BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:3)--------
TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
PHÂN TÍCH TÍNH BAO TRÙM TRONG
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2004-2016
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:3)--------
TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
PHÂN TÍCH TÍNH BAO TRÙM TRONG
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2004-2016
: Kinh tế học : 9310101
Chuyên ngành Mã số
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN CÔNG
HÀ NỘI – NĂM 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng bản luận án này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Nghiên cứu sinh
Trần Thị Lan Hương
ii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i MỤC LỤC ...................................................................................................................... ii DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH ............................................................................... v MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM ................ 6 1.1. Các quan niệm và nội dung nghiên cứu của tăng trưởng bao trùm ............... 6 1.1.1. Một số quan niệm về tăng trưởng bao trùm ................................................... 6 1.1.2. Các trụ cột (nội dung) của tăng trưởng bao trùm ......................................... 13 1.2. Các phương pháp đo lường tăng trưởng bao trùm ........................................ 16 1.2.1. Phương pháp đường cong và chỉ số tập trung (Concentration curve and Index) ......................................................................................................... 16
1.2.2. Phương pháp hàm cơ hội xã hội (Social Opportuity Function) .................... 18 1.2.3. Phương pháp đo lường thông qua chỉ số bao trùm tổng hợp (composite inclusive index) ....................................................................................................... 23 1.3. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố quyết định tăng trưởng bao trùm ................ 24
1.3.1. Các lý thuyết về các nhân tố quyết định tăng trưởng ................................... 24 1.3.2. Các lý thuyết về các nhân tố quyết định bất bình đẳng thu nhập hay phân phối thu nhập................................................................................................................... 27 TÓM TẮT CHƯƠNG 1 .............................................. Error! Bookmark not defined.29 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM ........................................................................................................................... 31 2.1. Các nghiên cứu nước ngoài .............................................................................. 31
2.1.1. Các nghiên cứu trong phạm vi nhiều quốc gia ............................................. 31 2.1.2. Các nghiên cứu trong phạm vi một quốc gia ................................................ 36 2.1.3. Các nghiên cứu khác về tăng trưởng bao trùm ............................................. 39 2.2. Các nghiên cứu trong nước .............................................................................. 43 2.3. Đề xuất khung nghiên cứu ................................................................................ 50 TÓM TẮT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 53 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2016 ......................................................................................................... 54 3.1. Thực trạng tăng trưởng bao trùm về thu nhập .............................................. 54 3.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập ................................ 54
3.1.2. Tăng trưởng bao trùm về thu nhập tại Việt Nam .......................................... 69 3.2. Thực trạng tăng trưởng bao trùm theo một số chỉ tiêu phi thu nhập .......... 76
iii
3.2.1. Giáo dục, y tế, lao động và việc làm ............................................................ 76
3.2.2. Một số chỉ tiêu phi thu nhập khác ................................................................. 86 3.3. Một số hạn chế trong tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam ............................. 91 3.3.1. Tăng trưởng diễn ra không đồng đều ........................................................... 92 3.3.2. Việc làm và năng suất lao động (NSLĐ) thấp .............................................. 93 3.3.3. Tồn tại các chênh lệch lớn về việc nắm giữ tài sản và tiếp cận một số cơ hội trong nền kinh tế ..................................................................................................... 94 TÓM TẮT CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 96 CHƯƠNG 4: ƯỚC LƯỢNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM VỀ THU NHẬP Ở VIỆT NAM ........................................................... 97 4.1. Chỉ định mô hình ............................................................................................... 97
4.1.1. Xây dựng mô hình ........................................................................................ 97 4.1.2. Phương pháp ước lượng ................................................................................ 97 4.2. Nguồn dữ liệu, mô tả dữ liệu và các biến số được sử dụng trong mô hình ước lượng ........................................................................................................................ 102
4.2.1. Nguồn dữ liệu ............................................................................................. 102 4.2.2. Các biến số được sử dụng trong mô hình ................................................... 106 4.3. Kết quả mô hình .............................................................................................. 115 4.3.1. Thống kê mô tả các biến số và ma trận tương quan giữa các biến số ........ 115
4.3.2. Uớc lượng mô hình ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên ........... 117 4.3.3. Ước lượng mô hình không gian .................................................................. 121 4.3.3. Kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập ......... 126 TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ............................................................................................ 129 CHƯƠNG 5 ................................................................................................................ 130 KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ............................................................................. 130 5.1. Khuyến nghị chính sách ................................................................................. 130
5.1.1. Các chính sách ổn định vĩ mô ..................................................................... 130 5.1.2. Các chính sách về đầu tư nước ngoài ......................................................... 132 5.1.3. Các chính sách liên quan đến chi ngân sách ............................................... 133
5.1.4. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực .................................................. 135 5.1.5. Các chính sách cải thiện tính bình đẳng và công bằng trong cơ hội tiếp cận y tế ............................................................................................................................ 137 5.1.6. Các chính sách cải thiện hệ thống thể chế và xây dựng môi trường đầu tư
.............................................................................................................................. 138 5.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu trong tương lai ........................ 140 5.2.1. Hạn chế của luận án .................................................................................... 140
iv
5.2.2. Hướng nghiên cứu trong tương lai ............................................................. 141 TÓM TẮT CHƯƠNG 5 ............................................................................................ 142 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 143 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ.. 144 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 144 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 155
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Tên viết tắt Tên đầy đủ bằng tiếng anh Tên đầy đủ bằng tiếng việt
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
AfDB African Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Phi
CPI Consumer Price Index Chỉ số giá tiêu dùng
GSPRE
Generalised Spatial Panel Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên không gian dạng tổng quát
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền Tệ Thế giới
OECD
The Organization for Economic Co- operation and Development Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
PCI Provincial Competitiveness Index Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh
SAR Spatial Autoregression Regression Hồi quy tự hồi quy trễ không
gian
SDM Spatial Durbin Model Mô hình Durbin không gian
SEM Spatial Error Model Mô hình sai số không gian
UNICEF United Nation Children’s Fund Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
UNDP United Nation Development Chương trình Phát triển Liên
Program Hợp Quốc
VCCI
Vietnam Chamber of Commerce and Industry Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Điều tra mức sống Hộ gia đình VHLSS
Vietnam Household Living Standard Survey
World Bank Ngân hàng Thế giới WB
World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF
World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới WHO
World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Tên viết tắt Tên đầy đủ
Bảo hiểm y tế
Doanh nghiệp BHYT DN
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN
Doanh nghiệp Tư nhân
HGĐ
Hộ gia đình
NHTG
Ngân hàng Thế giới
NSLĐ
Năng suất lao động
TCTK
Tổng cục Thống kê
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TNCN
Thu nhập cá nhân
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
Bảng 1.1: Quan niệm của một số tác giả về tăng trưởng bao trùm ......................................... 11
Bảng 1.2: Các chiều phân tích trong tăng trưởng bao trùm ..................................................... 15 Bảng 1.3: Cơ sở lý thuyết về tác động của một số yếu tố tới bất bình đẳng về thu nhập ...... 28 Bảng 2.1: Các chiều phân tích trong tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam (được phân tích trong luận án) .......................................................................................................................................... 51
Bảng 3.1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2015 .............................................. 55 Bảng 3.2: Đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng GDP của Việt Nam. ............................ 55 Bảng 3.3: Chuẩn nghèo và chuẩn cận nghèo về thu nhập của Việt Nam ............................... 56
Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo về thu nhập ............................................................................................. 57 Bảng 3.5: Tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam năm 2016 và năm 2017 phân theo thành thị- nông thôn và phân theo vùng ...................................................................................................... 59 Bảng 3.6: Hệ số Gini theo thu nhập, giai đoạn 2004-2016 ...................................................... 60
Bảng 3.7: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của Việt Nam .. 70 Bảng 3.8: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập cả nước ................................................................................................................................. 70
Bảng 3.9: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của khu vực thành thị ......................................................................................................................................... 71 Bảng 3.10: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập của khu vực thành thị .......................................................................................................... 71
Bảng 3.11: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của khu vực nông thôn ....................................................................................................................................... 71 Bảng 3.12: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu
nhập của khu vực nông thôn ....................................................................................................... 72 Bảng 3.13: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của dân tộc Kinh ............................................................................................................................................... 72 Bảng 3.14: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu
nhập của dân tộc Kinh .................................................................................................................. 73 Bảng 3.15: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của các dân tộc khác Kinh ................................................................................................................................ 73
viii
Bảng 3.16: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu
nhập của dân tộc khác Kinh ........................................................................................................ 73 Bảng 3.17: Tăng trưởng bao trùm về thu nhập theo các tỉnh, thành của Việt Nam .............. 75 Bảng 3.18: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi và số năm đi học cao nhất, 2004-2016 ....................... 77 Bảng 3.19: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi chia theo thành thị, nông thôn ..................................... 78 Bảng 3.20: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi chia theo giới tính. ........................................................ 78 Bảng 3.21: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (tính trên phạm vi cả nước) .................................................................................................................. 79
Bảng 3.22: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (Theo khu vực thành thị và nông thôn) ................................................................................................. 80 Bảng 3.23: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (Theo
dân tộc) .......................................................................................................................................... 80 Bảng 3.24: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí cho người dân (Cả nước) ............................................................................. 82 Bảng 3.25: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám
sức khỏe miễn phí cho người dân (Phân theo thành thị- nông thôn) ....................................... 83 Bảng 3.26: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí cho người dân (Phân theo dân tộc) ............................................................. 84 Bảng 3.27: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội về tiếp cận các điều kiện sống cơ bản 91
Bảng 4.1: Nguồn dữ liệu được sử dụng trong mô hình ước lượng ....................................... 105 Bảng 4.2: Các biến được dùng trong mô hình ước lượng ...................................................... 106 Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến số đã lấy lôga .................................................................. 115
Bảng 4.4: Kết quả ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình .......................... 117 Bảng 4.5: Kết quả ước lượng mô hình theo ảnh hưởng cố định và ngẫu nhiên ................... 117 Bảng 4.6: Kết quả BIC và AIC của các mô hình như sau ...................................................... 122 Bảng 4.7: Kết quả ước lượng mô hình kinh tế lượng không gian SAC ................................ 123
Bảng 4.8: Kết quả ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể ....................................... 124 Bảng 4.9: Kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập .................. 126
Hình 1.1: Đường cơ hội (Opportunity curve) ................................................................ 20 Hình 1.2: Đường chuyển động xã hội (Social mobility curve) ..................................... 22
Hình 2.1: Các bước thực hiện nghiên cứu của luận án .................................................. 50 Hình 2.2: Khung phân tích định lượng của luận án ...................................................... 52 Hình 3.1: Tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người và lạm phát ở Việt Nam giai
đoạn 2004-2016 ............................................................................................................. 54
ix
Hình 3.2: Phân bố của người nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế phân theo vùng .......... 58
Hình 3.3: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (cả nước) ............................................................... 62 Hình 3.4: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Thành thị) ............................................................ 62 Hình 3.5: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Nông thôn) .......................................................... 63 Hình 3.6: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và
chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Dân tộc Kinh) ...................................................... 64 Hình 3.7: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Dân tộc thiểu số) ................................................. 64
Hình 3.8: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo thành thị, nông thôn ........................... 65 Hình 3.9: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo 6 vùng địa lý ...................................... 66 Hình 3.10: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo 5 nhóm thu nhập .............................. 66 Hình 3.11: Thu nhập bình quân của thành thị, nông thôn và chênh lệch giữa hai khu vực .. 67
Hình 3.12: Thu nhập bình quân của dân tộc Kinh, dân tộc khác Kinh và chênh lệch giữa hai nhóm ........................................................................................................................ 67 Hình 3.13: Cơ cấu thu nhập theo nguồn thu cả nước .................................................... 68 Hình 3.14: Cơ cấu thu nhập theo nguồn thu (thành thị và nông thôn) .......................... 69
Hình 3.15: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính ........................................ 84 Hình 3.16: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo phân theo thành thị- nông thôn và phân theo giới tính ................................................................................... 85
Hình 3.17: Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội phân theo 5 nhóm thu nhập ....................... 86 Hình 3.18: Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện lưới phân theo vùng .......................... 87 Hình 3.19: Tỷ lệ hộ gia đình có điện lưới phân theo thành thị, nông thôn ................... 87 Hình 3.20: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy phân theo vùng .......................................... 88
Hình 3.21: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy phân theo thành thị, nông thôn .................. 89 Hình 3.22: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại phân theo vùng .................................. 89 Hình 3.23: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại phân theo thành thị, nông thôn .......... 90
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong vài thập niên trở lại đây, thế giới đang chứng kiến bất bình đẳng có chiều hướng tăng lên ở nhiều nước. Tuy đạt được nhiều thành tựu về tăng trưởng, giảm nghèo
cải thiện hiện sự tiếp cận giáo dục, y tế và an sinh xã hội, nhưng không phải quốc gia nào cũng đảm bảo được các lợi ích của tăng trưởng được phân phối một cách công bằng và đảm bảo được sự tham gia bình đẳng của mọi người dân vào quá trình tạo ra tăng
trưởng. Nhiều năm qua, các mối quan hệ đan xen giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo đói và sự gia tăng bất bình đẳng tiếp tục trở thành chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm và tranh luận của các nhà nghiên cứu, các học giả và các nhà hoạch định chính sách trên khắp thế giới.
Tăng trưởng kinh tế cao là lời giải thích rất quan trọng cho vấn đề giảm nghèo, nhưng thực tiễn cho thấy tăng trưởng kinh tế cao không nhất thiết đã cải thiện được mức sống nói chung của tất cả người dân. Nếu như lợi ích của tăng trưởng chỉ dành cho một số ít trong xã
hội, thì tăng trưởng đó không được gọi là có tính bao trùm (Tirmazee và Haroon, 2015). Hausman và Gavin (1996) cho rằng nhìn chung các quốc gia đang phát triển có phân phối thu nhập ít bình đẳng và do đó tăng trưởng thường kém bao trùm. Tình trạnh này xảy ra được giải thích do nhiều nguyên nhân, và nhiều chính phủ coi cải thiện tính bao trùm trong tăng
trưởng kinh tế là một trong các mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển của họ (Bigsten, 1983). Hai tác giả Felipe (2012) và Afzal (2007) đồng tình với quan điểm rằng tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng đạt được với chi phí của việc cắt giảm các lợi ích cá nhân,
hay nói cách khác, nó thúc đẩy sự phân phối lợi ích cho tất cả mọi thành viên trong xã hội. Với một số các quốc gia phát triển, mục tiêu tăng trưởng bao trùm đã đạt được từ những năm 1970, nhưng với các nước đang phát triển do tăng trưởng kinh tế cao nhưng bất bình đẳng lớn, đây vẫn là mục tiêu của mô hình tăng trưởng mới cần đạt đến (Todaro, 1994).
Trước đây, các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế thường chỉ tập trung phân tích đến tác động của nó trong việc làm giảm nghèo, cải thiện mức thu nhập bình quân đầu người của toàn xã hội. Ravallion và Chen (2003) với quan điểm tăng trưởng vì người
nghèo dạng tuyệt đối cho rằng tăng trưởng là giảm tỷ lệ hộ nghèo tuyệt đối ứng với một ngưỡng nghèo cho trước. Nhược điểm của cách tiếp cận này là đã không tính đến việc khi tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ dẫn đến bất bình đẳng cao hơn và do đó, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo có giảm nhưng họ lại được hưởng thụ quá ít so với mặt bằng chung của xã
hội. Mô hình tăng trưởng vì người nghèo dạng tương đối của Dollar và Kraay (2002) đã ra đời nhằm khắc phụ nhược điểm đó. Mô hình tăng trưởng vì người nghèo dạng tương
2
đối với quan điểm tập trung vào việc phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong xã
hội, với điều kiện là thu nhập của nhóm nghèo tăng nhanh hơn so với mức trung bình của toàn bộ dân cư, và như vậy, tăng trưởng kinh tế cao hơn đạt được đồng thời với bất bình đẳng giảm xuống. Tuy nhiên, với cả hai mô hình này, những nhóm dân cư ở giữa bao gồm nhóm cận nghèo và tầng lớp trung lưu đang bị lờ đi, và là đối tượng dễ bị bỏ qua trong các chính sách về cải thiện tăng trưởng. Đây cũng là nguyên nhân cho sự xuất hiện mô hình tăng trưởng mới - tăng trưởng bao trùm với quan điểm đề cập tới toàn bộ cộng đồng dân cư, trong đó cả người nghèo, nhóm cận nghèo, tầng lớp trung lưu và
thậm chí là cả người giàu trong xã hội. Mô hình tăng trưởng mới không chỉ dừng lại ở việc tăng phúc lợi cho người nghèo mà còn nói tới phúc lợi của tất cả mọi người, không phân biệt công việc, giới tính và dân tộc của họ. Khái niệm tăng trưởng bao trùm cho
rằng tăng trưởng kinh tế là quan trọng, là điều kiện cần, nhưng chưa phải là điều kiện đủ để có được tăng trưởng bền vững, theo nghĩa kết cục của tăng trưởng phải cải thiện được phúc lợi của tất cả mọi người. Phúc lợi ở đây nói đến nhiều khía cạnh của đời sống con người, do đó, tăng trưởng bao trùm là một khái niệm rộng, đa chiều, có liên quan
đến nhiều khía cạnh của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có thể hiểu tăng trưởng bao trùm theo nghĩa rộng là tăng trưởng cải thiện phúc lợi trên nhiều chiều (cả thu nhập và các chiều phi thu nhập), trong khi tăng trưởng bao trùm theo nghĩa hẹp là tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm nghèo và thu hẹp bất bình đẳng trong thu nhập.
Cũng giống nhiều các quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam đã chứng kiến
những thay đổi và biến động rất mạnh mẽ của nền kinh tế trong thời gian qua. Các vấn đề như nghèo đói, phát triển con người, và bất bình đẳng là những nội dung rất được quan tâm. Trong đó, tăng trưởng và phân phối thu nhập luôn là chủ đề tiếp tục thu hút sự chú ý của nhiều nghiên cứu xuất phát từ thực tế cho thấy nhiều nước đang phát triển
đã đạt được những thành tựu ấn tượng từ công cuộc giảm nghèo nhưng chưa thể giải quyết được bài toán giảm bất bình đẳng thu nhập, thậm chí xu hướng bất bình đẳng có phần còn được nới rộng hơn. Trong số các khía cạnh của quan điểm tăng trưởng mới,
nội dung tăng trưởng bao trùm về khía cạnh thu nhập rất cần được làm sáng tỏ, vì xuất phát từ thực tế nhiều nước, đi cùng với tăng trưởng thu nhập, bất bình đẳng thu nhập đang tăng lên (Piketty, 2014). Nhiều quốc gia Đông Á đã đạt được những thành tựu thần kỳ trong tăng trưởng và phân phối, nhưng lại đang chứng kiến sự gia tăng bất bình
đẳng thu nhập (Zhuang, Kanbur và Lee, 2014; Jain-Chandra và cộng sự, 2016). Tăng trưởng bao trùm về thu nhập, theo đó, phân tích đồng thời cả hai khía cạnh là tăng trưởng thu nhập và phân phối thu nhập là vấn đề cần được nghiên cứu. Xuất phát từ thực tiễn này, luận án lựa chọn đề tài: “Phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2004- 2016”, với mong muốn đóng góp thêm các nghiên cứu thực
3
nghiệm về chủ đề này với hoàn cảnh của Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này hướng đến các mục tiêu chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tăng trưởng bao trùm và các nhân tố tác động tới
tăng trưởng bao trùm với sự nhấn mạnh vào khía cạnh thu nhập;
- Đo lường và phân tích tính bao trùm trong thu nhập và một số các khía cạnh phi
thu nhập của Việt Nam trong giai đoạn 2004- 2016;
- Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bao trùm về thu
nhập tại Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016;
- Gợi ý một số chính sách cho Việt Nam nhằm thúc đẩy tính bao trùm trong tăng
trưởng kinh tế.
Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng tăng trưởng và phân phối thu nhập như thế nào tại Việt Nam trong
giai đoạn 2004-2016?
- Tính bao trùm về thu nhập và một số các khía cạnh phi thu nhập như thế nào
tại Việt Nam?
- Những nhân tố nào có tác động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập tại Việt
Nam?
- Cần có những chính sách gì để cải thiện tăng trưởng bao trùm về thu nhập tại
Việt Nam?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tăng trưởng bao trùm - khái niệm tổng hòa giữa tăng trưởng và phân phối các chiều trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ khía cạnh tăng trưởng bao trùm về thu nhập.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Các phân tích về thực trạng tăng trưởng bao trùm trong luận án được thực hiện trên phạm vi cả nước, khu vực thành thị - nông thôn;
khu vực dân tộc, và có một số chỉ tiêu được thực hiện theo phạm vi là các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Riêng mô hình phân tích định lượng, luận án thực hiện hồi quy dữ liệu bảng với phạm vi là các tỉnh, thành phố ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Giai đoạn 2004-2016.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trong số các khía cạnh/chỉ tiêu của tăng trưởng
bao trùm, luận án đánh giá tập trung nhất cho chỉ tiêu bao trùm về thu nhập.
4. Phương pháp nghiên cứu
4
Luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính:
Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp từ cuộc Khảo sát mức sống dân cư (VHLSS) của Tổng cục Thống kê và từ các nguồn khác, luận án thực
hiện đo lường chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập ở Việt Nam và một số các khía cạnh phi thu nhập khác. Chỉ số này được tính toán với phạm vi cả nước, khu vực thành thị - nông thôn, dân tộc và riêng với hai chỉ tiêu là thu nhập và giáo dục được tính toán
với phạm vi các tỉnh, thành phố ở Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016. Việc tính toán chỉ số tăng trưởng bao trùm dựa trên hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007) với các chỉ tiêu phi tiền tệ, và được phát triển cho chỉ tiêu thu nhập với phương pháp hàm dịch chuyển xã hội trong nghiên cứu của Anand và cộng sự (2013).
Phương pháp nghiên cứu định lượng
- Thực hiện ước lượng tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập ở Việt Nam. Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu là số liệu từ các cuộc khảo sát
mức sống hộ gia đình Việt Nam VHLSS do Tổng cục Thống kê thực hiện trong giai đoạn 2004-2016 và dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn khác. Bộ số liệu VHLSS được thu thập hai năm một lần vào các năm chẵn, cụ thể là các năm 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 và 2016 trong giai đoạn nghiên cứu . Các dữ liệu khác được lấy theo
năm từ các nguồn như Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê các tỉnh, Bộ tài chính và Sở tài chính các tỉnh, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
- Kết quả tính chỉ số bao trùm về thu nhập được tính toán theo phương pháp nói
trên được sử dụng là biến phụ thuộc, trong khi chỉ số bao trùm về giáo dục được sử dụng là một trong các biến độc lập trong mô hình. Lý do lựa chọn các biến độc lập sẽ được phân tích trong nội dung chính của luận án.
- Phương pháp ước lượng được sử dụng trong luận án bao gồm: Luận án thực
hiện mô hình hồi quy dữ liệu bảng theo phương pháp ước lượng cố định và phương pháp ước lượng ngẫu nhiên, thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp. Ngoài ra, để kiểm định xem có tồn tại mối tương quan không gian giữa các tỉnh, thành phố hay
không, luận án tiếp tục thực hiện mô hình hồi quy dữ liệu bảng có yếu tố không gian cùng với việc thực hiện các kiểm định cần thiết để lựa chọn mô hình không gian nào là phù hợp nhất.
5. Đóng góp của luận án
Tăng trưởng bao trùm là một khái niệm mới và còn nhiều điều chưa thống nhất. Luận án đã hệ thống hóa được các vấn đề lý luận và nghiên cứu trên thế giới và trong nước giúp xây dựng khung phân tích làm cơ sở cho việc mô tả, phân tích và đánh
giá tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế.
5
Luận án là nghiên cứu đầu tiên đã xây dựng hàm cơ hội xã hội và hàm dịch
chuyển xã hội để tính toán bộ chỉ số phản ánh tính bao trùm trong tăng trưởng của các tỉnh, thành phố ở Việt Nam, đặt trong bối cảnh những nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm còn rất hạn chế ở Việt Nam. Dựa vào cơ sở này, luận án đã đã đánh giá khá toàn diện thực trạng, chỉ ra những thành tựu và một số hạn chế căn bản trong tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam giai đoạn 2004- 2016 Ngoài ra, luận án cũng là nghiên cứu đầu tiên đã sử dụng các kỹ thuật ước lượng hiện đại và các nguồn số liệu đáng tin cậy để tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến
tính bao trùm trong tăng trưởng thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2004- 2016 Trên cơ sở phân tích thực trạng và kết quả từ mô hình định lượng, luận án đã đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng ngày càng bao trùm và bền vững hơn. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận án được chia
thành năm chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng bao trùm Chương 2: Tổng quan nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm Chương 3: Thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016 Chương 4: Ước lượng tác động của các nhân tố tới tăng trưởng bao trùm về thu
nhập ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016
Chương 5: Khuyến nghị chính sách
6
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM
1.1. Các quan niệm và nội dung của tăng trưởng bao trùm
1.1.1. Một số quan niệm về tăng trưởng bao trùm
Tăng trưởng bao trùm (inclusive growth) là một khái niệm rộng liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đây là một chủ đề mới,
trong cả lĩnh vực nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách trong thực tế, được nhiều quốc gia quan tâm trong thời gian gần đây. Acemoglu, Robinson và Johnson (2004) là nhóm tác giả đầu tiên đưa ra khái niệm tăng trưởng này. Các tác giả cho rằng, lý do để các quốc gia có được tăng trưởng cao và bền vững là do các nước có hệ thống kinh tế
chính trị hài hòa, tức là một hệ thống mà ở đó, thành quả và lợi ích từ tăng trưởng kinh tế được phân chia một cách tương đối công bằng cho các khu vực, thành phần kinh tế và các nhóm dân cư trong xã hội. Ngược lại, với những quốc gia không có tăng trưởng
hoặc tăng trưởng kém bền vững thì nguyên nhân của nó cũng đến từ việc các quốc gia đó có hệ thống chính trị không hài hòa.
Khác với quan điểm tăng trưởng truyền thống, tăng trưởng bao trùm về cơ bản nhấn mạnh đến việc làm sao có thể đảm bảo lợi ích của tăng trưởng kinh tế cũng như cơ
hội để có tăng trưởng kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng cho tất cả các thành viên trong xã hội, đặc biệt là cho những nhóm yếu thế. Mô hình tăng trưởng bao trùm đã khắc phục được các nhược điểm của mô hình tăng trưởng vì người nghèo trước đây (pro-
poor growth), mặc dù đôi khi thuật ngữ “tăng trưởng bao trùm” vẫn được đề cập đến với những cái tên như tăng trưởng theo nghĩa rộng (broad-based growth) hay tăng trưởng chia sẻ (shared growth). Thực chất mô hình tăng trưởng vì người nghèo hướng đến mục tiêu là thu nhập của nhóm dân số nghèo tăng nhanh hơn phần còn lại của dân số, và điều
đó có nghĩa là bất bình đẳng giảm. Mô hình này có thể tồn tại ở hai cách tiếp cận: mô hình vì người nghèo dạng tuyệt đối và mô hình vì người nghèo dạng tương đối. Mô hình vì người nghèo dạng tuyệt đối được Ravallion và Chen (2003) và Ngân hàng Thế giới
sử dụng rộng rãi với quan điểm là giảm tỷ lệ hộ nghèo tuyệt đối ứng với một ngưỡng nghèo cho trước. Cách tiếp cận này đã không tính đến việc khi tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ dẫn đến bất bình đẳng cao hơn và do đó, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo có giảm, nhưng các hộ nghèo lại được hưởng thụ quá ít so với mặt bằng chung của xã hội. Đó là nguyên
nhân của sự ra đời mô hình vì người nghèo dạng tương đối. Mô hình này với quan điểm tập trung vào việc phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong xã hội, với điều kiện
7
là thu nhập của nhóm nghèo tăng nhanh hơn so với mức trung bình của toàn bộ dân cư,
và như vậy, bất bình đẳng giảm (Dollar và Kraay, 2002; IMF, 2011). Nhưng như vậy, những nhóm dân cư ở giữa bao gồm nhóm cận nghèo và tầng lớp trung lưu đang bị lờ đi. Và cũng từ đây, mô hình tăng trưởng bao trùm đã ra đời, với quan điểm đề cập tới toàn bộ cộng đồng dân cư, cả người nghèo, cận nghèo, tầng lớp trung lưu và thậm chí là cả người giàu trong xã hội. Mô hình tăng trưởng mới không chỉ tập trung vào người nghèo mà quan tâm tới phúc lợi của tất cả mọi người, cả dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, không phân biệt công việc của họ, cả nam và nữ, tất cả các cộng đồng và tôn giáo
khác nhau. Một điểm nhấn mạnh nữa của cách tiếp cận này là thay vì chỉ nhìn vào kết cục dưới dạng phân phối thu nhập một cách bình đẳng, mô hình tăng trưởng bao trùm còn hướng tới việc bình đẳng trong cơ hội. Hay nói cách khác, ngoài việc thụ hưởng
thành quả mà tăng trưởng kinh tế đem lại, tăng trưởng bao trùm còn nói tới quá trình tham gia của tất cả mọi người đóng góp vào tăng trưởng. Về bối cảnh, khái niệm này cũng như các tranh luận chính sách xoay quanh nó xuất phát từ chính thực tiễn tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ở khu vực châu Á và Mỹ Latinh,
khi ngày càng có nhiều quốc gia trong khu vực này không giải quyết được đồng thời bài toán giảm bất bình đẳng và giảm nghèo song song với quá trình tăng trưởng.
Xuất phát từ luận điểm ban đầu về tăng trưởng bao trùm của Acemoglu và cộng sự (2004), nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra một số quan niệm xung quanh vấn đề này.
Dưới đây là một số các nghiên cứu nổi bật.
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB (2007): Nhóm tác giả có đóng góp chính về quan điểm tăng trưởng bao trùm của ADB là Ali và Zhuang (2007), Ali và Son (2007).
Tăng trưởng bao trùm theo đó là tăng trưởng có gắn với bình đẳng của các cơ hội, việc tạo ra các cơ hội cho tất cả mọi người, không dành riêng cho ai, và những cơ hội này được tạo ra nhiều nhất có thể. Tăng trưởng bao trùm còn nhằm giải quyết sự phân hóa đối với các nhóm yếu thế nhất. Các nhóm yếu thế này thực chất là những nhóm dân cư
đã bị bỏ rơi trong quá trình phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việc hỗ trợ các nhóm này tham gia vào các hoạt động kinh tế của quá trình tăng trưởng và thụ hưởng lợi ích từ chúng là điểm mấu chốt của tăng trưởng bao trùm. Cách tiếp cận của ADB về
cơ bản giới hạn trong phạm vi xem xét đồng thời cả vấn đề tăng trưởng, giảm nghèo và bình đẳng thu nhập của các hộ gia đình. Xuất phát từ việc nhận thấy rằng quá trình tăng trưởng đang tạo ra những cơ hội kinh tế mới nhưng những cơ hội này lại không được phân phối một cách bình đẳng, nhóm nghèo bị hạn chế tiếp cận cơ hội và nguồn lực hơn,
hậu quả là lợi ích của tăng trưởng được phân phối một cách thiên lệch cho nhóm không nghèo. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã coi chiến lược tăng trưởng bao trùm là
8
một trong ba trọng tâm trong chiến lược tăng trưởng 2020. Quan điểm mới nhất trong
ADB (2013), đã nhấn mạnh tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng kinh tế mở rộng cách tiếp cận đến với những cơ hội kinh tế và xã hội cho ngày càng nhiều người, trong một môi trường công bằng hơn. Ali (2007b) cho rằng kết quả giảm nghèo hiện nay không chỉ phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phụ thuộc vào cách thức phân bổ những lợi ích của tăng trưởng. Để minh họa quan điểm này, tác giả đã đưa ra trường hợp của Nam Á trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, là hai quốc gia đã đạt được thành tựu giảm nghèo trong mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2005, nhưng tỷ lệ nghèo đói vẫn còn
khá cao và bản thân người nghèo vẫn còn gặp nhiều cản trở trong việc tiếp cận các cơ hội và được hưởng lợi từ tăng trưởng. Ali (2007a) nhấn mạnh bất bình đẳng thu nhập và các bất bình đẳng khác nói chung đe dọa ổn định chính trị và xã hội, và ngay cả sự bền
vững của quá trình tăng trưởng, chỉ có bình đẳng mới làm tăng được tăng trưởng tiềm năng của nền kinh tế. Trong một nghiên cứu khác, Ali và Yao (2004) lại phân tích tính cần thiết của tăng trưởng bao trùm trong bối cảnh toàn cầu hóa, với nhận định toàn cầu hóa sẽ mang lại nhiều cơ hội khi có những thị trường lớn hơn, công nghệ tân tiến hơn
và thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng không phải quốc gia nào cũng tận dụng và nắm bắt được những lợi ích này một cách giống nhau. Tóm lại, các nghiên cứu đều thống nhất quan điểm chỉ có riêng tăng trưởng không thể đảm bảo lợi ích công bằng cho tất cả mọi người. Ở một mức độ nào đó thì tăng trưởng là điều kiện
cần thiết để giảm nghèo nhưng không thể là điều kiện đủ. Một số quan điểm khác cũng được thống nhất là: (i) tính bao trùm của tăng trưởng kinh tế thể hiện ở tăng trưởng nhanh và bền vững, dựa trên sự tăng trưởng của tất cả các ngành và các vùng, bao gồm
phần lớn lực lượng lao động, đặc biệt là người nghèo và nhóm người yếu thế trong xã hội, (ii) tăng trưởng bao trùm phải đi kèm với việc loại bỏ những rào cản thể chế, tạo ra động lực và tăng cường khả năng tiếp cận của mọi tầng lớp với các cơ hội của sự phát triển, (iii) tăng trưởng có ý nghĩa bao trùm còn làm gia tăng tài sản và năng lực của mọi
cá nhân và tổ chức khác nhau tham gia vào quá trình tăng trưởng, giúp xã hội cải thiện được việc quản lý các rủi ro phát sinh. Điểm (ii) và (iii) là những đóng góp mới của Ali và Son (2007) về quan điểm tăng trưởng bao trùm so với quan điểm truyền thống của
ADB, thể hiện tính đa chiều hơn khi đã xem xét cả những khía cạnh đằng sau kết cục của tăng trường và phân phối thu nhập. Từ những nghiên cứu của mình, định nghĩa tăng trưởng bao trùm mà các tác giả đưa ra là quá trình tăng trưởng kinh tế không những tạo ra các cơ hội kinh tế mới, mà còn đảm bảo cơ hội tiếp cận bình đẳng đối với mọi tầng
lớp trong xã hội, không phân biệt hoàn cảnh của họ.
Ngân hàng Thế giới WB (2009) định nghĩa tăng trưởng bao trùm bao hàm cả tốc
9
độ và cách thức của tăng trưởng kinh tế. Đây là hai cấu phần không thể tách rời, nên cần
thiết phải được nhìn nhận một cách đồng thời. Quan điểm của WB coi tăng trưởng bao trùm là điều kiện cần thiết để giảm nghèo tuyệt đối nhưng đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn, đặt trên nền tảng rộng lớn, có tính chất liên ngành và đa dạng hóa nền kinh tế. Đây là mô hình tăng trưởng bao hàm phần lớn lực lượng lao động, đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội trong khả năng tiếp cận thị trường, nguồn lực cũng như bình đẳng trong môi trường quản lý cho mọi doanh nghiệp và cá nhân. Định nghĩa của WB nhấn mạnh tính bao trùm của nền kinh tế đạt được là từ cơ hội tiếp cận việc làm có năng suất cho tất cả
lực lượng lao động (tập trung vào quá trình của tăng trưởng) thay vì chỉ tập trung vào việc phân phối thu nhập cho các nhóm yếu thế hơn (tập trung vào kết cục hay kết quả của tăng trưởng). Trong ngắn hạn, việc chuyển giao thu nhập của chính phủ cho nhóm
nghèo sẽ giải quyết được vấn đề thoát nghèo hay giảm thiểu được những hệ quả tiêu cực mà tăng trưởng kinh tế tạo ra cho người nghèo, nhưng trong dài hạn đây không thể là cách thức giúp họ có được cuộc sống bền vững. Tư tưởng trọng tâm trong quan điểm cũng như chính sách thúc đẩy tăng trưởng bao trùm của WB là tập trung tạo việc làm có
năng suất và thu hút phần lớn lực lượng lao động của nền kinh tế tham gia vào quá trình tăng trưởng, nhấn mạnh đến cả số lượng và chất lượng lao động, coi vấn đề tăng trưởng năng suất là yếu tố then chốt để có được thành quả của tăng trưởng có ý nghĩa bao trùm. Đây cũng là quan điểm trong một số nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm của Quỹ Tiền
Tệ Quốc tế IMF, các tác giả Anand Mishra và Peiris (2013) hay Anand, Tulin và Kumar (2014) đều cho rằng tăng trưởng bao trùm là chiến lược tăng trưởng thành công trong dài hạn. Đây là một khái niệm tăng trưởng bao hàm cả tính công bằng, bình đẳng trong cơ hội, tập trung cho sự chuyển dịch lao động hướng tới việc làm có năng suất cao.
Chiến lược Châu Âu 2020 (2010) hiểu tăng trưởng bao trùm là việc mở rộng cơ hội cho mọi người thông qua lao động, đầu tư vào kỹ năng, chống lại nghèo đói và hiện đại hóa thị trường lao động, có hệ thống bảo vệ xã hội để giúp cho mọi người dự đoán
và đối diện với các sự thay đổi, xây dựng một xã hội có tính liên kết. Lợi ích của tăng trưởng phải bao trùm được với những vùng xa nhất, đảm bảo cơ hội tiếp cận cho con người trong suốt cuộc đời. Quan niệm của Chiến lược Châu Âu (2010) về cơ bản cũng
giống với WB ở khía cạnh tập trung mở rộng cơ hội cho mọi người thông qua lao động, nhưng có phần mở rộng hơn khi có đề cập đến tính liên kết của xã hội và hệ thống bảo vệ xã hội cho người dân, đặc biệt là người dân sinh sống ở những vùng xa xôi. Đây là quan niệm rộng hơn so với WB.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (2014) nhấn mạnh tăng trưởng bao trùm theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ phân phối tăng trưởng thu nhập một cách
10
bình đẳng mà còn chia sẻ tiến bộ ở các khía cạnh phi thu nhập khác của sự thịnh vượng
như chất lượng giáo dục, y tế, những kết nối xã hội, bảo vệ cá nhân, cân bằng công việc - cuộc sống, và chất lượng môi trường sống. Quan điểm phúc lợi đa chiều là tư tưởng trung tâm của OECD trong các nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm. Trong một báo cáo nghiên cứu gần đây, OECD (2014) cho rằng dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với tăng trưởng bao trùm, nhưng có một điểm chung vẫn là sự kết hợp giữa thịnh vượng và gia tăng bình đẳng. So với các cách tiếp cận khác, cách tiếp cận của OECD thuần túy chỉ phản ánh sự gia tăng thu nhập cho người nghèo, giảm bất bình đẳng về mức sống
giữa những nhóm người trong xã hội, đòi hỏi nền kinh tế phải tạo ra được những việc làm có năng suất, và người lao động sẽ được hưởng những lợi ích từ việc gia tăng năng suất đó. Một nghiên cứu khác của OECD, được thực hiện bởi Mello, L và M.A. Dutz (2012)
ngoài quan điểm trên, còn chú trọng đến chất lượng của cơ sở hạ tầng như một nội dung đảm bảo tăng trưởng là bao trùm. Đây là điểm mới so với các nghiên cứu trước đó.
Chương trình Phát triển Liên hợp Quốc UNDP (2015) định nghĩa tăng trưởng bao trùm vừa là kết quả vừa là quá trình của tăng trưởng. Tăng trưởng bao trùm đảm
bảo rằng mọi người đều có thể tham gia vào quá trình tăng trưởng, và được hưởng lợi từ chính thành quả của quá trình đó. Tham gia vào quá trình của tăng trưởng, ngoài việc tiếp cận với các cơ hội việc làm có năng suất, mọi người dân còn được tiếp cận với các cơ hội khác ngoài lao động. Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng đồng thời của việc
tham gia vào quá trình tăng trưởng và hưởng lợi từ thành quả của tăng trưởng đó, khi chỉ ra rằng sẽ là tổn hại nếu thiếu một trong hai. Cụ thể, nếu mọi thành viên trong xã hội có tham gia mà không chia sẻ lợi ích sẽ làm cho tăng trưởng trở nên không công bằng.
Trong khi nếu chia sẻ lợi ích mà không tham gia sẽ dẫn đến một nền kinh tế phúc lợi. Cả hai điều này đều không thể dẫn tới một nền kinh tế có tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
Diễn Đàn Kinh tế Thế giới WEF (2015) coi tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng sản lượng bền vững qua thời gian, là tăng trưởng bao trùm trên các ngành của của nền kinh tế, tạo ra cơ hội việc làm có năng suất cho phần lớn dân số đang trong độ tuổi lao động và giảm đói nghèo. Tăng trưởng bao trùm nói tới cả tốc độ và cách thức của tăng
trưởng kinh tế.
Có nhiều tác giả khác nhau trong các nghiên cứu của mình đã đưa ra định nghĩa
về tăng trưởng bao trùm:
11
Bảng 1.1: Quan niệm của một số tác giả về tăng trưởng bao trùm
Chú thích Tác giả Quan niệm về tăng trưởng bao trùm
ADB, Rauniyar và Kanbur (2009) Tăng trưởng gắn với giảm bất bình đẳng
Bất bình đẳng cả khía cạnh thu nhập và phi thu nhập, nhưng chủ yếu là với các
khía cạnh thu nhập, quan tâm đến kết cục (thành quả) của tăng trưởng
ADB, Ali và Son (2007)
Tăng trưởng gắn với cải thiện các cơ hội xã hội cho Nhìn nhận tăng trưởng bao trùm theo nghĩa rộng.l
Giống quan điểm của Klasen (2008) và Grosse và cộng sự (2008). người nghèo, sự phân phối công bằng các cơ hội này và sự thay đổi của nó theo thời gian.
Quan tâm đến kết cục của tăng trưởng
ADB, Ali và Zhuang (2007) Tăng trưởng thúc đẩy cơ hội tiếp cận bình đẳng. Định nghĩa của Ali và Zhuang (2007) rất gần với
của Zhuang và Ali (2009)
khái niệm John Roemer (1998) về cơ hội bình đẳng
Đây là cách tiếp cận với quan điểm tăng trưởng cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia và đóng Nhìn nhận cả khía cạnh thu
nhập và phi thu nhập
góp vào tăng trưởng kinh tế, không quan tâm đến hoàn cảnh của họ.
Chủ yếu là quan tâm đến quá trình, thay vì kết cục của tăng trưởng
Habitat (2009)
Nhìn nhận tăng trưởng bao trùm theo nghĩa hẹp
Là tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước và dẫn tới giảm nghèo
tăng
WB, Elena và Susana (2010) trưởng giảm Là nghèo, cho phép mọi Nhìn nhận tăng trưởng bao trùm theo nghĩa hẹp
người đóng góp và hưởng
12
Chú thích Tác giả Quan niệm về tăng trưởng bao trùm
lợi từ quá trình tăng trưởng
McKinley (2010) Là tăng trưởng đạt đến Nhìn nhận tăng trưởng bao
trùm theo nghĩa rộng
trưởng bền vững, tăng sáng tạo và mở rộng các cơ hội kinh tế, để cho mọi
thành viên trong xã hội đều có thể tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng.
Ianchovichina và Gable (2012) Tăng trưởng bao trùm là việc tăng lên trong tăng Nhìn nhận tăng trưởng theo nghĩa rộng.
trưởng và mở rộng quy mô của nền kinh tế bằng cách tăng đầu tư và mở rộng Rất gần với quan điểm của WB ở đặc điểm nhấn mạnh vào việc mở rộng cơ hội
việc làm có năng suất. những cơ hội việc làm có năng suất.
Quan tâm đến cả quá trình và kết cục của tăng trưởng.
Nguồn: Tổng hợp của NCS dựa vào tổng quan các nghiên cứu
Như trên đã phân tích, ta có thể thấy được khái niệm tăng trưởng bao trùm là một khái niệm rộng và đa chiều. Addison và Zarazua (2012) cũng đã nhấn mạnh đây là một khái niệm mới, chưa có khái niệm thống nhất và cơ sở lý thuyết rõ ràng. Tùy vào hoàn cảnh của từng nền kinh tế hay đối tượng nhìn nhận như tính bao trùm xét từ góc độ
doanh nghiệp hay hộ gia đình mà khái niệm này có thể điều chỉnh cho phù hợp. Tăng trưởng bao trùm có thể được nhìn nhận theo nghĩa rộng (tập trung vào quá trình), nhấn mạnh đến cơ hội tiếp cận các nguồn lực hay chỉ được nhìn nhận theo nghĩa hẹp (tập
trung vào kết quả), nhấn mạnh đến quá trình phân phối thu nhập và thụ hưởng các lợi ích của tăng trưởng.
Tóm lại, tăng trưởng bao trùm là một khái niệm đa chiều và hiện còn có nhiều quan niệm khác nhau. Trong luận án này, tác giả xem xét tăng trưởng bao trùm theo
nghĩa hẹp, trong đó tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với thực hiện công bằng xã hội (giảm nghèo và thu hẹp bất bình đẳng), nâng cao năng lực cho người dân thông qua cải thiện tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế và tiếp cận các điều kiện sống cơ bản trong cuộc sống.
13
1.1.2. Các trụ cột (nội dung) của tăng trưởng bao trùm
Do là một khái niệm tăng trưởng mới, bao hàm nhiều khía cạnh của tăng trưởng và phát triển kinh tế, các nghiên cứu lý thuyết về tăng trưởng bao trùm chứa đựng nhiều nội dung phân tích khác nhau.
Có một số nghiên cứu đề cập đến nhiều nội dung của tăng trưởng bao trùm, trong đó có cả các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế cũng như của các nhà nghiên cứu độc lập. Nghiên cứu của ADB nhìn nhận tăng trưởng bao trùm dưới năm góc độ: (i) nghèo thu nhập, nghèo đa chiều và bất bình đẳng, (ii) tạo ra các cơ hội, (iii) sự tiếp cận các cơ
hội, (iv) bảo trợ xã hội, và (v) thể chế và quản trị. (ADB (2011), Framework of Inclusive Growth Indicators, Key Indicators for Asia and The Pacific, Asian Development Bank, 2011)
Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Phi (AfDB) đã nhìn nhận năm khía cạnh của tăng trưởng bao trùm, đó là: kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường và không gian. Trong đó kinh tế và xã hội là hai khía cạnh trọng tâm nhất. Cụ thể, kinh tế nhấn mạnh tới tăng trưởng và việc làm, trong khi xã hội bao gồm tổng hòa của các yếu tố như
sức khỏe, giáo dục, bảo vệ của xã hội và giới tính.
Diễn đàn Kinh tế thế giới (2015) cho rằng tăng trưởng bao trùm được phân tích với bảy nội dung: giáo dục và phát triển kỹ năng, lao động và việc làm, sở hữu tài sản và kinh doanh, vai trò của trung gian tài chính trong việc đầu tư vào nền kinh tế thực,
tham nhũng và những khoản tiền vụ lợi, dịch vụ hạ tầng cơ bản và chuyển giao tài chính. Đây cũng là bảy trụ cột phân tích tăng trưởng bao trùm được đưa ra trong nghiên cứu của Sammans và cộng sự (2015)
Liên quan đến khía cạnh tăng trưởng kinh tế và nghèo đói, Hann và Thorat (2013) cho rằng tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế nói tới độ co giãn của tăng trưởng theo nghèo đói, dựa trên quan điểm giảm nghèo luôn là mục tiêu chính sách của nhiều quốc gia. Tính bao trùm trong nghiên cứu dựa vào hai nhân tố (i) tăng trưởng thu nhập và (ii)
phân phối thu nhập. Đây cũng là quan điểm của nhóm tác giả Anand và cộng sự (2013) về tăng trưởng bao trùm. Hausman, Rodrik và Velasco (2005) đã sử dụng mô hình chẩn đoán tăng trưởng - chiến lược để nhận dạng những rào cản đối với tăng trưởng và cho
rằng những chiến lược này sẽ không giống nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào môi trường kinh doanh của quốc gia đó. Nhóm tác giả nhấn mạnh tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng kinh tế mà có thể hạn chế được những rào cản của của quá trình tăng trưởng. Ramos và cộng sự (2013) phân tích tăng trưởng bao trùm dựa trên hai khía cạnh, (i) sự
chia sẻ lợi ích từ quá trình giảm bất bình đẳng thu nhập và giảm nghèo và (ii) tăng cường
14
sự tham gia vào các khía cạnh việc làm của nền kinh tế.
Cũng tập trung vào khía cạnh việc làm, nhưng nghiên cứu của Fedesarrollo (2015) lại nói tới tác động tích cực của khu vực việc làm phi chính thức dưới hình thức sáng tạo ra những cơ hội cho phần lớn dân số, đặc biệt là bộ phận dân số dễ tổn thương của xã hội. Trong khi đó, Shearer và cộng sự (2016) đã xây dựng “Metro Monitor” để đánh giá sự bao trùm, tăng trưởng và sự thịnh vượng qua việc phân tích sự thay đổi của mức lương trung bình, của tỷ lệ nghèo đói tương đối và tỷ lệ việc làm. Beatty và cộng sự (2016) cho rằng tăng trưởng bao trùm đến từ các khía cạnh của thu nhập, chi phí sống
và thị trường lao động.
Liên quan đến khía cạnh tiếp cận các cơ hội tài chính, bài phát biểu của Haruhiko Kuroda (2017) nhìn nhận tính bao trùm của tăng trưởng thông qua khả năng tiếp cận các
nguồn lực tài chính ở cả hộ gia đình và doanh nghiệp. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của tài chính trong việc giúp đỡ người nghèo thoát nghèo bằng cách giảm chi phí tiếp cận nguồn tiền hơn so với các hình thức cho vay không chính thức khác, giúp đỡ họ ổn định cuộc sống khi phải đối mặt với ốm đau, bệnh tật hay các tình huống bất ngờ khác,
sáng tạo ra những cơ hội cho chính bản thân họ, đặc biệt là đối với các hộ gia đình làm kinh doanh nhỏ. Nếu so với các nghiên cứu khác thìi phát biểu của Haruhiko có nội dung hẹp hơn, nhiều khi đối tượng nhìn nhận tính bao trùm ở đây chỉ là cách tiếp cận nguồn lực tài chính đối với hộ gia đình và các doanh nghiệp nhỏ.
Trên thực tế, dù nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm được nhìn nhận dưới các khía cạnh nào, thì việc phân chia những khía cạnh đó ra thành những yếu tố nhỏ là hết sức cần thiết. Việc phân chia này còn tùy thuộc vào đặc điểm riêng của từng vùng, miền,
quốc gia hay tùy vào mục đích nghiên cứu cụ thể. Bảng dưới đây tổng hợp các đặc điểm, các chiều khác nhau khi phân tích và đo lường tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế, được tổng hợp từ các nghiên cứu:
15
Bảng 1.2: Các chiều phân tích trong tăng trưởng bao trùm
Các chiều phân tích Chỉ số thể hiện
Tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP
GDP bình quân đầu người
Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người
Đóng góp của công nghiệp, dịch vụ, và nông nghiệp trong
tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế
Nghèo đói và bất bình đẳng Phần trăm dân số sống dưới đường nghèo đói, sống dưới
$2,50 một ngày theo giá so sánh năm 2005 (WB).
Tổng thu nhập của 60% dân số nghèo nhất, khoảng cách thu nhập hay chi tiêu giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng và các nhóm dân tộc chủ yếu
Việc làm có năng suất Tình trạng việc làm (chính thức/phi chính thức)
Tỷ lệ thất nghiệp cả nước
Tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ
Đóng góp của lao động trong công nghiệp, sản xuất
Đóng góp của lao động gia đình không nhận lương trong tổng lao động/việc làm
Giáo dục Tỷ lệ nhập học nữ giới so với nam giới
Chi tiêu công cho giáo dục
Tỷ lệ nhập học bậc tiểu học, trung học
Tuổi thọ
Y tế và các vấn đề về nhân khẩu học Tỷ lệ tử vong trẻ em và sơ sinh (dưới 5 tuổi) (UNICEF,
WHO)
Tỷ lệ tử vong dưới 40 tuổi (UNDP, HDRs)
Phần trăm dân số được tiếp cận với nguồn nước sạch
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thiếu cân hay suy dinh dưỡng
Chi tiêu công cho sức khỏe
16
Các chiều phân tích Chỉ số thể hiện
Môi trường Chất lượng không khí
Nguồn nước
Đất rừng
Ổn định năng lượng
Khí thải Co2
Đa dạng sinh học và môi trường sống
Tỷ lệ nữ giới so với nam giới được giáo dục và đào tạo
Giới tính/Bất bình đẳng giới tính Tỷ lệ nữ giới so với nam giới biết chữ trong độ tuổi 15-24
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới
Tham gia của nữ giới trong quốc hội
Đóng góp của nữ giới trong việc làm được trả lương phi nông nghiệp
Không gian Sự khác biệt vùng miền về thu nhập và của cải
Sự khác biệt vùng miền về thất nghiệp (nông thôn/thành
thị, đồi núi vùng biển/đất liền)
Sự bảo vệ của xã hội Về các chính sách cho thị trường lao động
Các chương trình bảo hiểm xã hội
Các gói phúc lợi và trợ cấp xã hội khác
Các chương trình bảo trợ cho trẻ em
Cơ sở hạ tầng Phần trăm dân số được dùng điện
Số người dùng điện thoại di động tính trên 100 người
Nguồn: AfDB (2016), McKinley (2010), UNDP, WHO, UNICEF
1.2. Các phương pháp đo lường tăng trưởng bao trùm
1.2.1. Đường cong và chỉ số tập trung (Concentration curve and Index)
Để đánh giá mức độ tập trung của một biến nào đó theo các nhóm hộ gia đình khác nhau, nghiên cứu sử dụng đường cong và chỉ số tập trung. Đường cong tập trung được xây dựng bởi Kakwani (1977) dựa trên tỷ lệ phần trăm tích lũy của biến đo lường
17
(trục tung) so với tỷ lệ tích lũy của tổng thể, sắp xếp theo hộ gia đình có mức thu nhập
bình quân nhỏ nhất và kết thúc với hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người lớn nhất (trục hoành). Vì vậy, đường cong tập trung cho biết tỷ lệ tích lũy của biến đo lường mà phần trăm hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người nhỏ nhất nhận được. Nếu tất cả các hộ gia đình, không phân biệt mức thu nhập, có cùng giá trị của biến đo lường thì đường cong tập trung trở thành đường thẳng nghiêng một góc 45 độ và trở thành đường bình đẳng. Ngược lại, nếu biến đo lường có giá trị cao hơn (hoặc thấp hơn) với những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người nhỏ hơn, thì đường cong tập
trung sẽ nằm ở phía trên (hoặc phía dưới) đường bình đẳng. Đường cong càng nằm trên phía xa đường bình đẳng, thì biến đo lường càng được phân phối tập trung nhiều hơn cho các hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người thấp. Ngược lại, đường cong càng
nằm xa phía dưới đường bình đẳng, thì biến đo lường càng được phân phối tập trung nhiều hơn cho các hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người lớn.
Từ đường cong tập trung, Kakwani (1977) tính toán chỉ số tập trung để đo lường mức độ bất bình đẳng kinh tế xã hội. Chỉ số này được xác định bằng hai lần diện tích tạo
bởi đường tập trung và đường bình đẳng (đường 45 độ). Với cách định nghĩa này, chỉ số tập trung sẽ nằm trong khoảng (-1,1). Trong trường hợp không có bất bình đẳng kinh tế xã hội, chỉ số tập trung sẽ bằng 0. Thông thường, chỉ số này nhận giá trị âm khi đường tập trung nằm trên đường bình đẳng, và cho biết biến đo lường được phân bố tập trung nhiều
hơn cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. Ngược lại, nó nhận giá trị dương khi đường tập trung nằm phía dưới đường bình đẳng, và cho biết biến đo lường được phân bố không đồng đều, tức là phân bố tập trung hơn cho các hộ gia đình có thu nhập cao. Chỉ số tập
n
C
=
1 − −
trung có thể được biểu diễn viết như sau:
h r i i
1 N
2 ∑ N µ = i 1
(Kakwani, 1977, 1980) (1.1)
(cid:2)
Trong đó, ℎ(cid:2) là biến đo lường bất bình đẳng, µ là giá trị trung bình của nó, và (cid:3)(cid:2)
(cid:4)
= là thứ tự xếp hạng của hộ gia đình thứ i trong phân phối của nó theo thu nhập bình
quân, với i = 1 cho hộ gia đình có thu nhập bình quân nhỏ nhất, và i = N cho hộ gia đình có thu nhập bình quân lớn nhất. Để thuận lợi hơn cho việc tính toán, ta có thể định nghĩa
(cid:5)
chỉ số tập trung dưới dạng hiệp phương sai giữa biến đo lường bất bình đẳng và thứ tự xếp hạng trong phân phối của nó (Kakwani, 1980; Jenkins, 1988; Lerman và Yitzhaki, 1989) như sau:
(cid:6)
C = Cov (ℎ(cid:2), (cid:3)(cid:2)) (1.2)
18
Chỉ số tập trung phụ thuộc vào mối quan hệ giữa biến đo lường bất bình đẳng và
thứ bậc xếp hạng theo thu nhập chứ không phụ thuộc vào bản thân biến dùng để xếp hạng thứ bậc thu nhập của hộ gia đình.
1.2.2. Hàm cơ hội xã hội (Social Opportuity Function)
Để đánh giá tính bình đẳng/bất bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội, nghiên cứu sử dụng phương pháp hàm cơ hội xã hội xây dựng lần đầu tiên bởi Ali và Son (2007), được áp dụng cho các chỉ tiêu phi tiền tệ. Sau đó, Anand và cộng sự (2013) đã phát triển ý tưởng này cho các chỉ tiêu tiền tệ. Hàm này đo lường tăng trưởng bao trùm theo
sự gia tăng của hàm cơ hội xã hội, phụ thuộc vào hai yếu tố: (i) cơ hội bình quân được tạo ra; (ii) và cách phân bổ cơ hội giữa các hộ gia đình trong nền kinh tế. Hàm cơ hội xã hội gán trọng số lớn hơn cho các hộ gia đình có thu nhập thấp hoặc các nhóm yếu thế. Điều này
hàm ý rằng, nếu một cơ hội được chuyển từ hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người lớn hơn sang hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người nhỏ hơn, thì hàm cơ hội xã hội sẽ tăng lên, và tăng trưởng sẽ có tính bao trùm hơn.
Giả sử có n hộ gia đình trong nền kinh tế với mức thu nhập bình quân lần lượt là (cid:7)(cid:8),
(cid:7)(cid:5),…, (cid:7)(cid:4), trong đó (cid:7)(cid:8)<(cid:7)(cid:5)<…<(cid:7)(cid:8)(cid:4). Chúng ta có thể định nghĩa hàm cơ hội xã hội
O = O ((cid:10)(cid:8), (cid:10)(cid:5),…., (cid:10)(cid:4)) (1.3)
Trong đó (cid:10)(cid:2) là cơ hội có được (được hưởng) của hộ gia đình thứ i có thu nhập (cid:7)(cid:2). Cơ hội ở đây có thể được xác định là khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế, điện, nước, đất đai…Với cách định nghĩa cơ hội như vậy, ta có thể gán cho (cid:10)(cid:2) các giá trị nhị phân 0 và 100. Nó nhận giá trị 0 nếu hộ gia đình thứ i bị tước đi một cơ hội nào đó, và nhận giá trị 100 khi hộ gia đình thứ i có được cơ hội đó. Cơ hội bình quân tổng thể được định nghĩa
(cid:8)
là phần trăm tổng thể được tiếp cận với một cơ hội cụ thể nào đó, và được tính toán như sau:
(cid:4) ∑ (cid:10)(cid:2) (cid:2)(cid:12)(cid:8)
(1.4) ȳ = (cid:4)
Hàm cơ hội được giả định là một hàm tăng theo các đối số của nó. Điều này có nghĩa là, nếu cơ hội của bất cứ hộ gia đình nào tăng lên thì hàm cơ hội xã hội sẽ tăng
lên. Tăng trưởng bao trùm đạt được khi không chỉ cơ hội bình quân tăng, mà sự phân bổ cơ hội trong nền kinh tế cần phải được cải thiện. Để tính đến sự phân bổ cơ hội giữa các hộ gia đình, hàm cơ hội xã hội cần phải được thỏa mãn nguyên tắc sau: bất kỳ sự chuyển giao cơ hội nào từ một hộ gia đình có thu nhập thấp hơn tới một hộ gia đình có thu nhập
cao hơn sẽ làm giảm hàm cơ hội xã hội, và ngược lại. Hay nói cách khác, với t>0 bất kỳ, ta có:
19
O ((cid:10)(cid:8)-t, (cid:10)(cid:5)+t, (cid:10)(cid:13),…., (cid:10)(cid:4)) ≤ O ((cid:10)(cid:8), (cid:10)(cid:5), (cid:10)(cid:13),…., (cid:10)(cid:4)) (1.5)
Nếu ta biểu diễn véc tơ phân phối cơ hội Q(t) có dạng:
Q(t) ≈ O ((cid:10)(cid:8)-t, (cid:10)(cid:5)+t, (cid:10)(cid:13),…, (cid:10)(cid:4)) (1.6)
y1+y2 y1+y2+y3
,...,
),
,
Qc (t) O (y1-t, ≈
Thì ta có thể nói rằng véc tơ Q(0) là véc tơ cơ hội trội hơn tất cả các véc tơ Q(t). Véc tơ phân phối cơ hội tích lũy của Q(t) và Q(c) (0) có thể lần lượt được viết như sau
y1+y2+y3+...yn n
2
3
y1+y2 y1+y2+y3
,...,
),
,
Qc (0) O (y1, ≈
(1.7)
y1+y2+y3+...+yn n
2
3
(1.8)
Trong đó Qc(t) và Qc (0) lần lượt là phân phối tích lũy của Q(t) và Q(0) được sắp
xếp theo thu nhập tăng dần. Qc(t) và Qc(0) có thể được gọi là đường cong tập trung tổng quát. Đường cong tập trung tổng quát Qc (0) sẽ luôn cao hơn so với các đường cong tập trung tổng quát Qc(t) đối với tất cả các giá trị t > 0. Do vậy, nếu phân phối y biểu thị cơ
hội tốt hơn phân phối y*, thì phân phối của y sẽ luôn có đường cong tập trung tổng quát cao hơn. Tương tự như vậy, chúng ta có thể chứng minh rằng nếu phân phối y có đường cong tập trung tổng quát cao hơn y*, thì phân phối y sẽ luôn cho một hàm cơ hội xã hội lớn hơn. Do vậy, bằng cách nhìn vào các đường cong tập trung tổng quát của hai phân
phối, ta có thể đánh giá phân phối nào sẽ cho các cơ hội xã hội lớn hơn miễn là chúng không giao nhau.
Để thực hiện ý tưởng trên, giả sử ta sắp xếp các hộ gia đình theo thu nhập bình quân tăng dần, và ȳ(cid:16) là cơ hội bình quân được hưởng bởi p phần trăm hộ gia đình có thu nhập thấp nhất (trong đó p dao động trong khoảng 0 đến 100 và ȳ là cơ hội bình quân sẵn có cho tổng thể), thì ȳ(cid:16) sẽ bằng ȳ khi p bằng 100 (tức là bao gồm toàn bộ tổng thể).
Vì ȳ(cid:16) thay đổi theo p, chúng ta có thể vẽ một đường cong ȳ(cid:16) với mỗi giá trị của p. Đây chính là đường cong tập trung cơ hội tổng quát khi các hộ gia đình được sắp xếp theo thứ tự thu nhập bình quân tăng dần. Ta có thể gọi đường cong này là đường cong cơ hội. Đường này càng cao thì hàm cơ hội xã hội sẽ càng lớn. Như vậy, tăng trưởng sẽ
là bao trùm nếu nó làm dịch chuyển đường cong cơ hội lên trên tại tất cả các điểm, hàm ý rằng, tất cả các hộ gia đình trong xã hội, kể cả các hộ gia đình có thu nhập bình quân rất thấp, đều được tận hưởng các cơ hội gia tăng. Tuy nhiên, mức độ bao trùm sẽ phụ
thuộc vào: (i) đường cong dịch chuyển lên bao nhiêu, và (ii) đoạn nào của phân phối dịch chuyển lên.
20
Đường cong cơ hội dốc xuống hàm ý cơ hội dành cho hộ gia đình có thu nhập thấp nhiều hơn so với hộ gia đình có thu nhập cao (tức là, cơ hội được phân bổ công
bằng). Ngược lại, khi đường cơ hội là dốc lên, thì cơ hội được phân bổ không công bằng, hay hộ gia đình có thu nhập cao hơn được hưởng nhiều cơ hội hơn so với hộ gia đình có thu nhập thấp hơn. Phương pháp đường cong cơ hội cho phép xếp hạng các phân bố cơ hội, tuy nhiên không xác định được chính xác mức độ thay đổi, nghĩa là, không thể kết
luận được cơ hội sẵn có trong xã hội thay đổi như thế nào theo thời gian.
(i= 100 khi toàn bộ dân số được bao phủ cơ hội)
Hình 1.1: Đường cơ hội (Opportunity curve)
Nguồn: Ali và Son (2007) Để khắc phục được hạn chế này, hay để đo lường được độ lớn thay đổi trong
(1.9)
(cid:8) ȳ*= (cid:17) ȳ(cid:18) (cid:19)(cid:18) (cid:20)
phân bố cơ hội, cần giả định mạnh hơn về dạng của hàm cơ hội xã hội. Một cách tiếp cận đơn giản là tính chỉ số thể hiện diện tích bên dưới đường cong cơ hội, và được biểu thị dưới dạng toán học như sau:
Ta có thể gọi ȳ* là Chỉ số cơ hội (Opportunity index – OI), và khi ȳ* càng lớn thì cơ hội sẽ càng sẵn có cho toàn bộ tổng thể. Do đó, mục tiêu sẽ là tối đa hóa giá trị
của ȳ*. Nếu tất cả các hộ gia đình nhận cùng một mức độ cơ hội, thì khi đó ȳ* = ȳ. Độ lệch giữa ȳ* và ȳ cho biết cơ hội được phân bổ như thế nào trong toàn bộ tổng thể. Trong trường hợp ȳ* >> ȳ, thì cơ hội được phân phối công bằng (pro-poor), tức là cơ hội được phân bổ nhiều hơn cho các hộ gia đình có thu nhập thấp; ngược lại khi ȳ* << ȳ, thì cơ
hội được phân phối không công bằng (anti-poor), tức là cơ hội được phân bổ nhiều hơn cho các hộ gia đình có thu nhập cao hơn. Do đó, để xem xét vấn đề bình đẳng trong phân phối cơ hội, ta có thể xây dựng và tính toán Chỉ số bình đẳng cơ hội (EIO) như sau:
ȳ∗
21
(cid:21) =
ȳ
(1.10)
Chỉ số EIO ((cid:21) ) cho biết cơ hội được phân phối công bằng (hoặc không công
ȳ* = (cid:21) ȳ (1.11)
Điều này hàm ý rằng chỉ số cơ hội OI (ȳ*) là tích số giữa chỉ số bình đẳng cơ hội và chỉ số cơ hội trung bình sẵn có trong nền kinh tế. Để có được tăng trưởng bao trùm, ta cần phải tăng ȳ*. Phương trình (11) gợi ý rằng, ta có thể tăng ȳ* thông qua: (i) tăng mức độ cơ hội bình quân ȳ, (ii) tăng chỉ số bình đẳng cơ hội (cid:21), hoặc (iii) tăng cả (i) và
bằng) nếu như (cid:21) lớn hơn (hoặc nhỏ hơn 1). Từ phương trình (10) ta có:
(ii). Bằng cách lấy sai phân hai vế của phương trình (11), ta có thể xem xét động lực của tăng trưởng bao trùm như sau:
dȳ* = (cid:21) dȳ + ȳd(cid:21) (1.12)
Trong đó, dȳ* đo lường mức độ thay đổi của tăng trưởng bao trùm. Tăng trưởng là bao trùm hơn nếu dȳ* > 0. Thành phần đầu tiên của vế phải phương trình (1.12) thể hiện đóng góp của gia tăng cơ hội bình quân xã hội vào tính bao trùm của tăng trưởng
khi phân phối tương đối của cơ hội không thay đổi; thành phần thứ hai thể hiện đóng góp của những thay đổi trong chỉ số bình đẳng cơ hội khi cơ hội bình quân xã hội không thay đổi (Ali và Son, 2007).
Phương trình (12) hàm ý hai chính sách quan trọng. Nếu thành phần đứng trước
là dương, nhưng thành phần đứng sau là âm hay dȳ > 0 và d(cid:21) < 0, điều này hàm ý cơ
hội trung bình cho toàn xã hội tăng lên, nhưng mức độ bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội lại giảm đi. Chính sách tập trung vào việc mở rộng các cơ hội bình quân cho toàn xã hội, thay vì tạo ra các cơ hội nhiều hơn cho nhóm các hộ gia đình có thu nhập thấp.
Ngược lại, nếu thành phần đứng trước là âm, thành phần đứng sau là dương hay dȳ< 0 và d(cid:21) > 0, hàm ý mục tiêu tăng trưởng bao trùm đang đạt được với sự đánh đổi là cơ
hội trung bình cho toàn xã hội bị giảm đi. Tất nhiên, không phải một chính sách luôn dẫn đến sự đánh đổi giữa mức cơ hội trung bình và mục tiêu bình đẳng, nghĩa là cả hai
mục tiêu tăng cơ hội trung bình và giảm thiểu bất bình đẳng là hoàn toàn có thể đạt được đồng thời. Trong trường hợp này, tăng trưởng sẽ luôn là bao trùm nếu cả dȳ và d(cid:21) đều
dương, trong khi tăng trưởng sẽ là không bao trùm nếu cả dȳ và d(cid:21) đều âm.
Áp dụng cũng với phương pháp như trên cho chỉ tiêu thu nhập, Anand và cộng sự (2013) đã xây dựng phương pháp hàm dịch chuyển xã hội (Social mobility function)
c
S =(y1,
,....
)
(1.13)
y1+y2 2
y1+y2+...+yn n
dựa trên cách tiếp cận vi mô về phân phối thu nhập. Kế thừa nghiên cứu của Ali và Son (2007), nghiên cứu của Anand đã phát triển đường “social mobility curve” (Sc)
22
Giả định có n người trong dân số, với thu nhập lần lượt là (cid:10)(cid:8), (cid:10)(cid:5)(cid:8),…. (cid:10)(cid:4) ((cid:10)(cid:8) là thu nhập của người nghèo nhất, (cid:10)(cid:4) là thu nhập của người giàu nhất). Theo đó, dân số sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần trong thu nhập. Gọi (cid:10)(cid:2) là thu nhập trung bình của nhóm i phần trăm dân số có thu nhập thấp nhất, đường AB (hình 1.2) thể hiện giá trị (cid:10)(cid:2)(cid:8)với các giá trị i khác nhau (đường chuyển động xã hội). Tăng trưởng là bao trùm nếu như đường chuyển động xã hội di chuyển lên trên tại mọi điểm. Hình (1.2) dưới đây miêu tả hai đường chuyển động xã hội với sự tăng lên đồng thời của thu nhập bình quân và sự cải thiện trong phân phối thu nhập (Trong trường hợp này, rất rõ ràng là đường A1B1 có tính bao trùm hơn so với AB). Tuy nhiên, nếu cho A1 trùng A (gọi chung là A), ta sẽ có hai đường chuyển động xã hội với cùng thu nhập bình quân nhưng đường AB1 thể hiện phân phối thu nhập nghiêng về nhóm dân số giàu hơn, hay AB1 có tính bao trùm thấp hơn AB. Trong một trường hợp khác, nếu cho B1 trùng B (gọi chung là B), ta sẽ có hai đường chuyển động xã hội có cùng mức độ phân phối thu nhập nhưng khác thu nhập bình quân. Với trường hợp này, đường A1B sẽ có tính bao trùm cao hơn AB vì nhóm dân số ở phía dưới có thu nhập bình quân được cải thiện.
Để thể hiện cho mức độ thay đổi trong phân phối thu nhập, nghiên cứu của Anand đã sử dụng một dạng thức đơn giản hơn của hàm chuyển động xã hội bằng cách tính toán chỉ số chuyển động xã hội- social mobility index, là vùng diện tích phía dưới đường chuyển động xã hội:
(cid:8)(cid:20)(cid:20) ȳ* = (cid:17) (cid:20)
ȳ(cid:23) (cid:19)(cid:23) (1.14)
Nếu thu nhập của tất cả mọi người đều bằng nhau, ȳ* sẽ bằng ȳ. Nếu ȳ* nhỏ hơn ȳ, ta nói phân phối thu nhập không công bằng, và mức độ nhỏ hơn của y* so với ȳ thể hiện mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập.
B1
n â u q h n ì b
p ậ h n
u h T
(i=100 khi toàn bộ dân số được bao phủ)
Hình 1.2: Đường chuyển động xã hội (Social mobility curve)
Nguồn: Anand và cộng sự (2013)
23
1.2.3. Chỉ số bao trùm tổng hợp (composite inclusive index)
Bên cạnh phương pháp đường cong và chỉ số tập trung và phương pháp hàm cơ hội xã hội, có một số nghiên cứu, tuy không nhiều, có đánh giá tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia hay một khu vực thông qua tính chỉ số bao trùm tổng hợp. Thực chất đây không phải là một phương pháp độc lập, mà nó thực hiện tính chỉ số bao trùm tổng hợp dựa vào chỉ số của các chiều riêng lẻ và trọng số được gán cho các chiều đó. Nghiên cứu của Kinley (2010) là nghiên cứu điển hình đã xây dựng phương pháp tính toán chỉ số tổng hợp này. Tác giả đã thực hiện tính toán chỉ số dựa trên bốn
chiều, đó là: (i) tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tiếp cận cơ sở hạ tầng, (ii) giảm nghèo và các bất bình đẳng về giới tính, (iii) mở rộng các cơ hội tiếp cận cho con người trên các lĩnh vực như giáo dục, y tế, nước sạch và các điều kiện vệ sinh khác, và (iv) hệ
thống bảo trợ và an sinh xã hội cơ bản. Trong mỗi chiều sẽ là các nhóm tiêu chí nhỏ. Cụ thể với bốn chiều đo lường tăng trưởng bao trùm như trên, tác giả đã gán trọng số lần lượt là 50%, 25%, 15% và 10%. Trọng số lớn nhất được gán cho nhóm tăng trưởng kinh tế và việc làm, và nhỏ nhất được dành cho hệ thống bảo trợ và an sinh xã hội. Chỉ số
tổng hợp được xây dựng trên thang điểm từ 0 đến 10, dựa trên mức độ đạt được của mỗi quốc gia ở mỗi chiều đo lường đó với các tiêu chí nhỏ. Điểm số càng cao thể hiện tính bao trùm của quốc gia đó trong chiều đó càng lớn. Cụ thể, nghiên cứu đã đánh giá mức đạt được cho mỗi tiêu chí với mức điểm từ 1 đến 3, thể hiện mức độ là chưa đạt được
tính bao trùm, mức điểm từ 4 đến 7 thể hiện mức độ là đã đạt được tính bao trùm, còn với các điểm từ 8 đến 10 thể hiện tính bao trùm lớn trong tiêu chí đó. Áp dụng phương pháp này, nghiên cứu đã tính toán chỉ số tăng trưởng bao trùm tổng hợp cho sáu quốc
gia trong khu vực châu Á, đó là: Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Indonesia, Philipppin và Uzbekistan. Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là tác giả không lý giải cơ sở nào cho các lựa chọn về trọng số của các chỉ tiêu thành phần để từ đó tính toán chỉ số bao trùm tổng hợp.
Với ba phương pháp đo lường tăng trưởng bao trùm vừa được phân tích trên đây, trong khi phương pháp đường cong và chỉ số tập trung chỉ phản ánh được khía cạnh phân phối của tăng trưởng, phương pháp đo lường chỉ số tổng hợp không phù hợp khi phạm
vi nghiên cứu của luận án chỉ là đo lường tăng trưởng bao trùm về thu nhập và một số các chỉ tiêu phi thu nhập khác, đặc biệt là không có cơ sở để lựa chọn trọng số cho từng chỉ tiêu, phương pháp hàm cơ hội xã hội tỏ ra phù hợp nhất. Do đó, luận án lựa chọn phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007) là phương pháp đo lường duy nhất để tính toán
các chỉ số bao trùm trong các chỉ tiêu mà luận án lựa chọn phân tích.
24
1.3. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố quyết định tăng trưởng bao trùm
Tăng trưởng bao trùm là một khái niệm mới lồng nghép cả quá trình tăng trưởng kinh tế và phân phối kết quả mà tăng trưởng kinh tế tạo ra. Theo lý thuyết chính thống, hai quá trình này được xem xét riêng biệt. Trong mục này luận án sẽ giới thiệu tổng quan các lý thuyết về các nhân tố quyết định tăng trưởng và các lý thuyết quyết định phân phối thu nhập/bất bình đẳng thu nhập để làm cơ sở cho việc lựa chọn biến độc lập trong mô hình định lượng về các nhân tố quyết định tăng trưởng bao trùm về thu nhập.
1.3.1. Các lý thuyết về các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế
Có thể nói, một trong những vấn đề của kinh tế học được quan tâm nhất cho đến nay vẫn là việc tìm hiểu các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Qua thời gian, các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã trải qua nhiều giai đoạn thăng
trầm của nó. Mặc dù hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng lý thuyết kinh tế hiện đại ra đời vào những năm 1950, nhưng những nhà kinh tế học cổ điển mới chính là người tiên phong trong việc xác lập những yếu tố cơ bản của lý thuyết tăng trưởng hiện đại. Tác phẩm “Bàn về bản chất và nguyên nhân giàu có của các quốc gia” do Adam Smith
xuất bản năm 1776 có thể coi là phát minh đầu tiên trong số các lý thuyết về tăng trưởng. Theo tác giả, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia không chỉ đến từ việc tích lũy vốn mà cả tiến bộ công nghệ, các nhân tố xã hội và thể chế đều đóng một vai trò quan trọng. Một dẫn chứng mà tác giả đưa ra là cơ chế tích lũy vốn trong thị trường cạnh
tranh tự do là động cơ chính tạo nên tăng trưởng kinh tế của nước Anh. Tuy nhiên, Adam Smith và sau đó là David Ricardo đã cho rằng tăng trưởng kinh tế của mọi nền kinh tế sẽ giảm sút và dừng lại ở một giới hạn nhất định do tỷ suất lợi nhuận giảm dần bởi sự
khan hiếm của các nhân tố sản xuất. Cơ chế tích lũy vốn- nhân tố quyết định tăng trưởng trong lý thuyết kinh tế của Adam Smith sau đó đã được Karl Marx kế thừa, tuy nhiên ông giải thích “giới hạn nhất định” trong tăng trưởng theo một cách khác. Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển là Mark cũng dự báo tăng trưởng trì trệ trong dài hạn dựa
trên những lập luận về phân phối. Tuy nhiên, lý thuyết của Karl Marx rất khác biệt so với lý thuyết cổ điển. Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng tư bản chỉ là một quỹ tiền lương, thì Marx lại cho rằng tư bản cố định đã bao hàm trong nó “khoa học và
công nghệ”. Lý thuyết tăng trưởng của ông cho rằng đội quân hậu bị công nghiệp không bao giờ bị biến mất do hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể phá hủy khu vực sản xuất nhỏ truyền thống kết hợp với tiến bộ công nghệ mới làm giảm lao động trong khu vực công nghiệp. Chính vì lý do này, tỷ suất lợi nhuận và tốc độ tích lũy tư bản cao
trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn được đảm bảo. Mô hình của Marx rất có ý nghĩa trong việc giải thích vấn đề mà các nước đang phát triển đã và đang gặp phải- đó là tình
25
trạng bất bình đẳng và bất ổn xã hội ngày càng gia tăng. Lập luận của ông là nhiều nền
kinh tế đang phát triển thường cố gắng đạt được mức tăng trưởng nhanh thông qua việc đầu tư vào khu vực công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia đều thành công khi thực hiện điều đó. Một số quốc gia, ngược lại, chứng kiến tốc độ gia tăng việc làm chậm hơn nhiều so với tốc độ gia tăng sản lượng. Thêm nữa, khả năng hấp thụ lao động trong khu vực nông nghiệp đã bão hòa kết hợp với xu hướng gia tăng trong lực lượng lao động đã dẫn tới một lượng lớn lao động ra thành thị. Một bộ phận lao động này sẽ không thể có được một công việc ở khu vực thành thị do nhiều công việc ở đây
đã bị hạn chế do sử dụng công nghệ thâm dụng tư bản. Kết quả là bất bình đẳng ngày càng gia tăng ở những khu vực này. Các lý thuyết tăng trưởng sau đó dường như đã không còn được quan tâm nhiều,
cho đến khi có sự ra đời của trường phái Keynes. Một luận điểm quan trọng trong mô hình tăng trưởng trường phái Keynes là: có một con đường tăng trưởng cân đối không ổn định trong một nền kinh tế đóng. Kết quả tất yếu của mô hình này là các chính sách của chính phủ có thể tác động đến tốc độ tăng trưởng sản lượng thực tế trong dài hạn,
qua đó nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư trong trường hợp sản lượng và việc làm tăng liên tục. Dựa vào tư tưởng của Keynes, hai nhà kinh tế học Harrod và Domar cũng đã có những nghiên cứu độc lập để lượng hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Tuy nhiên có sự khác nhau trong quan điểm của hai nhà kinh tế học: Harrod cho
rằng tăng trưởng kinh tế ổn định chỉ có thể đạt được khi nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng nhân công, điều này đòi hỏi nền kinh tế phải có ổn định kinh tế vĩ mô (đạt được sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng thực tế và tăng trưởng bảo đảm), đồng thời có được
sự ổn định việc làm (hay sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng bảo đảm và tăng trưởng tự nhiên). Trong khi đó, Domar lại cho rằng khi tăng đầu tư, hiệu quả cận biên của vốn giảm, điều này khiến cho việc gia tăng đầu tư trở nên khó khăn hơn. Do đó, luôn tồn tại khoảng cách giữa cầu và năng lực sản xuất, và rất có thể sẽ không xảy ra tăng trưởng
kinh tế ổn định. Tuy nhiên, điểm chung trong quan điểm của hai nhà kinh tế học là các nền kinh tế phải tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập của mình để có được tăng trưởng. Và do đó, trở ngại chính đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước nghèo là khả năng huy
động vốn thấp do thu nhập thấp. Các nền kinh tế này rất khó để có thể thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo khi tiết kiệm thấp dẫn đến thu nhập thấp, và thu nhập thấp lại làm cho tiết kiệm thấp, và kết cục là không có tăng trưởng. Tuy nhiên, phản bác lại quan điểm của Harrod và Domar khi cho rằng tốc độ tăng trưởng chỉ được quyết định
bởi tỷ lệ tiết kiệm, mô hình Tân cổ điển được xây dựng bởi Solow và Swan (1956) đã ra đời (gọi tắt là mô hình Solow-Swan). Điểm mới trong mô hình này so với mô hình Harrod Domar là yếu tố lao động và tiến bộ công nghệ đã được đưa vào phương trình
26
tăng trưởng, điều này khắc phục sự quá đơn giản khi cho rằng chỉ có tiết kiệm mới tác
động đến tăng trưởng kinh tế như trong mô hình của Harrod Domar. Mô hình Solow Swan ra đời có thể được coi như là bước ngoặt giữa các lý thuyết “cũ” và “mới” trong tăng trưởng, được nhận định là mô hình hoàn chỉnh đầu tiên về tăng trưởng kinh tế. Các giả thiết cơ bản của mô hình là: lợi tức không đổi theo quy mô, năng suất cận biên của vốn giảm dần, công nghệ sản xuất là ngoại sinh, vốn và lao động có thể thay thế được cho nhau và không có một hàm đầu tư độc lập. Dựa trên những giả thiết này, mô hình Tân cổ điển dự báo sự hội tự tăng trưởng đạt tới một trạng thái dừng. Tại trạng thái này,
tất cả các quốc gia có cùng hàm sản xuất và tỷ lệ tiết kiệm, sẽ cùng hội tụ đến một trạng thái dừng như nhau. Tại đây, tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người chỉ có được nhờ tiến bộ công nghệ. Mặc dù vậy, tiến bộ công nghệ trong mô hình Solow-Swan không
được xác định rõ, và do đó không thực sự giúp các nhà phân tích kinh tế biết được cái gì mới quyết định tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Đây cũng là lý do ra đời của các mô hình tăng trưởng nội sinh sau đó. Sự giống nhau của mô hình tăng trưởng nội sinh với mô hình Harrod Domar là cũng cho rằng đầu tư là thành tố quyết định tăng trưởng,
nhưng khái niệm truyền thống về vốn đã được mở rộng khi nó bao gồm cả vốn con người. Đi đầu trong các lý thuyết tăng trưởng nội sinh là khái niệm “learning by doing” (học thông qua làm, hay kinh nghiệm trong sản xuất) của Arrow, kế đến là tác giả Romer với mô hình có R&D. Các nhà kinh tế học sau đó như Lucas, Mankiw hay Weil đều đã
đưa vốn con người trở thành một đầu vào trong sản xuất. Thực chất, đây cũng là đặc điểm chung của hầu hết các lý thuyết tăng trưởng nội sinh, khi cho thấy vốn con người hay tích lũy kiến thức là một yếu tố quan trọng quyết định tăng trưởng. Và do đó, một
khi chính phủ muốn thực hiện chính sách nhằm tác động tới tăng trưởng kinh tế thì chính sách đó là hướng tới việc tăng chi tiêu cho giáo dục, đào tạo, hay nghiên cứu phát triển công nghệ. Tuy nhiên, những lý thuyết vừa kể trên tập trung giải thích các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế (phản ánh tổng thu nhập) hơn là các nhân tố quyết định thu
nhập bình quân. Trong bối cảnh này, thuyết dân số của Thomas Malthus đã giải quyết vấn đề này bằng việc giải thích vai trò của tăng trưởng dân số đến tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người. Nội dung cơ bản của học thuyết này được trình bày trong
cuốn sách: “Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó đến nâng cao đời sống xã hội”. Theo thuyết này, tăng trưởng dân số sẽ diễn ra với nhịp độ không đổi trong khi sự gia tăng lương thực thực phẩm lại có giới hạn. Tuy nhiên,nhược điểm của thuyết này là tác giả đã không nghĩ dự đoán được việc gia tăng dân số có thể sẽ giúp có được
những tiến bộ trong công nghệ, và những tiến bộ này lại cải thiện phát triển kinh tế và việc gia tăng dân số đôi khi sẽ được ngăn cản do những quy luật tự nhiên. Chính vì lý do đó, thuyết dân số mà Thomas Malthus xây dựng vẫn còn để lại nhiều tranh cãi.
27
Tóm lại, từ các lý thuyết trên, có thể thấy rằng các yếu tố quyết định đến tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia, và quyết định đến tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người, đó là: tích lũy vốn (tư bản và con người), công nghệ, các nhân tố xã hội, thể chế và dân số. Trong đó, các yếu tố về vốn (tư bản và con người), công nghệ, duy trì tốc độ tăng dân số hợp lý, và việc duy trì một thể chế kinh tế ổn định sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế, cải thiện thu nhập bình quân đầu người. Vốn con người ở đây được hiểu là trí lực thu được thông qua giáo dục và đào tạo, là sức khỏe được thể hiện qua cơ hội tiếp cận y tế. Cải thiện vốn nhân lực sẽ cải thiện năng suất, vì vốn nhân lực là một trong bốn
yếu tố chính quyết định năng suất, trong khi năng suất lại phản ánh mức sống của mỗi quốc gia.
1.3.2. Các lý thuyết về các nhân tố quyết định bất bình đẳng thu nhập
Không giống với tăng trưởng kinh tế, hầu như không có một lý thuyết chính thống nào về các nhân tố quyết định bất bình đẳng thu nhập. Trên thực tế các nhà nghiên cứu đều đồng tình rằng có rất nhiều các yếu tố có thể ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập. Do vậy, khi nghiên cứu về vấn đề này, các tác giả thường chỉ tập trung làm rõ tác động
của một hay một số các yếu tố tới bất bình đẳng thu nhập. Ngoài tác động trực tiếp của các yếu tố này, các nghiên cứu còn đề cập đến mối quan hệ giữa những yếu tố này với nhau, và qua đó tác động đến bất bình đẳng về thu nhập (hay còn gọi là tác động gián tiếp). Chính vì không có các lý thuyết chính thống, nên trong phần này, luận án sẽ đưa
ra nhóm các yếu tố mà từ trước đến nay đã được nhiều nghiên cứu thừa nhận, và cho đây là một cơ sở vững để hình thành cơ sở lý thuyết về các nhân tố quyết định bất bình đẳng thu nhập. Nhóm các yếu tố này sẽ là cơ sở cho việc lựa chọn biến cho phân tích
định lượng của luận án ở chương 4. Cụ thể, có năm nhóm yếu tố mà các nghiên cứu cho rằng có tác động đến bất bình đẳng về thu nhập. Đó là: (1) các yếu tố về phát triển kinh tế, (2) các yếu tố liên quan đến nhân khẩu học, (3) các yếu tố về chính trị, (4) các yếu tố về văn hóa và môi trường, và (5) các yếu tố vĩ mô. Trong đó, nhóm (1) gồm các yếu tố
phản ánh của cải của một nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu như GDP bình quân đầu người, tiến bộ công nghệ, và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nhóm này, giả thuyết Kuznets (1955) về mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng thu
nhập được rất nhiều nghiên cứu quan tâm và coi đây là một cơ sở lý thuyết quan trọng về tác động của GDP bình quân đầu người tới bất bình đẳng trong thu nhập. Cụ thể, GDP bình quân đầu người sẽ có tác động dương đến bất bình đẳng thu nhập khi thu nhập ở mức thấp, và đảo chiều tác động khi thu nhập ở mức cao. Nhóm (2) gồm có các yếu
tố phản ánh tình trạng đô thị hóa, cơ cấu tuổi của dân số, trình độ và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục. Một số nghiên cứu tên tuổi trong nhóm thứ hai là Deaton và Paxson
28
(1997); Higgins và Williamson (1999). Nhóm (3) nhắc đến các yếu tố như tỷ lệ chi tiêu
của chính phủ trên GDP, các yếu tố về tự do và dân chủ hóa. Gustafsson và Johansson (1977); Clake, Xu và Zou (2003); Nielsen và Alderson (1995) là các tác giả điển hình đã phân tích tác động của nhóm các yếu tố này. Cụ thể, các tác giả cho rằng trong khi mức độ dân chủ và tỷ trọng chi tiêu của chính phủ trên GDP cải thiện bất bình đẳng thu nhập thì tác động của tư nhân hóa lại theo chiều hướng ngược lại. Nhóm (4) bao gồm một số yếu tố phản ánh tình trạng tập trung đất đai, sự đa dạng hóa trong văn hóa, nền kinh tế ngầm, tham nhũng và tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể, khi việc tập trung đất đai
trở nên không công bằng, sự tăng lên của tham nhũng hay tỷ lệ đóng góp của nền kinh tế ngầm sẽ làm bất bình đẳng thu nhập tăng lên. Các tác giả điển hình trong nhóm này có Cornia và Kiiski (2001); Rosser và Rosser (2001) và Gupta, Davoodi và Terme
(2002). Nhóm cuối cùng có các yếu tố vĩ mô như lạm phát, thất nghiệp, chỉ số phát triển tài chính và cán cân thương mại. Có khá nhiều các nghiên cứu của các tác giả khác nhau trong nhóm này. Tuy nhiên, trong khi quan điểm chung của những nghiên cứu này cho rằng các mức độ phát triển tài chính làm giảm bất bình đẳng về thu nhập thì lại không
cho thấy vai trò của lạm phát và thất nghiệp trong mối quan hệ này.
Tóm lại, tác động của các yếu tố được phân chia theo 5 nhóm trên đây có thể
được tổng kết trong bảng dưới đây
Bảng 1.3: Cơ sở lý thuyết về tác động của một số yếu tố tới bất bình đẳng
về thu nhập
Nhóm yếu tố Yếu tố phản ánh Tác động
Không rõ ràng, hoặc có thể dương hoặc âm
Sự phát triển kinh tế Của cải của nền kinh tế (có thể lấy GDP bình quân đầu người)
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Không rõ ràng, hoặc có thể
dương hoặc âm
Tăng trưởng kinh tế
Không rõ ràng, hoặc có thể dương hoặc âm
Tiến bộ công nghệ Dương
Nhân khẩu học Đô thị hóa Không rõ ràng, dương hoặc âm
Dương hoặc âm
Tỷ trọng các nhóm tuổi trong dân số
29
Trình độ giáo dục Dương hoặc âm
Bất bình đẳng trong giáo dục Dương
Chi tiêu cho giáo dục
Không rõ ràng, hoặc có thể dương hoặc âm
Chính trị Dương hoặc âm
Tỷ trọng của khu vực chính phủ
Sự dân chủ Không rõ ràng, dương hoặc âm
Sự tập trung về đất đai
Các yếu tố về văn hóa và môi trường
Dương, tuy nhiên các nghiên cứu gần đây lại không cho thấy rõ ràng tác động
Đa dạng hóa văn hóa Dương trong một số ít các
nghiên cứu
Nền kinh tế ngầm (Shadow economy) Dương trong một số ít các nghiên cứu
Tham nhũng
Dương trong một số ít các nghiên cứu
Tài nguyên thiên nhiên
Dương, tuy nhiên các nghiên cứu gần đây lại không cho thấy rõ ràng tác động
Các yếu tố vĩ mô Lạm phát
Không rõ ràng, hoặc có thể dương hoặc âm
Thất nghiệp Không rõ ràng, hoặc có thể
dương hoặc âm
Phát triển tài chính Âm
Xuất nhập khẩu
Dương hoặc âm trong một số ít các nghiên cứu
Đầu tư nước ngoài Dương
Nguồn: Anneli và Kaasa (2005)
30
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày tổng quan những công trình nghiên cứu có liên quan đến các quan niệm, các trụ cột (nội dung) cũng như các phương pháp đo lường tăng trưởng bao trùm được đề cập trong một số nghiên cứu về chủ đề này từ trước đến nay. Về nội dung, luận án đã giới hạn phạm vi nghiên cứu tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng bao
trùm trong thu nhập. Về phương pháp đo lường, trong số ba phương pháp được trình bày, luận án lựa chọn phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007), thay vì phương pháp chỉ số tập trung hay chỉ số tổng hợp (lý do lựa chọn đã được lý giải trong nội dung của chương)
Ngoài ra, nội dung của chương 1 cũng trình bày các lý thuyết về các nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế cũng như các lý thuyết về các nhân tố quyết định bất bình đẳng hay phân phối thu nhập. Đây là các lý thuyết nền tảng để phần nào làm cơ sở
cho việc lựa chọn các biến đưa vào mô hình định lượng về các nhân tố quyết định đến tăng trưởng bao trùm thu nhập ở chương 4 (dựa theo quan niệm tăng trưởng bao trùm về thu nhập là tổng hòa của hai khía cạnh là tăng trưởng và phân phối thu nhập).
31
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM
2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
2.1.1. Các nghiên cứu trong phạm vi nhiều quốc gia
Nghiên cứu của Anand và cộng sự (2013) đưa ra phương pháp tính chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập, trên cơ sở phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son
(2007) đồng thời phân tích tác động của một số các nhân tố tới tốc độ thay đổi của tăng trưởng bao trùm về thu nhập với 143 nước trong khoảng thời gian 1970-2010. Có thể nói, đây là một nghiên cứu rất tổng quan, với số lượng các nước lớn và thời gian nghiên cứu dài. Nghiên cứu đã lựa chọn một số nhân tố tác động chính là: GDP bình quân đầu người, giáo dục (lấy số năm đi học cho dân số trên tuổi 15 theo nghiên cứu của Barro và Lee, 2000), độ mở thương mại, tín dụng, tiêu dùng chính phủ, đầu tư, lạm phát, và biến động của GDP (GDP volatility). Một số nhân tố khác được đưa dần vào mô hình
khi tiến hành ước lượng là: độ mở tài chính, FDI, công nghệ thông tin, tỷ giá hối đoái thực hữu hiệu (REER), chất lượng của cơ sở hạ tầng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại tác động dương của độ mở tài chính, FDI, và chất lượng hạ tầng tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập, trong khi có tác động âm của tỷ giá hối đoái thực hữu hiệu, duy nhất
có biến số công nghệ thông tin là không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Jalles và Mello (2019) thực hiện với 78 nước là các nước phát triển và mới nổi trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến 2013. Quan điểm tăng trưởng
bao trùm trong nghiên cứu là tăng trưởng chứng kiến đồng thời sự tăng lên trong GDP bình quân đầu người với không có sự giảm sút trong phân phối thu nhập khả dụng của hộ gia đình. Theo đó, khía cạnh tăng trưởng bao trùm mà nghiên cứu hướng tới là tăng trưởng và phân phối thu nhập. Bằng phương pháp hồi quy logit và probit, các tác giả đã
cho thấy tác động của các nhân tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Các nhân tố đó là: GDP bình quân đầu người, vốn nhân lực được tính từ số năm đi học (dựa vào nghiên cứu của Barro và Lee, 2003), năng suất, biến động trong GDP (GDP volatility), độ mở thương mại, lạm phát (lấy theo chỉ số giá tiêu dùng CPI) và thất nghiệp. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy không có tác động của GDP bình quân đầu người và lạm phát, nhưng lại tồn tại tác động dương của các biến chất lượng nguồn nhân lực, năng suất, và độ mở thương mại đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp
và mức độ biến động GDP có tác động âm.
32
Với quan điểm tăng trưởng bao trùm về thu nhập và giảm nghèo, nghiên cứu của
Doumbia (2018) lựa chọn ba cách đo lường khác nhau cho biến phụ thuộc, đó là (1) thu nhập của 20% dân số nghèo nhất, (2) tỷ lệ nghèo đói tính theo chuẩn nghèo 2 đô la Mỹ 1 ngày (tính theo ngang giá sức mua PPP), và (3) tỷ lệ nắm giữ thu nhập của 20% dân số nghèo nhất. Mẫu nghiên cứu bao gồm 112 nước chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 2012. Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô men tổng quát (GMM) với các biến độc lập được lựa chọn là: GDP bình quân đầu người, thể chế, chi tiêu cho giáo dục, nhóm biến vốn nhân lực, độ mở tài chính, độ mở
thương mại, lạm phát, tăng trưởng cung tiền M2, và thất nghiệp, với việc nhấn mạnh nhất đến biến thể chế. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa thể chế với tăng trưởng vì người nghèo, song mối quan hệ này với tăng trưởng bao trùm
lại là tuyến tính. Ngoài ra, nghiên cứu không cho thấy có tác động của biến độ mở thương mại, độ mở tài chính và cung tiền tới cả tăng trưởng vì người nghèo hay tăng trưởng bao trùm. Nhóm biến vốn nhân lực dường như là có tác động đến tăng trưởng vì người nghèo nhưng lại không có tác động khi biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm.
Đáng lưu ý, với tất cả các mô hình, tác động của lạm phát là dương.
Trong phạm vi nghiên cứu với các nước trong khu vực châu Á và các nền kinh tế đang phát triển, với biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm, có một số các nghiên cứu sau:
Nghiên cứu của Javed và cộng sự (2018) với 8 nước thuộc khu vực Nam Á là
Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka trong thời kỳ 2005-2014. Biến độc lập của nghiên cứu này thuộc hai nhóm chính: (1) các chỉ số phát triển con người có giáo dục và y tế (tuổi thọ kỳ vọng), và (2) nhóm các chỉ số về
thể chế và quản trị, gồm có: tiếng nói và giải trình, sự ổn định chính trị, hiệu quả của chính phủ, chất lượng điều hành, các quy định về luật pháp, sự kiểm soát đối với tham nhũng. Kết quả cho thấy Nepal là quốc gia có tăng trưởng bền vững và bao trùm nhất trong khi chỉ hai phần ba tăng trưởng kinh tế của các nước này đạt được tính bao trùm.
Trong số các biến độc lập, sự ổn định về chính trị và tuổi thọ kỳ vọng là hai nhân tố quyết định nhất đến phúc lợi của người dân các nước trong mẫu.
Aoyagi và Ganelli (2015) trong một nghiên cứu của IMF, đã phân tích thực trạng
tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, bất bình đẳng và tăng trưởng bao trùm ở 10 nước trong khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam. Các nhân tố quyết định đến tăng trưởng bao trùm là cải thiện chính sách tiền tệ và chính sách tái phân bổ tài khóa nhằm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới cơ cấu kinh tế để thúc đẩy thương mại, giảm thất nghiệp và
nâng cao năng suất. Nghiên cứu cho rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở 10 nước này đạt được nhiều thành tựu, nhưng bất bình đẳng thì lại gia tăng trong khoảng
33
hai thập niên trở lại đây. Tuy vậy, dựa vào kết quả phân tích, nghiên cứu cũng lạc quan
với tương lai của các nước có thể đạt được tăng trưởng thịnh vượng trên cơ sở chia sẻ lợi ích của từ thành quả của tăng trưởng cho tất cả mọi người vì các chính sách như trên là hoàn toàn có thể thực hiện được. Trong nhóm các chính sách đó, các nước cần đặc biệt chú ý đến việc mở rộng chính sách tái phân bổ tài khóa.
Phân tích tăng trưởng bao trùm với các nền kinh tế đang phát triển, nhưng nghiên cứu của Sen (2014) đi theo một hướng khác, khi phân chia tác động của các nhóm yếu tố, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của thể chế trong các giai đoạn tăng trưởng khác
nhau: tăng trưởng đi lên (growth acceleration), tăng trưởng duy trì (growth maintenance) hay thoái trào tăng trưởng (growth collapse). Trên cơ sở phân tích các đặc điểm khác nhau của thời kỳ tăng trưởng đi lên và tăng trưởng duy trì, nghiên cứu cho rằng sự cải
thiện trong hệ thống thể chế chính thức không giải thích được cho thời kỳ tăng trưởng đi lên của các nền kinh tế, mà giai đoạn này phụ thuộc nhiều hơn vào hệ thống thể chế phi chính thức hay hệ thống thể chế yếu. Hệ thống thể chế kiểu như vậy là đặc trưng của các nền kinh tế đang phát triển đang trải qua giai đoạn tăng trưởng đi lên. Sự tồn tại của
một hệ thống thể chế này là rào cản cho sự bền vững trong tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Ravi và cộng sự (2013) phân tích thực trạng và các nhân tố tác động tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập trong bối cảnh các nền kinh tế ở khu vực châu Á (có Việt Nam). Tăng trưởng bao trùm theo quan điểm của nghiên cứu là tăng
trưởng trong đó bất bình đẳng thu nhập không tăng, hoặc không giảm trong khi tỷ lệ thu nhập của nhóm phân vị phía dưới dân số được duy trì. Quan điểm này gần giống như quan điểm đã được nói đến trong nghiên cứu của Rauniyar và Kanbur (2010).
Từ việc tổng quan một số nghiên cứu trên, có thể thấy các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố quyết định đến tăng trưởng bao trùm còn rất hạn chế. Bên cạnh một số nghiên cứu phân tích tác động tới biến phụ thuộc là chỉ số bao trùm tổng hợp (được tính từ nhiều chiều trong khung phân tích tăng trưởng bao trùm), các nghiên cứu
với biến phụ thuộc chỉ là tăng trưởng bao trùm về thu nhập không nhiều. Với nhóm các nghiên cứu mà biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm về thu nhập, nhiều nghiên cứu sử dụng thước đo tăng trưởng bao trùm về thu nhập như trong nghiên cứu của Anand và
cộng sự (2017) về hàm dịch chuyển xã hội, kế thừa nghiên cứu của Ali và Son (2007) về hàm cơ hội xã hội. Do số lượng các nghiên cứu thực nghiệm khá ít, nên để có đủ căn cứ hơn trong việc lựa chọn các biến sử dụng trong mô hình định lượng ở chương sau, trong phần tiếp theo, luận án sẽ tiếp tục tổng quan một số nghiên cứu nổi bật, trong đó
có phân tích tác động của các nhân tố tới tăng trưởng kinh tế, tới thay đổi của GDP bình quân đầu người hay bất bình đẳng về thu nhập. Lý do của việc tổng quan thêm các
34
nghiên cứu này là theo quan niệm chung về tăng trưởng bao trùm, tăng trưởng bao trùm
là sự tổng hòa của hai yếu tố là tăng trưởng và phân phối. Trên cơ sở đó, tăng trưởng bao trùm về thu nhập được hiểu là sự tổng hòa của hai yếu tố là tăng trưởng của thu nhập bình quân và phân phối thu nhập (hay bất bình đẳng thu nhập). Bởi vậy, việc lựa chọn tổng quan thêm một số các nghiên cứu như vậy là hợp lý. Do số lượng các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người hay bất bình đẳng về thu nhập trên thế giới là khá lớn, thêm nữa, đây không phải là mục tiêu nghiên cứu chính của luận án, nên phần sau đây chỉ xem xét lựa chọn
tổng quan một số nghiên cứu chính được thực hiện trong khu vực châu Á làm cơ sở cho việc lựa chọn các biến giải thích cho mô hình nghiên cứu định lượng ở chương sau.
Nghiên cứu của Manuk và cộng sự (2015) phân tích góc nhìn mới về các nhân tố
quyết định đến tăng trưởng của 25 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 1980-2012. Tăng trưởng của các nước được đo lường thông qua tốc độ tăng của GDP thực tế bình quân đầu người, với các biến giải thích được lựa chọn là độ trễ của tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người, mức GDP thực tế bình quân đầu người ở thời
kỳ đầu (phản ánh hội tụ tăng trưởng), tỷ lệ của đầu tư tư nhân và đầu tư công so với GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, tiêu dùng của chính phủ so với GDP, rủi ro về tài chính, độ mở của tài khoản vốn, và tỷ giá hối đoái thực tế hữu dụng. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy vai trò lớn của đầu tư tư nhân và đầu tư công so với GDP tới tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia này. Các yếu tố khác như mức độ rủi ro tài chính thấp hay FDI lớn có tác động thúc đẩy tăng trưởng. Đặc biệt, phát hiện mới của nghiên cứu là tăng trưởng của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sẽ có lợi khi những nước
này duy trì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Nghiên cứu của Markus (2016) bàn về các nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia ở khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 1996-2010 (trong đó có Việt Nam, Lào và Campuchia). Biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế
là thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người tính ngang giá sức mua. Các biến giải thích là tỷ lệ nhập học bậc học phổ thông đại diện cho yếu tố vốn nhân lực, tín dụng của khu vực tư nhân trong GDP đại diện cho độ mở tài chính, tiêu dùng của chính phủ trong
GDP, số thuê bao điện thoại bình quân đầu người, độ mở thương mại, và tỷ giá hối đoái thực tế. Nghiên cứu cho thấy đóng góp lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế trong khu vực này đến từ sự hội tụ trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế của một số quốc gia (transitional convergence). Trong khi đó, có tồn tại đóng góp của những thay đổi về cơ
cấu của nền kinh tế, trong đó có cơ sở hạ tầng nhưng tác động này là không đáng kể. Bên cạnh đó, không tìm thấy tác động rõ ràng của các chính sách ổn định nền kinh tế
35
như chính sách kiểm soát lạm phát hay chính sách ổn định tỷ giá hối đoái đến tăng
trưởng kinh tế của những quốc gia này.
Với các nghiên cứu phân tích tác động đến bất bình đẳng thu nhập, cũng vì số lượng các nghiên cứu quá rộng lớn, do đó, trong phần này, luận án chỉ tổng quan các nghiên cứu định lượng phân tích tác động của các nhân tố tới bất bình đẳng về thu nhập đã thực hiện trong phạm vi một nước, hoặc có thể rộng hơn là với phạm vi một số nước trong khu vực các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam (là các nền kinh tế đang phát triển, đã từng trải qua thời kỳ chuyển đổi, hay nằm trong khu vực châu Á giống
nước ta). Dưới đây là kết quả từ một số các nghiên cứu chính
Nghiên cứu của Velde và Morrissey (2004), sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng với 5 quốc gia trong khu vực Đông Á giai đoạn 1985-1998, tập trung giải thích tác
động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tới lương và bất bình đẳng về tiền lương. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy FDI có tác động ngược chiều tới bất bình đẳng về tiền lương. Hay nói cách khác FDI tăng làm giảm bất bình đẳng về tiền lương. Lý do mà nghiên cứu đưa ra là FDI tăng làm tăng cả tiền lương cho hầu hết lao động, không phân
biệt nhiều đến kỹ năng của họ. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn nhận định rằng để hấp thụ được hết tác động tích cực từ FDI thì đầu tư cho giáo dục là rất cần thiết. Nếu không, tăng trưởng trong tương lai của các quốc gia này sẽ có được nhưng với chi phí bất bình đẳng về thu nhập tăng lên.
Meschi và Vivarelli (2007) phân tích tác động của toàn cầu hóa tới bất bình đẳng về thu nhập của 70 các nền kinh tế đang phát triển thời kỳ 1980-1999 và cho thấy có tác động yếu của tự do hóa thương mại tới bất bình đẳng về thu nhập.
Li và Zou (2002) sử dụng dữ liệu bảng của 46 nước trong giai đoạn 1952-1992 để phân tích mối quan hệ của lạm phát, bất bình đẳng về thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Kết quả cho thấy lạm phát làm phân phối thu nhập thêm không công bằng vì lạm phát làm tăng thu nhập cho người giàu mà không tăng mức độ tương xứng cho người
nghèo. Biến phụ thuộc mà nghiên cứu lựa chọn là hệ số Gini về thu nhập, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người, và thu nhập của các nhóm phân vị khác nhau. Các biến giải thích là tốc độ tăng trưởng dân số, chỉ số phát triển tài chính (với biến đại
diện là cung tiền M2/GDP), giáo dục bậc tiểu học, chi tiêu của chính phủ/GDP, mức GDP bình quân đầu người ở thời kỳ đầu, tỷ lệ dân số thành thị, và độ mở thương mại. Kết quả cho thấy mức GDP bình quân đầu người ở thời kỳ đầu càng cao thì bất bình đẳng về thu nhập càng lớn. trong khi tăng trưởng dân số làm bất bình đẳng thu nhập tăng
lên. Các yếu tố khác như giáo dục, phát triển tài chính và chi tiêu chính phủ có tác động ngược chiều đến bất bình đẳng về thu nhập.
36
Nghiên cứu của Rehman và cộng sự (2008) với 51 quốc gia trong giai đoạn 1975-
2002. Biến phụ thuộc thể hiện bất bình đẳng thu nhập trong nghiên cứu là tỷ lệ thu nhập của các nhóm dân số và hệ số Gini. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố quyết định chính đến bất bình đẳng về thu nhập là tiêu dùng chính phủ, phát triển tài chính, GDP bình quân đầu người và tăng trưởng dân số.
Franco và Gerussi (2013) kiểm định tác động của FDI và độ mở thương mại tới bất bình đẳng thu nhập của 18 các nền kinh tế chuyển đổi trong thời gian 1990-2006. Trong khi độ mở thương mại có tác động thuận chiều tới bất bình đẳng thu nhập trong
ngắn hạn thì tác động này lại là ngược chiều trong dài hạn, và không có tác động của FDI tới bất bình đẳng về thu nhập. Hệ số Gini về thu nhập được lựa chọn là biến phụ thuộc thể hiện bất bình đẳng trong nghiên cứu.
2.1.2. Các nghiên cứu trong phạm vi một quốc gia
Nghiên cứu của Arabiyat và cộng sự (2019) phân tích tăng trưởng bao trùm cho các tỉnh của Jordan từ 1990 đến 2015. Tăng trưởng bao trùm được đo lường như trong nghiên cứu của Anand và cộng sự (2013) qua phương pháp hàm dịch chuyển xã hội.
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng GMM và hồi quy OLS gộp để phân tích tác động của một số yếu tố như GDP bình quân đầu người, độ mở thương mại, hệ số Gini, và tỷ lệ nghèo đói. Kết quả của nghiên cứu cho thấy thương mại có tác động tích cực và đáng kể đến tăng trưởng bao trùm của các tỉnh, trong khi tác động này
là yếu đối với nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập. Do đó, chính sách để cải thiện tăng trưởng có tính bền vững và bao trùm với Jordan là cải thiện tác động tích cực của thương mại. Đây được đánh giá là nghiên cứu đầu tiên về tăng trưởng bao trùm ở Jordan.
Cũng đo lường tăng trưởng bao trùm về thu nhập bằng phương pháp hàm dịch chuyển xã hội, nghiên cứu của Munir và Ullah (2018) đã phân tích trường hợp của Pakistan, trong thời gian 1987-2016. Các tác giả sử dụng cách tiếp cận ARDL (tạm gọi là tự hồi quy phân phối trễ) và cho thấy các nhân tố như lạm phát, tăng trưởng cung tiền,
tiền rộng, và tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân có tác động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập của Jordan. Cũng phân tích cho Pakistan, nhưng nghiên cứu của Khan và cộng sự (2016) thực hiện trong khoảng thời gian ngắn hơn, là từ năm 1990 đến năm
2012. Điểm khác biệt trong nghiên cứu này so với nghiên cứu của Munir và Ullah (2018) là tăng trưởng bao trùm không chỉ bao gồm cho chỉ tiêu thu nhập mà nó còn được tính bằng chỉ số bao trùm tổng hợp theo trọng số của các nhóm chỉ tiêu thành phần. Các nhóm chỉ tiêu thành phần bao gồm: tăng trưởng, bất bình đẳng, các cơ hội tiếp cận và
quản trị. Tăng trưởng bao trùm theo quan điểm của Khan và các tác giả nghiêng về việc tạo ra các cơ hội bình đẳng cho mọi người, mở rộng việc làm có năng suất trong một
37
nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Sử dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ và mô
hình hiệu chỉnh sai số (ECM), nghiên cứu đã chỉ ra tác động của ba biến độc lập là tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân, độ mở thương mại và lạm phát tới sự thay đổi của tăng trưởng bao trùm. Một lý do mà số lượng biến độc lập của nghiên cứu này ít hơn các nghiên cứu khác là vì biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm đã được đo lường bởi chỉ số tổng hợp của nhiều khía cạnh trong khung phân tích tăng trưởng bao trùm. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy trong khi lạm phát có tác động tiêu cực thì tín dụng cho khu vực tư và độ mở thương mại có tác động tích cực tới tăng trưởng bao trùm.
Nghiên cứu của Pukuh và Widyasthika (2017) với mục tiêu chính là đo lường và phân tích thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Indonesia thông qua đường cong tỷ lệ tăng trưởng và cách tiếp cận tăng trưởng vì người nghèo bằng việc sử dụng tỷ lệ tăng trưởng
nghèo tương đương (Poverty Equivalent Growth Rate). Nghiên cứu đã chia Indonesia thành ba vùng với hai giai đoạn để thấy được sự thay đổi về mức độ bao trùm qua thời gian. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy giai đoạn 2012-2014, tăng trưởng kinh tế ở Indonesia là bao trùm trong khi giai đoạn 2014-2016 thì không.
Nghiên cứu của Oluseye và Gabriel (2017) phân tích tác động ngắn hạn và dài hạn của các nhân tố tới tăng trưởng bao trùm của Nigeria trong giai đoạn 1981-2014 với hai phương pháp là tự hồi quy phân phối trễ và mô hình hiệu chỉnh sai số. Nghiên cứu đã lựa chọn biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm được đo lường bởi giá trị GDP bình quân một
lao động (là nhân tố thể hiện việc làm có năng suất, một khía cạnh của tăng trưởng bao trùm). Các biến độc lập mà nghiên cứu đưa ra là: mức thu nhập đầu thời kỳ, độ mở thương mại, FDI, chi tiêu công cho giáo dục, đầu tư, tăng trưởng dân số, chi tiêu cho tiêu dùng của chính
phủ, và lạm phát. Nghiên cứu cho thấy ngoại trừ mức chi tiêu công cho giáo dục và chi tiêu cho tiêu dùng của chính phủ, thì với các biến còn lại, tác động của nó tới mức độ bao trùm trong ngắn hạn và dài hạn là khác nhau. Trong ngắn hạn, FDI và đầu tư có tác động làm giảm tăng trưởng bao trùm nhưng đến dài hạn tác động này lại là thúc đẩy. Kết quả này ngược với
hai biến là lạm phát và tăng trưởng dân số. Nghiên cứu không cho thấy có tác động của độ mở thương mại tới mức độ thay đổi của tăng trưởng bao trùm.
Các nghiên cứu trong phạm vi một nước với biến phụ thuộc phản ánh bất bình
đẳng thu nhập, có một số các nghiên cứu chính sau:
Nhìn chung, các nghiên cứu về các nhân tố quyết định tới bất bình đẳng thu nhập thường chia các nhóm yếu tố này thành 5 nhóm. Nhóm 1 được gọi là nhóm của các nhân tố phát triển kinh tế. Nhóm này được đặc trưng bởi một số chỉ tiêu như GDP bình quân
đầu người, sự phát triển của tiến bộ công nghệ, sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, từ đó dẫn tới sự dịch chuyển lao động trong các khu vực này. Các nghiên cứu giải thích cho
38
GDP bình quân đầu người thực chất là các nghiên cứu thực nghiệm kiểm định giả thuyết
của Kuznets (1955). Các nghiên cứu quan tâm đến tiến bộ công nghệ có các nghiên cứu điển hình như của Cornia và Kiishi (2001), Bresnahan (1997). Lý giải đơn giản trong các nghiên cứu này là khi có tiến bộ công nghệ, tiền lương của lao động có kỹ năng tăng trong khi tiền lương của nhóm lao động ít kỹ năng không đổi, điều này làm giãn khoảng cách thu nhập giữa hai nhóm. Các nghiên cứu về tác động của thay đổi cơ cấu kinh tế và chuyển dịch lao động có nghiên cứu nổi bật của Nielson và Alderson (1995, 1997); Gustafsson và Johanson (1997) và Abdel- Ghany (1996). Nhóm thứ hai là nhóm các
nhân tố về nhân khẩu học. Trong nhóm này có một số chỉ tiêu quan trọng như: đô thị hóa, cấu trúc tuổi trong dân số, các chỉ tiêu liên quan đến giáo dục và chi tiêu cho giáo dục. Các nghiên cứu trong nhóm này có Crenshaw (1993) và Litwin (1998) nói về tác
động của mật độ dân số, nghiên cứu của Chiswick (1971), Partridge và Rickman (1998), Cornia và Kiiski (2001) phân tích về tác động của giáo dục, nghiên cứu của Nielsen và Alderson (1997) bàn về tác động của cơ cấu dân số và giáo dục. Tất cả các nghiên cứu đều thống nhất rằng tác động của bất bình đẳng trong giáo dục tới bất bình đẳng thu
nhập là thuận chiều. Hay nói cách khác, bất bình đẳng trong giáo dục càng lớn thì bất bình đẳng trong thu nhập sẽ càng cao. Biến đại diện được dùng để đo lường cho yếu tố giáo dục có thể là số năm đi học hay tỷ lệ nhập học. Ngoài ra, chi tiêu của chính phủ cho giáo dục cũng được một số nghiên cứu lựa chọn để giải thích cho bất bình đẳng trong
thu nhập. Nhóm thứ ba là các yếu tố về chính trị, trong đó có các chỉ tiêu như quy mô của chi tiêu công (chính phủ) trong nền kinh tế, mức độ dân chủ và tự do hóa. Các nghiên cứu về quy mô của chi tiêu công có nghiên cứu của Durham (1999); Clark, Xu và Zou
(2003), Ferreira (1999). Trong khi đó, các nghiên cứu của Li, Squire và Zou (1998), Lundberg và Squire (2003), Stewart và Berry (2000) lại tập trung nhiều hơn về các yếu tố của dân chủ và tự do hóa chính trị. Nhóm thứ tư là các nhân tố về văn hóa và môi trường, gồm có các chỉ tiêu quan trọng như: sự tập trung về đất đai, sự khác biệt trong
văn hóa, nền kinh tế ngầm, tham nhũng, và tài nguyên thiên nhiên. Ngoại trừ một số tác giả như đã nói ở trên cũng đề cập đến vai trò của các nhân tố về văn hóa và môi trường tới bất bình đẳng thu nhập, trong nhóm này có thể kể thêm một số các tên tuổi khác như
nghiên cứu của Gupta, Davoodi và Alonso-Terme (2002) phân tích tác động của việc tập trung đất đai; nghiên cứu của Gradstein, Milanovic và Ying (2001); của Rosser và Rosser (2001) bàn về ảnh hưởng của truyền thống văn hóa tới phân phối thu nhập. Nói chung, các nhân tố về văn hóa thường ít được quan tâm hơn so với các nhân tố khác
trong nhóm này. Nhóm cuối cùng là các nhân tố vĩ mô với một số chỉ tiêu đại diện như lạm phát, thất nghiệp, phát triển tài chính, xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài,...Tác động của lạm phát và thất nghiệp là không rõ ràng, trong khi các nghiên cứu đều cho
39
thấy phát triển tài chính (dù được đo lường bằng thước đo nào) cũng tạo điều kiện cho
nhóm dân số nghèo tiếp cận với nguồn vốn vay nhanh hơn, từ đó giúp họ tăng cơ hội đầu tư vào giáo dục và kết quả là tăng thu nhập, giảm khoảng cách về thu nhập với nhóm dân số giàu. Các nghiên cứu về tác động của thương mại và đầu tư nước ngoài chiếm số lượng ít hơn trong nhóm này.
Trên đây là tổng quan ngắn gọn về các nhân tố quyết định bất bình đẳng thu nhập dựa trên bằng chứng trong các nghiên cứu tiền nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này là rất lớn, do đó, phần dưới đây chỉ trình bày
một số nghiên cứu chính, với phạm vi là một quốc gia trong khu vực châu Á hay các nước đang phát triển, để làm cơ sở lựa chọn biến trong phần sau của luận án.
Nghiên cứu của Yue (2011) phân tích với Hàn Quốc những năm 1980-2002. Mô
hình hiệu chỉnh sai số được sử dụng để tìm hiểu tác động trong dài hạn của yếu tố lạm phát và kết quả là không có tác động của lạm phát tới bất bình đẳng thu nhập trong dài hạn. Cũng nghiên cứu với bối cảnh ở Hàn Quốc, nhưng nghiên cứu của Lee, Kim và Cin (2013) đã thực hiện với thời gian dài hơn là từ năm 1980 đến năm 2012. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy bằng chứng về mối quan hệ U ngược của Kuznets không đúng ở Hàn Quốc và yếu tố quan trọng tác động đến bất bình đẳng về thu nhập ở nước này là cơ cấu dân số và tỷ lệ của đầu tư trên GDP. Trong đó biến tỷ lệ của đầu tư trên GDP có tác động ngược chiều hay tăng tỷ lệ này sẽ làm giảm bất bình đẳng trong thu nhập.
Nghiên cứu của Kashif (2017) tập trung phân tích tác động của các nhân tố vĩ mô tới bất bình đẳng về thu nhập tại Ấn Độ và Pakistan trong khoảng thời gian từ năm 1973 đến năm 2015. Biến phụ thuộc đo lường bất bình đẳng thu nhập là hệ số Gini về thu
nhập. Các biến giải thích gồm có: GDP bình quân đầu người, chi tiêu cho tiêu dùng của chính phủ, tỷ lệ sinh, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, dân số ở khu vực thành thị, lạm phát, FDI, đầu tư (biến đại diện là tổng đầu tư xã hội), vốn nhân lực (biến đại diện là tỷ lệ nhập học bậc trung học). Sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng với mô hình tác động
ngẫu nhiên, nghiên cứu cho thấy tác động dương của GDP bình quân đầu người, tỷ lệ sinh, và của dân số khu vực thành thị đến bất bình đẳng về thu nhập. Một số các yếu tố khác như tiêu dùng chính phủ, giá trị sản xuất của khu vực nông nghiệp, tỷ lệ nhập học trung học có
tác động ngược chiều tới bất bình đẳng về thu nhập. Tác động của lạm phát là không rõ ràng trong nghiên cứu này.
2.1.3. Các nghiên cứu khác về tăng trưởng bao trùm
Số lượng các nghiên cứu, cả lý thuyết và thực nghiệm, nhằm xác định tác động
của các nhân tố tới bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng bao trùm khá khiêm tốn (Sajid
40
và cộng sự, 2018). Phần này với mục đích là bổ sung thêm một số nghiên cứu có phân
tích đến tăng trưởng bao trùm mà không nhất thiết có mô hình định lượng. Nội dung phân tích của những nghiên cứu này khá đa dạng. Một số phân tích về quan niệm, các nội dung, thực trạng trong tăng trưởng bao trùm, trong khi một số khác còn đề cập đến các nhóm chính sách để cải thiện tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế. Phạm vi nghiên cứu có thể là một hay một nhóm các quốc gia trong cùng khu vực địa lý hay cùng chung một đặc điểm nào đó trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển kinh tế của họ.
Afzal và Xianbin (2004) nhấn mạnh đến vai trò của cơ sở hạ tầng đến tăng trưởng
bao trùm ở khu vực các nước châu Á. Ba yếu tố mà các tác giả cho rằng có tác động đến sự đầu tư cơ sở hạ tầng bền vững ở khu vực này là: (i) hiện đại hóa nông nghiệp và nâng cao sự phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn, (ii) mở rộng thị trường và nâng cao tính
hiệu quả của thị trường, (iii) nắm bắt lấy những cơ hội đến từ toàn cầu hóa. Ali và Yao (2004) đề cập đến chất lượng của cơ sở hạ tầng như là một yếu tố thúc đẩy bao trùm và giảm nghèo bền vững. Lý do mà nhóm tác giả đưa ra là cơ sở hạ tầng thích hợp sẽ làm giảm chi phí kinh doanh, mở rộng đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài, từ đó các
doanh nghiệp sẽ thích ứng được tốt hơn công nghệ mới và tăng năng suất. Và điều này lại đặc biệt quan trọng trong điều kiện các nền kinh tế đang phát triển với ngành nông nghiệp còn nhiều lạc hậu. Cũng đồng ý với vai trò của cơ sở hạ tầng, nhưng Ganesh và cộng sự (2010) lại nhấn mạnh cụ thể đến vai trò của chính phủ trong việc cải thiện cơ
sở hạ tầng nông thôn. Cơ sở hạ tầng mà nhóm tác giả nói đến không chỉ bao gồm đường xá mà còn có hệ thống điện, nước, các kết nối điện thoại và thị trường nhà ở. Nhóm tác giả cho rằng sự khác nhau của những nhân tố này là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự
khác nhau về mức sống và thu nhập giữa các vùng địa lý sinh sống. Sự khác nhau hay bất bình đẳng dạng không gian như vậy rất phổ biến với các nền kinh tế đang phát triển.
Với quan điểm cho rằng tăng trưởng bao trùm nhấn mạnh đến việc sáng tạo các cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, một nghiên cứu khác của Afzal và Jazhong (2007)
cho rằng bất bình đẳng gia tăng ở khu vực châu Á đang làm ngăn cản mục tiêu tăng trưởng bao trùm ở những quốc gia này. Và Afzal (2007) cũng đã cho thấy tầm quan trọng của các chương trình giảm nghèo hướng tới tăng trưởng bao trùm là một trong các
chương trình phát triển được ưu tiên nhất trong số các chính sách tăng trưởng của các nước đang phát triển. Norman và cộng sự (2007) đã phân tích mối quan hệ giữa mức độ biến động của kinh tế vĩ mô tới phúc lợi của các nền kinh tế kém phát triển và cho thấy sự bất ổn vĩ mô này có chi phí trực tiếp tới phúc lợi và tăng trưởng trong các quốc gia
này. Các tác giả Ganesh và Ravi (2009) đã phân tích và cho thấy nội dung chính trong các nghiên cứu của ADB về tăng trưởng bao trùm là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
41
ngoài tăng trưởng kinh tế, các nhân tố khác như hệ thống chính trị ổn định và các hình
thức bảo trợ xã hội cũng rất cần thiết cho tăng trưởng bao trùm.
Tập trung vào tăng trưởng bao trùm của các nền kinh tế đang phát triển, Bolt (2004) nhấn mạnh khía cạnh của thị trường lao động với nông nghiệp làm chủ đạo. Từ thực tế là một phần ba dân số của những quốc gia này sống dựa vào nông nghiệp, do đó, sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn được coi là yếu tố then chốt trong chiến lược tăng trưởng bao trùm của họ. Trong các yếu tố thúc đẩy nông nghiệp, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của công nghệ, quyền sử dụng đất, khả năng tiếp cận nguồn tài
chính và môi trường chính sách. Vai trò của nông nghiệp và nông thôn tiếp tục được nhắc đến trong nghiên cứu của Fernando (2008). Nghiên cứu phân tích tác động của việc phát triển nông nghiệp đến phúc lợi của người dân nông thôn thông qua giáo dục,
y tế và các cơ hội kinh tế khác. Nhìn chung, khi nói tới tính bao trùm về mặt kinh tế, hầu hết các nghiên cứu của ADB đều nhấn mạnh đến vai trò của nông nghiệp, của thị trường lao động, và của cơ sở hạ tầng đến tăng trưởng bao trùm. Những khía cạnh này được coi là những vấn đề quan trọng mà nhiều nước đang phát triển đang phải đối mặt
để trước mắt thực hiện giảm nghèo bền vững, rồi sau đó là mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế trong dài hạn.
Nói tới thực trạng tăng trưởng bao trùm, có một số nghiên cứu như nghiên cứu của S.R.Osmani (2008) bàn tới thành quả tăng trưởng, thực trạng bất bình đẳng ở một
số quốc gia Nam Á như Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka trong thời gian 1983- 2005. Từ thực tế tăng trưởng và bình đẳng của các quốc gia trong thời gian này, tác giả đã nhận định tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này đã thể hiện tính chất bao trùm hay
chưa. Nghiên cứu đã phân định rõ hai loại bất bình đẳng là bất bình đằng trong nội bộ nhóm (within groups inequality) và bất bình đẳng giữa các nhóm (between groups inequality). Các nhóm được phân tích dựa theo tiêu chí thành thị/nông thôn, tôn giáo, các vùng địa lý và đặc điểm nghề nghiệp. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy quá trình tăng
trưởng ở Ấn Độ và Pakistan đã đủ bao trùm để phần lớn mọi người có được lợi ích từ tăng trưởng, nhưng trong nội bộ nhóm vẫn tồn tại tình trạng một số người nắm lấy được những cơ hội này, còn số khác thì không. Trong khi đó, bất bình đẳng lại đang gia tăng
ở Bangladesh và Sri Lanka, khi chỉ có một phần trong số những người nghèo có cơ hội tiếp cận với các công việc được trả lương, với giáo dục hay cơ sở hạ tầng có chất lượng. Một đặc điểm chung là với tất cả các nước trong mẫu nghiên cứu, bất bình đằng giữa các nhóm không đáng lo ngại nhưng bất bình đẳng trong nội bộ nhóm vẫn còn tồn tại
và có chiều hướng gia tăng, tác động tiêu cực đến chất lượng bao trùm trong tăng trưởng chung của các nước.
42
Nghiên cứu của Cielito F. Habito (2009) tập trung nhận ra những nhân tố chính
giải thích cho sự khác nhau về mức độ bao trùm của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á, chủ yếu là tác động khác nhau đến việc giảm đói nghèo của các nền kinh tế này. Nghiên cứu đã chỉ ra chất lượng của quản lý công, mức độ chi tiêu vào các dịch vụ công cho giáo dục và y tế hay đóng góp của tăng trưởng nông nghiệp vẫn có tác động nhiều nhất đến giảm nghèo đói. Trong đó, nhân tố năng lực quản trị và điều hành có tác động mạnh nhất đến giảm nghèo đói của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á. Từ những kết quả này, nghiên cứu đã đưa ra được những giải pháp để cải thiện những nhân tố theo
chiều hướng đóng góp hơn nữa vào tăng trưởng bao trùm. Nghiên cứu cũng quan tâm đến khía cạnh nghèo đa chiều, khi nói đến nghèo nhưng ở những khía cạnh phi thu nhập khác. Nghiên cứu đã chỉ ra hai thời kỳ, trong đó khoảng thời gian 1990-1996, châu Á
chứng kiến một số quốc gia như Bangladesh, Indonexia và Hàn Quốc có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, độ co giãn của nghèo đói theo tăng trưởng lớn hơn 1 hay nói cách khác tính bình quân nếu tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1% thì đói nghèo giảm nhiều hơn 1%. Các quốc gia như Nepal, Philippin hay Malaysia có thành tựu giảm nghèo vừa phải
trong khi các nước như Ấn Độ, Pakistan hay Thái Lan giảm nghèo chậm chạp. Khoảng thời gian sau đó 2000-2008, nghiên cứu đã đánh giá 15 nước trong khu vực châu Á về tốc độ giảm nghèo đói và các nước có thành tựu tốt là Thái Lan, Indonexia, Malaysia và Việt Nam trong khi Ấn Độ, Campuchia và Philipin chưa có được thành tựu trong giảm nghèo,
đặc biệt Philippin lại ghi nhận nghèo đói tăng thêm khi tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Gunther Schmid (2014) phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế của 17 quốc gia trong khu vực Eurozone, 27 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu EU và 2 quốc
gia độc lập là Đức và Hy Lạp, sử dụng số liệu từ hộ gia đình. Kế thừa nghiên cứu của Tony Atkinson (2013), nghiên cứu này đã dùng chỉ tiêu thu nhập khả dụng của hộ gia đình thay cho GDP bình quân đầu người làm thước đo phản ánh bao trùm trong thu nhập khi chỉ tiêu này có tính đến vấn đề phân phối trong thu nhập. Một số các chỉ tiêu khác được phân
tích như tỷ lệ dân số có và không có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ, rủi ro nghèo đói (phần trăm của dân số có thu nhập nhỏ hơn 60% thu nhập trung vị), tỷ lệ dân số không tiếp cận được những cơ hội cơ bản và quan trọng, bất bình đẳng thu nhập (thu nhập của các ngũ
phân vị), khoảng cách lương (sự khác biệt về tiền lương của nữ giới so với nam giới trong cùng một công việc làm toàn thời gian).
Nghiên cứu của Yuwa (2014) đã phân tích và đưa ra chỉ số tăng trưởng bao trùm với một số các nền kinh tế mới nổi, bao gồm 14 quốc gia ở châu Á, 5 ở châu Âu, 12
quốc gia ở Mỹ Latinh và Caribe, 7 nước ở Trung Đông và Nam Phi, 22 nước ở châu Phi hạ Sahara. Điểm khác của nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đây là coi chỉ số
43
tăng trưởng bao trùm có hai đặc điểm mới có tính sáng kiến. Thứ nhất, được xây dựng
dựa trên “điều kiện hiện tại” và “điều kiện tương lai”. Theo đó, điều kiện hiện tại phản ánh tình trạng hiện tại của tăng trưởng bao trùm đối với một thị trường nhất định, còn điều kiện tương lai phản ánh đà thay đổi của những gì đang xảy ra, diễn biến trong tương lai. Thứ hai, chỉ số tăng trưởng bao trùm được so sánh với một chỉ số tiêu chuẩn (được lấy trung bình từ chỉ số của 10 nền kinh tế phát triển). Các chỉ số có giá trị từ 0 đến 100 và chỉ số càng thấp thể hiện tính bao trùm càng thấp. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, trong năm 2013, với chỉ số chuẩn là 76, Thổ Nhĩ Kỳ đứng đầu danh sách với chỉ số là
60,6. Khu vực châu Á chỉ có hai đại diện là Malaysia và Thái Lan, lần lượt đứng ở vị trí thứ hai và thứ chín trong nhóm 10 quốc gia đứng đầu. Nếu chỉ xếp hạng riêng 14 các quốc gia ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng thứ 7 với chỉ số là 30,5.
Trên cơ sở nhìn nhận tăng trưởng bao trùm là một khái niệm rộng phân tích nhiều chiều trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, phạm vi của luận án chỉ giới hạn tập trung làm rõ hơn khía cạnh tăng trưởng bao trùm về thu nhập và giảm nghèo, theo hướng luận án sẽ phân tích đánh giá một số chiều ngoài chiều thu nhập và giảm nghèo trong
bối cảnh ở Việt Nam, nhưng về phần phân tích định lượng, luận án chỉ dừng lại ở việc đánh giá tác động của một số nhân tố đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Trong phạm vi các nghiên cứu trong nước, trước khi có những khái niệm của
tăng trưởng bao trùm, và thậm chí khi khái niệm này bắt đầu trở thành xu hướng phát triển, ở nước ta, hầu hết các nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại ở việc phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng, giảm nghèo đói, tăng trưởng và tính bền vững
của nó. Tuy nhiên, thời gian gần đây, đã xuất hiện một số nghiên cứu về tăng trưởng bao trùm, mỗi nghiên cứu phân tích một số khía cạnh khác nhau về mức độ bao trùm của nền kinh tế, mà đối tượng phân tích chủ yếu ở cấp tổng thể nền kinh tế hay cấp hộ gia đình với các khía cạnh khác nhau. Do số lượng các nghiên cứu trong nước còn hạn
chế, luận án không đi sâu phân chia tổng quan thành các nội dung khác nhau, mà sẽ xem xét gộp chung lại để thấy rõ hơn khoảng trống nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam.
Phạm Xuân Hoan (2008) đã trình bày những vấn đề rất khái quát như lý giải
nguyên nhân xây dựng mô hình tăng trưởng bao trùm từ số liệu về thực trạng tăng trưởng, giảm nghèo và bất bình đẳng trong phạm vi một số nước châu Á, từ đó đưa ra một số chính sách cho vấn đề này ở Việt Nam. Thuật ngữ “inclusive growth” được tác giả phân tích dưới cái tên “tăng trưởng công bằng” và các vấn đề như bình đẳng trong
cơ hội, trong kết quả, bất bình đẳng do hoàn cảnh khách quan và chủ quan cũng được đưa ra. Nghiên cứu này là một trong số ít các nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam bắt đầu
44
quan tâm đến mối quan hệ giữa tăng trưởng, giảm nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam
và nhận thức rõ tầm quan trọng của việc mở rộng tính bao trùm và cải thiện tính công bằng trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Lê Kim Sa (2014) trên cơ sở sử dụng bộ số liệu Điều tra Lực lượng Lao động giai đoạn 2007-2013, đã tiếp cận khá đầy đủ các khía cạnh của khung phân tích tăng trưởng bao trùm trong nghiên cứu của ADB (2011). Nghiên cứu đã chỉ ra điểm mạnh trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ này là đã giảm bất bình đẳng khi thành quả của tăng trưởng được phân bổ cho người nghèo, hộ nghèo đã giảm, lao động đã có xu hướng chuyển dịch lên các
khu vực có năng suất cao hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng đề cập đến một số điểm bất cập khi thực hiện những chính sách giảm nghèo ở Việt Nam. Đó là gây áp lực cho ngân sách, làm giảm động lực cống hiến ở một số bộ phận lao động trong xã hội, thậm chí còn gây ra
bất ổn. Những điểm bất cập này thể hiện ở việc một số chính sách có tác động hiệu quả trong việc giảm nghèo nhưng lại làm tổn thương cho bộ phận dân số thuộc tầng lớp trung lưu, và do đó, cần có những chính sách để đảm bảo cho tầng lớp trung lưu tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Cũng bàn tới vấn đề tăng trưởng bao trùm, nhưng Phạm Minh Thái và Vũ Thị Minh Ngọc (2014), chỉ tập trung vào vấn đề di cư của lao động trong hai ngành chế biến chế tạo phổ biến là điện tử và dệt may. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy nước ta đã đáp ứng được các điều kiện cần thiết cho tăng trưởng bao trùm, đó là các nhà máy dệt may đã
trải rộng ra khắp phạm vi cả nước. Tuy nhiên, một số rào cản cho tính bao trùm của tăng trưởng vẫn còn tồn tại như sự khác biệt lớn trong tiền lương/tiền công cũng như cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế và giáo dục của nhóm lao động di cư so với nhóm
lao động bản địa. Dựa vào khung phân tích tăng trưởng bao trùm của WB cũng như thực trạng về tình hình di cư của lao động trong hai ngành, nghiên cứu đã phân tích tác động của những xu hướng di cư này tới tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam. So với nghiên cứu của Lê Kim Sa (2014), nghiên cứu này hẹp hơn khi chỉ phân tích trên thị trường lao động
với chỉ duy nhất khía cạnh di cư đến mức độ bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tác giả cũng đã đưa ra một số đặc điểm thể hiện tính bao trùm trong thị trường lao động của Việt Nam giai đoạn 2007-2013, đó là: tỷ lệ thất nghiệp thấp, số lượng lao động
cân bằng giữa nam và nữ và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề là trở ngại cho tính bao trùm như: tỷ lệ lao động chịu tổn thương cao, thời gian lao động nhiều, thu nhập thực tế tăng chậm, và năng suất lao động không có dấu hiệu được cải thiện (Phạm Minh Thái, 2014)
Ngoài ra, Nguyễn Đức Thành và Phạm Văn Đại (2014) đã vận dụng mô hình chẩn đoán tăng trưởng của Hausman và cộng sự (2005) để phân tích những nội dung
45
căn bản của tăng trưởng bao trùm trong khuôn khổ kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu đã
nhấn mạnh đến mối quan hệ hai chiều giữa thị trường lao động và mức độ bao trùm của nền kinh tế. Trong đó thị trường lao động có năng suất chất lượng cao giúp tăng trưởng cao, mở rộng tính bao trùm của tăng trưởng theo kênh phân phối cơ hội và thu nhập, trong khi tăng trưởng cao cũng sẽ giúp duy trì và phát triển một thị trường lao động lành mạnh.
Một nghiên cứu phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam tiếp cận từ góc độ hộ gia đình là nghiên cứu của Đỗ Sơn Tùng và Ma Ngọc Ngà (2014). Đây
là một trong số khá ít các nghiên cứu phân tích một cách tổng quát nhiều khía cạnh về tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam. Nghiên cứu đã cho thấy mặc dù Việt Nam đã thực hiện tốt việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và cải thiện mức sống của người dân trong
giai đoạn 1993-2010, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt lớn trong tốc độ giảm nghèo nếu phân theo các tiêu chí như khu vực và vùng miền; vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng trong các cơ hội tiếp cận giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội.
Bên cạnh số lượng khá khiêm tốn các nghiên cứu có liên quan đến tăng trưởng
bao trùm như được phân tích ở trên, tại Việt Nam cũng có một số các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến tăng trưởng hay phân phối thu nhập - một trong các nội dung phân tích của tăng trưởng bao trùm. Dưới đây, xin được tổng quan một số các nghiên cứu như vậy để làm rõ hơn cơ sở lựa chọn biến độc lập cho tăng trưởng
bao trùm về thu nhập với trường hợp của Việt Nam.
Phân tích sự thay đổi về bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam trong giai đoạn Đổi mới từ năm 1993-2006, sử dụng bộ dữ liệu VHLSS, Brian và cộng sự (2006) đã cho
thấy bất bình đẳng thu nhập tính theo thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam (tính theo hệ số Gini) đã giảm, với mức giảm nhiều nhất là trong giai đoạn 1993-2002. Các tỉnh thành ở miền Nam ban đầu có mức bất bình đẳng cao hơn các tỉnh miền Bắc, nhưng sau đó khoảng cách bất bình đẳng giữa hai khu vực dần được thu hẹp lại. Nghiên
cứu không đi sâu giải thích cho sự thay đổi trong bất bình đẳng, nhưng có chỉ ra những nhân tố quan trọng nhất đóng góp cho sự thay đổi đó. Các nhân tố đó là: Thứ nhất, sự khác nhau về trình độ giáo dục giữa các nhóm lực lượng lao động. Thứ hai, nghiên
cứu thực hiện việc phân rã Shorrocks để thấy được đóng góp khác nhau của các nguồn thu nhập vào thay đổi bất bình đẳng tính theo thu nhập bình quân của hộ gia đình. Kết quả cho thấy thu nhập từ tiền lương đóng góp ít nhất vào bất bình đẳng, điều này cũng giải thích cho lý do vì sao tăng trưởng rất nhanh của tiền lương làm bất bình đẳng giảm
trong giai đoạn này. Phát triển từ nghiên cứu này, năm 2016, cũng phân tích về tăng trưởng và bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam trong giai đoạn dài hơn từ năm 2002
46
đến năm 2014, nhóm tác giả đã làm rõ hai câu hỏi chính: (i) Lợi ích của tăng trưởng
đã được phân phối như thế nào với dân số của Việt Nam, và (ii) Những thay đổi lớn về cơ cấu của nền kinh tế có đóng góp ra sao đến bất bình đẳng về thu nhập của Việt Nam. Kết quả cho thấy có sự giảm nhẹ trong bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu, tăng trưởng kinh tế đã đạt được đồng thời với việc giảm bất bình đẳng và thành tựu này còn vượt lên cả các kết quả về giảm nghèo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy có sự tăng nhẹ trong bất bình đẳng thu nhập ở nông thôn, giảm bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn và giảm bất bình đẳng trong nội bộ khu
vực thành thị. Sự tăng nhẹ trong bất bình đẳng ở khu vực nông thôn được giải thích chủ yếu bởi sự tăng chậm trong thu nhập giữa các nhóm dân tộc thiểu số, bộ phận dân số có mức tăng nhanh hơn trong tổng dân số. Mặc dù thu nhập của bộ phận dân số
thuộc dân tộc thiểu số tăng trong suốt giai đoạn, nhưng nó vẫn thấp xa so với nhóm dân tộc Kinh. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra hai kết quả chính có được từ việc phân rã thu nhập theo nguồn và theo khu vực. Thứ nhất, thu nhập từ nông nghiệp vẫn luôn giữ vai trò quan trọng và là nguồn đóng góp chính vào bình đẳng thu nhập với các hộ gia đình
nông thôn. Thứ hai, một bộ phận lớn dân số ở cả khu vực thành thị và nông thôn có thể tận dụng được các cơ hội việc làm trả lương mới. Ngoài ra, sự tăng trưởng về tiền lương được giải thích chủ yếu là do sự tăng lên trong thu nhập hơn là sự tăng lên trong số lao động được trả lương. Tác động này tới thị trường lao động cũng như mối liên
kết của nó với vốn nhân lực và đào tạo, là chủ đề nghiên cứu quan trọng cho những nghiên cứu tiếp theo để trả lời cho câu hỏi làm thế nào để nước ta có thể đạt được tăng trưởng đi đôi với bình đẳng.
Cũng phân tích về bất bình đẳng thu nhập, bằng kỹ thuật phân rã bình đẳng theo nhóm dân số và theo nguồn thu nhập, Thi Cam Van Cao và Takahiro (2008) đã tập trung làm rõ khía cạnh này với khu vực thành thị và nông thôn, sử dụng bộ dữ liệu điều tra hộ gia đình quốc gia năm 2002 và năm 2004. Nghiên cứu cho thấy trong nội
bộ khu vực, thì phân phối thu nhập là tốt hơn so với phân phối chi tiêu, lý do là chi tiêu của hộ gia đình phụ thuộc nhiều vào nơi sống của họ, trong khi thu nhập chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như giáo dục và nghề nghiệp của các thành viên trong
gia đình. Bất bình đẳng thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn, được giải thích là do thu nhập ở khu vực thành thị chủ yếu đến từ thu nhập được trả lương và thu nhập từ việc tự lao động từ các công việc phi nông nghiệp - các khoản thu nhập từ các nguồn này được cho là bất bình đẳng hơn so với thu nhập từ nông
nghiệp - nguồn thu nhập chính ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, một kết quả thú vị mà nghiên cứu chỉ ra là nếu xét riêng các nguồn thu nhập thì thu nhập từ các công việc
47
được trả lương là nguồn thu nhập có phân phối bình đẳng nhất ở cả hai khu vực, trong
khi nguồn thu từ nông nghiệp là bất bình đẳng nhất. Hàm ý chính sách của nghiên cứu là đa dạng hóa các nguồn thu nhập, phát triển kinh tế trong khu vực tư nhân, khuyến khích di cư lao động giữa thành thị và nông thôn và mở rộng thương mại sẽ làm tăng mức thu nhập của dân số trong khi ngăn cản được sự gia tăng trong bất bình đẳng về thu nhập.
Ngoài ra, bằng nhiều phương pháp khác nhau, một số nghiên cứu khác cũng cho thấy các kết quả về thực trạng bất bình đẳng trong nội bộ nhóm và giữa các nhóm
dân số ở Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu này được thực hiện ngay sau Đổi mới trong giai đoạn 1992-1998 với việc sử dụng dữ liệu từ Cuộc điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) qua các năm. Kết quả từ hầu hết các nghiên cứu trong giai đoạn này
đều đồng tình với quan điểm cho rằng biến động trong bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam được giải thích chủ yếu là do gia tăng khoảng cách thu nhập giữa các nhóm. Gelwwe và cộng sự (2000) và Fritzen và cộng sự (2005) đều thống nhất rằng đóng góp lớn nhất vào bất bình đẳng thu nhập của cả nước là bất bình đẳng giữa hai khu vực
thành thị và nông thôn, bất bình đẳng này gia tăng trong giai đoạn 1992-1998. Đóng góp của bất bình đẳng giữa hai khu vực chiếm lần lượt 21%, 32% và 35% trong tổng bất bình đẳng nói chung vào các năm 1993, 1998 và 2002. Helbergs (2003) bằng việc sử dụng dữ liệu VHLSS năm 1992-93 và 1997-98 đã nhận định rằng bất bình đẳng nói
chung của Việt Nam tăng trong giai đoạn Đổi mới. Điều này là kết quả của việc tăng các bất bình đẳng về không gian cũng như tăng khả năng sinh lời từ giáo dục bậc cao của các hộ gia đình có điều kiện đầu tư hơn vào vốn nhân lực. Và đây là hai nhân tố
duy nhất có đóng góp vào bất bình đẳng ở Việt Nam thời kỳ này. Nguyen và cộng sự (2006) đã lý giải nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong thu nhập giữa hai nhóm trên cùng và dưới cùng trong phân phối là do sự khác nhau trong giáo dục tiểu học và tỷ lệ sinh lời của nó. Cụ thể, các hộ gia đình nghèo nhưng ở thành thị vẫn tốt hơn so
với các hộ gia đình nghèo nhưng sống ở nông thôn bởi vì họ “sở hữu” những nền tảng giáo dục tiểu học tốt hơn. Trong một nghiên cứu khác, Nguyen và Tran (2006) tập trung làm rõ sự khác nhau trong bất bình đẳng về thu nhập giữa nông thôn và thành thị
nhưng theo từng nhóm phân phối, và giải thích tác động của tự do hóa thương mại đến sự khác nhau này. Nghiên cứu nhấn mạnh đến lợi ích của thương mại với nền kinh tế nói chung, nhưng đồng thời cũng nhắc tới những lợi ích này không được phân phối một cách công bằng giữa dân số ở các khu vực khác nhau. Cũng sử dụng dữ liệu từ
VHLSS, nghiên cứu của Gallup (2002) đánh giá đóng góp của một số nhân tố tới tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam, nhấn mạnh đến thị trường lao động và
48
việc làm, trong đó có các yếu tố như tăng trưởng về lương, sự tham gia của lực lượng
lao động và thất nghiệp, sự khác biệt về lương giữa các vùng miền, nhấn mạnh nhất đến tác động của sự thay đổi tiền lương đến bất bình đẳng thu nhập nói chung. Kết quả rất đáng chú ý từ nghiên cứu này là hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 25% trong tổng số các công việc được trả lương của cả nước, khi dân số chỉ chiếm 8%. Phân phối thu nhập của Việt Nam được cải thiện tốt hơn trong giai đoạn 1993-1998, khi tiền lương của nhóm dân số nghèo tăng trưởng trung bình 14% một năm, cao hơn mức tăng trung bình của tầng lớp trung lưu và của nhóm dân số giàu là
10% một năm. Bên cạnh đó, thu nhập đến từ các công việc phi nông nghiệp (chủ yếu là từ hoạt động tự kinh doanh của hộ gia đình hay số tiền biếu tặng) cũng có đóng góp tương đối như đóng góp của các công việc được trả lương. Thu nhập từ hoạt động nông
nghiệp có vai trò làm giảm bất bình đẳng thu nhập nói chung bởi vì bất bình đẳng giữa các hộ gia đình có thu nhập từ hoạt động nông nghiệp thấp hơn so với các hộ gia đình không có thu nhập từ hoạt động nông nghiệp. Và thu nhập từ nông nghiệp cũng có tương quan thấp hơn với các nguồn thu nhập khác. Nhìn chung, những nghiên cứu về
bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam, nếu phân tích cho khu vực nông thôn và thành thị, thì chủ yếu tập trung phân tích thu nhập từ tiền công, tiền lương ở khu vực thành thị, còn với khu vực nông thôn lại đi sâu vào sự đa dạng hóa các nguồn thu nhập, xuất phát từ nguyên nhân cho rằng nguồn thu nhập chính ở khu vực thành thị đến từ thu nhập
của các công việc làm công ăn lương, còn người dân sống ở khu vực nông thôn thì có thể có thu nhập từ nhiều nguồn ngoài thu nhập đến từ hoạt động nông nghiệp. Một nghiên cứu mới nhất của Nguyễn Minh Hà và cộng sự (2019) cũng bàn về bất bình
đẳng thu nhập ở Việt Nam, nhưng phân tích tác động của đô thị hóa đến bất bình đẳng này, trong giai đoạn 2006-2016. Sử dụng phương pháp ước lượng hồi quy dữ liệu bảng từ 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, nghiên cứu cho thấy trong dài hạn, đô thị hóa làm giảm bất bình đẳng về thu nhập. Nhưng trong ngắn hạn, thì tác động này là không rõ
ràng. Ngoài đô thị hóa thì tỷ lệ nhập học bậc cao và tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP của tỉnh thành phố cũng có tác động làm giảm bất bình đẳng về thu nhập. Nghiên cứu của Võ Hồng Đức và cộng sự (2019) với việc phân tích tác động của một
số nhân tố tới tăng trưởng hàng năm của GDP thực tế bình quân đầu người và bất bình đẳng thu nhập trong khu vực các quốc gia có mức thu nhập trung bình. Sử dụng phương pháp ước lượng GMM (tạm gọi là ước lượng momen tổng quát), với bất bình đẳng thu nhập được đo lường bởi hệ số Gini theo thu nhập, nghiên cứu cho thấy có mối quan
hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế được đo lường bởi tăng trưởng hàng năm của chỉ tiêu GDP thực tế bình quân đầu người với bất bình đẳng thu nhập đo lường bởi hệ số Gini. Ngoài ra, các nhân tố giải thích khác được tìm thấy là có ảnh hưởng đến hai chỉ
49
tiêu này là tỷ trọng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Tác động của
ngành công nghiệp là nhỏ, nhưng là lớn hơn đối với ngành nông nghiệp và dịch vụ.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Việt Cường và Phạm Minh Nguyệt (2018) phân tích mối liên hệ giữa giảm đói nghèo với tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù tốc độ giảm nghèo ở Việt Nam những năm 2000 thấp hơn giai đoạn những năm 1990, nhưng tăng trưởng lại vì người nghèo hơn (more pro- poor). Giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993-1998 được giải thích chủ yếu từ tác động của tăng trưởng kinh tế, trong khi với
giai đoạn 2004-2008, nguyên nhân của việc giảm nghèo lại đến từ việc giảm bất bình đẳng trong chi tiêu.
Một nghiên cứu khác cũng phân tích bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam nhưng
trên một góc cạnh khác khi xem xét tác động của các nguồn thu nhập tới bất bình đẳng về thu nhập khi so sánh các nhóm dân tộc khác nhau ở Việt Nam. Đó là nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Hữu Đoàn và Trần Quang Tuyến (2018). Dựa trên việc phân tích thực trạng về thu nhập và bất bình đẳng trong giai đoạn 2004-2014 với hai nhóm dân
tộc Kinh và dân tộc thiểu số, nghiên cứu cho thấy trong suốt giai đoạn nghiên cứu, khoảng cách thu nhập giữa hai nhóm đã tăng lên. Lý do chính giải thích cho sự chênh lệch này đến từ sự khác biệt trong tiền lương và các công việc kinh doanh phi nông nghiệp. Sự thay đổi trong bất bình đẳng thu nhập thời kỳ này đã phản ánh đúng sự thay đổi trong cơ
cấu kinh tế của Việt Nam khi nước ta chuyển từ nền kinh tế dựa chủ yếu vào các hoạt động nông nghiệp sang nền kinh tế của các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp.
Từ các phân tích tổng quan nghiên cứu thế giới và trong nước về nội dung tăng
trưởng bao trùm cho thấy phần lớn các nghiên cứu thường chỉ phân tích khái quát một số khía cạnh của tăng trưởng bao trùm trong phạm vi một hay nhiều quốc gia. Với các nghiên cứu nước ngoài, nghiên cứu lý thuyết chủ yếu phân tích các nội dung trong trụ cột của tăng trưởng bao trùm, đưa ra các chính sách cụ thể với quốc gia hay nhóm các
quốc gia đó. Trong khi đó, cũng có một số các nghiên cứu định lượng đã thực hiện phân tích tác động của các yếu tố đến tăng trưởng bao trùm, đặc biệt có số lượng không nhỏ trong số này lựa chọn biến phụ thuộc là tăng trưởng bao trùm về thu nhập, được đo
lường bởi hệ số Gini, tỷ lệ nghèo đói ở các dạng đo lường khác nhau, hay chênh lệch thu nhập giữa các nhóm phân vị. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây thường sử dụng thước đo tăng trưởng bao trùm thu nhập theo phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự (2013). Phương pháp này thể hiện ưu thế vượt trội khi nó đồng thời
thể hiện được hai yếu tố, đó là: tăng trưởng và phân phối trong thu nhập.
50
Từ việc tổng quan các nghiên cứu trong nước cũng cho thấy chưa có nhiều các nghiên cứu về nội dung tăng trưởng bao trùm. Trong số lượng khá khiêm tốn các nghiên cứu đó, nội dung nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở việc phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam ở một số chiều, chủ yếu theo khía cạnh lao động và việc làm, và của một hay một số ngành cụ thể, từ đó đưa ra các chính sách để cải thiện tính bao trùm cho riêng khu vực đó. Đặc biệt, các nghiên cứu có sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng về tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam còn rất hạn chế. Chưa có một nghiên cứu nào tập trung phân tích riêng cho đối tượng là hộ gia đình và thực hiện phân tích tác động của các nhân tố tới tính bao trùm về thu nhập của hộ. Đây được nhận định là một khoảng trống rõ và giúp cho nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu của mình. 2.3. Đề xuất khung nghiên cứu
Quy trình thực hiện nghiên cứu của luận án được thực hiện theo những bước sau
Xác định mục tiêu nghiên cứu
Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Xây dựng khung phân tích
Thu thập dữ liệu nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016
Phân tích và xử lý dữ liệu nhằm đánh giá thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016
Phân tích định lượng Tính toán chỉ số bao trùm
Kết quả nghiên cứu
Khuyến nghị chính sách
Hình 2.1: Các bước thực hiện nghiên cứu của luận án
51
Về phân tích thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016,
luận án giới hạn phân tích trên một số chỉ tiêu/khía cạnh sau:
Bảng 2.1: Các chiều phân tích trong tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam
(được phân tích trong luận án)
Nhóm chỉ tiêu Chỉ tiêu phân tích Nhóm chỉ tiêu Chỉ tiêu phân tích
Tăng trưởng kinh Tốc độ tăng trưởng GDP Nghèo đói và bất Hệ số Gini.
tế. bình đẳng. Tỷ lệ nghèo đói.
GDP bình quân đầu người.
Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng và các nhóm dân tộc chủ yếu.
Giáo dục.
Việc làm hay việc làm có năng suất. Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi.
Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động theo giới tính.
Thành viên có số năm học cao nhất của hộ.
Không gian.
Tỷ lệ dân số tiếp cận bảo hiểm y tế. Sự khác biệt vùng miền về thu nhập.
Giáo dục, y tế và các vấn đề về nhân khẩu học.
Phần trăm dân số được tiếp cận với nguồn nước
sạch.
Phần trăm dân số được tiếp cận với vệ sinh tiêu chuẩn (tự hoại/bán tự
hoại).
Cơ sở hạ tầng.
Phần trăm dân số được dùng điện lưới.
Nguồn: Tác giả
52
Về phân tích định lượng, luận án dự kiến xây dựng khung phân tích như sau:
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo Lạm phát
Trình độ lao động
Yếu tố khủng hoảng Nhân tố vĩ mô Trình độ học vấn
Tăng trưởng bao trùm về thu nhập
GDP bình quân đầu người Vốn nhân lực Số năm học
FDI
Nhân lực y tế
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chi ngân sách
Thể chế và chính sách
Hình 2.2: Khung phân tích định lượng của luận án
53
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trên cơ sở giới hạn phạm vi nghiên cứu là tập trung làm rõ khía cạnh tăng trưởng bao trùm về thu nhập, chương 2 đã tập trung tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về khía cạnh tăng trưởng bao trùm về thu nhập, giảm nghèo và bất bình đẳng về thu nhập trên thế giới, tập trung nhiều hơn vào các nghiên cứu với phạm vi là các nền
kinh tế đang phát triển. Nhìn chung, qua việc tổng quan, NCS nhận thấy các nghiên cứu lý thuyết, và đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm có xây dựng mô hình các nhân tố tác động tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập là khá hạn chế. NCS cũng tổng quan các nghiên cứu trong nước, tuy nhiên, vì đây là một khái niệm tăng trưởng mới, các nghiên
cứu trong nước cũng chưa làm rõ được nhiều khía cạnh, và đặc biệt với khía cạnh thu nhập và giảm nghèo, cũng rất thiếu vắng, và thậm chí là chưa có nghiên nào có phân tích định lượng, xem xét tác động của các nhân tố đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập
với phạm vi là các tỉnh, thành ở Việt Nam. Các nghiên cứu ở phạm vi trong nước mới chỉ dừng lại ở việc phân tích một cách khái quát và đưa ra chính sách cải thiện tính bao trùm trên một vài khía cạnh của nội dung tăng trưởng bao trùm, chủ yếu là phân tích khía cạnh bao trùm trên thị trường lao động cụ thể. Từ việc tổng quan này, NCS nhận
thấy tồn tại khoảng trống rõ về nội dung tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam, luận án sẽ cố gắng đóng góp thêm cả về mặt lý luận và thực tiễn bằng việc đánh giá phân tích thực trạng bao trùm với một số chiều trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam với góc độ tiếp
cận là các hộ gia đình, tập trung chủ yếu vào khía cạnh thu nhập, và quan trọng hơn, thực hiện phân tích định lượng để tìm hiểu tác động của một số yếu tố đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập.
Khung nghiên cứu thể hiện các bước thực hiện nghiên cứu của luận án cũng như
khung phân tích cho mô hình định lượng cũng đã được trình bày trong nội dung của chương này.
54
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2016
3.1. Thực trạng tăng trưởng bao trùm về thu nhập 3.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế-xã hội. Bản chất của Đổi mới chính là mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân bằng kinh tế thị trường, và nhờ hội nhập, người dân được tiếp cận với nhiều cơ hội hơn để có thể cải thiện thu nhập của mình. Từ một nước chậm phát triển, đến năm 2008, nước ta đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Tăng trưởng kinh tế từ khi tiến hành Đổi mới đến năm 2011 đạt bình quân khoảng 7% một năm. Sau khi tăng trưởng chậm lại trong các năm 2011-2012 do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu phục hồi tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn sau khủng hoảng đạt mức trung bình hơn 6%. Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người biến động cùng chiều nhưng thấp hơn tốc độ tăng GDP ở tất cả các năm.
25
20
15
10
g n ă t
5
ộ đ c ố T
0
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Tốc độ tăng GDP
Lạm phát
Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, lạm phát trong thời kỳ này cũng có một số điểm đáng chú ý. Lạm phát đạt đỉnh cao nhất vào các năm 2008 và năm 2011 với lạm phát đạt hai con số, lần lượt là 23,11% và 18,67%. Từ sau năm 2011, lạm phát đi theo chiều hướng giảm mạnh, đạt mức thấp nhất là 0,87% vào năm 2015. Nhìn chung, so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát của Việt Nam thời kỳ này biến động mạnh hơn. Đơn vị tính: %
Hình 3.1: Tốc độ tăng GDP, GDP bình quân đầu người và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016
Nguồn: TCTK
55
Bảng 3.1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2015
Đơn vị tính: %
2001- 2005 2006- 2010 2011- 2015 Giai đoạn
Tăng trưởng chung 6,9 6,32 5,91
Nông, lâm, thủy sản (%) 3,9 3,53 3,05
Công nghiệp, xây dựng (%) 8,7 6,38 6,92
Dịch vụ (%) 7 7,64 6,32
Nguồn: TCTK
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, cơ cấu kinh tế của Việt Nam cũng dần chuyển dịch theo xu hướng chung của các nền kinh tế đang phát
triển tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ trọng lĩnh vực nông nghiệp trong tổng GDP giảm, tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp, thương mại dịch vụ tăng làm thay đổi đáng kể hoạt động kinh tế quốc gia và bộ mặt kinh tế xã hội. Tăng trưởng kinh tế
cao trong suốt nhiều năm liên tục cũng đã tạo tiền đề vật chất để nâng cao chất lượng tăng trưởng và thực hiện các chính sách xã hội. Thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng. Tính trung cho cả giai đoạn 2004-2016, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng hai lần (tính theo ngang giá sức mua năm 2011). Tuy nhiên, tăng
trưởng kinh tế của nước ta vẫn được đánh giá là tăng trưởng nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng đóng góp của hai nhân tố là vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học-công nghệ tới tăng trưởng. Mức đóng góp của năng suất yếu
tố tổng hợp có tăng lên nhưng chậm và thấp so với nhiều nước trong khu vực cùng thời kỳ phát triển. Điều này hàm ý tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt được nhưng trên cơ sở thâm dụng nguồn lực và chất lượng tăng trưởng còn thấp.
Bảng 3.2: Đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Đơn vị tính:%
Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố vào tăng GDP Yếu tố tăng trưởng 2001-2005 2006-2010 2011-2015
Vốn 65,76 79,67 53,42
Lao động 17,23 26,06 16,25
Năng suất các nhân tố tổng hợp 17,01 -5,73 30,33
Nguồn: Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2016
56
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cùng với các chính sách theo đuổi tăng trưởng
trong suốt ba thập niên tính từ năm 1986, đã giúp làm giảm tỷ lệ nghèo trên khắp cả nước. Tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo đang gia tăng khi thành tựu của tăng trưởng đang có xu hướng có lợi cho người giàu. Điều này đòi hỏi Chính phủ cần phải thực hiện những chính sách giải quyết được bài toán về tăng trưởng, nhưng đồng thời cũng phải hạn chế gia tăng bất bình đẳng. Theo đánh giá của báo cáo Oxfam, khoảng một phần triệu dân số Việt Nam được coi là “siêu giàu”, được định nghĩa là có tài sản trên 30 triệu USD, và thu nhập của người giàu nhất trong một ngày cao hơn thu nhập của người nghèo
nhất trong 10 năm. Trong khi đó, số liệu từ các cuộc Điều tra mức sống Hộ gia đình cũng chưa thể phản ánh được tất cả các nguồn thu nhập của người giàu, do đó, trên thực tế, nếu tính cả các nguồn thu nhập không khai báo của các cá nhân giàu thì các chỉ số
phản ánh bất bình đẳng thu nhập vẫn có thể bị giảm so với thực tế.
Bảng 3.3: Chuẩn nghèo và chuẩn cận nghèo về thu nhập của Việt Nam
Đơn vị tính: nghìn đồng
Giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2011-2015 Giai đoạn 2016-2020 Khu vực
Nghèo Nghèo Cận nghèo Nghèo Cận nghèo
Thành thị 260 500 650 900 1300
Nông thôn 200 400 520 700 1000
Nguồn: TCTK
Ở nước ta, Chính phủ ban hành các chương trình giảm nghèo quốc gia cho mỗi giai đoạn 5 năm và ban hành các chuẩn nghèo đi kèm để đo lường sự thay đổi của tình trạng nghèo trong mỗi giai đoạn tương ứng. Trước năm 2000, chuẩn nghèo thu nhập ngoài được tính theo số thu nhập trung bình một người một tháng, còn được quy đổi
sang số kilogram gạo cho một người một tháng. Tuy nhiên, kể từ sau năm 2000 cho đến hết năm 2015, chuẩn nghèo được đo lường theo tiêu chí đơn chiều (chỉ phản ánh khía cạnh thu nhập hay chi tiêu), trong đó thu nhập được tính dựa trên thu nhập bình quân một người trong một tháng. Để tính được mức chuẩn nghèo này, Chính phủ dựa trên
mức thu nhập bình quân một người một tháng của hộ gia đình đảm bảo mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm cung cấp một lượng calo 2100 đến 2300 Kcal/người/ngày và một lượng hàng hóa phi lương thực, thực phẩm tối thiểu. Dựa vào mức chuẩn nghèo này,
TCTK đã sử dụng chỉ số giá tiêu dùng CPI đưa chuẩn nghèo theo năm tương ứng với cuộc Khảo sát mức sống dân cư để tính tỷ lệ hộ nghèo dựa vào thu nhập bình quân đầu người. Ngoài thu nhập, kể từ năm 2003, NHTG và TCTK cũng ước lượng tỷ lệ hộ nghèo
dựa vào chi tiêu bình quân. Một cá nhân được gọi là nghèo nếu như người đó có mức chi tiêu bình quân thấp hơn chuẩn nghèo của TCTK-NHTG.
57
Đáng lưu ý, từ năm 2016 trở đi, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thông qua
phương pháp tiếp cận đa chiều để đo lường nghèo đói, dựa trên căn cứ là nghèo nếu chỉ dựa vào thu nhập hay chi tiêu đều không thể phản ánh được toàn diện các khía cạnh đời sống của người dân. Phương pháp tiếp cận mới này thể hiện tính ưu việt và công bằng hơn khi không những xác định được hộ nghèo mà còn xác định được đối tượng thụ hưởng trong các chương trình an sinh xã hội của quốc gia. Công bằng ở đây nói đến việc chính sách xã hội không chỉ được dành cho các hộ gia đình được xác định là nghèo theo thu nhập hay chi tiêu. Còn có rất nhiều hộ gia đình khác, là không nghèo nếu như xét về tiêu chí đơn chiều
nhưng lại không thể tiếp cận được các cơ hội khác trong cuộc sống. Các chính sách xã hội phải được dành cho cả những đối tượng này. Chuẩn nghèo đa chiều, ngoài thu nhập và chi tiêu, còn đo lường mức độ thiếu hụt của 5 dịch vụ xã hội cơ bản và được đo bằng 10 chỉ số,
đó là: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, và thông tin. Theo đó, một hộ gia đình được gọi là nghèo nếu đáp ứng một trong hai tiêu chí: (i) có thu nhập bình quân đầu người một tháng thấp hơn chuẩn nghèo về thu nhập trong giai đoạn đó, và (ii) có thu nhập bình quân đầu người cao hơn chuẩn nghèo nhưng lại thiếu hụt 3 trong tổng số 10 chỉ số nói trên.
Tiêu chí
Bảng 3.4: Tỷ lệ nghèo về thu nhập
Đơn vị tính: % 2002 2004 2006 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 5,8 12,6 28,9 2,0 5,1 6,6 7,5 15,9 35,6
11,1 4,3 14,1
14,2 6,9 17,4
15,5 7,7 18,0
13,4 6,7 16,1
18,1 8,6 21,2
9,8 3,7 12,7
8,4 3,0 10,8
7,0 2,5 9,2
21,5
12,7
10,0
8,6
8,3
7,1
6,0
4,9
4,0
3,2
2,4
47,9
29,4
27,5
25,1
29,4
26,7
23,8
21,9
18,4
16,0
13,8
35,7
25,3
22,2
19,2
20,4
18,5
16,1
14,0
11,8
9,8
8,0
51,8 8,2
29,2 4,6
24,0 3.1
21,0 2,5
22,2 2,3
20,3 1,7
17,8 1,3
16,2 1,1
13,8 1,0
11,3 0,7
9,1 0,6
23,4
15,3
13,0
11,4
12,6
11,6
10,1
9,2
7,9
6,5
5,2
Cả nước Theo vùng Thành thị Nông thôn Theo vùng địa lý Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
giai đoạn 2006-2010, đã cập nhật theo CPI
- Tỷ lệ nghèo năm 2010*, 2012, 2013, 2014 được tính dựa trên chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011-2015, đã cập nhật theo CPI. Riêng năm 2010 có sự thay đổi khi áp dụng theo chuẩn nghèo mới
Ghi chú: - Tỷ lệ nghèo năm 2004, 2006, 2008, 2010 được tính dựa trên chuẩn nghèo quốc gia
Nguồn: TCTK 2004-2014 và Báo cáo Quốc gia: “Kết quả 15 năm thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam”
58
Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm, bất kể là tính theo tiêu chí phân loại nào (phân theo
thành thị nông thôn hay phân theo các vùng địa lý). Tuy nhiên, biến động lại diễn ra ở sự phân bố của người nghèo trên khắp cả nước. Cụ thể, tỷ lệ số người nghèo tính theo chuẩn nghèo quốc tế (tỷ lệ hộ sống dưới 1,25 đô la Mỹ 1 ngày) của khu vực thành thị so với tổng số người nghèo của cả nước đã giảm mạnh trong giai đoạn 2014- 2016. Nếu như trong năm 2014, con số này là 9,4% thì đến năm 2016 chỉ còn 5,3% (Báo cáo Oxfam). Điều này cũng có nghĩa là số người nghèo ở khu vực nông thôn so với cả nước đã gia tăng. Biến động này cũng xảy ra khi xét riêng cho từng khu vực địa lý sinh sống,
sự thay đổi về sự phân bố số lượng người nghèo có nhiều biến động giữa các năm trong giai đoạn 2010- 2016. Chỉ có hai khu vực là Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là có số người nghèo so với cả nước giảm mạnh (Hình 3.2)Trong khi đó, với các khu vực
còn lại, không theo xu hướng này. Điều đáng nói nhất ở đây là tình trạng nghèo đói luôn nghiêm trọng nhất ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Tỷ lệ nghèo ở khu vực này cũng như tỷ lệ của số người nghèo ở đây so với tổng số người nghèo của cả nước luôn đặc biệt cao. Cũng theo báo cáo nghiên cứu chính sách của Oxfam (2016) cho thấy
các hộ gia đình ở Đông Nam Bộ có mức độ dịch chuyển thu nhập cao nhất giữa các vùng. So với các hộ ở đồng bằng sông Hồng, các hộ gia đình ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên ít có khả năng hơn trong việc thoát khỏi nhóm 20% dân số nghèo nhất. Đây đồng thời cũng là những khu vực mà các hộ gia đình cũng
dễ rớt xuống các nhóm thu nhập thấp hơn.
120
100
10.8
13.7
17.1
18.4
80
16.2
13.7
9.5
10
60
26.7
23.3
25.9
23.7
40
28.6
35.6
33.4
40.2
20
13.7
9.9
9
5.2
0
2010
2012
2014
2016
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính: %
Hình 3.2: Phân bố của người nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế phân theo vùng
Nguồn: Báo cáo Oxfam
59
Bảng 3.5: Tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam năm 2016 và năm 2017 phân theo thành thị-nông thôn và phân theo vùng
Đơn vị tính: %
Tỷ lệ Chỉ tiêu Năm 2016 Năm 2017
Khu vực
Thành thị 3,5 2,7
Nông thôn 11,8 10,8
Vùng
Đồng Bằng sông Hồng 3,1 2,6
Trung du miền núi phía Bắc 23 21
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 11,6 10,2
Tây Nguyên 18,5 17,1
Đông Nam Bộ 1 0,9
Đồng bằng sông Cửu Long 8,6 7,4
Nguồn: Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam
Xét theo tiêu chí nghèo đa chiều như ở trên, dù được tính theo khu vực hay các vùng địa lý thì tỷ lệ nghèo đa chiều đều giảm trong năm 2017 so với năm 2016. Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có tỷ lệ nghèo đa chiều cao nhất cả
nước trong cả hai năm. Tỷ lệ nghèo đa chiều ở khu vực nông thôn cao hơn nhiều so với khu vực thành thị.
Về khía cạnh bất bình đẳng thu nhập, Gini là một thước đo rất phổ biến để phản ánh tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư. Hệ số
này có giá trị từ 0 (mọi người đều có mức thu nhập bình đẳng) đến 1 (bất bình đẳng là cao nhất) và đo bằng tỷ số giữa phần diện tích nằm giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối với phần diện tích nằm dưới đường bình đẳng tuyệt đối. Hệ số Gini càng gần 1 thì sự bất bình đẳng về thu nhập trong dân cư càng lớn. Để có được tính chính xác nhất trong phân phối thu nhập của người dân, hệ số Gini nên được tính dựa trên số liệu thu nhập bình quân của từng người dân. Tuy nhiên, căn cứ vào tính sẵn có của dữ liệu, mà hệ số Gini cũng có thể được tính dựa trên dữ liệu thu nhập của các nhóm
dân cư. Bảng dưới đây là kết quả Gini của Việt Nam dựa vào cuộc điều tra VHLSS qua các năm.
60
Bảng 3.6: Hệ số Gini theo thu nhập, giai đoạn 2004-2016
Tiêu chí 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Cả nước 0,420 0,424 0,434 0,433 0,424 0,430 0,431
Theo vùng
Thành thị 0,410 0,393 0,404 0,402 0,385 0,397 0,391
Nông thôn 0,370 0,378 0,385 0,395 0,399 0,398 0,408
Theo vùng địa lý
0,411 0,408 0,393 0,407 0,401
Đồng bằng sông Hồng
0,401 0,406 0,411 0,416 0,433
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và 0,381 0,385 0,384 0,385 0,393
duyên hải miền Trung
Tây Nguyên 0,405 0,408 0,397 0,408 0,439
Đông Nam Bộ 0,410 0,414 0,391 0,397 0,387
0,395 0,398 0,403 0,395 0,405
Đồng bằng sông Cửu Long
(Ghi chú: Trước năm 2008 không có Gini theo 6 vùng)
Nguồn: TCTK
Theo phạm vi cả nước, có thể thấy rõ ràng biến động của hệ số Gini chia thành 3
giai đoạn (2004-2010; 2010-2012 và 2012-2016), phản ánh thay đổi về tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta. Sau khi tăng nhẹ vào năm 2006 so với năm 2004, hệ số Gini tăng mạnh vào năm 2008, và duy trì mức độ này hai năm sau đó. Điều này khá nhất quán và phản ánh đúng thực tế về tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam
trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, ảnh hưởng phần nào đến tăng trưởng kinh tế nói chung ở Việt Nam, tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ xuất hiện một bộ phận dân số ở Việt Nam giàu lên nhanh chóng. Sự giàu lên này một phần có nguyên nhân đến từ sự bùng nổ của thị trường chứng khoán trong thời gian đó, số tiền thu nhập mà những người này có được lại tiếp tục được đem đi đầu tư ở nhiều kênh khác nhau. Những cơ hội này không thể đến được với bộ phận dân số nghèo. Cơ
61
hội tăng thu nhập nhiều hơn đối với nhóm dân số giàu làm kéo rộng khoảng cách thu
nhập giữa các nhóm dân cư, dẫn tới bất bình đẳng thu nhập tăng lên. Trái lại, Gini về thu nhập với phạm vi cả nước giảm mạnh trong hai năm sau đó, và tiếp tục tăng lại vào những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu, mặc dù mức tăng là ít hơn so với giai đoạn 2006-2010.
Trong khi đó, bất bình đẳng về thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đi theo những diễn biến không giống nhau. Trong cả giai đoạn, bất bình đẳng thu nhập ở thành thị có xu hướng giảm nhưng lại tăng ở khu vực nông thôn. Qua các năm, Gini biến động
lúc tăng, lúc lại giảm với khu vực thành thị, nhưng lại tăng đều với khu vực nông thôn. Điều này cho thấy kết quả đáng chú ý là bất bình đẳng về thu nhập ở nông thôn có xu hướng gia tăng, và rất cần các chính sách để giảm thiểu bất bình đẳng thu nhập trong
khu vực này.
Hai chỉ tiêu khác cũng hay được dùng để phản ánh bất bình đẳng về thu nhập, đó là (1) khoảng cách thu nhập giữa nhóm dân số nghèo nhất với nhóm dân số giàu nhất tính theo các phân vị (chênh lệch khoảng cách này còn được gọi là hệ số giãn cách thu
nhập), và (2) tiêu chuẩn 40% của WB. Với cách (1), dân số được chia ra thành các nhóm nhỏ với số cá nhân trong mỗi nhóm là bằng nhau. Thông thường, dân số thường được chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm chiếm 25% tổng dân số (tứ phân vị), 5 nhóm, mỗi nhóm chiếm 20% dân số (ngũ phân vị); hoặc 10 nhóm, mỗi nhóm chiếm 10% dân số (thập
phân vị). Với cách (2), tiêu chuẩn 40% của WB được xác định bằng tỷ lệ thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất (nhóm nghèo nhất và nhóm cận nghèo, dựa theo cách phân chia ngũ phân vị) chiếm trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư.
Với nước ta, chênh lệch thu nhập bình quân (tương đối) giữa nhóm 20% dân số nghèo nhất và 20% dân số giàu nhất trên phạm vi cả nước thể hiện bất bình đẳng đang tăng lên. Điều này phản ánh đúng một thực tế là trong khi thu nhập của cả hai nhóm đều tăng lên về giá trị tuyệt đối nhưng thu nhập của nhóm 20% dân số giàu nhất vẫn tăng
nhiều hơn so với nhóm 20% dân số nghèo nhất. Khoảng cách thu nhập giữa hai nhóm đang có xu hướng ngày càng dãn rộng hơn.
62
Đơn vị tính: Thu nhập: nghìn đồng
7547.3
8000
10
Thu nhập
Tỷ lệ
7000
6412.8
9.5
6000
4784.5
5000
9
4000
3410.2
8.5
2458.2
3000
1541.7
2000
1182.3
8
770.6
659.8
511.6
1000
369.4
275
184.3
141.8
0
7.5
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Nhóm 1
Nhóm 5
Chênh lệch giữa nhóm 5 và nhóm 1 (lần)
Chênh lệch: tỷ lệ
Hình 3.3: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (cả nước)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Không giống với xu hướng trên phạm vi cả nước, chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số nghèo nhất với 20% dân số giàu nhất ở khu vực thành thị có nhiều biến động hơn. Chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm chỉ tăng trong giai đoạn 2006-2008, còn thu hẹp trong các khoảng thời gian còn lại. Từ sau năm 2008 cho đến nay, bất bình đẳng
thu nhập giữa hai nhóm đang có xu hướng giảm thể hiện qua con số chênh lệch tương đối trong thu nhập ngày càng giảm xuống.
Đơn vị tính: Thu nhập: nghìn đồng
8497.509
9000
9
Tỷ lệ
Thu nhập
8.42
7413.883
8000
8
7.3
7.2
7000
7
6.69
6508.611 6.38
6000
6
5.9
5115.851
5.63
5000
5
3814.681
4000
4
2474.872
3000
3
1915.862
2000
2
1000
1
262.344 369.854 453.068 710.611 1019.813 1255.597 1507.572
0
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
20% dân số nghèo nhất
20% dân số giàu nhất
Chênh lệch
Chênh lệch: tỷ lệ
Hình 3.4: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Thành thị)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
63
Ngược lại với khu vực thành thị, bất bình đẳng thu nhập giữa hai nhóm dân số
nghèo nhất và nghèo nhất theo ngũ phân vị ở khu vực nông thôn cao hơn. Từ sau năm 2010 cho đến nay, nếu như khoảng cách này giảm dần ở khu vực thành thị thì lại tăng dần ở khu vực nông thôn. Điều này cho thấy bất bình đẳng thu nhập ở nông thôn trong những năm gần đây đang rất báo động.
Đơn vị tính: Thu nhập: nghìn đồng
6000
9
5677.862
Tỷ lệ
Thu nhập
8.17
8
7.85
7.79
5000
7.88 4621.376
7.27
7
6.39
3865.148
6.23
6
4000
5
2745.843
3000
4
1954.088
3
2000
1280.339
2
952.496
1000
694.857
586.328
496.153
1
349.506
268.526
200.222
152.755
0
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
20% dân số nghèo nhất
20% dân số giàu nhất
Chênh lệch
Chênh lệch: tỷ lệ
Hình 3.5: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Nông thôn)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Trong khi đó, chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số rất khác nhau. Đáng chú ý nhất, chênh lệch này chứng kiến rất nhiều biến động với nhóm dân tộc thiểu số. Với nhóm này, chênh lệch thu nhập tương đối giữa hai nhóm
là rất thấp (chỉ là 1,8 lần) trong năm 2004 nhưng đến năm 2016 con số này đã lên tới 8,5 lần.
64
Đơn vị tính: Thu nhập: nghìn đồng
8000
9
Thu nhập
Tỷ lệ
6887.139
8.28
8
7.94
7000
7.11
7.08
7
7.01
6009.778 6.87
6000
6.56
5137.406
6
5000
3994.138
5
4000
4
2743.994
3000
3
1780.601
2000
1334.139
2
1050.001
874.162
721.826
1000
502.646
1
331.028
251.527
190.169
0
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
20% dân số nghèo nhất
20% dân số giàu nhất
Chênh lệch
Chênh lệch: tỷ lệ
Hình 3.6: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Dân tộc Kinh)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Đơn vị tính: Thu nhập: nghìn đồng
4500
9
Thu nhập
Tỷ lệ
8.5
8.05
4000
8
7.99
7.11
3500
7
6.3
3000
6
5.97
2500
5
2000
4
1500
3
1000
2
1.8
490.86
412.776
371.18
236.585
500
1
215.689
203.234
151.159
0
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
20% dân số nghèo nhất
20% dân số giàu nhất
Chênh lệch
Chênh lệch: tỷ lệ
Hình 3.7: Thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất, 20% dân số nghèo nhất và chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm (Dân tộc thiểu số)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
65
60
50
40
30
20
10
0
2002-04
2004-06
2006-08
2008-10
2010-12
2012-14
2014-16
Thành thị
Nông thôn
Đơn vị tính: %
Hình 3.8: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo thành thị, nông thôn
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu chứng kiến tốc độ tăng thu nhập bình quân giảm dần ở cả hai khu vực là thành thị và nông thôn. Giai đoạn 2004-2008 tốc độ
này tăng mạnh nhất. Xu hướng tăng/giảm của tốc độ tăng thu nhập bình quân là như nhau đối với cả hai khu vực. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đều cao hơn ở khu vực nông thôn so với thành thị, ngoại trừ giai đoạn 2012-2014. Xét theo khía cạnh dân tộc, tình trạng nghèo ở các nhóm dân tộc thiểu số cũng cao hơn rất nhiều. Bản thân khía cạnh
về dân tộc cũng là nguyên nhân giải thích cho những chênh lệch về nghèo giữa các vùng địa lý. Vì phần lớn người Kinh sống ở các khu vực đồng bằng, mức sống cao hơn của những người này giải thích cho việc thu nhập ở các vùng đồng bằng là cao hơn so với các khu vực vùng núi nơi phần lớn dân số là người dân tộc thiểu số. Cụ thể, các nhóm dân tộc thiểu số chiếm tới chưa đầy 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 70% dân số nghèo cùng cực (Báo cáo Oxfam).
66
60
50
40
30
20
10
0
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
2008-10
2010-12
2012-14
2014-16
Đơn vị tính: %
Hình 3.9: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo 6 vùng địa lý
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Tốc độ tăng thu nhập bình quân là cao nhất trong giai đoạn 2010-2012 ở tất cả 6
vùng địa lý, kế đến là giai đoạn 2008-2010. Giai đoạn 2014-2016 chứng kiến tốc độ tăng thu nhập bình quân là thấp nhất. Với từng vùng, trung du và miền núi phía Bắc là khu vực đáng chú ý khi bắt đầu giai đoạn, tốc độ tăng thu nhập không cao so với các khu vực khác, nhưng lại duy trì được tốt nhất tốc độ này trong những năm cuối, mặc dù những năm cuối lại là khoảng thời gian chứng kiến tốc độ tăng thu nhập giảm ở tất cả các vùng.
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
20.00%
10.00%
0.00%
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
2002-04
2004-06
2006-08
2008-10
2010-12
2012-14
2014-16
Đơn vị tính: %
Hình 3.10: Tốc độ tăng thu nhập bình quân theo 5 nhóm thu nhập
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS Với tất cả các nhóm, giai đoạn 2006-2008 chứng kiến tốc độ tăng thu nhập bình
67
quân là lớn nhất, thấp nhất là vào 2014-2016. Từ sau năm 2012, nhóm 4 (hay còn gọi là nhóm cận giàu nếu chia theo ngũ phân vị) có tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là lớn nhất, trong khi với nhóm 2 (nhóm cận nghèo) tốc độ này là giảm nhiều nhất.
1400
1295.745
1149.247
1200
1060.505 1090.029
1000
880.5425
807.6843
758.9513
716.9922
800
578.8818 619.9169 669.8916
600
368.5246 419.2702 453.3345
400
200
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Thành thị
Nông thôn
Chênh lệch
Đơn vị tính: nghìn đồng
Hình 3.11: Thu nhập bình quân của thành thị, nông thôn và chênh lệch giữa hai khu vực
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu VHLSS Sự chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là từ năm 2004 đến năm 2010, chứng kiến sự tăng đều khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực. Sau 2010, khoảng cách này thu hẹp dần cho đến năm 2013 và sau đó tăng trở lại. Những năm gần đây, chênh lệch đang có xu hướng tăng lên. Khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực là thấp nhất trong năm 2004 và cao nhất vào năm 2016.
1200
1009.062
1000
891.7156
833.5552
790.9883
800
610.7633
558.8658
600
513.7058
488.7314
362.601 391.8099 432.5736
400
260.5355 291.0869 301.7984
200
0
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Dân tộc Kinh
Khác
Chênh lệch
Đơn vị tính: nghìn đồng
Hình 3.12: Thu nhập bình quân của dân tộc Kinh, dân tộc khác Kinh và chênh lệch giữa hai nhóm
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu VHLSS
68
Xu hướng thay đổi chênh lệch về thu nhập giữa dân tộc Kinh và dân tộc khác Kinh cũng tương tự như khi phân tích với khu vực thành thị và nông thôn. Có sự chênh lệch ít về khoảng cách thu nhập giữa hai nhóm trong khoảng thời gian đầu, tính từ năm 2004 đến năm 2010. Sau đó, chênh lệch giữa hai nhóm cũng tăng nhưng với mức độ nhỏ hơn. Nếu nhìn vào mức độ chênh lệch giữa thành thị nông thôn hay giữa các nhóm dân tộc, có thể thấy năm 2010 bất bình đẳng thu nhập xét theo hai tiêu chí phân loại này là lớn nhất. Xét về chênh lệch tương đối, theo Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam (2016), trong năm 2004, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số bằng 68% của dân tộc Kinh thì đến năm 2016 tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 52%. Sự gia tăng khoảng cách chênh lệch tương đối này được giải thích là do thu nhập của các hộ gia đình đồng bào người Kinh có một phần không nhỏ đến từ các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp được trả lương, trong khi nguồn thu nhập này đối với bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số là không đáng kể. Thêm nữa, mặc dù tỷ lệ thu nhập đến từ nguồn này đều tăng ở cả hai nhóm dân tộc nhưng cơ cấu của nó trong tổng thu nhập đối với đồng bào người Kinh là cao hơn (trong năm 2016, con số này là 39% - là nguồn thu nhập có tỷ trọng cao nhất trong tổng thu nhập). Trong khi đó, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chủ yếu đến từ cây nông nghiệp (trong năm 2016, thu nhập của nguồn này chiếm tới 40% trong tổng thu nhập của các hộ gia đình là đồng bào thiểu số). (Nguyễn Thị Thu Phương, 2018).
Về cơ cấu nguồn thu của cả nước và với hai khu vực là thành thị và nông thôn, bên cạnh nguồn thu chiếm tỷ trọng nhỏ nhất là công nghiệp và xây dựng, có sự khác biệt khá lớn về tỷ trọng của các nguồn thu còn lại trong tổng thu nhập với các hộ gia đình ở cả hai khu vực. Nhìn chung, thu nhập từ tiền công, tiền lương vẫn chiếm nhiều nhất trong cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình Việt Nam, và tỷ trọng này đang có xu hướng tăng dần trong các năm trở lại đây (hình 3.12). Tuy nhiên, vẫn có những sự khác nhau về mức độ đóng góp giữa khu vực thành thị hay nông thôn.
2016 2014 2012 2010 2008 2006 2004 2002
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Tiền lương, tiền công
Công nghiệp xây dựng
Thương nghiệp và dịch vụ
Nguồn khác
Đơn vị tính: %,
Hình 3.13: Cơ cấu thu nhập theo nguồn thu cả nước
Nguồn: TCTK
69
Thành thị
2016 2014 2012 2010 2008 2006 2004 2002
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Tiền lương, tiền công
Công nghiệp và xây dựng
Thương nghiệp và dịch vụ
Khác
Nông thôn
2016 2014 2012 2010 2008 2006 2004 2002
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Tiền công, tiền lương
Công nghiệp và xây dựng
Thương nghiệp và dịch vụ
Khác
Đơn vị tính: %
Hình 3.14: Cơ cấu thu nhập theo nguồn thu (thành thị và nông thôn)
Nguồn: TCTK Thu nhập của người dân sống ở khu vực thành thị, trong tất cả các năm, đều chủ yếu là từ tiền công, tiền lương, kế đến là thương nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp xây
dựng, nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nhưng ở khu vực nông thôn, thu nhập từ khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm nhiều nhất trong suốt giai đoạn 2002-2008. Kể từ sau năm 2008, thu nhập từ khu vực này đứng thứ hai sau thu nhập từ tiền lương, tiền công. Ở cả hai khu vực, một thực trạng chung là tỷ trọng thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ đều còn khá nhỏ bé.
3.1.2. Tăng trưởng bao trùm về thu nhập tại Việt Nam
Bằng việc sử dụng phương pháp đường dịch chuyển xã hội được xây dựng từ
70
nghiên cứu của Anand và cộng sự (2013), trên cơ sở nghiên cứu của Ali và Son (2007),
phần này thực hiện tính toán các chỉ số dịch chuyển xã hội (phản ánh tăng trưởng bao trùm về thu nhập) và chỉ số bình đẳng về thu nhập của Việt Nam theo phạm vi cả nước, phân theo thành thị- nông thôn, phân theo dân tộc Kinh - dân tộc thiểu số, và phân theo các tỉnh thành của Việt Nam.
Bảng 3.7: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của Việt Nam
Đơn vị tính (ȳ, y*): nghìn đồng, ω là chỉ số
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
453.859 516.786 562.682 714.578 755.113 811.739 920.520 ȳ
y* 219.761 250.274 255.589 322.024 357.249 388.340 441.743
ω 0.4842 0.4843 0.4542 0.4506 0.4731 0.4784 0.4798
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Bảng 3.8: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập cả nước
Đơn vị tính: %
Đóng góp của các nhân tố Tăng trưởng của các nhân tố
Năm Tổng Tác Tác Tác Tăng trưởng Tăng trưởng Tác động Thay đổi bao trùm
động phân bổ động qua lại động qua lại thu nhập bình đẳng thu nhập
100 0.002 2004-2006 13.86 0.17 13.88 99.85 0.12 0.017
2006-2008 8.88 -6.20 418.21 -292.26 -25.95 2.12 100 -0.55
2008-2010 27.0 -0.79 0.26 1.03 -0.03 -0.01 100 0.003
2010-2012 56.72 4.98 10.93 51.85 45.55 2.58 100 0.083
2012-2014 7.50 1.12 8.70 86.16 12.87 0.96 100 0.04
2014-2016 13.40 0.31 13.75 97.45 2.24 0.30 100 -0.21
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
71
Bảng 3.9: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của khu vực thành thị
Đơn vị tính (ȳ, y*): nghìn đồng; ω là chỉ số
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
716.9922 807.6843 880.5425 1060.505 1090.029 1149.247 1295.745 ȳ
y* 357.5297 416.0263 417.3653 530.2036 571.2117 621.8850 713.7601
ω 0.498652 0.515085 0.473987 0.499954 0.524033 0.541124 0.550849
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Bảng 3.10: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập của khu vực thành thị
Đơn vị tính: %
Tăng trưởng của các nhân tố (%) Đóng góp của các nhân tố (%)
Thay đổi Năm Tổng Tác Tăng trưởng Tăng trưởng Tác động Tác động Tác động
bao trùm động qua lại thu nhập bình đẳng qua lại thu nhập phân bổ
2004-2006 12.65 3.29 0.41 16.36 77.31 20.14 2.54 100
2006-2008 5.02 -7.98 -0.72 2.32 216.38 343.96 31.034 100
2008-2010 20.43 5.47 1.12 27.03 75.59 20.26 4.14 100
2010-2012 2.78 4.81 0.13 7.73 36.0 62.27 1.73 100
2012-2014 5.43 3.26 0.17 8.87 61.24 36.76 1.99 100
2014-2016 12.74 1.79 0.23 14.77 86.28 12.16 1.55 100
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Bảng 3.11: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của khu vực nông thôn
Đơn vị tính (ȳ, y*): nghìn đồng, ω là chỉ số
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
368.5246 419.2702 453.3345 578.8818 619.9169 669.8916 758.9513 ȳ
y* 194.0995 218.5606 223.2564 272.7173 303.6717 327.2748 369.0332
ω 0.526694 0.521288 0.492476 0.471110 0.489859 0.488549 0.486241
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
72
Bảng 3.12: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập của khu vực nông thôn
Đơn vị tính: %
Tăng trưởng của các nhân tố (%) Đóng góp của các nhân tố (%)
Thay đổi Tác Tăng Tăng Tác Năm Tổng Tác Tác
bao trùm động qua lại động thu nhập động qua lại trưởng thu nhập trưởng bình đẳng động phân bổ
2004-2006 13.77 -1.02 -0.14 12.60 109.26 -8.14 -1.12 100
100 2006-2008 8.12 -5.52 -0.45 2.14 378.15 -257.25 - 20.90
100 2008-2010 27.69 -4.33 -1.20 22.15 125.00 -19.58 -5.42
100 2010-2012 7.08 3.98 11.35 62.45 35.06 2.48 0.28
100 2012-2014 8.06 -0.26 7.77 103.71 -3.44 -0.27 -0.02
100 2014-2016 13.29 -0.47 12.76 104.19 -3.70 -0.49 -0.06
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Bảng 3.13: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của dân tộc Kinh
Đơn vị tính (ȳ, y*): nghìn đồng, ω là chỉ số
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
488.7314 558.8658 610.7633 790.9883 833.5552 891.7156 1009.062 ȳ
244.1500 278.9458 284.7187 378.2589 419.7208 455.9791 520.2600 y*
0.499559 0.499128 0.466169 0.478210 0.503531 0.511350 0.515588 ω
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu của VHLSS
73
Bảng 3.14: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập của dân tộc Kinh
Đơn vị tính: %
Đóng góp của các nhân tố (%)
Tổng Năm Thay đổi bao trùm
Tác động phân bổ Tăng trưởng thu nhập Tác động qua lại Tăng trưởng của các nhân tố (%) Tăng trưởng bình đẳng
Tác động thu nhập 100.69 -0.60 448.70 -319.07 89.81 49.09 80.77 93.35 2004-2006 14.35 2006-2008 9.28 2008-2010 29.51 2010-2012 5.38 2012-2014 6.97 2014-2016 13.16 14.25 2.07 32.85 10.96 8.63 14.09 -0.08 -6.60 2.58 5.29 1.55 0.83 -0.01 -0.61 0.76 0.28 0.11 0.11 7.86 48.30 17.97 5.88
Tác động qua lại -0.08 100 -29.60 100 100 2.32 100 2.60 100 1.25 100 0.77 Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu của VHLSS Bảng 3.15: Chỉ số dịch chuyển xã hội (y*) và chỉ số bình đẳng về thu nhập (ω) của các dân tộc khác Kinh
2008 2006 2010 2012 Đơn vị tính (ȳ, y*): nghìn đồng, ω là chỉ số 2014 2016
2004 260.5355 291.0869 301.7984 362.6010 391.8099 432.5736 513.7058 ȳ y* 135.8574 155.0818 157.9099 171.9611 193.2923 204.6561 235.6597 ω 0.521485 0.532768 0.523230 0.474243 0.493332 0.473113 0.458744
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS Bảng 3.16: Tăng trưởng và đóng góp của các nhân tố vào chỉ số tăng trưởng bao trùm về thu nhập của dân tộc khác Kinh
Đơn vị tính: %
Đóng góp của các nhân tố (%)
Tổng Năm
Thay đổi bao trùm Tác động phân bổ Tác động qua lại Tác động qua lại
-6.15
201.78 226.41
Tăng trưởng của các nhân tố (%) Tăng trưởng bình đẳng 3.29 -7.98 5.47 4.81 3.26 -3.03 Tăng trưởng thu nhập 11.72 3.68 20.14 8.05 10.40 18.75 Tác động thu nhập 14.15 82.87 1.82 8.89 12.40 64.94 5.88 176.96 15.15 123.80 -0.87 6.12 -16.72 -0.46 -7.78 -0.57 23.29 -437.53 335.74 61.56 38.82 55.47 -20.04 2004-2006 2006-2008 2008-2010 2010-2012 2012-2014 2014-2016
100 100 -187.98 100 100 -3.76 -132.44 100 100 -3.76 Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
74
Kết quả tính toán cho thấy, chỉ số dịch chuyển xã hội phản ánh tăng trưởng bao
trùm về thu nhập đều tăng qua các năm trong thời gian nghiên cứu, bất kể là theo phạm vi cả nước, phân theo khu vực thành thị nông thôn, hay phân theo tiêu chí dân tộc. Tuy nhiên, chỉ số bình đẳng lại có nhiều biến động. Xét theo phạm vi cả nước, mặc dù chỉ số bình đẳng có tăng nhẹ ở thời điểm cuối (năm 2016) so với thời điểm đầu (năm 1998), nhưng lại có nhiều diễn biến trong suốt giai đoạn đó. Năm 2010 là năm mà phân phối thu nhập của các hộ gia đình ở Việt Nam là bất bình đẳng nhất, trong khi năm bình đẳng nhất là năm 2006. Bất bình đẳng ở khu vực thành thị có phần được cải thiện trong khi
lại đang có chiều hướng xấu hơn ở khu vực nông thôn. Kết quả này cũng đồng nhất với kết quả từ việc phân tích thực trạng bất bình đẳng trong các khu vực được trình bày trong mục trên. Xét theo tiêu chí dân tộc, bất bình đẳng với các hộ gia đình không phải
là người Kinh đang có xu hướng tăng lên. Phương pháp xây dựng đường dịch chuyển xã hội cho thấy nếu bất bình đẳng tăng trong khi chỉ số dịch chuyển xã hội (phản ánh tăng trưởng bao trùm hay chỉ số bao trùm) cũng tăng, điều đó có nghĩa là thu nhập trung bình của hộ gia đình phải tăng đủ lớn để có thể triệt tiêu được áp lực từ việc tăng bất
bình đẳng, và ngược lại. Ngoài việc phân tích sự thay đổi của chỉ số tăng trưởng bao trùm hay chỉ số bình đẳng về thu nhập, kết quả trên cũng chỉ ra mức độ đóng góp của tăng trưởng thu nhập hay phân phối thu nhập trong thay đổi của chỉ số dịch chuyển (chỉ số bao trùm) cuối cùng. Ở hầu hết các giai đoạn hai năm trong thời gian nghiên cứu, sự
tăng lên của chỉ số bao trùm về thu nhập (y*) được giải thích chủ yếu bởi sự gia tăng của thu nhập bình quân (ȳ), mà không phải đến từ sự cải thiện trong phân phối thu nhập (ω). Vai trò đóng góp của tăng trưởng thu nhập bình quân trở nên rất lớn trong giai đoạn
2006-2008, trong khi đóng góp của yếu tố bình đẳng (phân phối) thu nhập nhiều nhất là trong giai đoạn 2010-2012. Cả hai kết quả này đều nhất quán dù được phân tích cho phạm vi cả nước, thành thị nông thôn hay dân tộc. Xét về tiêu chí khu vực, càng về cuối giai đoạn nghiên cứu, đóng góp của tăng trưởng thu nhập trong khu vực thành thị là ít
hơn so với khu vực nông thôn. Điều này cũng phản ánh mức độ bất bình đẳng thu nhập ở khu vực nông thôn đang có xu hướng tăng lên (diễn biến ngược lại so với thời điểm đầu kỳ). Còn theo tiêu chí dân tộc, với dân tộc khác Kinh, đóng góp của tăng trưởng thu
nhập bình quân cũng lớn hơn so với dân tộc người Kinh. Hay nói cách khác, bất bình đẳng với cộng đồng dân tộc không phải là người Kinh đang tăng lên. Tuy vậy, nếu nhìn vào sự thay đổi của đóng góp các nhân tố qua các năm, thì đóng góp của tăng trưởng thu nhập bình quân với nhóm người Kinh lại rất lớn trong giai đoạn 2006-2008. Biến
động mức đóng góp của tăng trưởng thu nhập trong nội bộ nhóm người Kinh là mạnh hơn so với nhóm dân tộc khác Kinh, của khu vực nông thôn mạnh hơn so với khu vực thành thị.
75
Bảng 3.17: Tăng trưởng bao trùm về thu nhập theo các tỉnh, thành của Việt Nam
Năm Tăng trưởng Tăng trưởng Tăng trưởng bao
thu nhập bình đẳng trùm
2006 Đắc Nông An Giang Đắc Nông
Tỉnh/Thành có mức tăng cao nhất 2008 Bình Dương Điện Biên Bình Phước
2010 Bắc Ninh Hà Nam Hà Nội
2012 Bình Dương Tuyên Quang
Tuyên Quang
2014 Điện Biên Nam Định Điện Biên
2016 Lâm Đồng Bà Rịa Đồng Nai
Vũng Tàu
2006 Bạc Liêu Cao Bằng Quảng Ninh
Tỉnh/Thành có mức tăng thấp nhất 2008 Cao Bằng Sóc Trăng Đồng Tháp
2010 Tây Ninh Điện Biên Hà Giang
2012 Bình Dương Nam Định Kon Tum
2014 Bạc Liêu Rịa Bắc Cạn
Bà Vũng Tàu
2016 Sơn La Lâm Đồng Điện Biên
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS Phương pháp đường dịch chuyển xã hội cũng được áp dụng để tính toán chỉ số
bao trùm về thu nhập cũng như chỉ số bình đẳng với các tỉnh, thành phố của Việt Nam. Bảng trên cho biết các tỉnh, thành có mức tăng cao nhất và thấp nhất về tăng trưởng bao trùm theo thu nhập, cũng như cho biết các vị trí này với tăng trưởng thu nhập bình quân và tăng trưởng bình đẳng về thu nhập. Một số kết quả đáng lưu ý là: (i) Về tăng trưởng
thu nhập bình quân: Bình Dương là tỉnh có mức tăng thu nhập bình quân cao nhất trong năm 2008, nhưng lại trở thành tỉnh có mức tăng trưởng này thấp nhất vào năm 2012. Bạc Liêu là tỉnh có tăng trưởng thu nhập bình quân thấp nhất trong cả hai năm 2006 và
2014. Các tỉnh có mức tăng trưởng thu nhập bình quân thấp nhất đều nằm ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc và vùng Đông Nam Bộ; (ii) Về cải thiện chỉ số bình đẳng trong thu nhập: Điểm chú ý nhất là sự cải thiện của chỉ số này ở tỉnh Nam Định và Bà Rịa Vũng Tàu. Với Nam Định, năm 2012 so với 2010, Nam Định là tỉnh có mức độ cải
thiện tính bình đẳng về thu nhập là thấp nhất cả nước, nhưng đến năm 2014 đã vươn lên vị trí cao nhất. Cũng là sự cải thiện vị trí như vậy, nhưng với Bà Rịa Vũng Tàu, năm 2014 tỉnh này ở vị trí thấp nhất nhưng đã vươn lên đứng đầu trong cả nước vào năm
2016; (iii) Về thay đổi của tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Có thể thấy nếu chỉ nhìn
76
vào các vị trí có mức độ cải thiện thấp nhất thì ba trong tổng số sáu tỉnh, thành phố ở vị
trí này là ở miền núi phía Bắc (Đó là Hà Giang, Bắc Cạn và Điện Biên). Có một tỉnh nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng là Quảng Ninh, một tỉnh ở khu vực Tây Nguyên là Kon Tum và một tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long là Đồng Tháp. Trong khi đó, ngoại trừ khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, các vùng còn lại đều có tỉnh/thành phố đã được ở vị trí cao nhất trong mức tăng của chỉ số dịch chuyển xã hội (phản ánh tăng trưởng bao trùm).
3.2. Thực trạng tăng trưởng bao trùm theo một số chỉ tiêu phi thu nhập
3.2.1. Giáo dục, y tế, lao động và việc làm
Về giáo dục: Với mục tiêu mang đến sự công bằng cho mọi người trong việc tiếp cận các cơ hội kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã thường xuyên quan tâm đến việc nâng
cao năng lực, coi chính sách tiếp cận giáo dục và y tế là một trong các chính sách ưu tiên hàng đầu trong các chính sách an sinh xã hội đến cho người dân. Xuất phát điểm từ một nước có mức thu nhập trung bình thấp, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng trong các chỉ số phát triển con người, trong đó thành tựu về giáo dục là rất
đáng trân trọng. Giáo dục được coi là một trong những động lực có tác động tích cực tới chuyển dịch xã hội, làm gia tăng cơ hội tiếp cận việc làm, từ đó nâng cao thu nhập của mỗi cá nhân, giúp họ có khả năng dịch chuyển kỹ năng và chuyển đến một vị trí tốt hơn trong xã hội. Sự chênh lệch trong tiếp cận giáo dục là một trong những sự chênh lệch về
cơ hội phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, trình độ giáo dục điều hòa việc làm và việc thường xuyên tiếp cận việc làm là nhân tố quan trọng tác động đến sự khác nhau về thu nhập giữa các ngành và giữa các nhóm dân cư. Sự khác nhau trong việc tiếp cận
các cơ hội giáo dục và trình độ học vấn là nguyên nhân của những sự khác biệt trong cơ hội việc làm và sự khác biệt trong thu nhập. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt sự khác biệt này đến từ nỗ lực của bản thân hay xuất phát từ bất bình đẳng trong việc tiếp cận cơ hội của họ. Cụ thể, nếu sự khác biệt trong thu nhập được giải thích từ sự khác nhau trong
nỗ lực của chính người lao động, thì đây là điều tích cực bởi vì nó phản ánh đúng và thực chất thành quả từ sự nỗ lực đó thông qua thu nhập của các cá nhân. Tuy nhiên, nó sẽ là tiêu cực nếu được gây ra bởi sự chênh lệch trong việc tiếp cận của người lao động
với các cơ hội giáo dục và việc làm.
Thực tế từ tình hình giáo dục của nước ta cho thấy, tỷ lệ nhập học và số năm hoàn thành các cấp học ở Việt Nam đều tăng trong suốt 20 năm qua, trong đó tỷ lệ nhập học tiểu học đạt chuẩn toàn cầu (Hai Anh H.Dang và cộng sự, 2017). Trong năm 2000, toàn
bộ các tỉnh và các thành phố trong cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ. Về cơ bản, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đã đạt được mục tiêu là
77
mọi trẻ em đều có cơ hội được đến trường. Điều này phản ánh qua tỷ lệ nhập học ở các
cấp học phổ thông (đặc biệt là tiểu học và THCS) rất cao và hầu như không có chênh lệch lớn giữa các vùng, giữa dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh. Tuy nhiên, về chất lượng giáo dục thì chưa có một thống kê hay một đánh giá nào mang tính chất toàn diện đánh giá giữa các tiêu chí phân loại. Có chăng, chất lượng giáo dục ở các cấp học dưới được phản ánh qua tỷ lệ học sinh nhập học ở các cấp học trên. Cụ thể, sự khác biệt chất lượng giáo dục tiểu học giữa các tỉnh và giữa các dân tộc dẫn tới sự khác biệt trong tỷ lệ nhập học ở các cấp học THCS và THPT. Bên cạnh các yếu tố chủ quan xuất phát từ bản thân
người học, sự tiếp nối truyền thống, động viên và hỗ trợ của gia đình, một số nguyên nhân khách quan khác có thể được giải thích cho hiện tượng này là sự khác nhau về chất lượng giáo viên cũng như cơ sở vật chất giữa các vùng, các tỉnh, thành và các dân tộc.
Bảng 3.18: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi và số năm đi học cao nhất, 2004-2016
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi
Tiểu học 89,3 88,3 91,9 92,4 93 97
THCS 78,8 78,4 81,3 81,4 84,4 90,4
THPT 53,9 54,2 58,2 59,4 63,1 68,6
Số năm đi học
Tuổi 18-25 9,0 9,5 9,8 9,9 10,3 10,5
Tuổi 26-65 7,6 7,7 7,9 8,0 8,1 8,4
Nguồn: TCTK (Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở đây là phần trăm số trẻ em/thanh thiếu niên được đến trường trên tổng số trẻ em trong độ tuổi đến trường của nhóm đó. Đây là các nhóm tuổi từ 6-10, 11-14, và 15-17 tương ứng cho cấp học tiểu học, cấp học THCS và cấp học THPT. Không có dữ liệu của năm 2004 do hạn chế về mặt dữ liệu)
Tính trên phạm vi cả nước, tỷ lệ nhập học ở cấp tiểu học là cao nhất và có xu
hướng tăng đều qua các năm. Điều này phản ánh những kết quả tích cực từ chương trình phổ cập tiểu học mà chính phủ đang thực hiện. So với bậc học tiểu học, bậc học THCS và THPT có tỷ lệ nhập học thấp hơn và cũng có nhiều biến động hơn. Cụ thể, tỷ lệ nhập
học ở hai bậc học này chứng kiến sự giảm nhẹ trong giai đoạn 2008-2010. Nếu xét về số năm đi học cao nhất theo nhóm tuổi, với nhóm dân số trẻ (từ 18 đến 25 tuổi), số năm đi học là cao hơn so với nhóm tuổi 26 đến 65 tuổi. Ở mỗi nhóm tuổi, theo thời gian, số năm đi học cũng tăng lên. Điều này chứng tỏ một thực tế là tính trung bình, các hộ gia
đình Việt Nam đang đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và xác định được hơn tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo cho tương lai.
78
Bảng 3.19: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi chia theo thành thị, nông thôn
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Thành thị
Tiểu học 89,7 89,2 92,8 92,6 93,6 97,6
THCS 82,8 82,6 86 85 88,9 93,9
THPT 66,3 66,4 69,6 70,2 73,2 79,6
Nông thôn
Tiểu học 89,1 88,1 91,6 92,4 92,8 96,8
THCS 77,7 77,1 79,7 80,1 82,7 89
THPT 50,3 50,6 54,4 55,6 59,3 64,5
Nguồn: TCTK Xét về tỷ lệ đi học đúng độ tuổi phân theo hai khu vực là thành thị và nông thôn,
không có nhiều sự khác biệt giữa hai khu vực này ở bậc tiểu học. Tuy nhiên, ở các cấp học cao hơn, các hộ gia đình ở thành thị có điều kiện cho con em mình đi học được ở đúng độ tuổi cao hơn so với các hộ gia đình ở nông thôn. Với mỗi cấp học tương ứng với từng khu vực, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi tăng lên qua các năm kể từ sau năm 2008. Với mỗi năm và với từng khu vực, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi là cao nhất ở bậc tiểu học, tiếp đến là THCS, và cuối cùng là THPT. Điều này thể hiện rõ ý thức của các bậc cha mẹ về vai trò và tầm quan trọng của các bậc học dưới đối với sự hình thành tri thức và
nhân cách cho trẻ.
Bảng 3.20: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi chia theo giới tính.
Đơn vị tính (%)
Chỉ tiêu 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Nam
Tiểu học 89,3 88,7 92,3 92,2 93,4 97,1
THCS 78,3 77,3 80,1 79,8 83,8 89,3
THPT 51,5 50,3 53,7 55,2 58,2 63,7
Nữ
Tiểu học 89,2 87,9 91,5 92,7 92,6 97
THCS 79,2 79,5 82,6 83 85,1 91,6
THPT 56,4 58,5 63,1 63,9 68,3 73,6
Nguồn : TCTK
79
So sánh sự khác nhau về tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở các cấp học giữa nam giới và
nữ giới, kết quả điều tra cho thấy ở bậc tiểu học, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi của nam giới cao hơn nữ giới ở tất cả các năm, ngoại trừ năm 2012. Nhưng với hai cấp học còn lại là THCS và THPT tỷ lệ này lại cao hơn ở nữ giới. Điều này cho thấy với những cấp học cao hơn, gia đình và bản thân người học là nữ giới có nhận thức hơn về giá trị của giáo dục.
Dựa theo phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007), luận án thực hiện tính toán chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội theo số năm học cao nhất của hộ gia đình. Theo đó, các hộ gia đình sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần về thu nhập.
Trong mỗi hộ gia đình, lựa chọn thành viên có số năm đi học cao nhất và thực hiện tính toán chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội. Tất cả các thao tác này, NCS thực hiện với bộ dữ liệu VHLSS với các năm chẵn trong giai đoạn 2004-2016. Kết quả của việc tính
toán chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội được trình bày trong các bảng dưới đây
Bảng 3.21: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (tính trên phạm vi cả nước)
Đơn vị tính: Chỉ số cơ hội (số năm học)
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 8.116 8.252 8.426 8.311 8.345 8.433 8.683
Chỉ số bình đẳng 0.883 0.885 0.890 0.885 0.883 0.884 0.90 cơ hội (EOI)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ tăng trong giai đoạn đầu (2004-2008), giảm trong những năm tiếp theo (2008-2012), trước
khi tăng lại trong những năm cuối của thời kỳ nghiên cứu. Kết quả này phần nào đồng thuận với sự thay đổi trong tính bao trùm về chỉ tiêu thu nhập vừa được tính ở trên. Thời kỳ 2008- 2012 là thời kỳ chứng kiến tính bao trùm trong thu nhập giảm. Điều này có thể được lý giải là do đây là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008. Mặc dù những tác động này đối với nước ta là không lớn và cũng không phải là những tác động trực tiếp, nhưng rõ ràng, đây là thời kỳ mà thu nhập của nhiều hộ gia đình Việt Nam có biến động mạnh. Nhiều
hộ gia đình có thể nắm bắt được những cơ hội đầu tư mang lại tỷ suất sinh lời cao, có được những lợi nhuận khổng lồ từ bong bóng giá trên thị trường chứng khoán, trong khi nhiều hộ gia đình khác không thể có được bất cứ cơ hội nào. Kết quả là, các hộ gia đình có thu nhập cao có khả năng đầu tư nhiều hơn vào giáo dục so với các hộ gia đình thấp
và dẫn đến tình trạng bất bình đẳng lớn trong số năm đi học giữa các nhóm dân số.
80
Bảng 3.22: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (Theo khu vực thành thị và nông thôn)
Đơn vị tính: Chỉ số cơ hội (số năm học)
Thành thị
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 9.583 9.671 9.785 9.509 9.566 9.558 9.647
0.918 0.916 0.924 0.908 0.910 0.907 0.915 Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI)
Nông thôn
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 7.844 7.988 8.149 8.038 8.055 8.154 8.439
Chỉ số bình đẳng 0.892 0.896 0.897 0.896 0.893 0.894 0.912 cơ hội (EOI)
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên số liệu của VHLSS
Chỉ số cơ hội phản ánh tính bao trùm về cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ cũng giảm dù được tính với khu vực nào. So với hộ gia đình ở khu vực thành thị, cơ hội trung bình thể hiện ở số năm học cao nhất của hộ gia đình nông thôn thấp hơn và cả
sự phân phối cơ hội này cũng kém đồng đều hơn (thể hiện ở chỉ số bình đẳng thấp hơn).
Bảng 3.23: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội đối với số năm học cao nhất của hộ (Theo dân tộc)
Đơn vị tính: Chỉ số cơ hội (số năm học)
Dân tộc Kinh
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 8.628 8.712 8.797 8.846 8.718 8.707 8.870
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0.912 0.909 0.908 0.914 0.899 0.891 0.902
Dân tộc khác Kinh
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 6.505 6.854 7.212 7.051 7.358 7.713 8.137
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0.845 0.860 0.869 0.875 0.885 0.914 0.924
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu của VHLSS
81
Xét theo tiêu chí dân tộc, so với các hộ gia đình người Kinh, các hộ gia đình dân
tộc thiểu số có cơ hội tiếp cận giáo dục (thể hiện qua chỉ số cơ hội) thấp hơn nhiều. Hay nói cách khác, chưa có tính bao trùm về số năm đi học giữa hai nhóm dân số. Các hộ gia đình người Kinh vẫn được hưởng các cơ hội đi học cao hơn so với các hộ gia đình thiểu số. Tuy nhiên, với mỗi dân tộc, đặc biệt dân tộc thiểu số, chỉ số cơ hội đều tăng qua các năm, thu hẹp dần khoảng cách với nhóm người Kinh. Xét về tiêu chí bình đẳng giữa hai nhóm và trong nội bộ từng nhóm, cũng có nhiều kết quả đáng chú ý. Về tình bình đẳng trong từng nhóm, chỉ số bình đẳng cơ hội với nhóm dân tộc thiểu số tăng lên
khá nhanh, thể hiện tính bình đẳng ở khu vực này được cải thiện nhiều hơn, trong khi đó chỉ số bình đẳng cơ hội của nhóm người Kinh còn nhiều biến động, cho thấy sự biến động về mức độ bình đẳng ở khu vực này. Càng về những năm cuối của giai đoạn nghiên
cứu, bình đẳng trong nhóm thiểu số càng tăng tiến gần hơn với nhóm người Kinh.
Ngoài phạm vi cả nước, phân theo khu vực thành thị- nông thôn và phân theo dân tộc, luận án còn thực hiện tính toán với phạm vi các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Mục đích của việc tính toán này là có dữ liệu về chỉ số bao trùm về giáo dục (lấy biến đại
diện cho giáo dục ở đây là số năm đi học cao nhất của thành viên có số năm đi học cao nhất của hộ). Dữ liệu này là một trong các biến độc lập trong mô hình ước lượng tác động tới tính bao trùm về thu nhập được thực hiện ở chương 4 (Kết quả tính toán chỉ số bao trùm về giáo dục theo phạm vi các tỉnh, thành được trình bày trong phần Phụ lục).
Về y tế:
Các nhóm chịu thiệt thòi trong xã hội bao gồm phụ nữ, các nhóm dân tộc thiểu số và nhóm các lao động nhập cư,… thường chịu các gánh nặng về bất bình đẳng qua hệ thống chi cho y tế. Tổng ngân sách chi cho y tế cũng như tổng chi cho y tế tính theo phần trăm trên GDP tăng khá nhanh trong thời gian gần đây (cụ thể, về giá trị bằng tiền của tổng ngân sách cho y tế trong năm 2011 chỉ là 3,2 tỷ USD nhưng con số này đến năm 2015 đã là 5,8 tỷ USD; ngân sách cho y tế theo tỷ lệ phần trăm của tổng ngân sách nhà nước tăng từ 8,8% năm 2011 lên đến 9,4% vào năm 2015) (TCTK). Tuy nhiên, chiếm phần lớn trong số tiền ngân sách chi cho y tế là chi thường xuyên cho lương hay chi phí vận hành cơ sở vật chất, chi phí để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ y tế, đặc biệt là với các bệnh viện công còn rất hạn chế. Một vài năm trở lại đây, sự xuất hiện của một số các bệnh viện tư với chất lượng tốt cũng là một lựa chọn khi một số các bệnh viện công tuyến đầu thường gặp tình trạng quá tải. Tuy nhiên, với chi phí cao của các dịch vụ y tế ở đây, chỉ những hộ gia đình có điều kiện kinh tế khá giả mới có thể thăm khám và chữa bệnh ở những loại hình cơ sở y tế tư nhân như vậy. Sự thiếu thốn cơ sở vật chất cũng như đội ngũ y bác sĩ ở các bệnh viện tuyến dưới cũng là một trở ngại đối với nhiều hộ gia đình nghèo. Chính sách đãi ngộ về thu nhập hay các chính sách khác với nhiều
82
bác sĩ chuyên môn giỏi cũng đã không thể giữ chân họ ở lại với các bệnh viện tuyến xã, huyện, thậm chí ở cả các bệnh viện công tuyến trên. Điều này lại càng làm tăng thêm bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng với các hộ gia đình có thu nhập khác nhau. Bên cạnh đó, nguồn tài chính y tế của Việt Nam chủ yếu vẫn đến từ nguồn tự chi trả của các hộ gia đình. Nếu theo con số tham chiếu của WHO, phần trăm tự chi trả cho y tế của các hộ gia đình tối đa thường chỉ ở mức 30%, thì con số này ở Việt Nam phải trên 40% hoặc gần 50%. Tỷ lệ chi trả cao cho y tế cũng là nguyên nhân làm cho nhiều hộ gia đình Việt Nam dễ bị “nghèo hóa”. Và tình trạng này lại càng dễ xảy ra với các hộ gia đình bản thân đã là nghèo hoặc các hộ gia đình nông thôn, nhóm dân tộc thiểu số.
Một khía cạnh khác cũng phản ánh khả năng tiếp cận y tế là độ bao phủ của bảo hiểm y tế với người dân. Tỷ lệ này đã tăng qua thời gian (từ mức 65% năm 2012 đến gần 80% vào năm 2016) (Thông tin từ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều đối tượng chưa có bảo hiểm y tế. Dựa vào bộ dữ liệu VHLSS qua các năm trong giai đoạn 2004-2016, luận án tính toán chỉ số bao trùm về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế của Nhà nước hay giấy khám sức khỏa miễn phí của người dân. Cách thức thu thập dữ liệu như sau: Mỗi hộ gia đình lấy thông tin tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí của đại diện một thành viên của hộ. Khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí của thành viên là chủ hộ sẽ đại diện cho khả năng tiếp cận dịch vụ này cho hộ gia đình đó. Cụ thể, các hộ gia đình sẽ được sắp xếp theo mức thu nhập bình quân tăng dần, rồi với mỗi hộ sẽ lấy thông tin về khả năng tiếp cận của thành viên là chủ hộ của hộ gia đình đó. Với chủ hộ có tiếp cận được với bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí, gán cơ hội là 1, và với chủ hộ không được tiếp cận gán cơ hội là 0. Sau khi tính toán theo phạm vi cả nước, khu vực thành thị - nông thôn, hay dân tộc, chỉ số cơ hội hay chỉ số bình đẳng về cơ hội được cho trong các bảng kết quả dưới đây. Theo phương pháp hàm cơ hội xã hội, chỉ số cơ hội càng tăng càng thể hiện rằng khả năng tiếp cận cơ hội đó càng có tính bao trùm. Trong khi chỉ số bình đẳng về cơ hội càng lớn (càng tiến đến 1) thì ta nói rằng khả năng tiếp cận cơ hội đó càng được phân phối một cách bình đẳng.
Bảng 3.24: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí cho người dân (Cả nước)
Đơn vị tính: Chỉ số
Cả nước
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 0,166 0,280 0,251 0,307 0,341 0,355 0,396
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0,5 0,514 0,513 0,510 0,515 0,505 0,505
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu VHLSS
83
Xét theo phạm vi cả nước, chỉ số cơ hội phản ánh tính bao trùm trong cơ hội tiếp
cận bảo hiểm y tế có tăng qua các năm, ngoại trừ giai đoạn 2006-2008, trong khi không có nhiều sự cải thiện trong chỉ số bình đẳng về cơ hội. Điều này cho thấy tính bao trùm về cơ hội tiếp cận tăng không phải là do sự cải thiện trong bình đẳng về cơ hội, mà đến từ số cơ hội bình quân của cả tổng thể tăng lên (Hay nói cách khác, phần trăm dân số được tiếp cận cơ hội này tăng lên). Xét theo khu vực thành thị và nông thôn, với cả hai khu vực, chỉ số cơ hội nhìn chung đều tăng trong giai đoạn nghiên cứu, cũng ngoại trừ giai đoạn 2006- 2008. Điều này thể hiện tính nhất quán với các kết quả khi tính với phạm
vi của cả nước. Về tính bình đẳng trong cơ hội tiếp cận, trong khi chỉ số bình đẳng cơ hội tăng lên (cơ hội được bao phủ bình đẳng hơn) với khu vực thành thị, thì chỉ số này lại giảm (cơ hội được bao phủ kém bình đẳng hơn) với khu vực nông thôn.
Bảng 3.25: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí cho người dân (Phân theo thành thị- nông thôn)
Đơn vị tính: %
Thành thị
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 0,189 0,285 0,236 0,297 0,322 0,346 0,381
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0,458 0,475 0,448 0,467 0,475 0,476 0,483
Nông thôn
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 0,166 0,285 0,262 0,310 0,350 0,362 0,403
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0,544 0,540 0,550 0,528 0,536 0,522 0,517
Nguồn: Tính toán của NCS dựa trên dữ liệu VHLSS
Xét về tiêu chí dân tộc, nhất quán với các kết quả theo phạm vi cả nước và khu
vực thành thị - nông thôn, giai đoạn 2006-2008 cũng chứng kiến sự giảm nhẹ trong chỉ số cơ hội với hộ gia đình người Kinh, nhưng với các hộ gia đình là dân tộc thiểu số, thì chỉ số này lại tăng đều trong suốt thời gian nghiên cứu. So với hộ gia đình người Kinh,
tính bao trùm về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế của các hộ gia đình người dân tộc thiểu số được cải thiện nhiều hơn (thể hiện qua chỉ số cơ hội luôn lớn hơn qua từng năm).
84
Bảng 3.26: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng về cơ hội tiếp cận bảo hiểm y tế hay giấy khám sức khỏe miễn phí cho người dân (Phân theo dân tộc)
Đơn vị tính: Chỉ số
Dân tộc Kinh
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 0,131 0,248 0,209 0,262 0,304 0,319 0,374
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0,449 0,490 0,476 0,476 0,492 0,483 0,493
Dân tộc khác Kinh
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 0,282 0,399 0,415 0,444 0,453 0,466 0,465
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EOI) 0,504 0,524 0,539 0,533 0,528 0,515 0,518
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu VHLSS
Về lao động, việc làm
Với khía cạnh lao động và việc làm, trong phần này luận án phân tích thực trạng bao trùm trên hai chỉ tiêu đó là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tỷ lệ lao động trong
độ tuổi lao động đã qua đào tạo phân theo giới tính. Ở cả hai chỉ tiêu, đều cho thấy tỷ lệ của nam giới đều cao hơn so với nữ giới. Đặc biệt tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo của nam giới cao vượt trội hẳn so với con số này ở nữ giới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới cũng cao hơn so với nữ giới, nhưng mức chênh lệch
không nhiều.
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
2004
2007
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Nam
Nữ
Cả nước
Đơn vị tính: %
Hình 3.15: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính
Nguồn: TCTK
85
Nguyên nhân của thực trạng này, ngoài lý do đến từ gia đình, như một số phụ nữ
tự nguyện hoặc được động viên ở nhà để chăm sóc gia đình, thì tư tưởng trọng nam khinh nữ tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn là thách thức lớn với các chính sách cải thiện bất bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Các hộ gia đình có thu nhập khá giả trở lên thường không phân biệt đầu tư cho giáo dục giữa con trai và con gái, tuy nhiên, với các hộ gia đình có thu nhập thấp, họ thường ưu tiên hơn cho trẻ em trai. Thực tế này không còn tồn tại nhiều ở khu vực thành thị, nhưng vẫn còn khá phổ biến ở một số vùng sâu, vùng xa, một bộ phận dân tộc thiểu số ở nước ta. Ngoài ra, sự khác biệt lớn trong tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo giữa hai giới cũng thể hiện một thực trạng rất rõ ràng, đó là: lao động là nam giới được tiếp cận với cơ hội đào tạo tốt hơn so với lao động là nữ giới. Các nguyên nhân chủ quan có thể kể đến như lao động là nam giới thường được ưu tiên hơn trong
các công việc đòi hỏi nhiều kỹ năng và trình độ, hay gia đình thường có xu hướng tạo điều kiện cho các thành viên là nam giới được nâng cao tay nghề hơn là nữ giới. Sự khác biệt về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo không chỉ thể hiện ở khía cạnh giới tính, mà còn thể hiện ở khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, điều này phần nhiều là do khu
vực thành thị ở nước ta thường tập trung các doanh nghiệp, các khu công nghiệp mà lao động làm việc trong đó có cơ hội được tiếp cận với các cơ hội nâng cao tay nghề và trình độ, công việc của họ cũng đòi hỏi điều đó, nhưng khu vực nông thôn lao động lại chủ yếu làm những công việc không quá đòi hỏi hoặc thậm chí là không cần tay nghề được
đào tạo.
45
39.2
38
40
35.9
35.2
33.1
32.8
32.2
35
32
31.6
30.4
30
25
20
13.9
13.5
15
12
11.9
10.7
9.5
9
8.9
8.6
8.5
10
5
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Thành thị
Nông thôn
Nam
Nữ
Đơn vị tính: %
Hình 3.16: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo phân theo thành thị- nông thôn và phân theo giới tính
Nguồn: TCTK
86
Chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng lao động là nhân tố quan trọng thúc
đẩy tăng năng suất lao động, quyết định lớn đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Theo tiêu chí đánh giá hiện nay của Tổng cục Thống kê, lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo là những người đủ 15 tuổi trở lên có chứng chỉ (từ sơ cấp nghề trở lên) đang làm việc trong nền kinh tế. Theo tiêu chí này, sự khác biệt trong tỷ lệ lao động được đào tạo giữa thành thị và nông thôn là khá lớn, và quan trọng hơn là với mỗi khu vực, tỷ lệ này không được cải thiện liên tục trong nhiều năm trở lại đây. Và dù xét theo tiêu chí nào, thì cũng chưa đến một nửa trên tổng số lao động của tiêu chí đó, được xếp
vào diện lao động được đào tạo.
3.2.2. Một số chỉ tiêu phi thu nhập khác
Bên cạnh các chỉ tiêu về thu nhập, về giáo dục và y tế, lao động và việc làm, luận
án phân tích khả năng tiếp cận an sinh xã hội của các hộ gia đình Việt Nam như bảo hiểm xã hội và các điều kiện sống cơ bản khác. Với các điều kiện sống cơ bản, luận án nói tới khả năng tiếp cận điện, nước và vệ sinh theo các tiêu chí phân nhóm khác nhau của các hộ gia đình. Với tiêu chí phân theo vùng địa lý, luận án chỉ phân tích dựa theo
6 vùng địa lý (theo cách phân chia vùng được áp dụng từ năm 2008).
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
2006
2010
2012
2014
Đơn vị tính: %
Hình 3.17: Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội phân theo 5 nhóm thu nhập
(Nhóm 1 là nhóm 20% dân số giàu nhất, nhóm 5 là nhóm 20% dân số nghèo nhất) Nguồn: WB Sự chênh lệch trong mức độ bao phủ bảo hiểm xã hội giữa các nhóm là rất lớn. Nhóm có thu nhập cao nhất trong dân số cũng là nhóm có mức độ bao phủ bảo hiểm
xã hội là cao nhất. Trong nội bộ các nhóm, mức độ bao phủ này đều giảm trong giai
87
đoạn 2006-2010, và có dấu hiệu tăng lên trong những năm cuối của giai đoạn. Rõ ràng,
cơ hội tiếp cận bảo hiểm xã hội không có tính bao trùm giữa các nhóm thu nhập. Nhóm có thu nhập cao vẫn có cơ hội tiếp cận tốt hơn so với nhóm có thu nhập thấp hơn.
102 100 98 96 94 92 90 88 86
Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng
Đồng bằng Sông Hồng
Sông Cửu Long
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung
2008
2010
2012
2014
2016
Đơn vị tính: %
Hình 3.18: Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện lưới phân theo vùng
120
100
80
60
40
20
0
2002
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Thành thị
Nông thôn
Nguồn: TCTK Đơn vị tính: %
Hình 3.19: Tỷ lệ hộ gia đình có điện lưới phân theo thành thị, nông thôn
Nguồn: TCTK Nhìn chung, phần đông dân số dù phân tích theo khía cạnh nào cũng đều tiếp cận
được với nguồn điện lưới. Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự khác biệt khi phân tích theo các tiêu chí khác nhau. Nếu xét theo tiêu chí vùng, Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ số hộ gia đình được tiếp cận điện lưới cao nhất và tỷ lệ này được duy trì cao ngay ở năm 2008.
Trong năm 2008, sự chênh lệch về tỷ lệ các hộ gia đình được sử dụng điện lưới trong
88
vùng này với các vùng miền còn lại là khá lớn. Riêng khu vực Trung du và miền núi
phía Bắc, năm 2012 so với năm 2010, tỷ lệ hộ gia đình được tiếp cận điện lưới giảm mạnh. Đây là điểm đặc biệt trong sự thay đổi về khả năng tiếp cận điện giữa các vùng miền. Tuy nhiên, nhìn chung, theo thời gian, khả năng các hộ gia đình được tiếp cận với nguồn điện này tăng lên, thu hẹp dần khoảng cách với khu vực Đồng bằng Bắc Bộ. Nếu xét theo tiêu chí thành thị- nông thôn, trong tất cả các năm trong giai đoạn nghiên cứu, tỷ lệ hộ sống ở khu vực thành thị được dùng điện lưới luôn cao hơn so với khu vực nông thôn, mặc dù sự chênh lệch giữa hai khu vực ngày càng giảm. Từ những phân tích về
khả năng tiếp cận điện lưới, có thể thấy rằng, qua thời gian, tính bao trùm về cơ hội tiếp cận của các hộ gia đình đã được cải thiện, dù được phân tích theo tiêu chí nào.
70
60
50
40
30
20
10
0
Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng
Đồng bằng Sông Hồng
sông Cửu Long
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
2008
2010
2012
2014
2016
Đơn vị tính: %
Hình 3.20: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy phân theo vùng
Nguồn: TCTK Hình trên cho thấy tỷ lệ các hộ gia đình được tiếp cận với nguồn nước máy ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên vẫn còn rất thấp, thậm chí không được cải thiện. Không giống như cơ hội tiếp cận điện lưới, với nguồn nước máy, Đông
Nam Bộ là vùng có tỷ lệ các hộ gia đình được sử dụng cao nhất cả nước, kế đến mới là khu vực Đồng bằng sông Hồng. Xét theo tiêu chí thành thị - nông thôn, sự chênh lệch giữa hai khu vực là rất lớn. Phần lớn người dân sống ở khu vực thành thị được sử dụng nguồn nước máy, nhưng con số này là rất thấp với khu vực nông thôn (cụ thể, trong năm
2016, chỉ hơn 20% các hộ gia đình sống ở nông thôn được dùng nước máy). Tuy vậy, với từng khu vực, tỷ lệ này nhìn chung đều tăng qua các năm.
89
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
2002
2004
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Thành thị
Nông thôn
Đơn vị tính: %
Hình 3.21: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy phân theo thành thị, nông thôn
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung
Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long
2008
2010
2012
2014
2016
Nguồn: TCTK Đơn vị tính: %
Hình 3.22: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại phân theo vùng
Nguồn: TCTK
90
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Thành thị
Nông thôn
Đơn vị tính: %
Hình 3.23: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại phân theo thành thị, nông thôn
Nguồn: TCTK Về khả năng tiếp cận vệ sinh (nếu hộ gia đình có vệ sinh tự hoại hoặc bán tự hoại thì được coi là được tiếp cận cơ hội). Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ vẫn là
hai vùng có tỷ lệ hộ gia đình được tiếp cận cơ hội nhiều nhất so với các vùng khác trên cả nước. Và một đặc điểm chung đó là các vùng đều có tỷ lệ hộ gia đình được tiếp cận tăng theo các năm. Ngoài ra, tỷ lệ hộ gia đình ở thành thị được tiếp cận cơ hội này cũng cao hơn so với nông thôn, tuy rằng mức chênh lệch nhỏ hơn so với cơ hội tiếp cận nước sạch.
Luận án tiếp tục lựa chọn tính toán chỉ số bao trùm trong việc tiếp cận các cơ hội của hộ gia đình theo phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007). Các cơ hội ở đây là các cơ hội tiếp cận các điều kiện sống cơ bản của các hộ gia đình, đó là điện
lưới, nước máy (riêng và công cộng), và vệ sinh (tự hoại hay bán tự hoại). Theo phương pháp hàm cơ hội xã hội, các hộ gia đình được sắp xếp theo mức thu nhập bình quân từ thấp tới cao. Và tương ứng với đó là các cơ hội tiếp cận tương ứng của điện, nước và điều kiện vệ sinh. Các hộ gia đình được sử dụng điện lưới gán cơ hội có giá trị 1, những
hộ gia đình còn lại sử dụng nguồn điện khác (không phải điện lưới quốc gia) coi như không được tiếp cận cơ hội và được gán cơ hội có giá trị 0. Tương tự, các hộ gia đình được sử dụng nguồn nước máy (dù nước máy riêng hay công cộng) được coi là có cơ hội tiếp cận và gán cơ hội có giá trị 1. Những hộ gia đình không có cơ hội tiếp cận nước
máy gán cơ hội có giá trị 0 (không được tiếp cận cơ hội). Với vệ sinh, các hộ gia đình có vệ sinh tự hoại hoặc bán tự hoại được gán cơ hội có giá trị 1, những hộ gia đình khác gán cơ hội có giá trị 0. Riêng trong năm 2004, VHLSS không có dữ liệu về cơ hội tiếp
cận vệ sinh, do đó, luận án không tính chỉ số cơ hội cho cơ hội này. Chỉ số cơ hội tăng
91
thể hiện tính bao trùm trong việc tiếp cận cơ hội đó được cải thiện, trong khi đó, với chỉ
số bình đẳng cơ hội, chỉ số này càng gần bằng 1 thì cơ hội đó càng được phân phối một cách công bằng, chỉ số này càng tiến về 0 thì cơ hội đó càng được phân phối một cách thiếu công bằng.
Theo phương pháp như trên, chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội tiếp cận các
điều kiện điện, nước và vệ sinh của các hộ gia đình được cho trong các bảng sau
Bảng 3.27: Chỉ số cơ hội và chỉ số bình đẳng cơ hội về tiếp cận các điều kiện sống cơ bản
Đơn vị tính: chỉ số
Điện
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 Chỉ tiêu
8474 8727 8891 9078 9095 9177 9263 Chỉ số cơ hội (OI)
0,922 0,949 0,967 0,966 0,968 0,976 0,985
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EIO)
Nước
2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 Chỉ tiêu
1550 1518 2074 2245 2548 2908 3384 Chỉ số cơ hội (OI)
Chỉ số bình đẳng cơ 0,168 0,165 0,225 0,239 0,272 0,309 0,360
hội (EIO)
Vệ sinh
Chỉ tiêu 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016
Chỉ số cơ hội (OI) 2812 3371 4322 4878 5725 6355
0,306 0,366 0,460 0,519 0,609 0,676
Chỉ số bình đẳng cơ hội (EIO)
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu VHLSS theo hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007)
Kết quả tính toán cho thấy, trong số ba loại tiếp cận điều kiện sống cơ bản, cơ hội tiếp cận điện lưới quốc gia của các hộ gia đình Việt Nam là tốt nhất, kế đến là vệ sinh tự hoại và cuối cùng là nước máy. Qua các năm, chỉ số cơ hội đều tăng ở cả ba loại
tiếp cận. Riêng với cơ hội tiếp cận nước sạch, trong giai đoạn đầu của thời kỳ nghiên cứu 2004-2006, chỉ số bình đẳng cơ hội có giảm nhẹ.
3.3. Một số hạn chế trong tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam
Thành tựu hơn ba mươi năm Đổi mới đã chứng kiến những kết quả rất đáng ghi
nhận trong tăng trưởng kinh tế và phát triển con người ở Việt Nam. Bên cạnh những
92
thành tựu trong tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, Việt Nam đặc biệt coi trọng phát
triển các lĩnh vực xã hội, tạo điều kiện cho người dân được tham gia phát triển kinh tế- xã hội và thụ hưởng các thành quả của phát triển. Nước ta đã thực hiện lồng ghép các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và cụ thể hóa các mục tiêu này bằng nhiều chương trình quốc gia về giáo dục, y tế, lao động, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cho đến nay, Việt Nam đã hoàn thành được một số mục tiêu về xóa đói nghèo, bình đẳng giới, phổ cập giáo dục phổ thông và y tế. Tuy nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta đã và đang bộc
lộ một số hạn chế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta còn thiếu tính bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tuy lực lượng lao động dồi dào, song phần lớn là tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo, trong khi
nguồn vốn nhân lực luôn được coi là yếu tố then chốt quyết định tăng trưởng. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn cùng với việc nhiều bất bình đẳng (đặc biệt là các bất bình đẳng ngoài thu nhập) đang có chiều hướng tăng lên rõ nét. Các thách thức về môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh đòi hỏi ngày càng nhiều nguồn lực
và công sức ứng phó. Có rất nhiều những khó khăn mà nước ta đang phải đối mặt, dưới đây xin được kể ra một số các khó khăn trong số đó.
3.3.1. Tăng trưởng diễn ra không đồng đều
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được nhận định là cao so với nhiều nước trong
khu vực, tuy nhiên, tăng trưởng này là không đồng đều giữa các ngành và các địa phương, giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa các tỉnh thành và các vùng miền trong cả nước. Về thành tựu của tăng trưởng kinh tế trong nỗ lực giảm nghèo,
thành tựu này là không đồng đều nếu theo các tiêu chí phân loại khác nhau. Tính trung bình cho cả nước, tỷ lệ hộ nghèo xét theo tiêu chí đơn chiều giảm, nhưng phần lớn hộ nghèo vẫn tập trung ở khu vực nông thôn, ở các vùng sâu, vùng xa. Với khu vực thành thị, đối tượng nghèo đói lại đang có xu hướng mở rộng, đối tượng này đến từ các nhóm
dân cư ở khu vực nông thôn đã di cư, những lao động làm công trong các khu vực phi chính thức. Tăng trưởng kinh tế cũng diễn ra không đồng đều giữa các vùng địa lý khác nhau. Các vùng đồng bằng, do điều kiện địa lý thuận lợi và thu hút được nguồn nhân lực
có chất lượng cao thường tăng trưởng kinh tế tốt hơn. Sự không đồng đều này có thể xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân: những nhóm nguyên nhân khách quan và nhóm các nguyên nhân chủ quan. Nhóm nguyên nhân khách quan có thể đến từ điều kiện tự nhiên của tỉnh, thành; khu vực đó làm cho tỉnh, thành hay khu vực đó gặp khó khăn trong việc
thu hút đầu tư và nhân lực, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhóm nguyên nhân chủ quan đến từ năng lực quản
93
trị, thể chế và hệ thống các chính sách thu hút đầu tư và nhân lực của khu vực, tỉnh thành
đó. Về khía cạnh này, năng lực quản trị của đội ngũ lãnh đạo của tỉnh đóng vai trò hết sức quan trọng.
3.3.2. Việc làm và năng suất lao động (NSLĐ) thấp
Khía cạnh lao động và việc làm được đánh giá là một trụ cột quan trọng trong nội dung phân tích tăng trưởng bao trùm của ADB, bởi đây được coi là phương tiện quan trọng hàng đầu để người dân tham gia vào nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cải thiện và thúc đẩy tăng năng suất lao động là yếu
tố quyết định tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp, là vấn đề sống còn với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Hiện nay, quan điểm tính năng suất lao động (NSLĐ) của nước ta hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, theo
đó, năng suất lao động được tính bằng GDP bình quân trên một lao động đang làm việc trong năm. Hoặc NSLĐ cũng có thể được hiểu là số giờ làm việc trung bình của một lao động đang làm việc. Trong những năm qua, chỉ tiêu này của nước ta tiếp tục được cải thiện đáng kể nhưng vẫn ở mức rất thấp so với nhiều nước trong khu vực, mặc dù tốc
độ tăng NSLĐ của nước ta là khá cao. Điều đó có nghĩa là khoảng cách chênh lệch tương đối về NSLĐ của nước ta với một số các nền kinh tế phát triển cao hơn trong khu vực đang được thu hẹp nhưng khoảng cách chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của TCTK, trung bình cho giai đoạn 2011-2018,
NSLĐ ở nước ta tăng 4,88% một năm, trong khi con số này của Xingapo chỉ 0,9%, Malaysia (1,1%), và Indonesia (3,4%) (Viện Năng suất Việt Nam). Số giờ làm việc trung bình của một lao động làm việc trong ngành nông, lâm ngư nghiệp và thủy sản là thấp
nhất, kế đến là khu vực nông nghiệp, và cao nhất là khu vực công nghiệp và xây dựng. NSLĐ và tốc độ tăng NSLĐ cho các ngành kinh tế khác nhau có sự khác biệt lớn. Cụ thể, với mức tăng NSLĐ là cao nhất, nhưng NSLĐ trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản lại rất thấp. Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế về quy mô nhưng NSLĐ trong khu vực này chưa thể hiện đúng vai trò của nó trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực trạng NSLĐ còn được nhìn nhận với một góc độ khác, đó là đóng góp đặc biệt quan trọng của NSLĐ khu vực doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Điều này thể hiện ở sự khác biệt trong NSLĐ giữa các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp FDI. Qua thời gian đẩy mạnh sắp xếp cổ phần hóa lại DNNN, NSLĐ ở khu vực này cũng được cải thiện, tuy nhiên, nguyên nhân chính trong việc tăng NSLĐ khu vực này vẫn chủ yếu dựa vào ưu thế trong
việc phân bổ nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh các DNNN, thì những doanh nghiệp tư nhân nhỏ cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc cải thiện
94
NSLĐ. Phần lớn các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, rất khó khăn
trong việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, khó tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức, thiếu lao động có kỹ năng, và không nâng cao được hiệu quả sản xuất nhờ tính kinh tế theo quy mô. Cũng có một số doanh nghiệp tư nhân đáp ứng được các yêu cầu về lao động, công nghệ, tuy nhiên những bất cập về thể chế, môi trường pháp lý trong đầu tư lại trở thành rào cản khá lớn đối với họ. Doanh nghiệp FDI là khu vực doanh nghiệp có NSLĐ cao nhất, và NSLĐ của khu vực này luôn có tác động tích cực đến NSLĐ của toàn xã hội. Nhìn chung, việc thừa nhận NSLĐ thấp là mấu chốt cho
việc làm giảm sức cạnh tranh và rào cản đối với tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, bài toán cho vấn đề này lại rất khó có lời giải. Ngoài những nguyên nhân khách quan đến từ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, thì tăng trưởng GDP của nước ta lại chủ yếu
dựa trên đóng góp của việc tăng việc làm giản đơn, trình độ công nghệ và tay nghề lao động còn thấp. Các yếu tố khác cũng là nguyên nhân làm cho NSLĐ chưa đạt được như kỳ vọng, đó là: thể chế kinh tế, các quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, thị trường lao động giá cả, đặc biệt là tiền lương chưa được vận hành theo cơ chế thị trường.
3.3.3. Tồn tại các chênh lệch lớn về việc nắm giữ tài sản và tiếp cận một số cơ hội trong nền kinh tế
Các chênh lệch này liên quan đến việc nắm giữ tài sản, trong đó có tài sản là đất đai, và cơ hội tiếp cận tới các hàng hóa và dịch vụ có chất lượng như giáo dục, y tế, tín
dụng, và một số loại hình an sinh xã hội khác. Bất bình đẳng trong việc tiếp cận những cơ hội này đã ngăn cản người nghèo tham gia đầy đủ và hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng. Và cũng chính vì bất bình đẳng trong việc nắm giữ các cơ hội này, nhóm người
nghèo lại tiếp tục gặp khó khăn trong việc tạo ra thu nhập và có nguy cơ khó thoát nghèo. Đây không phải là thực tế riêng ở nước ta, mà là tình trạng chung ở nhiều nước trong khu vực châu Á và các nền kinh tế đang phát triển. Chi tiêu của chính phủ ở các nước này cho các dịch vụ công có chất lượng gặp phải hai vấn đề: đó là tỷ lệ chi tiêu công
trên tổng GDP hay trong tổng chi tiêu của chính phủ ít, và tính hiệu quả của các nguồn chi tiêu này còn thấp. Bên cạnh đó, các hình thức bảo trợ xã hội còn thiếu tính bao phủ. Sự chênh lệch về nắm giữ các tài sản có giá trị hay chênh lệch trong việc tiếp cận các
cơ hội xảy ra giữa hai giới nam và nữ, giữa các khu vực trong nền kinh tế với nhau. Việc phân biệt đối xử với nữ giới trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác nhau vẫn còn tồn tại nhiều. Tình trạng này xảy ra khi trong nhiều gia đình, với nhiều thế hệ nam giới vẫn chiếm ưu thế trong việc kiểm soát đất đai và nắm giữ các tài sản quan trọng và có giá
trị, với dẫn chứng là trước đây các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đứng tên chủ hộ là nam giới. Tuy nhiên, gần đây, loại giấy tờ này đã được đồng thời đứng tên cả hai
95
vợ chồng. Bên cạnh đó, nhiều quyết định lớn của gia đình vẫn thường được quyết định
bởi người nam giới. Chính việc hạn chế trong việc tiếp cận các cơ hội cũng như thiếu tiếng nói trong gia đình và xã hội là nguyên nhân khiến cho phụ nữ không có cơ hội được đóng góp sức lao động của mình vào một số hoạt động đem lại thu nhập mà đáng nhẽ ra người phụ nữ có quyền được làm và được hưởng. Không được nắm giữ một số loại tài sản đồng nghĩa với việc phụ nữ sẽ khó tiếp cận được với các loại hình tín dụng và gặp khó khăn trong các quyết định sản xuất kinh doanh hay đầu tư. Ở góc độ xã hội, phụ nữ cũng thường bị phân biệt đối xử trong việc tham gia vào các quyết định kinh tế
và chính trị. Phần lớn các vị trí quan chức trong chính phủ cũng như lãnh đạo các doanh nghiệp lớn đều thuộc về nam giới. Nguyên nhân của thực tế này cũng là do phụ nữ không được tiếp cận các cơ hội giáo dục hay thiếu các cơ hội tiếp cận hay thể hiện tiếng nói
trong xã hội. Trong khi đó, nếu được tham gia thì đóng góp của những lãnh đạo nữ hay vai trò của phụ nữ trong các công việc của cơ quan, doanh nghiệp hay chính trị cũng ít được thừa nhận hơn so với nam giới. Tương tự, tình trạng bất bình đẳng trong việc nắm giữ tài sản và tiếp cận các cơ hội cũng xảy ra trong dân số giữa các vùng, các khu vực
hay giữa các dân tộc trong dân số.
Ở những khía cạnh khác trong cuộc sống, những người thiệt thòi lại càng khó thể hiện nhu cầu của mình khi bản thân họ ngay từ đầu đã không được tiếp cận với các cơ hội hay dịch vụ. Họ bắt đầu cuộc sống với ít cơ hội hơn, và chính với ít cơ hội hơn, thu
nhập của họ cũng như tiếng nói của họ bị ảnh hưởng và cứ thế, tình trạng này tiếp tục không được cải thiện ở các thế hệ sau.
96
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Sử dụng phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007) với các chỉ tiêu phi thu nhập, và phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự (2013) áp dụng cho chỉ tiêu thu nhập, chương 3 đã phân tích thực trạng tăng trưởng bao trùm trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên nhiều chiều, với các phạm vi phân tích như cả nước,
thành thị - nông thôn, dân tộc và các tỉnh, thành của Việt Nam. Các chiều được phân tích là tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, các chiều phi thu nhập là giáo dục, y tế (trong chương phân tích tính bao trùm trong việc tiếp cận bảo hiểm y tế), việc làm, và khả năng tiếp cận các điều kiện sống cơ bản như điện, nước và vệ sinh.
Kết quả từ phân tích cho thấy tính bao trùm trong các chiều thu nhập và phi thu nhập nhìn chung là được cải thiện qua các năm với phạm vi cả nước, nhưng có biến động hơn khi phân tích với khu vực thành thị - nông thôn hay dân tộc. Với khía cạnh
trọng tâm là tăng trưởng bao trùm về thu nhập, khi đánh giá với phạm vi là các tỉnh, thành, có một số kết quả đáng lưu ý là trong thời gian nghiên cứu, có tỉnh đang ở mức bao trùm thấp nhất nhưng vươn lên cao nhất, nhưng lại có tỉnh biến động theo chiều hướng ngược lại, thể hiện sự cải thiện rất mạnh hay sự tụt dốc rất nhanh trong các tiêu
chí này ở một số tỉnh, thành phố. Với các khía cạnh khác như giáo dục, y tế hay khả năng tiếp cận các điều kiện sống cơ bản, kết quả phân tích cũng cho thấy tính bao trùm nhìn chung đều được cải thiện, nhưng có sụt giảm trong khoảng thời gian 2006-2008.
97
CHƯƠNG 4 ƯỚC LƯỢNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM VỀ THU NHẬP Ở VIỆT NAM
4.1. Chỉ định mô hình
4.1.1. Xây dựng mô hình
Dựa trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập, luận án xây dựng mô hình kinh tế lượng để ước lượng tác động của một số nhân tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập với các tỉnh, thành phố của Việt Nam như sau: (cid:24)(cid:2)(cid:25) = (cid:27)(cid:2)(cid:25) + (cid:29)(cid:2)(cid:25)(cid:30)(cid:2)(cid:25) + (cid:31)(cid:2)(cid:25) (4.1)
Trong đó Y là tăng trưởng bao trùm về thu nhập
X là tập hợp các nhân tố có tác động đến tăng trưởng bao trùm α là hệ số chặn β là hệ số ước lượng tác động u là nhiễu của mô hình
i và t lần lượt là các chỉ số cho tỉnh i và năm t.
4.1.2. Phương pháp ước lượng
Dữ liệu được sử dụng cho mô hình phù hợp với phương pháp ước lượng hồi quy
dữ liệu bảng. Một số ưu điểm của phương pháp này là: (i) cho phép xem xét đến tính không đồng nhất trong các đơn vị liên quan đến các cá nhân. “Cá nhân” ở đây có thể hiểu là một thực thể nào đó như cá nhân, doanh nghiệp, các tỉnh, hay quốc gia….(ii) dữ liệu bảng giúp nhà nghiên cứu nắm bắt được nhiều thông tin phong phú hơn về các thực
thể, ít đa cộng tuyến giữa các biến số và hiệu quả hơn, (iii) Dữ liệu bảng rất phù hợp khi nghiên cứu sự thay đổi của các biến số, và (iv) có thể giúp phát hiện và đo lường được những ảnh hưởng mà bình thường không thể quan sát được ở các chuỗi dữ liệu thời gian
hay không gian thông thường.
Có nhiều phương pháp để ước lượng được mô hình (4.1), tuy nhiên sự lựa chọn dạng mô hình phụ thuộc rất nhiều vào nguồn số liệu ước lượng và việc kiểm định các khuyết tật trong mô hình.
Dưới đây trình bày hai dạng phương pháp ước lượng cho mô hình dữ liệu bảng
4.1.2.1. Phương pháp ước lượng ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên cho dữ liệu bảng
98
Để ước lượng mô hình (4.1), luận án sử dụng phương pháp ước lượng ảnh hưởng cố định (fixed effects) và phương pháp ước lượng ngẫu nhiên (random effects). Đây là hai phương pháp được sử dụng rộng rãi đối với các dữ liệu dạng bảng dựa trên nền tảng của ước lượng OLS.
Phương pháp ước lượng cố định được sử dụng khi muốn phân tích tác động của các biến số mà những biến số này thay đổi theo thời gian. Phương pháp này tìm ra mối quan hệ giữa hệ số ước lượng và các biến số đầu ra trong một thực thể (quốc gia, người, công ty,…). Mỗi thực thể có những đặc điểm riêng có hoặc không có ảnh hưởng đến
các hệ số ước lượng (ví dụ như: giới tính khác nhau sẽ có thể có những ý kiến khác nhau đối với một vấn đề nhất định nào đó, hay hệ thống chính trị của một quốc gia có thể có ảnh hưởng đến thương mại hay GDP, hoặc các hoạt động của công ty có thể có ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu của nó…)
Khi sử dụng phương pháp ước lượng cố định, nhà nghiên cứu giả định rằng một đặc điểm nào đó trong một thực thể có thể có tác động hoặc bị chệch tới các biến đầu ra, và do đó, cần phải kiểm soát nó. Đây chính là lý do của giả định tồn tại mối tương
quan giữa sai số chuẩn và các hệ số ước lượng. Phương pháp ước lượng cố định bỏ qua tác động của các đặc điểm bất biến theo thời gian, bởi thế, chúng ta có thể đánh giá tác động ròng của các hệ số ước lượng tới các biến đầu ra. Một giả định quan trọng khác
của mô hình tác động cố định là các đặc điểm bất biến theo thời gian là duy nhất với một thực thể nào đó và những đặc điểm này không nên có tương quan với các đặc điểm khác của chính thực thể đó. Mỗi thực thể là khác nhau và vì thế sai số chuẩn và hằng số của từng thực thể (phản ánh các đặc điểm của thực thể) không nên có tương quan với
các biến khác. Nếu sai số chuẩn có tương quan, thì mô hình ước lượng cố định sẽ không còn phù hợp nữa bởi vì các kết quả suy luận từ mô hình có thể không đúng (lúc này có thể sử dụng phương pháp ước lượng ngẫu nhiên). Đây là lý do cho việc thực hiện kiểm
định Hausman (sẽ được trình bày ở phần sau trong chương này).
Không giống như mô hình tác động cố định, mô hình tác động ngẫu nhiên giả sử rằng thành phần thay đổi giữa các phần tử chéo là ngẫu nhiên và không có tương quan với các biến độc lập trong mô hình. Nếu thành phần thay đổi giữa các phần tử chéo này
vẫn có tác động nào đó đến biến phụ thuộc thì nên sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên. Một lợi thế khác của mô hình tác động ngẫu nhiên là có thể đưa thêm vào các biến không đổi theo thời gian.
99
Luận án sử dụng kiểm định Hausman lựa chọn giữa mô hình FE và mô hình RE
4.1.2.2. Kinh tế lượng không gian cho dữ liệu bảng - Mô hình kinh tế lượng không gian
(Hausman, 1978), kiểm định VIF kiểm nghiệm khả năng tồn tại đa cộng tuyến, kiểm định Wald (Greene, 2000) về sự tồn tại của phương sai sai số thay đổi, kiểm định Wooldridge về sự tồn tại hiện tượng tự tương quan (Wooldridge, 2002), đồng thời xem xét khả năng tồn tại nội sinh trong mô hình. Trong trường hợp mô hình gặp các khuyết tật, luận án sử dụng thủ tục hiệu chỉnh mô hình cluster (Hoechle, 2007) để loại trừ các khuyết tật của mô hình.
Như đã trình bày ở trên, phương pháp ước lượng ảnh hưởng cố định và ngẫu nhiên là những phương pháp thông dụng được sử dụng để ước lượng dữ liệu bảng, tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có thể tồn tại ảnh hưởng mang tính chất không gian mà hai mô hình này không ước lượng được. Do vậy, luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng không gian để xem xét tác động của các biến số khi xem xét yếu tố không gian.
Mô hình kinh tế lượng không gian với dữ liệu bảng gần đây được phổ biến rộng
rãi và được thừa nhận là một phương pháp ước lượng chính xác hơn do sự giải thích của cả hai đặc điểm không gian và thời gian cho các nghiên cứu khi có sự phụ thuộc không gian giữa các quan sát (Anselin và cộng sự, 2004; Elhorst và Vega, 2013). Dữ liệu bảng không gian là một trường hợp đặc biệt của dữ liệu bảng, trong đó dữ liệu được quan sát
trên hai kích thước: theo không gian và theo thời gian. Thực tế thì hồi quy với dữ liệu bảng không gian thể hiện nhiều ưu điểm so với hồi quy theo dữ liệu chéo hay chuỗi thời gian thông thường, với các đặc điểm sau:
Các nghiên cứu trước đây về tăng trưởng kinh tế, nghèo đói hay bất bình đẳng thu nhập giữa các tỉnh trong phạm vi một quốc gia hay một số quốc gia có cùng vị trí địa lý thường chỉ sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng thông thường. Việc sử dụng số liệu dạng bảng thông thường tuy có xem xét đến đặc điểm riêng giữa các quốc gia hoặc
giữa các tỉnh trong cùng một quốc gia nhưng lại bỏ qua mối liên hệ không gian giữa chúng. Peracchi và Meliciani (2001) đã nhận định rằng có sự tương quan mạnh trong tăng trưởng kinh tế giữa các địa phương lân cận cũng như các quốc gia láng giềng. Một
nhóm tác giả khác là Anderson và Van Wincoop (2001) cũng lập luận rằng các địa phương trong cùng một quốc gia thường có mối liên kết chặt chẽ với nhau vì chúng chịu cùng các chính sách của chính phủ, thuận lợi hơn khi thực hiện các giao dịch thương mại so với các tỉnh ở xa nhau về mặt địa lý. Cũng theo Le Gallo và cộng sự (2003), nếu
đo lường các mối quan hệ kinh tế mà bỏ qua sự tương quan không gian có thể sẽ dẫn đến các ước lượng bị chệch và không đáng tin cậy. Đây cũng chính là tính chất tự tương
100
quan về mặt không gian đã được chỉ ra trong một số nghiên cứu như của Paraguas và
Kami (2005) hay của Higazi và cộng sự (2013). Thực tế cho thấy có rất nhiều đặc điểm của các tỉnh lân cận mà chúng ta không quan sát được hoặc không kiểm soát được trong mô hình có thể thay đổi đồng thời với nhau. Ngoài các chính sách của chính phủ được áp dụng chung cho một vùng thì các đặc điểm tự nhiên như khí hậu, địa hình chung cho một vùng cũng khiến cho các tỉnh/thành phố lân cận với nhau sẽ có thể tồn tại những đặc điểm giống nhau và thay đổi cùng nhau, trong khi những tỉnh xa hơn thì không có đặc điểm này.
Các dạng mô hình hồi quy không gian bao gồm: mô hình tự hồi quy trễ không gian SAC (Spatial Autoregressive Model with Auto Regressive disturbances); mô hình Durbin không gian SDM (spatial Durbin model); mô hình tự hồi quy không gian SAR
(spatial autoregressive regressive); mô hình sai số không gian SEM (spatial error model), và mô hình không gian ảnh hưởng ngẫu nhiên tổng quát GSPRE (Generalised Spatial Panel Random Effects Model) .
Mô hình kinh tế lượng không gian cho dữ liệu bảng có dạng sau:
% $(cid:12)(cid:8)
(cid:4) #(cid:12)(cid:8)
(cid:4) #(cid:12)(cid:8)
(cid:4) ∑ "(cid:2)# #(cid:12)(cid:8)
(cid:10)(cid:2)(cid:25) = + ! ∑ "(cid:2)# (cid:10)(cid:2)(cid:25) + ∑ (cid:7)(cid:2)# (cid:29)$ + ∑ (cid:7)(cid:2)#(cid:25)&$ + '(cid:2) + ((cid:25) + )(cid:2)(cid:25) (4.2)
(cid:4) #(cid:12)(cid:8) ε ~ (0, σ2I)
)(cid:2)(cid:25) = * ∑ +(cid:2)#
)$ + ,(cid:2)(cid:25) (4.3) (4.4)
i=1,2,…, n; t=1,2,…,T
Trong đó, y là biến phụ thuộc, x là biến độc lập và w là ma trận không gian.
Việc lựa chọn mô hình (4.2) là mô hình không gian dạng nào như sau:
- Nếu & = 0 mô hình (4.2) trở thành mô hình SAC
- Nếu * = 0 mô hình (4.2) trở thành mô hình SDM
- Nếu & = 0 và * = 0 mô hình (4.2) trở thành mô hình SAR
(cid:4) #(cid:12)(cid:8)
- Nếu ! = 0 và & = 0 mô hình (4.2) trở thành mô hình SEM - Nếu ! = 0 , & = 0 và '(cid:2) = . ∑ "(cid:2)# '(cid:2) + /(cid:2) mô hình (4.2) trở thành mô hình
GSPRE
Xây dựng ma trận không gian
Công cụ phổ biến nhất để đo lường sự tương quan không gian giữa các đối tượng là chỉ số Moran’s I theo kiểm định của Moran (1950). Hệ số này nếu mang dấu dương nghĩa là các địa phương lân cận sẽ có mối tương quan không gian dương với nhau trong khi hệ số âm cho thấy tương quan là âm. Dấu của hệ số này phụ thuộc rất lớn vào cách
xây dựng ma trận trọng số được sử dụng khi kiểm định. Cách đơn giản nhất để thiết lập
101
ma trận trọng số không gian là sử dụng ma trận trọng số liền kề (contiguity matrix). Các phần tử của ma trận trọng số liền kề nhận giá trị bằng 1 nếu các tỉnh giáp ranh với nhau và bằng 0 cho các trường hợp còn lại (LeSage, 1999). Ngoài ra, nếu hồi quy không gian giữa các quốc gia, thì ma trận trọng số còn được xác định dựa trên kinh độ và vĩ độ của các quốc gia, khoảng cách giữa các thủ đô hoặc thời gian di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác.
Theo Morgan (1950), có các dạng ma trận trọng số sau:
- Ma trận trọng số không gian tiếp giáp bậc nhất: Coughlin và Segev cho rằng,
một địa phương i có chung đường biên giới với địa phương j (i≠j) gọi là có tương quan không gian với nhau. Lúc đó, mỗi phần tử của ma trận trọng số không gian xác định bởi "(cid:2)# = {1, nếu i, j: có chung đường biên giới; là 0, i, j: không có chung đường biên
1(cid:2)#
- Ma trận trọng số tỷ lệ đường biên chung: gọi 0(cid:2)# là chiều dài đường biên chung của hai địa phương i và j, li là chiều dài đường biên của địa phương i, và mỗi phần tử
1(cid:2)
wij =∑k≠i lik của W có dạng công thức . wij =
- Ma trận trọng số không gian dựa trên khoảng cách: gọi d là khoảng cách ngưỡng, (cid:19) (cid:2)# là khoảng cách giữa hai địa phương i, j. Mỗi phần tử của W định bởi công thức . wij = { 1, 0 ≤ dii ≤ d0, d > dij
- Ma trận trọng số không gian dựa trên khoảng cách nghịch đảo. Mỗi phần tử W
định bởi công thức ωij = { nếu i ≠j 0 nếu i = j, với α =1 hoặc α = 2
- Ma trận trọng số không gian khoảng cách dựa trên hàm mũ công thức:
ωij = { exp (-α.dij) nu i≠j 0 nu i=j, với α =1 hoặc α = 2
Trong luận án, tác giả thực hiện xây dựng ma trận không gian theo khoảng cách,
cụ thể như sau:
Tác giả thực hiện xây dựng ma trận không gian dựa trên việc lấy các tỉnh là các
đơn vị không gian. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm phân tích ảnh hưởng không gian, tuy nhiên, việc xây dựng ma trận không gian dựa trên các đơn vị hành chính thường được sử dụng nhiều nhất. Trong chương này, tác giả lựa chọn tỉnh là đơn vị không gian với đơn vị hành chính tại trụ sở tỉnh.
Như vậy, có thể xác định ma trận trọng số bằng cách lấy một điểm trung tâm là đơn vị hành chính tại trụ sở tỉnh. Đối với điểm trung tâm dựa trên vị trí địa lý ở bản đồ ta xác định được kinh độ và vĩ độ của điểm trung tâm đó để có thể gán tọa độ cho các
điểm trung tâm đó. Sử dụng khoảng cách Euclidian trong không gian hai chiều theo công thức như sau:
T
(4.5)
d
s
s
,
=
=
−
−
ij
j
s i
j
s i
j
102
( d s s i
)
(
) (
)
Trong đó
js . Hai tỉnh i và j được gọi là lân cận
ijd là khoảng cách hai điểm is và
*
d
0
≤
<
nếu thỏa mãn một trong hai điều kiện sau: nếu
,
ijd
ijd là khoảng cách được
xác định theo công thứ ở trên,
d
d
min
,
i k ,
=
∀ Đặt
(
)
ij
ik
*d được gọi là điểm cắt tới hạn và nếu ( )N i là tập tất cả các tỉnh lân cận của tỉnh i. Khi đó ma trận
trọng số nhị phân là ma trận gồm các phần tử được xác định như sau:
∈
( ) neu j N i
w ij
truong hop khac
1 = 0
*
=
W
, khi đó
được gọi là ma trận trọng số
* w ij
η = ∑ , và w ij
j
* w ij
=
n n ×
w ij n
i
j
theo không gian dạng nhị phân đã chuẩn hóa theo hàng. Sử dụng phương pháp luận trên
Đặt
Tuy nhiên, để kiểm tra tính vững của mô hình trong việc lựa chọn dạng ma trận không gian phù hợp, luận án thực hiện xây dựng các dạng ma trận khác, với mục đích
xem có tồn tại sự khác biệt lớn trong kết quả phụ thuộc vào dạng ma trận hay không. Mô hình được gọi là vững nếu như không tồn tại sự khác biệt lớn trong kết quả phụ thuộc vào dạng ma trận lựa chọn, và ngược lại. Các dạng ma trận khác mà luận án xây dựng là: (i) Ma trận biên tiếp giáp. Đây là dạng ma trận được xây dựng dựa trên số
kilomet tiếp giáp giữa hai tỉnh, (ii) Ma trận khoảng cách tới 3 tỉnh trung tâm ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung, miền Nam lần lượt là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, và (iii) Ma trận tiếp giáp bậc nhất dựa trên tỷ lệ tiếp giáp. Cách xây dựng ma trận này
như sau: Ví dụ, nếu tỉnh/thành phố A tiếp giáp với 2 tỉnh thì đơn vị trong ma trận sẽ phải là ½, thay vì là 1 (giống như với trường hợp của ma trận tiếp giáp bậc nhất). Kết quả xây dựng các ma trận này (được trích dẫn trong Phụ lục) cho thấy kết quả từ việc lựa chọn dạng ma trận không khác nhau nhiều. Hay nói cách khác, tính vững của mô hình
đây, tác giả thực hiện xây dựng ma trận không gian cho 63 tỉnh ở Việt Nam.
được đảm bảo.
4.2. Nguồn dữ liệu, mô tả dữ liệu và các biến số được sử dụng trong mô hình ước lượng
4.2.1.1. Đặc trưng dữ liệu tỉnh
Liên quan tới quyết định về việc điều chỉnh địa giới hành chính của thủ đô Hà
4.2.1. Nguồn dữ liệu
103
Nội và các tỉnh, ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết
giới hành chính của tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài 4 xã đã ghép của tỉnh Hòa Bình, các xã còn lại vẫn thuộc địa giới hành chính của tình Hòa Bình, toàn bộ Hà Tây thuộc địa phận của Hà Nội, do đó, tổng số tỉnh, thành còn lại 63 tỉnh, thành phố. Để thống nhất về mặt dữ
liệu, các dữ liệu của huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và dữ liệu của 4 xã thuộc tỉnh Hòa Bình cho giai đoạn trước năm 2010 sẽ được tính là dữ liệu của Hà Nội.
4.2.1.2. Nguồn xác định dữ liệu
điều chỉnh địa giới hành chính và quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 1/08/2008. Theo đó toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc, và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội (4 xã này là Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình và Yên Trung). Do đó, trước năm 2010, Việt Nam có tất cả 64 tỉnh, thành phố (trong đó có 4 tỉnh thành phố độc lập là Hà Nội, Hà Tây, Hòa Bình (vẫn còn các xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình và Yên Trung, và Vĩnh Phúc (vẫn còn huyện Mê Linh)). Tuy nhiên, kể từ năm 2010, ngoài huyện Mê Linh, các tỉnh còn lại vẫn thuộc địa
Biến phụ thuộc:
liệu này là kết quả từ cuộc điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) qua các năm trong giai đoạn 2004- 2016. Dữ liệu thu nhập được lọc theo từng tỉnh và được tính theo phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự (2013). Trong giai đoạn này, cuộc
Để thực hiện ước lượng hồi quy mô hình với 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, giá trị của biến phụ thuộc được tính từ dữ liệu về thu nhập của các hộ gia đình Việt Nam. Đây là mức thu nhập bình quân của hộ từ tất cả các nguồn có phát sinh thu nhập. Dữ
trong giai đoạn nghiên cứu.
VHLSS điều tra trên hai bộ dữ liệu: bộ dữ liệu theo cấp hộ gia đình và bộ dữ liệu theo cấp phường/xã. Để phù hợp với mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của luận án, dữ
liệu được thu thập là bộ dữ liệu của hộ gia đình. Theo cách định nghĩa trong VHLSS, một cá nhân được gọi là thành viên của hộ là một cá nhân thỏa mãn điều kiện sau: Cá nhân đó phải sinh hoạt trong gia đình trong ít nhất 6 tháng của 12 tháng gần nhất trước khi tiến hành điều tra, và có đóng góp và phát sinh chi phí với các thành viên khác của
hộ. Điều này có nghĩa là, những cá nhân không sinh sống tại gia đình do lý do đi làm hoặc đi học xa thì không được coi là thành viên của hộ. Từ đó, VHLSS tính toán được
điều tra mức sống hộ gia đình được tiến hành hai năm một lần vào các năm chẵn, đó là các năm 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 và năm 2016. Các biến độc lập là các dữ liệu thứ cấp được lấy từ Niên Giám Thống kê của các tỉnh, từ số liệu của Bộ tài chính, các Sở tài chính các tỉnh, và dữ liệu từ Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
104
tổng thu nhập của hộ gia đình, sau đó chia cho số thành viên của hộ để được thu nhập
bình quân của hộ gia đình.
Bộ dữ liệu VHLSS được điều tra một cách phân tầng theo địa lý, với phạm vi nhỏ nhất là bộ dữ liệu của các xã. Để giảm thiểu chi phí, TCTK thực hiện các cuộc điều tra trong khoảng thời gian dài hoặc ngắn để thu thập được các bộ dữ liệu khác nhau, trong đó bộ dữ liệu dài sẽ bao gồm các thông tin đầy đủ về cả thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Trong luận án này, các số liệu tính chỉ số bao trùm đều được thực hiện dựa trên bộ dữ liệu của các hộ gia đình lấy từ các lần điều tra với khoảng thời gian dài với đầy đủ
thông tin về thu nhập và chi tiêu. Phân tầng cao hơn các hộ gia đình là các xã, các xã cấu thành nên các huyện, các huyện cấu thành nên các tỉnh, và các tỉnh cấu thành nên các vùng địa lý khác nhau. Cấu trúc địa lý của mẫu nghiên cứu tương đối thống nhất
trong suốt giai đoạn nghiên cứu. Có một vài thay đổi như: Các xã được sử dụng trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2008 dựa trên tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, nhưng dữ liệu từ sau năm 2010, có một số xã được bổ sung dựa trên tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Dữ liệu về thu nhập của các hộ gia đình được thực hiện nhất quán qua các năm. Khoảng thời gian tham chiếu để thu thập số liệu là 12 tháng cuối trước khi tiến hành điều tra, và các hoạt động phát sinh doanh thu hay thu nhập, cũng như chi phí được định nghĩa một cách nhất quán qua tất cả các cuộc điều tra. Thu nhập của các hộ gia đình được hình
thành từ sáu nguồn chính: thu nhập từ mùa vụ, thu nhập từ các nghề phụ trong nông nghiệp, thu nhập từ các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, thu nhập từ tiền công- tiền lương, thu nhập từ chuyển nhượng (thu nhập được chuyển nhượng từ các thành viên của gia đình
không cư trú tại gia đình ở địa phương) và các nguồn thu nhập khác.
Tổng thu nhập của hộ gia đình là tổng của sáu hạng mục trên, đo lường tất cả các thu nhập có thể quan sát được của hộ gia đình dành cho tiêu dùng và tiết kiệm. Để thu nhập có thể so sánh được giữa các khoảng thời gian khác nhau, nghiên cứu thực hiện
chuyển đổi các thu nhập danh nghĩa sang mức giá so sánh năm 2004. Giá trị của biến phụ thuộc: là chỉ số bao trùm về thu nhập (phản ánh qua chỉ số dịch chuyển xã hội) tính theo phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự
(2013)
Dữ liệu của các biến độc lập chủ yếu được lấy từ các nguồn như: Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê của các tỉnh/thành phố, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Bộ tài chính, Sở tài chính các tỉnh. Riêng biến giải thích là chỉ số bao trùm về giáo dục được tính toán từ dữ liệu trong cuộc Điều tra mức sống Hộ gia đình trong thời gian
Biến độc lập
105
nghiên cứu từ năm 2004 đến năm 2016. Thông tin cụ thể về các dữ liệu (bao gồm tên và
nguồn thu thập) được đưa ra trong bảng dưới đây
Bảng 4.1: Nguồn dữ liệu được sử dụng trong mô hình ước lượng
VHLSS
Thu nhập bình quân đầu người của hộ gia
Là tổng thu nhập của hộ gia đình được hình thành từ 6 nguồn chia cho số thành viên hộ
Định nghĩa dữ liệu Nguồn Tên dữ liệu
VHLSS
Là số năm đi học cao nhất của thành viên có số năm đi học cao nhất của hộ
Số năm đi học cao nhất của một thành viên trong hộ
Tổng trong
sản nước
phẩm của
Là giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên địa bàn tỉnh, thành đó trong một khoảng thời
Cục TK của các
gian nhất định.
tỉnh
tỉnh/thành theo giá thực tế năm 2010
TCTK
Dân số trung bình của tỉnh, thành
Là số lượng dân số tính bình quân cho một năm của tỉnh/thành phố đó
Vốn đầu tư của tỉnh,
Là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì
Cục TK
thành
các
của tỉnh
tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục
đình
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Là vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào tỉnh/thành phố đó bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
Cục TK của các tỉnh
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
TCTK
Là những người đủ 15 tuổi trở lên đã được đào tạo (có chứng chỉ, bằng từ sơ cấp nghề và tương đương trở lên), hiện đang làm việc trong các ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh/thành phố
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế đã qua đào tạo trên địa bàn tỉnh, thành phố
TCTK
Số lao động đang làm việc trong nền
Dân số có việc làm/đang làm việc trên địa bàn tỉnh, thành phố đó, bao gồm những người từ 15 tuổi trở
lên
kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố
đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động
106
TCTK
Số nhân lực ngành Y trực thuộc Sở Y tế
Là tổng số của tất cả bác sỹ, y sỹ, y tá và hộ sinh trên địa bàn tỉnh, thành phố
Chỉ số năng lực cạnh
Là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các
VCCI
tranh cấp tỉnh (PCI)
tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh.
Chỉ số này là chỉ số tổng hợp được tính trên cơ sở của 10 chỉ số thành phần, bao gồm: gia nhập thị trường, tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất, tính minh bạch, chi phí thời gian, chi phí
không chính thức, tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, cạnh tranh bình đẳng, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động, thiết chế pháp lý
Chi cân đối ngân sách địa phương
Gồm các khoản chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay mà không bao gồm chi trả nợ gốc tiền vay.
Bộ tài chính, Sở tài chính
các tỉnh
TCTK
Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Là chỉ tiêu phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá cả theo thời gian của các mặt hàng trong rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đại diện.
Nguồn: Tác giả
Định nghĩa dữ liệu Nguồn Tên dữ liệu
4.2.2.1. Các biến số
4.2.2. Các biến số được sử dụng trong mô hình
Bảng 4.2: Các biến được dùng trong mô hình ước lượng
Cách đo lường
Tên biến
Ký hiệu biến
Biến
Nhóm biến
Ảnh hưởng dự kiến đến biến phụ thuộc
ly
Biến phụ
Tăng trưởng bao trùm
Chỉ dịch số chuyển xã hội (phản ánh tăng
Phương pháp hàm dịch chuyển xã hội Lấy loga của chỉ số
107
Tên biến
Ký hiệu biến
Cách đo lường
Biến
Nhóm biến
Ảnh hưởng dự kiến đến biến phụ thuộc
thuộc
thu
dịch chuyển xã hội
Biến độc lập
về nhập Yếu tố vĩ mô
tố khủng
lcpi1 d2007, d2011
(-) (+,-)
trưởng bao trùm về thu nhập) Lạm phát Yếu hoảng
lgdppop2004
(+,-)
Phát triển kinh tế
Lấy loga của CPI Biến giả được xây dựng trước năm có khủng hoảng bằng 0, sau năm có khủng hoảng bằng 1. Cụ thể với hai năm 2004 và năm 2006, biến d2007=0, d2011=0.Năm 2008 và năm 2010 có d2007=1, d2011=0.Với các năm còn lại có d2007=1, và d2011=1 Lấy loga của GDP thực tế trên tổng dân số
Đầu tư
i_gdp
(+)
Vốn đầu tư trên GDP
GRDP thực tế bình quân đầu thời kỳ người đầu Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP
lfdi
(+,-)
Lấy loga của FDI
labor_tyle
(+)
Vốn nhân lực
Lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Tỷ lệ của lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động
108
Tên biến
Ký hiệu biến
Cách đo lường
Biến
Nhóm biến
Ảnh hưởng dự kiến đến biến phụ thuộc
(+)
ledu
Chỉ số bao trùm về giáo dục
Y tế
lyte2
(+)
Thể chế
lpci
(+)
Phương pháp hàm cơ hội xã hội Lấy loga của chỉ số bao trùm về giáo dục Lấy tổng số nhân lực y tế chia cho dân số Lấy loga của chỉ số PCI
lchins
(+,-)
Số nhân lực y tế bình quân đầu người Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chi ngân sách địa phương
Chính sách
Lấy loga của chi cân đối ngân sách
Nguồn: Tác giả
4.2.2.2. Kỳ vọng dấu của các biến
Dựa vào tổng quan các nghiên cứu về tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập cũng như các nghiên cứu phân tích tác động của các yếu tố tới biến phụ thuộc là tốc độ thay đổi của GDP bình quân đầu người hay bất bình đẳng về thu
nhập, luận án đưa ra kỳ vọng dấu của các biến độc lập.
Lý do của việc dựa vào những tổng quan này để hình thành kỳ vọng dấu của các biến đó là: tăng trưởng bao trùm về thu nhập là khái niệm tổng hòa của tăng trưởng thu
nhập bình quân và phân phối thu nhập. Phương pháp hàm dịch chuyển xã hội trong nghiên cứu của Anand và cộng sự (2013) khi nghiên cứu tác động của các yếu tố tới thay đổi của tăng trưởng bao trùm về thu nhập, cũng đã chỉ ra rằng tăng trưởng bao trùm về thu nhập có thể đạt được bằng 3 cách: (1) sự tăng lên của thu nhập bình quân trong khi phân phối thu nhập là không thay đổi, (2) sự cải thiện trong phân phối thu nhập (bình đẳng thu nhập hơn) nhưng thu nhập bình quân không thay đổi, (3) thay đổi đồng thời cả thu nhập bình quân và phân phối thu nhập. Do đó, tác động đến tăng trưởng bao trùm
về thu nhập là tác động tổng hòa của tăng trưởng thu nhập hay phân phối thu nhập mà có thể quan sát và giải thích được.
109
Luận án kỳ vọng dấu của các biến độc lập như sau: Nhóm biến yếu tố vĩ mô: Lạm phát: Có rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm đã phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng hay ảnh hưởng của các biến số vĩ mô tới bất bình đẳng về thu nhập, trong đó có yếu tố lạm phát. Có thể phân tích kết quả của một số nghiên cứu nổi bật để hình thành tác động kỳ vọng cho trường hợp của Việt Nam. Các nghiên cứu của Romer và Romer (1998), Albanesi (2001), Datt và Ravallion (1998), Ferreira và Litchfield (2000), Dolmas và cộng sự (2000), Erosa và Ventura (2002), Crowe (2004)
của Fisher và cộng sự (1978), hay của Easterly và Fischer (2000). Trong khi đó, Laidler và Parkin (1975) lại cho rằng cả nhóm giàu và nhóm nghèo đều chịu thiệt thòi khi có lạm phát, chỉ có tầng lớp trung lưu là nhóm chịu ảnh hưởng ít hơn cả. Ngoài ra, cũng có một số nghiên cứu không cho thấy có tác động của lạm phát tới bất bình đẳng về thu
nhập hay tác động này là ngược chiều. Nhóm này gồm có các nghiên cứu như của Ho Yin Hue và Shatin (2011), Maestri và Roventini (2012), Sun (2011), Coibion và cộng sự (2012), Heer và Maussner (2004), Bulir và Gulde (1995). Theo Ho Yin Hue và Shatin (2011), hai kênh mà lạm phát làm giảm bất bình đẳng thu nhập đó là: (i) lạm phát làm
chuyển giao thu nhập từ người cho vay nhận lãi suất danh nghĩa sang người đi vay trả lãi suất danh nghĩa, (ii) lạm phát làm tái phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội thông qua hệ thống thuế, vì thuế suất đánh trên thu nhập danh nghĩa. Nghiên cứu
của Galli và Van Der Hoeven (2001) cho thấy tác động của lạm phát có thể là thuận chiều hay ngược chiều còn tùy thuộc vào mức lạm phát ban đầu. Cụ thể, khi lạm phát ban đầu ở mức thấp, thì lạm phát tăng làm tăng bất bình đẳng nhưng tác động lại là ngược chiều khi lạm phát ban đầu ở mức cao. Nghiên cứu của Bulir (2001), Auda (2010), và đặc
biệt nghiên cứu của Narob (2015) với các nền kinh tế đang phát triển cũng đồng tình với quan điểm có mối quan hệ chữ U ngược của lạm phát tới bất bình đẳng về thu nhập.
Biến động GDP được thể hiện ở biến khủng hoảng: Tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập có thể được hiểu là tác động của chu kỳ kinh tế hay tác động của các biến động kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn tới tăng trưởng kinh tế hay bất bình đẳng về thu nhập. Kết quả từ những nghiên cứu này đi theo hai xu hướng: (i) có tác động không rõ ràng của khủng hoảng kinh tế hay tài chính tới bất bình đẳng thu
nhập, và (ii) có tác động và tác động này là cùng chiều (hay nói cách khác, là khi nền kinh tế chứng kiến suy thoái do khủng hoảng thì bất bình đẳng thu nhập sẽ tăng lên. Tuy nhiên, kết quả tác động của nhóm 2 vẫn chiếm xu thế hơn. Các nghiên cứu nổi bật trong
đều cho thấy lạm phát làm tăng bất bình đẳng thu nhập. Cách lý giải chung của những nghiên cứu này là lạm phát làm tăng thu nhập bằng tiền, dẫn tới tái phân phối thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, theo hướng có lợi cho người giàu. Đây cũng là quan điểm
110
nhóm này có Parker (1998), Castaneda và cộng sự (1998); Hoover, Giedeman và
Dibooglu (2009); Meyer và Sullivan (2011). Hầu hết các tác giả đều đồng tình rằng suy thoái kinh tế gây ra bởi khủng hoảng có tác động nhiều hơn tới nhóm lao động ít kỹ năng so với nhóm lao động nhiều kỹ năng, và do đó, gia tăng bất bình đẳng thu nhập. Tuy nhiên, Parker (1998) cho rằng khủng hoảng tác động tới số lượng việc làm nhiều hơn là tác động tới bản thân tiền lương. Tác giả nhận thấy số lượng các công việc ít kỹ năng thường là cao hơn so với số lượng các công việc đòi hỏi nhiều kỹ năng, do đó, suy thoái kinh tế sẽ làm giảm số lượng công việc ít kỹ năng, và kết quả là bất bình đẳng thu
nhập lại giảm. Với trường hợp của Việt Nam, luận án kỳ vọng có tác động dương của yếu tố khủng hoảng tới bất bình đẳng thu nhập. Nhóm biến về phát triển kinh tế: GRDP thực tế bình quân đầu người thời kỳ đầu: Trong mô hình, GRDP thực tế bình quân đầu người lấy thời kỳ đầu (ở đây là GRDP thực tế bình quân đầu người năm 2004 theo giá so sánh năm 2010 của các tỉnh, thành phố của Việt Nam). Dựa theo lý thuyết của Kuznets (1955) về dạng hình chữ U ngược về mối quan hệ giữa thu nhập
bình quân và bất bình đẳng. Theo đó, ở mức thu nhập thấp, mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu này là cùng chiều. Tuy nhiên, khi thu nhập bình quân đầu người vượt quá một ngưỡng nhất định, bất bình đẳng thu nhập sẽ giảm khi thu nhập tăng (1). Ngoài ra, những tỉnh có xuất phát điểm (GRDP bình quân đầu người năm 2004) thấp hơn lại được cho
rằng sẽ dễ dàng tăng trưởng nhanh hơn do quy luật lợi tức cận biên giảm dần đối với hoạt động đầu tư vào máy móc (2). Vì những giải thích này, không có cơ sở để cho thấy chiều tác động của GRDP bình quân đầu người tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập
Nhóm biến đầu tư: Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP: Các lý thuyết kinh tế từ trước tới đến nay đều ủng hộ tác động tích cực của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế của các nước, đặc biệt là với các nền kinh tế đang phát triển. Trong nhóm các lý thuyết kinh tế, có các lý thuyết kinh tế của
Harrod (1939, 1948), Domar (1946) hay Solow (1956) đều nhấn mạnh đến vai trò này. Sau đó, một số các nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng cũng đã kiểm nghiệm vai trò của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia. Một số nghiên cứu nổi bật như: Barro
(1991), Levine và Renelt (1992), Ahortor và Adenutsi (2009). Dựa vào các lý thuyết và kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm (cũng đã được thảo luận trong phần tổng quan nghiên cứu), luận án kỳ vọng tác động dương của biến này tới tính bao trùm về thu nhập. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Giống như tác động của vốn đầu tư, FDI được kỳ vọng mang lại nhiều việc làm hơn cho lực lượng lao động của tỉnh. Điều này có thể làm tăng thu nhập bình quân nhưng lại làm giãn rộng khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân số. Gần như không có nghi ngờ về tác động của FDI tới tăng trưởng thu nhập bình
111
quân, nhưng tác động của nó đến bất bình đẳng về thu nhập thì còn gây nhiều tranh cãi.
Các nghiên cứu của Hanson (2003), Taylor và Driffield (2005), Goldin và Katz (2008) và một số tác giả khác thì cho thấy FDI làm tăng bất bình đẳng thu nhập. Nhưng trái lại, các nghiên cứu như của Herzer và Nunnenkamp (2011) hay Chintrakarn và cộng sự (2011), Feenstra và Hanson (1997)...lại chỉ cho thấy tác động tiêu cực đến phân phối thu nhập trong ngắn hạn, còn trong dài hạn do tác động của dịch chuyển công nghệ và lao động, cơ hội việc làm và do đó thu nhập tại các địa phương ban đầu thiệt thòi hơn sẽ được cải thiện, từ đó làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Một số kênh mà qua đó FDI có
thể có tác động tới bất bình đẳng thu nhập: (i) tạo ra chênh lệch trong thu nhập của người lao động trong khu vực FDI so với lao động làm việc trong các khu vực khác, (ii) chênh lệch năng suất lao động giữa khu vực FDI và khu vực bên ngoài do các doanh nghiệp
FDI được tiếp cận với công nghệ và kỹ thuật hiện đại hơn, (iii) tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương do FDI thường tập trung vào một số ngành nghề mang lại lợi nhuận cao hoặc/và một số ngành nhận được ưu đãi về tài chính từ chính phủ, và (iv) cải thiện ngân sách địa phương nơi có nhiều doanh nghiệp FDI tồn tại, và nguồn ngân
sách này có thể được dùng để tái phân phối thu nhập, đầu tư nhiều hơn để phát triển cơ sở hạ tầng cũng như phúc lợi cho người dân địa phương đó. Các kênh này, đến lượt nó sẽ tác động đến chênh lệch thu nhập giữa các nhóm lao động làm việc trong các ngành nghề khác nhau. Do tác động nhiều chiều của FDI tới bất bình đẳng về thu nhập, do đó,
tác động của nó tới tăng trưởng bao trùm là không thực sự rõ ràng.
Nhóm biến vốn nhân lực: Trong số các lý thuyết kinh tế, mô hình tăng trưởng nội sinh đặc biệt nhấn mạnh
đến vai trò của nguồn vốn con người tới tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Kết quả này đã được ủng hộ bởi rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm. Tuy nhiên, trong khi không có tranh cãi về tác động của vốn nhân lực tới tăng trưởng kinh tế, thì tác động của nó tới bất bình đẳng trong thu nhập lại được quan tâm nhiều hơn. Những nghiên cứu
trong xã hội. Các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa bất bình đẳng giáo dục (đo lường bởi phương sai của số năm đi học) và bất bình đẳng thu nhập. Knight và Sabot (1983) cho thấy giáo dục có hai tác động bù trừ nhau đến phân phối thu nhập, do đó tổng ảnh hưởng là không rõ ràng. Cụ thể hai kênh mà tác giả cho rằng giáo dục có
tác động đến bất bình đẳng thu nhập là (i) tác động tổng hợp (the composition effect), theo đó bất bình đẳng trong tiền lương ban đầu sẽ tăng khi tăng tỷ lệ của lao động có kỹ năng, và (ii) tác động “nén” tiền lương (the wage compression effect), theo đó khi cung
đầu tiên nói tới tác động của trình độ và phân phối của giáo dục trong dân số tới bất bình đẳng thu nhập là Becker và Chiswick (1996), Mincer (1974). Trong các nghiên cứu này, mô hình dự đoán cung và cầu của lao động có kỹ năng tác động tới phân phối thu nhập
112
của lao động có kỹ năng vượt hơn cầu của lao động có kỹ năng thông qua đào tạo, cuối
cùng tiền lương cân bằng trên thị trường lao động có kỹ năng cuối cùng sẽ giảm, và do đó bất bình đẳng trong lương sẽ giảm. Nghiên cứu của Jong Lee và Hanol Lee (2018) với các nước trong khu vực Đông Á trong giai đoạn 1980-2015 phân tích tác động của giáo dục thể hiện bằng số năm hoàn thành các bậc học tới phân phối thu nhập. Kết quả cho thấy việc mở rộng giáo dục là nhân tố làm giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua làm giảm bất bình đẳng về giáo dục. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh vốn nhân lực đo lường bằng số năm hoàn thành các cấp học là một nhân tố quan trọng tác động tới mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập bởi vì nó tác động đến phần lớn thu nhập của cả vòng đời của người lao động. Các nghiên cứu của Ram (1984), Park (1997), Checchi (2001), De Gregorio và Lee (2002), Jaumotte và cộng sự (2013) đều thống nhất quan điểm là số năm
án, có 3 biến đại diện cho vốn nhân lực, đó là: (i) Tỷ lệ của lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động (thể hiện trình độ đào tạo), (ii) Chỉ số bao trùm về giáo dục (thể hiện trình độ giáo dục), và (iii) số nhân lực y tế bình quân đầu người (Y tế)
Tỷ lệ của lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động: Các lý thuyết tăng trưởng nội sinh cho thấy vai trò quan trọng của vốn nhân lực đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Trình độ của lao động chính là yếu tố phản ánh vốn nhân lực trong lực lượng lao động. Do đó, việc tăng số lượng lao động được đào tạo trong tổng số lao động đang
làm việc trên địa bàn của một địa phương được kỳ vọng là có tác động thúc đẩy năng suất lao động, từ đó cải thiện thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn tỉnh. Yếu tố này được cho là tác động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập thông qua tác động làm tăng thu nhập bình quân mà không phải là tác động đến phân phối thu nhập.
Chỉ số bao trùm về giáo dục: Mức độ bao trùm về giáo dục được thể hiện trong luận án được tính toán dựa vào số năm đi học cao nhất của một thành viên trong hộ gia đình. Chỉ số này đồng thời phản ánh tính bao phủ cũng như tính bình đẳng về cơ hội tiếp
cận giáo dục của các hộ gia đình Việt Nam. Trong khi số năm đi học cao nhất của một thành viên trong hộ càng lớn được kỳ vọng là sẽ tạo ra thu nhập đầu người lớn cho hộ gia đình đó, thì mức độ bình đẳng về giáo dục cũng được kỳ vọng là có tác động dương tới mức độ bình đẳng trong giáo dục. Do đó, tác động tổng hợp của biến này được kỳ vọng là dương
tới tính bao trùm về thu nhập.
Nhân lực y tế bình quân đầu người: Y tế và sức khỏe là một trong các yếu tố then chốt đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho người dân
đi học trung bình tăng làm giảm bất bình đẳng về thu nhập. Riêng nghiên cứu của Jaumotte và cộng sự (2013) còn cho thấy phân phối thu nhập sẽ bất bình đẳng hơn khi tỷ lệ dân số học các bậc học cao tăng lên (học phổ thông hay cao đẳng trở lên). Tuy nhiên, Foldvari và Leeuwen (2011) lại cho rằng giáo dục không tác động đến phân phối thu nhập. Trong luận
113
của một quốc gia (Piabuo và Tieguhong, 2017). Cùng với giáo dục, đây là hai thành tố
quan trọng thể hiện vốn nhân lực của con người. Trong các nghiên cứu, chất lượng và khả năng tiếp cận y tế có thể được đại diện bởi một số tiêu chí, có các nghiên cứu sử dụng tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, của trẻ em dưới 5 tuổi, tuổi thọ của người lớn hay mức chi tiêu công cho y tế. Tuy nhiên, trong luận án này, do hạn chế về mặt số liệu, tác giả lựa chọn biến nhân lực ngành y trực thuộc sở y tế của các địa phương đại diện cho khả năng tiếp cận y tế của người dân địa phương đó (cụ thể luận án sử dụng chỉ tiêu nhân lực y tế chia cho dân số trung bình của địa phương để có được chỉ tiêu nhân lực y
tế tính bình quân trên một đầu người). Hầu hết các nghiên cứu với biến đại diện cho y tế là tuổi thọ trung bình thì đều thống nhất rằng tuổi thọ trung bình tăng sẽ tác động dương tới tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu nổi bật có Bloom và cộng sự (2001,
2004); Amiri và Gerdtham (2013); Huang và cộng sự (2010), và một số các nghiên cứu khác. Tuy nhiên, có nghiên cứu của Acemoglu và cộng sự (2007) không khẳng định điều này, khi ông cho rằng tuổi thọ tăng làm cho dân số tăng, và làm giảm số vốn bình quân tính cho một lao động, do đó làm giảm thu nhập bình quân đầu người, tác động
tiêu cực đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Luận án kỳ vọng số nhân lực y tế tính bình quân đầu người tăng sẽ cải thiện được chất lượng vốn nhân lực, và từ đó cải thiện được thu nhập bình quân đầu người.
Nhóm biến thể chế: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI: Chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh của tỉnh được kỳ vọng là có vai trò rất lớn trong việc phát triển kinh tế của tỉnh, thành phố, đặc biệt là với khu vực doanh nghiệp dân doanh. Về
mặt bản chất, đây là chỉ số phản ánh chất lượng điều hành, đánh giá các lĩnh vực điều hành kinh tế thuộc thẩm quyền của chính quyền của một tỉnh, thành phố ở nước ta. Triết lý của nó là đánh giá hiệu quả điều hành của chính quyền địa phương, phụ thuộc vào tư duy của đội ngũ chính quyền, chứ không phụ thuộc vào điều kiện địa lý hay các điều
kiện tự nhiên khác của địa phương. Sự khác nhau về chỉ số PCI tổng hợp cũng như các chỉ số cấu thành lý giải vì sao một số tỉnh, thành vượt lên các tỉnh, thành khác về phát triển kinh tế tư nhân, tạo việc làm cho người lao động và phát triển kinh tế. Chỉ số PCI
càng cao chứng tỏ đánh giá của của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân đối với hệ thống quản trị điều hành và môi trường kinh doanh của địa phương đó là càng tốt và ngược lại. Do đó, biến số này được kỳ vọng là có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của địa phương, qua đó cải thiện tính bao trùm về thu nhập thông qua cải thiện thu nhập của
người lao động ở địa phương đó.
Nhóm biến ngân sách địa phương: Trên thế giới có ba mô hình rất nổi tiếng về mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ
114
với tăng trưởng kinh tế. Đó là các mô hình của Barro (1990), của Devarajan, Swaroop
và Zou (1996); Davoodi và Zou (1998). Tác động của mức độ phân cấp tài khóa đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển cũng đã được xem xét trong một số các nghiên cứu. Ở đây sẽ trình bày kết quả của một số nghiên cứu điển hình trong nhóm này. Nghiên cứu của Zhang và Zou (1997) và nghiên cứu của Lin và Liu (2000) đều cho rằng phân cấp tài khóa có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Ấn Độ và Trung Quốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Davoodi, Xie, Zhou (1995) được thực hiện với Mỹ và nghiên cứu của Davoodi và Zhou (1998) với mẫu gồm nhiều nước thì lại cho
thấy kết quả ngược lại. Tại Việt Nam, những nghiên cứu đã làm về tác động của ngân sách nói chung hay chi ngân sách nói riêng tới tăng trưởng kinh tế các địa phương không thực sự nhiều. Trong khi đó, tác động của chi ngân sách hay của các cấu phần của nó có
thể sẽ có những tác động không giống nhau tới thu nhập và phân phối thu nhập. Chi ngân sách thường được xem xét bao gồm có chi cho đầu tư, chi thường xuyên và các khoản chuyển giao khác. Có một số nghiên cứu nổi bật đã làm với trường hợp của Việt Nam. Nghiên cứu của Mai Đình Lâm (2017) đã phân tích tác động của phân cấp tài khóa
cứu khác của Nguyễn Thanh Hùng (2016) cũng bàn về tác động của phân cấp tài khóa tới bất bình đẳng thu nhập giữa các tỉnh thành của Việt Nam giai đoạn 2000-2015. Nghiên cứu cho thấy ở giai đoạn đầu, phân cấp tài khóa làm gia tăng bất bình đẳng thu
nhập nhưng sự gia tăng này không duy trì liên tục. Đến một mức độ nhất định, thì việc tiếp tục gia tăng phân cấp tài khóa sẽ làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Minh (2008) sử dụng số liệu cho 34 tỉnh, thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2005 xem xét tác động của chi đầu tư và chi thường xuyên. Nghiên cứu đã
chỉ ra tính phi hiệu quả trong cả hai thành phần của chi tiêu công hàng năm. Cũng với mục đích phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế trên phạm vi 61 tỉnh, thành phố, nhưng nghiên cứu của Phạm Thế Anh (2008b) đã phân tích
sâu hơn khi nghiên cứu mối quan hệ này trong các ngành khác nhau. Cụ thể, nghiên cứu cho thấy chi đầu tư có hiệu ứng tích cực hơn so với chi thường xuyên trong một số ngành, và kết quả ngược lại trong một số ngành khác. Trong một phân tích khác được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, kết quả
cho thấy cần thúc đẩy nguồn chi cho đầu tư cấp huyện trong khi cần giảm thiểu chi cho đầu tư cấp tỉnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương. Từ nhiều kết quả của các nghiên cứu về chi ngân sách địa phương cũng như tác động của các cấu phần chi
đến tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố của Việt Nam trong giai đoạn 2005- 2016. Trong đó, phân cấp tài khóa được đại diện bởi tỷ lệ chi tiêu của chính quyền địa phương với chi tiêu của trung ương. Kết quả cho thấy các cấu phần của biến phân cấp (chi đầu tư và chi thường xuyên) có hiệu ứng dương tới tăng trưởng kinh tế. Một nghiên
115
khác nhau, luận án không hình thành kỳ vọng dấu rõ ràng với tác động của biến chi ngân
sách địa phương đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập, trên cơ sở không rõ tác động và độ lớn của tác động tới bất bình đẳng thu nhập trong khi tác động tới tăng trưởng thu nhập bình quân là rõ ràng hơn.
4.3. Kết quả mô hình
4.3.1. Thống kê mô tả các biến số và ma trận tương quan giữa các biến số
Tên biến số
Số quan sát
Giá trị trung
Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến số đã lấy lôga
Giá trị tối thiểu
Giá trị tối đa
bình
ly
overall
1.288561
0.3903
0.2504
2.4842 N = 441
0.3046
0.5832
2.2016 n = 63
between
0.2465
0.7725
1.8319 T = 7
within
lgdppop2004
overall
2.84303
0.5710
1.4734
5.5423 N = 441
0.5219
1.9406
5.3816 n = 63
between
0.2395
2.1880
3.4325 T = 7
within
i_gdp
overall
0.370284
0.1191
0.1126
0.8209 N = 441
0.1051
0.1483
0.6384 n = 63
between
0.0574
0.2094
0.5770 T = 7
within
lcpi1
overall
0.036938
0.4065
-0.4277
0.7977 N = 441
0.0226
-0.0881
0.0817 n = 63
between
0.4059
-0.4292
0.7834 T = 7
within
lfdi
overall
5.77648
2.7858
-0.5175
10.9410 N = 441
2.2613
0.7379
10.3316 n = 63
between
1.6484
-0.7948
10.1925 T = 7
within
lpci
overall
3.450786
1.4141
0.0000
4.3338 N = 441
0.0672
3.3014
3.6315 n = 63
between
1.4125
-0.1807
4.1978 T = 7
within
Độ lệch chuẩn
116
lchins
overall
15.27184
0.8100
11.5499
18.0975 N = 441
0.4754
14.6091
17.2398 n = 63
between
0.6582
11.8211
16.5963 T = 7
within
ledu
overall
2.107988
0.1284
1.5403
2.3322 N = 441
0.1159
1.7795
2.2947 n = 63
between
0.0571
1.8688
2.4228 T = 7
within
labor_tyle
overall
0.140118
0.0664
0.0240
0.4332 N = 441
0.0579
0.0616
0.3460 n = 63
between
0.0332
0.0170
0.2710 T = 7
within
lyte2
overall
2.072693
0.6872
0.8454
5.3841 N = 441
0.5736
1.0358
3.8756 n = 63
between
0.3844
0.5385
3.5827 T = 7
within
Nguồn: Stata
117
ly
lgdppop2004
i_gdp
lcpi
lfdi
lpci
lchins
ledu
labor_tyle
lyte2
ly
1
lgdppop2004
0.78
1
i_gdp
-0.38
-0.37
1
lcpi1
-0.56
-0.38
0.28
1
lfdi
0.60
0.62
-0.01
-0.25
1
lpci
0.38
0.30
-0.21
-0.70
0.37
1
lchins
0.46
0.36
-0.08
-0.44
0.30 0.20
1
ledu
0.40
0.40
0.07
-0.14
0.52 0.13
0.29
1
0.55
labor_tyle
0.55
0.09
-0.33
0.46 0.20
0.50
0.58
1
lyte2
-0.16
-0.14
0.30
-0.42
-0.23 0.23
0.19
-0.01
0.18
1
Nguồn: Tác giả tính toán
(Các bảng thể hiện mô tả ma trận không gian, ma trận không gian liên kết với các biến trong mô hình, ma trận biên tiếp giáp, ma trận khoảng cách tới 3 tỉnh trung tâm,
ma trận tiếp giáp bậc nhất, ma trận tiếp giáp bậc nhất dựa trên tỷ lệ tiếp giáp và ma trận không gian tọa độ được trích dẫn trong Phụ lục)
Bảng 4.4: Kết quả ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình
4.3.2.1. Kết quả kiểm định mô hình cố định và ngẫu nhiên
4.3.2. Uớc lượng mô hình ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên
(1)
(2)
VARIABLES
FE
RE
lgdppop2004
0.29***
0.32***
(0.07)
(0.04)
i_gdp
0.48***
0.11
(0.14)
(0.12)
lcpi1
-0.35***
-0.35***
(0.04)
(0.03)
lfdi
-0.01**
-0.00
Bảng 4.5: Kết quả ước lượng mô hình theo ảnh hưởng cố định và ngẫu nhiên
118
(0.01)
(0.01)
lpci
-0.00
0.17**
(0.08)
(0.08)
lchins
0.06***
0.06***
(0.01)
(0.01)
ledu
0.32***
0.25***
(0.10)
(0.09)
labor_tyle
1.36***
0.99***
(0.24)
(0.22)
lyte2
-0.05**
-0.10***
(0.02)
(0.02)
Constant
-1.32***
-1.71***
(0.40)
(0.37)
365
365
Observations
0.85
R-squared
63
63
Number of mun
Hausman test1
Prob>chi2 = 0.0000
Standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Bảng trên trình bày kết quả ước lượng của các biến số tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập bằng hai phương pháp ảnh hưởng cố định (cột 1) và ảnh hưởng ngẫu nhiên (cột 2). Tác giả thực hiện kiểm định Hausman (1) để kiểm định lựa chọn mô hình, kết quả kiểm định cho thấy với Prob>chi2 = 0.0000 <0.05, do đó mô hình ảnh hưởng cố
định được lựa chọn để mô tả tác động của các biến số tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập.
Thứ nhất, đối với GDP bình quân đầu người thời kỳ đầu (gdppop2004) có dấu dương và có ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy GRDP bình quân đầu người thời kỳ
1 Chi tiết kết quả kiểm định Hausman trong Phụ lục
Kết quả ước lượng cụ thể như sau:
119
vọng dấu dựa theo gỉa thuyết Kuznets. Tuy nhiên, nguyên nhân được giải thích là do tăng trưởng bao trùm về thu nhập đạt được không phải là do giảm bất bình đẳng mà xuất phát từ sự tăng lên trong thu nhập bình quân. Có thể các tỉnh/thành phố có GRDP bình quân đầu người cao có cơ sở hạ tầng tốt hơn nên có thể dễ dàng thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài nước nên tiếp tục có tăng trưởng cao hơn.
Thứ hai, hệ số của biến số vốn đầu tư trên GRDP chỉ có ý nghĩa thống kê ở mô hình ảnh hưởng cố định và không có ý nghĩa thống kê trong mô hình ảnh hưởng ngẫu
nhiên. Tuy nhiên, trong trường hợp ảnh hưởng cố định cho thấy được tác động tích cực của vốn đầu tư trên GDP đối với tính bao trùm của thu nhập. Tác động này phù hợp với kỳ vọng ban đầu. Thực tế từ tình hình tăng trưởng của các địa phương ở Việt Nam cũng
cho thấy, những tỉnh, thành phố nào thu hút được một lượng lớn đầu tư tính trên GRDP thì tỉnh/thành phố đó có khả năng tăng trưởng nhanh hơn (Những tỉnh này có môi trường đầu tư thuận lợi hơn, và có những ngành nghề có thể dễ dàng trong việc thu hút đầu tư hơn như có du lịch, cảng biển, có những ngành nghề mũi nhọn. Thu hút đầu tư cũng là giải pháp để mang lại việc làm cho người lao động, từ đó cải thiện thu nhập của họ.
Thứ ba, trường hợp của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng tương tự như vốn đầu tư trên GDP khi chỉ có ý nghĩa thống kê trong mô hình ảnh hưởng cố định. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì hệ số của biến số FDI là âm, hay sự gia tăng FDI làm
giảm tính bao trùm về thu nhập tại các tỉnh. Điều này có thể được giải thích là do, FDI làm tăng thu nhập bình quân nhưng không nhất thiết cải thiện được tính bình đẳng trong phân phối thu nhập. Thực tế cho thấy, không phải tất cả các ngành nghề, lĩnh vực nào
trên địa bàn một tỉnh/thành phố cũng đều được nhận FDI và không phải là trong một lĩnh vực nhận được FDI thì thu nhập của tất cả lao động đều được cải thiện.
Thứ tư, hệ số của biến số lạm phát là âm và có ý nghĩa thống kê, đúng với kỳ vọng dấu mà tác giả đã đặt ra trước đó. Cụ thể, trong giai đoạn nghiên cứu 2004-2016, tác động của lạm phát sẽ làm giảm tính bao trùm về thu nhập.
Thứ năm, hệ số của biến số chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh dương và có ý nghĩa thống kê trong mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên và không có ý nghĩa thống kê trong mô
hình ảnh hưởng cố định. Như vậy, có thể thấy nếu một tỉnh có năng lực quản trị điều hành, thể chế và môi trường đầu tư tốt thì tỉnh đó sẽ cải thiện được tính bao trùm về thu nhập. Kết quả này rất phù hợp với các nghiên cứu ở Việt Nam, và đúng với kỳ vọng ban đầu.
đầu có tác động tích cực tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập. Kết quả này trái với kỳ
120
Thứ sáu, hệ số của biến số chi ngân sách là dương và có ý nghĩa thống kê, như vậy có thể thấy được chi ngân sách tại địa phương có thể làm tăng tính bao trùm về thu nhập.
Thứ bảy, các biến số nhóm biến nguồn nhân lực như chỉ số bao trùm về giáo dục và tỷ lệ của lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động lực đều dương và có ý nghĩa thống kê. Theo đó, các chỉ tiêu liên quan đến nguồn nhân lực đều có tác động tích cực tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập. Kết quả này rất phù hợp với kỳ vọng ban đầu và phù hợp với các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế từ trước đến nay, đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng nội sinh, đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của nguồn vốn nhân lực.
Thứ tám, hệ số của biến số nhân lực y tế bình quân đầu người là âm và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này hàm ý rằng sự gia tăng của biến số này có thể có tác động tiêu cực tới tính bao trùm của thu nhập. Điều này có thể được giải thích rằng tuy số lượng
nhân lực y tế có tăng lên ở các địa phương, nhưng số lượng này không được phân bổ một cách công bằng trong dân số, gây ra tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận.
4.3.2.2. Các kiếm định trong mô hình ước lượng ảnh hưởng cố định và ngẫu nhiên
Sử dụng kiểm định Wald, luận án thực hiện kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình. Kết quả kiểm định cho thấy thống kê Prob>chi2=0.000<0.05, do đó bác bỏ giả thiết H0. Nghĩa là có tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình ảnh hưởng cố định (Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi được trích dẫn trong Phụ lục)
Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Luận án thực hiện kiểm định đa cộng tuyến bằng cách sử dụng hệ số phóng đại phương sai (variance inflation factor -VIF), là chỉ số đo lường phương sai của các hệ số ước lượng trong mô hình tăng như thế nào bởi hiện tượng cộng tuyến (Kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến được trích dẫn trong Phụ lục)
Kết quả kiểm định đa cộng tuyến cho thấy các hệ số phóng đại phương sai đều nhỏ hơn 10, do đó, có thể chấp nhận được là không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình.
Kiểm định đa cộng tuyến
Kết quả kiểm định cho thấy Prob>F =0.000 <0.05, do vậy bác bỏ giả thiết H0 là hệ số của biến số thời gian bằng 0 trong mô hình, do vậy mô hình có bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời gian (Kết quả này được trích dẫn trong Phụ lục)
Kiểm định ảnh hưởng cố định theo thời gian
121
Phương pháp ước lượng ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên tuy thường được sử dụng nhưng không thể hiện được tác động về mặt không gian giữa các biến số. Do vậy, trong phần này tác giả thực hiện ước lượng các mô hình kinh tế lượng không gian để phân tích tác động không gian giữa các biến số trong mô hình theo mô hình (4.2) đã được xây dựng ở trên. Theo LeSage and Pace (2009) và Elhorst (2010) khi xây dựng mô hình kinh tế lượng không gian, mô hình SDM (Spatial Durbin Model) được lựa chọn là mô hình bắt đầu, giống như việc chỉ định mô hình SDM là mô hình dạng tổng quát.
Tuy nhiên, sau đó luận án cần phải thực hiện các kiểm định giữa các mô hình để lựa chọn được mô hình phù hợp.
4.3.3. Ước lượng mô hình không gian
Bước 3.1: Kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình tác động cố định hay tác động ngẫu nhiên Bước 3.2: Kiểm định lựa chọn dạng mô hình không gian: Ngoài việc kiểm định sự phụ thuộc không gian của biến phụ thuộc, trong phần này luận án sử dụng các tiêu chí để kiểm định việc lựa chọn mô hình nào phù hợp nhất trong các mô hình kinh tế
lượng không gian như SDM (Spatial Durbin Model – Mô hình Durbin không gian), SAR (Spatial Autoregressive Regression – Mô hình trễ không gian ), SEM (Spatial Error Model – Mô hình sai số không gian), SAC (Spatial Autoregressive Model with Auto
Regressive disturbances – Mô hình tự hồi quy trễ không gian) và GSPRE (Generalised Spatial Panel Random Effects Model – Mô hình tác động ngẫu nhiên không gian bảng dạng tổng quát) .
4. Ước lượng mô hình không gian đã chọn
Các bước thực hiện như sau: 1. Xây dựng ma trận không gian dựa trên phần mềm Geoda2 2. Ước lượng mô hình SDM 3. Kiểm định lựa chọn mô hình
- Ước lượng không có ảnh hưởng theo LeSage và Pace (2009). - Có ảnh hưởng theo LeSage và Pace (2009). 4.3.3.1. Các kiểm định cho ước lượng mô hình không gian Kiểm định Hausman cho mô hình Durbin không gian Tác giả thực hiện ước lượng mô hình Durbin không gian theo dạng ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên và thực hiện kiểm định Hausman cho hai mô hình này.
Kết quả kiểm định Hausman cho thấy giá trị Prob>chi2=0.0015. Do vậy, mô hình ảnh
2 https://geodacenter.github.io/
122
hưởng cố định được lựa chọn trong trường hợp này (kết quả kiểm định được trích dẫn
trong phần Phụ lục)
Kiểm định lựa chọn mô hình Kiểm định sự phụ thuộc không gian của biến phụ thuộc
Kết quả cho thấy giá trị chi2(1) = 31,10 và Prob>chi2=0.0000<0.05, do đó bác bỏ giả thiết H0 là không có sự phụ thuộc không gian của biến phụ thuộc. Do vậy, mô hình có độ trễ không gian của biến phụ thuộc (kết quả kiểm định được trích dẫn trong phần Phụ lục) Kiểm định lựa chọn mô hình SAR và SDM
Kết quả kiểm định lựa chọn mô hình SAR và SDM cho thấy giá trị chi2(10) =58,33 và Prob > chi2=0.0000<0.01, do vậy bác bỏ giả thiết H0 là lựa chọn mô hình SAR. Do đó, mô hình SDM được lựa chọn (kết quả kiểm định được trích dẫn trong phần Phụ lục)
Tương tự như kết quả kiểm định ở trên, kết quả kiểm định lựa chọn mô hình SEM và SDM cho thấy giá trị của chi2(10)=87,82 và Prob>chi2=0.0000<0.01, do đó bác bỏ giả thiết H0 là lựa chọn mô hình SEM. Do vậy, mô hình SDM được lựa chọn để phân
tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập (kết quả kiểm định được trích dẫn trong phụ lục)
Kiểm định lựa chọn mô hình SEM và SDM
Kiểm định lựa chọn mô hình SAC, GSPRE và SDM Kiểm định giữa mô hình SAC, GSPRE và mô hình SDM dựa trên thống kê BIC
và AIC (Federico Belotti và các cộng cụ, 2016). Theo đó, nếu mô hình nào có giá trị BIC và AIC nhỏ hơn sẽ được lựa chọn là mô hình chuẩn hơn [Akaike (1974); Raftery (1995); Sakamoto, Ishiguro, and Kitagawa (1986); and Schwarz (1978)]. Bảng 4.6: Kết quả BIC và AIC của các mô hình như sau
Mô hình SDM Mô hình SAC Mô hình GSPRE
28.1671
109.9480
12.1671
61.2356
16.1671
73.4137
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng trên trình bày kết quả thống kê và AIC và BIC của ba mô hình SDM, SAC và GSPRE, kết quả cho thấy mô hình SAC có giá trị AIC và BIC là nhỏ nhất. Do vậy, mô hình SAC là môt hình được đánh giá là tốt hơn hai mô hình còn lại và được lựa chọn
là mô hình để sử dụng trong phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao trùm theo thu nhập. 4.3.3.2. Kết quả ước lượng mô hình kinh tế lượng không gian SAC
Dựa vào việc thực hiện các kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp, cuối cùng
AIC BIC AIC BIC AIC BIC
123
mô hình không gian SAC được chọn vì nó phù hợp nhất. Dưới đây là kết quả ước lượng của mô hình SAC
VARIABLES lgdppop2004 i_gdp lcpi1 lfdi lpci lchins ledu labor_tyle lyte2 rho lambda sigma2_e Observations R-squared Number of mun
SAC 0.09** (0.04) 0.19*** (0.07) -0.10*** (0.03) -0.00 (0.00) -0.00 (0.00) 0.02*** (0.01) 0.23*** (0.06) 0.63*** (0.13) -0.05*** (0.01) 0.70*** (0.04) -0.60*** (0.09) 0.01*** (0.00) 441 0.64 63
Standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4.7: Kết quả ước lượng mô hình kinh tế lượng không gian SAC
124
Bảng trên trình bày kết quả ước lượng của mô hình kinh tế lượng không gian SAC
khi không tính tới ảnh hưởng theo LeSage và Pace (2009) dưới dạng mô hình ảnh hưởng cố định đặc trưng của tỉnh. Kết quả thu được cũng tương tự như đã phân tích ở phần ước lượng mô hình ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên ở trên khi chưa có yếu tố không gian. Cụ thể:
Các chỉ tiêu vĩ mô cấp tỉnh như giá trị thu nhập bình quân đầu người năm 2004, vốn đầu tư trên GDP, các biến số đại diện cho vốn nhân lực như chỉ số bao trùm về giáo dục, hay lao động đã qua đào tạo đều có tác động tích cực tới tính bao trùm của thu nhập.
Trong khi đó, chỉ tiêu lạm phát và biến số nhân lực y tế có tác động tiêu cực tới tính bao trùm về thu nhập. Hệ số của các biến số vốn FDI và PCI không có ý nghĩa thống kê, hay không có tác động đến tính bao trùm về thu nhập tại các tỉnh. Ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể
Mô hình kinh tế lượng không gian cho phép xem xét cấu trúc phức tạp của biến phụ thuộc với các biến số giải thích. Ngoài ra, nó cũng cho biết sự thay đổi của biến giải thích có thể có ảnh hưởng đến chính nó, hay có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
các biến khác trong mô hình (Việc xem xét những ảnh hưởng này chính là việc ước lượng mô hình không gian khi có tính đến ảnh hưởng theo LeSage và Pace (2009))
LeSage và Pace (2009) đã chỉ ra rằng ảnh hưởng trực tiếp có tồn tại trong hồi quy mô hình kinh tế lượng không gian và ảnh hưởng trực tiếp này được sử dụng để đo lường
gian chéo được sử dụng để đo lường thay đổi của biến độc lập trong một tỉnh ảnh hưởng tới tới biến phụ thuộc của các tỉnh khác. Tổng ảnh hưởng là ảnh hưởng gộp của ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp.
Kết quả cụ thể như sau:
ảnh hưởng thay đổi của biến độc lập đến biến phụ thuộc ở cấp tỉnh. Theo đó, cơ chế của ảnh hưởng trực tiếp được thể hiện thông qua ảnh hưởng từ ma trận không gian thành phần chính và những lân cận. Trong khi đó, ảnh hưởng gián tiếp là ảnh hưởng không
(1)
(2)
(3)
(4)
VARIABLES
EFF
LR-DIRECT LR-INDIRECT LR-Total
lgdppop2004
0.09**
0.11**
0.20***
0.32***
(0.04)
(0.05)
(0.08)
(0.12)
0.22***
0.40***
0.62***
i_gdp
0.19***
Bảng 4.8: Kết quả ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể
125
(0.07)
(0.08)
(0.15)
(0.23)
-0.12***
-0.22***
-0.34***
lcpi1
-0.10***
(0.03)
(0.03)
(0.05)
(0.07)
lfdi
-0.00
-0.00
-0.01
-0.01
(0.00)
(0.00)
(0.01)
(0.01)
lpci
-0.00
-0.00
-0.00
-0.00
(0.00)
(0.00)
(0.01)
(0.01)
0.03***
0.05***
0.08***
lchins
0.02***
(0.01)
(0.01)
(0.01)
(0.02)
ledu
0.23***
0.28***
0.51***
0.79***
(0.06)
(0.07)
(0.14)
(0.20)
labor_tyle
0.63***
0.76***
1.37***
2.13***
(0.13)
(0.15)
(0.32)
(0.45)
lyte2
-0.05***
-0.06***
-0.11***
-0.18***
(0.01)
(0.02)
(0.03)
(0.05)
rho
0.70***
(0.04)
lambda
-0.60***
(0.09)
sigma2_e
0.01***
(0.00)
Observations
441
441
441
441
R-squared
0.64
0.64
0.64
0.64
Number of mun
63
63
63
63
Standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Tính toán của tác giả
126
Cột (1) là kết quả ước lượng khi không tính đến ảnh hưởng LeSage và Pace (2009)
như vừa được thực hiện ở trên. Trong khi đó cột (2), cột (3) và cột (4) lần lượt là kết quả ước lượng ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể. Kết quả ước lượng cho thấy trong cả ba trường hợp tính đến ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể đều cho dấu của các hệ số và ý nghĩa thống kê của các biến số đúng như kỳ vọng của mô hình gốc. Điều này hàm ý rằng, các biến số được lựa chọn trong mô hình có tồn tại ảnh hưởng biên trực tiếp, gián tiếp và tổng thể khi có yếu tố không gian được xem xét trong mô hình. Như vậy có thể thấy, trong mô hình kinh tế lượng không gian luận án đang xem
xét không những tồn tại ảnh hưởng trực tiếp của biến độc lập tới tính bao trùm về thu nhập trong tỉnh mà còn tồn tại cả ảnh hưởng gián tiếp tới tính bao trùm về thu nhập tại các tỉnh khác.
Có hai lý do để luận án tiếp tục cân nhắc việc kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập. Thứ nhất, trong giai đoạn nghiên cứu của luận án, kinh tế thế giới có trải qua khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này tuy
không có tác động nhiều đến kinh tế Việt Nam, nhưng nó cũng chứng kiến sự giãn cách thu nhập lớn hơn giữa các nhóm trong dân số (kết quả từ thực trạng phân tích tăng trưởng bao trùm trong chương 3 cho thấy, giai đoạn tăng trưởng bao trùm về thu nhập ít cải thiện nhất là giai đoạn 2008-2010, kế đến là giai đoạn 2006-2008). Thứ hai, giai đoạn
nghiên cứu của luận án cũng chứng kiến hai năm mà lạm phát Việt Nam đạt tới hai con số. Diễn biến bất thường này của lạm phát một phần cũng đến từ nguyên nhân của khủng hoảng. Để kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập luận án
thực hiện ước lượng mô hình kinh tế lượng không gian SAC với biến giả là thời kỳ lạm phát cao 2007 và 2011. Trong đó, biến giả được xây dựng trước năm có khủng hoảng bằng 0 và sau năm khủng hoảng bằng 1.
Kết quả ước lượng mô hình cụ thể như sau:
4.3.3. Kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập
VARIABLES
2007
2011
lgdppop2004
0.104***
0.0987***
(0.0381)
(0.0371)
i_gdp
0.227***
0.231***
(0.0741)
(0.0749)
Bảng 4.9: Kiểm định tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập
127
lcpi1
-0.151***
-0.0830***
(0.0351)
(0.0269)
-0.00224
-0.00340
lfdi
(0.00261)
(0.00250)
-0.00211
0.00191
lpci
(0.00282)
(0.00305)
lchins
0.0185***
0.0224***
(0.00599)
(0.00542)
ledu
0.244***
0.242***
(0.0595)
(0.0587)
labor_tyle
0.583***
0.595***
(0.137)
(0.135)
lyte2
-0.0557***
-0.0561***
(0.0133)
(0.0132)
d2007
-0.0288**
(0.0140)
d2011
0.0208*
(0.0116)
rho
0.679***
0.698***
(0.0441)
(0.0405)
lambda
-0.570***
-0.599***
(0.0941)
(0.0902)
sigma2_e
0.00559***
0.00550***
(0.000392)
(0.000384)
Observations
441
441
R-squared
0.661
0.638
Number of mun
63
63
Standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Tính toán của tác giả
128
Bảng trên trình bày tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm của thu nhập theo
mô hình kinh tế lượng không gian SAC với biến giả đại diện cho khủng hoảng năm 2007 và 2011 tương ứng là d2007 và d2011. Kết quả ước lượng cho thấy hai biến giả d2007 và d2011 đều có ý nghĩa thống kê, có nghĩa là khủng hoảng có tác động đến tính bao trùm về thu nhập. Tuy nhiên, hệ số ước lượng của hai biến giả này có dấu khác nhau. Cụ thể, đối với cuộc khủng hoảng năm 2007 thì hệ số là âm và ngược lại là dương với khủng hoảng năm 2011. Điều này được giải thích là do mặc dù hai cuộc khủng hoảng năm 2007 và 2011 về cơ bản đều làm tăng lạm phát trong nền kinh tế nhưng về tính chất
lại tương đối khác nhau. Trong khi khủng hoảng năm 2007 phần lớn là do sự tăng quá nhanh của lượng vốn đầu tư vào nền kinh tế, điều này dẫn đến khoảng cách thu nhập tăng mạnh, đặc biệt là nhóm có thu nhập cao, từ đó làm giảm tính bao trùm về thu nhập.
Trong khi đó, khủng hoảng năm 2011 nguyên nhân chủ yếu là do việc tín dụng tăng nhanh trong một thời gian dài, khủng hoảng xảy ra làm hạn chế được những nguồn vốn như đầu tư, tín dụng và có thể hạn chế được khoảng cách thu nhập giữa các nhóm.
129
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Dựa trên cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động tới tính bao trùm về thu nhập cũng như tổng quan các nghiên cứu đã thực hiện phân tích tác động này trên thế giới cũng như Việt Nam, chương 4 đã xây dựng mô hình phân tích các yếu tố tác động tới tính bao trùm về thu nhập của Việt Nam sử dụng số liệu cấp tỉnh giai đoạn 2004-2016. Trong đó,
biến số tính bao trùm về thu nhập được tính toán từ số liệu VHLSS
Bằng kiểm định Hausman cho mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên và ảnh hưởng cố định cho thấy mô hình ảnh hưởng cố định được lựa chọn để giải thích trong trường hợp này. Những kết quả từ mô hình cho thấy thu nhập bình quân đầu người năm 2004, tỷ lệ
vốn đầu tư trên GDP, chi ngân sách, tính bao trùm về giáo dục và lao động qua đào tạo có tác động tích cực tới tính bao trùm về thu nhập. Trong khi đó, biến số FDI và số nhân lực y tế bình quân đầu người có tác động tiêu cực tới tính bao trùm về thu nhập. Đáng
chú ý nhất, biến số chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, việc ước lượng mô hình ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên không thể hiện được ảnh hưởng về mặt không gian giữa các biến số. Do đó, luận án thực hiện xây dựng ma trận không gian và ước lượng mô hình không gian dạng SAC, sau khi đã thực
hiện các kiểm định để lựa chọn được mô hình phù hợp. Kết quả ước lượng mô hình kinh tế lượng không gian SAC cho thấy về cơ bản kết quả, dấu của các hệ số ước lượng đều không thay đổi so với mô hình ảnh hưởng cố định, tuy nhiên độ lớn của các hệ số đã
thay đổi. Bên cạnh đó, kiểm định sự phụ thuộc không gian cũng cho thấy có tồn tại sự phụ thuộc không gian của biến phụ thuộc. Do vậy, mô hình kinh tế lượng không gian là thích hợp để giải thích kết quả tác động của các biến giải thích tới tính bao trùm về thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016. Bên cạnh đó, luận án cho thấy có tồn tại ảnh
hưởng biên trực tiếp, ảnh hưởng biên gián tiếp và ảnh hưởng biên tổng thể tới tính bao trùm về thu nhập tại các tỉnh, trong khi tác động của khủng hoảng tới tính bao trùm về thu nhập là khác nhau với năm 2007 và năm 2011.
130
CHƯƠNG 5 KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
5.1. Khuyến nghị chính sách
Với các nền kinh tế đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình như Việt Nam, lạm phát thường cao và chính sách kiểm soát lạm phát là một
trong các chính sách vĩ mô được Chính phủ những nước này ưu tiên hàng đầu. Với Việt Nam, trong thời gian nghiên cứu (từ năm 2004 đến năm 2016), diễn biến và nguyên nhân của lạm phát tạm chia ra thành hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn một là khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2011 với hai năm mà nước ta chứng kiến lạm phát cao
nhất trong cả giai đoạn (ở mức hai con số), và giai đoạn hai là khoảng thời gian sau đó. Sự khác biệt về lạm phát giữa hai thời kỳ một phần đến từ việc thay đổi tốc độ tăng chi tiêu ngân sách và tăng cung tiền của chính phủ và của NHNN. Cụ thể, tốc độ tăng chi
ngân sách Nhà nước đã giảm từ mức trung bình hơn 21% trong giai đoạn 1 xuống còn 13,2% trong giai đoạn hai, còn tốc độ tăng cung tiền M2 cũng giảm tương ứng ở mức hơn 30% trong giai đoạn một xuống còn 17% trong giai đoạn hai (Bộ tài chính và TCTK). Thêm nữa, việc duy trì chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt hơn trong giai
5.1.1. Các chính sách ổn định vĩ mô
đoạn hai cũng là một nguyên nhân khiến lạm phát thời kỳ này được duy trì ở mức thấp hơn. Nhìn chung, các nhà phân tích chính sách đều đồng thuận rằng giữ lạm phát ổn định ở mức hợp lý là điều kiện tốt cho sự phát triển. Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác
ngược chiều. Trong các nghiên cứu định lượng, ngưỡng lạm phát này thường được gọi là ngưỡng lạm phát tối ưu. Nghiên cứu của Nguyễn Anh Phong (2017), của Nguyễn Đức Độ (2014), và của Trương Minh Tuấn (2013) đều có cơ sở để chỉ ra ngưỡng lạm phát
tối ưu của Việt Nam trong các giai đoạn 1986-2016, giai đoạn 1992-2016 ở mức trên 3%. Kết quả này cũng khá đồng nhất với kết quả từ nghiên cứu của IMF (2006) khi cho rằng ngưỡng lạm phát tối ưu với các nước trong khu vực Đông Nam Á là 3,6%, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh lạm phát, vai trò của các chính sách ổn định vĩ mô càng được nhấn mạnh khi trong mô hình có tồn tại tác động của yếu tố khủng hoảng tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Ngoài ra, một số các yếu tố vĩ mô khác mặc dù chưa được xem xét
một cách trực tiếp nhưng việc duy trì ổn định các yếu tố này vẫn luôn được xác định là
động của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đồng thời chỉ ra các ngưỡng lạm phát có thể chấp nhận được mà không tạo ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Nếu duy trì lạm phát tối đa bằng một ngưỡng lạm phát nào đó, tác động của nó sẽ là tích cực tới tăng trưởng, còn nếu lạm phát ở dưới mức này, tác động của nó tới tăng trưởng sẽ là
131
nhiệm vụ quan trọng và ưu tiên để tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh và bền vững, cải
thiện tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người, từ đó tác động tới bao trùm về thu nhập. Kinh tế vĩ mô có ổn định, thì mới tạo được môi trường thuận lợi nhất cho sản xuất kinh doanh, từ đó tạo được công việc và sinh kế ổn định cho người dân. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô qua đó thúc đẩy tăng trưởng GDP sẽ tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội, ổn định trật tự và an toàn xã hội. Tất cả những yếu tố này đều được coi là các yếu tố phi thu nhập đóng góp vào tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nhìn chung, trong mấy năm qua, dưới sự điều hành
của Chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam được duy trì, tăng trưởng đạt và vượt trên mục tiêu đề ra trong khi lạm phát được duy trì ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản được đảm bảo, cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện, dự trữ ngoại
hối tăng… Tuy nhiên, trước những diễn biến của chính trị thế giới và cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, cùng với những thay đổi của thị trường khu vực và thế giới, Việt Nam vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Tăng trưởng kinh tế thế giới trong một vài năm gần đây và đặc biệt trong năm 2019 là thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu 2008, và xu hướng giảm tốc này còn được nhiều chuyên gia dự đoán vẫn chưa dừng lại, đặc biệt trong bối cảnh cuối năm 2019 và đầu năm 2020, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của Virut corona (Covid 19) đã và đang gây ra những tác động rất tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp,
khăn này, nhưng những chính sách tốt có thể giảm thiểu được tác động tiêu cực từ dịch bệnh, giúp nền kinh tế có thể phục hồi nhanh chóng một khi dịch bệnh được kiểm soát. Trước tình thế này, một số giải pháp ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát được
đặc biệt là những doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể nói, Việt Nam giờ đây đang đứng trước một đợt suy giảm lớn, nhưng lần này xuất phát từ một nguyên nhân phi kinh tế. Các chính sách vĩ mô tuy không thể hoàn toàn giải quyết được những khó
Thứ nhất, chính sách tiền tệ không nên chỉ được duy trì với mục tiêu là kích thích tổng cầu, mà quan trọng hơn là hướng tới việc giải quyết thanh khoản cho doanh nghiệp. Ngân hàng nhà nước nên thực hiện việc giãn nợ, giảm nợ, tái cơ cấu nợ để giảm bớt khó
khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ- đối tượng doanh nghiệp chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế.
Thứ hai, các chính sách cần phải được thực hiện để duy trì lạm phát và lãi suất ở mức thấp, giữ ổn định tỷ giá. Về vấn đề lạm phát, việc duy trì tăng trưởng cung tiền ở
mức thấp cùng với việc giá cả thế giới ở mức thấp sẽ giúp kiểm soát được lạm phát. Về lãi suất, vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có động thái cắt giảm lãi suất điều hành và hạ trần lãi suất huy động. Đây được xem là một phần trong kế hoạch hành động của Chính
đề xuất để trước mắt ngăn chặn được đà giảm tốc, sau đó phục hồi nền kinh tế là:
132
phủ nhằm ứng phó với sự suy giảm của nền kinh tế trước tác động của đại dịch. Tác
Thứ ba, bên cạnh việc thực thi chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp, các chính sách tài khóa như giảm thuế, miễn thuế phí, gia hạn nộp thuế, hoãn đóng BHXH Thứ tư, việc thực hiện các chính sách vĩ mô, qua đó kích thích tổng cầu trong giai đoạn trước mắt nên hướng tới việc sử dụng chi tiêu chính phủ và đặc biệt là vai trò của đầu tư công. Thực chất, các chính sách về đầu tư công cũng đã được Chính phủ quan tâm
lâu này thể hiện qua việc thúc đẩy các dự án đầu tư công đã được phê duyệt, đồng thời thực hiện việc chuyển đôi một số dự án BOT sang đầu tư công để đẩy nhanh tiến độ.
động này, ngoài việc hỗ trợ các ngân hàng thương mại, cũng có những tác động rất tích cực tới tâm lý của toàn thị trường.
Kết quả từ mô hình định lượng cho thấy có tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập với mô hình tác động cố định trong khi không có ý nghĩa thống kê với mô hình có yếu tố không gian và mô hình không gian có khủng hoảng. Kết quả này có thể được lý giải là do tác động làm gia tăng bất bình
5.1.2. Các chính sách về đầu tư nước ngoài
tăng thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên, để có được tác động tích cực của FDI tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập, thì các chính sách ngoài việc nâng cao hiệu quả của FDI tới tăng trưởng kinh tế, nên tập trung hơn vào các chính sách làm thu hẹp bất
bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm. Các chính sách thúc đẩy hiệu quả của FDI với Việt Nam nói chung cũng như trên địa bàn một tỉnh, thành phố nói riêng đã được thảo luận đáng kể trong nhiều nghiên cứu. Các giải pháp chủ yếu có thể kể đến là: (i) xây dựng môi trường kinh doanh tuân thủ các thông lệ quốc tế để tạo tối đa mức độ tin tưởng
vào môi trường kinh doanh ở Việt Nam, (ii) tối giản hóa các thủ tục hành chính theo hướng hiệu quả, tiết kiệm thời gian cũng như chi phí cùng với việc xây dựng khung pháp lý đảm bảo công bằng, minh bạch và ổn định cho sự tồn tại của các doanh nghiệp, (iii)
tiếp tục thực hiện cải tiến quy chế đầu tư để thu hút FDI vào các ngành trọng điểm mà nước ta có lợi thế, các ngành công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn và các ngành đem lại giá trị gia tăng lớn, và (iv) xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện tại, nước ta đã xây
dựng Chiến lược và Định hướng Chiến lược thu hút FDI thế hệ mới, giai đoạn 2018- 2030. Điểm nhấn trong Chiến lược này là chuyển dịch trọng tâm từ thu hút nhà đầu tư
đẳng thu nhập do FDI tạo ra đã lấn át phần nào tác động tích cực của nó đến tăng trưởng kinh tế. Theo Báo cáo Trong Chiến lược định hướng thu hút FDI vào Việt Nam do Cục Đầu tư nước ngoài thực hiện, cho thấy mức đầu tư FDI tương đối thấp ở những tỉnh thành có thu nhập đầu người thấp. Kếy quả này ủng hộ quan điểm cho rằng FDI làm
133
phù hợp với các ngành nghề lợi thế ở Việt Nam, sang phát triển những ngành nghề phù
hợp. Điều này xuất phát từ thực tế cho thấy, trong những năm qua, mặc dù nước ta thu hút được một lượng FDI kỷ lục nhưng không nhận thấy có sự cải thiện trong giá trị gia tăng cũng như hiệu ứng lan tỏa của nó. Có ba giải pháp trọng tâm được đưa ra trong Chiến lược này, đó là: (i) điều chỉnh khung thể chế và cải thiện hiệu quả thực hiện chính sách, trong đó, giải pháp cụ thể là định hướng xây dựng “Cục ĐTNN thế hệ tiếp theo” với một Ban Quản trị mạnh có sự tham gia đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân, (ii) hiện đại hóa công tác xúc tiến đầu tư. Trong đó, một số chính sách cần thực hiện là: chuyển
nguồn lực thu hút đầu tư sang cách tiếp cận chủ động, nhưng vẫn tiếp tục duy trì xúc tiến đầu tư cho tất cả các nhà đầu tư có mong muốn đầu tư tại Việt Nam; tiếp tục thực hiện việc phân lập chức năng quản lý giữa nhóm phê duyệt và nhóm xúc tiến đầu tư;
thiết kế các dịch vụ hỗ trợ sau đầu tư nhằm đảm bảo tái đầu tư hay mở rộng các dự án đầu tư hiện tại, (iii) thực hiện các chính sách để tăng cường liên kết thượng nguồn từ đầu tư FDI, và (iv) tiếp tục thực hiện việc liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước để thu hút khả năng tiếp cận công nghệ và học hỏi được khả năng quản trị
doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế. Ngoài ra, hiện tượng ô nhiễm môi trường xuất phát từ tác động tiêu cực của một số dự án FDI do có lượng chất thải, khí thải lớn đang trở thành vấn đề hết sức quan ngại, do đó, làm thế nào để hài hòa giữa hai mục tiêu: giá trị mà FDI mang lại cũng như đảm bảo tác động tiêu cực là ít nhất đối với môi trường rất cần
phải là tất cả các ngành nghề đều được ưu tiên trong các chính sách thu hút FDI. Vai trò đồng thời của các cấp quản lý trong việc tạo dựng môi trường đầu tư, vai trò của doanh nghiệp trong việc tiếp thu công nghệ cùng với sự nỗ lực học hỏi của bản thân người lao động mới là giải pháp thiết thực nhất để đảm bảo lợi ích của FDI với tất cả mọi người.
được quan tâm. Các chính sách tăng hiệu quả của FDI thì có nhiều, tuy nhiên, những giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của FDI tới bất bình đẳng thu nhập là rất thách thức. Bởi vì điều này phụ thuộc rất lớn vào quá trình chuyển đổi nền kinh tế, khi không
Chính sách tài khóa có vai trò quan trọng trong việc ổn định và tăng tưởng kinh tế, tuy nhiên việc duy trì đảm bảo cân đối giữa nhu cầu chi tiêu và nguồn thu ngân sách
luôn là một thách thức lớn đối với chính phủ nước ta, đòi hỏi có những giải pháp phù hợp trong từng thời kỳ. Thực tế cho thấy nguồn thu của nước ta bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự thay đổi trong nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu- đây lại là nguồn thu có xu hướng giảm theo các cam kết hội nhập nền kinh tế. Trong khi đó, các nguồn chi trong
ngân sách thì lại có xu hướng tăng thêm, do đó việc đảm bảo các khoản chi sao cho duy trì được cân đối thu chi có vai trò hết sức quan trọng. Điều đáng chú ý là trong giai đoạn
5.1.3. Các chính sách liên quan đến chi ngân sách
134
2005-2016, mặc dù tốc độ tăng thu cân đối và thu thường xuyên là khá cao, nhưng vẫn
thấp hơn so với chi cân đối và chi thường xuyên. Tốc độ tăng chi cân đối trong thời gian này là 18,9% trong khi con số này với chi thường xuyên là 19,5%. Khi bàn về tốc độ tăng thu chi ngân sách thế nào là hợp lý tại các nền kinh tế đang phát triển, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra mức chi tiêu công tối đa (được tính trên GDP), và mức chi tiêu công này (tạm gọi là mức chi tiêu công ngưỡng) để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế. Mức chi tiêu công ngưỡng này cho các nền kinh tế đang phát triển được đề xuất là dao động xung quanh mức 30% GDP. Tỷ lệ chi ngân sách nhà
nước trên GDP của Việt Nam là cao hơn so với các nước đang phát triển khác. Thời gian nghiên cứu của luận án (2004- 2016) cũng là khoảng thời gian chứng kiến sự thay đổi lớn (theo chiều hướng tăng lên) trong GDP của nước ta. Sự mở rộng trong hoạt động
của các dịch vụ công, các đơn vị hành chính sự nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho chi tiêu công tăng lên. Tỷ lệ chi cho đầu tư trong NSNN giảm dần trong giai đoạn nghiên cứu, nếu như trong những năm đầu tỷ lệ này là hơn 17%, thì những năm cuối chỉ còn ở mức 6% (Bộ tài chính). Với một nền kinh tế đang phát triển như
nước ta, khi đang cần tăng cường chi NSNN cho việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thì việc giảm tỷ lệ chi đầu tư trong chi ngân sách cũng là một vấn đề không nhỏ. Bên cạnh chi đầu tư, cơ cấu chi thường xuyên trong chi ngân sách vẫn tồn tại nhiều bất cập. Trong chi thường xuyên, chi cho giáo dục đào tạo và y tế đang tăng nhanh trong khi hiệu quả
còn thấp. Việc phân bổ chi tiêu ngân sách cho giáo dục và đào tạo vẫn chưa có cơ sở hợp lý và chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm. Theo như kết quả nghiên cứu của mô hình xây dựng trong luận án, tăng trưởng bao trùm về thu nhập chịu tác động tích cực từ tăng
trưởng bao trùm về giáo dục (chỉ tiêu này được tính toán từ số năm đi học cao nhất của một thành viên trong hộ). Do đó, có thể nhận định rằng nếu tăng chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo nhiều hơn cho các vùng miền núi, các vùng xa xôi, điều kiện tiếp cận giáo dục khó khăn thì sẽ cải thiện được tính bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục
của những vùng này so với các vùng đồng bằng- là những vùng vốn đã có điều kiện học tập tốt hơn, từ đó sẽ cải thiện được tính bao trùm về thu nhập. Hiện nay, trong giai đoạn 2017- 2020, NSNN đã được điều chỉnh theo hướng tăng chi thường xuyên cho giáo dục
và đào tạo cho các vùng kém lợi thế lên 2,3% so với khu vực đồng bằng. Bên cạnh đó, các khoản chi khác như chi cho lương và cho việc thực hiện các chương trình an sinh xã hội đã chiếm trên 60% trong tổng chi thường xuyên. Các giải pháp liên quan đến ngân sách để từ đó cải thiện bao trùm về thu nhập vẫn chủ yếu hướng tới: (i) đảm bảo cân đối
các nguồn chi ngân sách trong tương quan với thu ngân sách. Giải pháp này nhằm đảm bảo duy trì được nguồn chi ngân sách trong bối cảnh nguồn thu NSNN có khả năng bị thu hẹp do chịu tác động lớn từ hoạt động thu thuế xuất nhập khẩu (khi nước ta chính
135
thức tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do hơn trước). Mặc dù luận án không
giáo dục, y tế, hệ thống an sinh và bảo trợ xã hội sẽ được cải thiện diện bao phủ cũng như mức độ bình đẳng nếu như được sử dụng nguồn chi ngân sách một cách hợp lý, (iii) cơ cấu lại các khoản chi ngân sách theo hướng giảm tỷ lệ chi thường xuyên trong tổng
nguồn chi trong khi phải sử dụng những nguồn chi này theo đúng mục đích hơn, chú trọng vào các khoản chi hướng tới con người, duy trì hợp lý chi đầu tư theo hướng phù hợp với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và phù hợp với tiến độ của tái cấu trúc nền kinh tế, và (iv) thực hiện phân cấp chi ngân sách. Hay nói cách khác,
các địa phương được triển khai các nhiệm vụ chi ngân sách gắn với nhu cầu thực tiễn của đia phương đó. Điều này cũng tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện công khai, minh bạch và giám sát ngân sách theo hướng chặt chẽ hơn.
đánh giá tách biệt tác động của các đầu mục chi khác nhau, tuy nhiên với tác động tích cực của biến đầu tư (tỷ lệ đầu tư/GDP) và của biến đại diện cho vốn nhân lực là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trên tổng lao động và chỉ số bao trùm về giáo dục, việc duy trì một tỷ lệ chi hợp lý trong chi đầu tư và chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo được kỳ vọng là có tác động thúc đẩy bao trùm về thu nhập, (ii) tăng cường hiệu quả các nguồn chi trong ngân sách trên cơ sở nâng cao tính bình đẳng giữa các vùng miền trên cả nước. Có nhiều khía cạnh phi thu nhập trong khung phân tích của tăng trưởng bao trùm như
Vốn nhân lực là yếu tố quyết định đến thành công và tiến bộ của mỗi quốc gia, là yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế của một nước. Trình độ phát triển nguồn nhân lực là thước đo chủ yếu đánh giá mức độ tiến bộ xã hội, công bằng và phát
triển bền vững. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, Việt Nam khẳng định phát triển nguồn nhân lực là khâu đột phá của quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời là nền tảng phát triển bền vững và gia tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Thực tiễn ở nước ta, nguồn
nhân lực tồn tại một số hạn chế: Thứ nhất, thể chất của lực lượng lao động còn yếu. Về cơ bản, thể chất của người lao động Việt Nam đã được cải thiện, nhưng vẫn còn thua kém nhiều so với các nước trong khu vực. Thể chất ở đây được thể hiện qua khía cạnh
tầm vóc, sức khỏe, sức bền và khả năng chịu áp lực. Thứ hai, chất lượng của lao động chưa phù hợp với cơ cấu ngành nghề cũng như sự phân bổ nguồn lực của từng địa phương, từng vùng miền; chưa tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của xã hội, vẫn còn thiếu nhân lực, đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên tay nghề cao để
phát triển các ngành kinh tế chủ lực. Người học thường có xu hướng lựa chọn ngành nghề được đào tạo theo sở thích, theo chí hướng của gia đình (mà không xuất phát từ
5.1.4. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực
136
chính thực tế nhu cầu của xã hội). Thêm nữa, nhiều cơ sở đào tạo chưa có định hướng
cho người học trong việc lựa chọn ngành nghề theo học. Thứ ba, phần lớn lao động giỏi lý thuyết, nhưng kém về thực hành. Về vấn đề này, đại đa số các doanh nghiệp qua khảo sát đều cho rằng lao động sau khi tốt nghiệp ở các trường khi nhận vào làm, doanh nghiệp đều phải đào tạo lại, với các mức độ khác nhau. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, nhân công giá rẻ, nhưng tỷ lệ của lao động đã qua đào tạo còn thấp và các kỹ năng được đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Nhiều lao động Việt Nam vẫn còn thiếu các kỹ năng về ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm và khả năng
chịu áp lực công việc khi làm việc trong một môi trường năng động như với các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam. Thêm nữa, một bộ phận lao động Việt Nam . Trước những hạn chế này, cùng với ý thức rằng việc phát triển nguồn nhân lực là một trong ba
khâu đột phá của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, luận án đề xuất một số các trọng tâm chính sách sau để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam: (i) Thực hiện đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Trong nhóm chính sách này, đặc biệt nhấn mạnh đến
việc đổi mới các chính sách và cơ chế về việc làm, thu nhập, quyền lợi cho người lao động về bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chú ý đến đội ngũ nhân lực có trình độ cao và đội ngũ lao động làm việc trong các ngành nghề kinh tế chủ lực của đất nước, có các chính sách quan tâm hơn nữa để thu hút lao động có chất lượng tốt làm việc tại Việt Nam; (ii) Đảm
bảo nguồn lực tài chính cho phát triển nguồn nhân lực. Ngoài việc phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục theo hướng tập trung vào các dự án giáo dục được ưu tiên, nên đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn từ bên ngoài nguồn lực
của Nhà nước cho giáo dục đào tạo. Một số việc làm cụ thể có thể kể đến là: hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực huy động vốn từ các doanh nghiệp, phát huy và huy động hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường và cơ chế đầu tư thuận lợi để huy động nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào việc xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, …để đảm bảo trí lực và sức khỏe cho người lao động, (iii) Thực hiện đổi mới cải cách giáo dục, trong đó cần nhấn mạnh đến hai khía cạnh, đó là đổi mới nội dung,
chương trình, sách giáo khoa phổ thông và đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học. Đây được coi là nhóm giải pháp chủ yếu, then chốt của Nhà nước ta trong việc phát triển đội ngũ nguồn nhân lực trong thời gian vừa qua và cũng là trọng tâm trong thời gian tới; (iv) Xây dựng việc kiểm định chất lượng giáo dục phù hợp với khung
chương trình của từng cấp học, đảm bảo việc đánh giá chất lượng này là khách quan, thực chất và thực hiện thường xuyên việc thanh tra giám sát chất lượng dạy và học; (v) Quan tâm nhiều hơn đến chất lượng giáo dục ở các vùng miền xa xôi, với nhóm dân tộc
137
thiểu số, trước hết là có các chính sách phù hợp để phát triển đội ngũ giáo viên và hệ
thống cơ sở vật chất cho việc dạy và học tại những khu vực này; (vi) Nâng cao việc sử dụng công nghệ thông tin cho công tác dạy và học. Hiệu quả của hành động này đang được thể hiện rất rõ qua cách thức dạy và học ở Việt Nam hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới. Diễn biến khó lường của dịch Covid-19 đang khiến cho rất nhiều học sinh, sinh viên không được đến trường. Nếu các cơ sở đào tạo và đặc biệt là bản thân giáo viên có khả năng tiếp cận ứng dụng công nghệ thông tin tốt vào giảng dạy, quá trình dạy và học sẽ được duy trì, không làm gián đoạn việc học tập của học sinh; và (vii) Nâng
cao chất lượng của đội ngũ giảng viên, giáo viên thể hiện ở việc nâng cao năng lực tự đổi mới, sáng tạo, nâng cao kiến thức thông qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động đào tạo và tự đào tạo.
Ngoài các chính sách chung để nâng cao chất lượng của nguồn vốn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo, có một số chính sách quan tâm nhiều hơn đến đối tượng là lao động trẻ của đất nước. Có một số chính sách như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò của việc nâng cao
trình độ đến cải thiện năng suất lao động và qua đó nâng cao thu nhập của họ. Từ chỗ nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo nghề, các chính sách hướng đến việc giúp người lao động, đặc biệt là nhóm lao động trẻ có cơ hội nắm bắt và lựa chọn được những thông tin cần thiết về chương trình đào tạo nghề phù hợp với công việc của họ.
Thứ hai, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, xây dựng mạng lưới thị trường lao động giúp kết nối nhanh chóng giữa người tìm việc, và việc tìm người. Với nhóm giải pháp này, cần đặc biệt lưu ý đến việc kiểm soát và thiết lập những chế tài để ngăn
chặn sự tồn tại của những trung tâm giới thiệu việc làm kém uy tín, gây tổn hại cho người lao động, đặc biệt là nhóm lao động trẻ.
Thứ ba, dự báo được chính xác nhu cầu của thị trường lao động để có định hướng đúng đắn cho người học (đối tượng lao động trẻ của đất nước) về công việc trong tương
lai, tránh tình trạng ngành đào tạo nhiều nhưng không có cầu về lao động, gây ra thất nghiệp cho nền kinh tế, trong khi ngành nghề khác có nhu cầu lao động thì lại không có lao động đáp ứng được nhu cầu về công việc. Công việc dự đoán này, ngoài trách nhiệm
của các ban ngành có liên quan, cũng kể đến vai trò không nhỏ của các cơ sở đào tạo, trong đó có các viện đào tạo, các trường đại học, viện nghiên cứu, và các cơ sở đào tạo nghề khác.
Trong mô hình định lượng của luận án, tiếp cận y tế được đại diện bởi số nhân lực y tế bình quân cho một người tại một tỉnh, thành phố. Y tế cũng như giáo dục là hai
5.1.5. Các chính sách cải thiện tính bình đẳng và công bằng trong cơ hội tiếp cận y tế
138
trong số ba chỉ tiêu trong nhóm các chỉ tiêu cho phát triển con người. Đây cũng là hai
chỉ tiêu có đóng vai trò hết sức quan trọng thể hiện vốn nhân lực của lực lượng lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Công bằng trong chăm sóc sức khỏe là một nội dung quan trọng và là ưu tiên hàng đầu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Việt Nam. Theo đó, công bằng trong các chính sách xã hội, không phải là ngang bằng, mà là dành sự ưu tiên hơn cho nhóm đối tượng nghèo, những người có công, và nhóm đối tượng chịu thiệt thòi trong xã hội. Thực tế, công bằng trong chăm sóc sức khỏe y tế ở nước ta vẫn đi theo hướng ai có nhu cầu nhiều thì được chăm sóc nhiều hơn, ai chịu thiệt thòi
thì sẽ được quan tâm nhiều hơn. Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều giải pháp hơn trong việc hỗ trợ người nghèo, dân số sống ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế công. Nhóm chính sách
hỗ trợ y tế cho nhóm đối tượng này có thể được chia thành một số nhóm: (i) các chính sách hướng đến những vấn đề cần ưu tiên nhất trong chăm sóc sức khỏe đối với người nghèo, (ii) các chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của họ đối với các dịch vụ y tế công, và (iii) các chính sách hỗ trợ tài chính để giúp người nghèo và những người
sống ở các vùng khó khăn có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Bên cạnh những chính sách đó, một chính sách mà theo luận án nhận thấy có vai trò then chốt, đó là phải tăng cường được số lượng và đặc biệt là chất lượng của đội ngũ y tế tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều nhóm dân tộc thiểu số sinh sống. Thừa nhận tầm
quan trọng của vấn đề này trong việc đạt tới tính bình đẳng về y tế, nhưng nước ta chưa có được những giải pháp khuyến khích phù hợp và hiệu quả để thu hút các y bác sỹ có trình độ tốt, được đào tạo bài bản về chăm sóc y tế đến làm việc tại những khu vực này.
Thêm nữa, tăng cường đầu tư nhiều hơn vào trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác khám chữa bệnh ở các vùng xa xôi và khu vực nông thôn cũng là vấn đề đáng được lưu tâm. Chính phủ, ngoài nguồn chi đến từ NSNN, có thể thu hút được từ các nguồn khác, kêu gọi sự ủng hộ đầu tư của một số doanh nghiệp, từ các dự án xã hội vì
cộng đồng để đáp ứng nguồn đầu tư này. Nếu cải thiện được cả hai tiêu chí về số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân viên y tế và cơ sở vật chất sử dụng trong các cơ sở khám chữa bệnh thì người dân sống ở những vùng này sẽ hạn chế được tối đa thời gian và chi
phí phải di chuyển lên các cơ sở y tế tuyến trên, giảm áp lực cho các cơ sở này trong việc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh.
Cho đến nay, tiêu chí đánh giá năng lực về hệ thống thể chế cũng như chất lượng
của môi trường đầu tư các tỉnh, thành ở Việt Nam vẫn chỉ được đánh giá một cách chính thống nhất qua chỉ số PCI. Trên thực tế, việc xếp hạng PCI cao hay thấp chưa hẳn là
5.1.6. Các chính sách cải thiện hệ thống thể chế và xây dựng môi trường đầu tư
139
một thước đo hoàn hảo và cái nhìn toàn diện về năng lực cạnh tranh của các tỉnh về thể
chế cũng như đánh giá về môi trường đầu tư. Tuy nhiên, việc chấm điểm theo PCI và xếp hạng giữa các tỉnh là một cơ sở quan trọng để mỗi tỉnh, thành biết được thực trạng về năng lực cạnh tranh của tỉnh mình thông qua góc nhìn từ phía doanh nghiệp. Những tiêu chí đánh giá trong PCI cũng là những tiêu chí đánh giá cơ bản mà một doanh nghiệp cho rằng là quan trọng nhất đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm trên địa bàn tỉnh, thành đó. Nếu năng lực quản trị thể chế và môi trường kinh doanh được cải thiện, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, thì sẽ tạo
tổ chức thực thi các luật và quy định đó. Thêm nữa, vẫn tồn tại một sân chơi không bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội giữa một bên là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có quan hệ thân hữu với một bên là các doanh nghiệp nhỏ bé hoặc ít có quan hệ. Thực chất, cạnh tranh trên một thị trường công bằng là động lực chính thúc đẩy
gia tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, gia tăng năng suất lao động. Tất cả các giải pháp cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh đều hướng đến phát triển các loại thị trường, đảm bảo cạnh tranh công bằng và tăng mức độ cạnh tranh thị trường nhằm tăng hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ, là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam cũng có nhiều cải thiện và đạt được nhiều bước tiến quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đây là kết quả từ việc Chính phủ đã rất sát sao, thực hiện nhiều chủ trương chính sách kịp
thời và hiệu quả như: Nghị Quyết số 19/2018/NQ-CP cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nghị Quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, một số luật có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đã được sửa đổi tuân theo chuẩn mực quốc tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư…Một số chính sách cụ thể để cải thiện hệ thống thể chế và môi trường đầu tư của các địa phương là: (i) Hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước về kinh tế để làm cơ sở cho những nỗ lực cải cách kinh tế ở địa phương, (ii) Tăng cường các hoạt động kết nối
giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp trên địa bàn địa phương đó. Để từ đó, chính quyền có thể am hiểu doanh nghiệp hơn, nắm bắt kịp thời được những khó khăn của doanh nghiệp, đặc biệt là những điểm nghẽn mà doanh nghiệp gặp phải để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, và (iii) Yêu cầu của doanh nghiệp với việc tiếp
cận thông tin một cách minh bạch, rõ ràng và công khai, đảm bảo một môi trường kinh doanh và đầu tư thật sự công bằng, (iv) đảm bảo tính công bằng hơn trong việc tiếp cận về đất đai, tiếp cận vốn và các cơ hội khác giữa các loại hình doanh nghiệp
được việc làm nhiều hơn cho người dân địa phương và giúp cải thiện thu nhập của họ. Nhìn chung, môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn khá nhiều thách thức, không thông thoáng và thiếu tính minh bạch. Có sự khác nhau rất lớn giữa các quy định, luật và khâu
140
5.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu trong tương lai
Luận án đã phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016 ở khía cạnh thu nhập và với một số khía cạnh phi thu nhập, trong đó tập trung phân tích rõ hơn về khía cạnh thu nhập. Một số chiều phi thu nhập đã được phân tích là: giáo dục, y tế, lao động và việc làm, cơ hội tiếp cận các điều kiện sống cơ bản của người dân. Dựa theo khung phân tích của tăng trưởng bao trùm, có một số nội dung phi thu nhập khác như môi trường sống, các vấn đề như bất bình đẳng giới, sự bảo
vệ của xã hội (ở đây nói đến các chính sách hỗ trợ của Nhà nước qua các chương trình phúc lợi và an sinh xã hội, các chương trình hỗ trợ cho trẻ em,…), các vấn đề về cơ sở hạ tầng chưa được phân tích. Tuy nhiên, vì nội dung nghiên cứu của tăng trưởng bao trùm là rộng
lớn, chứa đựng nhiều vấn đề của tăng trưởng và phát triển kinh tế, do đó, trong luận án của mình, NCS đang chỉ giới hạn phân tích một số nội dung như trong nội dung chính của luận án đã làm rõ.
Về đánh giá tác động của một số yếu tố đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập
của Việt Nam, ngoài các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn khác nhau, luận án chưa thực hiện phân tích tác động của các biến giải thích khác. Các biến này được thể hiện dưới dạng chỉ số đại diện cho tính bao trùm cho một khía cạnh phi thu nhập nào đó. Hiện nay, luận án chỉ sử dụng chỉ số bao trùm trong giáo dục - là một trong các biến
giải thích của mô hình. Một số biến giải thích khác, đại diện cho tính bao trùm về các chỉ tiêu như tiếp cận y tế, tiếp cận các điều kiện sống cơ bản, cơ sở hạ tầng và một số các chỉ tiêu khác chưa được đưa vào mô hình. Theo tổng quan các nghiên cứu trên thế
giới, cũng đã có một vài nghiên cứu, tuy không nhiều, có sử dụng thêm các biến giải thích khác. Ngoài các biến giải thích được thể hiện dưới dạng chỉ số bao trùm, các dữ liệu thứ cấp khác của các tỉnh, thành ở Việt Nam, ví dụ như cơ cấu các ngành trong GDP, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trên GDP…cũng được cho là có thể có tác
5.2.1. Hạn chế của luận án
Về phương pháp tính chỉ số bao trùm, luận án mới chỉ sử dụng phương pháp hàm
cơ hội xã hội của Ali và Son (2007) cho các chỉ tiêu phi tiền tệ và phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự (2013) cho chỉ tiêu thu nhập, mà chưa phân tích tính bao trùm dựa vào các phương pháp khác.
Về phạm vi thời gian nghiên cứu, khoảng thời gian nghiên cứu chưa đủ dài để có
thể đưa ra những kết luận mang tính dài hạn.
động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập nhưng chưa được sử dụng. Đây là điều mà NCS nhận thức là hạn chế lớn nhất trong phần phân tích định lượng của luận án.
141
Xuất phát từ những hạn chế của luận án, nghiên cứu sinh nhận thấy có một số
5.2.2. Hướng nghiên cứu trong tương lai
Thứ nhất, tiếp tục mở rộng phân tích thêm các chỉ tiêu phi thu nhập khác là nội dung nghiên cứu của tăng trưởng bao trùm với hoàn cảnh của Việt Nam. Các chỉ tiêu được cân nhắc phân tích là bất bình đẳng giới, an sinh xã hội, môi trường và cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, cân nhắc xây dựng phương pháp đo lường chỉ số tăng trưởng bao trùm tổng hợp, và thay vì chỉ thực hiện đánh giá tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao
trùm về thu nhập, có thể thực hiện đánh giá tác động của các yếu tố tới chỉ số tăng trưởng bao trùm tổng hợp này.
Thứ ba, có thể giới hạn phạm vi về mặt không gian như chỉ phân tích tính bao
trùm trong tăng trưởng kinh tế của một vùng nào đó ở Việt Nam và tính chỉ số bao trùm tổng hợp. Theo định hướng này, sẽ là khả thi hơn khi phân tích các nhóm chính sách để cải thiện tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở riêng vùng đó. Các nhóm chính sách đưa ra sẽ mang tính đặc thù hơn.
định hướng sau để phát triển nội dung nghiên cứu của luận án trong tương lai
142
TÓM TẮT CHƯƠNG 5
Trong chương 5, NCS đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách để cải thiện tính bao trùm về thu nhập dựa trên kết quả từ mô hình phân tích định lượng và từ thực tiễn trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua. Các chính sách trọng tâm được khuyến nghị là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cải thiện vốn nhân lực
(thông qua cải thiện chất lượng của giáo dục và y tế), nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, đảm bảo nguồn chi ngân sách địa phương được thực hiện một cách có hiệu quả. Với nhóm biến đầu tư, kết quả từ mô hình cho thấy cần tăng tỷ lệ đầu tư trên GDP, tuy nhiên, giải pháp phủ hợp để nâng cao tính bao trùm về thu nhập là phải cải thiện hiệu
quả của những khoản vốn đầu tư tăng thêm này. Trong khi đó, lại tồn tại tác động âm của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều này có thể được giải thích là do tác động gia tăng bất bình đẳng thu nhập do FDI tạo ra có thể đã lấn át tác động tích cực của nó đến
tăng trưởng kinh tế. Do đó, nhóm giải pháp cải thiện tác động tích cực của FDI tới tính bao trùm về thu nhập là tập trung vào các giải pháp hạn chế bất bình đẳng thu nhập do FDI tạo ra.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu có được của luận án, chương 5 cũng chỉ ra
những hạn chế còn tồn tại của luận án. Còn nhiều khía cạnh khác của khái niệm tăng trưởng bao trùm mà luận án chưa đi sâu phân tích cũng như có thể có những yếu tố khác tác động đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập chưa được chỉ ra. Đây sẽ là
hướng nghiên cứu tiếp theo mà NCS sẽ đi tiếp để hoàn thiện nội dung nghiên cứu của mình.
143
KẾT LUẬN
Luận án đã phân tích tính bao trùm trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2004-2016 trên một số chiều như thu nhập, giáo dục, y tế, việc làm lao động, và tiếp cận các điều kiện sống cơ bản, trong đó tập trung làm rõ tính bao trùm trong thu
nhập khi thực hiện phân tích tác động của một số yếu tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập. Với tất cả các tiêu chí, luận án thực hiện phân tích trên phạm vi cả nước, khu vực thành thị - nông thôn, và dân tộc. Với hai tiêu chí là thu nhập và giáo dục, luận án còn
thực hiện tính toán với phạm vi các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Chỉ số bao trùm cho mỗi chỉ tiêu đều được tính theo phương pháp hàm cơ hội xã hội của Ali và Son (2007) (cho các chỉ tiêu phi thu nhập) hoặc phương pháp hàm dịch chuyển xã hội của Anand và cộng sự (2013) (cho chỉ tiêu thu nhập). Kết quả cho thấy tăng trưởng bao trùm nhìn
chung đều được cải thiện trong tất cả các chiều (thu nhập hay phi thu nhập) ở Việt Nam. Sự cải thiện trong tăng trưởng bao trùm về thu nhập được giải thích chủ yếu là do tăng trưởng của thu nhập bình quân mà không phải do phân phối thu nhập bình đẳng hơn.
Giai đoạn 2004- 2006 tăng trưởng bao trùm về thu nhập được cải thiện nhất, trong khi giai đoạn ít cải thiện nhất là 2008- 2010.
Luận án đã xây dựng mô hình hồi quy dữ liệu bảng để kiểm định tác động của các yếu tố tới tăng trưởng bao trùm về thu nhập ở Việt Nam với phạm vi là các tỉnh,
thành phố ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy hầu hết các biến số có chiều tác động hợp với kỳ vọng ban đầu, ngoại trừ tác động của biến nhân lực y tế bình quân.
Các kết luận từ phân tích định lượng giúp đưa ra những gợi ý chính sách thiết thực cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nước ta có nhiều thành tựu nhưng bất bình đẳng cũng đang tăng lên trên nhiều chiều, đe dọa tăng trưởng bền vững trong dài hạn và ảnh hưởng đến lợi ích của tất cả mọi người. Quan điểm “tăng
trưởng nhưng không để ai tụt lại phía sau” đang trở thành mục tiêu chiến lược tăng trưởng mới trong thời gian gần đây. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy các yếu tố có tác động thúc đẩy đến tăng trưởng bao trùm về thu nhập ở Việt Nam là: GDP bình
quân đầu người thời kỳ đầu, các yếu tố phản ánh vốn nhân lực, chi ngân sách địa phương. Ngoài ra, để cải thiện tính bao trùm về thu nhập ở Việt Nam, cần cải thiện tính bình đẳng trong tác động của FDI, tính bình đẳng trong tiếp cận y tế, ổn định và kiêm chế lạm phát.
144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyen Van Cong, Nguyen Viet Hung, Tran Thi Lan Huong (2017), “Small and medium enterprises and inclusive growth”, International Conference on Emerging Issues in Economics and Business in the context of international integration, Hanoi, Vietnam, tr. 205-212.
2. Nguyễn Văn Công, Nguyễn Việt Hưng, Trần Thị Lan Hương (2017), “Doanh nghiệp vừa và nhỏ với tăng trưởng hài hòa”, Hội thảo Khoa học Quốc gia: “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng hài hòa trong các khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam, tr. 68-73.
3. Trần Thị Lan Hương (2019), “Tăng trưởng bao trùm về thu nhập ở Việt Nam giai
4. Nguyen Van Cong, Tran Thi Lan Huong (2019), “Income inequality and inclusive growth in some Central Asia and and European transition economies”, Review of Finance, Tập 2, Số 3, tr. 56-60.
5. Trần Thị Lan Hương (2019), “Nghèo đa chiều và tăng trưởng giáo dục ở Việt
Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 27, tr. 73-76.
đoạn 2004- 2016”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 24, tr. 131-134.
145
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Acemoglu, D. và J. Robinson (2013), Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn Gốc Của Quyền Lực, Thịnh Vượng, Và Nghèo Đói (Why Nations Fails: The Origins of Power, Prosperity, and Poverty), NXB Trẻ. Acemoglu. Daron, Simon Johnson, and James A. Robinson (2004), ‘Institutions as the Fundamental Cause of Long- run growth’ NBER Working Paper 10481 ADB (2011), Framework of Inclusive Growth Indicators, Key Indicators for Asia and The Pacific, Asian Development Bank, 2011. Addison T. và Zarazua N. M., (2012), What is inclusive growth?, Nordic-Baltic MDB meeting, Helsinki, Finland.
5.
6.
7.
8.
9.
African Development Bank (2016), Measuring Inclusive Growth: From Theory to Application in North Africa, AfDB Working Paper, North Africa Policy Series. Ali, Ifzal and Son, Hyun H. (2007a), Defining and Measuring Inclusive Growth: Application to the Philippines, ERD Working Paper No.98, ADB 2007. Ali, Ifzal and Son, Hyun H. (2007b), ‘Measuring Inclusive Growth’, Asian Development Review, vol. 24, no. 1, pp.11-31. Ali, Ifzal and Yao, Xianbin (2004), Inclusive growth for sustainable poverty reduction in developing Asia: The enabling role of infrastructure development, ADB. Ali, Ifzal and Zhuang (2009), Inclusive growth toward a prosperous Asia: Policy implications, ERD Working Paper No.97
10. Anand Rahul, Mishra Saurabh, and Peiris Shanaka J. (2013), Inclusive growth:
Measurement and Determinants, IMF Working Paper No. 13/135.
11. Anand Rahul, Tulin Volodymyr, and Kumar Naresh (2014), India: Defining and
explaining Inclusive growth and Poverty reduction, IMF Working Paper No. 14/63.
12. Anneli and Kaasa (2005), Factors of income inequality and their influence mechanims: A theoretical overview, Paper publised by Faculty of Economics and Business Administration
13. Aribah Aslam and Kalsoom Zulfiqar (2016), ‘Policy Framework for Inclusive growth: A case study of selected Asia countries’, Forman Journal of Economic Studies, Vol 12, pp 21-40.
14. Auda, H. (2010), New tests of symmetry in regression models: Application to the
relation between income inequality and inflation, manuscript
15. Báo cáo Oxfam (2017), Thu hẹp khoảng cách, cùng giảm bất bình đẳng ở Việt
Nam, NXB Lao động và Xã hội
146
16. Barro, R. (2000), ‘Inequality and Growth in a Panel of Countries’, Journal of
Economic Growth, tập 5, tr. 5-32
17. Barro, R.J (1997), Determinants of economic growth: A cross country empirical
study, MIT press, Cambridge, MA
18. Barro, R.J and X.Sala-i-Martin (1995), Economic Growth, McGraw-Hill Inc 19. Basu, P. and A. Guariglia (2007), ‘Foreign direct investment, inequality, and growth’, Journal of Macroeconomics, tập 29, số 4, Amsterdam, Elsevier 20. Becker, G.S and Chiswick, B.R (1966), ‘Education and the distribution of
earnings’, American Economic Review, số 56(2), tr. 358-369
21. Berg, Andrew and Jonathan (2011), Inequality and Unsustainable growth: Two
sides of the Same Coin?, IMF Staff Discussion Note 11/08.
22. Bergh, A. and Fink, G. (2008), ‘Higher education policy, enrollment, and income
inequality’, Social Science Quarterly, tập 89, số 1, tr. 217-235
23. Bigsten, A. (1983). Income Distribution and Development: Theory, Evidence and
Policy
24. Bolt Richard (2004), Accelerating agriculture and Rural development of
Inclusive growth: Policy implications for developing Asia, ADB.
25. Brian McCaig, Loren Brandt, Dwayne Benjamin (2016), Growth with Equity: Income Inequality in Vietnam, 2002-14, IZA Discussion Paper Series, số 10392 26. Bulir, A. (2001), Income Inequality: Does inflation matter?, IMF Staff Papers,
số 48
27. Bộ Ngoại giao phối hợp với chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (VASS) (2014), “Cải cách kinh tế vì tăng trưởng bao trùm và bền vững- Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
28. Calderon C and Chong A (2001), ‘External sector and income inequality in inter- dependent economies using a dynamic panel data approach’, Economic Letters, số 71(2), tr. 225-231
29. Castronova, E. (2001), ‘Inequality and income: the mediating effects of social
spending and risk’, Economics of Transition, tập 9, số 2, tr. 395-412
30. Chang, R., L. Kaltani and N. Loayza (2005), ‘Openness can be good for growth: The role of Policy Complementarities’, World Bank Policy Research Working Paper, số 3763, Washington, DC
31. Checchi, D.
inequality and
‘Education,
income
(2001),
inequality’, Distributional Analyses Research Programme Discussion Paper, số 52, tr. 1-69 32. Chiara Franco and Elisa Gerussi (2013), ‘Trade, foreign direct investment and
147
income inequality: Empirical evidence from transition economies’ The Journal of International Trade and Economic Development, tập 22, số 8
33. Chie Aoyagi and Ganelli (2015), Asia’ Quest for Inclusive Growth Revisited,
IMF Working Paper, WP/15/42
34. Chie Yoyagi and Giovanni Ganelli (2015), Asia’s Quest for Inclusive growth
Revisited, IMF Working Paper, WP/15/42.
35. Chiung-Ju Huang and Yuan-Hong Ho (2018), The impact of Governance on
Income Inequality in ten Asian countries
36. Christina Beatty, Richard Crisp and Tony Gore (2016), ‘An inclusive growth monitor for measuring the relationship between poverty and growth’, Joseph Rowntree Foundation, In Spring Social Change
37. Cielito F. Habito (2009), Patterns of inclusive growth in developing Asia: Insights from an Enhanced Growth- Poverty Elasticity Analysis, ADBI Working Paper Series.
38. Commission on Growth and Development (2008), Growth report: Strategies for
Sustained Growth and Inclusive Development, WB.
39. Crowe, C., (2004), Inflation, Inequality and Social Conflict, CEP Discussion
Paper, số 657, tr. 1-40
40. Datt, G. and M. Ravallion (1992), ‘Growth and redistribution components of changes in poverty measures’, Journal of Development Economics, No. 38 41. De Gregorio, J., and J.W.Lee (2002), ‘Education and Income Distribution: New Evidence from Cross-country Data’, Review of Income and Wealth, tập 48(3), tr. 395-416
42. Djeneba Doumbia (2018), ‘The quest for pro-poor and Inclusive growth: The role
of governance’, Discussion Paper, MTI Global Practice, World Bank Group
43. Đoàn Kim Thắng (2014), ‘Đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn Việt Nam thực
trạng và giải pháp’, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 9(82)
44. Dollar, D and Kraay A. (2002), ‘Growth is good for the poor’, Journal of
Economic Growth, No. 7.
45. Dollar, D. (1992), ‘Outward- Oriented Developing Economies really do grow more rapidly: Evidence from 95 LDCs, 1976- 1985’, Economic Development and Cultural Change, tập 40, tr. 523-544
47.
46. Dolmas, J., W.G. Huffman and M.A. Wynne (2000), ‘Inequality, Inflation and Central Bank Independence’, Canadian Journal of Economics, số 33, tr. 271-287 Easterly, W. and Rebello, S. (1993), ‘Fiscal policy and economic growth: An empirical investigation’, Journal of Monetary Economics, số 32, tr. 417-458
148
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56.
57.
58.
Easterly, W. and S. Fischer (2000), ‘Inflation and the poor’, NBER Working Paper, số 2335 Edward S. (1997), ‘Trade policy, growth and income distribution’, American Economic Review, tập 87, số 2, tr. 205-210 Erosa, A., and G. Ventura (2002), ‘On Inflation as a Regressive Consumption Tax’, Journal of Monetary Economics, số 49 (4), tr. 761-795 Faisal Munir and Sami Ullah (2018), ‘Inclusive Growth in Pakistan: Measurement and Determinants’, The Pakistan Journal of Social Issues, Special Issue Fedesarrollo (Centre for Economic and Social Research) (2015), ‘Informality and Inclusive growth in Latin America’, Regional Evidence Papers Felipe, J (2010), Inclusive growth through Full Employment: The role of investment and industrial policy, J.Zhuang, ed. Poverty, Inequality, and Inclusive growth in Asia, Manila: Anthem and ADB Felipe, J (2010), Inclusive growth, Full Employment, and Structural Change: Implications and Policies for developing Asia, ADB Felipe, J (2012), ‘Inclusive growth: Why is it important for developing Asia?, Promoting Leadership in though that leads to action’, Cadmus Journal, Vol 1, Issue 4 Fernando, N (2008), ‘Rural Development Outcomes and Drivers: An Overview and Some Lessons’, EARD Special Studies, ADB Florence Jaumotte, Subir Lall and Chris Papageorgiou (2008), Rising Income inequality: Technology, or Trade and Financial Globalization?, IMF Working Paper Franco, C. and Gerussi, E., (2013), ‘Trade, FDI, and Income Inequality: Further Evidence from Transition Countries’, The Journal of International Trade and Economic Development, số 22(8), tr. 1131-1160
59. G. Ramey and V.A. Ramey (1995), ‘Cross country evidence on the link between
volatility and growth’, American Economic Review, tập 85, số 5, tr. 1138-1151
60. Galli, R. and R. Van der Hoeven (2001), Is inflation bad for income inequality:
The importance of the initial rate of inflation’ manuscript
61. Ganesh Rauniyar and Ravi Kanbur (2009), Inclusive growth and inclusive development: A review and synthesis of Asian Development Bank Literature, Occasional No.8, ADB 2009.
62. Gavin, M. and Hausman, R. (1996), ‘Sources of Macroeconomic Volatility in Developing Economies’, Office of the Chief Economist’, Inter- American Development Bank
149
63. Gene M.Grossman and Elhanan Helpman (2018), ‘Growth, trade, and income
inequality’, Journal of the Econometric Society, tập 86, số 1, tr. 37-83
64. Gilles Dufrenot, Valerie Mignon, Charalambos G. Tsangarides (2009), ‘The trade- growth nexus in the developing countries: A Quantile Regression Approach’, Review of World Economics, số 146
65. Gouveia, M. and N.A Masia (1998), ‘Does the median voter model explain the size of government?: Evidence from the states’, Public Choice, số 97(1-2), tr. 159-177
66. Gulzar Khan and Sehar Munir (2018), ‘Measurement and Determinants of Inclusive Growth: A case study of Pakistan (1990- 2012)’, The Pakistan Development Review, số 55:4, tr. 455-466
67. Gunther Schmid (2014), ‘Inclusive growth: What future for the European social
model’, IZA Policy Paper, No 82
68. Habito, Cielito F.(2009), ‘Patterns of Inclusive growth in developing Asia: Insights from an enhanced growth-poverty elasticity analysis’, ADBI Working Papers, số 145
69. Halit, Y (2008), ‘Is trade liberalization a solution to the unemployment
problem?’, Turkish Economic Association, Discussion paper
70. Haruhiko Kuroda (2017), Toward inclusive growth in Asia, Keynote Speech at
the Global Think Tank Summit 2017 in Yokohama
71. Hausmann, R., D. Rodrik and A. Velasco (2005), Growth Diagnostics, The John F. Kennedy School of Government, Harvard University, Massachusetts 72. Hemmer (2005), Foreign direct investment and Income Inequality revisited,
Leibniz Information Centre for Economics
73. Holzner, M. (2010), Inequality, Growth, and public spending in Central, East and Southeast Europe, The Vienna Institute for International Economic Studies, Working Papers, số 71
75.
76.
74. Ho-Yin Yue and Shatin (2011), ‘Income inequality, economic growth and inflation: A study on Korea’, International Journal of Economics and Research, số 2, tr. 14-21 Ianchovichina, Elena, and S.Lundstrom Gable (2012), What is inclusive growth, In Commodity Prices and Inclusive growth in low-income countries, IMF Ibukun Cleopatra Oluseye, Aremo Adeleke Gabriel (2017), ‘Determinants of Inclusive growth in Nigeria: An ARDL Approach’, American Journal of Economics, số 7(3), tr. 97-109 Jenkins, H. (1995), ‘Education and Production in the United Kingdom’. Nuffield
77.
150
78.
79.
80.
College, Oxford, Economics Discussion Paper, số 101 John Luke Gallup (2002), ‘The Wage labor Market and Inequality in Vietnam in the 1990s’, số 2896, Policy Research Working Paper Jonathan Haughton and Shahidur R. Khandker (2009), Handbook on Poverty and Inequality, WB Jong-Wha Lee and Hanol Lee (2018), ‘Human capital and Income inequality’, ADBI Working Paper Series, số 810
81. Kakwani, N. (1977), ‘Measurement of Poverty and Negative Income Tax’,
Australian Economic Papers, số 16, tr. 159-284
82. Kakwani, N. and H. Son (2008), ‘Poverty Equivalent Growth Rate’, Review of
Income and Wealth, số 54(4), tr. 643-655
83. Kashif Munir and Maryam Sultan (2017), ‘Macroeconomic determinants of Income inequality in India and Pakistan’, Theoretical and Applied Economics, tập XXIV, số 4(613), tr. 109-120
84. Keynes, John.M.A (1996), Teoria geral do emprego, do juro e da moeda. Sao
Paulo: Nova Cultural
85. Khalifa, S., and Mengova, E. (2015), ‘Trading Tasks and Skill Premia’, Journal
of Finance and Economics, số 3(3), tr. 46-71
86. Knight, J.B., and R.H. Sabot (1983), ‘Educational Expansion and the Kuznets
Effect’, The American Economic Review, số 73(5), tr. 1132-1136
87. Kuznets, S., (1955), ‘Economic Growth and Income Inequality’, The American
88.
89.
90.
91.
92.
93.
Economic Review, số 45(1), tr. 1-28 L. Konya and C. Mouratidis (2006), ‘An empirical analysis of the ralationship between income inequality and growth volatility in 70 countries for 1960-2002’, Applied Econometrics and International Development, Euro- American Association of Economic Development, tập 8, số 1, tr. 19-40 Laidler, D. and M. Parkin (1975), ‘Inflation: A survey’, Economic Journal, số 85, tập 340, tr. 741-809 Lê Kim Sa và Vũ Hoàng Đạt (2014), Nhận diện tầng lớp trung lưu ở Việt Nam qua cách tiếp cận đa chiều, Viện Kinh tế và chính trị thế giới, số 10, tập 222, tr. 68-80. Lê Quốc Hội (2009), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam Lerman, R.I and Yitzhaki, S. (1989). ‘Improving the Accuracy of Estimates of Gini Coefficient’, Journal of Econometrics, số 42, tr. 43-47 Li, H. and H. Zou (2002), ‘Inflation, Growth and Income Distribution: A Cross- country Study’, Annals of Economics and Finance, số 3(1), tr. 85-101
151
94.
95.
96.
97.
Lindert, P.H. (1996), ‘What limits social spending?’, Explorations in Economic History, số 33, tr. 1-34 Lorenz, M.O (1905), ‘Methods of Measuring the Concentration of Wealth’, Publications of the American Statistical Association, số 9, tr. 209-219 Luiz de Mello and Erwin R. Tiongson (2006), ‘Income inequality and Redistribution Government Spending’, Public Finance Review, tập 34, số 3, tr. 282-305 Lundberg, M and Squire L (2003), ‘The simultaneous evolution of growth and inequality’ Economic Journal, số 113(487), tr. 326-344
98. Martin Rama (2001), Globalization, inequality and labor market policies 99. Matthew Higgins and Jeffrey G. Williamson (2002), ‘Explaning inequality the World Round: Cohort size, Kuznets Curves, and Openness’, Southeast Asian Studies, tập 40, số 3, tr. 268-297
100. Mello, M. and M.A. Dutz (2012), ‘Promoting Inclusive Growth: Challenges and
Policies’, The World Bank
101. Meltzer, A.H. and S.F. Richard (1983), ‘Tests of a rational theory of the size of
government’, Public Choice, số 41, tr 403-418
102. Meschi, E.F. and Vivarelli (2007), ‘Globalization and Income Inequality’, IZA
Discussion Paper, số 2958
103. Mincer, J. (1970), ‘The distribution of labor incomes: A survey with special reference to the human capital approach’, Journal of Economic Literature, số 8(1), tr. 1-26
104. Narob, N. (2015), ‘Income inequality and Inflation in Developing Countries: An
Empirical Investigation’, Economics Bulletin, tập 35, số 4
105. Nguyễn Đức Thành và Phạm Văn Đại (2014), ‘Chẩn đoán tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cho giai đoạn 2015- 2020’, Hội thảo Quốc gia “Thúc đẩy tăng trưởng bao hàm ở Việt Nam: Những hàm ý từ cách tiếp cận chẩn đoán tăng trưởng”, Hà Nội 08/2014.
106. Nguyen Minh Ha, Nguyen Dang Le, and Pham Trung Kien (2019), ‘The Impact of Urbanization on income inequality: A study in Vietnam’, Journal of Risk and Financial Management
107. Nguyễn Việt Cường và Phạm Minh Nguyệt (2018), “Economic growth, inequality, and Poverty in Vietnam”, Asian- Pacific Economic Literature, pp 45- 58, Vol 32, Issue 1
152
108. Nguyen, H, T, Doan; T.T và Trần Quang Tuyến (2018), “The effects of various income sources on inequality: A comparison across ethinic groups in Vietnam”, Environment, Development and Sustainability, pp 1-23, doi.org/10.1007/s10668- 018-0221-0, Springer, Netherlands.
109. Nugraha Pukuh and Hayu Fadlun Widyasthika (2017), ‘When Growth is Inclusive in Indonesia’, The Indonesian Journal of Development Planning, Tập 1, số 3, tr 195-209
110. Oguzhan C. Dincer and Burak Gunalp (2001), Corruption, Income inequality,
and Poverty in the United States, Fondazione Eni Enrico Mattei.
111. Okun Arthur (1975), Equality and Efficiency: The big Tradeoff, Brookings
Institution Press
112. Paramasivan S Vellala, Mani K Madala and Utpal Chhattopadhyay (2014), A
theroretical model for inclusive economic growth in Indian context
113. Park, K., (1997), ‘Educational Expansion and Educational Inequality on Income
Distribution’, Economics of Education Review, số 15, tr. 51-58
114. Perotti, R. (1996), ‘Growth, income distribution, and democracy: What the data
say’, Journal of Economic Growth, số 1, tr 149-187
115. Peter Foldvari and Van Leeuwen (2011), ‘Should less inequality ineducation lead
to a more equal income distribution?’, manuscript
116. Phạm Minh Thái (2014), ‘Tăng trưởng bao hàm ở Việt Nam: Khía cạnh thị trường lao động’, Hội thảo quốc gia: “Thúc đẩy tăng trưởng bao hàm ở Việt Nam: Những hàm ý từ cách tiếp cận chẩn đoán tăng trưởng”, Hà Nội 08/2014. 117. Phạm Minh Thái và Vũ Thị Minh Ngọc (2014), Di cư và tăng trưởng bao trùm
118. Phạm Xuân Hoan (2008), ‘Tăng trưởng công bằng, một chiến lược phát triển mới’, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 357.
119. Piketty, T. (2014), ‘Capital in the twenty-first centuty’, Cambridge, MA: Harvard
University Press
120. Ram, R. (1984), ‘Population increase, Economic Growth, Educational Inequality, and Income Distribution: Some Recent Evidence’, Journal of Development Economics, số 14, tr. 419-428
121. Ranieri, R., and Ramos, R.A (2013), ‘Inclusive growth: the Building up of a Concept’, IPC-IG Working Paper, số 104, Brasilia, International Policy Centre for Inclusive Growth
122. Ravallion, M (2004), ‘Pro-Poor Growth: A Primer” The World Bank’, Policy
Research Working Paper No. 3242.
ở Việt Nam: Xu hướng gần đây và hàm ý chính sách
153
123. Ravi Balakrishnan, Chad Steinberg and Murtaza Syed (2013), The elusive quest for inclusive growth: Growth, poverty and inequality in Asia, IMF Working Paper, số 13/152
124. Report on the OECD Framework for Inclusive growth
125. Rhee, C., Zhuang, J., Kanbur, R., and Felipe, J., (2014), ‘Confronting Asia’ rising inequality: policy option,’ In: Kanbur, R., Rhee, C. and Zhuang, J (eds), Inequality in Asia and the Pacific: Trends, Drivers, and Policy Implications, Routledge: London
126. Richard A. Musgrave (1980), ‘Excess bias and the nature of budget growth’,
Journal of Public Economics, tập 28, số 3, tr. 287-308
127. Rodriguez, F. (1999), ‘Does distributional skewness lead to redistribution? Evidence from the United States’, Economics and Politics, số 11(2), tr 171-199 128. S.R.Osmani (2008), ‘The demands of inclusive growth: Lessons from South
Asia’, The Pakistan Development Review, Vol 47, pp 381-402
129. Sachs, J.D., and A. Warner (1995), ‘Economic Reform and the Process of Global
Integration’, Brookings Papers on Economic Activity, số 1, tr. 1-118
130. Sajid, A. and Ali, A. (2018), ‘Inclusive growth and Macroeconomic Situations in
South Asia: An Empirical Analysis’, Munich Personal RePEc Archive
131. Savvides A., (1998), ‘Trade Policy and Income Inequality: New evidence,
(forthcoming)’, Economic Letters
132. Sebastian Edwards (1997), ‘Trade policy, Growth, and Income distribution’,
American Economic Review, tập 87, số 2, tr. 205-210
133. Solow, R. (1957), ‘Technical change and the aggregate production function’, The
Review of Economics and Statistics, số 39(3), tr. 312-320
134. Stanley Fisher and Franco Modigliani (1978), ‘Towards an Understanding of the
real effects and costs of inflation’, NBER Working Paper, số 303
135. Stephan Klasen (2010), Measuring and monitoring inclusive growth: Multiple definitions, open questions and some constructive proposals, ADB Sustainable Development Working Paper Series
136. Sylwester, K. (2002), ‘Can education expenditures reduce income inequality?,
Economics of Education Review, tập 21, số 1, tr. 43-52
137. Talah S. Arabiyat, Metri Mdanat, Ghazi Samawi (2019), ‘Trade openness, inclusive growth, and inequality: Evidence from Jordan’, The Journal of Developing Areas, Tập 54, số 1, tr. 121-133
138. Tandon, A and J. Zhuang (2007), Inclusiveness of economic growth in the
People’s Republic of China
154
139. Tanninen, H. (1999), ‘Income inequality, Government Expenditures and
Growth’, Applied Economics, số 31, tr. 1109-1117
140. Terry McKinley (2010), Inclusive growth Criteria and Indicators: An Inclusive
growth Index for Diagnosis of country progress.
141. The Inclusive growth and Development Report (2015, 2016), World Economic
Forum
142. Thi Cam Van Cao and Takahiro Akita (2008), ‘Urban and Rural Dimension of Income Inequality in Vietnam’, GSIR Working Papers, Economic Development and Policy Series
143. Todaro, M.P (1994), Economic Development, 5th ed, New York: Longman
Publishers
144. Tovar Jalles and Luiz de Mello (2019), ‘Cross Country Evidence on the Determinants of Inclusive growth Episodes’, Research in Economics and Mathematics Working Paper, số 81
145. Tsai, P.L (1995), ‘Foreign direct investment and Income inequality: Further
evidence’, World Development, tập 23, số 3, tr. 469-483
146. UNDP (2015), Tăng trưởng vì mọi người, Báo cáo phát triển con người Việt Nam
147. Velde, D. and Morrissey, O., (2004), ‘Foreign direct investment, skills and wage inequality in East Asia’, Journal of the Asia Pacific Economy, số 9(3), tr. 348- 369
148. Vũ Hoàng Đạt (2013), Inclusive growth index in Viet Nam, Mekong Economic
Research Network
149. World Bank (2008), What Are the Constraints to Inclusive Growth in Zambia?
Report No. 44286-ZM, Washington DC: World Bank.
150. World Bank (2009), What is Inclusive growth? Washington DC: World Bank. 151. Yasser Javed, Ihtsham Ul Haq Padda, Waqar Akram (2018), ‘An analysis of Inclusive growth for South Asia’, Journal of Education and Social Sciences, số 6(1), tr. 110-122
152. Yue, H.Y., (2001), ‘Income Inequality, Economic Growth and Inflation: A study on Korea’, International Journal of Economics and Research, số 2(5), tr. 14-21 153. Yuwa Hedrik- Wong (2014), Mapping the path to Future Prosperity: Emerging markets inclusive growth index, MasterCard Centre for Inclusive growth. 154. Zunia, Saif Tirmazee and Maryiam Haroon (2015), ‘Growth in Pakistan: Inclusive or not’, The Pakistan Development Review, số 54:4, tr. 335-350
đến năm 2015 về tăng trưởng bao trùm
155
PHỤ LỤC
Bảng 1: Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng và tốc độ tăng thu nhập bình quân (Thành thị, nông thôn)
Đơn vị tính: nghìn đồng
2008
2012
2002 622.1 275.1 347 2.26
2004 2006 815.4 1058.4 505.7 378.1 552.7 437.3 2.09 2.15
2010 1605.2 2129.5 762.2 1070.4 843 1059.1 1.99 2.1
2016 2014 2989.1 3964.5 4551.3 1579.4 2038.4 2422.7 1409.4 1926.1 2128.6 1.88 1.95
1.89
Chỉ tiêu Thành thị Nông thôn Chênh lệch Tỷ lệ (lần) Tốc độ tăng thu nhập bình quân Thành thị Nông thôn
31.07 37.44
29.8 1.95
51.66 50.72
40.36 47.55
32.63 29.06
14.8 18.85
1926.1 40.43
Bảng 2: Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo vùng
Đơn vị tính: nghìn đồng
2010
2014
2008
Các vùng Đồng bằng Sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long
2016 2012 1064.8 1580.4 2350.6 3264.9 3883.3 904.6 1258.4 1613.4 1962.6 656.7 728.2 1018 1505.2 1982.3 2357.6 796.4 1087.9 1643.3 2008.5 2365.9 1773.2 2304.3 3172.8 4124.9 4661.7 939.9 1247.2 1796.7 2326.8 2777.6
Bảng 3: Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo dân tộc
Đơn vị tính: nghìn đồng
2004 488.73
2008 610.76
2010 140.30
2006 558.86
2012 790.98
2014 833.55
2016 1009.06
301.79
291.08
362.60
391.81
260.53
64.31
513.70
Dân tộc Kinh Dân tộc khác Bảng 4: Tốc độ tăng thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo vùng
Đơn vị tính: %
2008-10 2010-12 2012-14 2014-16 18.94 21.64 18.93 17.79 13.01 19.37
38.89 28.21 31.69 22.22 30.01 29.5
48.42 37.75 39.79 36.6 29.95 32.69
48.73 39.11 47.86 51.05 37.69 44.06
Các vùng Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
156
Bảng 5: Tốc độ tăng thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo 5 nhóm thu nhập
Đơn vị tính: %
2002-04
2004-06
2006-08
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
31.66 35 38.25 38.79 35.45
29.97 32.49 32.25 31.97 30.40
2008-10 34.33 40.15 42.93 39.60 38.73
2010-12 38.49 41.76 49.90 49.15 40.30
2012-14 2014-16 16.79 15.42 16.71 18.56 17.69
28.97 38.58 31.47 27.35 34.03
49.21 49.64 52.52 57.29 59.45
Bảng 6: Tốc độ tăng thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng theo dân tộc
Đơn vị tính: %
2004-06
2006-08
2008-10
2010-12
2012-14
Kinh Dân tộc khác
33.01 29.96
45.31 38.22
51.46 1841.95
36.47 2568.52
2014-16 17.83 23.66
19.40 23.22
Bảng 7: Cơ cấu thu nhập chia theo nguồn thu nhập (cả nước)
Đơn vị tính: %
2004 32.71
2006 34.25
2008 34.72
2010 44.9
2012 46.16
2014 47.52
2016 48
27.19 5.81
24.87 6.02
23.98 5.59
19.82 4.79
17.38 4.94
16.46 5.26
20.1 5.7
Tiền lương, tiền công Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp xây dựng Thương nghiệp và dịch vụ Nguồn khác
16.64 17.65
16.78 18.08
17.06 18.65
17.32 11.89
17.42 12.7
18.87 11.42
17.9 11.4
Bảng 8: Cơ cấu thu nhập chia theo nguồn thu nhập (Thành thị)
Đơn vị tính: %
2004 42.44
2006 42.87
2008 42.58
2010 54.87
2012 55.76
2014 56.15
2016 55.74
5.89 5.85
5.49 6.79
4.84 5.5
4.51 5.79
4.91 4.44
4.41 4.46
4.29 4.59
Nguồn thu Tiền lương, tiền công Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Thương nghiệp và dịch vụ Khác
23.53 22.29
23.16 21.69
23.22 23.86
22.43 12.4
22 12.89
21.49 13.49
23.79 11.59
157
Bảng 9: Cơ cấu thu nhập chia theo nguồn thu nhập (Nông thôn)
Đơn vị tính: %
2004 25.94
2006 27.68
2008 28.39
2010 36.39
2012 38.44
2014 39.94
2016 41.23
41.94 5.78
39.49 5.46
39.4 5.68
33.4 5.6
31.82 5.09
28.77 5.42
27.09 5.83
Nguồn thu Tiền công, tiền lương Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Thương nghiệp và dịch vụ Khác
11.9 14.44
12.04 15.33
12.09 14.44
14.08 10.53
13.56 11.09
13.85 12.02
14.6 11.25
Bảng 10: Tỷ lệ hộ gia đình có điện lưới (Thành thị, nông thôn)
Đơn vị tính: %
Khu vực Thành thị Nông thôn
2002 98.2 82.7
2004 99 91.6
2006 99.1 94.9
2008 99.6 96.8
2010 99.6 96.2
2012 99.8 96.6
2014 99.8 97.6
2016 99.8 98.3
Bảng 11: Tỷ lệ hộ gia đình có điện lưới theo vùng
Đơn vị tính: %
Các vùng Đồng bằng Sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long
2008 99.7 99.1 98.9 96.9 98.7 97
2010 99.7 99.1 97.3 96.8 98.9 96.6
2012 99.9 90.7 97.6 97.5 99.3 97.8
2014 99.9 93 98.3 98.2 99.3 99.1
2016 99.9 94.8 98.6 98.9 99.7 99.6
Bảng 12: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại, bán tự hoại (Thành thị và nông thôn)
Đơn vị tính: %
2006 73.8 19.3
2008 78.7 25.9
2010 84.4 39.6
2012 86.4 48
2014 89.7 56.9
2016 92 64
Khu vực Thành thị Nông thôn
Bảng 13: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại, bán tự hoại phân theo vùng
Đơn vị tính: %
Các vùng Đồng bằng sông Hồng
2008 2010 2012 2014 2016 51.4 63.8 72.5 81.3 87.6
158
Trung du và miền núi phía Bắc Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long
19.1 26.9 31.6 41 48.2 33.7 48.7 55.2 62.4 68.4 29.8 39.7 48.4 54 59.1 73.2 80.5 83.7 87.6 89.9 57 65.2 28.5 42.3 47.9
Bảng 14: Tỷ lệ hộ gia đình có vệ sinh tự hoại, bán tự hoại phân theo 5 nhóm thu nhập
Đơn vị tính: %
Nhóm thu nhập Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
2006 6.2 14.2 25.5 45.4 72.9
2008 9.7 22.7 33.3 54.7 76.7
2010 18.5 35.1 50.5 67.2 84.3
2012 23 43.6 60.7 73.7 87.2
2014 30 54 70.3 82 90
2016 34 60 75.9 86 92.4
Bảng 15: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy (Thành thị, nông thôn)
Đơn vị tính: %
Khu vực Thành thị Nông thôn
2002 51.7 5.5
2004 56.9 6.3
2006 62.4 8.6
2008 66.1 10.6
2010 68.4 10.5
2012 71 13.8
2014 73.4 16.6
2016 77.4 21.4
Bảng 16: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy theo vùng
Đơn vị tính: %
Các vùng Đồng bằng Sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
2008 2010 2012 2014 2016 33.4 40.2 48.1 14.9 15.6 17.4 24.1 26.1 31.7 13.3 16.8 17.7 49.4 53.6 57.3 44 35.2 38.1
26 15.1 21.1 15.7 42 30.5
29.4 13.9 22.3 13.6 46.9 30.2
Bảng 17: Tỷ lệ hộ gia đình có nước máy phân theo 5 nhóm thu nhập
Đơn vị tính: %
Nhóm thu nhập Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
2006 6.1 10.6 17.3 29.3 49.4
2008 8.6 15.9 18 33 51.3
2010 8.6 15.7 21.8 35 54.2
2012 9.4 19.7 27.3 38.2 55.4
2014 10.6 21.9 32.6 43.2 58.2
2016 13.4 26.3 36.8 48.1 60.9
159
Bảng 18: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính
Đơn vị tính: %
2007
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016 71.41 74.35 75.82 76.17 76.95 76.69 77.54 77.53 77.41 76.74
Tiêu chí 2004 Cả nước Nam Nữ
75.49 78.45 80.43 81.04 81.60 81.16 82.07 82.12 82.43 81.65 67.60 72.53 71.49 71.57 71.57 72.46 73.26 73.22 72.71 72.12
Bảng 19: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo (Phân theo thành thị, nông thôn và theo giới tính)
Đơn vị tính: %
2007 30.4
2008 32.2
2009 32.8
2010 31.6
2011 32
2012 33.1
2013 35.2
2014 35.9
2015 38
2016 39.2
8.5
8.6
9
8.9
9.5
10.7
11.9
12
13.5
13.9
Tiêu chí Thành Thị Nông thôn Nam Nữ
15.8 12.3
16.6 13
17.1 13.7
16.6 13.9
17.6 14.7
19.1 15.9
20.8 17
21.2 17.7
23.2 19.3
24 20.2
Bảng 20: Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội phân theo 5 nhóm thu nhập
Đơn vị tính: %
Nhóm thu nhập Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
2006 36.08 22.12 14.11 7.95 5.51
2010 32.13 19.39 11.18 5.59 2.15
2012 30.21 20.41 11.66 6.93 2.82
2014 33.42 20.35 12.33 7.02 3.11
Bảng 21: Chỉ số bao trùm về giáo dục của các tỉnh, thành phố ở Việt Nam (chỉ số cơ hội) (Tính theo số năm học cao nhất) (Đây là nguồn dữ liệu cho biến độc lập: Chỉ số bao trùm về giáo dục: ledu)
2006
2008
2010
2012
2014
2016
Tỉnh/Thành phố 2004
Hà Nội 9.634822 9.789736 9.875725 10.12212 9.939134 10.02593 10.07176
Hà Giang 6.701854 7.118667 6.519301 6.507571 7.430933 7.577084 Cao Bằng 7.825626 8.376054 7.492048 7.826749
7.55386 8.8392 8.952443 9.020345
Bắc Kạn 8.876472 9.190749 8.665195 8.466991 7.956452 8.512877 9.143776 9.09503 7.853965 8.883732 9.187459 9.538331
Tuyên Quang 8.888276 9.442707
Lào Cai 6.778764 7.510107 7.135027 7.593037 8.186157 8.213797
8.55147 Điện Biên 5.602247 6.083185 6.363654 6.188367 6.657175 7.031578 7.477766
Lai Châu 4.665978 5.261267 6.558736 5.602343
5.31731 6.596688 8.119647 Sơn La 6.652047 7.056927 7.049621 7.920744 8.011631 8.107445 8.591422
Yên Bái 8.404227 7.973457 8.903316 7.421634 7.661485 7.398473 8.334764
160
Hòa Bình 8.631487 8.792039 9.475482 8.214376 9.071903
9.59543 9.165156
Thái Nguyên 9.202439 8.847521 8.953859 9.277531 9.182547 9.858087 9.695517 8.83831 9.379631
Lạng Sơn 8.686353 8.838932 8.450229 8.995244 8.877057
Quảng Ninh 10.25571 9.223474 9.325546 8.661716 8.558314 9.199435 9.236675 Bắc Giang 8.971509 8.911212 8.522568 9.330627 9.023279 9.089169 9.258934
Phú Thọ 9.864823 9.653616 9.353512 9.266491 9.451009 9.624232 9.872222 9.75249 10.19722 9.966032
Vĩnh Phúc 9.900147 10.17328 9.557904 9.581094
Bắc Ninh 9.183767 9.223563 8.762049 9.251724 9.540188 9.364596 9.965081 9.29765 9.365043
9.05699 9.109275 9.012197 9.183411 8.973797
Hải Dương
9.58273 9.273112 9.617365
Hải Phòng 9.502087 Hưng Yên 8.310987 9.286328
9.60416 9.516157 9.971027 9.37176 8.887676 9.211151 9.501412 9.361424
Thái Bình
Hà Nam 8.725831 8.317923 8.410311 10.05186 9.352127
9.41949 8.851417 9.196533 8.612212 8.696897 8.326551 8.447495 9.66604 8.732534
Nam Định 7.344219 8.065655 8.331895 8.799212 7.636893 Ninh Bình 8.371262 8.864359 9.519256 9.567152
8.7315 8.897341 8.51304 8.668523 9.343383
Thanh Hóa 9.120118 9.403127 8.964828 9.781453 9.120623 9.220573 9.413836 Nghệ An 8.685785 8.405176 8.330273 9.280994 9.292176 9.309093 9.495811
Hà Tĩnh 8.539327 9.331758 9.003156
Quảng Bình 9.367693 9.228157 9.526367 8.107153 8.567879
9.17323 9.253571 9.204771 9.170749 8.86971 8.899558
Quảng Trị 8.350171 8.056767 9.018014 8.867059 9.043723 9.875675 9.030116 8.74532
Huế 8.014174 7.742369 7.396992 8.609241 8.959074 8.764763
Đà Nẵng 9.422565 10.06496
9.59198
10.0621 9.847267 10.00876 9.790846 8.37951 8.851007 8.306198 7.860684 7.964088 8.162004
Quảng Nam 7.592699
Quảng Ngãi 8.016488 8.340302 8.327399 8.101639 7.883665 8.006086 7.501935 8.11718 8.092243 7.397738 8.015204
Bình Định 7.974923 7.925821 8.581449
Phú Yên 8.148681 8.429284 7.930481 8.884764 7.920592
7.66343 7.560532 Khánh Hòa 8.051776 8.184871 8.621781 8.847984 8.530429 8.291182 8.660231
Ninh Thuận 5.900796 5.999732 7.041459 6.484518 7.957094 Bình Thuận
6.99995 7.345285 7.992078 7.377743
7.94591 7.6537 7.54225 7.085729 7.293768
Kon Tum 6.756402 7.141021 6.878411 8.424117 7.617973 8.005896 Gia Lai 5.918637 6.095575 6.208351 6.788059 6.777601 6.771066
8.4223 7.01566
Đắk Lắk 7.525679 8.249884 8.103292 7.683975 7.891877 7.958852 9.133761 9.1792 8.237833 8.610034 8.115659 8.739743
Đắk Nông 7.869429 8.669376
Lâm Đồng 7.451695 8.015427 8.598498 9.012204 8.926574 8.718839 8.629466 Bình Phước 6.933921 6.588904 8.330355 8.257374 8.660441 8.566886 8.116054
Tây Ninh
7.82634
7.74112 8.050276
Bình Dương 8.289307 8.153885 8.674257 8.470019 8.097362 8.290872
8.51925 7.672158 7.826687 8.838892 8.64045
Đồng Nai 8.943705 8.836268 9.583166 8.692335
9.21643 9.191624 9.583798 9.21403 9.635499 8.936644 8.250221 8.462005 9.134433
Bà Rịa Vũng Tàu 9.367216
TP. Hồ Chí Minh 9.750896 9.878584 9.716256 9.513114 9.693227 9.937116 10.30062 Long An 7.488319 7.384074 7.946283 8.103678 8.759876 8.112633 8.186984
Tiền Giang 8.112338 7.454304
7.64818 7.393179 7.876453 8.208337 8.074342 Bến Tre 7.152651 7.903437 8.224948 7.616495 7.877414 6.981337 6.871897
Trà Vinh 7.962301
8.37987 8.011062 8.130021
6.85539 7.185076 7.146507 7.756559 7.103746 7.798632 7.52415
7.72142 7.768915
7.71068
Vĩnh Long
Đồng Tháp 7.582452 7.641452 7.921901 7.273411 7.209739 7.235065 8.298829
161
An Giang 6.187603 7.307379 7.777647 6.215023
6.96253
6.55224 6.935545
Kiên Giang 6.900398 7.049258 7.120375 7.225226 7.126144 6.866252 7.522714 7.41229 7.242735 7.873421 7.520192 8.317462
Cần Thơ 6.829206 7.471123
Hậu Giang 7.279964 6.789214 6.966809 7.229397 7.098318 6.77003 7.626996 Sóc Trăng 6.598562 6.607595 6.948411 6.932988 7.044295 7.201009 6.929716
Bạc Liêu 7.567347 6.936739 7.743008 7.843699 7.808878 7.760255 7.977238 7.27158 7.788971 7.734272 Cà Mau 7.531968 7.370751 7.444481 7.374431
Bảng 22: Chỉ số bao trùm về thu nhập của các tỉnh, thành phố (Chỉ số dịch chuyển xã hội). Đây là nguồn dữ liệu cho biến phụ thuộc
2014
2008
2006
2012
2010
2004
Tỉnh/Thành phố
1.73347
2016 Hà Nội 3.386381 3.868939 4.096758 6.635037 6.863377 7.568685 9.035906 Hà Giang 1.80706 1.892497 2.004102 1.799019 2.188801 2.563603 2.767523 Cao Bằng 1.843471 2.111424 1.885389 1.926175 2.526292 2.644019 2.750546 Bắc Kan 1.664372 2.162986 2.04768 2.741275 2.687732 2.337565 2.673868 Tuyên Quang 2.222248 2.498584 2.523293 2.416256 3.236738 3.446171 3.781613 Lào Cai 1.760923 2.204076 2.318211 2.477131 2.601636 2.883508 3.652479 Điện Biên 1.538399 1.624604 1.912361 1.87465 2.709539 2.424311 Lai Châu 1.284525 1.356356 1.513428 1.853289 1.971446 2.151195 2.860035 2.48763 2.619907 2.732239
2.50201 2.675883 2.706239 2.697444 3.364291
2.31366
Thái Nguyên 2.480267 2.894076 2.657629 3.388645 4.348233
Phú Thọ
2.39019 2.902888 3.000399 3.733342 3.998907
Sơn La 1.832922 2.108563 2.196976 2.583719 Yên Bái 4.11948 Hòa Bình 1.881088 2.179536 2.205273 2.600109 3.123546 3.526413 4.537401 4.72581 5.434741 Lạng Sơn 2.353509 2.725197 2.680038 2.540787 2.728091 2.976916 3.839776 Quảng Ninh 4.576786 4.139527 4.174088 5.241264 6.673264 6.657758 7.694322 Bắc Giang 2.420934 2.792049 2.754225 3.379544 4.376772 4.794902 5.591929 4.35226 5.268789 4.52211 5.134254 6.063512
Vĩnh Phúc 2.892547 3.178092 3.324716 3.863847 Bắc Ninh 3.418505 3.371625 3.548646 5.669751 5.892718 7.409702
5.18023
8.53875 5.60351 6.579116
2.40837
Hải Dương 2.952381 3.375262 3.228948 4.418593 Hải Phòng 3.056718 3.606101 3.724268 5.628539 6.365527 7.121996 8.8175 Hưng Yên 2.696074 3.335822 2.957682 4.747645 5.125735 4.922972 6.482732 Thái Bình 2.488052 2.743496 2.913868 3.956671 4.096267 4.596148 5.535305 Hà Nam 2.335508 2.746567 2.534716 4.396886 4.678168 5.062099 5.909958 3.0486 3.334058 4.076878 4.508521 5.988453 6.230908 3.89771 4.390501 4.571706 6.036591
Nam Định Ninh Bình 2.368026 2.767959 2.616333 Thanh Hóa 1.980731
Huế 2.525373 2.797055
3.04775 3.555173 4.256729
2.27155 2.692235 2.17535 3.29599 3.753977 4.187512 Nghệ An 1.989987 2.172517 2.310024 2.928342 3.4508 3.594313 3.682203 Hà Tĩnh 1.872291 2.054157 2.155549 2.782794 3.337194 3.543123 4.533391 Quảng Bình 1.988588 2.376404 2.551738 3.133047 3.669876 3.791309 4.456398 Quảng Trị 1.993257 2.226332 2.496551 3.081897 3.304085 3.844817 4.282076 4.63401 5.092131 Đà Nẵng 5.007878 5.260518 5.082076 5.927317 7.229401 7.201382 9.172059 3.21118 3.806773 3.691723 4.460668
Quảng Nam 2.051481 2.562686 2.685434 Quảng Ngãi 2.252269 2.616421 2.578786 3.070583
3.32906 3.552742 4.305103
162
Bình Định 2.705205
2.86796 3.130066 4.475207 4.944437 5.264831
5.37788
Phú Yên 2.484817 2.884336 2.589027 3.643167
3.74704 4.403851 5.284465 5.75155
2.31638 2.621683 2.668375
4.32142 4.187425
3.4461
Tây Ninh
Bình Dương
Khánh Hòa 3.205613 3.132123 3.332253 3.560077 4.468345 5.378025 Ninh Thuận 2.136379 2.369998 2.570632 3.486837 4.235171 4.21604 4.644662 Bình Thuận 3.124531 3.403615 3.399667 4.099752 4.984962 5.274531 6.141512 Kon Tum 2.340462 2.414054 2.476011 3.499188 2.985075 3.454487 4.134335 Gia Lai 2.300429 2.348825 2.507351 3.424168 3.819529 3.620981 3.740599 Đắc Lắk 4.98846 Đắc Nông 2.053628 3.160546 2.774078 3.389302 3.668664 3.285663 4.327896 Lâm Đồng 2.760986 3.114304 3.12586 4.152034 5.352023 5.172488 6.137245 Bình Phước 3.602872 3.546278 4.321487 5.251805 4.816277 4.869596 5.654829 2.98787 3.677294 4.157372 4.668948 5.301385 5.726542 6.838801 9.22954 9.854255 4.88379 6.280331 7.613693 7.548397
8.97454
Đồng Nai 4.305105
4.81274
5.06893
5.42557 6.592617 7.260475 9.654554
3.82947 4.413386 4.369305 5.004479 6.040534 6.141491 8.141088
Bà Rịa Vũng Tàu TP. Hồ Chí
Minh 7.628215 7.860145 7.934738
9.48396 8.937666 10.19774 11.99204
Long An 2.858727
3.14546 3.214325 4.509264 5.115289 5.182088 6.622891 Tiền Giang 3.201291 3.405514 3.305107 4.246088 4.813961 5.776454 6.328151 Bến Tre 2.752005 3.318722 3.718967 3.949043 3.997816 4.652986 5.339667 Trà Vinh 2.720513 2.843858 2.93248 3.194652 3.273096 3.988756 4.528997
Vĩnh Long 3.108343 3.456642 3.318919 4.40383 4.911227 4.881969 4.648 Đồng Tháp 2.63407 3.378733 2.859335 3.646995 3.509142 4.227369 5.471852 An Giang 3.012185 3.507332 3.519655 4.462492 4.325926 5.090024 6.074095 5.33242
Kiên Giang 2.909496 3.431301 3.404046 3.618862 4.123396
4.67476
Cần Thơ 3.137928
4.54753 4.616244 5.397384 5.667228 5.414197 6.420445 3.86297 3.740316 4.635524 4.877279
Hậu Giang 3.167274 3.169599 3.253701 Sóc Trăng 2.519236 2.708692 2.574928 3.584171 3.519986 4.41495 4.722813 Bạc Liêu 3.042571 3.242945 3.193836 4.607523 5.306149 4.873107 4.591231 Cà Mau 3.013339 3.387019 3.514927 3.99389 4.018504 4.291612
3.55619
1. Mô tả ma trận không gian
163
2. Ma trận không gian liên kết với các biến trong mô hình
3. Ma trận biên tiếp giáp
SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8844 between = 0.1932 overall = 0.3980
Mean of fixed-effects = -0.9888
Log-likelihood = 5.9164 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .1229534 .0432895 2.84 0.005 .0381076 .2077992 i_gdp .2262603 .0847099 2.67 0.008 .0602319 .3922887 lcpi1 -.173992 .0314676 -5.53 0.000 -.2356673 -.1123166 lfdi -.0028541 .0031037 -0.92 0.358 -.0089372 .0032291 lpci -.0030403 .0036336 -0.84 0.403 -.010162 .0040813 lchins .0379777 .0068857 5.52 0.000 .0244819 .0514734 ledu .3063292 .0687131 4.46 0.000 .171654 .4410045 labor_tyle .737221 .1640547 4.49 0.000 .4156798 1.058762 lyte2 -.055728 .0149426 -3.73 0.000 -.085015 -.0264411 Spatial rho .5156543 .0519743 9.92 0.000 .4137866 .617522 lambda -.2840077 .087409 -3.25 0.001 -.4553262 -.1126893 Variance sigma2_e .0071124 .0004448 15.99 0.000 .0062406 .0079842
164
4. Ma trận khoảng cách tới 3 tỉnh trung tâm (Hà Nội – Đà Nẵng – TP. Hồ Chí Minh) SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8782 between = 0.0002 overall = 0.2014
Mean of fixed-effects = -0.9351
Log-likelihood = 5.9164 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .1168256 .046989 2.49 0.013 .0247289 .2089223 i_gdp .2688551 .0926121 2.90 0.004 .0873388 .4503714 lcpi1 -.2466934 .0389471 -6.33 0.000 -.3230283 -.1703584 lfdi -.005288 .0034442 -1.54 0.125 -.0120385 .0014626 lpci -.0022714 .0046426 -0.49 0.625 -.0113707 .0068279 lchins .0449775 .0078512 5.73 0.000 .0295895 .0603656 ledu .3128539 .0741681 4.22 0.000 .1674872 .4582207 labor_tyle 1.028887 .1815259 5.67 0.000 .6731026 1.384671 lyte2 -.0567458 .0194987 -2.91 0.004 -.0949627 -.018529 Spatial rho .3813882 .0692452 5.51 0.000 .2456702 .5171063 lambda -.0347871 .1414199 -0.25 0.806 -.311965 .2423907 Variance sigma2_e .0076694 .0004547 16.87 0.000 .0067782 .0085607
5. Ma trận tiếp giáp bậc nhất SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8972 between = 0.4716 overall = 0.6401
Mean of fixed-effects = -0.7586
Log-likelihood = 5.9164 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .0930385 .0371468 2.50 0.012 .0202321 .1658449 i_gdp .1862314 .0707496 2.63 0.008 .0475647 .324898 lcpi1 -.1029798 .0250582 -4.11 0.000 -.1520929 -.0538667 lfdi -.0035282 .0025034 -1.41 0.159 -.0084348 .0013784 lpci -.0007347 .0026835 -0.27 0.784 -.0059943 .004525 lchins .0238384 .0054064 4.41 0.000 .0132421 .0344347 ledu .233142 .05865 3.98 0.000 .1181901 .348094 labor_tyle .6295454 .1340255 4.70 0.000 .3668603 .8922305 lyte2 -.0531131 .0131107 -4.05 0.000 -.0788095 -.0274167 Spatial rho .703226 .0403412 17.43 0.000 .6241588 .7822933 lambda -.596657 .0908274 -6.57 0.000 -.7746754 -.4186385 Variance sigma2_e .0055277 .0003869 14.29 0.000 .0047695 .0062859
. end of do-file
165
6. Ma trận tiếp giáp bậc nhất dựa trên tỷ lệ tiếp giáp . xsmle $ylist $xlist , wmat(W)emat(W) model(sac) fe type(ind) noeff nolog
SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8972 between = 0.4716 overall = 0.6401
Mean of fixed-effects = -0.7586
Log-likelihood = 5.9164 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .0930385 .0371468 2.50 0.012 .0202321 .1658449 i_gdp .1862314 .0707496 2.63 0.008 .0475647 .324898 lcpi1 -.1029798 .0250582 -4.11 0.000 -.1520929 -.0538667 lfdi -.0035282 .0025034 -1.41 0.159 -.0084348 .0013784 lpci -.0007347 .0026835 -0.27 0.784 -.0059943 .004525 lchins .0238384 .0054064 4.41 0.000 .0132421 .0344347 ledu .233142 .05865 3.98 0.000 .1181901 .348094 labor_tyle .6295454 .1340255 4.70 0.000 .3668603 .8922305 lyte2 -.0531131 .0131107 -4.05 0.000 -.0788095 -.0274167 Spatial rho .703226 .0403412 17.43 0.000 .6241588 .7822933 lambda -.596657 .0908274 -6.57 0.000 -.7746754 -.4186385 Variance sigma2_e .0055277 .0003869 14.29 0.000 .0047695 .0062859 7. Ma trận không gian tọa độ
SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8883 between = 0.4028 overall = 0.5725
Mean of fixed-effects = -0.8627
Log-likelihood = 5.9164 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .090503 .0454432 1.99 0.046 .0014359 .17957 i_gdp .2261911 .0918538 2.46 0.014 .0461609 .4062213 lcpi1 -.123546 .0406044 -3.04 0.002 -.2031291 -.0439628 lfdi -.0015105 .0033777 -0.45 0.655 -.0081306 .0051096 lpci -.0027387 .0051006 -0.54 0.591 -.0127357 .0072584 lchins .0242968 .0086951 2.79 0.005 .0072547 .0413388 ledu .298728 .0725349 4.12 0.000 .1565622 .4408938 labor_tyle .5195117 .1760792 2.95 0.003 .1744028 .8646205 lyte2 -.0606878 .0166275 -3.65 0.000 -.093277 -.0280985 Spatial rho .6724101 .0713955 9.42 0.000 .5324775 .8123427 lambda .1454103 .215291 0.68 0.499 -.2765524 .567373 Variance sigma2_e .0072049 .0004186 17.21 0.000 .0063846 .0080253
166
8. Mô hình tác động cố định . xtreg $ylist $xlist, fe
Fixed-effects (within) regression Number of obs = 441 Group variable: mun Number of groups = 63
R-sq: Obs per group: within = 0.8691 min = 7 between = 0.5575 avg = 7.0 overall = 0.6810 max = 7
F(9,369) = 272.19 corr(u_i, Xb) = 0.0515 Prob > F = 0.0000
ly Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf. Interval] lgdppop2004 .2602744 .0523407 4.97 0.000 .157351 .3631977 i_gdp .3882336 .1106155 3.51 0.001 .1707178 .6057494 lcpi1 -.3743172 .0348979 -10.73 0.000 -.4429409 -.3056935 lfdi -.0093671 .0040649 -2.30 0.022 -.0173604 -.0013738 lpci -.0050186 .0055265 -0.91 0.364 -.015886 .0058488 lchins .0650643 .0091327 7.12 0.000 .0471057 .0830228 ledu .362032 .0891872 4.06 0.000 .186653 .537411 labor_tyle 1.107013 .2050765 5.40 0.000 .7037481 1.510278 lyte2 -.072848 .0197085 -3.70 0.000 -.111603 -.034093 _cons -1.270841 .2599915 -4.89 0.000 -1.782092 -.7595903 sigma_u .20321281 sigma_e .09740478 rho .81317243 (fraction of variance due to u_i) F test that all u_i=0: F(62, 369) = 17.85 Prob > F = 0.0000 9. Mô hình tác động ngẫu nhiên . xtreg $ylist $xlist, re
Random-effects GLS regression Number of obs = 441 Group variable: mun Number of groups = 63
R-sq: Obs per group: within = 0.8649 min = 7 between = 0.6859 avg = 7.0 overall = 0.7572 max = 7
Wald chi2(9) = 2420.46 corr(u_i, X) = 0 (assumed) Prob > chi2 = 0.0000
ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] lgdppop2004 .3123182 .0351929 8.87 0.000 .2433415 .3812949 i_gdp .1416519 .099854 1.42 0.156 -.0540584 .3373622 lcpi1 -.3819137 .0300256 -12.72 0.000 -.4407627 -.3230647 lfdi -.0043929 .0039954 -1.10 0.272 -.0122237 .0034378 lpci -.0118601 .0055853 -2.12 0.034 -.0228071 -.0009131 lchins .0628526 .0092396 6.80 0.000 .0447433 .0809618 ledu .3177812 .0831498 3.82 0.000 .1548105 .4807519 labor_tyle .8888278 .1911652 4.65 0.000 .514151 1.263505 lyte2 -.1150452 .017732 -6.49 0.000 -.1497993 -.0802912 _cons -1.087252 .2317822 -4.69 0.000 -1.541537 -.6329672 sigma_u .13915461 sigma_e .09740478 rho .67115658 (fraction of variance due to u_i)
167
10. Kết quả kiểm định Hausman mô hình tác động cố định và ngẫu nhiên . hausman FE RE
Coefficients (b) (B) (b-B) sqrt(diag(V_b-V_B)) FE RE Difference S.E. lgdppop2004 .2602744 .3123182 -.0520438 .0387428 i_gdp .3882336 .1416519 .2465817 .0475916 lcpi1 -.3743172 -.3819137 .0075965 .0177856 lfdi -.0093671 -.0043929 -.0049742 .0007488 lpci -.0050186 -.0118601 .0068415 . lchins .0650643 .0628526 .0022117 . ledu .362032 .3177812 .0442507 .0322562 labor_tyle 1.107013 .8888278 .2181854 .0742443 lyte2 -.072848 -.1150452 .0421973 .0086023 b = consistent under Ho and Ha; obtained from xtreg B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xtreg
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(9) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B) = 397.75 Prob>chi2 = 0.0000 (V_b-V_B is not positive definite)
11. Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi Modified Wald test for groupwise heteroskedasticity in fixed effect regression model
H0: sigma(i)^2 = sigma^2 for all i
chi2 (63) = 904.82 Prob>chi2 = 0.0000
12. Kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
1/VIF 0.2585 0.3527 0.3597 0.4089 0.4258 0.4572 0.4909 0.5732 0.6280
Variable VIF lcpi1 3.87 2.83 lfdi lgdppop2004 2.78 2.45 labor_tyle 2.35 lpci 2.19 lyte2 2.04 i_gdp 1.74 ledu 1.59 lchins 2.42 Mean VIF
168
13. Kết quả kiểm định ảnh hưởng cố định theo thời gian
( 1) 2.year = 0 ( 2) 3.year = 0 ( 3) 4.year = 0 ( 4) 5.year = 0 ( 5) 6.year = 0 ( 6) 7.year = 0
F( 6, 362) = 12.33 Prob > F = 0.0000
14. Kiểm định Hausman cho mô hình SDM
Coefficients (b) (B) (b-B) sqrt(diag(V_b-V_B)) fix re Difference S.E. lgdppop2004 .0888123 .1764576 -.0876453 .0393425 i_gdp .2191598 .1400784 .0790814 .0314066 lcpi1 -.1293656 -.1982836 .068918 .0355556 lfdi -.0020275 -.0010664 -.0009611 . lpci -.0186283 .0257149 -.0443432 . lchins .0167987 .0252672 -.0084685 . ledu .2944459 .2844566 .0099893 . labor_tyle .5144642 .7806031 -.2661388 .0315377 lyte2 -.0463474 -.0493312 .0029838 .0041385 b = consistent under Ho and Ha; obtained from xsmle B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xsmle
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(9) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B) = 26.86 Prob>chi2 = 0.0015 (V_b-V_B is not positive definite)
15. Kiểm định sự phụ thuộc không gian của biến phụ thuộc
. testnl ([Wx]ly=-[Spatial]rho*[Main]ly)
(1) [Wx]ly = -[Spatial]rho*[Main]ly
chi2(1) = 31.10 Prob > chi2 = 0.0000
16. Kiểm định lựa chọn giữa mô hình SAR và SDM . test [Wx]lgdppop2004=[Wx]i_gdp=[Wx]lcpi1=[Wx]lfdi=[Wx]lpci=[Wx]lchins=[Wx]ledu=[Wx]labor_tyle=[Wx]lyte2=0
( 1) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]i_gdp = 0 ( 2) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]lcpi1 = 0 ( 3) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]lfdi = 0 ( 4) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]lpci = 0 ( 5) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]lchins = 0 ( 6) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]ledu = 0 ( 7) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]labor_tyle = 0 ( 8) [Wx]lgdppop2004 - [Wx]lyte2 = 0 ( 9) [Wx]lgdppop2004 = 0
chi2( 9) = 58.33 Prob > chi2 = 0.0000
169
17. Kiểm định lựa chọn giữa mô hình SEM và SDM . testnl ([Wx]lgdppop2004=-[Spatial]rho*[Main]lgdppop2004)([Wx]i_gdp=-[Spatial]rho*[Main]i_gdp) ([Wx]lcpi1=-[Spat > ial]rho*[Main]lcpi1) ([Wx]lfdi=-[Spatial]rho*[Main]lfdi) ([Wx]lpci=-[Spatial]rho*[Main]lpci)([Wx]lchins=-[Spati > al]rho*[Main]lchins) ([Wx]ledu=-[Spatial]rho*[Main]ledu)([Wx]labor_tyle=-[Spatial]rho*[Main]labor_tyle) ([Wx]ly > te2=-[Spatial]rho*[Main]lyte2)
(1) [Wx]lgdppop2004 = -[Spatial]rho*[Main]lgdppop2004 (2) [Wx]i_gdp = -[Spatial]rho*[Main]i_gdp (3) [Wx]lcpi1 = -[Spatial]rho*[Main]lcpi1 (4) [Wx]lfdi = -[Spatial]rho*[Main]lfdi (5) [Wx]lpci = -[Spatial]rho*[Main]lpci (6) [Wx]lchins = -[Spatial]rho*[Main]lchins (7) [Wx]ledu = -[Spatial]rho*[Main]ledu (8) [Wx]labor_tyle = -[Spatial]rho*[Main]labor_tyle (9) [Wx]lyte2 = -[Spatial]rho*[Main]lyte2
chi2(9) = 87.82 Prob > chi2 = 0.0000
18. Mô hình SAC SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8972 between = 0.4716 overall = 0.6401
Mean of fixed-effects = -0.7586
Log-likelihood = 496.8048 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .0930385 .0371468 2.50 0.012 .0202321 .1658449 i_gdp .1862314 .0707496 2.63 0.008 .0475647 .324898 lcpi1 -.1029798 .0250582 -4.11 0.000 -.1520929 -.0538667 lfdi -.0035282 .0025034 -1.41 0.159 -.0084348 .0013784 lpci -.0007347 .0026835 -0.27 0.784 -.0059943 .004525 lchins .0238384 .0054064 4.41 0.000 .0132421 .0344347 ledu .233142 .05865 3.98 0.000 .1181901 .348094 labor_tyle .6295454 .1340255 4.70 0.000 .3668603 .8922305 lyte2 -.0531131 .0131107 -4.05 0.000 -.0788095 -.0274167 Spatial rho .703226 .0403412 17.43 0.000 .6241588 .7822933 lambda -.596657 .0908274 -6.57 0.000 -.7746754 -.4186385 Variance sigma2_e .0055277 .0003869 14.29 0.000 .0047695 .0062859
170
19. Mô hình SAC với ảnh hưởng biên
SAC with spatial fixed-effects Number of obs = 441
Group variable: mun Number of groups = 63 Time variable: year Panel length = 7
R-sq: within = 0.8972 between = 0.4716 overall = 0.6401
Mean of fixed-effects = -0.7586
Log-likelihood = 455.9452 ly Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] Main lgdppop2004 .0930385 .0371468 2.50 0.012 .0202321 .1658449 i_gdp .1862314 .0707496 2.63 0.008 .0475647 .324898 lcpi1 -.1029798 .0250582 -4.11 0.000 -.1520929 -.0538667 lfdi -.0035282 .0025034 -1.41 0.159 -.0084348 .0013784 lpci -.0007347 .0026835 -0.27 0.784 -.0059943 .004525 lchins .0238384 .0054064 4.41 0.000 .0132421 .0344347 ledu .233142 .05865 3.98 0.000 .1181901 .348094 labor_tyle .6295454 .1340255 4.70 0.000 .3668603 .8922305 lyte2 -.0531131 .0131107 -4.05 0.000 -.0788095 -.0274167 Spatial rho .703226 .0403412 17.43 0.000 .6241588 .7822933 lambda -.596657 .0908274 -6.57 0.000 -.7746754 -.4186385 Variance sigma2_e .0055277 .0003869 14.29 0.000 .0047695 .0062859 LR_Direct lgdppop2004 .1149135 .045169 2.54 0.011 .0263838 .2034432 i_gdp .2241151 .0815991 2.75 0.006 .0641838 .3840465 lcpi1 -.1220582 .0279994 -4.36 0.000 -.1769361 -.0671803 lfdi -.0042485 .003019 -1.41 0.159 -.0101656 .0016686 lpci -.0007846 .003196 -0.25 0.806 -.0070485 .0054794 lchins .0292372 .0059463 4.92 0.000 .0175827 .0408917 ledu .2840588 .0708144 4.01 0.000 .145265 .4228525 labor_tyle .7614406 .151014 5.04 0.000 .4654585 1.057423 lyte2 -.0629844 .0152205 -4.14 0.000 -.092816 -.0331528 LR_Indirect lgdppop2004 .2031328 .0776637 2.62 0.009 .0509147 .355351 i_gdp .4008056 .1512439 2.65 0.008 .104373 .6972382 lcpi1 -.2178319 .0506925 -4.30 0.000 -.3171875 -.1184764 lfdi -.0074718 .0054867 -1.36 0.173 -.0182255 .003282 lpci -.0014287 .0059426 -0.24 0.810 -.0130759 .0102185 lchins .0522712 .0113131 4.62 0.000 .030098 .0744445 ledu .5104992 .1427654 3.58 0.000 .2306842 .7903142 labor_tyle 1.369897 .3220298 4.25 0.000 .7387302 2.001064 lyte2 -.1134758 .0317673 -3.57 0.000 -.1757387 -.051213 LR_Total lgdppop2004 .3180463 .120344 2.64 0.008 .0821764 .5539162 i_gdp .6249207 .2276942 2.74 0.006 .1786482 1.071193 lcpi1 -.3398901 .0745514 -4.56 0.000 -.4860082 -.1937721 lfdi -.0117202 .0084325 -1.39 0.165 -.0282477 .0048072 lpci -.0022133 .0091127 -0.24 0.808 -.0200739 .0156474 lchins .0815084 .0161426 5.05 0.000 .0498694 .1131474 ledu .7945579 .2049601 3.88 0.000 .3928435 1.196272 labor_tyle 2.131338 .4468903 4.77 0.000 1.255449 3.007226 lyte2 -.1764602 .0452502 -3.90 0.000 -.265149 -.0877714
171
20. Ảnh hưởng biên Average marginal effects Number of obs = 441 Model VCE : OIM
Expression : Reduced form prediction, predict(rform noie) dy/dx w.r.t. : lgdppop2004 i_gdp lcpi1 lfdi lpci lchins ledu labor_tyle lyte2
Delta-method dy/dx Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval] lgdppop2004 .3134995 .117273 2.67 0.008 .0836486 .5433505 i_gdp .6275192 .2314289 2.71 0.007 .173927 1.081111 lcpi1 -.3469975 .0709047 -4.89 0.000 -.4859682 -.2080268 lfdi -.0118885 .0082755 -1.44 0.151 -.0281082 .0043311 lpci -.0024756 .009036 -0.27 0.784 -.0201859 .0152347 lchins .080325 .0156762 5.12 0.000 .0496003 .1110497 ledu .7855879 .1997498 3.93 0.000 .3940856 1.17709 labor_tyle 2.121296 .4408888 4.81 0.000 1.25717 2.985422 lyte2 -.1789682 .0453357 -3.95 0.000 -.2678245 -.0901118