đã làm thay đổi cách nhìn nhận của cộng đồng về căn bệnh HIV/AIDS. Mặt

khác, hệ thống pháp luật cũng đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật như Luật, Pháp lệnh

và Nghị định...tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS đạt hiệu

quả tốt hơn [26], [68], [94]. Trong nghiên cứu này, có 4,5% đối tượng cho rằng cộng đồng

đang ruồng bỏ xa lánh họ. Sự kỳ thị, xa lánh, ruồng bỏ của cộng đồng có liên quan đến một

số vấn đề: sợ lây nhiễm qua tiếp xúc thông thường; sợ bị phiền hà, ảnh hưởng về uy tín, tinh

thần và vật chất; tình trạng vẫn sử dụng ma túy và hành nghề mại dâm của người nhiễm

HIV/AIDS...

Tỷ lệ đối tượng bị cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh (4,5%) ở nghiên cứu này cao hơn so

với nghiên cứu năm 2006 tại khu vực miền Bắc (3,2%) và tương đương khu vực miền Nam

(4,6%). Tỷ lệ này cũng cao hơn nghiên cứu năm 2006 tại Nghệ An (1,0%) [6]. Điều này cho

thấy, mặc dù trong thời gian qua công tác tư vấn, truyền thông đã được tăng cường, các dịch

vụ chăm sóc, hỗ trợ và điều trị người nhiễm đã triển khai rộng khắp với nhiều nội dung và

hình thức phong phú đã làm chuyển đổi nhìn nhận của đại bộ phận cộng đồng về căn bệnh

HIV/AIDS, nhưng để tiến tới xoá bỏ sự xa lánh, ruồng bỏ của cộng đồng đối với người

nhiễm HIV/AIDS đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa và phải có sự phối hợp của các cấp, các

ngành và đặc biệt là các tổ chức đoàn thể xã hội.

Kỳ thị với người nhiễm HIV/AIDS là thái độ coi thường, làm mất thể diện hay không

tôn trọng người đó vì biết họ bị nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm HIV/AIDS. Kỳ thị có thể do

các cá nhân, bạn bè, gia đình, cộng đồng và các cán bộ y tế, thậm chí từ phía chính quyền

gây ra với người nhiễm HIV/AIDS. Các quy định, chính sách, thủ tục hành chính chưa phù

hợp cũng có thể là nguyên nhân gây ra kỳ thị. Kỳ thị còn do chính người nhiễm gây ra (tự

kỳ thị), vì cảm thấy mình không được những người xung quanh chấp nhận hay mặc cảm với

hoàn cảnh của mình. Phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS là bất kỳ một hành vi

hoặc hành động xa lánh, thiếu tôn trọng, phân biệt, trừng phạt, phỉ báng và hạn chế quyền

của người nhiễm HIV/AIDS [39], [52], [69]. Như vậy, nguyên nhân của vấn đề kỳ thị và

phân biệt đối xử giữa những người nhiễm HIV/AIDS với gia đình, cộng đồng được xuất

phát từ cả hai phía: người nhiễm HIV/AIDS và gia đình, cộng đồng. Một thực tế là, khoảng

2/3 số người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam thuộc các đối tượng TCMT, GMD, hoặc tham

gia vào các tệ nạn xã hội khác... Đây là những đối tượng bị xã hội lên án, do đó họ đã có sự

mặc cảm, tự kỳ thị với gia đình và cộng đồng. Sau khi bị nhiễm HIV/AIDS, sự mặc cảm đó

của bản thân đối với gia đình và cộng đồng càng tăng lên. Về phía gia đình và cộng đồng,

vốn đã có sự mặc cảm và xa lánh nhất định đối với những người mắc các tệ nạn xã hội, nay

họ lại nhiễm HIV, một căn bệnh có thể lây truyền và chưa điều trị khỏi được, do vậy xuất

hiện sự phân biệt đối xử của cộng đồng với người nhiễm HIV/AIDS là điều dễ hiểu.

Trong số 35,7% đối tượng nhận được sự chăm sóc hỗ trợ của cộng đồng, có 79,9%

đối tượng đã nhận được sự hỗ trợ và chăm sóc trong 6 tháng trước điều tra từ y tế các cấp,

các đoàn thể xã hội và đồng đẳng viên. Xét về thành phần tham gia chăm sóc, hỗ trợ người

nhiễm HIV/AIDS, cán bộ y tế phường/xã có nhiều hoạt động nhất (97,4%), tiếp đến cán bộ

y tế huyện (60,7%), chính quyền và các tổ chức đoàn thể có vai trò hạn chế hơn (50,9%),

17,2% được hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ. Các hình thức hỗ trợ và chăm sóc chủ yếu

mới dừng ở mức độ tư vấn, an ủi, động viên tinh thần, một tỷ lệ nhỏ được hỗ trợ về vật chất

và việc làm. Các hỗ trợ từ đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội chữ thập đỏ rất hạn chế và chỉ

dừng lại ở hình thức an ủi, động viên. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Ngân hàng Phát

triển châu Á và Ngân hàng Thế giới năm 2002 [17], [21] và cao hơn nhiều nghiên cứu tại

Nghệ An năm 2004 (tại nghiên cứu này chỉ có 10% nhận được chăm sóc hỗ trợ của cộng

đồng 6 tháng qua) [38]. Trong thười gian tới, để tăng cường các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ

người nhiễm HIV/AIDS cần đẩy mạnh công tác vận động, kêu gọi các tổ chức xã hội, tổ

chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ, các nhóm cộng đồng, cùng gia đình người nhiễm tham

gia vào các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Các nội dung hỗ trợ cũng

cần kết hợp lồng ghép, như chăm sóc y tế, cai nghiện, hỗ trợ giảm tác hại; hỗ trợ tiền, vật

4.1.4. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS

chất; hỗ trợ đào tạo nghề, tìm việc làm cho người nhiễm HIV/AIDS và gia đình của họ [79].

4.1.4.1. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc điều trị

Việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc, điều trị của người nhiễm HIV/AIDS còn

nhiều bất cập. Trong nghiên cứu này, chỉ có 26,5% người nhiễm HIV/AIDS được điều trị

ARV và chỉ có 37,5% nhận được điều trị dự phòng Cotrimoxazole và 40% đối tượng nhận

được thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội. Thực tế đến năm 2004, tại hầu hết các tỉnh/thành

phố chưa có nguồn thuốc hay kinh phí nào để điều trị đặc hiệu cho người nhiễm HIV/AIDS,

mặt khác người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu là đối tượng nghèo, nên không có khả năng mua

những thuốc này. Do đó, tỷ lệ được điều trị đặc hiệu HIV trong nghiên cứu này (26,5%), cao

hơn trong nghiên cứu năm 2006 của Dự án Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ

An (6,1%), tại Miền Bắc (12,7) và tại miền Nam (17,5%) [6] là phù hợp với bối cảnh thực tế

của những năm đầu của chương trình điều trị ARV.

Tại Nghệ An, đợt điều trị ARV đầu tiên vào tháng 10/2006 từ nguồn thuốc của

Chương trình mục tiêu quốc gia. Đầu năm 2007 các PKNT của dự án Quỹ toàn cầu mới bắt

tiếp nhận bệnh nhân. Đến tháng 10/2007 sau khi Nghệ An được phê duyệt là tỉnh trọng điểm

thứ 7 của cả nước về chương trình PEPFAR và từ đầu năm 2008 số bệnh được tham gia điều

trị tăng lên nhờ nguồn thuốc ARV của chương trình này. Tính đến tháng 12/2008, tại Nghệ

An có 5 cở sở điều trị nhiễm HIV/AIDS, gồm 4 PKNT người lớn và 1 PKNT trẻ em, với số

bệnh nhân điều trị ARV toàn tỉnh mới chỉ dừng ở con số 350 người. Đây là tỷ lệ còn ở mức

thấp và thể hiện các nhà lập kế hoạch cho phòng chống HIV/AIDS tại Nghệ An cần có

những chính sách hợp lý để nâng cao độ bao phủ của chương trình [82].

Công tác điều trị đồng nhiễm Lao và HIV/AIDS cũng chưa tốt. Tại nghiên cứu này,

mới chỉ có 34,7% đối tượng được chụp X - Quang để phát hiện lao, tỷ lệ được chẩn đoán

mắc Lao là khá cao (12,2%), tuy vậy chỉ có 85,7% số người được chẩn đoán mắc Lao nhận

được thuốc điều trị Lao miễn phí. Cũng giống các BLTQĐTD, nhiễm Lao và lây nhiễm

HIV/AIDS có mối quan hệ thúc đẩy mật thiết. Trong một quần thể, đồng nhiễm Lao/HIV có

tác động bùng nổ. Người nhiễm Lao vừa nhiễm HIV sẽ chuyển thành bệnh Lao cao gấp 30-

50 lần so với tỷ lệ Lao đơn thuần. Ngược lại, nhiễm HIV vừa bị mắc Lao: sẽ phát triển tình

trạng nhiễm HIV thành bệnh AIDS nhanh hơn bình thường. Như vậy, Lao và HIV là hai

bệnh dịch có liên quan mật thiết và tác động lẫn nhau làm tăng tỷ lệ bệnh nặng và tử vong

cho người nhiễm HIV/AIDS. HIV làm cho Lao gia tăng nhiều, nhanh và dễ bị kháng thuốc.

Lao làm cho nhiễm HIV tiến triển nhanh đến AIDS, dẫn đến tử vong sớm. Trên toàn cầu,

Lao là bệnh NTCH hàng đầu ở người nhiễm HIV/AIDS [40], [44]. Tại Việt Nam, Tổ chức

Y tế thế giới ước tính có khoảng 148.000 bệnh nhân Lao (năm 2000), với tỷ lệ mắc: 189 ca

bệnh/100.000 dân [38]. Tính đến năm 2012, Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số bệnh

nhân Lao cao nhất thế giới, với khoảng 180.000 bệnh nhân Lao có thêm hàng năm, trong đó

7.400 bệnh nhân HIV/Lao [29], [144]. Nghiên cứu của Phạm Thọ Dược trên nhóm NCMT

tại Đắk Lắk năm 2011 cũng cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV chiếm 12,8%, trong đó tỷ lệ đồng

nhiễm HIV/AIDS chiếm 2,7% [36]. Với sự hỗ trợ của chương trình chống Lao quốc gia, các

hoạt động nhằm phát hiện, kiểm soát, dự phòng đồng nhiễm Lao/HIV đã được triển khai.

Tuy vậy, do những khó khăn về tài chính và nhân lực, các hoạt động này chưa được tiến

hành đồng bộ tại các tỉnh/thành trên toàn quốc.

4.1.4.2. Tiếp cận dịch vụ hỗ trợ

Cũng như tiếp cận dịch vụ chăm sóc điều trị, tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ của người

nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam đến thời điểm nghiên cứu còn khó khăn. Người nhiễm trong

6 tháng trước thời điểm điều tra mới nhận được chủ yếu là tài liệu truyền thông. Các hỗ trợ

thực tế như nhận BCS, BKT; được giới thiệu khám điều trị các BLTQĐTD, được hỗ trợ

đồng đẳng và được sinh hoạt câu lạc bộ còn rất hạn chế. Theo báo cáo của cục phòng chống

HIV/AIDS Việt Nam: mặc dù can thiệp giảm tác hại đã được xác định là một trong những

lĩnh vực trọng tâm của chiến lược phòng chống AIDS Quốc gia, nhưng đến nay vẫn chưa

được triển khai trên diện rộng do thiếu nguồn lực và một số nơi là sự đồng thuận chưa cao,

đặc biệt là chương trình phân phát BKT sạch [70], [71], [74], [104]. Độ bao phủ của chương

trình cung cấp BKT hạn chế, kết quả một cuộc điều tra cho thấy: 97,0% đối tượng TCMT

tại Hà Nội và Đà Nẵng, 88,0% tại Quảng Ninh và Cần Thơ không nhận được BKT miễn phí

trong 6 tháng trước điều tra [32].

Trên thế giới, những can thiệp cho người nhiễm HIV/AIDS và các nhóm nguy cơ cao

được nhiều nước áp dụng hiệu quả như: chương trình giảm tác hại, chương trình trao đổi

BKT, chương trình tiếp thị BCS [56], [80]. Báo cáo tổng hợp từ 23 nghiên cứu trên 18.144

người sử dụng ma túy (13.164 người TCMT và 4.980 không tiêm chích) cho thấy: từ 3 - 6

tháng sau khi tham gia chương trình can thiệp giảm tác hại, 72,0% trong số những người

tiêm chích đã ngừng hoặc giảm tần suất sử dụng. Gần 25% đối tượng tham gia cai nghiện

ma túy. Trong số những người còn tiêm chích, gần 60% đã dừng hoặc giảm dùng chung

BKT [20].

Biện pháp phát BKT sạch miễn phí nhằm làm giảm nguy cơ lây truyền HIV qua

đường máu, do giảm tối thiểu việc dùng chung BKT và dụng cụ tiêm chích trong các đối

tượng TCMT, GMD có TCMT hoặc người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn TCMT là rất cần

thiết. Chương trình phát BKT sạch không thể ngăn hoặc làm giảm hành vi tiêm chích nhưng

nó làm ngăn cản sự lây truyền HIV cũng như một số bệnh truyền nhiễm khác qua đường

máu: viêm gan B và C [97]. Tại 103 thành phố của Australia, theo những dữ liệu được phân

tích về chương trình cung cấp BKT sạch: đến năm 2000, đã dự phòng cho khoảng 25.000

trường hợp khỏi nhiễm HIV, 21.000 trường hợp khỏi nhiễm viêm gan B [3]. Nghiên cứu của

Hurley, Jolley và Kaldor năm 1997, so sánh tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong những người TCMT

tại 81 thành phố ở Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á và Nam Thái Bình Dương cho thấy: trong 52

thành phố không có chương trình trao đổi BKT, tỷ lệ hiện nhiễm HIV tăng trung bình hàng

năm 5,9%, trong khi đó mức này giảm với tỷ lệ tương ứng 5,8% ở 29 thành phố khác có

chương trình trao đổi BKT [3]. Một nghiên cứu khác tại thành phố New York: chương trình

cung cấp BKT vô trùng đã làm giảm 70% tỷ lệ mới nhiễm HIV [111]. Tuy nhiên, cản trở về

chính sách đối với chương trình trao đổi BKT vẫn còn khá lớn tại Mỹ, chương trình trao đổi

BKT khó thực hiện và phân phối BKT thường là không hợp pháp [71]. Tại Việt Nam, sự gia

tăng về tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong đối tượng TCMT những năm qua thể hiện hiệu quả chưa

cao của hoạt động cung cấp BKT sạch. Số BKT cung cấp chưa đủ để khuyến khích và duy

trì sự thay đổi hành vi [30]. Trong nghiên cứu này, chỉ có 48,1% đối tượng được nhận BKT

trong 6 tháng trước điều tra.

Chương trình tiếp thị xã hội BCS cũng được nhiều nước triển khai. Mục tiêu của

chương trình là phòng và giảm lây nhiễm HIV qua đường tình dục. Người ta ước tính: nếu 1

triệu BCS được bán và sử dụng trên thị trường thì đã dự phòng cho 30 - 50 trường hợp khỏi

lây nhiễm HIV/AIDS. Chương trình khuyến khích sử dụng BCS được nhiều nước áp dụng

và chứng minh là có kết quả tốt [146], [147]. Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan và

Campuhia là 2 nước đã thực hiện chương trình khuyến khích sử dụng BCS thành công. Tại

Thái Lan, song song với với việc tăng sử dụng BCS ở GMD là giảm đáng kể tỷ lệ mắc các

BLTQĐTD và nhiễm HIV ở nhóm GMD. Tại Campuhia, chương trình can thiệp đã làm

tăng tỷ lệ sử dụng BCS của nhóm GMD: từ 15,7% lên đến 90,0%, kết quả làm giảm tỷ lệ

nhiễm HIV trong nhóm GMD: từ 42,0% xuống 29,0% trong những năm 1998-2002 [120],

[146]. Tại Việt Nam, BCS dường như chưa được chấp nhận một cách rộng rải như một biện

pháp đề phòng lây nhiễm HIV trong nhóm người có hành vi nguy cơ cao. Những nhà hàng,

khách sạn có sẵn BCS cho khách làng chơi có nhu cầu có thể bị coi là chứa chấp mại dâm

và người hành nghề mại dâm có mang BCS trong người có thể coi là bằng chứng hoạt động

mại dâm. Các chủ hàng bán lẻ tạp phẩm hoặc các chủ hàng ăn uống, quán bar, Karaoke....từ

chối bán bao cao su vì sợ bị kết tội dính líu tệ nạn xã hội. Dù vậy, nếu so với phát/trao đổi

BKT, chương trình tiếp thị BCS được đánh giá có hiệu quả cao hơn. Điều đó thể hiện trong

việc cho phép đưa các thông diệp về BCS lên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là

quảng cáo BCS trên truyền hình [1], [30]. Tại nghiên cứu này, có 62,8% đối tượng nhận

được BCS trong 6 tháng trước điều tra.

Về mặt lý thuyết, người mắc BLTQĐTD có khả năng bị nhiễm HIV cao hơn người

bình thường 2 - 9 lần [63]. Hơn nữa, BLTQĐTD là một chỉ số quan trọng về sự lây truyền

HIV vì cả hai bệnh có nhiều điểm chung trong cơ chế bệnh nguyên và bệnh sinh. Ngoài ra,

BLTQĐTD phản ánh được hành vi nguy cơ gần nhất tương đối chính xác hơn dữ liệu về tỷ

lệ hiện nhiễm HIV bởi vì BLTQĐTD tồn tại trong khoảng thời gian tương đối ngắn [25]. Do

vậy, phát hiện và điều trị sớm BLTQĐTD có ý nghĩa không chỉ làm hạn chế lây nhiễm HIV

qua đường tình dục mà còn có ý nghĩa trong quản lý, giám sát tình trạng nhiễm HIV/AIDS

trong một quần thể dân cư nhất định. Tuy nhiên hiện nay, có tới 90% số bệnh nhân mắc

BLTQĐTD khám và chữa bệnh tại các hiệu thuốc, các cơ sở y tế tư nhân, trong khi các cơ

sở này không có điều kiện xét nghiệm HIV. Trong nghiên cứu này, chỉ có 2,7% người

nhiễm HIV/AIDS được giới thiệu khám, điều trị BLTQĐTD là rất thấp.

Như vậy, với những kết quả thu được trong nghiên cứu mô tả thực trạng, có thể đánh

giá: hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở Nghệ An năm 2008 là

chưa đạt yêu cầu đòi hỏi. Cần triển khai các hoạt động can thiệp về lĩnh vực này là vấn đề

sức khỏe cấp thiết và đòi hỏi phải được ưu tiên.

4.1.5. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS

4.1.5.1. Tiêm chích ma túy không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, 79,0% người nhiễm đã từng sử dụng ma túy, hầu hết sử

dụng ma túy dạng tiêm chích (78,4% đối tượng điều tra). Một nghiên cứu tại Hà Nội cho

biết, sau khi hút hít một thời gian hầu hết người nghiện đã chuyển sang tiêm chích để đáp

ứng với sự quen thuốc và nhu cầu tăng liều [97]. Nghệ An là một trong những điểm nóng

của cả nước về buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng ma túy trái phép, số người

NCMT có hồ sơ quản lý toàn tỉnh rất cao (5.000 người vào cuối năm 2008) [92]. Theo số

liệu giám sát trọng điểm năm 2007, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS thuộc đối tượng nghiện

ma túy tại Nghệ An rất cao (28,3%) [85].

Một vấn đề đáng lo ngại là: 67,1% đối tượng nghiên cứu vẫn tiếp tục TCMT trong

tháng trước điều tra với tần suất người nhiễm HIV/AIDS sử dụng chung BKT cao: 24,4%.

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có TCMT trong tháng qua ở nghiên cứu này cao hơn nghiên

cứu của Dự án Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS năm 2006 tại Nghệ An (60,2%) và

khu vực miền Nam (34,0%), nhưng thấp hơn khu vực miền Bắc (71,0%) [6]. Trong nghiên

cứu này, tỷ lệ dùng lại BKT của người khác (22,9%) và đưa BKT đã sử dụng cho người

khác dùng (12,2%), thấp hơn nghiên cứu của Dự án Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS

năm 2006 tại Nghệ An (dùng lại BKT 26,8%, đưa BKT 15,0%), khu vực miền Bắc (dùng lại

BKT 23,7%, đưa BKT 19,3%) và khu vực miền Trung và miền Nam (dùng lại BKT 34,5%,

đưa BKT 25,6%) [6]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này có tới 26,2% người nhiễm HIV

(trong số có TCMT tháng trước điều tra) vừa TCMT dùng chung BKT lại vừa có QHTD với

GMD trong tháng trước điều tra. Các số liệu trên cho thấy mức độ nguy hiểm của đại dịch

HIV/AIDS không chỉ thể hiện ở tình trạng lây truyền HIV từ người nhiễm ra cộng đồng mà

còn ở tình trạng tái nhiễm vi rút đối với người nhiễm HIV/AIDS. Những hành vi nguy cơ

làm lây truyền HIV trong thời gian tới có thể còn tiếp tục gia tăng nếu không có những biện

pháp can thiệp giảm tác hại tích cực cho nhóm TCMT, đặc biệt với những đối tượng nhiễm

HIV/AIDS vẫn còn TCMT.

Những hành vi nguy cơ cao ở đối tượng TCMT được rất nhiều nghiên cứu trên thế

giới đề cập tới. Theo chương trình kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc, nghiện ma túy là

một trong những nguy cơ làm HIV lan tràn. Tính đến năm 2000, toàn thế giới có hơn 3,3

triệu người bị nhiễm HIV bởi TCMT. Khoảng 150.000 - 200.000 người TCMT chết hàng

năm và ít nhất một nửa số chết đó liên quan đến HIV/AIDS [130]. Tổ chức y tế thế giới coi

sự kết hợp giữa nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS là sự kết hợp thảm họa của thời đại

[140]. Mặt khác, nghiện ma túy và HIV còn được coi là vấn đề sức khỏe công cộng toàn

cầu. Vào năm 1999, 114 quốc gia và lãnh thổ xác nhận có nhiễm HIV/AIDS gắn với TCMT

so với 52 nước vào năm 1992 [37].

Khi HIV nhiễm vào nhóm đối tượng TCMT, nguy cơ lây truyền cho người dùng

chung BKT ngay lập tức và cao hơn bất cứ nhóm nguy cơ cao nào. Tại Rio De Janeiro, kể

từ khi chương trình phân phát miễn phí BKT được triển khai, mức độ lây truyền HIV trong

nhóm TCMT đã giảm từ 25,0% xuống 8,0% [99]. Trái lại, không tiệt trùng BKT làm tăng

nguy cơ nhiễm HIV. Một nghiên cứu ở Longdao, Vân Nam, Trung Quốc trên 182 đối tượng

TCMT cho kết quả: nhóm dùng BKT luộc sôi thường xuyên có nguy cơ nhiễm HIV thấp

hơn nhóm không luộc sôi BKT [149]. Nghiên cứu khác ở Trung Quốc cho biết: tại nước

này, có khoảng 901.000 người sử dụng ma túy, trong đó khoảng 50% TCMT, 50% trong số

đó có dùng chung BKT, ước tính số tiêm chích chung/ngày từ 450.500 đến 675.750 lần [37].

Dịch HIV trong nhóm TCMT thường lan tràn nhanh và bùng nổ mạnh. Sự lan truyền, bùng

phát HIV trong nhóm người TCMT đã xuất hiện tại một số quốc gia nằm trong chương trình

trình phòng chống AIDS toàn cầu, bao gồm Thái Lan (Bangkok, Chiang Mai), Ấn Độ

(Manipur), Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh) và Brazil (Santos). Dịch

HIV trong nhóm TCMT cũng lây truyền nhanh tại nhiều quốc gia khác: Mỹ (New York),

Scotland (Edinburgh), Nepal (Katmandul), Trung Quốc (Vân Nam), các quốc gia mới độc

lập (Ucraina, Belarus, Moldova) và Nga (Moscow) [18].

Tại Việt Nam, kết quả Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học

(IBBS) tại Việt Nam 2005 - 2006 (vòng I) và năm 2009 (vòng II) cho thấy, tỷ lệ hiện nhiễm

HIV trong nhóm NCMT rất cao ở cả 2 vòng tại Hải Phòng (vòng I: 65,8%; vòng II: 48,0%)

và Quảng Ninh (58,7% và 55,7%), cao tại Cần Thơ (36,6% và 31,9%) và TP Hồ chí Minh

(34,0% và 46,1%), Hà Nội (23,9% và 20,7%), An Giang (13,3% và 15,7%) [9], [102].

Trong khi đó, tỷ lệ TCMT có dùng chung BKT trong vòng 1 tháng qua rất cao tại TP Hồ

Chí Minh (35%), An Giang (29%), Đà Nẵng (25%) và Cần Thơ (16%), tỷ lệ này có thấp

hơn ở Hà Nội (7%), Hải Phòng (6%) và Quảng Ninh (5%) [9]. Như vậy, tỷ lệ TCMT dùng

chung BKT cao trong một quần thể người TCMT có tỷ lệ nhiễm HIV cao sẽ là nguyên nhân

trực tiếp làm gia tăng lây nhiễm HIV nếu không kịp thời có các giải pháp hữu hiệu [99].

Một nghiên cứu khác trên nhóm người nhiễm HIV/AIDS cho thấy, tỷ lệ nhóm TCMT dùng

chung BKT ở TP Hồ Chí Minh: 41,7%; Hà Nội; 31,9%; Đà Nẵng: 30,6%; Hải Phòng:

24,2%; Cần Thơ: 8,9%. Tại Đồng Tháp, có tới 61,5% người nhiễm HIV dùng chung BKT

[103]. Nghiên cứu của Trần Văn Quang ở nhóm TCMT tại Nam Định năm 2009 cho thấy,

Tỷ lệ dùng lại BKT của người khác vừa dùng xong (22,6%), tỷ lệ đưa BKT đã dùng cho

người khác sử dụng (15,6%) [67]. Nghiên cứu trên đối tượng TCMT nhiễm HIV tại 5 tỉnh

phía bắc cho thấy: Hầu hết (96,0%) đối tượng TCMT nhiễm HIV đã dùng chung BKT, tỷ lệ

đối tượng TCMT chưa nhiễm HIV dùng chung BKT thấp hơn (50,0%); chỉ có 5,0% đối

tượng TCMT nhiễm HIV và 44,7% đối tượng TCMT chưa nhiễm HIV làm sạch BKT đúng

cách. Nghiên cứu của Nguyễn Trần Hiển và cộng sự trên những người TCMT ở TP Hồ Chí

Minh cho thấy có sự liên quan giữa việc thường xuyên dùng chung BKT và nhiễm HIV

(OR=2,7; p<0,05) [46]. Nghiên cứu trên những người TCMT tại TP Hạ Long và TX Cẩm

Phả, Quảng Ninh cho thấy có sự liên quan giữa lây nhiễn HIV ở người TCMT với các yều

tố như mượn BKT đã dùng của người khác, tiêm chích từ 3 lần/ngày, 30 lần/tháng và từ 2

năm trở lên [73]. Tại Đà Nẵng, nghiên cứu trên những người TCMT cũng thấy có sự kết

hợp giữa tình trạng nhiễm HIV và dùng chung dụng cụ tiêm chích [74].

4.1.5.2. Quan hệ tình dục không an toàn của người nhiễm HIV/AIDS

Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi QHTD của nam nhiễm HIV/AIDS chứa đựng

nhiều nguy cơ làm lây truyền HIV: có 18,2% đối tượng không sử dụng BCS với GMD,

14,7% với BTTX và 16,7% với BTBC trong lần QHTD gần nhất; đặc biệt, có tới 57,1%

không thường xuyên sử dụng BCS với GMD; 23,7% với BTTX và 42,6% với BTBC trong

12 tháng trước điều tra.

Tương tự nam giới, hành nguy cơ làm lây truyền mầm bệnh của nữ nhiễm HIV cũng

rất cao: có 43,3% đối tượng không sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với BTTX và

trên 62,0% không thường xuyên sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình trong 12

tháng trước điều tra.

Nghiên cứu của dự án QTC năm 2006 cho thấy: tỷ lệ nam không sử dụng BCS trong

lần QHTD gần nhất và không thường xuyên sử dụng BCS trong 12 tháng qua khi QHTD

với gái mại dâm tại Nghệ An (31,6% và 57,9%), tại khu vực miền Bắc (24,0% và 51,5%),

khu vực miền Trung và miền Nam (27,7% và 50,1%); tỷ lệ nam không sử dụng BCS trong

lần QHTD gần nhất và không thường xuyên sử dụng BCS trong 12 tháng qua với BTTX tại

Nghệ An (20,7% và 54,4%), tại khu vực miền Bắc (14,5% và 48,7%), khu vực miền Trung

và miền Nam (21,7% và 44,5%). Đối với nữ nhiễm HIV/AIDS, tỷ lệ không sử dụng BCS

trong lần QHTD gần nhất và không thường xuyên sử dụng BCS trong 12 tháng qua với

BTTX tại Nghệ An (40,0% và 61,4%), tại khu vực miền Bắc (32,9% và 50,7%), khu vực

miền Trung và miền Nam (38,2% và 60,0%) [6].

Tỷ lệ dùng BCS lần QHTD gần đây nhất ở các khu vực có sự chênh lệch rất lớn do

liên quan đến nhiều yếu tố như ý thức về hành vi tình dục an toàn của bản thân người nhiễm

HIV, do GMD yêu cầu, hoặc mức độ sẵn có BCS…Tuy nhiên, việc có một tỷ lệ đáng kể

người nhiễm HIV/AIDS không dùng BCS với GMD và các loại bạn tình cho thấy kết quả

của việc giáo dục hành vi, đặc biệt là hành vi tình dục ở Nghệ An chưa làm chuyển đổi căn

bản nhận thức, dẫn đến việc thực hành sử dụng BCS chưa triệt để hoặc còn thấp đối với các

loại bạn tình của người nhiễm HIV/AIDS.

QHTD không an toàn đã được xác định là một trong những đường quan trọng làm

lây nhiễm HIV [86], [120], đặc biệt đối tượng TCMT có QHTD không được bảo vệ với

GMD. Đây cũng chính là đường làm lan truyền HIV ra cộng đồng khi đối tượng đã nhiễm

bệnh. Việc sử dụng BCS trong QHTD ở những đối tượng nhiễm HIV/AIDS này chưa được

quan tâm đầy đủ và chưa được đối tượng áp dụng như một biện pháp phòng lây nhiễm HIV

hiệu quả. Người ta nhận thấy: 83,0% người TCMT ở Rio De Janeiro, Brazil không sử dụng

BCS với BTTX và 63,0% không bao giờ dùng với BTBC [139]. Một nghiên cứu năm 1991

ở Nairobi, Kenya trên 500 người hành nghề mại dâm cho kết quả: 80,0% trong số đó đã bị

nhiễm HIV [63].

Ở Việt Nam, tỷ lệ nhóm TCMT có QHTD với GMD cao: tại Hà Nội và Hải Phòng là

57,3% (2001), tại đồng tháp có tới 93,1% người nhiễm HIV/AIDS có QHTD với GMD

nhưng chỉ có 19,6% sử dụng BCS [103]. Nghiên cứu trong nhóm GMD tại miền Nam, Việt

Nam cho thấy một yếu tố nguy cơ có tương quan với nhiễm HIV: loét sinh dục (OR=18,1;

95% CIOR : 1,8-182,2), sùi mào gà (OR=9,0; 95% CIOR : 2,5-33,0), không dùng BCS thường

xuyên (OR=2,8; 95% CIOR : 1,0-8,0) [78]. Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi và

các chỉ số sinh học HIV/STI năm 2005 - 2006 cũng cho thấy: tỷ lệ GMD không sử dụng

BCS thường xuyên khi QHTD với khách (khách làng chơi) trong 1 tháng trước cuộc giám

sát chiếm hơn 40% ở Hà Nội và Hải Phòng, tỷ lệ này cao hơn tại Quảng Ninh (trên 60%),

Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh (trên 25%). Tỷ lệ không sử dụng BCS với BTTX của GMD

cao hơn rất nhiều, ở Hà Nội và Hải Phòng tỷ lệ này là 82,0% và 83,0%, tại Đà Nẵng, Quảng

Ninh, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ đều trên 70% [9]. Một sự lây nhiễm HIV khác mà hiện

nay đang được các nghiên cứu đề cấp đến, đó là lây nhiễm HIV qua con đường tình dục

đồng giới. Nghiên cứu của Nguyễn Phương Hoa năm 2009 ở nhóm nam có QHTD bán dâm

đồng giới tại Hà Nội cho thấy, tỷ lệ sử dụng BCS qua đường hậu môn với khách hành nam

trong lần QHTD gần đây nhất là rất thấp (30,0%), trong khi đó tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm

này là khá cao (2,0%) [48].

Số liệu giám sát hành vi năm 2000, 2005 - 2006 và 2009 tại Việt Nam cho thấy

những hành vi đan chéo, chứa đựng những nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn rất nhiều so với

những GMD không TCMT. Nam giới TCMT quan hệ tình dục với GMD có nguy cơ lây

truyền HIV cao hơn rất nhiều so với những đối tượng TCMT không có QHTD với GMD

[9], [98], [100], [102]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Phương trên nhóm PNBD tại Hà

Nội cho kết quả: tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này rất cao (16,6%), 22,5% trong nhóm

PNBD đường phố và 9,4% trong nhóm PNBD nhà hàng, trong khi đó, chiếm tới 11,0% có

TCMT trong nhóm này và tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên với khách hàng thấp (khách lạ:

76,0%; khách quen: 56,6%) [66]. Các nghiên cứu tại Việt Nam trên đối tượng nhiễm

HIV/AIDS cũng nhận thấy: một tỷ lệ khá cao người nhiễm HIV/AIDS vừa TCMT có dùng

chung BKT vừa QHTD không dùng BCS, trong khi đó một tỷ lệ không nhỏ người nhiễm

HIV/AIDS vừa có hoạt động mại dâm không dùng BCS vừa TCMT có dùng chung BKT

[34], [35].

Như vậy, cùng với kết quả một số điều tra khác, nghiên cứu này cũng thấy rằng: hành

vi nguy cơ cao có vai trò quan trọng nhất trong quá trình lây truyền HIV ở người nhiễm

HIV/AIDS là dùng chung BKT trong TCMT và không sử dụng BCS trong QHTD. Nguy cơ

lây nhiễm và lan truyền HIV sẽ đặc biệt cao khi có sự đan xen giữa hai hành vi này, nó làm

tăng nguy cơ lây nhiễm HIV trong mỗi nhóm cũng như nguy cơ lan truyền HIV ra cộng

đồng. Do vậy, những chương trình can thiệp toàn diện thường được thiết kế để dự phòng

4.1.5.3. Sinh con sau nhiễm HIV

cho cả 2 hành vi nguy cơ trên.

Nhận thức và thực hành của người nhiễm HIV/AIDS về vấn đề kết hôn và sinh con

còn hạn chế, họ không hiểu hết tác hại của việc sinh con khi đã nhiễm HIV. Kết quả nghiên

cứu này cho thấy, 20% số người nhiễm HIV/AIDS vẫn sinh con khi đã biết tình trạng bệnh,

9,6% dự định sinh con trong thời gian tới, trong khi tỷ lệ nhận được thuốc dự phòng lây

truyền mẹ - con thấp (8,6%). Kết quả này cao hơn về tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV so với 1

nghiên cứu tại Hải Dương: 8,0%, nhưng thấp hơn nhiều ở tỷ lệ dự định sinh con (35,8%)

[28] và cũng cao hơn 1 nghiên cứu tại Thanh Hóa ở tỷ lệ đối tượng vẫn sinh con sau nhiễm

HIV/AIDS (8,4%) [72]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn nghiên cứu của dự

án QTC năm 2006, tại khu vực miền Bắc: tỷ lệ tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV (4,6%), tỷ lệ

dự định sinh con (2,6%) và tỷ lệ người mẹ được dùng thuốc phòng lây truyền từ mẹ sang

con (16,1%); tại khu vực miền Trung và miền Nam: tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV (3,5%), tỷ

lệ dự định sinh con (4,1%) và tỷ lệ người mẹ được dùng thuốc phòng lây truyền từ mẹ sang

con (16,0%) [6].

Những kết quả trên đây cho thấy: còn tồn tại quan niệm nặng nề về vấn đề duy trì nòi

giống, cố gắng sinh con bằng bất cứ giá nào, kể cả khi đã nhiễm HIV. Cũng giống như các

đứa trẻ dị tật vẫn được tiếp tục sinh ra khi mà bố mẹ chúng đã biết được tình trạng nhiễm

chất độc da cam/dioxin của mình. Mặc dù việc kết hôn và sinh con là một nhu cầu chính

đáng, là quyền của mỗi con người, song người nhiễm HIV và gia đình họ cần phải cân nhắc

kỹ việc nên hay không nên làm điều đó. Một báo cáo trên thế giới cũng cho thấy: khi HIV

đã tồn tại trong quần thể những người TCMT, quần thể này sẽ trở thành nguồn truyền HIV

qua đường tình dục và từ mẹ sang con: 40,0% trẻ nhiễm HIV ở Uruguay sinh ra từ mẹ

4.1.5.4. Ảnh hưởng một số yếu tố đến hành vi nguy cơ lây truyền HIV

TCMT nhiễm HIV [139].

Với hành vi dùng chung BKT, việc được nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên được tìm

thấy là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này. Theo đó, nhóm đối tượng nghiên cứu không được

nhận hỗ trợ từ đồng đẳng viên có nguy cơ dùng chung bơm kiêm tiêm gấp 2,46 lần nhóm có

nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=2,46;

95%CI: 1,08-5,61).

Kết quả phân tích đa biến các yếu tố có mối liên quan ở trên đến hành vi luôn sử

dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn đã cho

thấy: các đặc điểm về tình trạng hôn nhân, được điều trị ARV, được hỗ trợ BCS và nhận hỗ

trợ từ đồng đẳng viên thực sự có ảnh hưởng đến hành vi luôn sử dụng BCS khi QHTD. Giải

thích thêm cho vấn đề này, người nhiễm HIV thường rơi vào trạng thái hụt hẫng, buồn chán,

suy giảm sức khỏe, họ rất cần sự chia sẻ động viên của gia đình, người thân, sự quan tâm tư

vấn, hỗ trợ của đồng đẳng và điều trị nâng cao sức khỏe. Sống độc thân, ly dị/góa/ly thân

làm họ không được chia sẻ với người thân những lo lắng, buồn chán, thất vọng... làm họ

tăng mặc cảm, tự kỳ thị của bản thân. Người nhiễm dễ bị mất phương hướng, không còn

niềm tin, suy giảm trách nhiệm cá nhân, dẫn đến gia tăng hành vi nguy cơ lây truyền HIV

nói chung và hành vi không thường xuyên sử dụng bao cao su nói riêng. Được sống chung

với vợ/chồng, được hỗ trợ từ đồng đẳng, được điều trị ARV và nhận được BCS sẽ có ý nghĩ

thiết thực đến ổn định tâm lý, cải thiện sức khỏe, ý thức nhìn nhận về cộng đồng... làm cho

người nhiễm HIV/AIDS tự giác thay đổi hoặc từ bỏ hành vi quan hệ tình dục không an toàn

của họ.

4.2. HIỆU QUẢ CAN THIỆP TƯ VẤN, CHĂM SÓC, HỖ TRỢ NGƯỜI NHIỄM

HIV/AIDS TẠI CỘNG ĐỒNG SAU 4 NĂM CAN THIỆP (2008 – 2012)

4.2.1. Hiệu quả về tư vấn xét nghiệm HIV

Sau 4 năm can thiệp, các nội dung TVXNTN tại địa bàn nghiên cứu đã đạt được kết

quả tốt với nhiều chỉ số đánh giá (1- 5) đều tăng rõ rệt, có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Biện

pháp can thiệp TVCSHT trong nghiên cứu này về tổ chức các nội dung TVXNTN tại tuyến

huyện, tỏ ra hợp lý và hiệu quả do gần gũi cộng đồng và dễ được người nhiễm cũng như các

đối tượng nguy cơ cao (trong đó bao gồm cả những bạn tình của người nhiễm) chấp nhận.

Hoạt động tư vấn đã có nhiều thay đổi tích cực, tỷ lệ được tư vấn hỗ trợ thường xuyên tăng

lên rõ rệt và tỷ lệ bạn tình của người nhiễm làm xét nghiệm HIV cũng tăng cao. Kết quả

nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Dự án Quỹ toàn cầu tại khu vực miền

Bắc [5]: sau 2 năm can thiệp (2006-2008) tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được tư vấn hỗ trợ

thường xuyên tăng từ 49,6% lên 52,1% (CSHQ 5,0%), tỷ lệ bạn tình làm xét nghiệm HIV từ

65,2% lên 78,0% (CSHQ: 19,6%).

Tuy nhiên, một số chỉ số: tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS tự nguyện xét nghiệm, tỷ lệ

người nhiễm HIV/AIDS được tư vấn đúng trước xét nghiệm và sau xét nghiệm HIV, không

có ý nghĩa thống kê (p>0.05).

Kết quả nghiên cứu tại huyện Rakai, Uganda châu Phi cũng chỉ ra rằng: các dịch vụ

TVXNTN tại tuyến huyện và thậm chí, kết quả xét nghiệm được giao tại nhà cho đối tượng

bởi các tư vấn viên được đào tạo đã giúp tăng gấp đôi khả năng tiếp cận dịch vụ TVXNTN

cho những người sống ở vùng nông thôn [121].

Trong khu vực Đông Nam Á, kết quả nghiên cứu trên 3.570 khách hàng tìm kiếm

dịch vụ TVXNTN tại bệnh viện huyện Sansai thuộc miền Bắc, Thái Lan cho thấy: dịch vụ

TVXNTN triển khai tại cộng đồng có thể tiếp cận tốt với những đối tượng có hành vi nguy

cơ cao [115]. Tại một trung tâm TVXNTN ở Campuchia, theo dõi tình trạng chuyển đổi

huyết thanh giảm từ 8,5% (1996) xuống cồn 3,15 (1999). Kết quả này có thể đã phản ánh

những thay đổi hành vi nguy cơ và ảnh hưởng tích cực của hoạt động tư vấn tại cộng đồng

[117].

Một nghiên cứu về chi phí và sự tự nguyện đến với dịch vụ TVXNTN tại Kenya kết

luận: TVXNTN nên là một thành tố quan trọng trong chiến lược chăm sóc, dự phòng

HIV/AIDS của các quốc gia. Tuy nhiên, giá của dịch vụ cao đã làm tăng nỗi băn khoan về

khả năng tiếp cận của người dân ở các nước có thu nhập thấp. Điều này cho thấy, nên lồng

ghép dịch vụ TVXNTN vào các trung tâm chăm sóc sức khỏe sẵn có hơn là các vị trí độc

lập và nhân viên tư vấn là các nhân viên y tế của nhà nước hoạt động kiêm nhiệm [113].

Tại Việt Nam, từ năm 2004, mô hình TVXNTN miễn phí triển khai lồng ghép tại

tuyến tỉnh/thành và quận/huyện đã giải quyết được các bất cập trước đây. Do đó, mô hình đã

thu hút ngày càng nhiều đối tượng đến tư vấn, xét nghiệm: chất lượng tư vấn cũng chuyển

biến đáng kể. Mặc dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng hoạt động tư vấn vẫn còn nhiều hạn chế,

đối tượng tư vấn hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào những người TCMT, GMD, người

nhiễm HIV, bệnh nhân AIDS. Việc tiếp cận với đối tượng tư vấn còn thụ động từ cả hai

phía: tư vấn viên và đối tượng tư vấn. Các đối tượng nguy cơ cao không muốn đến các

phòng TVXNTN do kỳ thị xã hội, không hiểu được lợi ích của việc tư vấn. Tư vấn viên

chưa được đào tạo đẩy đủ về kỹ năng tiếp cận đối tượng, quy trình tư vấn chuẩn. Địa điểm

phòng tư vấn chưa thực sự phù hợp, phương tiện truyền thông nghèo nàn, dụng cụ trực quan

thiếu.... hoạt động tư vấn trong thời gian tới cần giải quyết những vấn đề trên để đáp ứng

được nhu cầu tư vấn của đối tượng, tăng chất lượng và hiệu quả tư vấn [77].

4.2.2. Chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS từ gia đình và cộng đồng

Trên thế giới,vấn đề chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng được xem như một nội dung

quan trọng trong công tác TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS. Các nghiên cứu cũng chỉ rõ

vai trò và hiệu quả của những can thiệp tác động đến chế độ vệ sinh và dinh dưỡng cho

người nhiễm [105], [106], [122], [127]. Trái lại, tại Việt Nam, vấn đề này chưa được người

nhiễm, gia đình và các chương trình can thiệp quan tâm đứng mức. Ngoại trừ tỷ lệ người

nhiễm ăn thức ăn bữa trước không đun lại trong nghiêm cứu này giảm xuống rõ rệt (chỉ số

9), tỷ lệ người nhiễm HIV có thói quen uống nước lã, nước đá ngoài hàng/quán, thói quen

ăn rau sống (chỉ số 6 - 8) chưa có thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể (p>0,05). Mặt khác,

người nhiễm HIV và cả những bệnh nhân AIDS chưa được hỗ trợ về dinh dưỡng. Nguyên

nhân của việc thực hiện kém hiệu quả nội dung này do nguồn lực hạn chế, do chưa coi trọng

nên chưa đưa vào các nội dung tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra, còn có nhiều

quan điểm trái ngược về sự cần thiết cũng như tính công bằng xã hội trong việc hỗ trợ dinh

dưỡng miễn phí cho người nhiễm HIV/AIDS khi mà còn nhiều đối tượng chính sách, gia

đình có công với cách mạng, người nghèo ở vùng sâu, vùng xa chưa được quan tâm và giải

quyết thỏa đáng.

Không giống nội dung chăm sóc và vệ sinh dinh dưỡng, sự quan tâm, hỗ trợ khác của

gia đình và cộng đồng sau 4 năm can thiệp đã đạt kết quả tốt. Những số liệu về tỷ lệ người

nhiễm HIV/AIDS tỷ lệ người nhiễm được gia đình và cộng đồng chăm sóc, hỗ trợ đã tăng

lên rõ rệt (chỉ số 11, 13), tỷ lệ bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh cũng đã giảm sau

can thiệp, tuy nhiên chưa có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (chỉ số 10, 12). Đánh giá sau 2

năm can thiệp (2002 - 2004) tại 5 tỉnh Lai Châu, Quảng Trị, An Giang, Kiên Giang và Đồng

Tháp của Ngân hàng Phát triển châu Á [10] cũng nhận xét: nhìn chung, tỷ lệ gia đình đã biết

tình trạng nhiễm HIV của người thân tại 5 tỉnh đều cao trên 90% và đa số đã chấp nhận,

giúp đỡ họ. Như vậy, mặc dù trong thời gian qua công tác tư vấn, truyền thông được tăng

cường với nhiều nội dung và hình thức phong phú đã làm chuyển đổi nhìn nhận của đại bộ

phận cộng đồng về căn bệnh HIV/AIDS, nhưng để tiến tới xoá bỏ sự xa lánh, ruồng bỏ của

gia đình và cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS đòi hỏi phải nỗ lực nhiều hơn nữa

trong công tác truyền thông, tuyên truyền về chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm

HIV/AIDS. Vì vậy, vấn đề tăng cường hơn nữa sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể và

cộng đồng cho hoạt động này cần được quan tâm thực hiện trong thời gian tới.

4.2.3. Tiếp cận dịch vụ của người nhiễm HIV/AIDS

Sau 4 năm can thiệp, người nhiễm HIV/AIDS tại các địa bàn nghiên cứu đã có khả

năng tiếp cận với các dịch vụ dễ dàng hơn. Các tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được điều trị

nhiễm trùng cơ hội, điều trị ARV, được chụp X - Quang phát hiện Lao (chỉ số 14 - 16);

được cung cấp BCS, nhận được BKT; được hỗ trợ từ đồng đẳng viên, được sinh hoạt câu lạc

bộ (chỉ số 17 - 20) đều tăng rõ rệt, có ý nghĩa thống kê (p<0,01 và p<0,05). Như vậy, việc

bố trí các dịch vụ tại cộng đồng (tuyến huyện/thành/thị, xã/phường) rõ ràng đã gần gũi, thân

thiện và dễ dàng tiếp cận hơn đối với người nhiễm HIV/AIDS. Đánh giá sau 2 năm can

thiệp của Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng nhận xét: những can thiệp đã làm thay đổi

nhận thức của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS. Tỷ lệ người nhiễm nhận được các

hỗ trợ đã tăng rõ rệt so với điều tra cơ bản (từ 46,7% lên 79,1%) [10]. Tuy vậy, tại nghiên

cứu này, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận được tờ rơi, tờ bướm 6 tháng trước điều tra

(73,1%) không tăng mà giảm so với trước can thiệp (chỉ số 21). Điều này có thể giải thích là

do kinh phí của dự án những năm gần đây bị cắt giảm do Việt Nam đã vượt qua mức thu

nhập trung bình, mặt khác nguồn kinh phí chương trình mục tiêu cũng hạn hẹp nên lượng tờ

rơi, tờ bướm giảm mạnh so với giai đoạn đầu của can thiệp.

Nhìn chung, sau 4 năm triển khai các hoạt động can thiệp cộng đồng, các nội dung đề

ra đã thu được kết quả tốt, hiệu quả của can thiệp cộng đồng đã thể hiện rõ rệt ở việc thay

đổi của hầu hết các chỉ số. Điều này cho thấy: nghiên cứu đã xác định đúng hành vi, nhu cầu

và thực trạng của công tác TVCSHT cho người nhiễm HIV/AIDS. Những hiệu quả thu được

còn cho thấy: hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng là phù hợp và cần

nhân rộng. Mặc dù, cũng phải nhận thấy, tuy đã có chuyển biến tốt sau 4 năm tiến hành các

hoạt động can thiệp, một số nội dung hoạt động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS còn hạn

chế, chưa đạt yêu cầu. Các hành vi lây truyền HIV qua cả 3 đường lây ở người nhiễm

HIV/AIDS còn cao. Việc duy trì và tăng cường các hoạt động TVCSHT người nhiễm

HIV/AIDS tại cộng đồng trong thời gian tới vẫn cần thiết, cấp bách.

4.2.4. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS

4.2.4.1.Tiêm chích ma túy không an toàn

Do được TVCSHT và được cấp phát BKT nên hành vi TCMT không an toàn được

cải thiện đáng kể tại địa bàn triển khai sau 4 năm can thiệp cộng đồng. Tỷ lệ người nhiễm

HIV còn TCMT tháng trước điều tra (chỉ số 22) đã giảm rõ rệt (p< 0,01), Tuy vậy, tỷ lệ

người nhiễm HIV/AIDS có TCMT trong tháng trước điều tra vẫn dùng chung BKT (chỉ số

23) giảm chưa nhiều, không có ý nghĩa thống kê (p>0.05). Nghiên cứu của Nguyễn Văn

Kính tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh [59] cũng cho thấy hiệu quả thay đổi hành vi ở

những người TCMT nhiễm HIV/AIDS: tỷ lệ còn TCMT trong tháng trước điều tra giảm từ

96,4% xuống 72,1%; tỷ lệ dùng lại BKT giảm từ 24,3% xuống 17,3% và đưa BKT cho bạn

chích từ 16,6% xuống còn 12,1%.

Kết quả can thiệp của dự án ”cộng đồng hành động phòng chống AIDS” tại Lai

Châu, Quảng Trị, Đòng Tháp, An Giang và Kiên Giang [10] cũng cho biết hiệu quả thay đổi

hành vi nguy cơ ở những người TCMT nhiễm HIV: tỷ lệ dùng riêng BKT đã tăng từ 16,0%

lên 76,4 %.

4.2.4.2. Quan hệ tình dục không an toàn

Đã có những thay đổi nhất định trong hành vi QHTD an toàn của nam nhiễm HIV

với GMD, tỷ lệ không sử dụng BCS đã giảm trong cả lần QHTD gần nhất cũng như trong

12 tháng trước cuộc điều tra đánh giá sau can thiệp (chỉ số 24 - 26). Song, sự thay đổi này

còn hạn chế, chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Đối với BTTX, tỷ lệ không thường xuyên

sử dụng BCS đã không giảm cả trong lần QHTD gần nhất và trong 12 tháng trước cuộc điều

tra đánh giá sau can thiệp (chỉ số 27, 28). Điều này thể hiện ý thức cộng đồng chưa tốt của

người nhiễm là nam giới trong việc ngăn ngừa lây truyền dịch bệnh. Ở nữ giới nhiễm HIV,

có sự biến chuyển đáng kể hành vi QHTD không an toàn với BTTX (chỉ số 29, 30). Tỷ lệ sử

dụng BCS đã tăng cả trong lần QHTD gần nhất cũng như 12 tháng trước điều tra sau can

thiệp. Tuy nhiên, sự thay đổi của các chỉ số chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Kết quả nghiên cứu của dự Quỹ toàn cầu cho thấy, sau 2 năm can thiệp 2006 - 2008

cho thấy, ở khu vực miền Bắc: tỷ lệ không sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với

GMD không giảm mà tăng từ 24,0% lên 33,4%, tỷ không thường xuyên sủ dùng BCS trong

12 tháng trước cuộc điều tra cũng không giảm mà tăng từ 51,5% lên 67,2%; tuy nhiên, ở

khu vực miền Trung và miền Nam: tỷ lệ không sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với

GMD giảm rõ rệt từ 27,7% xuống 13,9% (CSHQ: 49,8%), tỷ không thường xuyên sử dụng

BCS trong 12 tháng trước cuộc điều tra cũng giảm từ 57,1% xuống 50,1% (CSHQ: 13,2%)

[5].

Hiệu quả can thiệp của Ngân hàng Phát triển châu Á sau 2 năm triển khai các hoạt

động cũng chỉ ra: tỷ lệ sử dụng BCS đã tăng rõ rệt cả trong lần QHTD gần nhất (từ 50,0%

lên 81,7%) cũng như trong 12 tháng trước điều tra đánh giá lại (từ 24,2% lên 60,8%) [63].

Như vậy, các nội dung can thiệp giảm nguy cơ trong QHTD cho đối tượng nhiễm

HIV/AIDS được đánh giá là cần thiết, phù hợp, bước đầu đạt hiệu quả nhất định, nhưng cần

được tăng cường và duy trì trong thời gian dài.

Việc giảm hành vi nguy cơ trong QHTD liên quan nhiều đến thái độ, sự chấp nhận và

chia sẽ giữa các cập bạn tình. Trong việc thực hiện hành vi an toàn tình dục và tham gia các

hoạt động dự phòng, phụ nữ thường có vai trò thụ động. Rào cản lớn nhất đối với việc xét

nghiệm HIV và tiết lộ tình trạng nhiễm HIV ở phụ nữ bao gồm: lo sợ phản ứng của bạn tình

khi thông báo kết quả xét nghiệm, đối mặt với việc phải đưa ra quyết định... Sự cảm nhận về

nguy cơ cá nhân có khả năng lây nhiễm HIV/AIDS là yếu tố chủ yếu làm cho phụ nữ vượt

qua rào cản đến các cơ sở xét nghiệm HIV. Mặt khác, khi các cặp bạn tình được tư vấn và

hỗ trợ đầy đủ, bản thân họ sẽ giúp nhau thực hiện các hành vi an toàn [119]. Đây là những

khía cạnh cần quan tâm trong việc điều chỉnh nội dung hoạt động TVCSHT cho người

nhiễm HIV/AIDS trong thời gian tới.

4.2.4.3. Sinh con sau nhiễm HIV

Nhìn chung, đã có sự thay đổi hành vi sinh con của người nhiễm HIV/AIDS sau 4

năm can thiệp: tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV đã giảm sau can thiệp (chỉ số 31). Tuy nhiên,

vấn còn 15,7% đối tượng vẫn sinh con sau nhiễm, đặc biệt tỷ lệ dự định sinh con trong thời

gian tới (15,4%) tăng hơn sau can thiệp (chỉ số 32). Điều này có thể lý giải do hiệu quả của

truyền thông, tư vấn về vấn đề này trong quá trình can thiệp còn hạn chế, hoặc do mong

muốn sinh con ở người nhiễm cao (họ chấp nhận sinh con với bất cứ giá nào), hoặc có thể

do tác động của hiệu quả tốt của chương trình DPLTMC trong những năm gần đây, có một

tỷ lệ khá cao trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm không bị lây truyền bệnh khi mẹ và con được dùng

năm 2005 và 2006 có 23.106 phụ nữ mang thai sinh con làm xét nghiệm HIV đã phát

hiện 122 phụ nữ mang thai nhiễm HIV (tỷ lệ nhiễm HIV: 0,53%). Trong số 64 trẻ

sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được xét nghiệm có tỷ lệ HIV (+) là 9,4%, trong đó lây từ

mẹ có dùng thuốc dự phòng lây truyền mẹ - con (8,9%) và từ mẹ không dùng thuốc là

10,5% [76]. Với sự phát triển không ngừng của khoa học, các tài liệu hướng dẫn đã nêu,

thuốc dự phòng. Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thắng tại Hải Phòng cũng cho thấy, trong

người mẹ mang thai bị nhiễm HIV nếu được điều trị dự phòng bằng thuốc chống HIV ngay

từ đầu tuần thai thứ 28, thì khả năng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con giảm xuống còn từ 2 -

8% [31]. Điều này mang lại hy vọng nhiều cho những người nhiễm HIV/AIDS mong muốn

có con và việc áp dụng, triển khai chương trình dự phòng lây truyền mẹ - con rộng rãi sẽ

mang lại lợi ích to lớn. Trong thời gian tới nội dung này cần được tăng cường trong các hoạt

động TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS, vì đây là một trong 3 đường lây truyền cơ bản của

HIV. Người nhiễm cần được tư vấn, cung cấp đầy đủ thông tin để hạn chế hoặc từ bỏ ý định

sinh con sau nhiễm HIV. Tuy nhiên, nhu cầu có con là một trong những quyền của con

người mà pháp luật không ngăn cấm, do vậy để hạn chế tối đa việc lây truyền HIV từ mẹ

sang con thì người mẹ cần được tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị dự phòng lây truyền

HIV từ mẹ sang con sớm ngay sau khi có xét nghiệm HIV dương tính, nếu họ vẫn mong

4.2.5. Ưu điểm, hạn chế và khả năng áp dụng biện pháp can thiệp tư vấn, chăm

sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng

muốn sinh con.

Ưu điểm lớn nhất của biện pháp can thiệp là tính bền vững do việc thiết lập các hoạt

động trên nền tảng của mạng lưới y tế quốc gia. Trong biện pháp can thiệp TVCSHT này,

việc đầu tư cơ sở vật chất không đòi hỏi nhiều kinh phí: hệ thống phòng tư vấn, trang thiết

bị xét nghiệm... là sẵn có. Ngoài một số đồng đẳng viên, các thành viên còn lại hoạt động

trong các nhóm của mô hình đều là thành viên của y tế tuyến huyện/thành/thị, xã/ phường

và một số tổ chức đoàn thể (đã hưởng lương). Điều này cũng đã hạn chế được chi phí nhân

sự, đào tạo cơ bản, xây dựng kỹ năng làm việc... Mặt khác, biện pháp can thiệp còn giải

quyết tốt phương châm tại chỗ và xã hội hóa trong các hoạt động phòng chống HIV/AIDS.

Các hoạt động TVCSHT đã tác động trên một cộng đồng rộng lớn, tăng khả năng tiếp cận

dịch vụ cho nhiều đối tượng và đặc biệt góp phần giảm kỳ thị, phân biệt đối xử của cộng

đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS.

Trên cơ sở thành công của biện pháp can thiệp này, năm 2013 và 2014 với sự hỗ trợ

của Dự án FHI, Quỹ toàn cầu và CTMT quốc gia, Nghệ An đã mở rộng và áp dụng có bổ

sung cải tiến để phù hợp với đặc thù địa bàn tại Quế Phong và Quỳ Châu là hai huyện miền

núi cao giáp biên giới với bạn Lào, chủ yếu là đồng bào dân tộc và có điều kiện kinh tế của

người dân đặc biệt khó khăn. Hoạt động triển khai tại đây được lồng ghép ba dịch vụ: điều

trị ARV, TVXNTN và điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone

(gọi là mô hình 3 trong 1) ở tuyến huyện. Tuyến xã sử dụng các nhóm ĐĐV, CTV gắn với y

tế thôn bản và huy động các tổ chức đoàn thể xã hội địa phương tham gia. Báo cáo sơ kết

một năm triển khai cho thấy hiệu quả rõ rệt của mô hình về số người điều trị ARV, tuân thủ

điều trị, giảm tỷ lệ tử vong, số người điều trị Methadone tăng nhanh và đặc biệt là cộng

đồng xóm, bản đã thể hiện sự quan tâm chăm sóc, dùm bọc và hỗ trợ tại nhà hết sức có ý

nghĩa cho người nhiễm HIV/AIDS [81].

Với thực tế công tác phòng chống HIV/AIDS hiện nay: nguồn kinh phí các dự án

ngày càng cắt giảm, kinh phí từ CTMT quốc gia hạn chế và nguồn lực của địa phương gặp

nhiều khó khăn, thì vai trò định hướng, điều phối của Bộ Y tế, Cục phòng chống HIV/AIDS

và lãnh đạo chính quyền, ngành y tế các cấp là hết sức quan trọng và cấp thiết. Cần duy trì

tính bền vững của các chương trình dự án, sử dụng tối đa nguồn lực sẵn có cũng như tăng

cường hiệu quả các chương trình can thiệp, hỗ trợ và nâng cấp mạng lưới y tế quốc gia, tích

cực huy động sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể và áp dụng triển khai hoạt động

TVCSHT người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng cho tất cả các tỉnh/thành và các địa bàn

trọng điểm về dịch HIV/AIDS.

Tóm lại, nghiên cứu đã đạt được cơ bản những mục tiêu đề ra. Luận án đã mô tả rõ

nét hoạt động TVCSHT, hành vi nguy cơ lây truyền HIV của người nhiễm HIV/AIDS trước

can thiệp và đánh giá được hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện của Nghệ An. Việc triển khai can thiệp tư vấn, chăm

sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng ở 5 huyện đáp ứng được đòi hỏi về tính

mới, tính cấp thiết của nghiên cứu đó là: các hoạt động của can thiệp chỉ được triển khai tại

các huyện nghiên cứu; hoạt động được triển khai tại vùng trọng điểm nhất của tỉnh đó là

thành phố Vinh và vùng đồng bào dân tộc miền núi của Nghệ An tại thị xã Thái Hòa, đây

cũng là hoạt động đầu tiên về lĩnh vực này được triển khai tại các huyện miền núi và đáp

ứng được nhu cầu thực tế, mong mỏi của người dân tại các địa bàn can thiệp, đặc biệt là địa

bàn có người dân tộc sinh sống. Vì lẽ đó, can thiệp đã đóng góp không những cho chương

trình phòng chống HIV/AIDS, mà còn có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện các chính

sách xã hội đối với các vùng, miền và đối tượng khó khăn mà Đảng, Nhà nước và Chính

phủ ta đề ra.

Tuy vậy, đề tài còn một số hạn chế:

- Nghiên cứu chỉ mới tiến hành trên phạm vi 5 huyện/thị là các địa bàn trọng điểm

của tỉnh và chỉ được chọn trong những người nhiễm HIV có danh sách quản lý nên có thể

chưa đại diện chính xác cho người nhiễm HIV/AIDS toàn tỉnh. Thêm vào đó, sai số trong

ước tính tỷ lệ hành vi nguy cơ tự báo cáo có thể xẩy ra (người trả lời phỏng vấn thường có

xu hướng che dấu những hành vi liên quan đến QHTD hoặc TCMT). Ngoài ra, sai số bỏ

cuộc, sai số nhớ lại cũng có thể đã xuất hiện trong nghiên cứu.

- Hạn chế của nghiên cứu còn thể hiện ở chỗ là nghiên cứu đánh giá trước và sau can

thiệp được tiến hành trong thời gian dài, với nhóm đối tượng không thuần nhất (nhóm đối

tượng đánh giá trước và sau can thiệp không hoàn toàn là cùng nhau) và có sự tác động của

các yếu tố khác (như kinh tế - xã hội, tình hình dịch, người đánh giá, hệ tống và chất lượng

cung cấp dịch vụ...), ngoài tác động của các hoạt động can thiệp. Bên cạnh đó, tại địa

phương còn có một số hoạt động phòng chống HIV/AIDS khác diễn ra cùng thời điểm

nghiên cứu, do đó có thể có sai số do khó đánh giá hiệu quả can thiệp riêng biệt của nghiên

cứu này. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới cần triển khai thêm các nghiên cứu

can thiệp cộng đồng có nhóm đối chứng, hoặc cũng có thể lựa chọn đối tượng trước và sau

nghiên cứu là cùng một nhóm đồng nhất (do thực tế hiện nay người nhiễm HIV/AIDS đã

kéo dài cuộc sống nhờ hiệu quả của thuốc ARV) với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian nghiên

cứu can thiệp cũng nên tiến hành ngắn hơn (chỉ khoảng 1 đến 2 năm) để hạn chế tình trạng

mất dấu, bỏ cuộc do đặc thù di, biến động cao của nhóm đối tượng nghiên cứu.

KẾT LUẬN

1. Thực trạng tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng

và hành vi nguy cơ trước can thiệp tại 5 huyện năm 2008.

1.1. Chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV còn thấp: tỷ được tư vấn hỗ trợ

1.2. Chất lượng chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế:

- Người nhiễm HIV/AIDS bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh vẫn còn

thường xuyên chưa cao (66,1%); chỉ có 66,1% bạn tình làm xét nghiệm HIV.

- Tỷ lệ được khám và điều trị thấp: ARV (26,5%), điều trị dự phòng

diễn ra (2,7% và 4,5%); chỉ có 35,7% nhận được chăm sóc, hỗ trợ của cộng đồng.

Cotrimoxazole (37,5%) và điều trị nhiễm trùng cơ hội (40,0%), chụp X- Quang

phổi phát hiện Lao (34,7%), khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình

- Tỷ lệ nhận được hỗ trợ phòng lây nhiễm HIV thấp: 48,1% nhận được bơm

dục (2,7%).

1.3. Hành vi nguy cơ lây truyền HIV ở người nhiễm HIV/AIDS cao:

- Nguy cơ lây truyền HIV cao qua con đường tiêm chích ma túy: 78,4% đã từng

kim tiêm, 62,8%, nhận được bao cao su.

tiêm chích ma túy; 67,1% có tiêm chích ma túy trong tháng qua; dùng chung

bơm kim tiêm cao (24,4%). Không nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên có nguy

cơ dùng chung bơm kiêm tiêm cao hơn nhóm nhận được hỗ trợ từ đồng đẳng viên

- Nguy cơ lây truyền HIV cao qua đường tình dục: tỷ lệ không thường xuyên

(OR=2,46; 95%CI: 1,08 - 5,61).

dùng bao cao su trong 12 tháng qua với các loại bạn tình là 57,1% ở nam và

62,0% ở nữ; sống cùng vợ/chồng, được điều trị ARV, nhận được bao cao su,

được hỗ trợ đồng đẳng viên có hành vi luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình

dục cao hơn nhóm sống độc thân (OR=7,7; 95%CI: 4,02 - 14,56), không được

điều trị ARV (OR=2,4; 95%CI: 1,11 - 5,19), không nhận được bao cao su

(OR=2,6; 95%CI: 1,24 - 5,35) và không được hỗ trợ đồng đẳng (OR=2,4; 95%CI:

1,16 - 4,86).

2. Hiệu quả can thiệp tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng

đồng tỉnh Nghệ An sau 4 năm can thiệp (2008 - 2012).

Mô hình can thiệp có hiệu quả cao (có ý nghĩa thống kê ở đa số các chỉ số):

- Tăng tỷ lệ người nhiễm HIV được tư vấn hỗ trợ thường xuyên (từ 66,1% lên

80,8%), tăng tỷ lệ bạn tình làm xét nghiệm HIV (từ 66,1% lên 83,3%).

- Giảm tỷ lệ đối tượng bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh (từ 2,7% xuống

1,3% và từ 4,5% xuống 3,6%); tăng tỷ lệ người nhiễm được gia đình chăm sóc,

hỗ trợ (từ 82,2% lên 91,4%), tăng tỷ lệ nhận được chăm sóc, hỗ trợ của cộng đồng

(từ 35,7% lên 66,9%).

- Tăng tỷ lệ người nhiễm nhận được dịch vụ chăm sóc điều trị: được điều trị ARV

(từ 26,5% lên 84,1%), được chụp X - Quang phát hiện Lao (từ 34,7% lên 52,3%).

- Tăng tỷ lệ nhận được các dịch vụ can thiệp giảm: nhận bao cao su (từ 62,8% lên

72,4%), nhận bơm kim tiêm (từ 48,1% lên 57,5%) và được sinh hoạt câu lạc bộ

người nhiễm (từ 16,8% lên 24,0%).

- Giảm hành vi nguy cơ lây truyền HIV ở người nhiễm HIV/AIDS: giảm tiêm

chích ma túy trong tháng qua (từ 67,1% xuống 38,7%); giảm tỷ lệ không dùng

bao cao su lần quan hệ tình dục gần nhất và không thường xuyên dùng bao cao su

12 tháng qua với gái mại dâm đối với nam và khách làng chơi đối với nữ (ở nam

giảm từ 18,2% xuống 8,9% và từ 57,1% xuống 42,4%; ở nữ giảm từ 44,8% xuống

35,0% và từ 62,2% xuống 50,0%).

- Giảm tỷ lệ sinh con sau nhiễm HIV (từ 20,0% xuống 15,7%).

KHUYẾN NGHỊ

1. Tăng cường các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi và tiếp tục triển khai các

biện pháp can thiệp giảm tác hại, đặc biệt với đối tượng có học vấn thấp, sống độc thân, thất

nghiệp, còn tiêm chích ma túy và vẫn hoạt động mại dâm. Chú trọng xây dựng mạng lưới

đồng đẳng viên.

2. Biện pháp can thiệp tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng

đồng cần được nhân rộng, đặc biệt áp dụng cho các địa bàn miền núi, vùng có nhiều đồng

bào dân tộc, có địa hình đi lại phức tạp và điều kiện kinh tế của người dân còn gặp nhiều

khó khăn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đào Thị Minh An (1999), Thực trạng dịch vụ tư vấn HIV/AIDS tại TP. Hà Nội và những

kiến nghị, Luận văn Thạc sỹ Y học, Hà Nội.

2. Phạm Thị Lan Anh (2003), Tình hình, nguy cơ và các đáp ứng với dịch HIV/AIDS tại

An Giang 2003, Luận văn Thạc sỹ Y học, Hà Nội.

3. Bernard Fabre - Teste (2003), “Bằng chứng cho Hành động Dự phòng HIV trong nhóm

TCMT”, Hội thảo về dự phòng nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm những người TCMT

tại Việt Nam, Hà Nội.

4. Bộ Y tế (2013), Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2012 và trọng tâm kế

hoạch 2013, Báo cáo số 53/BC.BYT, Hà Nội.

5. Bộ Y tế - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương - Quỹ Toàn cầu (2009), Điều tra cuối kỳ

Dự án “Tăng cường chăm sóc, tư vấn hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động

phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt Nam do Dự án Quỹ Toàn cầu tài trợ”,

Hà Nội.

6. Bộ Y tế - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương - Quỹ Toàn cầu (2006), Điều tra giữa kỳ

Dự án “Tăng cường chăm sóc, tư vấn hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động

phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt Nam do Dự án Quỹ Toàn cầu tài trợ”,

Hà Nội.

7. Bộ Y tế (2006), “Công tác chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam giai đoạn 2001-

2005”, Hội nghị quốc gia về quản lý, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, Tr.1- 7.

8. Bộ Y tế (2006), Chương trình hành động Chăm sóc, hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS tại Việt

Nam giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội, tr. 1-26.

9. Bộ Y tế (2006), Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học

HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam 2005 - 2006, Hà Nội.

10. Bộ Y tế - Ngân hàng Phát triển châu Á (2005), Đánh giá hiệu quả dự án "Cộng đồng

hành động phòng chống AIDS" tại Lai Châu, Quảng Trị, Đồng Tháp, An Giang và Kiên

Giang, Hà Nội.

11. Bộ Y tế (2000), Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005,

Hà Nội, tr. 18-30.

12. Bộ Y tế - Quỹ Toàn cầu (2004), Hướng dẫn triển khai hoạt động TVCSHT người nhiễm

HIV/AIDS dự án " Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt

động phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt Nam" do Quỹ Toàn cầu tài trợ,

Hà Nội.

13. Bộ Y tế - Quỹ Toàn cầu (2004) Hướng dẫn tổ chức triển khai hoạt động TVXNTN

người nhiễm HIV/AIDS dự án "Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và

các hoạt động phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt Nam" do Quỹ Toàn

cầu tài trợ, Hà Nội.

14. Bộ Y tế - Quỹ toàn cầu (2004), Hướng dẫn quản lý và tổ chức thực hiện điều trị

HIV/AIDS bằng thuốc kháng vi rút dự án "Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm

HIV/AIDS và hoạt động phòng chống HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt nam" do Quỹ

Toàn cầu tài trợ, Hà Nội.

15. Bộ Y tế - Viện Vệ sinh Dịch tể Trung ương (2004), Đề cương điều tra cơ bản dự án "

Tăng cường chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động phòng chống

HIV/AIDS dựa vào cộng đồng ở Việt Nam" do Quỹ Toàn cầu tài trợ, Hà Nội.

16. Bộ Y tế - Dự án Life-GAP (2003), Tình hình, nguy cơ và các đáp ứng với dịch

HIV/AIDS tại 14 tỉnh/thành phố dự án, Hà Nội.

17. Bộ Y tế - Ngân hàng Thế giới (2003), Kết quả điều tra lượng giá nguy cơ nhiễm

HIV/AIDS ở 7 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Phước, Bình Dương, Long An,

Sóc Trăng năm 2002, NXB Y học, Hà Nội.

18. Bộ Y tế - Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh Hoa Kỳ, Chương trình AIDS

Toàn cầu (2003), “Các chiến lược dự phòng trong nhóm sử dụng ma túy”, Hội thảo về

dự phòng nguy cơ lây nhiếm HIV trong nhóm những người nghiện chích ma túy tại Việt

Nam, Hà Nội.

19. Bộ Y tế - Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh Hoa Kỳ- Chương trình AIDS

Toàn cầu (2003), "Các nguyên tắc dự phòng HIV trong nhóm sử dụng ma túy", Hội

thảo về dự phòng nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm những người nghiện ma túy tại

Việt Nam, Hà Nội, 30/9-3/10/2003.

20. Bộ Y tế - Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh Hoa Kỳ, Chương trình AIDS

Toàn cầu (2003), "Các chiến lược kỹ thuật dự phòng cơ bản, " Hội thảo về dự phòng

nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm những người nghiện ma túy tại Việt Nam, Hà Nội,

30/9-3/10/2003.

21. Bộ Y tế - Ngân hàng Phát triển châu Á (2002), Kết quả điều tra cơ bản dự án "Cộng

đồng hành động phòng chống AIDS" tại: Lai Châu, Quảng Trị, Đồng Tháp, An Giang

và Kiên Giang, Hà Nội.

22. Bộ Y tế (2002), Truyền thông thay đổi hành vi phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS, Hà

Nội, tr. 15-18.

23. Bộ Y tế (2002), Đào tạo tư vấn và xét nghiệm HIV/AIDS tự nguyện - tập 1, NXB Y học,

tr. 7-21.

24. Bộ Y tế (2002), Tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV/AIDS, Hà Nội, tr. 5-9.

25. Bộ Y tế (2002), Giám sát Dịch tễ học HIV/AIDS, Hà Nội, tr. 48-50.

26. Bộ Y tế (2002), Các văn bản qui phạm pháp luật về phòng chống nhiễm HIV/AIDS, Hà

Nội, tr. 218-235.

27. Ban Phòng chống AIDS - Bộ Y tế (2001), Sổ tay hướng dẫn tư vấn phòng chống

HIV/AIDS, tr. 12 - 15.

28. Nguyễn Tuấn Bình (2001), Mô tả thực trạng dùng ma túy và nhiễm HIV ở người tiêm

chích ma túy tại Hà Nội bằng phương pháp đánh giá nhanh, Luận văn Thạc sỹ Y học,

Hà Nội.

29. Chương trình phòng chống Lao quốc gia (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm Chương

trình phòng chống Lao quốc gia (2007 - 2011), Hà Nội.

30. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc- Văn phòng Thường trực Phòng chống

AIDS - Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (2002), Báo cáo đánh giá Chương trình

quốc gia Phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam giai đoạn 1/1996 - 6/2001, Hà Nội.

31. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, Bộ Y tế (2007), Chăm sóc HIV/AIDS tại cộng

đồng, Hà Nội.

32. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, Bộ Y tế (2007), Báo cáo tổng kết công tác

phòng chống HIV/AIDS năm 2006, Hà Nội.

33. Cục Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam, Bộ Y tế (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm

công tác phòng chống HIV/AIDS, Hà Nội.

34. Đào Văn Dũng (2004), Thiết kế nghiên cứu hệ thống y tế, Nhà Xuất bản Y học, Hà

Nội.

35. Trương Việt Dũng (1998), "Đánh giá một chương trình can thiệp y tế", Phương pháp

nghiên cứu khoa học về y học, Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 83-84.

36. Phạm Thọ Dược (2014), Thực trạng nhiễm HIV, bệnh Lao AFB (+) và đánh giá hiệu

quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk, Luận án Tiến sỹ

Y tế công cộng, Hà Nội.

37. Don Sutherland (2003), Dịch tễ học sử dụng ma túy và lây nhiễm HIV tại châu Á: các

bài học và thực hành tốt nhất", Hội thảo về dự phòng nguy cơ lây nhiễm HIV trong

nhóm người nghiện ma túy tại Việt Nam, Hà Nội, 30/9 - 3/10/2003.

38. Nguyễn Văn Định (2004), ‘’Thực trạng chăm và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại một

số khu vực trọng điểm tỉnh Nghệ An năm 2004”, Luận văn Thạc sỹ Y tế công cộng, Hà

Nội.

39. Phương Đông (2002), “Chống kỳ thị, xa lánh và phân biệt đối xử với HIV/AIDS: Kinh

nghiệm của một số nước”, Tạp chí AIDS và cộng đồng, (số chuyên đề), tr 20-21.

40. Gary KalKut (2003), "Bệnh Lao và nhiễm HIV", Tài liệu Tập huấn Chẩn đoán, điều trị

và chăm sóc HIV/AIDS - Dự án Life-Gap, Hà Nội 04 - 07/3/2003.

41. Nguyễn Thị Thanh Hà (2004), Mô tả hành vi nguy cơ của người nhiễm HIV/AIDS và

thực trạng chăm sóc, hỗ trợ tại tỉnh Phú Thọ 2004, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ Y khoa,

Hà Nội.

42. Học viện Quân Y (1997), Dịch tễ học, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 1998.

43. Học Viện Quân Y (1997), Vi sinh vật y học, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội,

tr. 196.

44. Nguyễn Quang Hiển (2003), "Chẩn đoán - Điều trị - Chăm sóc bệnh nhân Lao-HIV",

Tài liệu Tập huấn Chẩn đoán, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS - Dự án Life -Gap, Hà

Nội 04 - 07/3/2003.

45. Nguyễn Trần Hiển (2003), "Giám sát dịch tễ học nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam", Tài

liệu hội thảo tại Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.

46. Nguyễn Trần Hiển, Lê Trường Giang, Phan Nguyên Bình và cộng sự (2000), “Yếu

tố nguy cơ nhiễm HIV và dùng chung bơm kim tiêm ở người NCMT ở TP. Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Y học thực hành (382), Bộ Y tế, Tr. 37-47.

47. Nguyễn Trần Hiển (1999), "Những thông tin cơ bản về HIV/AIDS", Trường Đại học Y

Hà Nội, tr 1-15.

48. Nguyễn Phương Hoa (2014), Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến lây nhiễm

HIV và một số nhiễm trùng lây qua đường tình dục ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại

Hà Nội, 2009-2010, Luận án Tiến sỹ Y tế công cộng, Hà Nội.

49. Nguyễn Tiến Hòa (2000), Nghiên cứu hoạt động chăm sóc sức khỏe người nhiễm

HIV/AIDS tại cộng đồng huyện Gia Lâm, Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Y tế công cộng, Hà

Nội.

50. Howard H. (2003), "Diễn biến lâm sàng của nhiễm HIV", Tài liệu Tập huấn chẩn đoán,

điều trị và chăm sóc HIV/AIDS - Dự án Life Gap, Hà Nội 04 - 07/3/2003.

51. Khuất Thu Hồng, Nguyễn Thị Vân, Lê Thị Phượng và công sự (2000),”Gái mại dâm

ở phía Bắc - một số khía cạnh xã hội và hành vi liên quan đến HIV/AIDS và STDs”, Tạp

chí Y học thực hành, (382), tr 178-182.

52. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (2005), Chăm sóc, hỗ trợ và chống kỳ thị, phân biệt đối xử

người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng, Hà Nội, tr. 29-58.

53. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2000), Những điều cần biết về phòng chống ma túy,

NXB Phụ nữ, Hà Nội, tr. 9-18.

54. Trịnh Quân Huấn (2006), "Báo cáo quản lý và điều phối viện trợ cho chương trình

phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2005", Hội thảo về Quản lý và sử

dụng viện trợ cho chương trình phòng chống AIDS, Hà Nội 11/2006.

55. Trịnh Quân Huấn (2002), "Dịch tễ học nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam”, Tài liệu Hội

thảo tại trường Đại học Y Hà Nội.

56. Phạm Mạnh Hùng (2003), "Thách thức và triển vọng phòng chống HIV/AIDS tại Việt

Nam", Hội thảo về dự phòng nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm người nghiện chích ma

túy tại Việt Nam, Hà Nội, 30/9-3/10/2003.

57. Trần Quốc Hùng, Hồ Bá Do (2005), "Thực trạng nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS ở

một số trại tạm giam thành phố Hà Nội", Y học thực hành: Các công trình nghiên cứu

khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2000 - 2005, (528, 529), Bộ Y tế, tr. 52-56.

58. Đặng Văn Khoát, Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Trần Văn Nhật (2000), "Đánh giá công

tác quản lý, chăm sóc và tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS ở Đà Nẵng", Tạp chí Y học

thực hành, (382), Bộ Y tế 4/2000, tr. 146.

59. Nguyễn Văn Kính (2008), Nghiên cứu mô hình quản lý, chăm sóc và tư vấn cho người

nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng, Luận án Tiến sỹ Y học, Học viện Quân Y, Hà Nội.

60. Nguyễn Thanh Long (2003), Đặc điểm dịch tễ học HIV/AIDS ở các tỉnh trọng điểm,

bước đầu can thiệp ở hai tỉnh miền Nam Việt Nam (1999 - 2002), Luận án Tiến sỹ Y

học, Hà Nội, tr. 1-29.

61. Nguyễn Duy Luật (2001), "Tổ chức bộ máy y tế Việt Nam", Quản lý y tế, NXB Y học,

Hà Nội, tr. 56-68.

62. Masami Fujita (2006), "Chăm sóc và điều trị HIV/AIDS: những kinh nghiệm và tiến bộ

quốc tế", Hội nghị Quốc gia về Quản lý, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, Hà Nội, 18-

19/5/2006.

63. Ngân hàng Thế giới (1999), Đối phó với tác động của AIDS. Đương đầu với AIDS -

những ưu tiên của chính phủ trong một đại dịch bệnh toàn cầu. Tài liệu dịch:

CONFRONTING AIDS: Public priorities in a global epidemic, publíhed for the World

Bank 1997, Oxford University press. Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, tr. 169-225.

64. Peter S. (2003), "Nghiện ma túy và HIV/AIDS: Chăm sóc và dự phòng", Tài liệu Tập

huấn Chẩn đoán, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS - Dự án Life- Gap, Hà Nội 04 -

07/3/2003.

65. Nguyễn Chí Phi, Đỗ Ánh Nguyệt, Lê Ngọc Yến và cộng sự (2000), Khảo sát đặc điểm

Y xã hội học và Y sinh học trên đối tượng nghiện chích ma túy nhiễm HIV ở các tỉnh

phía Bắc", Y học thực hành: Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS 1997-

1999, (382), Tr. 148-158.

66. Phạm Thị Minh Phương (2014), Thực trạng nhiễm HIV và các nhiễm trùng lây qua

đường tình dục ở phụ nữ bán dâm 4 quận Hà Nội và hiệu quả một số biện pháp can

thiệp, Luận án Tiến sỹ Y học, Hà Nội.

67. Trần Văn Quang (2011), Đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp giảm tác hại

phòng lây nhiễm HIV cho nhóm nam tiêm chích ma túy tại 3 huyện tỉnh Nam Định, Luận

văn Tiến sỹ Y học, Thái Bình.

68. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Phòng, chống

nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), Hà Nội.

69. Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (2003), Phòng chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người

nhiễm HIV/AIDS sẽ góp phần kiểm soát thành công đại dịch HIV/AIDS, Hà Nội.

70. Richard Needle, Jennifer Hegle (2003), "Liệu một chiến lược toàn diện có thể dự

phòng HIV cho nhóm tiêm chích ma túy?", Hội thảo về dự phòng nguy cơ lây nhiễm

HIV trong nhóm những người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, Hà Nội, 30/9 -

3/10/2003.

71. Sherry Deren, Richard Needle, Dave Burrows (2003), "Chương trình Tiếp cận cộng

đồng có làm giảm được hành vi nguy cơ và lây nhiễm HIV?", Hội thảo về dự phòng

nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm những người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, Hà

Nội, 30/9 - 3/10/2003.

72. Lê Trường Sơn (2005), “Thực trạng quản lý, tư vấn, chăm sóc người nhiễm HIV tại gia

đình ở một số khu vực trọng điểm tỉnh Thanh Hóa năm 2004”, Luận văn Thạc sỹ Y học,

Hà Nội.

73. Vũ Văn Tâm (2000), Nhiễm HIV và các yếu tố nguy cơ ở người NCMT tại TP. Hạ Long

và thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ Y học, Hà Nội.

74. Tôn Thất Thạnh (2000), Mô tả nguy cơ lây nhiễm HIV ở những người tiêm chích ma

túy và các hoạt động phòng chống ở TP. Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Y học, Hà Nội.

75. Vũ Công Thảo (2011), Thực trạng và đánh giá hiệu quả hoạt động chăm sóc, hỗ trợ,

điều trị bệnh nhân AIDS tại các phòng khám ngoại trú người lớn ở 3 tỉnh Việt Nam,

2009-2010, Luận án Tiến sỹ Y học, Hà Nội.

con và triển khai thí điểm mô hình can thiệp dự phòng tại Hải Phòng, 2005 -

2006, Luận án Tiến sỹ Y học, Hà Nội.

76. Nguyễn Trọng Thắng (2010), Nghiên cứu thực trạng lây truyền HIV từ mẹ sang

77. Nguyễn Trọng Thắng (2003), Thực trạng, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS ở người

nghiện chích ma túy, gái mại dâm và kết quả hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự

nguyện tại TP. Hải Phòng, Luận văn Thạc sỹ Y học, Hà Nội.

78. Nguyễn Thị Thanh Thủy và cộng sự (2000), “ Nhiễm HIV và các yếu tố nguy cơ trong

nhóm mại dâm nữ tại miền Nam Việt Nam”, Tạp chí Y học thực hành, (382), tr. 65-70.

79. Trần Thu Thủy, Trần Quốc Hùng (2006), "Công tác tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ người

nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam", Tạp chí Y học Quân

sự - Chuyên đề các công trình nghiên cứu về bệnh nhiệt đới, Cục Quân y, tr. 154-156.

80. Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh Hoa Kỳ- Chương trình AIDS Toàn cầu

(2003), Tài liệu Hội nghị về giảm tác hại bằng phương pháp điều trị Methadone, Hồng

Kông, 21- 25/10/2003.

81. Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An (2014), Báo cáo sơ kết một năm triển

khai mô hình tư vấn,chăm sóc và điều trị 3 trong 1 tại huyện Quế Phong và Quỳ Châu,

tháng 7/2014, Nghệ An.

82. Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An (2008, 2012, 2013), Báo cáo tổng kết

công tác phòng chống HIV/AIDS các năm 2008, 2012, 2013, Nghệ An.

83. Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An (2008, 2012, 2013), Thông báo tình

hình nhiễm HIV/AIDS các năm 2008, 2012, 2013, Nghệ An.

84. Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An (2007), "Báo cáo tổng kết công tác

phòng chống HIV/AIDS năm 2007", Nghệ An.

85. Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An (2007), "Báo cáo kết quả giám sát

trọng điểm HIV/AIDS/STI năm 2007", Nghệ An.

86. Trường Đại học Y Hà Nội (2003), Những thông tin cơ bản và cập nhật về HIV/AIDS,

Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS, Hà Nội, tr 34-52, 58-86.

87. Trường Đại học Y Hà Nội (1998), Vệ sinh môi trường - Dịch tễ, Tập 2, Nhà Xuất bản

Y học, Hà Nội, tr. 21-23.

88. Trường Đại học Y Hà Nội (1995), Nhiễm HIV/AIDS: Y học cơ sở, lâm sàng và phòng

chống, Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 32-178.

89. UBND tỉnh Nghệ An (2013): Báo cáo đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An

năm 2012, triển khai nhiệm vụ kế hoạch 2013, Nghệ An.

90. UBND tỉnh Nghệ An (2010), Báo cáo đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ

An 2010, triển khai nhiệm vụ kế hoạch 2011, Nghệ An.

91. UBND tỉnh Nghệ An - Ban chỉ đạo Phòng chống AIDS, Phòng chống tệ nạn ma túy,

mại dâm và phòng chống tội phạm (2010), Báo cáo đánh giá kết quả công tác năm

2010, triển khai nhiệm vụ kế hoạch 2011, Nghệ An.

92. UBND tỉnh Nghệ An - Ban chỉ đạo Phòng chống AIDS, phòng chống tệ nạn ma túy,

mại dâm và phòng chống tội phạm (2008), Báo cáo đánh giá kết quả công tác 2008,

triển khai nhiệm vụ kế hoạch 2009, Nghệ An.

93. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm

(2003), Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm

nhìn 2020, Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 7-92.

94. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm, NXB. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

95. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm

(2001), "Báo cáo tổng kết hoạt động giáo dục đồng đẳng phòng chống HIV/AIDS ở Việt

Nam", Tài liệu Hội nghị tổng kết và đánh giá công tác phòng chống HIV/AIDS giai

đoạn 1990 - 2000, Hà Nội.

96. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm

(2001), "Thực trạng đầu tư cho công tác phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam giai đoạn

1990 - 2000", Tài liệu Hội nghị tổng kết và đánh giá công tác phòng chống HIV/AIDS

giai đoạn 1990 - 2000, Hà Nội.

97. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS (2000), Bản tin nhanh HIV, (78).

98. Văn phòng thường trực phòng chống AIDS Quốc gia (2001), "Giám sát hành vi

HIV/STDs, đợt thứ nhất tại Việt Nam - Kết quả trên nhóm nghiện chích ma túy", Tài

liệu hội thảo Báo cáo kết quả chương trình giám sát hành vi HIV/STDs, đợt thứ nhất tại

Việt Nam, Hà Nội, 2/2001.

99. Văn phòng thường trực Phòng chống AIDS Quốc gia (2001), Bản tin nhanh

HIV/AIDS, tháng 11/2001 (112), tr. 8.

100. Văn phòng thường trực Phòng chống AIDS Quốc gia (2001), "Giám sát hành vi

HIV/STDs đợt thứ nhất tại Việt Nam - Kết quả trên nhóm gái mại dâm", Tài liệu hội

thảo Báo cáo kết quả chương trình giám sát hành vi HIV/STDs, đợt thứ nhất tại Việt

Nam, Hà Nội, 2/2001.

101. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (2013), "Báo cáo tình dịch HIV/AIDS và các đáp

ứng dự phòng và điều trị ở Việt Nam", Tài liệu hội nghị giám sát HIV 2013, Hà Nội,

tháng 12/2013.

102. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (2009), Kết quả giám sát kết hợp hành vi và các chỉ

số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam - Vòng II - 2009, Hà Nội.

103. Lê Ngọc Yến (2002), Nghiên cứu một số đặc điểm y sinh học và y xã hội học của

người nhiễm HIV/AIDS thuộc nhóm nghiện chích ma túy, Luận án Tiến sỹ Y học, Hà

Nội.

104. Lê Ngọc Yến, Ngô thị Khánh (2000), "Đánh giá một năm hoạt động của chương trình

giảm tác hại trong nhóm nghiện chích ma túy ở 5 tỉnh phía Bắc", Y học thực hành: Kỷ

yếu công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS 1997 - 1999, (382), tr. 158-164.

Tiếng Anh:

105. Afoakwa, Emmanuel O., et al (2005), “Nutrional Management of HIV/AIDS Patients

in Ghana”, Bridging Science and Community - Abstract Book of Seventh International

Congress on AIDS in Asia and the Pacific, Kobe, pp. 197.

106. Afoakwa, Emmanuel O., et al (2005), "Nutritional Care and Support for People

living with HIV/AIDS in Sub - Saharan Africa”, Bridging Science and Community-

Abstract Book of Seventh International Congress on AIDS in Asia and the Pacific,

Kobe, pp. 204

107. Allen S., Meinzen-Derr J., Kautzman M., Zulu I., et al (2003), Sexual Behavior of

HIV Discordant Couples after HIV Counselling and Testing, AIDS 2003 Mar 28, 17 (5),

pp. 733-740.

108. CDC (2000), “National HIV Testing Day at CDC- Funded Site”, MMWR, 49, pp. 529-

532.

109. Chama S., Kayawe I. (2000), “Sharing HIV Test Results with Future and Current

Marriage Partner in Zambia”, Medline – Sex Health Exch 2000 (1), pp. 7-8.

110. Cohen P.T., Merle Sande A., Paul Volberding A. (1999), "The AIDS knowledge

base", The texbook on HIV disease form Univ. of California, second edition, 1.1-1.2.

111. Des Jarlais D.C., Marmor M., Djltus S., et al (1996), “HIV Incidence among

Injecting Drug Users in New York City Syrings – Exchange Programs”, Lancet, 348

(9033), pp. 987 -991.

112. Eaton D.K et al. (2006), “Youth risk behavior surveillance, United States, 2005”,

Morbidity & Mortality Weekly Report 2006, 55(SS-5): 1-108.

113. Forsythe S., Arthur G., Ngatia G., et al (2002), Assessing the Cost and Willingness

to Pay for Voluntary HIV Counselling and Testing in Kenya”, Medline Policy Plan

2002 Jun, 17 (2), pp. 187-95.

114. FHI (2004), HIV voluntery counseling and testing: A reference guide for counselors

and trainer

115. Kawichai S., Celentano D.D., Chaifongsri R., et al (2002), “Profiles of HIV

Voluntary Counselling and Testing of Clients at a District Hospital, Chiang Mai

Province, Northern Thailand, from 1995 to 1999”, Medline – J Acquir Immune Defic

Syndr 2002 Aug, 30 (5), pp. 493-502.

116. Kiragu Karungary et al. (2001), “Youth and HIV/AIDS: Can We Avoid

Catastrophe?”, Population Reports, Series L, No. 12. Baltimore, The Johns Hopkins

University Bloomberg School of Public Health, Population Information Program, Fall

2001.

117. Kruy S.L., Glaziou P., Flye Sainte Marie F., et al (2001), “Incidence of HIV

Infection in Consultants Reviewed after a First Negative Test in an Anonymous and

Free Screening Center at the Institute Pasteur of Cambodia 1996-1999”, Medline – Bull

Soc Pathol Exot 2001 Dec, 94 (5), pp. 415-7.

118. Li, Li, Wu, Zunyou, et al (2005), “Families living with HIV/AIDS in China”,

Bridging Sience and Community – Abstract Book of Seventh International Congress on

AIDS in Asia and the Pacific, Kobe, pp. 29.

119. Maman S., Mbwambo J., Hogan N.M., et al (2001), “Women’s Barriers to HIV-1

Testing and Disclosure: Challenges for HIV-1 Voluntary Counselling and Testing”

Medline – AIDS Care 2001 Oct, 13 (5), pp. 595-603.

120. Manirul Islam, et al (2001), “Condom Use Behavior Among Thai Youth”, Sixth

International Congress on Asia and the Pacific, pp. 234.

121. Matovu J.K., Kigozi G., Nalugoda F., et al (2002), “The Rakai Project Counselling

Programme Experience”, Medline, Trop Med Int Health 2002 Dec; 7 (12), pp. 1064-7.

122. Matulessy, Paul F., et al (2005), “Nutrition Management and Survival Rate of

PLWAIDS and Drug User in Jakarta, Indonesia”, Bridging Sience and Community –

Abstract Book of Seventh Intrenational Congress on AIDS in Asia and the Pacific,

Kobe, pp. 205.

123. Merson M.H., Dayton J.M., O’Reilly K. (2000), Effectiveness of HIV Prevention

Interventions in Developing Countries”, Medline – AIDS 2000 Sep, 14 Suppl 2, pp. 68-

84.

124. Painter T.M. (2001), “Voluntary Counseling and Testing for Couples: a High-

Leverage Intervention for HIV/AIDS Prevention in Sub-Saharan Africa”, Medline –

Soc Sci Med 2001 Dec, 53 (11), pp. 1397-411.

125. Pham, Thuy T.H. (2005), “Training on Care Giving to PLWAIDS for Their Family

Members”, Bridging Science and Community – Abstract Book of Seventh Intrenational

Congress on AIDS in Asia and the Pacific, Kobe, pp. 27.

126. Ronald O., Valdiserri, et al (1998), “Where Injecting Drug Users Receive HIV

Counseling and Testing”, Public Health Report.

127. Sati B., Garg D.K., et al (2004), “Prevalence of Malnitrition among HIV Infected Individuals in Rajasthan, India”, Access for All- Abstract Book of 15th International AIDS Conference, Bangkok, pp. 68.

128. Sweat M., Gregorich S., Sangiwa G. (2000), “Cost – Effectiveness of Voluntary

HIV-1 Counseling and Testing in Reducing Sexual Transmission of HIV-1 in Kenya

and Tanzania”, Medline – Lancet 2000 Jul 8, 356 (9224), pp. 113-21.

129. Sweat M., Gregorich S., Sangiwa G. (2000), “Efficacy of Voluntary HIV-1

Counseling and Testing in Individuals and Couples in Kenya, and Tanzania, and

Trinidad: a Randomised Trial”, Medline – Lancet 2000 Jul 8, 356 (9224), pp. 103-12.

130. Sujata Rama (1998), Global Overview on Drug Situation and AIDS Epidemic, Hanoi.

131. The Monitoring the AIDS pandemic Network (2004), AIDS in Asia: Face the Facts,

http://mapnetwork.org/report/aids_in_asia.html.

132. UNAIDS (2012), 2012 report on global AIDS epidemic, Geneva, 2012.

133. UNAIDS (2008), Report on global AIDS epidemic, Geneva, 2008.

134. WHO, Regional office for Africa (2008), HIV/AIDS epidemiological surveillance

report for WHO African Region: 2007 update.

135. UNAIDS (2007), Behaviour Change, website:

http://www.unaids.org/en/Issue/Prevention_treatment/20070501/Behaviour_change.asp

.

136. UNAIDS (2007), HIV Treatment, Care and Support, website:

htpp://www.unaids.org/en/Policies/Treatment_care/default/asp.

137. UNAIDS (2007), Nutrition and Food Security, website:

htpp://www.unaids.org/en/Policies/Nutrition/default/asp.

138. UNAIDS (2007), Counselling and Testing, website:

htpp://www.unaids.org/en/Policies/Testing/default/asp.

139. UNAIDS (2000), “Injection Drug Use: the Other HIV Epidemic”, Report on the

Global HIV/AIDS Epidemic, pp. 74-77.

140. UNAIDS-UNDP (2000), Drug Abuse & HIV/AIDS: a Devastating Combination.

141. World Health Organization (2013), Global Update on HIV Treatment 2013.

142. WHO/UNAIDS (2013), "AIDS epidemic update June, 2013"

143. World Health Organization (2013), Global Report on HIV Treatment 2013.

Voluntary Counseling and Testing an a Rural District of Malawi”, Mediline, Trop Doct

2003 Apr; 33 (2), pp. 88-91.

144. World Health Organization (2012), Global Tuberculosis Report 2012.

145. WHO (2004), Nutrition Counselling, Care and Support for HIV- Infected Women-

Guidelines on HIV – Related Care, Treatment and Support for HIV- Infected Women

and Their Children in Resouce- Constrained Settings, pp. 20.

146. WHO (2002), Monitoring and Evaluation of the 100% Condom Use Program in

Entertainment Establishments, pp. 1-22.

147. WHO (2002), Training Course for the 100% Condom Use Program, pp. 1-22.

148. WHO (1998), “Finding Out One’s HIV Status”, Report on the Global HIV/AIDS

Epidemic, June 1998.

149. Xia M., Kreiss J.K., Holm K. (2000), “Risk Factors for HIV Infection Among Drug Users in Yunman Province, China”, Abstract Book in 13th International AIDS

Conference, Durban 9-14 July, Vol 2.

150. Zachariah R., Spielmann M.P., Harries A.D., et al (2003), “Motives Sexual

Behaviour, and Risk Factors Associated with HIV in I

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Nguyễn Văn Định, Nguyễn Thanh Long, Phan Trọng Lân và cộng sự (2014), “Thực trạng

tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng tỉnh Nghệ An năm

2012”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIV, Số 8 (157), Hà Nội. Tr. 79 - 85

2. Nguyễn Văn Định, Nguyễn Thanh Long, Phan Trọng Lân và cộng sự (2014), “Hiệu quả

hoạt động tư vấn, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng tỉnh Nghệ An

sau 4 năm can thiệp, 2008 - 2012”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIV, Số 8 (157), Hà

Nội. Tr. 86 - 92.

Phụ lục 1

TÓM TẮT HIỆU QUẢ CAN THIỆP QUA CÁC CHỈ SỐ

CSHQ (%)

P

2008 (%)

2012 (%)

Hiệu quả can thiệp Chỉ Nội dung đánh giá số

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS tự 83,2 88,3 6,1 >0,05 1 nguyện xét nghiệm HIV

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được tư 68,4 76,6 12,0 >0,05 2 vấn đúng trước xét nghiệm

Tỷ lệ người nhiễm HIV được tư vấn 81,6 86,7 6,3 >0,05 3 đúng sau xét nghiệm

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được tư 66,1 80,8 22,2 <0,01 4 vấn hỗ trợ thường xuyên

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có bạn 66,1 83,3 26,0 <0,01 5 tình làm xét nghiệm HIV

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có thói 34,5 41,2 - - 6 quen uống nước lã

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có thói 86,1 93,8 - - 7` quen uống nước đá

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có thói 88,2 90,6 - - 8 quen ăn rau sống

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có thói 77,9 37,7 51,6 <0,01 9 quen ăn thức ăn bữa trước

2,7

1,3

51,9

>0,05

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS bị gia 10 đình ruồng bỏ, xa lánh

82,2

91,4

11,2

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được 11 gia đình chăm sóc, hỗ trợ

4,5

3,6

20,0

>0,05

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS bị cộng 12 đồng ruồng bỏ, xa lánh

CSHQ (%)

P

2008 (%)

2012 (%)

Hiệu quả can thiệp Chỉ Nội dung đánh giá số

35,7

66,9

87,4

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được 13 cộng đồng chăm sóc, hỗ trợ

40,0

63,0

57,5

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận

thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội trong 14

6 tháng trước điều tra

26,5

84,1

217,4

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS đang 15 được điều trị ARV

34,7

52,3

50,7

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV được chụp XQ 16 phổi phát hiện Lao

62,8

72,4

15,3

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận 17 BCS

48,1

57,5

19,5

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận 18 BKT

91,0

94,5

40,4

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được hỗ 19 trợ đồng đẳng viên

16,8

24,0

42,9

<0,05

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS được 20 sinh hoạt câu lạc bộ

83,5

73,1

-

-

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS nhận tờ 21 rơi, tờ bướm

61,7

38,7

42,3

<0,01

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có

TCMT còn tiêm chích trong tháng 22

trước điều tra

18,0

15,5

13,9

>0,05

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS còn 23 TCMT dùng chung BKT

27,9

26,5

5,0

>0,05

Tỷ lệ nam nhiễm HIV/AIDS có

QHTD với GMD trong 12 tháng trước 24

điều tra

18,2

8,9

51,1

>0,05

Tỷ lệ nam nhiễm HIV/AIDS không sử 25 dụng BCS lần QHTD gần nhất với

CSHQ (%)

P

2008 (%)

2012 (%)

Hiệu quả can thiệp Chỉ Nội dung đánh giá số

GMD

57,1

42,4

25,7

>0,05

Tỷ lệ nam nhiễm HIV/AIDS không

thường xuyên sử dụng BCS với GMD 26

12 tháng trước điều tra

-

-

14,7

15,7

Tỷ lệ nam nhiễm HIV không sử dụng 27 BCS lần QHTD gần nhất với BTTX

23,7

36,7

-

-

Tỷ lệ nam nhiễm HIV không thường

xuyên sử dụng BCS với BTTX 12 28

tháng trước kiểm tra

21,9

>0,05

44,8

35,0

Tỷ lệ nữ nhiễm HIV không sử dụng 29 BCS lần QHTD gần nhất với BTTX

62,1

50,0

19,5

>0,05

Tỷ lệ nữ nhiễm HIV không thường

xuyên sử dụng BCS với BTTX 12 30

tháng trước điều tra

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS vẫn 20,0 15,7 21,5 >0,05 31 sinh con sau nhiễm HIV

Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS dự định 32 - 6,9 15,4 - sinh con thời gian tới

Phụ lục 2 PHIẾU PHỎNG VẤN NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

Được sự uỷ nhiệm của Sở Y tế và Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh, với mục đích

nâng cao chất lượng quản lý, chăm sóc, tư vấn và điều trị những người nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng, chúng tôi xin hỏi bạn một số câu hỏi về những thông tin có liên quan đến HIV/AIDS. Những thông tin bạn cung cấp sẽ rất có giá trị cho các hoạt động hỗ trợ y tế, chăm sóc, quản lý, điều trị người nhiễm HIV/AIDS và sẽ được giữ kín. Rất mong sự hợp tác của bạn. Tỉnh/thành phố:................................................................................................................................. Quận/huyện/thị:................................................................................................................................ Phường/xã:........................................................................................................................................ Ngày phỏng vấn: ___/___/20___ Điều tra viên:.....................................................................Ký tên.................................................... Giám sát:............................................................................Ký tên....................................................

PHẦN 1: NHỮNG THÔNG TIN CÁ NHÂN

Trả lời

Mã hóa

Câu hỏi

Mã số

|__|__|__|

Địa chỉ

TT C6.101 C6.102

C6.103

Bạn sống ở địa phương này bao lâu rồi?

|__|__| |__|__|

C6.104

Bạn sinh vào tháng, năm nào?

C6.105

Giới

C6.106

Bạn học đến hết lớp mấy?

C6.107

Bạn là người dân tộc gì?

C6.108

Bạn theo tôn giáo nào?

|__|__| |__|__|__|__| 1 2 1 2 3 4 5 1 2 1 2 3 4 5 6

Xã/phường............................................... Huyện/TP/TX.......................................... Số năm Số tháng Tháng Năm Nam Nữ Mù chữ Tiểu học (1-5) Trung học cơ sở (6-9) Phổ thông trung học (10-12) Cao đẳng, đại học (>12) Dân tộc Kinh Dân tộc khác (Ghi rõ) ........................................ Đạo phật Đạo tin lành Đạo thiên chúa Thờ ông/bà tổ tiên Không theo đạo nào Đạo khác (ghi rõ) .......................................

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

C6.109

Tình trạng hôn nhân của bạn hiện nay như thế nào?

1 2  C6.113 3 4 5 6

C6.110

Nếu có, bạn lập gia đình lần đầu vào tháng năm nào?

C6.111 Bạn đã có con chưa (con đẻ)?

C6.112 Nếu có, bạn có bao nhiêu con?

C6.113

Hiện bạn đang sống với ai? (có thể có nhiều tình huống, các huống phải khoanh 1 hoặc 2)

1 2  C6.113 |__|__| |__|__| Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

Có vợ/chồng Độc thân Ly dị Góa Ly thân Sống chung không kết hôn Tháng [__|__] Năm [__|__]__]__] Ghi rõ số năm (Vd: 1998) Không nhớ điền 00 Có Chưa Số con trai Số con gái Với bố, mẹ Với anh, chị em Với vợ/chồng Với họ hàng thân thuộc Với bạn bè Lang thang Sống một mình Với người khác (ghi rõ) ...................................................

C6.114

Nghề nghiệp chính hay công việc thường xuyên của bạn?

1 2 3 4 5 6 7 8

Nông dân Công nhân Bộ đội/công an Lái xe Học sinh/sinh viên Nhân viên hành chính Thất nghiệp Nghề khác (ghi rõ) ...............................................

PHẦN 2: TƯ VẤN XÉT NGHIỆM HIV

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

TT C6.201

Bạn biết mình nhiễm HIV khi nào?

C6.202

Bạn đã tư vấn, xét nghiệm HIV ở đâu?

|__|__| |__|__|__|__| 1 2 3 4

C6.203

Bạn xét nghiệm HIV là tự nguyện hay bắt buộc?

C6.204

Cán bộ y tế trao đổi gì với bạn về

Tháng Năm TTPCHIV.AIDS/ TTYTDP Bệnh viện Phòng VCT của dự án QTC Nơi khác (Ghi rõ) ..................................................... Tự nguyện Bắt buộc Không biết, không rõ Trao đổi về nguy cơ nhiễm HIV của bạn

1 2 3 Có Không 1 2

1

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa 1 2 1 2 1 2 1 2

Giải thích kết quả XN Phương pháp phòng tránh nhiễm HIV Nên làm gì khi biết kết quả XN Khác (ghi rõ) ...................................................................

C6.204a

Số ngày |__|__|__|

C6.205

Giải thích kết quả XN Phương pháp phòng tránh nhiễm HIV Nên làm gì khi biết kết quả XN

Giới thiệu những nơi có thể giúp đỡ bạn

Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

C6.206

HIV/AIDS trước khi lấy mẫu xét nghiệm (tư vấn trước xét nghiệm) ? Hỏi từng ý một. Khoanh những câu trả lời thích hợp Trong thời gian bao lâu kể từ khi lấy máu XN thì anh/chị nhận được kết quả khẳng định (ghi thời gian cụ thể) Cán bộ y tế nói gì về HIV/AIDS khi thông báo kết quả xét nghiệm (tư vấn sau xét nghiệm)? Hỏi từng ý một. Khoanh những câu trả lời thích hợp Theo bạn, lý do nào bạn bị nhiễm HIV? (hỏi và chọn một tình huống có nguy cơ nhất) C6.205

C6.207

Sau khi biết mình bị nhiễm HIV, trong năm qua bạn được tư vấn thường xuyên như thế nào?

2

1 2 3 4 5 6 7 8 9 1 2 3 4 5 6 7 8

C6.208

Nếu cụ thể nội dung tư vấn là gì?

Có 1 1 1 1 1 1

không 2 2 2 2 2 2

Khác (ghi rõ) ................................................................... Tình dục đồng giới Tình dục với gái mại dâm Tình dục với bạn tình Tình dục với nhiều người (MD) Tình dục với vợ/chồng Tiêm chích ma tuý Mẹ bị nhiễm HIV Không biết Lý do khác (ghi rõ) .................................................................. Hàng tuần 2-3 lần/tháng Hàng tháng 2-5 lần/6 tháng qua 6 tháng/lần 1 lần trong năm qua Không lần nào trong năm qua Khác (ghi rõ) ................................................................... An ủi động viên vượt qua khủng hoảng Thay đổi và duy trì hành vi an toàn Chăm sóc sức khỏe Dinh dưỡng Các thuốc điều trị Nội dung khác (ghi rõ) .................................................

PHẦN 3: BIỂU HIỆN LÂM SÀNG, ĐIỀU TRỊ VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

C6.301

Trả lời

Mã hóa

TT C6.301

Câu hỏi Trong 6 tháng qua bạn có những triệu chứng nào sau đây không? (không đọc các ý trả lời, chỉ gặng hỏi và yêu cầu bệnh nhân mô tả các triệu chứng và khoanh vào ô thích hợp)

có 1 1 1 1 1 1 1

Không 2 2 2 2 2 2 2

C6.301a Trong 6 tháng qua, bạn có nhận được thuốc

C6.302

điều trị dự phòng Cotrimoxazole không? Trong 6 tháng qua, bạn có nhận được thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội miễn phí không?

Không biết Sút cân > 10% Sốt kéo dài hơn 1 tháng Tiêu chảy kéo dài hơn 1 tháng Ho kéo dài hơn 1 tháng Nuốt đau Triệu chứng khác (ghi rõ) .................................................. Có Không Không Một phần Toàn bộ

1 2 1 C6.302b 2 3

C6.302a Bạn nhận được thuốc miễn phí từ đâu?

C6.302b Bạn có được điều trị thuốc ARV không?

Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

C6.302c Trong 6 tháng qua, anh/chị đã nhận được thuốc điều trị đặc hiệu đối với HIV chưa?

C6.305  C6.305

C6.302d Bạn đã được điều trị trong thời gian bao lâu?

C6.302e Trong thời gian điều trị bạn có được làm xét

nghiệm hay không?

C6.302g Bạn đã từng được miễn phí cho xét nghiệm

này không?

Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2

Trạm y tế xã phường Bệnh viện/ trung tâm y tế huyện Bệnh viện tỉnh/ trung ương Phòng khám ngoại trú (OPC) Khác (ghi rõ) ..................................................... Có 1 Không 2 Có 1 Chưa 2 |__|__| Tháng Nếu dưới 1 tháng điền số 0 Xét nghiệm máu Chụp X Quang Đếm Tế bào CD4 Khác (ghi rõ) ......................... Xét nghiệm máu Chụp X Quang Đếm Tế bào CD4 Khác (ghi rõ) .........................

C6.305

Có Không

1 2 C6.308

C6.306

Có Không

1 2 C6.308

C6.307

Trong năm qua, anh/chị có được khám và chụp X- Quang phổi phát hiện Lao lần nào chưa? Nếu có, anh/chị có được chẩn đoán mắc bệnh Lao không? Nếu có, anh/chị có nhận được thuốc điều trị Lao miễn phí không?

Không Một phần Toàn bộ

1 2 3

3

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

C6.308

C6.314 C6.314

Có 1 Không 2 Không biết 3

C6.309

Không

Trong 12 thỏng qua anh/chị có bị đau, loét, sùi, chảy mủ bộ phận sinh dục hay ra huyết trắng bất thường (mùi hôi) hay không? Trong lần gần đây nhất, khi bạn bị đau, loét, sùi, chảy mủ bộ phận sinh dục hay ra huyết trắng bất thường (mùi hôi) bạn đã làm gì? Hỏi từng ý một. Khoanh những câu trả lời thích hợp

1 1 1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2 2 2

Không làm gì cả Đi khám, chữa tại các cơ sở y tế nhà nước Đi khám, chữa tại các cơ sở y tế tư nhân Đến các nhà thuốc mua thuốc theo hướng dẫn của nhà thuốc Đi khám, chữa tại các thầy lang Tự chữa ở nhà Nói cho bạn tình biết về các dấu hiệu của mình Ngừng không quan hệ tình dục khi bạn có các dấu hiệu Dùng bao cao su để quan hệ tình dục trong thời gian bạn có các dấu hiệu trên

C6.314

Bạn có thường xuyên uống nước lã (chưa đun sôi) không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

C6.315

Bạn có thường xuyên uống nước đá lạnh ngoài hàng/quán không?

C6.316

Bạn có hay ăn rau sống không?

C6.317

Bạn có ăn thức ăn nấu từ ngày hôm trước không hâm lại không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3

PHẦN 4: HÀNH VI TIÊM CHÍCH MA TÚY

Câu hỏi

Trả lời

TT C6.401

Bạn đó sử dụng ma túy bao giờ chưa?

Mã hóa 1 2C6.501

C6.402

Nếu có, bạn bắt đầu sử dụng ma tuý vào năm nào?

C6.403

Bạn đó tiêm chích ma túy bao giờ chưa?

1 2C6.501

C6.404

Nếu có, bạn bắt đầu tiêm chích ma túy vào năm

nào?

Có Chưa Năm [__|__]__]__] Ghi rõ số năm (Vd: 1998) Không nhớ điền 00 Có Chưa Năm [__|__]__]__] Ghi rõ số năm (Vd: 1998) Không nhớ điền 00

4

TT

Câu hỏi

Trả lời

C6.405

Trong 1 tháng qua, bạn có tiêm chích thường xuyên không? Khoanh một câu trả lời.

Khoảng 1 lần trong ngày 1 2-3 lần trong ngày 2 4 lần hoặc hơn trong 1 ngày 3 4-6 lần trong tuần 4 2-3 lần trong tuần 5 Khoảng 1 lần trong tuần 6 1-3 lần trong tháng 7 Dưới 1 lần trong tháng 8 Không lần nào trong tháng 9

C6.406

Trong 1 tháng qua, khi bạn tiêm chích ma tuý bạn có thường xuyên sử dụng bơm kim tiêm mà người khác đã hoặc vừa dùng xong không?

Luôn luôn Hầu hết các lần Khoảng nửa số lần Đôi khi Không bao giờ

Mã hóa  C6.501

C6.407

Trong 1 tháng qua bạn có thường xuyên đưa cho người khác dùng lại bơm kim tiêm mà bạn đã hoặc vừa dùng xong không?

Luôn luôn Hầu hết các lần Khoảng nửa số lần Đôi khi Không bao giờ

C6.408

Vợ/chồng, người yêu Gái mại dâm Bạn tình khác Bạn chích

 C6.501

Trong 1 tháng qua, nếu bạn đó từng đưa cho người khác dùng lại bơm kim tiêm mà bạn đã hoặc vừa dùng xong, bạn thường đưa cho ai? Không đọc mà chỉ gặng hỏi: còn ai khác không? Khoanh những câu trả lời thích hợp.

1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

Người khác (Ghi rõ) ......................................

PHẦN 5: QUAN HỆ TÌNH DỤC - SỐ VÀ LOẠI BẠN TÌNH

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

C6.501

Bạn đã quan hệ tình dục bao giờ chưa?

Đã QHTD 1 Chưa bao giờ QHTD 2

C6.1008

C6.502

Bạn quan hệ tình dục lần đầu tiên lúc bao nhiêu tuổi?

Tuổi [__|__] Không nhớ 99

C6.503

Trong 12 tháng qua, bạn đã có quan hệ tình dục với tất cả bao nhiêu người khác nhau: Đọc to:

Xin hãy dành thời gian suy nghĩ về câu trả lời này để chúng tôi có được thông tin càng chính xác càng tốt. Thông tin này hoàn toàn bí mật.

Tổng số bạn tình trong 12 tháng qua [__|__] Không nhớ 99

5

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

Nữ

C6.504

504. 1b -Chồng và người yêu [__|__] Không nhớ 99 504.3b -Số bạn tình bất chợt không trả tiền - [__|__] Không nhớ 99 504.4b -Số khách làng chơi - [__|__] Không nhớ 99

Trong tất cả những người mà bạn đó có quan hệ tình dục trong 12 tháng qua, bao nhiêu là: Điều tra viên phải đọc rõ phần sau: "Vợ/chồng, người yêu": Bạn có quan hệ tình dục thường xuyên và không trả tiền. "Gái mại dâm": Quan hệ tình dục có trả tiền. "Bạn tình bất chợt không trả tiền": những người mà bạn có quan hệ tình dục nhưng không phải là vợ, người yêu hay gái mại dâm" "Khách làng chơi" là nam giới khi quan hệ tình dục họ phải trả tiền

Nam 504. 1a -Vợ và người yêu [__|__] Không nhớ 99 504.2a -Số gái mại dâm [__|__] Không nhớ 99 504.3a -Số bạn tình bất chợt không trả tiền - [__|__] Không nhớ 99 Chỳ ý: kiểm tra số bạn tình trong C503 và C504 để đảm bảo các con số khớp nhau.

PHẦN 6: QUAN HỆ TÌNH DỤC VỚI VỢ/CHỒNG, NGƯỜI YÊU

Chỉ hỏi phần này đối với những người có câu trả lời C6.504.1 lớn hơn hay bằng 1

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

TT C6.601

Số lần quan hệ tình dục |__|__|

Không nhớ 99

C6.602

C6.603

Trong 30 ngày qua, bạn quan hệ tình dục với vợ/chồng và người yêu bao nhiêu lần? Trong lần QHTD gần đây nhất, bạn có quan hệ tình dục với vợ/chồng hoặc người yêu, bạn có sử dụng bao cao su không? Ai đã gợi ý sử dụng bao cao su lần quan hệ đó?

Có 1 Không 2 Không nhớ 3 Tự bản thân 1 Bạn tình 2 Cùng quyết định 3

C6.604 C6.605  C6.605  C6.605  C6.605

C6.604

Nếu không, tại sao bạn không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ đó? Không đọc mà chỉ gặng hỏi: còn lý do nào khác không? Khoanh những câu trả lời thích hợp.

Có Kh Không có sẵn BCS 1 2 Quá đắt 1 2 Bạn tình phản đối 1 2 Không thích dùng 1 2 Uống thuốc tránh thai 1 2 Không cho là cần thiết 1 2 Không nghĩ về điều đó 1 2 Khác (Ghi rõ) 1 2 …………………………………

Trong 12 tháng qua, bạn có thường xuyên sử dụng BCS

Luôn luôn (lần nào cũng dùng) 1

6

C6.605

với vợ/chồng, người yêu không?

Hầu hết các lần 2

Khoảng nửa số lần 3 Đôi khi 4

Không bao giờ 5

PHẦN 7: QUAN HỆ TÌNH DỤC VỚI GÁI MẠI DÂM Chỉ hỏi phần này đối với Nam giới những người có câu trả lời C6.504.2 lớn hơn hay bằng 1

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

TT C6.701

Số lần quan hệ tình dục |__|__|

Không nhớ 99

C6.702

Trong 30 ngày qua, bạn quan hệ tình dục với gái mại dâm bao nhiêu lần? Trong lần QHTD gần đây nhất, bạn có quan hệ tình dục với gái mại dâm, bạn có sử dụng bao cao su không?

C6.703

Ai đã gợi ý sử dụng bao cao su lần quan hệ đó?

C6.704 C6.705  C6.705  C6.705  C6.705

C6.704

Nếu không, tại sao bạn không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ đó? Không đọc mà chỉ gặng hỏi: còn lý do nào khác không? Khoanh những câu trả lời thích hợp.

Có 1 Không 2 Không nhớ 3 Tự bản thân 1 Bạn tình 2 Cùng quyết định 3 Có Kh Không có sẵn BCS 1 2 Quá đắt 1 2 Bạn tình phản đối 1 2 Không thích dùng 1 2 Uống thuốc tránh thai 1 2 Không cho là cần thiết 1 2 Không nghĩ về điều đó 1 2 Khác (Ghi rõ) 1 2 …………………………………. Luôn luôn (lần nào cũng dùng) 1

C6.705 Trong 12 tháng qua, bạn có thường xuyên sử dụng BCS

Hầu hết các lần 2

với gái mại dâm không?

Khoảng nửa số lần 3 Đôi khi 4

Không bao giờ 5

PHẦN 8: QUAN HỆ TÌNH DỤC VỚI BẠN TÌNH BẤT CHỢ KHÔNG TRẢ TIỀN Chỉ hỏi phần này đối với những người có câu trả lời C6.504.3 lớn hơn hay bằng 1

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

TT C6.801

Trong 30 ngày qua, bạn có quan hệ tình dục với bạn tình bất chợt không trả tiền bao nhiêu lần?

C6.802

Trong lần QHTD gần đây nhất, bạn có quan hệ tình dục với bạn tình bất chợt không trả tiền, bạn có sử dụng bao

Số lần |__|__| Không nhớ 99 C6.804 C6.805

Có 1 Không 2 Không nhớ 3

7

C6.803

cao su không? Ai đã gợi ý sử dụng bao cao su lần quan hệ đó?

Tự bản thân 1 Bạn tình 2 Cùng quyết định 3

 C6.805  C6.805  C6.805

C6.804

Nếu không, tại sao bạn không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ đó? Không đọc mà chỉ gặng hỏi: còn lý do nào khác không? Khoanh những câu trả lời thích hợp.

Có Kh Không có sẵn BCS 1 2 Quá đắt 1 2 Bạn tình phản đối 1 2 Không thích dùng 1 2 Đã sử dụng cách khác 1 2 Uống thuốc tránh thai 1 2 Không cho là cần thiết 1 2 Không nghĩ về điều đó 1 2 Khác (Ghi rõ) 1 2 ………………………………… ….

Luôn luôn (lần nào cũng dùng) 1

Hầu hết các lần 2

C6.805

Trong 12 tháng qua, bạn có thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình bất chợt không?

Khoảng nửa số lần 3 Đôi khi 4

Không bao giờ 5

PHẦN 9: QUAN HỆ TÌNH DỤC VỚI KHÁCH LÀNG CHƠI

Chỉ hỏi phần này đối với Gái mại dâm những người có câu trả lời C6.504.4 lớn hơn hay bằng 1

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

TT C6.901

Trong 30 ngày qua, bạn quan hệ tình dục với khách làng chơi bao nhiêu lần?

C6.902

Trong lần QHTD gần đây nhất, bạn có quan hệ tình dục với khách làng chơi, bạn có sử dụng bao cao su không?

C6.903

Ai đã gợi ý sử dụng bao cao su lần quan hệ đó?

Tự bản thân 1 Bạn tình 2 Cùng quyết định 3

Số lần quan hệ tình dục |__|__| Không nhớ 99 Có 1 C6.904 Không 2 C6.905 Không nhớ 3  C6.905  C6.905  C6.905

8

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

TT C6.904

Có Kh Không có sẵn BCS 1 2 Quá đắt 1 2 Bạn tình phản đối 1 2 Không thích dùng 1 2 Uống thuốc tránh thai 1 2 Không cho là cần thiết 1 2 Không nghĩ về điều đó 1 2 Khác (Ghi rõ) 1 2 ………………………………….

Nếu không, tại sao bạn không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ đó? Không đọc mà chỉ gặng hỏi: còn lý do nào khác không? Khoanh những câu trả lời thích hợp.

C6.905 Trong 12 tháng qua, bạn có thường xuyên sử dụng BCS

với khách làng chơi không?

Luôn luôn (lần nào cũng dùng) 1 Hầu hết các lần 2 Khoảng nửa số lần 3 Đôi khi 4

Không bao giờ 5

PHẦN 10: THAY ĐỔI HÀNH VI SAU KHI BỊ NHIỄM HIV

TT

Câu hỏi

Mã số

Chuyển

C6.1001 Bạn đã sinh con sau khi biết nhiễm HIV không?

Có 1 Không 2 Không nhớ 3

C6.1002 Nếu có, người mẹ có được dùng thuốc phòng lây truyền

C6.1004 C6.1008

Có 1 Không 2

HIV từ mẹ sang con không?

C6.1003 Con của bạn có được điều trị thuốc dự phòng lây truyền

Có 1 Không 2

HIV hay không?

C6.1004 Hiện nay bạn có dự định sinh con không?

C6.1005 Vợ/chồng/người yêu của bạn có đi xét nghiệm HIV

không?

Có 1 Không 2 Có 1 Không 2 Không biết 3

C6.1006 Nếu Vợ/chồng/người yêu của bạn có đi xét nghiệm HIV,

C6.1101 C6.1101

kết quả xét nghiệm như thế nào?

C6.1007 Lý do họ đi xét nghiệm là gì?

C6.1008 Nếu bạn chưa lập gia đình, thì bạn có dự định lập gia đình

Dương tính 1 Âm tính 2 Không biết 3 Tự nguyện 1 Bắt buộc 2 Có 1 Không 2

C6.1101 C6.1101 C6.1101

không?

C6.1009 Nếu lập gia đình thì bạn có dự định có con không?

Có 1 Không 2

9

PHẦN 11: SỰ QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

TT C6.1101

C6.1107 C6.1107

Có 1 Không 2 Không sống cùng gia đình 3

C6.1102

Gia đình của bạn có biết bạn bị nhiễm HIV không? (Gia đình có thề là vợ/chồng, bố mẹ, ông bà, anh chị em ruột, con hoặc họ hàng thân thích) Nếu có, hiện nay phản ứng của gia đình bạn như thế nào?

Có 1 1 1 1 1

Không 2 2 2 2 2

C6.1103

 C6.1107

Ruồng bỏ, xa lánh Chấp nhận Chăm sóc sức khoẻ Hỗ trợ và giúp đỡ Phản ứng khác (ghi rõ) ................................................ Có 1 Không 2

C6.1104

Bạn có được gia đình chăm sóc về sức khoẻ khi ốm đau tại nhà hoặc nơi cư trú không? Trong gia đình bạn, ai là người chăm sóc tốt nhất cho bạn?

1 2 3 4 5 6 7 8

C6.1105

Hiện nay, ai là người chăm sóc sức khoẻ khi ốm đau thường xuyên nhất cho bạn? (chỉ chọn một người )

1 2 3 4 5 6 7 8

Bố mẹ Vợ chồng Anh chị em Con cái Bạn thân Họ hàng Đồng đẳng viên Người khác (ghi rõ) .............................................. Bố mẹ Vợ/chồng Anh chị em Con cái Bạn thân Họ hàng Đồng đẳng viên Người khác (ghi rõ) ...............................................

C6.1106

1 2

Có Không

C6.1107

 C6.1113  C6.1113

Ruồng bỏ, xa lánh 1 Hỗ trợ và giúp đỡ 2 Chấp nhận 3 Phản ứng khác (ghi rõ) 4 ...............................................

C6.1108

 C6.1111

Người nhà chăm sóc cho bạn có được tập huấn, hướng dẫn về cách chăm sóc và hỗ trợ cho bạn không? Nhìn chung, thái độ của cộng đồng đối với bạn như thế nào? (Cộng đồng bao gồm họ hàng, người xung quanh, bạn bè ... nơi bạn sống và làm việc) Bạn có nhận được sự chăm sóc tại nhà từ ai đó ngoài người nhà bạn hay không?

Có 1 Không 2

10

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

TT C6.1109

Nếu có, người đó là ai?

Không 2 2 2 2 2 2 2 2

Cán bộ y Trạm y tế xã/phường Cán bộ Y tế từ TTYT quận huyện Cán bộ bệnh viện tỉnh Các tổ chức phi chính phủ Các đoàn thể xã hội Hội chữ thập đỏ Đồng đẳng viên Người khác (ghi rõ) ...............................................

Có 1 1 1 1 1 1 1 1

C6.1111

Y tế

Có 1 Không 2 Phụ nữ Chữ

 C6.1113 Khác

C6.1112

Trong 6 thỏng qua bạn có nhận được hỗ trợ chăm sóc gì không? Nếu bạn đã nhận được hỗ trợ trong 6 tháng qua thì ai hỗ trợ gì cho bạn?

Chính quyền

Thanh niên

thập đỏ

C K C K C K C K C K C K 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

1 1 1 1 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2

2 2 2 2 2 2 2

1 1 1 1 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2

1 1 1 1 1 1 1

2 2 2 2 2 2 2

1 1 1 1 1 1 1

Chăm sóc y tế Cai nghiện Tiền, vật chất An ủi, động viên về tinh thần Đào tạo nghề Việc làm Tư vấn Hỗ trợ khác (ghi rõ ) ................................................................... …………………………………………… ……………………………………………

C6.1113

Có Không

Trong 6 tháng qua , bạn đó từng nhận được các hỗ trợ cho phòng chống HIV sau đây không? Hỏi từng ý một. Khoanh những câu trả lời thích hợp

1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

C6.1113a

1  c6.114 2

Nhận được bao cao su Nhận được bơm kim tiêm Nhận được tờ rơi, tờ bướm Nhận được lời khuyên từ bạn cùng nhóm Nhận được lời khuyên từ đồng đẳng viên Nhận được lời khuyên từ cán bộ y tế Nhận được lời khuyên từ cán bộ đoàn thể, xã hội Được sinh hoạt câu lạc bộ Giới thiệu khám chữa bệnh LTQĐTD Được điều trị dự phòng lây truyền mẹ-con Khác (ghi rõ): .................................................................... Có 1 Không 2

C6.1113b

Bạn có tham gia CLB người nhiễm hoặc nhóm trợ giúp của người nhiễm không Nếu không thì vì lý do gì

Không có CLB hoặc nhóm trợ giúp trên địa bàn Không thích tham gia Khó tham gia vì công việc riêng Không thấy lợi ích gì Không muốn người khác biết mình bị nhiễm Khác (ghi rõ)

1 2 3 4 5 6

11

TT

Câu hỏi

Trả lời

Mã hóa

C6.1114

Hiện nay bạn có mong muốn hay nhu cầu gì? (chỉ gặng hỏi và khoanh vào ý trả lời, KHÔNG được đọc các tình huống)

Có Không 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2 1 2

………………………………………………….. Đối xử bình đẳng Điều trị nhiễm trùng cơ hội Điều trị đặc hiệu HIV Cai nghiện Tiền, vật chất An ủi, động viên, thông cảm Việc làm Tư vấn Tổ chức sinh hoạt nhóm Mong muốn khác (ghi rõ ) ....................................................................

Cảm ơn và kết thúc cuộc phỏng vấn!

12