BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---------

VŨ THÙY LINH

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN

CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐANG

PHÁT TRIỂN TẠI CHÂU Á

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2025

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---------

VŨ THÙY LINH

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN

CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐANG

PHÁT TRIỂN TẠI CHÂU Á

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9340201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS. Bùi Hữu Toàn

2. PGS.TS Đoàn Ngọc Thắng

Hà Nội, 2025

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng

dẫn của các nhà khoa học:

1. PGS. TS. Bùi Hữu Toàn

2. PGS.TS Đoàn Ngọc Thắng

Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách

quan và chưa từng được công bố ở bất kỳ nghiên cứu nào khác ngoài các bài báo,

bài viết hội thảo của tôi hoặc các bài báo, bài viết hội thảo của tôi và đồng tác giả

được nêu trong danh mục công trình khoa học có liên quan đến luận án. Các thông

tin, dữ liệu được sử dụng trong luận án được thu thập từ thực tế, có nguồn gốc trích

dẫn rõ ràng, được xử lý trung thực và khách quan.

Hà Nội, ngày tháng năm 2025

Tác giả luận án

Vũ Thùy Linh

ii

LỜI CẢM ƠN

NCS xin được cảm ơn Ban giám đốc Học viện Ngân hàng, Khoa Sau đại học

và các thầy/cô tham gia giảng dạy chương trình nghiên cứu sinh đã tạo điều kiện để

NCS có thể học tập và nghiên cứu.

NCS xin cảm các chuyên gia, các nhà nghiên cứu đã góp ý và các đồng

nghiệp đã hỗ trợ để tác giả hoàn thành luận án.

Lời cảm ơn sâu sắc nhất xin được trân trọng gửi tới PGS.TS. Bùi Hữu Toàn

và PGS.TS Đoàn Ngọc Thắng đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên NCS

trong suốt quá trình thực hiện luận án.

Cuối cùng, NCS xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn đồng hành

và chia sẻ với tác giả trong quá trình nghiên cứu.

Trân trọng cảm ơn!

Tác giả

Vũ Thùy Linh

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................ii

MỤC LỤC........................................................................................................ iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vi

DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... vii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ......................................................................... x

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH

HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ ................................................ 13

1.1 Những vấn đề chung về tỷ giá ...................................................................... 13

1.1.1 Khái niệm và phân loại ............................................................................... 13

1.1.2 Tác động của tỷ giá tới nền kinh tế .............................................................. 15

1.2 Những vấn đề chung về chế độ tỷ giá ............................................................ 17

1.2.1 Khái niệm ................................................................................................. 17

1.2.2 Phân loại chế độ tỷ giá ............................................................................... 18

1.3 Các quan điểm lựa chọn chế độ tỷ giá............................................................ 23

1.4 Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái ......... 27

1.4.1 Nhóm nhân tố kinh tế ................................................................................ 27

1.4.2 Nhóm nhân tố chính trị, thể chế. ................................................................. 32

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 39

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................. 40

2.1 Quy trình nghiên cứu của luận án .................................................................. 40

2.2 Tổng quan về mô hình nghiên cứu: ............................................................... 42

2.3. Lựa chọn mô hình ....................................................................................... 44

2.4 Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 45

2.4.1 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá...... 45

iv

2.4.2 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, thể chế tới lựa chọn

chế độ tỷ giá. ..................................................................................................... 46

2.4.4 Phân tích thuộc tính biến số ....................................................................... 48

2.4.5 Dữ liệu nghiên cứu .................................................................................... 50

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 52

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI MỘT SỐ

QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á ............................................... 53

3.1 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của Trung Quốc ........................................ 53

3.1.1 Giai đoạn từ sau khủng hoảng Châu Á 1997 – 2005 .................................... 53

3.1.2 Giai đoạn từ 2005 – 2015 ........................................................................... 56

3.1.3 Giai đoạn từ 2015 – 2023 ........................................................................... 59

3.2 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của Thái Lan ............................................. 64

3.2.1 Giai đoạn 1997 – 2000 ............................................................................... 64

3.2.2 Giai đoạn 2000 – 2023 ............................................................................... 67

3.3 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam ............................................... 70

3.3.1 Giai đoạn từ 1997 – 2009 ........................................................................... 70

3.3.2 Giai đoạn 2010 – 2023 ............................................................................... 80

3.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ Trung Quốc và Thái Lan ..................... 91

3.4.1 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc cho Việt Nam ..................................... 91

3.4.2 Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan cho Việt Nam.......................................... 91

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 93

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI

LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN94

4.1 Thống kê mô tả và các kiểm định .................................................................. 94

4.1.1 Biến phụ thuộc .......................................................................................... 94

4.1.2 Biến tác động ............................................................................................ 96

4.1.3 Phân tích hệ số tương quan của các biến trong các mô hình ......................... 97

4.1.4 Kiểm định đa cộng tuyến ........................................................................... 98

4.2 Kết quả mô hình ........................................................................................... 99

v

4.2.1 Kết quả hồi quy mô hình các nhân tố nhóm kinh tế tác động tới lựa chọn chế

độ tỷ giá tỷ giá. .................................................................................................. 99

4.2.2 Kết quả hồi qui mô hình các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá. ................................................................................................... 109

4.3 Kiểm định Robustness ................................................................................ 123

4.4 Đánh giá chung tác động của các nhân tố tới lựa chọn chế độ tỷ giá của các

quốc gia. ......................................................................................................... 125

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ................................................................................. 127

CHƯƠNG 5: ỨNG DỤNG KẾT QUẢ MÔ HÌNH VÀO LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ

TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC

NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ CỦA VIỆT

NAM. ............................................................................................................. 128

5.1 Định hướng phát triển kinh tế, chính trị của Việt Nam tới năm 2030. ............ 128

5.1.1 Nhóm nhân tố kinh tế .............................................................................. 128

5.1.2 Nhóm nhân tố chính trị - thể chế: ............................................................. 129

5.2 Định hướng về chế độ tỷ giá của Việt Nam tới năm 2030 ............................. 132

5.3 Giải pháp cho Việt Nam nhằm thúc đẩy các nhân tố có ảnh hưởng tích cực tới

định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt. ..................................................... 133

5.3.1 Nhóm giải pháp phát triển quy mô nền kinh tế .......................................... 133

5.3.2 Giải pháp mở rộng độ mở tài khoản vốn ................................................... 135

5.3.3 Giải pháp tăng cường mức độ dân chủ ...................................................... 136

5.3.4 Giải pháp tăng cường hiệu quả Chính phủ................................................. 137

5.3.5 Giải pháp tăng cường toàn cầu hóa ........................................................... 138

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5 ................................................................................. 140

KẾT LUẬN .................................................................................................... 141

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT ................................. 143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH .................................. 144

PHỤ LỤC....................................................................................................... 151

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu Diễn giải

WB Ngân hàng thế giới

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế

XNK Xuất nhập khẩu

CĐTG Chế độ tỷ giá

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHNNVN Ngân hàng nhà nước Việt Nam

TGBQLNH Tỷ giá bình quân liên ngân hàng

NHTW Ngân hàng trung ương

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

TMQT Thương mại quốc tế

ĐTQT Đầu tư quốc tế

FDI Đầu tư trực tiếp

PBOC Ngân hàng trung ương Trung Quốc

BOT Ngân hàng trung ương Thái Lan

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Đặc điểm của các chế độ tỷ giá trung gian ........................................... 22

Bảng 1.2: Bảng tổng hợp các nhân tố tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá.............. 36

Bảng 2.1: Phân loại chế độ thực tế theo IMF(2009) ............................................. 48

Bảng 2.2: Giả thuyết nghiên cứu ......................................................................... 48

Bảng 2.3: Miêu tả biến phụ thuộc CĐTGPĐ........................................................ 51

Bảng 2.4: Miêu tả biến phụ thuộc CĐTGTT ........................................................ 51

Bảng 3.1: Chế độ tỷ giá thực tế của Trung Quốc từ 2015 – 2023 .......................... 60

Bảng 3.2: Tóm tắt chế độ tỷ giá của Trung quốc giai đoạn 1997 - 2022 ................ 63

Bảng 4.1: Chế độ tỷ giá theo pháp định của 20 quốc gia đang phát triển tại khu vực

châu Á trong giai đoạn 2010 – 2023.................................................................... 95

Bảng 4.2: Chế độ tỷ giá theo thực tế của 20 quốc gia đang phát triển tại khu vực

châu Á năm 2010 – 2023 .................................................................................... 96

Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến nhóm kinh tế tác động sử dụng trong các mô

hình................................................................................................................... 97

Bảng 4.4: Thống kê mô tả các biến nhóm chính trị, thể chế tác động sử dụng trong

mô hình ............................................................................................................. 97

Bảng 4.5: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến nhân tố kinh tế trong mô hình

chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế ........................................................ 98

Bảng 4.6: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến nhân tố chính trị, thể chế trong

mô hình chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế ........................................... 98

Bảng 4.7: Hệ số VIF .......................................................................................... 98

Bảng 4.8: Hệ số VIF .......................................................................................... 99

Bảng 4.9: Kết quả nghiên cứu mô hình probit thứ bậc với nhân tố kinh tế tác động

tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 – 2023. .............. 100

Bảng 4.10: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định giai đoạn 2010 – 2023.......................................................... 101

Bảng 4.11: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định giai đoạn 2010 – 2015.......................................................... 101

viii

Bảng 4.12: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định giai đoạn 2016 -2023. .......................................................... 102

Bảng 4.13: KQNC mô hình probit thứ bậc với nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế. ................................................................................. 105

Bảng 4.14: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo thực tế giai đoạn 2010 – 2023. ............................................................. 105

Bảng 4.15: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo thực tế giai đoạn 2010 – 2015. ............................................................. 106

Bảng 4.16: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo thực tế giai đoạn 2016 -2023. ............................................................... 106

Bảng 4.17: So sánh chiều tác động của các nhân tố từ kết quả mô hình và giả thuyết

nghiên cứu....................................................................................................... 109

Bảng 4.18: So sánh tác động biên của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá

theo pháp định và theo thực tế giai đoạn 2010 -2023.......................................... 109

Bảng 4.19: Kết quả mô hình với nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn chế

độ tỷ giá theo pháp định ................................................................................... 110

Bảng 4.20: Tác động biên của các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 – 2023 .................................. 111

Bảng 4.21: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 -1015 .................................... 111

Bảng 4.22: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2016 - 2023 ................................... 111

Bảng 4.23: Kết quả nghiên cứu mô hình với nhân tố chính trị, thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế .................................................................... 117

Bảng 4.24: Tác động biên của các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2010 – 2023 ....................................... 118

Bảng 4.25: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2010 -1015 ........................................ 118

ix

Bảng 4.26: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2016 -2023 ........................................ 118

Bảng 4.27: So sánh kết quả mô hình và giả thuyết nghiên cứu trong giai đoạn 2010

-2023 .............................................................................................................. 122

Bảng 4.28: So sánh tác động biên của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá

theo pháp định và theo thực tế giai đoạn 2010 - 2023 ......................................... 123

Bảng 4.29: Kết quả chạy mô hình logit thứ tự đánh giá nhân tố kinh tế tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định và thực tế.............................................................. 124

Bảng 4.30: Kết quả chạy mô hình logit đánh giá nhân tố chính trị, thể chế tới lựa

chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và thực tế ..................................................... 124

Bảng 4.31: Bảng so sánh kết quả mô hình probit thứ tự và logit thứ tự................ 124

Biến độc lập .................................................................................................... 124

Bảng 5.1: Bảng tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế và lựa chọn chế độ

tỷ giá từ kết quả mô hình .................................................................................. 132

x

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ Sơ đồ 2.1 Quy trình nghiên cứu .......................................................................... 40

Biểu đồ 3.1: Diễn biến tỷ giá USD/THB từ năm 1997 - 2000 ............................... 65

Biểu đồ 3.2: Diễn biến tỷ giá USD/THB từ năm 2001 – 2023............................... 68

Biểu đồ 3.3: Diễn biến tỷ giá USD/VND từ giai đoạn 1999 – 2007....................... 71

Biểu đồ 3.4: Diễn biến tỷ giá BQLNH và tỷ giá tự do năm 2008 - 2009 ................ 77

Biểu đồ 3.5: Diễn biến tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá tự do giai đoạn

2010 -2014 ........................................................................................................ 82

Biểu đồ 3.6: Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2016 – 2019 ............................................ 85

Biểu đồ 3.7: Diễn biến tỷ giá trung tâm năm 2020 - 2022 ..................................... 87

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Châu Á được đánh giá là khu vực tiềm năng với nhiều nền kinh tế phát triển

đa dạng. Đặc biệt, các quốc gia đang phát triển ở châu Á hiện nay đang đứng trước

nhiều lựa chọn về chế độ tỷ giá (CĐTG) thích hợp nhằm duy trì sự ổn định kinh tế,

tăng trưởng bền vững cũng như hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Theo

Latter (1996) đã nhấn mạnh “không có một cơ chế tỷ giá nào có thể áp dụng hiệu

quả cho tất cả các quốc gia”. Bên cạnh đó, nhóm quốc gia này lại dễ dàng bị ảnh

hưởng trước các biến động kinh tế toàn cầu. Ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng,

từ đại dịch COVID-19 đã cho thấy tầm quan trọng của việc lựa chọn chế độ tỷ giá

phù hợp để giảm thiểu rủi ro và ổn định nền kinh tế. Ví dụ, khi cố định tỷ giá có thể

giúp các quốc gia nhỏ giảm chi phí giao dịch và ổn định giá cả nhưng lại hạn chế

khả năng ứng phó với biến động quốc tế. Ngược lại, chế độ linh hoạt như Hàn Quốc

áp dụng đã giúp tăng khả năng tự chủ tiền tệ nhưng lại gây ra biến động lớn hơn

trong lạm phát và tăng trưởng. Do đó, việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến lựa

chọn chế độ tỷ giá là cần thiết để cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định

chính sách, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng bất ổn. Về mặt lý

luận, các nghiên cứu từ lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu (OCA) của Mundell (1961),

McKinnon (1963), và Kenen (1969) đã đặt nền móng cho việc phân tích các nhân tố

như quy mô nền kinh tế, độ mở cửa thương mại, sự đa dạng trong xuất khẩu, và

mức độ tập trung xuất khẩu theo khu vực địa lý. Sau đó, các nghiên cứu tiếp tục mở

rộng với các nhân tố kinh tế và tài chính như lạm phát (Dornbusch, 2001), sự phát

triển tài chính (Aghion và cộng sự, 2009; Lin và Ye, 2011), độ mở tài khoản vốn

(Fischer, 2001; Williamson, 2000), và dự trữ ngoại hối (Edwards, 1996; Chang và

Lee, 2017). Các nhân tố chính trị và thể chế, như sự ổn định chính trị (Edwards,

1996; Berdiev và cộng sự, 2012), sự độc lập của ngân hàng trung ương (Larran và

Velasco, 2001; Bodea, 2010) cũng được xác định là có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù

có nhiều nhân tố tác động nhưng khó để xác định chiều ảnh hưởng cố định của các

nhân tố bởi theo các nghiên cứu thực nghiệm khác nhau lại có thể đưa ra những

kết quả trái chiều, Russell (2011). Chẳng hạn, trong khi Mundell (1961) và

2

McKinnon (1963) lập luận rằng các quốc gia có độ mở thương mại cao thường ưu

tiên CĐTG cố định, Bleaney và Francisco (2005) lại phát hiện rằng các quốc gia có

xu hướng chọn CĐTG linh hoạt hơn khi nghiên cứu trên mẫu 102 quốc gia đang

phát triển giai đoạn 1990-2000. Sự khác biệt này cho thấy rằng các nhân tố ảnh

hưởng đến lựa chọn CĐTG phụ thuộc mạnh mẽ vào bối cảnh thời gian, khu vực địa

lý, và trình độ phát triển của các quốc gia, do đó đòi hỏi các nghiên cứu cập nhật và

chuyên sâu hơn.

Về mặt thực tiễn, các quốc gia đang phát triển ở châu Á có những đặc thù

riêng, bao gồm mức độ mở cửa thương mại quốc tế cao, hệ thống tài chính chưa

phát triển đầy đủ, hiệu quả chính phủ và thể chế còn yếu, cùng với lịch sử trải qua

nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế. Mặc dù các nghiên cứu trước đây đã phân tích các

quốc gia phát triển hoặc một số khu vực cụ thể như Mỹ Latinh (Rodriguez, 2016) và

các quốc gia xuất khẩu tài nguyên (Aliyev, 2014, 2024), các quốc gia đang phát

triển ở châu Á vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Đặc biệt, những

nghiên cứu gần đây về khu vực này, như Patnaik và cộng sự (2011) hay Rajan

(2011), chưa đề cập đầy đủ đến tác động của các cú sốc kinh tế gần đây (như đại

dịch COVID-19, xung đột Nga-Ukraine, và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu)

hoặc vai trò của các yếu tố như hiệu quả chính phủ – một nhân tố quan trọng trong

bối cảnh các nền kinh tế dễ bị tổn thương bởi biến động bên ngoài. Hơn nữa, các

nghiên cứu về Việt Nam (Võ Trí Thành và cộng sự, 2000; Hoàng Thị Lan Hương,

2020) còn thiếu các phân tích cập nhật trong giai đoạn sau 2010, khi Việt Nam ngày

càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu thông qua các hiệp định thương

mại tự do.

Do đó, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn CĐTG tại các

quốc gia đang phát triển ở châu Á không chỉ giúp làm rõ những yếu tố quyết định

phù hợp với đặc thù khu vực mà còn cung cấp cơ sở thực tiễn để các quốc gia này

xây dựng chính sách tỷ giá hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến

động. Chính vì vậy, xuất phát từ tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, tác giả đã

lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận án của mình đó là: “Các nhân tố ảnh hưởng tới lựa

chọn chế độ tỷ giá tại một số quốc gia đang phát triển tại châu Á.”

3

2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế, chủ đề lựa chọn chế độ tỷ giá luôn thu hút

sự quan tâm đáng kể từ các nhà nghiên cứu như Markiewicz (2006), Hossain

(2009), Levy –Yeyati và cộng sự (2010), Berdiev và cộng sự (2012), Rodriguez

(2016), Cao và cộng sự (2020) và Itskhoki và Mukhin (2021). Điều này xuất phát từ

thực tế rằng nhiều quốc gia đã và đang phải cân nhắc giữa việc áp dụng chế độ tỷ

giá cố định nhằm tận dụng lợi thế thương mại và chế độ tỷ giá thả nổi, cho phép duy

trì tính độc lập của chính sách tiền tệ và khả năng linh hoạt trước các cú sốc thương

mại, theo nhận định của Frankel (2003).

Hai cách thức phân loại phổ biến được sử dụng khi nghiên cứu về chế độ tỷ

giá là: theo pháp định và theo thực tế. Trong đó, chế độ tỷ giá theo pháp định là chế

độ do NHTW chính thức công bố áp dụng còn phân loại theo thực tế được xây dựng

dựa trên quá trình theo dõi và đánh giá thực tiễn điều hành tỷ giá của các quốc gia,

do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thực hiện. Trước những năm 2000, phần lớn các

nghiên cứu vẫn dựa trên chế độ tỷ giá được công bố chính thức. Tuy nhiên, các

nghiên cứu sau này đã chỉ ra rằng có sự sai lệch đáng kể giữa chế độ tỷ giá công bố

và cách điều hành thực tế, khi nhiều quốc gia không tuân thủ đúng cơ chế mà họ đã

cam kết. Thực tế này đã phát sinh nhu cầu về một hệ thống phân loại mới, phản ánh

chính xác hơn cách thức điều hành và biến động tỷ giá thực tế mà các cơ quan quản

lý tiền tệ thực sự áp dụng. Shambaugh (2004); Reinhart và Rogoff (2004); Levy-

Yeyati và Sturzenegger (2005, 2022) và Habermeier và cộng sự (2009) đã đưa ra

nhiều cách phân loại chế độ tỷ giá theo thực tế. Tuy nhiên, dù phân loại theo pháp

định hay thực tế thì chế độ tỷ giá thông thường vẫn được phân loại theo hướng cố

định và linh hoạt. Ưu và nhược điểm của các chế độ tỷ giá cũng đã trở thành một đề

tài nghiên cứu từ rất sớm để giúp quốc gia đưa ra được lựa chọn phù hợp. Theo

Frankel và Rose (2002), chế độ tỷ giá cố định có thể tạo ra lợi thế về thương mại

quốc tế bởi hạn chế được chi phí giao dịch và rủi ro tỷ giá. Ngược lại, Elekdag và

Tuuli (2023) nhận định rằng chế độ tỷ giá linh hoạt giúp giảm bớt những tác động

tiêu cực từ những cú sốc tới nền kinh tế. Chính vì vậy, “không có một chế độ tỷ giá

nào có thể phù hợp với tất cả các quốc gia và lựa chọn thích hợp phụ thuộc vào đặc

4

điểm của mỗi một quốc gia”, Frankel (1999), Ghosh (2002). Levy –Yeyati và

Sturzenegger (2003), Husain và cộng sự (2005) đều chỉ ra rằng với các quốc gia

đang phát triển phù hợp với chế độ tỷ giá cố định hơn trong khi các quốc gia phát

triển phù hợp với chế độ thả nổi hơn.

Cho đến nay, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã phân tích các yếu tố ảnh

hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá, với đối tượng nghiên cứu thường là một quốc gia

hoặc một nhóm quốc gia. Các nhóm quốc gia phổ biến trong các nghiên cứu bao

gồm các nước đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi và các quốc gia phát triển,

trong đó các quốc gia đang phát triển nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các nhà

nghiên cứu. Những nghiên cứu của Aghevli và cộng sự (1991) và Edwards (1996)

đã đặt nền móng cho việc phân tích lựa chọn chế độ tỷ giá ở các quốc gia đang phát

triển. Nghiên cứu của Edwards (1996) đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các yếu tố

chính trị, chỉ ra rằng các quốc gia có bất ổn chính trị thường có xu hướng ưu tiên

các chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Sang đầu thế kỷ 21, Yarci (2001) đã mở rộng

nghiên cứu trong bối cảnh các quốc gia có thêm nhiều lựa chọn chế độ tỷ giá, không

chỉ giới hạn ở tỷ giá cố định hoặc thả nổi mà còn bao gồm các chế độ trung gian.

VonHagen và Zhou (2004) tiếp tục khẳng định rằng các yếu tố thuộc lý thuyết khu

vực tiền tệ tối ưu (OCA) có tác động đáng kể đến lựa chọn chế độ tỷ giá, trong khi

các yếu tố chính trị và thể chế có ảnh hưởng hạn chế hơn. Gần đây, các nghiên cứu

tiếp tục làm sáng tỏ các xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá trong bối cảnh khủng

hoảng tài chính toàn cầu. Frankel (2009) cùng Ghosh và Ostry (2009) ủng hộ quan

điểm rằng các chế độ tỷ giá trung gian mang lại sự cân bằng giữa neo cứng và thả

nổi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng sản lượng bình quân nhanh hơn. Bên cạnh đó,

Esaka (2010) và Combes và Swo (2016) bác bỏ ý kiến cho rằng các chế độ trung

gian là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ. Nghiên cứu của Jurek (2018) đã

tiếp tục khẳng định xu hướng các quốc gia đang phát triển vẫn ưu tiên các chế độ tỷ

giá trung gian, đặc biệt trong bối cảnh các thách thức kinh tế hiện đại.

Ngoài lựa chọn mẫu nghiên cứu dựa trên trình độ phát triển thì khu vực địa

lý cũng là một cách tiếp cận phổ biến trong các nghiên cứu thực nghiệm. Ví dụ, khu

vực châu Á đã được phân tích trong nhiều nghiên cứu như của Patnaik và cộng sự

5

(2011), Rajan (2011) hay McKibbin (2009). Tương tự, Rodriguez (2016) tập trung

vào khu vực Mỹ Latinh trong khi Aliyev (2014, 2024) nghiên cứu các quốc gia xuất

khẩu dầu mỏ và giàu tài nguyên. Một số nghiên cứu khác lại lựa chọn tiếp cận theo

từng quốc gia cụ thể, như Das (2019) với Trung Quốc, Peter và Henry (2009) cùng

John (2007) với Singapore. Riêng đối với Việt Nam, có thể kể đến các nghiên cứu

của Võ Trí Thành và cộng sự (2000), Ohno (2003), Mai Thu Hiền (2007), Nguyễn

Thị Thu Hằng và cộng sự (2010), Phạm Thị Hoàng Anh (2009, 2012) và Hoàng Thị

Lan Hương (2020). Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều nghiên cứu khác tiếp cận chủ đề

chế độ tỷ giá từ góc độ từng quốc gia.

Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá

Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng bắt đầu từ lý thuyết OCA. Trên cơ sở

đó, các yếu tố thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, thể chế và văn hóa dần được tích

hợp vào các mô hình phân tích, cả trong tiếp cận lý thuyết lẫn thực nghiệm. Hướng

nghiên cứu sớm nhất tiếp cận từ lý thuyết OCA của Mundell (1961), McKinnon

(1963), Kenen (1996), Poirson (2001). Những nhân tố như vị trí địa lý, độ mở cửa

thương mại, quy mô nền kinh tế được đưa ra theo lý thuyết này theo Frieden (2016),

Audzei and Brázdik (2018). Xuất phát từ nghiên cứu của Mundell (1961) đã nhấn

mạnh các nguyên tắc của lý thuyết OCA đó là các khu vực địa lí nên sử dụng cùng

một đồng tiền chung và nên có một chế độ tiền tệ duy nhất. Theo Mundell (1961),

quy mô và độ mở cửa thương mại quốc tế là những nhân tố quan trọng của OCA.

Cụ thể là, các quốc gia có quy mô nhỏ và độ mở thương mại quốc tế lớn có nhiều

khả năng áp dụng chế độ tỷ giá cố định hơn theo McKinnon (1963), Ghosh và cộng

sự (2015), Frieden và cộng sự (2010), Rodriguez (2016). Ngoài ra, sự đa dạng hóa

sản phẩm trong thương mại cũng được được nhận định là một yếu tố quan trọng tới

quyết định áp dụng chế độ tỷ giá cố định hay không, theo Kenen (1969). Một quốc

gia có nhiều khả năng áp dụng chế độ tỷ giá cố định nếu hoạt động thương mại quốc

tế của quốc gia đó tập trung nhiều vào một khu vực tiền tệ cụ thể. Kenen (1969)

cũng gợi ý rằng các nước có cơ cấu sản xuất tập trung có xu hướng áp dụng tỷ giá

linh hoạt hơn các nước có nền sản xuất đa dạng hóa cao, vì sự thay đổi tỷ giá gần

như tương đương với biến động của giá cả sản lượng tương đối. Ngoài đa dạng hóa

6

trong sản phẩm xuất khẩu, trong nghiên cứu của Poirson (2001) đã sử dụng đo

lường bằng sự đa dạng hóa về đối tác trong thương mại quốc tế.

Nhóm nhân tố tiếp theo được đưa vào nghiên cứu tác động là nhóm nhân tố

tài chính và kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, khả năng cạnh tranh

toàn cầu, cán cân thương mại và sự ổn định kinh tế theo Bailliu và cộng sự (2003);

Bleaney và cộng sự (2007); Gervais và cộng sự (2016); Calvo và Reinhart (2002);

Aghion và cộng sự (2009); Edwards và Yeyati, (2000). Môi trường lạm phát cao ở

nhiều nước vào cuối những năm 1970 và trong những năm 1980 đã góp phần tạo

nên một cách tiếp cận mới để lựa chọn chế độ tỷ giá, tập trung vào sự lan truyền

lạm phát giữa các quốc gia và việc sử dụng các chính sách tỷ giá để đạt được lạm

phát thấp. Dựa trên lý thuyết được phát triển bởi Barro và Gordon (1983a, b), chế

độ tỷ giá cố định có thể giúp đạt được lạm phát thấp. Nhiều tác giả nhấn mạnh độ

tin cậy lợi ích từ việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định như Giavazzi và Giovannini

(1989), Dornbusch (2001). Sự phát triển tài chính của quốc gia cũng là một trong

những nhân tố ảnh hưởng. Nhân tố này xuất phát từ hai nghiên cứu của Bordo

(2003), Bordo và Flandreau (2003). Sau đó, Aghion và cộng sự (2009) đã chỉ ra

rằng quốc gia có sự phát triển tài chính kém hơn thì thường lựa chọn chế độ tỷ giá

cố định nhiều hơn. Kết quả này tiếp tục được làm rõ bởi Lin và Ye (2011), Ebeke và

Fouejieu (2018). Ngoài ra, dự trữ ngoại hối cũng là một trong những nhân tố kinh tế

thường xuyên được đưa vào nghiên cứu. Theo Edwards (1996), Chang và Lee

(2017), VonHagen và Zhou (2005) đã chỉ ra rằng quốc gia có mức dự trữ ngoại hối

cao thường có xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định. Đó là bởi trong chế độ này

NHTW thường xuyên chịu áp lực can thiệp vào thị trường chính vì vậy đòi hỏi

NHTW cần dự phòng một lượng dự trữ lớn để chống lại đầu cơ cũng như biến động

từ thị trường.

Nhóm nhân tố chính trị cũng là một trong những nhóm nhân tố có sức ảnh

hưởng đáng kể tới lựa chọn của các quốc gia theo Berdiev và cộng sự (2012),

Chang và Lee (2017), Hadj Fraj và cộng sự (2018). Theo các nghiên cứu trước

đây, mức độ tin cậy của thể chế được xem là một trong những yếu tố chính trị

then chốt ảnh hưởng đến việc lựa chọn chế độ tỷ giá. Tại các quốc gia kém phát

triển, nơi niềm tin vào thể chế thường ở mức thấp, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố

7

định có thể giúp củng cố cam kết của Chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát,

từ đó gia tăng niềm tin của công chúng (Bitar, 2021). Bên cạnh đó, Levy-Yeyati

và cộng sự (2010) cho rằng chế độ tỷ giá cố định còn tạo ra áp lực buộc Chính

phủ phải theo đuổi chính sách tài khóa thận trọng hơn để hạn chế nguy cơ dẫn

đến khủng hoảng tiền tệ. Ngược lại, Edwards (1996), Edwards và Savastano

(1999), Poirson (2002) lại ủng hộ chế độ tỷ giá linh hoạt với lập luận rằng chế độ

này giúp giảm thiểu chi phí can thiệp khi tỷ giá thay đổi.

Sự ổn định chính trị được đưa ra bởi Edwards (1996), Poirson (2002),

Meon và Rizzo (2002), Alesina và Wagner (2006) and Frieden và cộng sự (2001,

2010). Cụ thể là, các quốc gia có chính trị bất ổn thường lựa chọn áp dụng chế độ

tỷ giá linh hoạt. Theo Berdiev và cộng sự (2012), quan điểm của Chính phủ, thể

chế chính trị và toàn cầu hóa là có sự ảnh hưởng lớn tới sự lựa chọn khác nhau

giữa các quốc gia. Đặc biệt, họ nhận thấy các nhân tố như thể chế dân chủ, sự

độc lập của NHTW làm tăng khả năng áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt trong khi

toàn cầu hóa lại tác động tới khả năng áp dụng chế độ tỷ giá cố định cao hơn.

Nhân tố độc lập của NHTW được đề xuất bởi Cukierman và cộng sự (1992),

Larran và Velasco (2001) và được phát triển gần đây bởi Lu và Ahmad (2020),

Agoba và cộng sự (2022), Bandaogo và cộng sự (2024). Theo Larran và Velasco

(2001), nhân tố này có thể giúp tăng độ tin cậy hơn trong kiềm chế lạm phát.

Chính vì vậy, khi đạt được sự độc lập nhất định, NHTW vẫn có thể kiểm soát

được lạm phát trong điều kiện áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Như vậy, từ các

nghiên cứu gần đây đều cho thấy Chính phủ có NHTW độc lập góp phần thúc

đẩy áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt.

Zhongyo và cộng sự (2019) đã đề xuất giá trị văn hóa có tác động tới lựa chế độ

tỷ giá. Dựa vào các thang đo của Hofstede (1983), các nhân tố được đưa ra là: chủ

nghĩa cá nhân, mức độ e ngại rủi ro, mức độ tập trung quyền lực và giới tính. Các nhân

tố này đều cho thấy có sự ảnh hưởng trong thực nghiệm nhưng với chiều hướng và

mức độ khác nhau. Trong khi nhân tố mức độ tập trung quyền lực và sự ưa thích chủ

nghĩa cá nhân có tác động tới lựa chọn chế độ thả nổi nhiều hơn thì ngược lại các quốc

gia có mức độ e ngại rủi ro cao và sự phân biệt giới (nam/nữ) cao có khả năng lựa chọn

chế độ tỷ giá cố định nhiều hơn.

8

Bên cạnh đó, Ghosh và cộng sự (1997, 2002); Rogoff và cộng sự (2003);

Levy -Yeyati và Sturzenegger (2001, 2003b) đã đưa ra những phân tích từ việc kết

hợp ảnh hưởng của các nhóm nhân tố theo lý thuyết OCA, kinh tế - tài chính và

chính trị.

Khoảng trống nghiên cứu:

Tổng quan các nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa

chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, với sự

đa dạng trong phương pháp luận và các mô hình hồi quy được sử dụng để phân tích.

Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu, cụ thể là:

Thứ nhất, mặc dù các nghiên cứu trước đây đã phân tích các quốc gia đang

phát triển (Aghevli và cộng sự, 1991; Edwards, 1996; Yarci,2001; Jurek, 2018),

phần lớn các nghiên cứu này thường xem xét các nhóm quốc gia với phạm vi rộng,

bao gồm nhiều khu vực địa lý khác nhau, mà chưa tập trung chuyên sâu vào khu

vực châu Á – nơi có các đặc điểm kinh tế, văn hóa và chính trị khác biệt. Hơn nữa,

các nghiên cứu về nhóm quốc gia này chủ yếu tập trung vào giai đoạn trước năm

2010, trong khi bối cảnh kinh tế toàn cầu sau đó (như khủng hoảng tài chính 2008,

đại dịch COVID-19, và các biến động địa chính trị) đã tạo ra những thay đổi đáng

kể trong cách các quốc gia lựa chọn chế độ tỷ giá. Do đó, luận án này tập trung vào các

quốc gia đang phát triển ở khu vực châu Á trong giai đoạn 2010-2023 để cập nhật và

làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá trong bối cảnh hiện đại.

Thứ hai, các nghiên cứu trước đây (như Ghosh và cộng sự, 1997, 2002;

Levy-Yeyati và Sturzenegger, 2001, 2003b) thường tích hợp nhiều nhóm nhân tố

(kinh tế, tài chính, chính trị, thể chế) vào cùng một mô hình phân tích, dẫn đến việc

khó xác định rõ ràng tác động riêng lẻ của từng nhóm nhân tố. Điều này có thể làm

giảm khả năng hiểu rõ cơ chế ảnh hưởng của từng nhóm đến quyết định lựa chọn

chế độ tỷ giá. Để khắc phục hạn chế này, luận án xây dựng các mô hình nghiên cứu

riêng biệt, tập trung đánh giá tác động của từng nhóm nhân tố, cụ thể là nhóm kinh

tế và nhóm chính trị-thể chế, nhằm cung cấp cái nhìn chi tiết hơn về vai trò của từng

nhóm trong việc định hình lựa chọn chế độ tỷ giá.

Thứ ba, mặc dù các yếu tố chính trị và thể chế như sự ổn định chính trị, độ

tin cậy của thể chế, và tính độc lập của ngân hàng trung ương đã được nghiên cứu

9

rộng rãi (Edwards, 1996; Berdiev và cộng sự, 2012; Lu và Ahmad, 2020), hiệu quả

Chính phủ – một yếu tố quan trọng phản ánh năng lực quản lý và điều hành kinh tế

của chính phủ vẫn chưa được xem xét đầy đủ, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia

đang phát triển ở châu Á. Những quốc gia này thường dễ bị tổn thương bởi các cú

sốc kinh tế bên ngoài, khiến hiệu quả chính phủ trở thành một nhân tố tiềm năng

ảnh hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá. Vì vậy, luận án này bổ sung nhân tố hiệu quả

chính phủ vào mô hình nghiên cứu, nhằm đánh giá tác động và chiều hướng ảnh

hưởng của yếu tố này đến quyết định lựa chọn chế độ tỷ giá.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

3.1 Mục tiêu nghiên cứu

3.1.1 Mục tiêu tổng quát:

Mục tiêu của luận án là đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ

tỷ giá của các quốc gia đang phát triển tại khu vực Châu Á, trên cơ sở đó đề xuất

một số giải pháp, khuyến nghị nhằm thúc đẩy tác động tích cực của các nhân tố

quyết định tới chế độ tỷ giá của Việt Nam.

3.1.2 Các nhiệm vụ cụ thể:

Nghiên cứu hướng tới thực hiện các mục tiêu cụ thể như sau:

Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận về chế độ tỷ giá và các nhân tố ảnh hưởng.

Thứ hai, đánh giá thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của một số quốc gia

trong khu vực châu Á.

Thứ ba, dựa trên cơ sở lý thuyết, phân tích định lượng nhằm đánh giá tác

động của một số nhân tố tới lựa chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia đang phát triển

tại khu vực Châu Á.

Thứ tư, ứng dụng kết quả mô hình xuất phát từ thực trạng của Việt Nam luận

án đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy tác động tích cực của các nhân tố quyết

định tới lựa chọn chế độ tỷ giá của Việt Nam.

3.2 Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, Luận án xây dựng và tập trung trả

lời các câu hỏi nghiên cứu dưới đây:

Thứ nhất, thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá tại một số quốc gia đang phát

triển tại châu Á như thế nào?

10

Thứ hai, các nhân tố kinh tế, chính trị - thể chế có tác động như thế nào tới

lựa chọn chế độ tỷ giá tại các quốc gia đang phát triển tại châu Á?

Thứ ba, định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá và giải pháp nhằm thúc đẩy tác

động tích cực của các nhân tố quyết định tới lựa chọn chế độ tỷ giá của Việt Nam

trong thời gian tới là gì?

4. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

4.1 Đối tượng

Các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá của một số quốc gia đang

phát triển tại châu Á.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Đối với phần phân tích định tính

+ Về nội dung nghiên cứu: nghiên cứu thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá tại

một số quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á theo hai cách thức phân loại

pháp định và theo thực tế.

+ Về không gian: Nghiên cứu một số quốc gia là Trung Quốc, Thái Lan và

Việt Nam.

+ Về thời gian: Từ sau khủng hoảng châu Á năm 1997 tới năm 2023.

Đối với phần phân tích định lượng:

+ Về nội dung: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá:

các nhân tố kinh tế bao gồm quy mô nền kinh tế, lạm phát, độ mở cửa thương mại,

độ mở cửa tài khoản vốn và các nhân tố chính trị, thể chế bao gồm sự ổn định chính

trị, mức độ nhận thức tham nhũng, mức độ toàn cầu hóa, mức độ dân chủ, mức độ

hiệu quả của Chính phủ.

+ Về không gian: mẫu nghiên cứu là 20 quốc gia đang phát triển tại khu vực

châu Á.

+ Về thời gian: từ năm 2010 – 2023.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để giải quyết những vấn đề nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp phương

pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.

11

Phương pháp nghiên cứu định tính: Dựa trên bộ dữ liệu của World bank,

IMF và QoG, tác giả đã ứng dụng phương pháp thống kê, so sánh và phân tích các

chỉ tiêu để đưa ra nhận định đánh giá về thực trạng kinh tế vĩ mô, chính trị của một

số quốc gia đang phát triển tại khu vực châu Á.

Phương pháp nghiên cứu định lượng: Luận án được thực hiện cơ bản trên cơ sở

nghiên cứu định lượng, tác giả sử dụng mô hình probit thứ tự để đánh giá tác động của

các nhân tố vào lựa chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia đang phát triển ở châu Á.

6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước, luận án dự kiến có những đóng góp

mới như sau:

Về lý luận

Thứ nhất, luận án hệ thống hóa được nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chế độ

tỷ giá tại các quốc gia.

Thứ hai, luận án hệ thống hóa phương pháp nghiên cứu đã được dùng để

đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố tới lựa chọn chế độ tỷ giá. Đồng thời, xây dựng

mô hình nghiên cứu đánh giá theo nhóm các nhân tố: kinh tế và chính trị, thể chế.

Về thực tiễn

Thứ nhất, nghiên cứu thực hiện đánh giá thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá

theo pháp định và theo thực tế tại một số các quốc gia đang phát triển ở khu vực

châu Á: Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam.

Thứ hai, xây dựng mô hình nghiên cứu định lượng dựa trên số liệu thứ cấp

với mẫu nghiên cứu là 20 quốc gia đang phát triển ở châu Á trong giai đoạn 2010 –

2023 và hai giai đoạn cụ thể hơn đó là từ 2010 -2015 và giai đoạn 2016-2023 để

đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chế độ tỷ giá: (1) Đánh giá nhóm nhân

tố kinh tế ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ theo pháp định và theo thực tế; (2) Đánh

giá nhóm nhân tố chính trị, thể chế ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp

định và thực tế.

Thứ ba, thông qua kết quả mô hình, tác giả đã chỉ ra được các nhân tố kinh

tế, chính trị - thể chế có ảnh hưởng quyết định, có ảnh hưởng nhưng mức độ tác

động nhỏ và không có ảnh hưởng tới khả năng lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp

12

định và theo thực tế của các quốc gia đang phát triển ở châu Á. Nhóm nhân tố kinh

tế bao gồm quy mô nền kinh tế, độ mở thương mại, độ mở tài khoản vốn và lạm

phát. Nhóm nhân tố chính trị, thể chế bao gồm: sự ổn định chính trị, mức độ nhận

thức tham nhũng, mức độ toàn cầu hóa, mức độ dân chủ và mức độ hiệu quả của

Chính phủ. Kết quả từ mô hình đã cho thấy các quốc gia có quy mô nền kinh tế

tăng, độ mở cửa tài khoản vốn tăng, mức độ dân chủ tăng, hiệu quả Chính phủ

tăng có ảnh hưởng quyết định tới lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt đối với nhóm

quốc gia này, ngược lại khi chính trị ổn định hơn thúc đẩy mạnh mẽ quốc gia lựa

chọn chế độ tỷ giá cố định. Các nhân tố độ mở thương mại, mức độ nhận thức

tham nhũng và toàn cầu hóa có tác động nhẹ tới lựa chọn chế độ tỷ giá của các

quốc gia. Trong đó, độ mở thương mại tăng, tham nhũng giảm thì quốc gia có xu

hướng lựa chọn chế độ cố định hơn trong khi toàn cầu hóa tăng góp phần thúc đẩy

chế độ linh hoạt tỷ giá. Lạm phát là nhân tố duy nhất không cho thấy có ảnh

hưởng rõ ràng tới lựa chọn của nhóm các quốc gia trong giai đoạn này.

Thứ tư, căn cứ vào phân tích bối cảnh kinh tế vĩ mô, chính trị thể chế của

Việt Nam tác giả đề xuất định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá trong giai đoạn sắp tới

của Việt Nam đó là theo hướng ngày càng linh hoạt hơn và từ đó luận án đưa ra các

giải pháp nhằm thúc đẩy tác động tích cực của các nhân tố quyết định tới lựa chọn

của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Chương 1: Cơ sở lý luận về chế độ tỷ giá và nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn

chế độ tỷ giá.

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của một số quốc gia đang phát

triển ở khu vực châu Á.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá

tại các quốc gia đang phát triển.

Chương 5: Ứng dụng kết quả mô hình vào lựa chọn chế độ tỷ giá tại Việt

Nam và đề xuất giải pháp thúc đẩy các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá

của Việt Nam.

13

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH

HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ

1.1 Những vấn đề chung về tỷ giá

1.1.1 Khái niệm và phân loại

Khái niệm tỷ giá được hình thành và phát triển khi các hoạt động thương

mại, đầu tư giữa các quốc gia bắt đầu xuất hiện. “Mỗi một quốc gia có nội tệ - tiền

tệ theo pháp định và được sử dụng trong lưu thông của mỗi quốc gia” theo External

Debt Statistics Guide (2003). Khi thực hiện mua bán hàng hóa/dịch vụ hay luân

chuyển vốn quốc tế đã phát sinh nhu cầu trao đổi giữa các đơn vị tiền tệ với nhau.

Kể từ đó, khái niệm về tỷ giá được hình thành. Theo Latter (1996), “tỷ giá hối đoái là

mức giá mà tại đó tiền tệ của một quốc gia được đánh giá có liên quan tới tiền tệ nước

ngoài”. Cùng một cách diễn giải tương tự nhưng rõ ràng hơn đó là: “Tỷ giá là giá cả

của một tiền tệ được biểu thị thông qua một tiền tệ khác” theo Mishkin (2010).

Theo Nguyễn Văn Tiến (2023), “tỷ giá là giá cả của một tiền tệ được quy đổi

sang một tiền tệ khác”. Như vậy, các định nghĩa ở trên đều phản ánh bản chất của tỷ

giá là tỷ lệ trao đổi giữa hai đơn vị tiền tệ. Khi trao đổi, giao dịch mua bán hàng hóa

quốc tế hay mua bán tiền tệ thì đều cần tới tỷ giá. Khi doanh nghiệp xuất khẩu, nhập

khẩu hàng hóa hoặc khi thực hiện hoạt động đầu tư quốc tế thì đều phát sinh nhu

cầu trao đổi tiền tệ và đây cũng là nguồn gốc hình thành nên tỷ giá.

Tỷ giá luôn phản ánh mối quan hệ giữa hai tiền tệ và được biểu diễn bởi: tiền

tệ yết giá và tiền tệ định giá. Trong đó, tiền tệ yết giá là đồng tiền có số đơn vị bằng

một và cố định, tiền tệ định giá là đồng tiền có số đơn vị thay đổi, phụ thuộc vào

biến động của cung cầu trên thị trường, theo Nguyễn Văn Tiến (2023).

Phân loại tỷ giá

Có nhiều cơ sở phân loại tỷ giá, dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu

được sử dụng trong luận án.

Cơ sở phân loại dựa trên mối quan hệ của tỷ giá và sức cạnh tranh thương

mại quốc tế được chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực.

Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ giá thực tế được niêm yết hàng ngày trên thị trường

ngoại hối. Thuật ngữ “danh nghĩa” hàm ý loại tỷ giá này chỉ đơn thuần phản ánh tỷ

14

lệ trao đổi giữa hai đồng tiền, chưa đề cập đến tương quan sức mua.

Tỷ giá thực: là chỉ số tỷ giá đã được điều chỉnh bởi tương quan mức giá hoặc

tỷ lệ lạm phát giữa hai đồng tiền vì vậy nó phản ánh được tương quan sức mua giữa

hai đồng tiền.

Cơ sở phân loại dựa trên đặc thù của thị trường và cơ chế điều hành tỷ giá ở

Việt Nam:

Tỷ giá trung tâm: là tỷ giá được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố hàng

ngày, đại diện cho giá trị của Đồng Việt Nam (VND) so với một ngoại tệ chủ chốt,

thường là Đô la Mỹ (USD), trên thị trường quốc tế. Tỷ giá trung tâm không phải là

tỷ giá giao dịch trực tiếp giữa các NHTM và khách hàng, mà là mức tham chiếu để

các NHTM xác định tỷ giá mua và bán ngoại tệ. Theo Quyết định số 2730/QĐ-

NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “tỷ giá trung tâm được xác định dựa trên

diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cùng với các

yếu tố kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ của Việt Nam”.

Tỷ giá liên ngân hàng: là tỷ giá mà các NHTM áp dụng để mua và bán ngoại

tệ cho nhau trên thị trường ngoại hối, và là cơ sở để xác định tỷ giá mua bán ngoại

tệ cho khách hàng, theo NHNN (2021). Đây là mức tỷ giá giao dịch trực tiếp giữa

các tổ chức tín dụng (ngân hàng) trong một khoảng thời gian ngắn (thường là trong

ngày). Các giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM sử dụng tỷ giá liên ngân hàng làm cơ

sở. Thông qua tỷ giá này, các NHTM sẽ xác định tỷ giá mua - bán cho khách hàng.

Cơ sở phân loại dựa trên đối tượng xác định tỷ giá:

Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do NHTW hoặc cơ quan quản lý tiền tệ của một

quốc gia công bố và áp dụng trong các giao dịch chính thức. Tỷ giá này thường

được sử dụng để điều hành chính sách kinh tế và quản lý thị trường ngoại hối, do đó

thường ít biến động và không nhất thiết phản ánh đúng giá trị thị trường.

Tỷ giá thị trường: là tỷ giá được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu trên

thị trường ngoại hối. Đây là mức tỷ giá phản ánh giá trị thực tế của một đồng tiền

khi nó được giao dịch tự do giữa các bên mà không có sự can thiệp từ cơ quan quản

lý tiền tệ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá thị trường không bị ràng buộc bởi mức

tỷ giá do NHTW công bố.

15

Cơ sở phân loại theo mối quan hệ phản ánh trong tỷ giá:

Tỷ giá song phương: là tỷ giá thể hiện tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cụ thể.

Tỷ giá song phương chính là tỷ giá thường được sử dụng trong giao dịch tiền tệ

giữa hai quốc gia nhưng không phản ánh đầy đủ mối quan hệ giữa một đồng tiền

với các đồng tiền khác trên toàn cầu.

Tỷ giá đa phương: là chỉ số tỷ giá tổng hợp được tính toán từ các chỉ số tỷ

giá song phương, từ đó phản ánh mối quan hệ giữa một đồng tiền với một nhóm các

đồng tiền khác.

Tỷ giá song phương thường được sử dụng trong các giao dịch trực tiếp và

hoạt động thương mại quốc tế còn tỷ giá đa phương thường được sử dụng trong

phân tích kinh tế vĩ mô, để đánh giá sức cạnh tranh tổng thể của một quốc gia trong

hoạt động thương mại quốc tế.

1.1.2 Tác động của tỷ giá tới nền kinh tế

1.1.2.1 Tác động của tỷ giá tới giá cả

Đảm bảo giá cả ổn định luôn là một trong những mục tiêu trọng yếu trong

hoạch định chính sách tỷ giá. Việc phân tích rõ mối liên kết giữa tỷ giá và giá cả

hàng hóa hay áp lực lạm phát có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chế độ tỷ

giá và biện pháp quản lý phù hợp.

Mối liên kết này lần đầu tiên được Dornbusch (1987) lý giải. Theo đó, khi tỷ

giá tăng, tức là giá trị của ngoại tệ tăng lên so với nội tệ, điều này làm giá cả hàng

hóa trong nước tăng theo. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, giá trị ngoại tệ suy yếu, dẫn

đến giảm bớt áp lực đối với giá hàng hóa trong nước.

Các kênh tác động chủ yếu diễn ra thông qua các yếu tố như xuất nhập khẩu

ròng, cán cân thương mại và giá cả của hàng hóa nhập khẩu. Kênh tác động thông

qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế là khá rõ ràng đối với mọi

nền kinh tế mở, nhưng ảnh hưởng thông qua giá cả hàng hóa nhập khẩu chỉ thực sự

đáng kể ở những quốc gia nhập khẩu lớn.

Cơ chế thứ nhất là thông qua xuất nhập khẩu ròng. Cụ thể, khi tỷ giá tăng

làm giá hàng hóa xuất khẩu trở nên rẻ tương đối từ đó thúc đẩy hoạt động xuất khẩu

16

đồng thời hạn chế nhập khẩu dẫn đến khả năng cải thiện cán cân thương mại. Xuất

khẩu ròng là một phần của tổng cầu (AD) do đó khi xuất khẩu ròng tăng, đường

tổng cầu AD sẽ dịch chuyển lên trên tạo áp lực khiến lạm phát tăng cao.

Cơ chế thứ hai có thể được phân tích qua hai bước: bước đầu tiên là ảnh

hưởng của tỷ giá đến giá nhập khẩu hàng hóa và bước thứ hai là tác động của giá

nhập khẩu đến chỉ số giá tiêu dùng. Giá cả hàng hóa nhập khẩu chịu ảnh hưởng từ

hai yếu tố chính: giá nhập khẩu trên thị trường toàn cầu và tỷ giá danh nghĩa. Khi tỷ

giá danh nghĩa tăng, giá hàng hóa nhập khẩu tăng theo và ngược lại. Hàng hóa nhập

khẩu có thể được sử dụng trong sản xuất nội địa hoặc nhu cầu tiêu dùng. Nếu là

hàng phục vụ sản xuất, chi phí nguyên liệu đầu vào và chi phí sản xuất sẽ tăng lên

khi tỷ giá tăng từ đó đẩy giá sản phẩm cuối cùng lên cao. Nếu để phục vụ tiêu dùng,

giá nhập khẩu về tăng lên cũng góp phần gây lạm phát, theo nghiên cứu của

Sahminan (2002).

1.1.2.2 Tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại

Cán cân thương mại phản ánh chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu hàng hóa

của một quốc gia, còn tỷ giá là tỷ lệ trao đổi giữa hai đơn vị tiền tệ của hai quốc gia.

Như vậy, đây là hai nhân tố cực kỳ quan trọng trong phát triển hoạt động thương

mại quốc tế và có mối quan hệ với nhau. Theo cách tiếp cận của Bickerdike (1920),

Robinson (1947) và Metzler (1948), tỷ giá biến động làm cho giá cả tương đối của

hàng hóa thay đổi. Giá xuất khẩu trở nên rẻ hơn và ngược lại giá nhập vào đắt hơn

khi tỷ giá tăng. Chính vì vậy, nhu cầu đối với sản phẩm nhập khẩu ở thị trường

trong nước giảm đi trong khi nhu cầu đối với sản phẩm xuất khẩu tăng ở thị trường

quốc tế. Điều kiện Marshall-Lerner cho thấy rằng: “với giả định rằng độ co giãn của

cung xuất, nhập khẩu là hoàn hảo, nếu tổng giá trị tuyệt đối của độ co giãn theo giá

của xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn một thì sự mất giá của nội tệ sẽ cải thiện cán

cân thương mại” theo Stern (1973).

Tuy nhiên, giảm giá nội tệ chỉ thực sự có tác động trong dài hạn. Theo hiệu

ứng tuyến J (J- curve), khi nội tệ bị giảm giá sẽ tác động tới giá cả ngay lập tức và

trong ngắn hạn, trong dài hạn khối lượng mới bắt đầu có tác động. Chính vì vậy,

trong thời gian đầu cán cân thương mại có khả năng bị thâm hụt sau đó mới dần

17

dần thặng dư khi mà hiệu ứng khối lượng bắt đầu trở nên vượt trội hơn hiệu ứng

giá cả, Magee (1973). Các nhà xuất nhập khẩu khó có thể bắt kịp với những thay

đổi do thói quen tiêu dùng và các hợp đồng đã ký trong ngắn hạn. Tuy nhiên,

những rào cản này được giảm bớt trong dài hạn bởi các tác nhân kinh tế điều

chỉnh mức giá mới, do đó, việc nội tệ giảm sẽ dần dần cải thiện cán cân thương

mại. Như vậy, sự biến động của tỷ giá góp phần tác động không nhỏ tới nền kinh tế.

1.1.2.3 Tác động của tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế cũng là một trong những mối quan tâm lớn trong điều

hành chính sách tỷ giá (chính sách tỷ giá) từ trước tới nay. Rodrik (2008), Martin

(2015), Arestis và Baltar (2018), Ribeiro (2019) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa

tỷ giá và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là, việc định giá thấp nội tệ sẽ góp phần thúc

đẩy tăng trưởng, đặc biệt ở nhóm quốc gia đang phát triển. Tác động của tỷ giá tới

tăng trưởng chủ yếu thông qua hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế.

Trước hết thông qua đầu tư quốc tế, khi nội tệ mất giá làm gia tăng tài sản

của nhà đầu tư nước ngoài đã dẫn đến gia tăng dòng vốn đầu tư chảy vào. Nhờ đó,

giúp kích thích tổng cầu, tác động tới tăng sản lượng đầu ra. Thông qua hoạt động

thương mại quốc tế, khi đồng nội tệ mất giá góp phần kích thích xuất khẩu, từ đó

cải thiện cán cân thương mại, thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, khi tỷ giá biến động

mạnh hay ổn định cũng góp phần tác động tới thương mại và đầu tư quốc tế thông

qua mức độ rủi ro. Trong trường hợp biến động mạnh mức độ rủi ro gia tăng, từ đó

làm cho hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế đều bị giảm sút và ngược

lại trong điều kiện ổn định.

1.2 Những vấn đề chung về chế độ tỷ giá

1.2.1 Khái niệm

Khi tỷ giá biến động có thể tác động đa chiều tới nền kinh tế và các chủ thể

trong nền kinh tế. Cụ thể là, trong điều kiện ổn định tỷ giá sẽ góp phần tạo cơ sở

phát triển hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá biến động

mạnh theo thời gian sẽ khiến rủi ro tỷ giá tăng cùng với hạn chế sự phát triển của

hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia.

18

Chính vì vậy, để xác định sự linh hoạt của tỷ giá, khái niệm về chế độ tỷ giá

(exchange rate regime/ arrangements) được đưa ra bởi Daniels và Vanhoose (2005), đó

là: “Chế độ tỷ giá được hiểu là tập hợp các quy tắc điều tiết giá trị của đồng tiền quốc

gia so với các đồng ngoại tệ khác”. Nguyễn Văn Tiến (2023) cũng cùng chung quan

điểm khi đưa ra khái niệm: “Chế độ tỷ giá của một quốc gia là tập hợp các quy tắc, cơ

chế nhằm xác định và điều tiết tỷ giá của quốc gia đó”. Đây cũng chính là khái niệm về

chế độ tỷ giá mà tác giả sử dụng trong luận án. Hệ thống quy tắc này được xây dựng

bởi các NHTW - đại diện cho Chính phủ nhằm xây dựng, tính toán và điều tiết tỷ giá.

Như vậy, vai trò của NHTW trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá là hết sức quan trọng.

1.2.2 Phân loại chế độ tỷ giá

Trong luận án, tác giả trình bày cách thức phân loại được sử dụng phổ biến

nhất và dựa trên cơ sở mức độ linh hoạt tỷ giá để chia thành: CĐTG cố định, CĐTG

trung gian và CĐTG thả nổi. Thứ tự sắp xếp này phản ánh tăng dần sự linh hoạt của

tỷ giá. Cụ thể là:

a. Chế độ tỷ giá cố định:

Khái niệm: là “chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can thiệp

để duy trì mức tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp đã được định trước” theo

Nguyễn Văn Tiến (2023). Để thực hiện cam kết, NHTW phải điều tiết lượng ngoại

tệ trên thị trường, đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ, đảm bảo tỷ giá không dao

động chệch ra ngoài biên độ cho phép và đã công bố từ trước. Chế độ này phù hợp với

các quốc gia đang phát triển với sự giới hạn về liên kết với thị trường tài chính toàn

cầu, hoặc thường được áp dụng trong giai đoạn đầu khi mà thị trường mới phát triển.

Theo Habermeier và cộng sự (2009), trong hệ thống phân loại mới của IMF,

CĐTG cố định gồm các chế độ sau:

+ Chế độ tỷ giá neo cứng (hard pegs): bao gồm các chế độ mà trong đó

NHTW không sử dụng đồng nội tệ là đồng tiền pháp định (no separate legal tender)

và chế độ mà NHTW ấn định giá trị đồng nội tệ theo đồng ngoại tệ theo một tỷ giá

cố định (currency board arrangement).

+ Chế độ tỷ giá neo mềm (soft peg): theo IMF (2009) bao gồm chế độ neo cố

định và chế độ ổn.

19

Trong đó, theo IMF (2009):

- Chế độ tỷ giá neo cố định có đặc điểm là NHTW gắn giá trị đồng nội tệ với

một đồng ngoại tệ hoặc với một giỏ tiền tệ nhất định. Tỷ giá này được gọi là tỷ giá

trung tâm và NHTW sẽ điều chỉnh tỷ giá này trong biên độ hẹp, khoảng +/-1% và

được duy trì ít nhất trong 6 tháng.

- Chế độ tỷ giá ổn định: là chế độ mà trong đó tỷ giá giao ngay biến động

khoảng 2% trong vòng ít nhất 6 tháng.

Đặc điểm chung của CĐTG cố định:

Thứ nhất, NHTW cam kết giữ cố định tỷ giá trong một biên độ dao động hẹp

và có thể được định trước.

Thứ hai, để duy trì được cam kết của mình, NHTW phải can thiệp trực tiếp

thông qua mua bán ngoại tệ/nội tệ nhằm điều chỉnh tỷ giá theo mức tỷ giá trung

tâm. Để thực hiện được can thiệp này, NHTW thường xuyên phải duy trì lượng dự trữ

ngoại hối đủ lớn để có thể can thiệp vào tỷ giá.

Thứ ba, bên cạnh can thiệp trực tiếp, NHTW hoàn toàn có thể kết hợp sử

dụng công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc trên số vốn huy động bằng ngoại tệ đối với

NHTM và các chính sách quản lý ngoại hối khác.

Ưu, nhược điểm của CĐTG cố định:

Ưu điểm:

Thứ nhất, một trong những lý do để các quốc gia lựa chọn cố định tỷ giá

trước hết là bởi chế độ này góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế và đầu

tư quốc tế, hạn chế rủi ro tỷ giá.

Thứ hai, tỷ giá cố định được coi như chiếc neo danh nghĩa để kiềm chế lạm

phát khi mà niềm tin của các chủ thể kinh tế vào chính sách tiền tệ có thể giúp kiềm

chế lạm phát bị giảm sút.

Thứ ba, để áp dụng được chế độ này đòi hỏi phải có tính kỷ luật trong điều

hành chính sách tiền tệ của NHTW. Bởi một chính sách tài chính lỏng lẻo sẽ khiến

NHTW phải chịu sức ép can thiệp vào thị trường vào tỷ giá liên tục và lượng dự trữ

ngoại hối bị cạn kiệt.

20

Nhược điểm:

Một là, chế độ này rất dễ chịu ảnh hưởng bởi các cuộc tấn công đầu cơ nhất là

khi tồn tại độ lệch giữa tỷ giá trung tâm và tỷ giá trên thị trường tự do. Những cuộc

tấn công đầu cơ tất yếu sẽ ảnh hưởng tới các chủ thể và nền kinh tế ví dụ như cuộc

đầu cơ xảy ra vào năm 1992 với nước Anh đã làm NHTW Anh buộc phải từ bỏ

CĐTG cố định.

Hai là, chế độ này dẫn tới việc điều hành chính sách tiền tệ bị phụ thuộc.

Trong điều kiện đồng nội tệ neo cứng vào một đồng ngoại tệ hoặc một giỏ tiền tệ,

chính sách tiền tệ trong nước sẽ dễ dàng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi chính sách

tiền tệ của quốc gia có đồng tiền đang neo vào để duy trì tỷ giá.

Ba là, mục tiêu của chế độ này là hướng tới việc tỷ giá cố định nên các chủ

thể tham gia trên thị trường sẽ không có động lực để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Và hệ

quả là nếu như có một cú sốc xảy ra và khi NHTW không thể duy trì được thì các

chủ thể sẽ phải gánh chịu rủi ro tỷ giá trên thực tế.

Bốn là, các quốc gia khi áp dụng CĐTG cố định cần phải đảm bảo một lượng

dự trữ ngoại hối lớn để có thể can thiệp trực tiếp bất cứ lúc nào và đây không phải

là một điều kiện dễ dàng thực hiện với nhiều quốc gia.

b. Chế độ tỷ giá thả nổi:

Theo Habermeier và cộng sự (2009): “CĐTG thả nổi là chế độ trong đó tỷ giá

được xác định theo quy luật cung cầu ngoại tệ trên thị trường mà không có sự can thiệp

nào của NHTW”. Theo đó, NHTW không có trách nhiệm phải can thiệp lên tỷ giá.

CĐTG thả nổi thường được áp dụng bởi các nước phát triển, có thị trường tài chính

phát triển mạnh mẽ và đa dạng sản phẩm.

Đặc điểm của CĐTG thả nổi:

Một là, tỷ giá biến động tăng hay giảm theo thị trường chính vì vậy sự thay

đổi sẽ hoàn toàn linh hoạt và không lường trước được.

Hai là, NHTW không can thiệp nhằm điều tiết tỷ giá. Thế nhưng khi biến

động quá lớn tạo ra tác động tiêu cực tới nền kinh tế thì NHTW vẫn có thể can thiệp

nhằm giảm bớt sự biến động này. Theo Habermeier và cộng sự (2009): “nếu can

21

thiệp được công bố ở mức ba lần trong vòng 6 tháng và mỗi lần không quá ba ngày

thì can thiệp đó vẫn được chấp nhận trong chế độ này”.

Ưu, nhược điểm của CĐTG thả nổi:

Ưu điểm:

Một là, CĐTG này cho phép các quốc gia theo đuổi chính sách tiền tệ độc lập.

Hai là, trong chế độ này luôn tồn tại rủi ro tỷ giá và từ đó phát sinh những

công cụ giúp phòng ngừa và cũng là động lực giúp thị trường tài chính phát triển

hơn cũng như góp phần hạn chế nguy cơ khủng hoảng xảy ra.

Ba là, trong điều kiện tỷ giá linh hoạt cùng với sự hiệu quả của thị trường sẽ

góp phần hạn chế sự tấn công của đầu cơ.

Cuối cùng là, NHTW cũng không chịu sức ép từ dự trữ ngoại hối lớn.

Nhược điểm:

Trước hết, khi tỷ giá biến động mạnh đồng nghĩa với rủi ro tỷ giá luôn tiềm

ẩn sẽ hạn chế hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Ngoài ra, trên thực tế

để thị trường hoạt động hiệu quả là rất khó chính vì vậy khi tỷ giá thả nổi theo thị

trường có thể sẽ tiềm ẩn rủi ro tỷ giá lớn.

c. Chế độ tỷ giá trung gian

Khái niệm: là “một chế độ, trong đó tỷ giá được biến động hàng ngày nhưng

NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối bằng cách mua vào

hay bán ra nội tệ nhằm tác động lên sự biến động của tỷ giá. Hoạt động can thiệp

của NHTW lên tỷ giá có tính chất tùy ý, không bắt buộc, không thông báo trước,

không đặt ra mục tiêu cụ thể phải đạt được” theo Habermeier và cộng sự (2009). Như

vậy, trong chế độ này, NHTW có thể áp dụng linh hoạt giữa can thiệp trực tiếp và

gián tiếp vào tỷ giá. Cụ thể là, NHTW có thể tham gia vào thị trường hoặc sử dụng

các công cụ cung cấp thông tin cần thiết và chuẩn xác cho thị trường. Chính vì vậy,

NHTW cũng cần đảm bảo lượng dự trữ ngoại hối cần thiết cũng như uy tín của

mình trên thị trường. Theo cách thức phân loại của IMF (2009), CĐTG trung gian, bao

gồm: chế độ neo trong biên độ, chế độ cố định trượt và chế độ tương đương điều chỉnh.

Ngoài ra, NHTW can thiệp một cách chủ động, tích cực lên thị trường.

22

Bảng 1.1: Đặc điểm của các chế độ tỷ giá trung gian

Chế độ tỷ giá Chế độ tỷ giá cố định trượt

Chế độ tỷ giá tương đương điều chỉnh

Chế độ tỷ giá neo trong biên độ

Đặc điểm tỷ giá được điều chỉnh biên độ nhỏ hoặc điều chỉnh để phù hợp với thay đổi của các chỉ số kinh tế như lạm phát. Đặc điểm khác biệt của CĐTG này là phương pháp kiểm soát tỷ giá dựa trên điều chỉnh tỷ giá một cách từ từ, chia mức điều chỉnh tỷ giá cần thiết và thay đổi nhiều lần trong một thời kỳ nhất định. Các quy định và giới hạn trong chế độ này được công khai và được thông báo cho IMF. tỷ giá phải được duy trì trong biên độ 2% theo xu hướng trong vòng 6 tháng, không được vượt quá và không được thả nổi. Thông thường biên độ thay đổi tối thiểu trong chế độ này cao hơn hơn CĐTG ổn định. Biên độ được duy trì trong phạm vi 1% theo tỷ giá trung tâm, biên độ lớn nhất cho phép hơn 2%, tỷ giá trung tâm và biên độ được công bố công khai và được thông báo cho IMF. Các CĐTG còn lại không xếp loại theo 3 cơ chế tỷ giá trên

Chế độ tỷ giá có điều tiết khác

Nguồn: IMF (2009)

Ưu, nhược điểm:

Ưu điểm:

Đây là chế độ kết hợp được ưu điểm của hai chế độ trước đó.

Nhược điểm:

Một là, CĐTG trung gian ít bền vững hơn, khó duy trì được lâu dài.

Hai là, vai trò và mức độ điều tiết tỷ giá của NHTW trong chế độ này có ảnh

hưởng lớn tới hiệu quả của chính sách và CĐTG. Chính vì vậy, để áp dụng được

chế độ này cũng đòi hỏi tính minh bạch, độ tin cậy của các NHTW.

Ba là, khủng hoảng dễ xảy ra hơn khi quốc gia áp dụng các chế độ trung gian

theo Bubula và cộng sự (2003).

Bên cạnh cách phân loại ở trên, trong luận án cũng sử dụng cách phân loại

theo thực tế và theo pháp định. Cụ thể là:

Chế độ tỷ giá theo pháp định (de jure): là chế độ được NHTW của một quốc

gia – đại diện cho Chính phủ của quốc gia đó công bố chính thức áp dụng.

Chế độ tỷ giá thực tế (de facto): là chế độ được phân loại dựa vào sự biến động

23

của tỷ giá và điều hành của NHTW trong thực tiễn. Mặc dù NHTW đã công bố lựa

chọn một chế độ nhất định tuy nhiên NHTW áp dụng một chế độ khác trong thực tế.

Calvo và Reinhart (2000) và Levy-Yeyati và Sturzenegger (2000) và IMF (1999) và

(2009) đã đưa ra những cách phân loại thực tế được sử dụng phổ biến nhất.

1.3 Các quan điểm lựa chọn chế độ tỷ giá.

Dựa theo các nghiên cứu trước đây, thông thường được chia làm các quan

điểm chính: tiếp cận mang tính cấu trúc, sự đánh đổi giữa sự tin cậy và sự linh hoạt,

và cuối cùng là quan điểm lưỡng cực và bộ ba bất khả thi.

Thứ nhất là cách tiếp cận theo cơ cấu của nền kinh tế dựa trên lý thuyết khu

vực tiền tệ tối ưu (OCA) của Mundel (1961) và McKinnon (1963). Trong khi

Mundell (1961) tập trung vào lựa chọn chế độ tối ưu nhằm cân bằng được các cú

sốc từ bên ngoài thì McKinnon (1963) tập trung vào duy trì ổn định giá cả. Lý

thuyết này dựa vào đặc điểm cơ cấu kinh tế để xác định chế độ phù hợp giúp duy trì

được sự cân bằng bên trong và bên ngoài cho nền kinh tế. Fisher (1997), Frenkel và

Aizenmen (1982) đã chỉ ra sự lựa chọn của các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi tính

chất, quy mô của những cú sốc xuất phát từ sự suy giảm của thương mại quốc tế và

đầu tư quốc tế, từ cơ cấu của nền kinh tế. Những phân tích này cho rằng CĐTG linh

hoạt được ưu tiên lựa chọn hơn khi quốc gia chịu ảnh hưởng bởi những cú sốc thực

tế như sự thay đổi về nhu cầu hàng hóa nội địa. Ngoài ra, quốc gia có độ mở cửa

thương mại quốc tế còn hạn chế thì có khả năng áp dụng CĐTG cố định nhiều hơn.

Như vậy, nhìn chung quan điểm này phù hợp với các nước có đặc điểm kinh tế khác

nhau, nhấn mạnh vào mức độ hội nhập thương mại, tính linh hoạt lao động tuy

nhiên vẫn chưa giải thích được xu hướng thay đổi theo thời gian của CĐTG.

Cách tiếp cận thứ hai là sự đánh đổi giữa sự tin cậy trong chế độ cố định và

sự linh hoạt trong thả nổi. Quan điểm này cho rằng một quốc gia phải cân bằng giữa

hai mục tiêu đối lập khi lựa chọn: sự tin cậy – đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm

soát lạm phát và duy trì niềm tin vào chính sách tiền tệ và sự linh hoạt – cho phép

nền kinh tế phản ứng nhanh với cú sốc bên ngoài, điều chỉnh chính sách tiền tệ chủ

động hơn. Như vậy, quốc gia phải cân bằng giữa hai mục tiêu ổn định kinh tế và

tính linh hoạt của chính sách tiền tệ. Lý thuyết này xuất phát từ những quan điểm

nhận định khác nhau giữa CĐTG cố định và thả nổi. Krugman (1991) chỉ ra ưu

24

điểm của chế độ cố định là giúp tạo niềm tin và kiểm soát lạm phát, nhưng lại hạn

chế chính sách tiền tệ độc lập. Cùng với đó, Obstfeld (1995) nhận định nếu một

quốc gia duy trì cố định mà không có đủ dự trữ ngoại hối hoặc niềm tin thị trường,

họ sẽ dễ bị tấn công đầu cơ. Theo Giavazzi và Pagano (1988); và Mendoza (2001),

cách tiếp cận mới này nhấn mạnh về độ tin cậy của chính sách tiền tệ và chủ yếu là

để chống lạm phát và tránh khủng hoảng tài chính. Tình trạng lạm phát cao xảy ra ở

nhiều quốc gia vào cuối những năm 1970 đã đưa ra một cách tiếp cận mới đối với

việc lựa chọn CĐTG, tập trung vào việc truyền tải lạm phát giữa các quốc gia và

việc sử dụng các chính sách tỷ giá để đạt được tỷ lệ lạm phát thấp. Dựa trên lý

thuyết do Barro và Gordon (1983a, b) phát triển về độ tin cậy của chính sách tiền tệ,

Giavazzi và Giovannini (1989); Dornbusch (2001) đã phát triển ý tưởng rằng

CĐTG cố định có thể giúp nhập khẩu độ tin cậy của các chính sách lạm phát thấp từ

một NHTW nước ngoài bằng các thỏa thuận neo tỷ giá. Lập luận chính ủng hộ tỷ

giá cố định là khả năng tạo ra kỷ luật và làm cho chính sách tiền tệ đáng tin cậy hơn

vì việc áp dụng các chính sách lỏng lẻo cuối cùng sẽ dẫn đến cạn kiệt dự trữ và sự

sụp đổ của cả hệ thống. Tương tự, một số nghiên cứu thực nghiệm đã đưa ra những

cân nhắc về ổn định kinh tế vĩ mô như Melvin (1985); Savvides (1990, 1993). Các

tác giả này nhận thấy rằng sự hiện diện của các cú sốc danh nghĩa trong nước làm

tăng khả năng neo tỷ giá hối đoái, trong khi các cú sốc thực tế làm giảm khả năng

này. Ngược lại, một hướng nghiên cứu khác ủng hộ CĐTG thả nổi đã được khởi

xướng vào cuối những năm 1970, dựa trên công trình lý thuyết về độ tin cậy và tính

không nhất quán theo thời gian của Kyndland và Prescott (1977). Theo cách tiếp

cận này, chế độ thả nổi mang tới quyền tự quyết của Chính phủ về chính sách tiền tệ

nhưng đi kèm với đó là vấn đề không nhất quán theo thời gian. Cụ thể là, nếu một

Chính phủ có xu hướng lạm dụng quyền tự quyết của mình và không thể giữ lời hứa

về lạm phát thấp ngày hôm nay, sẽ rất khó để khiến người dân tiếp tục tin vào các

thông báo chính sách trong tương lai. Do đó, cần thiết lập các hạn chế của Chính

phủ để đảm bảo rằng quyền tự quyết không bị lạm dụng và các chính sách kinh tế

nhất quán và bền vững, để tránh các đợt lạm phát. Cùng với đó, việc thiết kế một

tập hợp các thể chế trong nước sẽ tạo ra lạm phát thấp và kỳ vọng lạm phát thấp

trong dài hạn là phù hợp với sự độc lập về tiền tệ khi áp dụng chế độ thả nổi,

25

Svensson (2000). Ngoài ra, Larraín và Velasco (2001) đã đưa ra nhận định rằng các

NHTW độc lập sử dụng mục tiêu lạm phát có thể giải quyết được vấn đề không

nhất quán về thời gian, mang lại uy tín cho chính sách tiền tệ mà không cần từ bỏ

thả nổi. Quốc gia có lịch sử lạm phát cao có thể áp dụng chế độ cố định hoặc hội

đồng tiền tệ, nhưng nếu không có các thể chế tài chính phù hợp sẽ không đủ để đảm

bảo uy tín. Sự hấp dẫn đối với chế độ neo tỷ giá sẽ giảm đi khi mức độ độc lập của

NHTW tăng lên.

Cách tiếp cận thứ ba là theo quan điểm lưỡng cực. Các cuộc khủng hoảng

tiền tệ xảy ra vào những năm 1990 được nhận định có liên quan đến sự kết hợp của

một số CĐTG trung gian với sự lưu động vốn cao (Hausmann và cộng sự, 1999).

Những sự kết hợp như vậy dễ bị tấn công đầu cơ do sự không nhất quán về chính

sách cơ bản theo Krugman (1979), Daniel (1997, 2001); Corsetti và Mackowiak

(2005). Mặt khác, các quốc gia có tài khoản vốn mở phải lựa chọn giữa CĐTG neo

cứng (như hội đồng tiền tệ, đô la hóa hoặc liên minh tiền tệ) hoặc thả nổi. Quan

điểm này được gọi là “quan điểm lưỡng cực” và đã trở thành một cách tiếp cận mới

trong suốt những năm 1990, theo Eichengreen (1994), Obstfeld và Rogoff (1995);

Fischer (2001). Trên thực tế từ đầu những năm 1990, số lượng các quốc gia duy trì

CĐTG trung gian giảm mạnh. Ngược lại, CĐTG neo cứng và thả nổi lại gia tăng

liên tục. Sự phân cực này đã góp phần khẳng định rằng các quốc gia có tài khoản

vốn mở là không bền vững trong thời gian dài và các quốc gia này nên chuyển từ

mức trung bình sang cả hai thái cực của CĐTG, Eichengreen (1994); Obstfeld và

Rogoff (1995). Theo Caramazza và Aziz (1998), 87% các nước đang phát triển áp

dụng CĐTG vào năm 1975 và chỉ còn 50% vào năm 1996. Họ cũng cho rằng các

quốc gia trong những năm 1990 đã lựa chọn các chế độ linh hoạt nhiều hơn là cố

định. Bên cạnh đó, Fischer (2001) đã tiếp tục chứng minh quan điểm lưỡng cực và

xu hướng chuyển dịch từ các CĐTG trung gian sang CĐTG thả nổi. Cụ thể là, số

lượng các nền kinh tế mới nổi áp dụng CĐTG trung gian đã giảm từ 21 quốc gia

(64%) vào năm 1991 xuống còn 14 quốc gia (42%) vào năm 1999. Tương tự, số

lượng các quốc gia đang phát triển có chế độ trung gian đã giảm từ 62 quốc gia

(59%) xuống còn 48 quốc gia (36%) trong cùng thời kỳ. Đây là kết quả từ nghiên

cứu các CĐTG theo pháp định tuy nhiên khi sử dụng cách phân loại CĐTG theo

26

thực tế thì Masson (2001); Bubula và Otker-Rober (2002); Rogoff và cộng sự

(2003); Bérnassy-Quéré và cộng sự (2006) đã không đưa ra được kết quả tương tự.

Theo Bubula và Otker-Rober (2002) sử dụng cơ sở dữ liệu CĐTG theo thực tế của

IMF và đã nhận thấy rằng CĐTG trung gian được áp dụng phổ biến hơn so với cách

thức phân loại theo pháp định trong giai đoạn 1990-2001. Theo Levy-Yeyati và

Sturzenergger (2005), CĐTG trung gian giảm mạnh từ 62% năm 1991 xuống còn

32% năm 2000. Ngược lại, Bérnassy-Quéré và cộng sự (2006) khi sử dụng cách

thức phân loại thực tế của riêng họ đã nhận thấy rằng các chế độ trung gian đã suy

giảm sau cuộc khủng hoảng 1997-1998, nhưng sự chuyển dịch chủ yếu là sang chế

độ neo cứng thay vì thả nổi. Tuy nhiên, sự suy giảm của chế độ trung gian có thể

được giải thích bằng sự hình thành của Liên minh tiền tệ châu Âu. Khi loại các quốc

gia này khỏi mẫu, tỷ lệ các quốc gia áp dụng CĐTG thả nổi, trung gian và cố định

vẫn gần như không đổi trước và sau cuộc khủng hoảng.

Cách tiếp cận thứ tư là lý thuyết bộ ba bất khả thi, xuất phát từ nghiên cứu

của Mundell (1963) và Fleming (1962). Họ đã đặt nền tảng lý thuyết cho bộ ba bất

khả thi thông qua mô hình Mundell-Fleming, phân tích trong khuôn khổ nền kinh tế

mở nhỏ. Trong mô hình này, họ cho thấy rằng chỉ có thể đồng thời đạt được 2 trong

3 mục tiêu sau: (1) tỷ giá cố định, (2) tự do dòng vốn và (3) chính sách tiền tệ độc

lập. Sau đó lý thuyết đã được phát triển sâu hơn với các nghiên cứu chính của

Obstfeld và Taylor (1997, 2001), Obstfeld, Shambaugh và Taylor (2005) và

Aizenman, Chinn và Ito (2008). Họ đã sử dụng nghiên cứu thực nghiệm từ nhiều

quốc gia để kiểm định và đo lường các cấu hình chính sách liên quan đến tam giác

bất khả thi. Quốc gia có thể lựa chọn CĐTG cố định và tự do luân chuyển vốn. Khi

đó quốc gia phải từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập vì để duy trì được CĐTG cố định

thì lãi suất của đồng nội tệ bị phụ thuộc vào lãi suất của đồng tiền mà quốc gia đang

neo vào. Chính sách lựa chọn thứ hai đó là kết hợp giữa CĐTG cố định và chính

sách tiền tệ độc lập. Để làm được điều này yêu cầu kiểm soát vốn để ngăn chặn

dòng vốn làm biến động tỷ giá. Cuối cùng là chính sách kết hợp giữa tự do luân

chuyển vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Trong chính sách này đòi hỏi CĐTG thả

nổi để thị trường cân bằng tỷ giá dựa trên chênh lệch lãi suất.

27

1.4 Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái

Trong phạm vi luận án này, các nhân tố được chia thành: nhóm nhân tố kinh

tế và nhóm nhân tố chính trị, thể chế.

1.4.1 Nhóm nhân tố kinh tế

1.4.1.1 Độ mở cửa thương mại

Theo Fischer (2003), “độ mở cửa thương mại là quá trình phụ thuộc liên tục

lẫn nhau giữa các quốc gia được phản ánh trong việc ngày càng có nhiều hàng hóa

và dịch vụ trao đổi, mua bán xuyên biên giới”. Hiện nay, nhân tố này được đo lường

bằng giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu / giá trị của tổng sản phẩm trong nước

(GDP) trong một thời kỳ. Ngoài ra, mức độ mở cửa hoạt động thương mại quốc tế

cũng đồng thời phản ánh quốc gia có định hướng hướng nội hay hướng ngoại. Nếu

quốc gia có định hướng hướng ngoại thì có thể tận dụng các cơ hội để giao thương với

nước ngoài và ngược lại, với định hướng hướng nội thì sẽ hạn chế các hoạt động giao

thương với nước ngoài.

Tác động của nhân tố này tới lựa chọn CĐTG được thể hiện thông qua nhiều

quan điểm trái chiều. Trước hết là quan điểm truyền thống xuất phát từ nghiên cứu

của Mundell (1961), McKinnon (1963), quốc gia có độ mở TMQT cao nên chọn

chế độ cố định để giảm rủi ro tỷ giá và khuyến khích thương mại. Bởi vì khi tăng

cường quan hệ quốc tế, tỷ giá biến động có thể là nhân tố tiềm ẩn gây bất lợi cho

nền kinh tế. Vì vậy, CĐTG cố định giúp thúc đẩy thương mại thông qua việc hạn

chế rủi ro tỷ giá và các chi phí giao dịch liên quan theo IMF (2005). Mối quan hệ

này tiếp tục được đặt ra bởi Frieden và cộng sự (2001, 2010), Ghosh và cộng sự

(2015), Markiewiez (2006), Rodriguez (2016). Levy-Yeyati và cộng sự (2010) chỉ

ra rằng độ mở thương mại là nhân tố quyết đinh tới lựa chọn CĐTG cố định tại các

quốc gia công nghiệp. Aliyev (2014, 2024) cũng tiếp tục khẳng định một lần nữa

sức ảnh hưởng của nhân tố này đối với nhóm các nước giàu tài nguyên.

Quan điểm hiện đại được đưa ra bởi Calvo và Reinhart (2002), Husain

(2005) nhận định rằng độ mở TMQT cao góp phần thúc đẩy CĐTG thả nổi để điều

chỉnh linh hoạt trước các cú sốc kinh tế và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

28

1.4.1.2 Quy mô nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế thông thường được đo lường bằng GDP của một quốc

gia. Theo lý thuyết, quy mô nền kinh tế có ảnh hưởng lớn tới khả năng áp dụng

CĐTG của quốc gia. Đối với các quốc gia có GDP cao thường có thị trường nội địa

lớn, ít phụ thuộc vào thương mại quốc tế và có dự trữ ngoại hối dồi dào. Điều này

cho phép họ duy trì CĐTG linh hoạt vì biến động tỷ giá ít gây ra tác động lớn đến

nền kinh tế tổng thể (Mundell, 1961). Ngược lại, đối với các quốc gia có GDP thấp

thường phụ thuộc nhiều vào thương mại và nhập khẩu. Những quốc gia này thường

áp dụng CĐTG cố định để đảm bảo ổn định giá cả và hạn chế rủi ro tỷ giá.

(Fleming, 1962).

Bên cạnh đó, rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm như Husain (2005), Meissner

và Oomes (2009), Ghosh (2000), Honig (2005), Zouhair và Younes (2014), Levy-

Yeyati và cộng sự (2010), Von Hagen and Zhou (2007), Frieden (2016), Audzei và

Brazdik (2018), Aliyev (2014) cũng đồng quan điểm các quốc gia có quy mô lớn sẽ

giảm khả năng lựa chọn CĐTG cố định. Đó là bởi các quốc gia có quy mô nhỏ cần có

được sự hỗ trợ từ chế độ cố định như lợi ích về thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu

tư quốc tế.

1.4.1.3 Sự đa dạng của nền kinh tế

Theo lý thuyết OCA, nền kinh tế đa dạng thường ít chịu tác động từ các cú

sốc cụ thể của một ngành hoặc thị trường. Điều này cho phép họ áp dụng CĐTG

linh hoạt, vì biến động tỷ giá có thể được hấp thụ bởi nhiều ngành kinh tế khác nhau

mà không gây ra rối loạn lớn (Kenen, 1969). Ngược lại, đối với các quốc gia phụ

thuộc vào một hoặc vài ngành sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động giá cả hoặc

nhu cầu tiêu dùng từ bên ngoài. Những quốc gia này thường ưu tiên CĐTG cố định

để ổn định xuất khẩu (McKinnon, 1963).

Ghosh (2002), Levy-Yeyati và Sturzenegger (2005), Husain (2005),

Agbeyegbe và cộng sự (2006), Frankel (2010) cũng đưa ra nhận định tương tự trong

thực nghiệm. Theo đó, Ghosh (2002) và Husain (2005) chỉ ra rằng các nền kinh tế

đa dạng sẽ ít chịu tác động từ các biến động của một, vài ngành, do đó tỷ giá có thể

29

được sử dụng như một công cụ điều chỉnh kinh tế. Levy-Yeyati và Sturzenegger

(2005) nhận định rằng các nền kinh tế kém đa dạng có xu hướng duy trì CĐTG cố

định để hạn chế rủi ro từ bất ổn giá hàng hóa. Ngược lại, các nền kinh tế đa dạng

hơn thường chọn tỷ giá linh hoạt để tận dụng sự độc lập trong chính sách tiền tệ.

Agbeyegbe và cộng sự (2006) đã nghiên cứu về các nước châu Phi cận Sahara cho

thấy các quốc gia phụ thuộc vào một mặt hàng xuất khẩu chính (như dầu mỏ hoặc

ca cao) thường áp dụng CĐTG cố định để ổn định doanh thu xuất khẩu. Ngược lại,

các quốc gia có cơ cấu xuất khẩu đa dạng hơn, như Nam Phi, có xu hướng áp dụng

CĐTG linh hoạt để đối phó với các cú sốc kinh tế. Theo Frankel (2010), các quốc

gia có nền kinh tế kém đa dạng ở khu vực châu Mỹ Latinh như Venezuela (phụ

thuộc vào dầu mỏ) thường duy trì CĐTG cố định để ổn định kinh tế vĩ mô.

1.4.1.4 Độ mở cửa tài khoản vốn

Đây là nhân tố tiếp theo có tác động tới lựa chọn CĐTG. Mức độ mở cửa tài

khoản vốn thể hiện mức độ tự do luân chuyển vốn giữa các quốc gia. Theo lý thuyết

bộ ba bất khả thi một quốc gia không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu: (1) CĐTG

cố định, (2) chính sách tiền tệ độc lập và (3) tự do hóa tài khoản vốn. Chính vì vậy,

đối với những quốc gia tự do hóa dòng vốn thường phải chọn giữa CĐTG linh hoạt

để duy trì chính sách tiền tệ độc lập hoặc từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập với CĐTG

cố định. CĐTG linh hoạt thường được ưu tiên để đối phó với các cú sốc tài chính và

biến động dòng vốn (Obstfeld và Taylor, 2004). Ngược lại, các quốc gia kiểm soát

dòng vốn chặt chẽ có thể duy trì CĐTG cố định mà vẫn giữ được một mức độ độc

lập trong chính sách tiền tệ vì dòng vốn bị hạn chế làm giảm áp lực lên tỷ giá

(Mundell, 1963).

Chinn và Ito (2008) đã sử dụng chỉ số KAOPEN (đo lường mức độ mở cửa

tài khoản vốn) trên 182 quốc gia giai đoạn 1970-2006, cho thấy các quốc gia có độ

mở cửa tài khoản vốn cao có xu hướng áp dụng CĐTG linh hoạt hơn. Điều này là

do dòng vốn tự do làm tăng áp lực lên tỷ giá, khiến chế độ cố định trở nên khó duy

trì mà không có dự trữ ngoại hối lớn. Quinn và Toyoda (2008) khi nghiên cứu về

các nền kinh tế châu Á và châu Âu cho thấy các quốc gia có tài khoản vốn mở, như

30

Singapore và Hồng Kông, thường áp dụng CĐTG linh hoạt hoặc trung gian để đối

phó với dòng vốn biến động. Trong khi đó, các quốc gia kiểm soát vốn, như

Malaysia trong giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, duy trì CĐTG

cố định để ổn định kinh tế. Aizenman và cộng sự (2010) cho thấy các quốc gia ở

Mỹ Latinh và châu Á có độ mở cửa tài khoản vốn cao thường phải đối mặt với lý

thuyết bộ ba bất khả thi và có xu hướng chọn CĐTG linh hoạt để duy trì sự độc lập

trong chính sách tiền tệ. Karras (2011); Libman (2018); Itskhoki và Mukhin (2021)

cũng đồng quan điểm với tác động này của độ mở tài khoản vốn. Tuy nhiên, một số

quốc gia vẫn duy trì kiểm soát vốn để hỗ trợ CĐTG cố định trong ngắn hạn. Đồng

thời họ cũng nhấn mạnh rằng các quốc gia đang phát triển với tài khoản vốn mở

nhưng thể chế yếu hoặc thị trường tài chính kém phát triển có thể gặp rủi ro khi

chuyển sang tỷ giá linh hoạt, đòi hỏi các biện pháp bổ sung như kiểm soát vốn tạm

thời hoặc cải cách tài chính.

1.4.1.5 Lạm phát

Trong các nghiên cứu trước đây vẫn tồn tại những quan điểm trái chiều về

tác động của nhân tố lạm phát. Một số quan điểm cho rằng khi tỷ lệ lạm phát gia

tăng, các quốc gia nên áp dụng CĐTG cố định. Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng

trong bối cảnh lạm phát cao, CĐTG linh hoạt sẽ thích hợp hơn do khả năng điều

chỉnh linh hoạt trước những cú sốc kinh tế bên ngoài.

Theo Ghosh và cộng sự (2002) khẳng định rằng CĐTG cố định làm giảm

lạm phát trung bình ở các nước đang phát triển nhờ vào việc neo kỳ vọng và hạn

chế in tiền để tài trợ thâm hụt. Theo Reinhart và Rogoff (2004), CĐTG cố định

mang lại sự ổn định lạm phát trong ngắn hạn, đặc biệt trong các giai đoạn khủng

hoảng kinh tế. Ngoài ra, xu hướng tác động này tiếp tục được củng cố bởi các

nghiên cứu gần đây như Dincer và cộng sự (2022), Ghosh và cộng sự (2020). Theo

Dincer và cộng sự (2022), CĐTG cố định kết hợp với sự minh bạch cao của NHTW

thì có khả năng kiểm soát lạm phát tốt hơn khi đối mặt với cú sốc lạm phát, vì neo

tỷ giá giúp ổn định kỳ vọng lạm phát. Nghiên cứu ghi nhận rằng các nền kinh tế

nhỏ, phụ thuộc vào nhập khẩu thường chọn chế độ cố định để giảm lạm phát. Còn

31

theo Ghosh và các cộng sự (2020), các quốc gia có lạm phát cao và dòng vốn biến

động mạnh thường chọn CĐTG cố định để ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt khi

NHTW thiếu độc lập. Chế độ cố định giúp giảm lạm phát bằng cách neo kỳ vọng.

Ngược lại với quan điểm ở trên, Fisher (2001) và Levy – Yeyati và

Sturzenegger (2005) đều đưa ra nhận định rằng các quốc gia có lạm phát cao có xu

hướng chuyển sang CĐTG linh hoạt nhằm bảo vệ nền kinh tế khỏi những cú sốc

bên ngoài tốt hơn và giảm bớt áp lực dự trữ ngoại hối. Ha và cộng sự (2021), Forbes

và cộng sự (2021) đã bổ sung thêm nghiên cứu thực nghiệm về việc CĐTG linh

hoạt giúp giảm lạm phát nhập khẩu, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng

cao sau 2020.

1.4.1.6 Sự phát triển tài chính

Hussain và Chakraborty (2012) đưa ra định nghĩa sự phát triển tài chính là:

“sự gia tăng khối lượng dịch vụ tài chính của các ngân hàng và các trung gian tài

chính khác, cũng như sự gia tăng giao dịch tài chính của thị trường vốn”. Chính vì

vậy, nhân tố này góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế

và đầu tư quốc tế của một quốc gia. Tuy nhiên, rất khó để đo lường sự phát triển tài

chính vì nó là một khái niệm rộng và có nhiều khía cạnh. Čihák và cộng sự (2012),

Levine (2005) đã đưa ra các chỉ số đo lường được công nhận và sử dụng phổ biến nhất.

Theo đó, các tổ chức tài chính và thị trường tài chính là hai chỉ số đo lường được đề

xuất bởi Levine (2005). Cụ thể hơn, mỗi yếu tố này được chia thành bốn khía cạnh đo

lường, đó là: chiều sâu, khả năng tiếp cận, hiệu quả và sự ổn định tài chính.

Aliyev (2015), Berdiev và cộng sự (2012), Lin và Ye (2011) đều nhận định

rằng các quốc gia có thị trường tài chính kém phát triển thường áp dụng CĐTG cố

định. Nguyên nhân là bởi những quốc gia này không có đủ công cụ để quản lý

nghiệp vụ thị trường mở và do đó việc áp dụng ổn định tỷ giá dễ dàng hơn là độc

lập với chính sách tiền tệ theo Markiewicz (2006).

1.4.1.7 Dự trữ ngoại hối

Dự trữ ngoại hối của một quốc gia là: “lượng tài sản bằng ngoại tệ mà

NHTW hoặc cơ quan quản lý về tiền tệ của một quốc gia nắm giữ, bao gồm nhiều

hình thức tài sản khác nhau: tiền giấy, tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, vàng,

32

quyền rút vốn của IMF, quyền rút vốt đặc biệt (SDR) và các chứng khoán khác của

Chính phủ”. Tài sản này đóng vai trò quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ

và chính sách tỷ giá của một quốc gia. Chính vì vậy, nhân tố này cũng có tầm ảnh

hưởng nhất định tới sự lựa chọn CĐTG. Theo Edwards (1996), Chang và Lee

(2017); Von Hagen và Zhou (2005), Liu và cộng sự (2020), mức dự trữ cao thường

có tác động tới lựa chọn CĐTG cố định. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa dự trữ và lựa

chọn CĐTG là mối quan hệ hai chiều tác động. Khi áp dụng CĐTG cố định đòi hỏi

NHTW cần phải có đủ dự phòng để chống lại đầu cơ cũng như để điều tiết, duy trì

ổn định tỷ giá.

Ngược lại cũng có những quan điểm khác như Calvo và Reinhart (2002),

Frieden và cộng sự (2001), Rodriguez (2016) cho rằng để quốc gia thả nổi tỷ giá thì

họ thường dự trữ ngoại hối nhiều hơn.

1.4.2 Nhóm nhân tố chính trị, thể chế.

1.4.2.1 Sự ổn định chính trị

Nhân tố ổn định chính trị thường được phản ánh thông qua chỉ số ổn định

chính trị (WGI). Một quốc gia có sự ổn định chính trị cao nghĩa là quốc gia đó duy

trì được một hệ thống chính trị hay một Chính phủ hoạt động lâu dài, liên tục, có

hiệu quả, không có sự gián đoạn trong thời gian gian dài.

Dựa vào tổng quan nghiên cứu có thể thấy ảnh hưởng của nhân tố này tới lựa

chọn CĐTG là đa chiều. Quan điểm thứ nhất là mức độ ổn định chính trị cao

thường ưu tiên CĐTG cố định để duy trì ổn định kinh tế và kiểm soát lạm phát và

ngược lại khi có bất ổn về chính trị thường lựa chọn chế độ linh hoạt theo Aliyev

(2014) và Berdiev (2012). Ngoài ra, theo nghiên cứu của Blomberg, Frieden và

Stein (2003) các quốc gia Mỹ Latinh với hệ thống chính trị ổn định thường áp dụng

CĐTG cố định để tăng uy tín chính sách và kiểm soát lạm phát.

Quan điểm thứ hai là ổn định chính trị cho phép Chính phủ ứng dụng các

công cụ chính sách linh hoạt hơn, bao gồm CĐTG thả nổi để phản ứng tốt hơn với

các cú sốc vĩ mô theo Hadj Fraj (2020), Jbili (2003).

Ngoài ra, trong một số các nghiên cứu còn nhận định rằng sự ảnh hưởng của

nhân tố ổn định chính trị phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể. Cụ thể là, theo IMF (2003),

33

ở các quốc gia có thị trường tài chính kém phát triển và mức độ mở cửa thấp,

CĐTG cố định có thể gia tăng uy tín của chính sách. Tuy nhiên, ở các quốc gia phát

triển hơn về kinh tế và thể chế thì CĐTG linh hoạt trở nên phù hợp hơn.

1.4.2.2 Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Mức độ hiệu quả Chính phủ thường được phản ánh thông qua chỉ số GEI

(government effectiveness index). Chỉ số này được Ngân hàng thế giới tổng hợp và

đo lường thông qua chỉ số hiệu quả của Chính phủ hàng năm với thang điểm đánh

giá từ -2,5 ( hiệu quả thấp) tới +2,5 (hiệu quả cao). Aizenman và Glick (2008) đã sử

dụng chỉ số này để khẳng định các quốc gia có chính phủ mạnh thường lựa chọn

CĐTG thả nổi bởi Chính phủ có năng lực quản lý cao có thể kiểm soát tốt dòng

vốn, do đó không cần neo tỷ giá. Tương tự, Dornbusch (2001) cũng đồng tình với

quan điểm này để các quốc gia có thể tận dụng chính sách tiền tệ độc lập. Reinhart

và Rogoff (2004) nhận định rằng quốc gia có Chính phủ yếu phải sử dụng CĐTG cố

định hoặc trung gian để kiểm soát rủi ro. Gần đây nhất, Rault (2021) nhấn mạnh

Chính phủ có hiệu quả cao có khả năng quản lý rủi ro kinh tế tốt hơn, do đó có xu

hướng lựa chọn CĐTG linh hoạt để phản ứng nhanh với các cú sốc kinh tế.

1.4.2.3 Sự độc lập của NHTW

Theo Cukierman và cộng sự (1992) và Tornell và Velasco (1995), sự độc lập

của NHTW có ảnh hưởng trong lựa chọn CĐTG. CĐTG linh hoạt sẽ cho phép quốc

gia có chính sách tiền tệ độc lập và thích nghi dễ dàng hơn với các cú sốc và ngược

lại. Tuy nhiên, Larran và Velasco (2001) sau đó đã đưa ra nhận định rằng sự độc lập

của NHTW có thể giúp tăng độ tin cậy hơn trong kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy,

khi có sự độc lập nhất định thì NHTW vẫn có thể đạt được mục tiêu mà không cần

thiết phải từ bỏ thả nổi. Và ngược lại, kể cả quốc gia áp dụng cố định song hành

cùng với kiểm soát lạm phát nhưng nếu như không có sự độc lập của NHTW thì độ

tin cậy về hiệu quả chính sách cũng bị giảm sút, theo Rogoff (1985). Theo Bodea

(2010), Clark và cộng sự (1998), Frieden và cộng sự (2010), các Chính phủ có

NHTW độc lập góp phần thúc đẩy quốc gia đó áp dụng chế độ linh hoạt. Siklos

(2008) cũng cùng chung quan điểm khi nhận định rằng chế độ cố định hạn chế

NHTW thực hiện chính sách tiền tệ độc lập trong khi đó chế độ linh hoạt cho phép

NHTW có toàn quyền kiểm soát các quyết định chính sách tiền tệ.

34

Để đo lường, Parkin và Bade (1978) đã đặt nền móng đầu tiên và sau đó

Cukierman (1992) cung cấp ba chỉ số được trích dẫn và sử dụng rộng rãi. Gần đây

nhất, các nhà nghiên cứu và tổ chức thường sử dụng Chỉ số độc lập của ngân hàng

trung ương (Central Bank Independence - CBI Index). Đây là chỉ số tổng hợp dựa

trên nhiều tiêu chí pháp lý và thể chế, phản ánh mức độ tự chủ của NHTW trong

việc thực hiện chính sách tiền tệ mà không bị can thiệp chính trị.

1.4.2.4 Hệ thống chính trị

Hibbs (1977), Alesina (1987) đã chỉ ra rằng mỗi một đảng phái chính trị có

những ưu tiên khác nhau về mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ví dụ như, các Chính phủ cánh

hữu thúc đẩy tự do kinh tế chính vì vậy cũng thúc đẩy sự tham gia tối thiểu của

Chính phủ vào nền kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ cánh tả lại có xu hướng can

thiệp vào nền kinh tế theo Bjørnskov (2005). Theo quan điểm này sự khác biệt về

hệ tư tưởng của Chính phủ giữa các đảng chính trị tạo ra thái độ khác nhau về chính

sách và trong sự lựa chọn CĐTG. Ví dụ, Chính phủ cánh hữu được cho là ủng hộ

lạm phát thấp, họ có thể chọn chế độ cố định để có được ổn định từ đó tạo ra tỷ lệ

lạm phát thấp, Broz và Frieden (2001). Tuy nhiên, các Chính phủ cánh tả được cho

là ưu tiên mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp và sản lượng cao, và do đó họ có thể ủng

hộ chế độ linh hoạt để quản lý chính sách tiền tệ độc lập (Frieden và cộng sự, 2010).

Tương tự, chế độ linh hoạt cho phép Chính phủ điều tiết tỷ giá danh nghĩa nhằm

đảm bảo khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại theo Broz và Frieden

(2001), Chang và Lee (2017) và Frieden và cộng sự (2010).

1.4.2.5 Mức độ dân chủ của quốc gia.

Chế độ dân chủ là: “chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân

dân bầu ra”. Theo Broz (2002) và Rault (2021), các quốc gia áp dụng chế độ dân

chủ thì thường có xu hướng áp dụng chế độ thả nổi nhằm báo hiệu cam kết minh

bạch và khả năng giải trình chính trị, trong khi Aliyev (2014), Berdiev và cộng sự

(2012), Chang và Lee (2017) lập luận rằng các nền dân chủ thả nổi để giữ vững sự

độc lập về chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách thường

35

ưu tiên CĐTG thả nổi để thúc đẩy tăng trưởng giúp tăng cơ hội tái đắc cử của họ.

Ngược lại, các quốc gia chuyên chế thường kiểm soát tỷ giá (Frieden và cộng sự,

2000 và 2010).

1.4.2.6 Mức độ nhận thức tham nhũng

Theo thời gian, các khía cạnh về chính trị được các nhà nghiên cứu đưa vào

nhiều hơn trong lựa chọn CĐTG của các quốc gia. Tham nhũng là biểu hiện của

một cơ cấu tổ chức quản lý còn yếu kém. Huang and Wei (2006) nhận định rằng đối

với quốc gia có tình trạng tham nhũng, chế độ cố định là không thích hợp thì

Hefeker (2010) lại chỉ ra rằng việc neo vào một tiền tệ ổn định có thể giúp giảm

tham nhũng.

Chỉ số mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) thường được sử dụng để đánh

giá mức độ tham nhũng của quốc gia. Chỉ số này đo lường mức độ tham nhũng

được cảm nhận trong khu vực công, từ 0 (rất tham nhũng) đến 100 (rất minh bạch).

Tham nhũng ảnh hưởng đến lựa chọn CĐTG thông qua các kênh sau. Trước hết, khi

tham nhũng cao làm suy giảm uy tín của NHTW có thể khiến CĐTG thả nổi khó

thực thi do thiếu niềm tin vào đồng nội tệ. Ngoài ra, tham nhũng cao làm giảm FDI

và tăng rủi ro rút vốn, thúc đẩy CĐTG cố định để ổn định dòng vốn, làm giảm hiệu

quả can thiệp tỷ giá, khiến các quốc gia có xu hướng chọn chế độ cố định hoặc

trung gian để giảm biến động. Khi chỉ số CPI cao làm tăng nhu cầu ổn định kinh tế

vĩ mô dẫn đến áp dụng CĐTG cố định hoặc neo cứng để neo kỳ vọng lạm phát và

khôi phục niềm tin, theo Bodea (2015).

1.4.2.7 Mức độ toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa được đề xuất bởi Dreher (2006). Trong nghiên cứu của

mình, Dreher xây dựng một chỉ số đo lường với ba khía cạnh chính: hội nhập kinh tế,

xã hội, chính trị. Trong đó, khía cạnh kinh tế phản ánh các dòng hàng hóa, vốn và dịch

vụ giữa các quốc gia, khía cạnh chính trị phản ánh sự phổ biến các chính sách của

Chính phủ và cuối cùng trong khía cạnh xã hội là điển hình cho sự lan rộng của ý

tưởng, thông tin, hình ảnh và con người. Norris (2000) đã mô tả quá trình toàn cầu hóa

là: “xóa mờ biên giới quốc gia, tích hợp các nền kinh tế, văn hóa, công nghệ, và quản

trị, đồng thời tạo ra những mối quan hệ phức tạp phụ thuộc lẫn nhau”. Với tầm quan

36

trọng và xu hướng toàn cầu hóa ngày càng phát triển, nhân tố này cho thấy sự ảnh

hưởng đáng kể tới lựa chọn CĐTG theo lý thuyết và thực nghiệm. Theo lý thuyết, toàn

cầu hóa khuyến khích thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Trong

thực nghiệm, Berdiev và cộng sự (2012) cho rằng các quốc gia có mức độ toàn cầu hóa

cao thường phù hợp hơn với CĐTG linh hoạt.

Bảng 1.2: Bảng tổng hợp các nhân tố tác động tới lựa chọn CĐTG

Nghiên cứu

Nhân tố Độ mở cửa thương mại

Kỳ vọng + Độ mở cao thì có xu hướng lựa chọn CĐTG cố định (-)

+ Độ mở cao thì có xu hướng lựa chọn CĐTG linh hoạt (+)

Quy mô nền kinh tế

+ Quy mô nền kinh tế nhỏ thì quốc gia sẽ lựa chọn CĐTG cố định (+) + Quy mô nền kinh tế nhỏ vẫn có thể lựa chọn CĐTG linh hoạt khi có sự phát triển tài chính vững (-) Mundell (1961), McKinnon (1963) (-) Frieden và cộng sự (2001, 2010), Markiewiez (2006), Rodriguez (2016). Yeyati và cộng sự (2010) Aliyev (2014) Mundell (1961) và Bayoumi (1994) (+) Ghosh (2000), Honig (2005), Zouhair và Younes (2014), Levy-Yeyati và cộng sự (2010), Von Hagen and Zhou (2007) và Aliyev (2014)

Kenen (1969)

Sự đa dạng của nền kinh tế

Nền kinh tế dạng phù hợp với CĐTG cố định hơn. (-) Sự đa dạng hóa sản phẩm càng lớn làm tăng khả năng lựa chọn CĐTG linh hoạt hơn. (+)

Độ mở cửa tài khoản vốn

Ghosh (2002), Levy-Yeyati và Sturzenegger (2005), Husain (2005), Agbeyegbe và cộng sự (2006), Frankel (2010) Eichengreen (1994); Fischer (2001); Frankel (1999), Williamson (2000), Edwards (1996) (+)

+ Độ mở cao thúc đẩy lựa chọn CĐTG linh hoạt (+) + Độ mở cao thúc đẩy lựa chọn CĐTG cố định (-)

37

Karras (2011); Libman (2018); Itskhoki và Mukhin

(2021)

Lạm phát

Markiewicz (2006) và Frieden và cộng sự (2010) (-) Ha và cộng sự (2021), Forbes

+ LP cao thúc đẩy lựa chọn CĐTG cố định (-) + LP cao thúc đẩy lựa chọn CĐTG linh hoạt (+) và cộng sự (2021), Fisher

(2001) và Levy – Yeyati và

Sturzenegger (2005)

Ghosh và cộng sự (2002),

Reinhart và Rogoff (2004),

Dincer và cộng sự (2022),

Ghosh và cộng sự (2020).

triển tài

Sự phát chính

Dự trữ ngoại hối Phát triển tài chính kém thường áp dụng CĐTG cố định. (+) Mức dự trữ cao thường có

tác động tới lựa chọn chế

độ cố định. (-)

Quốc gia thả nổi tỷ giá thì họ thường dự trữ ngoại hối nhiều hơn. (+)

Aliyev (2015), Berdiev & cộng sự (2012), Lin & Ye (2011) (+) Edwards (1996), Chang & Lee (2017); Von Hagen & Zhou (2005), Liu & cộng sự (2020) (-) Calvo và Reinhart (2002), Frieden và cộng sự (2001), Rodriguez (2016) (+) Aliyev (2014) và Berdiev

Sự ổn định chính trị Các quốc gia có sự bất ổn về chính trị thì thường có (2012). Blomberg, Frieden và

xu hướng lựa chọn CĐTG Stein (2003), Hadj Fraj linh hoạt (-) (2020), Jbili (2003). Các quốc gia có sự bất ổn

về chính trị thì thường có

xu hướng lựa chọn CĐTG

cố định (+)

Leyati & cộng sự (2010). (+)

Mức độ uy tín của thể chế chính trị

Một Chính phủ có độ uy tín thể chế thấp có thể chống lại áp lực lạm phát bằng

38

lập của

Sự độc NHTW

cách sử dụng CĐTG cố định (+) Các Chính phủ có NHTW độc lập góp phần thúc đẩy quốc gia đó áp dụng CĐTG linh hoạt (+)

Hệ thống chính trị

Cukierman và cộng sự (1992) và Tornell và Velasco (1995), Larran và Velasco (2001) Bodea (2010), Clark & cộng sự (1998), Frieden & cộng sự (2010) Siklos (2008) Broz và Frieden, (2001) Frieden và cộng sự, (2010) Chang và Lee (2017)

Mức độ dân chủ của quốc gia

Chính phủ cánh hữu có thể chọn CĐTG cố định để có được ổn định từ đó tạo ra tỷ lệ lạm phát thấp Chính phủ cánh tả có thể ủng hộ CĐTG linh hoạt Các quốc gia áp dụng chế độ dân chủ thì thường có xu hướng áp dụng CĐTG thả nổi (+)

tình

Mức độ nhận thức tham nhũng Broz (2002) (+) Aliyev (2015), Berdiev và cộng sự (2012), Chang và Lee (2017) (Frieden và cộng sự, 2000 và 2010). (-) Huang and Wei (2006) (+) Aisen và Veiga (2013).

Quốc gia có trạng tham nhũng thì có thể lựa chọn CĐTG cố định (+) quốc gia có tình trạng tham nhũng thì có thể lựa chọn CĐTG linh hoạt (-)

Chang và Lee (2017) Berdiev và cộng sự (2012)

Mức độ toàn cầu hóa quốc gia có mức độ toàn cầu hóa càng cao thì sẽ có khả năng lựa chọn CĐTG linh hoạt nhiều hơn. (+)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp qua các bài nghiên cứu

39

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận án tập trung làm rõ lý luận về CĐTG và các nhân tố ảnh

hưởng. Trong đó, tác giả phân tích những lý luận chung về CĐTG như: khái niệm,

đặc điểm, phân loại. Tác giả cũng tiến hành phân tích các quan điểm và tiêu chí lựa

chọn chế độ và các nhân tố ảnh hưởng. Đặc biệt, các nhân tố ảnh hưởng được phân

thành các nhóm kinh tế, chính trị - thể chế qua đó, tạo nền tảng vững chắc cho việc

xây dựng khung phân tích của luận án.

40

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Quy trình nghiên cứu của luận án

Sơ đồ 2.1 Quy trình nghiên cứu

Bước 1: Tổng quan nghiên cứu

Các nhân tố ảnh hưởng đến CĐTG

Bước 2: Khoảng trống nghiên cứu

Bước 3: Xác định chủ đề nghiên cứu

các nhân tố ảnh hưởng đến CĐTG tại các QGĐPT ở khu vực Châu Á

Bước 4: Nghiên cứu lý thuyết

Nghiên cứu lý thuyết

- Thu thập tài liệu.

- Phân loại, sắp xếp tài liệu

- Tổng hợp thông tin để hình thành khung lý thuyết của luận án Bước 5: Lựa chọn, thiết kế mô hình nghiên cứu phù hợp

Bước 6: Thu thập dữ liệu từ Worldbank, IMF và QoG

Nghiên cứu thực tiễn

Bước 7: Phân tích hồi quy

Hoàn thiện nghiên cứu

Bước 7. 1: Phân tích hồi quy các nhân tố tác động đến CĐTG theo pháp định

Bước 7.2: Phân tích hồi quy các nhân tố tác động đến CĐTG theo thực tế

Sử dụng mô hình probit thứ bậc để đánh giá: theo nhóm nhân tố, theo giai đoạn.

Sử dụng mô hình probit thứ bậc để đánh giá: theo nhóm nhân tố, theo giai đoạn.

Bước 8: Kết luận

41

Quy trình nghiên cứu được tác giả thực hiện như sau:

Bước 1: Đưa ra giới thiệu tổng quan về các nhân tố tác động đến CĐTG:

nhóm kinh tế và nhóm chính trị, thể chế.

Bước 2: Khoảng trống nghiên cứu.

Bước 3: Xác định chủ đề nghiên cứu.

Bước 4: Nghiên cứu lý thuyết.

Bước 5: Lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp.

Mô hình logit và probit được áp dụng chủ yếu trong các nghiên cứu trước

đây theo chủ đề này. Chính vì vậy, trong luận án tác giả sử dụng mô hình probit thứ

bậc để phân tích.

Bước 6: Thu thập dữ liệu

Tác giả thu thập dữ liệu với mẫu nghiên cứu là 20 quốc gia đang phát triển ở

khu vực Châu Á trong giai đoạn 2010 - 2023. Các chế độ được tổng hợp, thống kê

theo cách phân loại theo pháp định: cố định và thả nổi có điều tiết, thả nổi hoàn toàn

và theo thực tế được chia thành 10 chế độ theo IMF (2009) và được nhóm lại thành:

cố định, trung gian, thả nổi. Các biến độc lập được đưa vào mô hình bao gồm: quy

mô nền kinh tế, độ mở cửa thương mại, lạm phát, độ mở cửa tài khoản vốn, ổn định

chính trị, mức độ nhận thức tham nhũng, mức độ toàn cầu hóa, mức độ dân chủ và

mức độ hiệu quả Chính phủ. Số liệu sử dụng trong mô hình được thu thập từ WB,

IMF, QoG.

Bước 7: Phân tích hồi quy

Các nhân tố lần lượt được đưa vào mô hình đánh giá tác động tới CĐTG theo

pháp định và theo thực tế của các quốc gia được chia thành: nhóm nhân tố kinh tế

và nhóm nhân tố chính trị, thể chế và theo giai đoạn nghiên cứu từ 2010 tới 2023,

chia nhỏ thành hai giai đoạn nghiên cứu 2010 – 2015 và 2016 - 2023. Mô hình

nghiên cứu được sử dụng là probit thứ bậc.

Bước 8: Phân tích kết quả

Từ kết quả nghiên cứu phân tích, biện luận và so sánh với những nghiên cứu

trước đây để đưa ra các giải pháp, khuyến nghị.

42

2.2 Tổng quan về mô hình nghiên cứu:

Trong các nghiên cứu trước đây thông thường chia làm hai quan điểm lựa chọn

dựa vào hai cách phân loại. Quan điểm thứ nhất dựa vào phân loại theo pháp định, chế

độ chính thức do NHTW công bố. Nghiên cứu của Hagen và Zhou (2007) là một ví dụ

về áp dụng cách phân loại theo pháp định bởi thông thường những chế độ được các

quốc gia lựa chọn và thông báo chính thức chính là thể hiện quan điểm của mỗi quốc

gia. Quốc gia thường nhận định rằng CĐTG mình đã lựa chọn chính là cơ chế phù hợp

nhất. Do đó, CĐTG chính thức có thể tác động tới mong muốn của thị trường về tỷ giá

theo Hagen và Zhou (2007).

Quan điểm nghiên cứu thứ hai là dựa trên cách thức phân loại theo thực tế.

Cách thức phân loại này được đưa ra bởi Levy - Yeyativ và Sturzenegger (2005),

Calvo và Reinhart (2002), Reinhart và Rogoff (2004) và phổ biến nhất là cách thức

phân loại được đưa ra bởi IMF (2009). Nhìn chung, cả hai cách phân loại đều được

thường xuyên sử dụng tuy nhiên Rodriged (2013) đánh giá rằng kết quả theo cách

phân loại thực tế phù hợp hơn.

Ngoài khác nhau về áp dụng cách thức phân loại, các bài nghiên cứu còn

khác nhau trong quan điểm lựa chọn nhóm các nhân tố tác động. Ngay từ những

năm 1960, lý thuyết OCA đã đề xuất quy mô và độ mở nền kinh tế. Cụ thể là, khi

quy mô nền kinh tế nhỏ, độ mở kinh tế cao thường có xu hướng lựa chọn CĐTG

theo Mundell (1961), McKinnon (1963), Heller (1978), Dreyer (1978), Melvin

(1985). Savvides (1990) đã bổ sung thêm nhân tố phản ánh các loại cú sốc khác

nhau, sự ổn định của chiến lược. Bên cạnh đó, các nhân tố như thể chế chính trị, sự

ổn định chính trị cũng được đưa vào trong nghiên cứu theo Edwards (1996),

Bernhard và Leblang (1999); Me'on và Rizzo (2002). Ngoài cách tiếp cận từ một

nhóm nhân tố, một số nghiên cứu có cách tiếp cận toàn diện hơn đó là kết hợp nhiều

nhóm nhân tố khác nhau như Poirson (2001), Juhn và Mauro (2002) hay Von

Hagen và Zhou (2005).

Về mô hình nghiên cứu, mô hình logit đa thức và mô hình probit thứ bậc

thường được sử dụng để đánh giá tác động. Cụ thể là, Guclu (2008) đã sử dụng số

43

liệu từ 25 nền kinh tế mới nổi từ 1970 tới 2006 để đưa ra đánh giá về lựa chọn các

chế độ và sử dụng mô hình hồi quy probit thứ bậc. Biến CĐTG mà tác giả sử dụng

biến rời rạc có giá trị 𝑦𝑖𝑡 = 1 nếu CĐTG ít linh hoạt được lựa chọn theo quốc gia i

trong năm t và 𝑦𝑖𝑡 = 𝐽 cho CĐTG linh hoạt nhất. Sự lựa chọn này dựa trên biến ∗ là một hàm của các biến được cho rằng có thể có tác động tới lựa chọn

giải thích 𝑦𝑖𝑡 CĐTG của các quốc gia. Ông đã tiếp cận từ lý thuyết OCA để lựa chọn các nhân tố

như độ mở cửa, mức độ tập trung thương mại, quy mô và mức độ phát triển kinh tế

và bổ sung thêm một số các nhân tố vĩ mô khác như: lạm phát, độ mở của cán cân

∗ với 𝑚0 < 𝑚𝑗−1.

vãng lai, dự trữ, và thể chế chính trị. Cụ thể trong nghiên cứu giả định rằng một quốc

∗ ≤ 𝑚0

∗ ≤ 𝑚1 ∗ ≤ 𝑚2

gia chọn chế độ linh hoạt nhất, 𝑦𝑖𝑡 = 1, nếu biến giải thích ở dưới ngưỡng nhất định, ∗ ≤ 𝑚0. Tương tự, chế độ linh hoạt nhất được chọn, 𝑦𝑖𝑡 = 𝐽, nếu biến giải thích vượt 𝑦𝑖𝑡 qua ngưỡng khác, 𝑚𝑗−1 ≤ 𝑦𝑖𝑡

𝑦𝑖𝑡 =

{ 1 𝑛ế𝑢 𝑦𝑖𝑡 2 𝑛ế𝑢 𝑚0 < 𝑦𝑖𝑡 3 𝑛ế𝑢 𝑚1 < 𝑦𝑖𝑡 . . . . ∗ 𝑗 𝑛ế𝑢 𝑚𝑗−1 < 𝑦𝑖𝑡

trong đó 𝑚𝑠 là các thông số có điểm cắt không xác định (ngưỡng).

Phương trình ước lượng cho mô hình là phương trình dưới đây: ∗ = 𝛽𝑋𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡 𝑣ớ𝑖 𝑖 = 1, 2, 3 … 𝑁 𝑣à 𝑡 = 0, 1, … , 𝑇𝑖 𝑦𝑖𝑡 trong đó 𝑋𝑖𝑡, 𝛽, 𝑡 và 𝑖 đại diện cho một vector của các biến giải thích, một vector của

các hệ số, quốc gia và thời gian tương ứng. Ước lượng các hệ số của vector 𝑋𝑖𝑡 và

của các ngưỡng là 𝑚1 < 𝑚2 < 𝑚3 < ⋯ < 𝑚𝑗−1 thu được qua ước lượng hợp lý cực

đại bằng việc sử dụng thuật toán.

Dựa trên các đề xuất lý thuyết và kết quả thực nghiệm, ba nhóm nhân tố

trong mô hình đó là: lý thuyết OCA, nhóm kinh tế vĩ mô và nhóm chính trị, thể chế.

Theo OCA bao gồm: mở cửa thương mại, tập trung thương mại địa lý, sự khác biệt

về lạm phát, quy mô và mức độ phát triển kinh tế. Theo lý thuyết này, nền kinh tế

mở thường được áp dụng các chế độ ít linh hoạt hơn trong khi các quốc gia với mức

GDP bình quân đầu người cao muốn áp dụng các chế độ linh hoạt hơn. Nhóm kinh

44

tế vĩ mô bao gồm: cán cân vãng lai, độ mở tài khoản vốn thực tế, mức dự trữ, tỷ lệ

tăng trưởng của M2 còn nhóm chính trị, thể chế bao gồm thời hạn quản lý của

người điều hành, chủ nghĩa dân tộc. Đặc biệt trong mô hình này cả hai cách thức

phân loại: phân loại theo thực tế của IMF và theo pháp định. Tuy nhiên, các mô

hình sử dụng CĐTG thực tế tạo ra một kết quả phù hợp hơn. Hầu như tất cả các

biến số kinh tế và chính trị trong các mô hình chế độ theo pháp định đều không có ý

nghĩa thống kê. Do đó, có thể nói rằng việc phân loại theo thực tế cần được ưu tiên

sử dụng nghiên cứu với các nền kinh tế mới nổi. Và cuối cùng, theo kết quả từ mô

hình thì Guclu (2008) đã kết luận rằng việc lựa chọn CĐTG chịu ảnh hưởng bởi các

yếu tố: mức độ phát triển kinh tế, sự khác biệt về lạm phát, các yếu tố chính trị và

không bị ảnh hưởng do bởi sự thâm hụt hay dư thừa của tài khoản vãng lai.

Aliyev (2014) đưa ra nghiên cứu về nhóm quốc gia giàu tài nguyên thiên

nhiên. Với số liệu của 145 quốc gia trong giai đoạn 1975 – 2004 được sử dụng và

thu được kết quả đó là các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có thường

lựa chọn chế độ cố định nhiều hơn so với các nước có ít tài nguyên thiên nhiên. Cả

ba nhóm nhân tố: lý thuyết OCA, nhân tố tài chính và nhân tố chính trị đều được tác

giả lựa chọn và đưa vào mô hình logit đa thức để đưa ra đánh giá của mình.

Rodriguez (2016) lại lựa chọn nhóm quốc gia ở khu vực Mỹ Latinh với các

nhân tố kinh tế và chính trị. Cụ thể là, tác giả đã nghiên cứu 20 quốc gia châu Mỹ

Latinh từ giai đoạn từ 1985 tới 2010 và lựa chọn các nhân tố như lạm phát, độ mở

thương mại quốc tế, độ mở tài chính, rủi ro chính trị, hình thức chính phủ. Mô hình

sử dụng trong bài nghiên cứu là mô hình probit theo thứ bậc trong đó biến phụ

thuộc là các CĐTG được chia theo 4 loại: neo cứng, neo mềm, trung gian và thả nổi

hoàn toàn.

2.3. Lựa chọn mô hình

Như vậy, sự lựa chọn chủ yếu của các nghiên cứu với chủ đề này chính là mô

hình logit đa thức và probit thứ bậc. Khi biến phụ thuộc là biến danh mục - ví dụ

như nhị phân hoặc theo thứ tự, thì phương pháp hồi quy OLS không còn phù hợp,

các ước lượng OLS sẽ bị chệch và không còn hiệu quả, Scott (1997). Chính vì vậy,

đối với những biến phụ thuộc có dạng nhị phân thì có thể sử dụng mô hình logit

45

hoặc probit, đối với những biến phụ thuộc có dạng thứ tự thì lựa chọn mô hình logit

đa thức hoặc probit thứ tự để ước lượng. Cả hai mô hình probit và logit đều dựa trên

phương pháp ước lượng hợp lý tối đa. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa hai

mô hình. Đối với mô hình probit, các sai số được giả định tuân theo phân phối

chuẩn chuẩn hóa trong khi đó mô hình logit các sai số được giả định tuân theo phân

phối chuẩn logit chuẩn. Mặc dù hai mô hình sẽ có kết quả ước lượng khác nhau

nhưng giống nhau về phương sai của các hệ số biến giải thích, Scott (1997). Chính

vì vậy, mô hình logit và probit hoàn toàn phù hợp khi nghiên cứu lựa chọn CĐTG,

trong đó mô hình probit thường được sử dụng phổ biến hơn khi nghiên cứu biến

phụ thuộc được chia thành nhiều cấp bậc. Trong luận án này, tác giả lựa chọn áp

dụng mô hình probit thứ bậc để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng trong đó biến phụ

thuộc là các CĐTG được sắp xếp theo thứ tự linh hoạt dần từ cố định tới thả nổi và

theo cả hai cách thức phân loại: theo pháp định và thực tế.

2.4 Mô hình nghiên cứu

Xuất phát từ cơ sở lý luận ở chương 1, tác giả đánh giá sự ảnh hưởng của các

nhân tố tới lựa chọn CĐTG với mẫu nghiên cứu bao gồm 20 quốc gia đang phát

triển ở châu Á được liệt kê trong phụ lục 1, trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2010

tới năm 2023. Nghiên cứu lựa chọn phạm vi là 20 quốc gia ở trên là do: i) Hạn chế

về số liệu, số liệu liên quan CĐTG và các nhân tố không thống kê được đầy đủ tất

cả các quốc gia, ii) Để đưa ra đề xuất, giải pháp cho Việt Nam nên tác giả lựa chọn

các quốc gia trong cùng khu vực để đánh giá và so sánh.

2.4.1 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá.

2.4.1.1 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định.

) = CĐTGPĐi,t = ∝ +𝜷𝟏 ∗ 𝒍𝒏𝑮𝑫𝑷𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐 ∗ 𝑰𝑵𝑭𝒊,𝒕 + 𝜷𝟑 ∗ Ln( 𝑷𝒊,𝒕 𝟏−𝑷𝒊,𝒕

𝑲𝑨𝑶𝒊,𝒕 + 𝜷𝟒 ∗ 𝑻𝑹𝑨𝑫𝑬𝒊,𝒕 + 𝜺𝒊,𝒕 (1)

Biến phụ thuộc:

CĐTGPĐ,t: chế độ theo pháp định của quốc gia từ năm 2010 – 2023

Biến tác động: là các biến độc lập, tác động tới lựa chọn CĐTG ở các quốc gia.

46

𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑖,𝑡 : Logarit giá trị tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia i tại thời điểm t

𝐼𝑁𝐹𝑖,𝑡: Tỷ lệ lạm phát của quốc gia i tại thời điểm t

𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖,𝑡: Độ mở cửa thương mại của quốc gia i tại thời điểm t

𝐾𝐴𝑂𝑖,𝑡: Độ mở cửa vốn của quốc gia i tại thời điểm t

2.4.1.2 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo thực tế

) = CĐTGTTi,t = ∝ +𝜷𝟏 ∗ 𝒍𝒏𝑮𝑫𝑷𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐 ∗ 𝑰𝑵𝑭𝒊,𝒕 + 𝜷𝟑 ∗ Ln( 𝑷𝒊,𝒕 𝟏−𝑷𝒊,𝒕

𝑲𝑨𝑶𝒊,𝒕 + 𝜷𝟒 ∗ 𝑻𝑹𝑨𝑫𝑬𝒊,𝒕 + 𝜺𝒊,𝒕 (2)

Biến phụ thuộc:

CĐTGTTi,t: CĐTG theo thực tế từ năm 2010 – 2023

Biến tác động: là các biến độc lập, tác động tới lựa chọn CĐTG ở các quốc gia.

𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑖,𝑡 : Logarit giá trị tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia i tại thời điểm t

𝐼𝑁𝐹𝑖,𝑡: Tỷ lệ lạm phát của quốc gia i tại thời điểm t

𝐾𝐴𝑂𝑖,𝑡: Độ mở cửa vốn của quốc gia i tại thời điểm t

𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸𝑖,𝑡: Độ mở cửa thương mại của quốc gia i tại thời điểm t

2.4.2 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, thể chế tới lựa

chọn chế độ tỷ giá.

2.4.2.1 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, thể chế tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định:

) = CĐTGPĐi,t = ∝ +𝜷𝟏 ∗ 𝑷𝑶𝑳𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐 ∗ 𝑪𝑷𝑰𝒊,𝒕 + 𝜷𝟑 ∗ Ln( 𝑷𝒊,𝒕 𝟏−𝑷𝒊,𝒕

𝑫𝑬𝑴𝑶 + 𝜷𝟒 ∗ 𝑮𝑳𝑶𝒊,𝒕 + 𝜷𝟓 ∗ 𝑮𝑶𝑽𝒊,𝒕+ 𝜺𝒊,𝒕 (3)

Biến phụ thuộc:

CĐTGPĐi,t: CĐTG theo pháp định từ năm 2010 – 2023

Biến tác động: là các biến độc lập, tác động tới lựa chọn CĐTG ở các quốc gia.

𝑃𝑂𝐿𝑖,𝑡: Mức độ ổn định chính trị của quốc gia i tại thời điểm t

𝐶𝑃𝐼𝑖,𝑡: Mức độ nhận thức tham nhũng của quốc gia i tại thời điểm t

𝐺𝐿𝑂𝑖,𝑡: Chỉ số toàn cầu hóa của quốc gia i tại thời điểm t

47

𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖,𝑡: mức độ dân chủ của quốc gia i tại thời điểm t

𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡: Chỉ số hiệu quả của Chính phủ của quốc gia i tại thời điểm t

2.4.2.2 Mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, thể chế tới lựa chọn

CĐTG theo thực tế:

) = CĐTGTTi,t = = ∝ +𝜷𝟏 ∗ 𝑷𝑶𝑳𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐 ∗ 𝑪𝑷𝑰𝒊,𝒕 + 𝜷𝟑 ∗ 𝑫𝑬𝑴𝑶𝒊,𝒕 + Ln( 𝑷𝒊,𝒕 𝟏−𝑷𝒊,𝒕

𝜷𝟒 ∗ 𝑮𝑳𝑶𝒊,𝒕 + 𝜷𝟓 ∗ 𝑮𝑶𝑽𝒊,𝒕+ 𝜺𝒊,𝒕 (4)

Biến phụ thuộc:

CĐTGTTi,t: CĐTG theo thực tế từ năm 2010 – 2023

Biến tác động: là các biến độc lập, tác động tới lựa chọn CĐTG ở các quốc gia.

𝑃𝑂𝐿𝑖,𝑡: Mức độ ổn định chính trị của quốc gia i tại thời điểm t

𝐶𝑃𝐼𝑖,𝑡: Mức độ nhận thức tham nhũng của quốc gia i tại thời điểm t

𝐺𝐿𝑂𝑖,𝑡: Chỉ số toàn cầu hóa của quốc gia i tại thời điểm t

𝐷𝐸𝑀𝑂𝑖,𝑡: hình thức dân chủ của quốc gia i tại thời điểm t

𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡: Chỉ số hiệu quả của Chính phủ của quốc gia i tại thời điểm t

Trong giai đoạn nghiên cứu từ 2010- 2023, IMF đã đưa ra 10 CĐTG theo

thực tế tuy nhiên các chế độ được sắp xếp theo xu hướng tăng dần mức độ linh hoạt

của tỷ giá. Chính vì vậy, biến CĐTGTT tiếp tục được phân loại thành ba chế độ: cố

định, trung gian và thả nổi với cách thức phân loại như sau:

48

Bảng 2.1: Phân loại chế độ thực tế theo IMF(2009)

Cơ chế tỷ giá

Chế độ tỷ giá cố định

Neo cứng

Neo mềm

Chế độ tỷ giá trung gian

Neo mềm

Chế độ tỷ giá No separate legal tender (CĐTG không có TT pháp định riêng) Currency board (Bản vị TT) Conventional peg (CĐTG cố định thường) Stabilized arrangement (CĐTG ổn định) Crawling peg (CĐTG cố định trượt) Pegged exchange rate within horizontal bands. (CĐTG cố định, biên độ rộng) Crawl-like arrangement (CĐTG tương đương cố định trượt)

Có điều tiết khác

Other managed arrangement (Chế độ có điều tiết khác)

Chế độ tỷ giá thả nổi

Thả nổi

Floating (CĐTG thả nổi )

Free floating (CĐTG thả nổi hoàn toàn)

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo hàng năm của IMF (2009)

2.4.4 Phân tích thuộc tính biến số

Phân tích mô hình hồi quy probit thứ tự, nghiên cứu sinh sử dụng các biến và

đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau:

49

Bảng 2.2: Giả thuyết nghiên cứu

Nguồn số liệu Cơ sở trích dẫn

Loại biến

Ký hiệu biến

Mô tả biến,đo lường Kỳ vọng/ Giả thuyết nghiên cứu

IMF

CĐTGPĐ CĐTG

AEAER từ năm 2010 – 2023 của IMF

Biến phụ thuộc

theo pháp định của các quốc gia theo phân loại của IMF từ năm 2010 - 2023

IMF

AEAER từ năm 2010 – 2023 của IMF

CĐTGTT CĐTG theo thực tế của các quốc gia theo phân loại của IMF từ năm 2010- 2023

Biến độc lập

Tỷ lệ lạm phát hàng năm dựa trên chỉ số giá tiêu dùng (%).

giai WDI, đoạn từ 2010 - 2023

INF

Lạm phát cao thúc đẩy CĐTG cố định để ổn định giá cả (-)

và (2002), (1961);

WDI, giai đoạn từ 2010 - 2023

TRADE

Độ mở thương mại quốc tế cao thúc đẩy CĐTG cố định để hỗ trợ xuất khẩu (-)

Là biến phản ánh độ mở cửa thương mại quốc tế, đo lường bằng tổng kim ngạch thương mại (xuất + nhập khẩu) chia cho GDP (%).

Logarit của GDP danh nghĩa (USD).

lnGDP

giai WDI, đoạn từ 2010 - 2023

GDP lớn ưu tiên CĐTG linh hoạt để điều chỉnh sốc kinh tế. (+)

Ghosh, Guld, Ostry và Wolf (1997); De Grauw và Schnabl (2008), Levy- Yeyati và Sturzenegger (2005), Rose (2011) VonHagen Zhou Mundell McKinnon Frankel (1963), (1999); Calvo và (2002), Reinhart Hausmann và cộng sự (2006) VonHagen Zhou (2002),Reinhart và Rogoff(2004), (2001); Edwards Klein và Shambaugh (2010)

KAO

Chinn và Ito, giai đoạn từ 2010 - 2022

Obstfeld và cộng sự (2005), Chinn & Ito (2006), Rey (2013).

Mức độ mở cửa vốn, đo lường bằng Chỉ số Chinn-Ito (KAOPEN), từ -2.5 (đóng) đến 2.5 (mở).

Mở cửa vốn thúc đẩy CĐTG linh hoạt để duy trì chính sách tiền tệ độc lập (+) Ổn định chính QoG, giai đoạn Levy- Yeyati và

từ 2010 - 2023

50

POL

trị hỗ trợ CĐTG cố định để tăng niềm tin. (-)

cộng sự (2010) và Berdiev (2012), Edwards (1996), Alesina và Wagner (2006), Rose (2011)

Phản ánh sự ổn định chính trị của quốc gia, đo lường thông qua Chỉ số ổn định chính trị từ QoG, từ - 2.5 (bất ổn) đến 2.5 (ổn định)

DEMO

QoG, giai đoạn từ 2010 - 2023

Chỉ số dân chủ từ Polity IV, từ 0 (độc tài) đến 1 (dân chủ).

Broz (2002), Frieden(2000), Frieden (2010), Bearce và Hallerberg (2011).

Dân chủ mạnh thúc đẩy CĐTG linh hoạt để đáp ứng nhu cầu công chúng.(+)

CPI

từ

Heferer (2010) Méon và Sekkat (2005). Rose (2011)

Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI), từ 0 (rất tham nhũng) đến 100 (minh bạch).

Transparency International, giai đoạn 2010 - 2023

Minh bạch cao thúc đẩy CĐTG cố định để củng cố uy tín chính sách.(-)

GLO

Swiss

Toàn cầu hóa thúc đẩy CĐTG linh hoạt (+)

Calvo và Reinhart (2002), Dreher (2006)

KOF Economic Institute, giai đoạn từ 2010 - 2022

GOV

Quản trị tốt hỗ trợ CĐTG linh hoạt (+)

WDI, giai đoạn từ 2010 - 2023

Leyati và cộng sự (2010), Bodea và Hicks (2015), Kaufmann và cộng sự (2010).

Phản ánh mức độ toàn cầu hóa của một quốc gia, Chỉ số KOF Globalization Index, từ 0 (không hội nhập) đến 100 (rất hội nhập). Phản ánh mức độ hiệu quả của CP, Chỉ số hiệu quả chính phủ từ WGI, từ -2.5 (kém hiệu quả) đến 2.5 (hiệu quả cao).

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

2.4.5 Dữ liệu nghiên cứu

Giai đoạn nghiên cứu 14 năm và dữ liệu được thu thập từ năm 2010 tới năm 2023.

Biến phụ thuộc CĐTGPĐ là chế độ theo pháp định của các quốc gia và biến CĐTGTT là

chế độ theo thực tế của các quốc gia từ năm 2010 tới năm 2023. Dữ liệu nghiên cứu của

biến phụ thuộc được tác giả thu thập từ 20 quốc gia đang phát triển ở Châu Á.

Trong đó, các chế độ theo pháp định được chia làm ba loại: CĐTG cố định,

CĐTG thả nổi có điều tiết, CĐTG thả nổi hoàn toàn. Do vậy, biến phụ thuộc

CĐTGPĐ tương ứng nhận các giá trị từ 0-2.

51

Bảng 2.3: Miêu tả biến phụ thuộc CĐTGPĐ

Chế độ tỷ giá theo pháp định CĐTGPĐ

Chế độ tỷ giá cố định 0

Chế độ tỷ giá TN có điều tiết 1

Chế độ tỷ giá TN hoàn toàn 2

Các chế độ thực tế giai đoạn từ năm 2010 – 2023 áp dụng theo phân loại của IMF

(2009) với 10 chế độ có mức độ linh hoạt tăng dần và được nhóm lại thành 3 chế độ:

CĐTG cố định, CĐTG trung gian và CĐTG thả nổi. Chính vì vậy, biến phụ thuộc

CĐTGTT cũng tương ứng nhận các giá trị từ 0-2, được thể hiện trong bảng như sau:

Bảng 2.4: Miêu tả biến phụ thuộc CĐTGTT

CĐTGTT Chế độ tỷ giá thực tế

0 Chế độ tỷ giá theo thực tế theo phân loại IMF(2009) CĐTG không có tiền tệ pháp định riêng Bản vị tiền tệ CĐTG cố định thường

CĐTG ổn định Chế độ tỷ giá cố định

1 CĐTG cố định trượt CĐTG cố định với biên độ dao động rộng CĐTG tương đương cố định trượt

Chế độ có điều tiết khác Chế độ tỷ giá trung gian

CĐTG thả nổi

2 CĐTG thả nổi hoàn toàn Chế độ tỷ giá thả nổi

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ IMF

Biến phụ thuộc CĐTGPĐ và CĐTGTT được lấy dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu

uy tín trên thế giới: bộ dữ liệu thống kê của IMF thông qua báo cáo thường niên hàng

năm về CĐTG của các quốc gia. Các biến độc lập đều là các biến định lượng và được

lấy dữ liệu từ nguồn WDI, IFS, QoG, KOF như đã được mô tả trong bảng 2.2 ở trên.

52

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2 luận án trình bày phương pháp nghiên cứu của luận án. Quy

trình thực hiện luận án gồm 8 bước và chỉ ra nội dung từng bước thực hiện. Đồng thời

chương 2 cũng đã đưa ra lựa chọn mô hình thực hiện gồm 4 mô hình đánh giá tác

động của các nhân tố: i) nhóm kinh tế tới lựa chọn CĐTG theo pháp định, ii) nhóm

kinh tế tới lựa chọn CĐTG theo thực tế, iii) nhóm chính trị, thể chế tới lựa chọn

CĐTG theo pháp định, iv) nhóm chính trị, thể chế tới lựa chọn CĐTG theo thực tế.

53

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI MỘT SỐ

QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Ở CHÂU Á

3.1 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của Trung Quốc

Kể từ cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997, CĐTG của Trung Quốc đã trải

qua nhiều giai đoạn chuyển đổi cho tới nay. Cụ thể là,

Giai đoạn 1997 - 2005: Trung Quốc áp dụng CĐTG cố định, neo vào USD

với tỷ giá khoảng 8,28 CNY/USD.

Giai đoạn 2005 - 2015: Chuyển sang CĐTG thả nổi có quản lý (managed

floating).

Giai đoạn 2015-2023: Tiếp tục CĐTG thả nổi có quản lý, nhưng kết hợp với

sự can thiệp mạnh mẽ của PBOC để ổn định tỷ giá, đặc biệt trong bối cảnh chiến

tranh thương mại với Mỹ và đại dịch COVID-19.

3.1.1 Giai đoạn từ sau khủng hoảng Châu Á 1997 – 2005

3.1.1.1 Chế độ tỷ giá pháp định

Theo báo cáo của IMF trong giai đoạn 1997-2005, Trung Quốc công bố áp

dụng CĐTG cố định, neo vào USD với tỷ giá khoảng 8,28 CNY/USD.

3.1.1.2 Chế độ tỷ giá theo thực tế

Trên thực tế, Trung Quốc áp dụng chế độ neo cứng vào USD, với rất ít hoặc

không có dao động trong tỷ giá, nhờ vào can thiệp mạnh mẽ của PBOC theo

Frankel và Wei (2007). Báo cáo của IMF (2004) đã ghi nhận rằng Trung Quốc tăng

tích lũy dự trữ ngoại hối lớn (tăng từ 140 tỷ USD năm 1997 lên hơn 800 tỷ USD

năm 2005) để giữ CNY neo cứng vào USD. Cuộc khủng hoảng năm 1997 đã buộc

Trung Quốc phải tạm dừng định hướng cải cách chính sách tỷ giá. Giai đoạn này

mức tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm từ 9,9% năm 1996 xuống mức 7,7% năm

1999. Tuy nhiên, sau đó nhờ quay trở lại áp dụng chế độ cố định mà mức tăng

trưởng của Trung Quốc đã lên tới 11% năm 2005.

Trung Quốc đã quay trở lại CĐTG cố định với việc ấn định tỷ giá ở mức

8,28. Nhằm mục đích ổn định hoạt động ngoại thương và đầu tư, mức tỷ giá này đã

được Chính phủ Trung Quốc giữ ổn định cho đến tháng 7/2005. Bên cạnh đó, Trung

54

Quốc kết hợp với nhiều chính sách khác nhằm ổn định tỷ giá. Trong năm 2002, dự

trữ tăng gấp đôi so với thời điểm năm 1997 ở mức 286,4 tỷ USD. Trong chỉ thị số

87 của Cục quản lý ngoại hối ngày 9/9/2002 đã quy định: “các công ty và doanh

nghiệp được giữ lại tối đa trong tài khoản không quá 20% tổng nguồn thu ngoại tệ

từ giao dịch vãng lai”. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này Trung Quốc thực hiện thắt

chặt quản lý ngoại hối thông qua hạn chế cho vay ngoại tệ trong nước. Cụ thể là,

trong giai đoạn 1994 - 2002, Trung Quốc đã hạn chế các khoản vay bằng đồng

ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước. Cho tới tháng 6/2002, quy định này mới

được dỡ bỏ. Tuy nhiên, để thực hiện được khoản vay thì các doanh nghiệp vẫn cần

phải thông qua nhiều thủ tục và giấy tờ.

Như vậy, cho tới nửa đầu năm 2005, Trung Quốc đã duy trì CĐTG cố định

neo vào đồng USD. Trong giai đoạn đầu, chế độ này đã giúp TQ phát triển xuất

khẩu và kiềm chế lạm phát. Từ sau 1998, chế độ neo vào đồng USD bắt đầu bộc lộ

những nhược điểm. Sau khủng hoảng, đồng USD lên giá với hàng loạt đồng tiền và

khi CNY neo vào đồng USD dẫn tới hệ quả là xuất khẩu của Trung Quốc bị giảm

sút, La Thị Lan Hương (2019).

3.1.1.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn CĐTG của

Trung Quốc:

Đặt trong bối cảnh Trung Quốc áp dụng chế độ neo đồng nhân dân tệ (CNY)

cố định vào USD nhằm duy trì ổn định kinh tế và hỗ trợ xuất khẩu từ năm 1997 –

2005, một số nhân tố kinh tế, chính trị và thể chế được đánh giá là có tầm ảnh

hưởng tới lựa chọn này của Trung Quốc.

a. Quy mô nền kinh tế:

Quy mô nền kinh tế tăng mạnh từ 960 tỷ USD năm 1997 lên 2,286 tỷ USD

năm 2005. Điều này đòi hỏi một CĐTG ổn định để hỗ trợ xuất khẩu và thu hút FDI,

đặc biệt khi Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn phát triển nhanh. Trong giai đoạn

1997 – 2005, nhân tố này được đánh giá có tác động mạnh, thúc đẩy Trung Quốc

duy trì CĐTG cố định để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và tránh rủi ro từ

biến động tỷ giá theo WB (2006).

55

b. Lạm phát

Lạm phát giai đoạn 1997 – 2005 ở mức thấp và ổn định, trung bình khoảng 0,4-

2,8%. Điều này giúp Trung Quốc dễ dàng duy trì CĐTG cố định mà không gây áp lực

lạm phát nhập khẩu theo WB (1999).

c. Độ mở cửa thương mại quốc tế

Độ mở thương mại quốc tế đã tăng mạnh, từ 35,9% năm 1997 lên 62,2%

năm 2005, đặc biệt sau khi Trung quốc gia nhập WTO vào năm 2001. Điều này đòi

hỏi một CĐTG cố định để giữ CNY ở mức thấp, duy trì lợi thế cạnh tranh về giá

cho hàng xuất khẩu. Theo WTO (2001), sự gia tăng thương mại quốc tế đã góp

phần thúc đẩy áp dụng CĐTG cố định nhằm hỗ trợ xuất khẩu và thặng dư thương

mại.

d. Độ mở tài khoản vốn

Trong giai đoạn 1997 – 2005, Trung Quốc đã duy trì kiểm soát vốn chặt chẽ với

mức độ kiểm soát vốn dao động ở mức thấp, khoảng 0,3-0,4 trên thang 0-1, theo IMF

(2004). Điều này giúp Trung Quốc duy trì CĐTG cố định mà không chịu áp lực lớn từ

dòng vốn đầu cơ quốc tế. Như vậy thực tế đã cho thấy nhân tố này có tác động mạnh,

hỗ trợ Trung Quốc tiếp tục định hướng cố định, vì kiểm soát vốn giúp giảm rủi ro tài

chính và biến động tỷ giá.

e. Sự ổn định chính trị

Trung Quốc đạt được sự ổn định chính trị cao với mức độ ổn định chính trị

quanh mức 0,1-0,3 (theo thang đo của World Bank - WGI). Đây chính là cơ sở giúp

Trung Quốc thực hiện được các chính sách can thiệp tỷ giá một cách hiệu quả và

nhất quán. Theo báo cáo của WB (2005) đã đánh giá rằng ổn định chính trị là một

trong những nhân tố tích cực giai đoạn này tạo điều kiện cho lựa chọn CĐTG cố

định vì ổn định chính trị giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư và giảm rủi ro nội bộ.

f. Mức độ nhận thức tham nhũng

Theo chỉ số CPI của Transparency International, giai đoạn này tình trạng

tham nhũng ở Trung Quốc cho thấy ở mức cao, 32-35. Điều này làm giảm niềm tin

vào hệ thống tài chính đồng thời thúc đẩy Trung Quốc duy trì chế độ cố định để

giảm rủi ro tài chính và củng cố niềm tin.

56

g. Mức độ dân chủ

Theo EIU (2005), mức độ dân chủ của Trung quốc gia giai đoạn 1997 – 2005

ở thấp, với chỉ số dân chủ dao động quanh 3,0 - 3,1. Nhân tố này giúp củng cố lựa

chọn CĐTG cố định mà không chịu áp lực từ dư luận công chúng hoặc các nhóm

lợi ích đối lập của Trung Quốc vì khi hệ thống dân chủ, tập trung cao cho phép

chính phủ thực hiện chính sách can thiệp mạnh mẽ.

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa của Trung Quốc tăng từ 45 năm 1997 lên 60 năm 2005 đã

phản ánh mức độ hội nhập quốc tế cao của Trung Quốc trong giai đoạn này, đặc biệt

sau khi gia nhập WTO. Điều này đòi hỏi một CĐTG ổn định để hỗ trợ xuất khẩu và thu

hút nguồn vốn FDI.

i. Mức độ hiệu quả Chính phủ.

Mức độ hiệu quả của Chính phủ được đo lường hàng năm bởi WB (2005).

Theo đó chỉ số này của Trung Quốc đã tăng từ 0,1 năm 1997 lên 0,4 năm 2005. Với

mức độ hiệu quả của Chính phủ tăng lên đã góp phần thực hiện các chính sách can

thiệp tỷ giá mạnh mẽ và nhất quán, đặc biệt trong việc tích lũy dự trữ ngoại hối.

Nhân tố này giúp hỗ trợ Trung Quốc duy trì CĐTG cố định là bởi khi Chính phủ

hoạt động hiệu quả giúp tăng khả năng kiểm soát và ổn định kinh tế.

3.1.2 Giai đoạn từ 2005 – 2015

3.1.2.1 Chế độ tỷ giá pháp định

Từ tháng 7/2005, Trung Quốc công bố chuyển sang CĐTG thả nổi có quản

lý, với tỷ giá CNY được tham chiếu theo một rổ tiền tệ (bao gồm USD, EUR, JPY

và các đồng tiền khác), thay vì chỉ neo vào USD. Bên cạnh đó, biên độ dao động

ban đầu là ±0,3% quanh tỷ giá tham chiếu hàng ngày, sau đó được nới rộng lên

±0,5% (2007), ±1% (2012), và ±2% (2014). Chính sách này được công bố nhằm

tăng tính linh hoạt của tỷ giá, đáp ứng áp lực quốc tế (đặc biệt từ Mỹ) về việc để

CNY tăng giá và hỗ trợ quá trình quốc tế hóa CNY.

3.1.2.2 Chế độ tỷ giá thực tế

Trên thực tế, Trung Quốc không thực sự áp dụng CĐTG thả nổi có quản lý mà

vẫn duy trì mức độ can thiệp cao để kiểm soát tỷ giá. PBOC thường xuyên mua hoặc

57

bán ngoại tệ trên thị trường để giữ CNY trong phạm vi mong muốn, đặc biệt khi có áp

lực tăng giá (2005 - 2014) hoặc giảm giá vào năm 2015. Giai đoạn này, IMF đánh giá

Trung Quốc đã áp dụng CĐTG ổn định trên thực tế thay vì thả nổi có quản lý.

Từ năm 2010, Trung Quốc tạm thời quay lại neo cứng vào USD trong giai

đoạn 2008-2010, với tỷ giá ổn định quanh mức 6,83 CNY/USD, dù vẫn công bố là

thả nổi có quản lý.

3.1.2.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá của Trung Quốc

a. Quy mô nền kinh tế

Quy mô kinh tế Trung Quốc tăng trưởng vượt bậc, từ 2,286 tỷ USD năm

2005 lên 11,015 tỷ USD năm 2015, đạt tốc độ tăng trung bình 10%/năm giai đoạn

2005–2010, trước khi giảm còn 6–7% (WB, 2016). Với nền kinh tế ngày càng lớn,

Trung Quốc buộc phải chuyển sang CĐTG linh hoạt hơn để cân bằng cán cân

thương mại, đối phó áp lực quốc tế và giảm phụ thuộc vào xuất khẩu.

b. Lạm phát

Lạm phát tại Trung Quốc tăng mạnh giai đoạn 2008–2011 (6–8%), chủ yếu

do giá thực phẩm và năng lượng leo thang, tạo áp lực khiến đồng CNY phải tăng

giá. Đồng CNY yếu làm gia tăng chi phí nhập khẩu, đẩy lạm phát nội địa lên cao.

Theo IMF (2011), yếu tố này ảnh hưởng lớn đến quyết định để CNY tăng giá dần

trong giai đoạn 2005–2014, hỗ trợ lựa chọn CĐTG linh hoạt hơn.

c. Độ mở thương mại quốc tế

Độ mở TMQT của Trung Quốc đạt đỉnh 65% năm 2006, nhưng giảm còn

35,9% năm 2015 do tiêu dùng nội địa tăng mạnh. Khi đồng CNY bị định giá thấp,

xuất khẩu được hưởng lợi thế cạnh tranh không công bằng, gây áp lực quốc tế buộc

CNY tăng giá. Điều này thúc đẩy Trung Quốc chuyển sang CĐTG thả nổi có quản

lý, với tỷ giá CNY giảm từ 8,28 CNY/USD năm 2005 xuống khoảng 6,0 CNY/USD

năm 2014.

d. Độ mở tài khoản vốn

Trung Quốc từng bước nới lỏng kiểm soát vốn, với chỉ số kiểm soát vốn tăng

từ 0,4 (2005) lên 0,6 (2015) theo IMF (2015). Dòng vốn ra vào tăng mạnh tạo áp

58

lực lên tỷ giá, đòi hỏi CĐTG linh hoạt hơn để ứng phó biến động tài chính. Tuy

nhiên, kiểm soát vốn vẫn chặt chẽ, hạn chế khả năng thả nổi hoàn toàn đồng CNY

(Prasad và Ye, 2012).

e. Sự ổn định chính trị

Trung Quốc duy trì ổn định chính trị cao, với chỉ số ổn định chính trị dao

động từ 0,0 đến 0,1 (WB, 2015). Sự ổn định này cho phép Trung Quốc thực hiện

các chính sách can thiệp tỷ giá quyết liệt và nhất quán, đặc biệt trong khủng hoảng

tài chính toàn cầu 2008–2009, khi tạm thời neo cứng CNY vào USD

f. Mức độ nhận thức tham nhũng

Chỉ số CPI của Trung Quốc dao động từ 32–37, phản ánh mức độ tham

nhũng cao, làm giảm niềm tin vào hệ thống tài chính. Điều này buộc Trung Quốc

duy trì can thiệp mạnh trong CĐTG thả nổi có quản lý để giảm rủi ro tài chính và

củng cố niềm tin của nhà đầu tư quốc tế.

g. Mức độ dân chủ

Với chỉ số dân chủ thấp, duy trì ở mức 3,0–3,1 trong suốt giai đoạn, Trung

Quốc dễ dàng áp dụng các chính sách can thiệp tỷ giá mà không chịu áp lực từ dư

luận hay các nhóm lợi ích đối lập, đảm bảo tính nhất quán trong CĐTG thả nổi có

quản lý.

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa KOF đạt mức cao nhất vào năm 2010 ở mức 65- 68,

phản ánh mức độ hội nhập quốc tế cao. Áp lực từ các đối tác thương mại lớn (như

Mỹ, EU) và IMF tăng mạnh, đòi hỏi Trung Quốc chuyển sang CĐTG thả nổi có

quản lý để giảm cáo buộc thao túng tiền tệ và cân bằng cán cân thương mại.

i. Mức độ hiệu quả Chính phủ.

Theo WB (2015), mức độ hiệu quả của chính phủ Trung Quốc tăng từ 0,4

năm 2005 lên 0,8 năm 2015. Điều này hỗ trợ Trung Quốc thực thi các chính sách tỷ

giá mạnh mẽ, đặc biệt là tích lũy dự trữ ngoại hối kỷ lục (hơn 4 nghìn tỷ USD năm

2014), đảm bảo ổn định tỷ giá trong bối cảnh biến động kinh tế.

59

3.1.3 Giai đoạn từ 2015 – 2023

3.1.3.1 Chế độ tỷ giá pháp định

Trong giai đoạn này, Trung Quốc tiếp tục công bố CĐTG thả nổi có quản lý,

với tỷ giá tham chiếu dựa trên rổ tiền tệ và biên độ dao động ±2% quanh tỷ giá tham

chiếu hàng ngày.

Từ năm 2015, Trung Quốc cải cách cơ chế xác định tỷ giá tham chiếu, cho

phép giá đóng cửa ngày hôm trước trên thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng lớn

hơn đến tỷ giá tham chiếu, nhằm giúp tỷ giá bám sát diễn biến trên thị trường.

Chính sách này được công bố nhằm tăng tính linh hoạt của đồng CNY, thúc đẩy quá

trình quốc tế hóa đồng CNY, đặc biệt là sau khi CNY được đưa vào rổ tiền tệ IMF

năm 2015 và đáp ứng yêu cầu của IMF về một CĐTG linh hoạt hơn.

3.1.3.2 Chế độ tỷ giá thực tế

Trên thực tế, Trung Quốc vẫn duy trì mức độ can thiệp rất cao, đặc biệt trong

các giai đoạn biến động lớn như phá giá CNY năm 2015, chiến tranh thương mại

2018 - 2020, và đại dịch COVID -19 giai đoạn 2020 - 2023. PBOC đã can thiệp trực

tiếp trên thị trường ngoại hối, kiểm soát vốn và điều chỉnh tỷ giá tham chiếu để giữ

CNY trong phạm vi mong muốn.

Giai đoạn này, CĐTG thực tế được đánh giá là CĐTG ổn định hoặc neo

mềm thay vì thả nổi có quản lý thực sự. Điều này được thể hiện qua việc CNY

thường dao động trong biên độ hẹp, và PBOC sẵn sàng can thiệp mạnh khi tỷ giá

vượt ngưỡng mong muốn như khi CNY vượt mức 7,0 CNY/USD trong chiến tranh

thương mại.

Từ năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Trung Quốc cho phép

CNY tăng giá mạnh (từ 7,1 CNY/USD xuống khoảng 6,3 CNY/USD vào năm

2021), nhưng đây không phải là kết quả của thị trường tự do, mà là do PBOC điều

chỉnh để hỗ trợ nhập khẩu và giảm áp lực lạm phát.

Theo báo cáo của IMF, giai đoạn này Trung Quốc đã liên tục thay đổi CĐTG

thực tế và được tổng hợp trong bảng 3.1 dưới đây:

60

Bảng 3.1: Chế độ tỷ giá thực tế của Trung Quốc từ 2015 – 2023

Thời điểm Chế độ tỷ giá theo thực tế

T12/2014 – T11/2015 Chế độ tỷ giá có quản lý khác

T12/2015 – T7/2016 Chế độ tỷ giá tương đương cố định trượt

T8/2016 – T5/2017 Chế độ tỷ giá ổn định

T6/2017 – T6/2018 Chế độ tỷ giá tương đương cố định trượt

T6/2018 – T7/2020 Chế độ tỷ giá có quản lý khác

T7/2020 - 2023 Chế độ tỷ giá tương đương cố định trượt

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo hàng năm của IMF

Đây là giai đoạn mà PBOC có rất nhiều sự thay đổi trong lựa chọn CĐTG

theo thực tế nhằm phù hợp với những biến động lớn. Sau khi liên tục tăng giá, đồng

CNY bắt đầu có xu hướng giảm trở lại từ cuối năm 2014. Đó là khi các nhà đầu tư

rút dần vốn ra khỏi Trung Quốc trước lo ngại về việc FED bắt đầu quá trình bình

thường hóa lãi suất và trên đà giảm tốc của nền kinh tế khi tăng trưởng chỉ còn

6,9% vào năm 2015. Cụ thể là, từ giữa năm 2014 tới giữa năm 2015 lượng vốn chảy

ra lên tới hơn 400 tỷ USD, theo Das (2019). Chính vì vậy, vào 11/8/2015, Trung

Quốc đã đưa ra công bố thay đổi trong điều hành tỷ giá, cụ thể là NHTW đã công

bố thay đổi cơ chế tỷ giá trung tâm sang cơ chế tỷ giá mới không chỉ dựa vào tỷ giá

đóng cửa của ngày hôm trước mà còn kết hợp với nhu cầu và biến động trên thị

trường giữa đồng CNY và các đồng tiền mạnh khác theo PBOC (2015). Sự thay đổi

cơ chế tỷ giá này của Trung Quốc nhằm mục đích tăng tính thị trường và linh hoạt

của tỷ giá. Đi kèm với thông báo thay đổi này, trong ba ngày liên tiếp từ 11 đến

13/8/2015, NHTW Trung Quốc đã liên tiếp phá giá đồng CNY. Ngày 11/8, đồng

CNY đã giảm giá 1,9% so với đồng USD và trong ngày tiếp theo đã giảm thêm 1%

nữa. Đây là lần phá giá mạnh nhất của Trung Quốc sau nhiều năm. Sự thay đổi cơ

chế tỷ giá và sự giảm giá bất ngờ của đồng CNY đã có tác động không hề nhỏ tới

thị trường thế giới và dòng vốn chảy ra khỏi Trung Quốc càng trở nên mạnh mẽ hơn

do nhiều người tham gia thị trường đã nhận định rằng đây chỉ là bước khởi đầu cho

một đợt giảm giá đồng CNY, Das (2019). Để phản ứng lại với nguồn ngoại tệ lớn bị

sụt giảm trong nước, PBOC đã cung ứng một lượng USD lớn ra thị trường và hệ

61

quả là dự trữ ngoại hối đã giảm 321 tỷ USD trong nửa cuối năm 2015. Động thái

này của Trung Quốc được xem là giúp đồng CNY bám sát hơn với diễn biến của thị

trường đồng thời kích thích xuất khẩu trước thông tin vào tháng 7/2015 trước đó xuất

khẩu của Trung Quốc bị sụt giảm. Giai đoạn 2014–2016, đồng CNY mất giá khoảng

12%. Từ đầu 2017 đến 4/2018, CNY phục hồi nhờ USD suy yếu, nhưng sau đó lại giảm

mạnh do dòng vốn rút khỏi thị trường và chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Tỷ giá

chạm đáy năm 2018 (khoảng 6,3), rồi tăng trở lại và đạt gần 7,2 vào năm 2020.

Từ đầu năm 2020 tới 2023, PBOC tiếp tục thúc đẩy mạnh cải cách cơ chế tỷ

giá, cải thiện CĐTG thả nổi có điều tiết theo thị trường nhằm sử dụng tỷ giá như

một công cụ ổn định tự động điều chỉnh nền kinh tế và cán cân thanh toán. Theo

đánh giá bởi IMF, từ tháng 7 năm 2020, Trung Quốc đã chuyển từ CĐTG ổn định

sang tương đương cố định trượt trên thực tế và tiếp tục được áp dụng cho tới 2023.

3.1.3.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá của Trung Quốc

a. Quy mô nền kinh tế:

Quy mô nền kinh tế tăng từ 11,015 tỷ USD năm 2015 lên 18,27 tỷ USD năm

2023, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm lại (trung bình khoảng 6% giai đoạn 2015-

2019, và dưới 6% sau đại dịch). Với quy mô kinh tế lớn đòi hỏi Trung Quốc áp

dụng CĐTG linh hoạt hơn để cân bằng cán cân thương mại, hỗ trợ tiêu dùng nội

địa, và đối phó với áp lực quốc tế, nhưng cũng cần ổn định để tránh rủi ro tài chính.

b. Lạm phát

Lạm phát được duy trì ở mức 2-3 nhưng có nguy cơ giảm phát trong giai

đoạn 2020-2021 do đại dịch COVID-19. Điều này tạo áp lực để Trung Quốc giảm

giá đồng nhân dân tệ nhằm kích thích xuất khẩu nhưng lại tiếp tục tăng giá CNY

trong giai đoạn 2021-2023 để giảm áp lực lạm phát từ giá hàng hóa nhập khẩu. Như

vậy trong điều kiện lạm phát ổn định hơn, Trung Quốc có thể duy trì CĐTG thả nổi với

can thiệp linh hoạt tùy tình hình lạm phát.

c. Độ mở thương mại

Mức độ mở cửa của Trung Quốc đã giảm từ 35,9% năm 2015 xuống 31,6%

năm 2020, nhưng tăng lên 38,35% năm 2022 và giảm còn 37,32% năm 2023 do chiến

62

lược tập trung vào thị trường nội địa của Trung Quốc. Cũng với đó, chiến tranh thương

mại với Mỹ cũng tạo áp lực làm giảm giá đồng CNY, đạt mức thấp nhất 7,2 CNY/USD

năm 2019. Như vậy, độ mở thương mại quốc tế thu hẹp đã tác động mạnh tới sự lựa

chọn CĐTG của Trung quốc giai đoạn này. Độ mở thương mại khá cao khiến Trung

Quốc dễ bị ảnh hưởng bởi các biến động toàn cầu do đó cần áp dụng CĐTG linh

hoạt hơn.

d. Độ mở tài khoản vốn

Trung Quốc tiếp tục nới lỏng kiểm soát vốn, với chỉ số kiểm soát vốn duy trì

quanh 0,5-0,6 nhưng thắt chặt trong các giai đoạn biến động: giai đoạn phá giá

CNY năm 2015, chiến tranh thương mại và đại dịch COVID 19. Điều này làm tăng

áp lực lên tỷ giá, nhưng việc kiểm soát vốn chặt chẽ giúp Trung Quốc duy trì mức

độ can thiệp cao trong CĐTG thả nổi có quản lý, tránh nguy cơ dòng vốn tháo chạy

theo IMF (2019).

e. Sự ổn định chính trị

Ổn định chính trị giảm nhẹ với chỉ số ổn định chính trị dao động quanh -0,1

đến -0,51 (năm 2023). Nguyên nhân là do căng thẳng nội bộ (như Hồng Kông, Tân

Cương) xảy ra đồng thời các áp lực từ phía quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống chính trị

tập trung vẫn giúp Trung Quốc thực hiện các chính sách can thiệp tỷ giá mạnh mẽ,

đặc biệt trong các giai đoạn biến động như chiến tranh thương mại và đại dịch.

f. Mức độ nhận thức tham nhũng

Vấn đề về tham nhũng đã được cải thiện trong giai đoạn này với chỉ số CPI

tăng từ 37 năm 2015 lên 45 năm 2023, nhờ chiến dịch chống tham nhũng từ năm

2012 của Trung Quốc. Khi vấn nạn về tham nhũng phần nào được giải quyết đã

củng cố niềm tin vào hệ thống tài chính, tạo điều kiện để Trung Quốc duy trì chế độ

thả nổi có quản lý với mức độ can thiệp cao.

g. Mức độ dân chủ

Mức độ dân chủ giảm từ 3,1 năm 2015 xuống 2,1 năm 2023, phản ánh kiểm

soát chính trị chặt chẽ hơn. Điều này giúp Trung Quốc duy trì mức độ can thiệp cao

trong CĐTG thả nổi mà không chịu áp lực từ dư luận công chúng hoặc các nhóm lợi

ích đối lập.

63

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa giảm nhẹ từ 68 năm 2015 xuống 66 năm 2023, do xu

hướng bảo hộ thị trường nội địa cùng với hệ quả từ chiến tranh thương mại. Điều

này làm giảm áp lực quốc tế về việc thả nổi hoàn toàn CNY và Trung Quốc chuyển

sang chiến lược tập trung vào thị trường nội địa. Như vậy, với đặc điểm này, Trung

Quốc có thêm động lực duy trì thả nổi có quản lý, can thiệp mạnh trong các giai

đoạn biến động.

i. Mức độ hiệu quả Chính phủ.

Mức độ hiệu quả của Chính phủ tăng từ 0,8 năm 2015 lên 1,0 năm 2023,

giúp Trung Quốc thực hiện các chính sách can thiệp tỷ giá mạnh mẽ và nhất quán,

đặc biệt trong các giai đoạn biến động như phá giá CNY năm 2015, chiến tranh

thương mại, và đại dịch.

Bảng 3.2: Tóm tắt chế độ tỷ giá của Trung quốc giai đoạn 1997 - 2022

Chế độ tỷ giá theo

Chế độ tỷ giá thực tế

Giai

Sự khác biệt chính

pháp định (de

(de facto)

đoạn

jure)

Cố định, neo vào

Gần như không có khác biệt; PBOC

1997-

Neo cứng vào USD

USD

can thiệp mạnh để duy trì tỷ giá.

2005

Thả nổi có quản lý,

Can thiệp thực tế mạnh hơn công bố;

Neo mềm vào USD

2005-

tham chiếu rổ tiền

CNY vẫn neo chặt vào USD, không

hoặc CĐTG ổn định

2015

tệ

thực sự thả nổi.

Thả nổi có quản lý,

CĐTG ổn định, CĐTG

Can thiệp thực tế vẫn rất mạnh; CNY

2015-

cải cách thị trường

tương đương cố đinh

dao động trong biên độ hẹp, không

2023

hóa

trượt

thả nổi tự do.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các báo cáo của IMF, WB và PBOC các năm.

Giai đoạn 1997-2005: Các nhân tố như độ mở cửa thương mại, toàn cầu hóa,

ổn định chính trị, độ mở cửa vốn, và mức độ hiệu quả của Chính phủ có tầm ảnh

hưởng lớn tới lựa chọn CĐTG cố định của Trung Quốc nhằm hỗ trợ xuất khẩu, thu

hút FDI, và đảm bảo ổn định kinh tế và gia nhập WTO.

64

Giai đoạn 2005-2015: Các nhân tố như độ mở cửa thương mại, toàn cầu hóa,

quy mô nền kinh tế, ổn định chính trị, độ mở cửa vốn, và mức độ hiệu quả của chính

phủ có tác động mạnh nhất, thúc đẩy Trung Quốc chuyển sang thả nổi có quản lý để

đáp ứng áp lực quốc tế, cân bằng cán cân thương mại, và đối phó với biến động tài

chính, nhưng mức độ can thiệp vẫn cao để bảo vệ lợi ích kinh tế nội địa.

Giai đoạn 2015-2023: Các nhân tố tương tự tiếp tục có tác động mạnh, thúc

đẩy Trung Quốc duy trì CĐTG thả nổi có quản lý với mức độ can thiệp cao, để cân

bằng giữa linh hoạt và ổn định, đối phó với chiến tranh thương mại, đại dịch, và

thúc đẩy quốc tế hóa CNY.

3.2 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá của Thái Lan

Khủng hoảng châu Á năm 1997 là một bước ngoặt trong chính sách tỷ giá của

Thái Lan. Giai đoạn 1997-2000, Thái Lan chuyển từ CĐTG cố định sang thả nổi có quản

lý, với sự can thiệp mạnh mẽ của Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT) để ổn định

đồng baht (THB) sau khủng hoảng. Tiếp đến giai đoạn 2000-2023, Thái Lan tiếp tục duy

trì CĐTG thả nổi có quản lý, nhưng với mức độ linh hoạt cao hơn để thích ứng với các

cú sốc lớn như khủng hoảng tài chính toàn cầu và đại dịch.

3.2.1 Giai đoạn 1997 – 2000

3.2.1.1 Chế độ tỷ giá pháp định

Ngay sau năm 1997 và chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng, Thái

Lan đã tuyên bố áp dụng “chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, biên độ không được

thông báo trước” từ 2/7/1997. Sự thay đổi này đã kết thúc một giai đoạn khá dài

trước đó Thái Lan áp dụng CĐTG cố định neo vào đồng USD với tỷ giá USD/ THB

ở mức 25. Theo CĐTG mới, tỷ giá THB với các đồng ngoại tệ được quyết định bởi thị

trường. NHTW Thái Lan chỉ can thiệp khi cần thiết và nhằm ngăn ngừa sự biến động lớn

và không vượt ngoài mục tiêu của chính sách. Mục tiêu của Thái Lan là kiềm chế lạm

phát và công cụ lãi suất là công cụ chủ chốt mà NHTW Thái Lan sử dụng để điều hành.

3.2.1.2 Chế độ tỷ giá theo thực tế

Từ năm 1998 đến 2000, Thái Lan áp dụng CĐTG thả nổi có quản lý, trong đó

đồng baht (THB) phản ánh biến động của thị trường nhưng vẫn có sự can thiệp từ BOT

khi cần thiết để hạn chế biến động mạnh. Đến cuối năm 2000, tỷ giá dần ổn định trong

khoảng 40–45 THB/USD, phản ánh sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.

65

60000

50000

40000

30000

20000

10000

0

USD/THB

Biểu đồ 3.1: Diễn biến tỷ giá USD/THB từ năm 1997 - 2000

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ NHTW Thái Lan

Dựa vào bảng biến động tỷ giá USD/THB giai đoạn 1997 – 2000 có thể thấy

rằng ngay sau khi cuộc khủng hoảng giá trị đồng THB bị suy yếu. Cụ thể là tỷ giá

tăng từ 35.000 lên tới 54.190 chỉ trong 4 tháng từ tháng 12/1997 tới tháng 4/1998.

Từ ngày 23/5/2000, Thái Lan chính thức chuyển sang chính sách mục tiêu lạm phát.

Thông qua chính sách này, NHTW Thái Lan kiểm soát tỷ giá bằng cách can thiệp

vào thị trường với các công cụ như mua/bán trực tiếp, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ

giá dao động trong một mức độ cho phép và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế

và kiềm chế lạm phát. Với một mục tiêu kiên định và đường hướng phát triển chính

sách rõ ràng như vậy, chính sách tỷ giá này đã giúp cho giá trị đồng THB ổn định

trong suốt nhiều năm.

3.2.1.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá của Thái Lan

a. Quy mô nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế Thái Lan giảm mạnh từ 183 tỷ USD năm 1996 xuống

113 tỷ USD năm 1998. Chính vì vậy, việc áp dụng CĐTG linh hoạt là cần thiết để

hỗ trợ xuất khẩu và phục hồi kinh tế của thay vì tiếp tục neo cứng vào USD, vốn là

nguyên nhân chính khiến Thái Lan dễ tổn thương trước khủng hoảng.

b. Lạm phát

Lạm phát tăng mạnh từ 5,7% năm 1997 lên 8,1% năm 1998 do đồng baht mất

giá, làm tăng chi phí nhập khẩu. Chính vì vậy, nhằm giảm áp lực lạm phát nhập khẩu,

66

nhân tố này đã góp phần thúc đẩy BOT chuyển sang thả nổi có quản lý nhưng vẫn can

thiệp mạnh để ổn định giá cả và giảm thiểu tác động tiêu cực lên người tiêu dùng.

c. Độ mở cửa thương mại quốc tế

Độ mở cửa TMQT ở mức cao, với tỷ lệ kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP dao

động quanh 100-110%. Sau khủng hoảng, xuất khẩu trở thành động lực chính để

phục hồi kinh tế, và sự mất giá của đồng baht (từ 25 xuống hơn 50 THB/USD) giúp

tăng lợi thế cạnh tranh. Theo ADB (2000), thực trạng này đòi hỏi một CĐTG linh

hoạt, nhưng BOT vẫn can thiệp mạnh trên thực tế để tránh tỷ giá biến động quá mức

gây bất lợi cho thương mại. Đây là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự

lựa chọn của Thái Lan để hỗ trợ xuất khẩu và thặng dư thương mại theo WB (1999).

d. Độ mở cửa tài khoản vốn

Trước khủng hoảng, Thái Lan có độ mở cửa vốn cao, với dòng vốn đầu tư

nước ngoài không được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến dòng vốn tháo chạy lớn trong

năm 1997 (hơn 20 tỷ USD). Chính vì vậy, sau khủng hoảng, Thái Lan thắt chặt

kiểm soát vốn, đặc biệt đối với dòng vốn ngắn hạn, để giảm rủi ro tài chính, hỗ trợ

CĐTG thả nổi với can thiệp mạnh.

e. Sự ổn định chính trị

Ổn định chính trị Thái Lan giảm mạnh sau khủng hoảng do xuất hiện các

cuộc biểu tình lớn và thay đổi chính phủ liên tục trong giai đoạn 1997-1998. Chính

vì vậy, chỉ số ổn định chính trị giảm xuống mức thấp chỉ còn -0.8 theo WB (2000).

Theo Phongpaichit và Baker (2000) sự bất ổn chính trị đã làm giảm niềm tin của

nhà đầu tư nên Thái Lan chuyển sang CĐTG linh hoạt là cần thiết tuy nhiên vẫn cần

có sự kiểm soát chặt chẽ.

f. Mức độ nhận thức tham nhũng

Theo báo cáo của tổ chức minh bạch quốc tế, Thái Lan đã phải đối mặt với

tình trạng tham nhũng ở mức cao, với chỉ số CPI dao động quanh 30-32. Tình trạng

này đã làm giảm niềm tin vào hệ thống tài chính, đặc biệt khi các mối quan hệ chính

trị-kinh doanh là nguyên nhân của khủng hoảng. Điều này thúc đẩy Thái Lan duy trì

can thiệp tỷ giá để ổn định kinh tế và duy trì niềm tin của nhà đầu tư quốc tế.

67

g. Mức độ dân chủ

Mức độ dân chủ của Thái Lan dao động quanh 6-7 theo tổng hợp của EIU

(2000). Với hệ thống dân chủ ở mức độ trung bình cùng với nhiều biến động chính

trị sau khủng hoảng xảy ra đã góp phần thúc đẩy BOT duy trì mức độ can thiệp cao

mà không chịu áp lực lớn từ dư luận công chúng trong bối cảnh khủng hoảng.

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa của Thái Lan giảm nhẹ từ mức 60 năm 1997 xuống 58

năm 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á. Tuy nhiên, Thái Lan vẫn

duy trì mức độ hội nhập cao với thương mại và đầu tư quốc tế. Điều này phản ánh

đúng thực trạng Thái Lan cần có CĐTG linh hoạt để đối phó với các cú sốc bên

ngoài, nhưng cần can thiệp để ổn định kinh tế trong bối cảnh khu vực bất ổn.

i. Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Mức độ hiệu quả của chính phủ giảm mạnh từ 0,5 năm 1996 xuống 0,1 năm

1998 do khủng hoảng và bắt đầu phục hồi lên 0,3 vào năm 2000. Với sự gia tăng

hiệu quả này đã tác động mạnh giúp Thái Lan duy trì mức độ can thiệp cao trong

CĐTG thả nổi có quản lý để vượt qua khủng hoảng.

3.2.2 Giai đoạn 2000 – 2023

3.2.2.1 Chế độ tỷ giá pháp định

Từ năm 2000 đến 2023, Thái Lan tiếp tục công bố CĐTG thả nổi có quản lý,

với mục tiêu tăng tính linh hoạt của tỷ giá để đối phó với các biến động kinh tế toàn

cầu và khu vực trong giai đoạn này.

3.2.2.2 Chế độ tỷ giá theo thực tế

Trong thực tế, Thái Lan duy trì can thiệp linh hoạt với các mức độ khác

nhau. Cụ thể là, BOT can thiệp mạnh trong các giai đoạn biến động lớn năm 2008-

2009 và 2020-2023) và giảm dần can thiệp trong các giai đoạn ổn định (2000-2007,

2010-2015) và tỷ giá được giữ ổn định trong phạm vi 30-38 THB/USD. CĐTG thực

tế được đánh giá là thả nổi có quản lý với mức độ kiểm soát đáng kể. Như vậy,

CĐTG này đã được Thái Lan lựa chọn xuyên suốt giai đoạn từ năm 2008 tới 2023.

Sự thay đổi trong điều hành chính sách hướng tới một mục tiêu lạm phát đã góp

68

phần giúp cho thị trường ngoại hối Thái Lan ổn định hơn. Tỷ giá giữa USD/THB

dần dần hạ nhiệt và ổn định quanh mức 33.000 trong giai đoạn tiếp theo từ 2000 tới

2018. Từ cuối năm 2019, đồng THB bắt đầu lên giá. Chính vì vậy, NHTW Thái Lan

đã tiếp tục kiểm soát biến động của tỷ giá trên thị trường bằng cách sử dụng dự trữ.

Trong năm 2022, đồng THB đã tăng giá 4,3% so với đồng USD kể từ ngày 2020,

đứng vị trí thứ 3 của các quốc gia ở khu vực Châu Á, đứng sau Indonexia (5,3%) và

Hàn Quốc (5,2%). Sang năm 2023, tỷ giá USD/THB tiếp tục duy trì ở mức trung

bình là 34,772. Trong bối cảnh như vậy, Thái Lan vẫn tiếp tục duy trì CĐTG thả nổi

cả theo pháp định và theo thực tế điều hành chính sách tỷ giá cho tới nay.

50000

0

1 0 0 2

2 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

3 2 0 2

3 0 0 2

7 0 0 2

1 1 0 2

4 1 0 2

8 1 0 2

2 2 0 2

USD/THB

Biểu đồ 3.2: Diễn biến tỷ giá USD/THB từ năm 2001 – 2023

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ NHTW Thái Lan

3.2.2.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá của Thái Lan

a. Quy mô nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế tăng từ 126 tỷ USD năm 2000 lên 515 tỷ USD năm 2023

nhưng giảm mạnh trong các giai đoạn khủng hoảng ở mức -6,1% năm 2020. Với

điều kiện kinh tế này, việc Thái Lan duy trì thả nổi có quản lý là phù hợp.

b. Lạm phát

Lạm phát giảm từ 4,5% năm 2000 xuống mức thấp (trung bình 1-3%) trong

phần lớn giai đoạn, nhưng tăng cao trong các giai đoạn khủng hoảng (4-5%) trong

2008-2011 và lên mức 6,1% năm 2022 do giá dầu và hàng hóa nhập khẩu tăng. Như

vậy, để giảm áp lực lạm phát nhập khẩu tạo động lực thúc đẩy cho CĐTG thả nổi có

quản lý với can thiệp linh hoạt. BOT can thiệp để ổn định giá cả trong các giai đoạn

biến động và tới năm 2023, lạm phát Thái Lan đã giảm mạnh, chỉ còn 1,23%.

c. Độ mở cửa thương mại

69

Độ mở TMQT của Thái Lan duy trì ở mức cao, với tỷ lệ kim ngạch xuất

nhập khẩu/GDP dao động từ 100–130% trong suốt giai đoạn. Xuất khẩu là động lực

tăng trưởng chính, nhưng Thái Lan đối mặt với cạnh tranh từ các nước ASEAN và

các cú sốc như khủng hoảng tài chính 2008–2009, chiến tranh thương mại, và đại

dịch COVID-19. Do đó, Thái Lan tiếp tục áp dụng CĐTG linh hoạt để duy trì lợi

thế cạnh tranh và thặng dư thương mại, đồng thời BOT can thiệp trong các giai

đoạn biến động để ổn định kinh tế, theo ADB (2010, 2020).

d. Độ mở cửa tài khoản vốn

Theo IMF (2020), Thái Lan từng bước nới lỏng kiểm soát vốn từ năm 2000,

thúc đẩy dòng vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh, nhưng siết chặt trong các

giai đoạn bất ổn 2008–2009 và 2020–2023 để hạn chế rủi ro vốn tháo chạy. Điều

này gia tăng áp lực lên tỷ giá, đòi hỏi Thái Lan áp dụng CĐTG linh hoạt nhưng vẫn

duy trì can thiệp khi cần thiết.

e. Sự ổn định chính trị

Ổn định chính trị của Thái Lan biến động mạnh trong giai đoạn này, với chỉ

số giảm từ 0,2 năm 2000 xuống mức thấp -0,5 đến -0,7 trong các giai đoạn bất ổn

như đảo chính (2006, 2014) và biểu tình (2008–2010, 2019–2020). Do đó, yếu tố

này ảnh hưởng lớn đến quyết định của Thái Lan trong việc hạn chế biến động tỷ

giá, nhằm tránh gia tăng bất ổn chính trị và củng cố niềm tin của nhà đầu tư.

f. Mức độ tham nhũng

Mức độ tham nhũng đã được cải thiện nhẹ so với giai đoạn trước đây tuy

nhiên vẫn ở mức trung bình thấp so với mức độ trung bình trên thế giới. Cụ thể là,

chỉ số CPI tăng từ 32 năm 2000 lên 41 năm 2023. Tương tự thì nhân tố này cũng

góp phần thúc đẩy Thái Lan duy trì can thiệp tỷ giá để ổn định kinh tế và duy trì

niềm tin của nhà đầu tư quốc tế tuy nhiên chưa phải là nhân tố có ảnh hưởng đáng

kể trong giai đoạn này.

g. Mức độ dân chủ

Mức độ dân chủ giảm từ 7 năm 2000 xuống 3 - 4 năm 2023, do các cuộc đảo

chính (2006, 2014) do đó Thái Lan đã thực hiện kiểm soát chính trị chặt chẽ hơn.

Điều này giúp BOT duy trì mức độ can thiệp cao mà không chịu áp lực lớn từ dư

luận công chúng, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng và chính trị bất ổn.

70

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số toàn cầu hóa KOF tăng từ 58 năm 2000 lên 70 năm 2015, nhưng lại

có phần giảm nhẹ xuống mức 68 năm 2023 do chiến tranh thương mại và đại dịch

COVID-19. Mức độ hội nhập quốc tế cao đòi hỏi Thái Lan cần áp dụng CĐTG linh

hoạt để đối phó với các cú sốc bên ngoài. Tuy nhiên, BOT vẫn cần có sự can thiệp

khi cần thiết để duy trì ổn định kinh tế trong các giai đoạn bất ổn toàn cầu trên thực

tế, theo BOT (2022).

i. Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Hiệu quả chính phủ Thái Lan cải thiện đáng kể, từ 0,3 năm 2000 lên 0,8 năm

2023 theo báo cáo thường niên của WB, dù có biến động nhẹ trong các giai đoạn

bất ổn như 2008–2009 và 2020–2023. Sự nâng cao này đã tạo điều kiện thuận lợi

cho Thái Lan áp dụng CĐTG linh hoạt hơn.

3.3 Thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam

3.3.1 Giai đoạn từ 1997 – 2009

3.3.1.1 Chế độ tỷ giá theo pháp định

Trong giai đoạn này, bắt đầu từ năm 1999, Việt Nam đã có sự thay đổi bước

ngoặt trong cơ chế điều hành tỷ giá, chuyển từ cơ chế cố định sang cơ chế thả nổi có

điều tiết và được tiếp tục áp dụng cho tới hết giai đoạn. Cụ thể là, ngày 26/2/1999,

NHNN đã thay đổi việc công bố tỷ giá chính thức trước đây bằng việc công bố tỷ

giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (TGBQLNH) theo quyết định

64/1999/QĐ-NHNN. Như vậy, hàng ngày NHNN công bố TGBQLNH của VND

với USD. Trên cơ sở đó, các tổ chức tín dụng xác định tỷ giá kinh doanh của mình

và không vượt quá biên độ cho phép +/-1% theo quyết định số 65/1999/QĐ. Việc

chuyển đổi CĐTG chính thức mới này đã góp phần làm cho quản lý tỷ giá định

hướng thị trường hơn.

3.3.1.2 Chế độ tỷ giá theo thực tế

Theo Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2001 -2005, mục tiêu chủ yếu của

Chính phủ Việt Nam đó là duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững ở mức cao. Trong

khi đó, mục tiêu của chính sách tiền tệ giai đoạn 1999- 2009 đó là giữ ổn định tỷ

giá, kiểm soát lạm phát. Chính vì vậy, mặc dù NHNN đã công bố áp dụng thả nổi

71

có điều tiết tuy nhiên trên thực tế tỷ giá vẫn chưa thực sự linh hoạt. Trong thực tế,

từ tháng 2/1999 tới 2007, Việt Nam lần lượt áp dụng 2 CĐTG thuộc cơ chế neo cố

định. Đầu tiên là giai đoạn 1999- 2000, Việt Nam áp dụng CĐTG neo cố định thông

thường. Theo đó, tỷ giá được giữ ổn định ở mức 14.000 VND/USD. Tuy nhiên, từ

2001- 2007, Việt Nam đã chuyển sang CĐTG neo tỷ giá có điều chỉnh theo nghiên

cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng (2010) và Nguyễn Trần Phúc (2009). Trong giai

đoạn 2008 – 2009, NHNN đã áp dụng CĐTG neo tỷ giá với biên độ được điều

chỉnh. Trong suốt giai đoạn này, NHNN mua bán ngoại tệ/nội tệ trên thị trường một

cách linh hoạt nhằm điều tiết tỷ giá.

Trong giai đoạn 1999 - 2007, biến động trên thị trường hoàn toàn phù hợp

với đặc điểm của CĐTG neo cố định: tỷ giá trên thị trường chính thức ổn định và có

xu hướng tăng dần đều qua các năm và biên độ dao động cũng nằm trong phạm vi

cho phép là 1% (từ 0,1% lên 0,25% lên 0,5%).

Trên thực tế, TGBQLNH vẫn chưa hoàn toàn được xác định bởi cung và cầu.

Hơn nữa, tỷ giá thực hiện trong ngày phải nằm trong khoảng 0,25% so với tỷ giá

của ngày hôm trước, theo Nguyễn Văn Tiến (2001). NHNN chủ yếu can thiệp trực

tiếp trên thị trường. Như vậy, với mục tiêu của chính sách tiền tệ và sự điều hành

chính sách tỷ giá của NHNN thì kết quả là, TGBQLNH được duy trì ở mức 14.000

năm 2000 tới 16.050 đầu năm 2007 với tỷ lệ tăng chỉ gần 2%.

16,050

15,918

15,786

15,695

15,431

15,121

14,570

14,052

13,880

16,500 16,000 15,500 15,000 14,500 14,000 13,500 13,000 12,500

1/1/1999 1/1/2000 1/1/2001 1/1/2002 1/1/2003 1/1/2004 1/1/2005 1/1/2006 1/1/2007

Biểu đồ 3.3: Diễn biến tỷ giá USD/VND từ giai đoạn 1999 – 2007

Nguồn: Báo cáo của NHNN Việt Nam qua các năm.

Trong giai đoạn này, NHNN liên tục điều chỉnh tăng dần tỷ giá trên thị

trường liên ngân hàng. Tỷ giá USD/VND đã tăng từ mức 14.000 từ đầu năm 2000

72

lên tới 16.091 vào cuối năm 2006. Biên độ được điều chỉnh tăng dần từ 0,1% lên

0,25% vào tháng 7/2002 và từ 0,25% lên 0,5% vào tháng 01/2007.

Xuyên suốt cả giai đoạn, NHNN đã dần dần tăng quyền chủ động cho các

NHTM hơn trong kinh doanh ngoại hối thông qua điều chỉnh tăng biên độ của hầu

hết các nghiệp vụ mua bán giao ngay, kỳ hạn; cho phép các NHTM thực hiện

nghiệp vụ quyền chọn, giảm tỷ lệ kết hối của doanh nghiệp xuống 0%; cho phép các

NHTM được thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất

cơ bản do NHNN công bố và lãi suất USD của FED. Như vậy, đã có rất nhiều sự

đổi mới trong nguyên tắc điều hành của NHNN, nới lỏng các quy định về kiểm soát

và mở rộng quyền giao dịch ngoại tệ cho các NHTM và hệ quả là thị trường liên

ngân hàng đã trở nên sôi động hơn.

Bên cạnh đó, dựa vào diễn biến tỷ giá, chúng ta nhìn nhận được xu hướng ổn

định và tăng dần đều của tỷ giá từ giai đoạn 1999 – 2007. Một trong những tác động

giúp tỷ giá ổn định giai đoạn này đó là bởi Chính phủ theo đuổi mục tiêu kích thích

xuất khẩu nên đã điều chỉnh diễn biến tỷ giá theo sát thị trường, tỷ giá vẫn được neo

cứng với USD. Ngoài ra, trong giai đoạn này có những sự kiện đặc biệt làm cho

chính sách tỷ giá của Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến mạnh mẽ như:

NHNN công bố Pháp lệnh Ngoại hối, IMF chính thức công nhận Việt Nam thực

hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai vào năm 2005, Việt Nam tham

gia vào WTO năm 2006. Với sự thay đổi này, chính sách tỷ giá cũng trở nên linh

hoạt hơn.

Đặc biệt trong khoảng thời gian 2006 – 2007, Việt Nam đã thu hút một

lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn. Nguồn vốn này đã tác động mạnh mẽ tới thị

trường ngoại hối khiến tỷ giá USD/VND giảm, làm giảm sức cạnh tranh thương mại

quốc tế. Tuy nhiên, mục tiêu của Chính phủ là kích thích xuất khẩu chính vì vậy từ

cuối năm 2006, NHNN tiếp nới lỏng biên độ từ +/-0,25% lên +/- 0,5% vào cuối

năm 2006.

Từ đầu năm 2007, đồng USD giảm giá mạnh khiến cho FED liên tục cắt

giảm lãi suất của đồng USD cùng với lượng kiều hối tăng đặc biệt ở trong nước đã

73

làm đồng VND tăng giá. Khi đó, NHNN đã can thiệp mua vào ngoại tệ trên thị

trường và điều chỉnh giảm TGBQLNH.

Như vậy, nhìn chung trong cả giai đoạn 1999 - 2007, NHNN đã luôn can

thiệp kịp thời, mạnh mẽ nhằm giúp ổn định được tỷ giá trước những biến động

không ngừng và kết quả là tỷ giá trên thị trường đã được ổn định. Và khi những khó

khăn đã dần giảm bớt, Việt Nam chuyển sang thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng

với mục tiêu ổn định nền kinh tế, kiểm soát lạm phát. Cùng với mục tiêu như vậy,

thông qua hai quyết định số 64 và 65/QĐ-NHNN ngày 26/2/1999, NHNN đã bắt

đầu thực hiện điều hành tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường hơn bằng cách công bố

tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sự thay đổi thể hiện ở việc gắn tỷ giá với thị

trường hơn và có sự điều tiết của NHNN. Sự điều tiết của NHNN trong giai đoạn

này bao gồm đưa ra quy định về biên độ giao dịch cho phép trong từng thời kỳ và

can thiệp trực tiếp lên thị trường. Một ưu điểm của cách thức điều hành mới là

NHNN không cần điều chỉnh tỷ giá chính thức và biên độ thường xuyên nên sự hoài

nghi về tính bền vững của CĐTG được giảm bớt, theo Mai Thu Hiền (2013). Tỷ giá

bình quân liên ngân hàng được duy trì khá ổn định trong cả giai đoạn 1999 - 2007.

Trong giai đoạn 1999 và 2004 - 2007, VND trung bình mất giá 1% còn trong giai

đoạn 2000 - 2003 tỷ lệ này là 2%.

Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá được điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh xuất

khẩu, hạn chế nhập khẩu từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là, tổng kim

ngạch xuất khẩu từ 21trUSD (1999) lên tới gần 85trUSD (2006). Để có được kết

quả này là nhờ NHNN đã áp dụng chính sách tỷ giá neo đồng VND với USD và can

thiệp của NHNN theo định hướng tăng trưởng xuất khẩu.

Trong giai đoạn này, lạm phát tăng đáng kể tuy nhiên với sự ổn định của tỷ

giá đã góp phần kiềm chế lạm phát khi mà NHNN củng cố được niềm tin của người

dân vào đồng VND thì sức ép lên việc tăng giá hàng hóa cũng phần nào được giảm

đi. Ngoài ra, chính sách tỷ giá ổn định cũng góp phần thu hút được FDI vào Việt

Nam, đặc biệt vào giai đoạn 2006 – 2007.

Như vậy, có thể thấy với sự thay đổi cơ chế tỷ giá trong giai đoạn này mang

lại rất nhiều lợi ích cho thị trường Việt Nam tuy nhiên vẫn còn một số những điểm

74

hạn chế trong lựa chọn này. Thực tế là, trong bối cảnh lạm phát trong nước liên tục

tăng cao còn lạm phát của Mỹ thì được duy trì ở mức thấp, việc Việt Nam tiếp tục

neo cố định vào đồng USD và NHNN duy trì một tỷ giá tương đối ổn định trong

suốt giai đoạn 2000 - 2007 đã tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực tới sức cạnh tranh

thương mại quốc tế của Việt Nam và dẫn tới thâm hụt cán cân. Ngoài ra, mặc dù cơ

chế tỷ giá giai đoạn này đã linh hoạt hơn tuy nhiên vẫn tồn tại cơ chế hai tỷ giá

(chính thức và tự do). Hơn thế nữa, tỷ giá của các NHTM vẫn bị phụ thuộc vào tỷ

giá chính thức bởi cơ chế điều hành tỷ giá quy định biên độ dao động cho phép tối

đa mà NHTM có thể niêm yết. Chính vì vậy, tỷ giá của NHTM chưa thể phản ánh

được chính xác được cung cầu trên thị trường.

Bước sang giai đoạn 2008 - 2010, các biến động về kinh tế vĩ mô đã góp

phần tác động làm tỷ giá biến động liên tục, Phạm Thị Hoàng Anh (2011). Thứ

nhất, lạm phát rất cao trong năm 2008 (hơn 20%) - cao nhất trong vòng 17 năm.

Nguyên nhân là bởi giá dầu thô và nguyên liệu, hàng hóa khác trên thế giới tăng

mạnh đã kéo theo giá cả hàng hóa ở trong nước tăng. Thứ hai, bất động sản bắt đầu

giảm mạnh so với thời điểm đầu năm 2008 (50-70%), thị trường chứng khoán cũng

liên tục sụt giảm. Thứ ba là lãi suất trên thị trường tăng lên (từ 7,5% vào tháng 1 lên

tới 19% vào tháng 7 với kỳ hạn 3 tháng). Cuối cùng là cán cân thương mại bị thâm

hụt mạnh, đạt mức kỷ lục hơn 14% GDP. Tất cả các biến động này đã khiến đồng

VND mất giá trung bình hơn 5% mỗi năm. NHNN đã có nhiều lần phải điều chỉnh tỷ

giá cũng như biên độ dao động. Chỉ trong năm 2008 đã có bốn giai đoạn biến động tỷ

giá chính và ba lần mở rộng biên độ và hai lần NHNN phải điều chỉnh nâng tỷ giá trên

thị trường liên ngân hàng. Sang tới năm 2009, VND tiếp tục mất giá khoảng 5,7% so

với năm 2008.

Đầu năm 2008, luồng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã kéo theo lượng

cung USD trên thị trường Việt Nam cũng tăng lên và hệ quả là tỷ giá USD/VND

giảm liên tục trong ba tháng đầu năm 2008 (từ T1/2008 tới 25/3/2008). Tỷ giá giảm

mạnh từ mức 16.112 xuống còn 15.960 trên thị trường liên ngân hàng. Thị trường

tự do cũng chung một xu hướng giảm giá, và thậm chí ở mức thấp hơn (mức thấp

nhất vào khoảng 15.450 - 15.550). Một nguyên nhân nữa là lượng kiều hối chuyển

75

về nước khá lớn góp phần làm lượng cung ngoại tệ trong nước càng nhiều. Thêm

vào đó, chênh lêch lãi suất giữa USD và VND lớn cũng tác động làm cho xu hướng

đầu tư chuyển sang đồng VND và cũng làm cho tỷ giá giảm thêm.

Từ ngày 26/3/2008, đặc biệt là cuối tháng 5, VND bắt đầu mất giá mạnh.

Đến tháng 6/2008, tỷ giá liên ngân hàng chạm mức thấp nhất là 16.522, trong khi tỷ

giá tự do lên tới 19.400 - mức chênh lệch lớn nhất giữa hai thị trường trong năm.

Nguyên nhân chính là do nhập siêu tăng kỷ lục đến tháng 5/2008, làm cầu ngoại tệ

tăng vọt. Ngoài ra, chứng khoán lao dốc, những nghi ngại về việc NHNN phá giá

VND và tính thanh khoản của các NHTM khiến nhu cầu USD trong nước tiếp tục

tăng. Ngoài ra, NHNN ban hành quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN quy định “không

cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu, cụ thể là không cho phép

vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu” cũng tác động làm giảm cung ngoại tệ.

Đứng trước sự biến động lớn về tỷ giá này, từ ngày 30/5/2008 tới ngày

26/6/2008, nhằm giải quyết tình trạng bất ổn của thị trường và nền kinh tế, nhiều

giải pháp được đưa ra đồng thời: (i) NHNN đã công khai lượng dự trữ ngoại hối ở

mức 20,7 tỷ USD và sẵn sàng bán USD trực tiếp cho NHTM nhằm trấn an người

dân; (ii) tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND từ 16.139 lên

16.461 vào ngày 11/6/2008, (iii) tăng biên độ của tỷ giá từ 1% - 2% ngày

26/6/2008; (iv) thắt chặt các giao dịch trên thị trường tự do. (5) tăng lãi suất cơ bản

từ 8,5% lên 14%. (v) tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc từ 7,8% lên 13%. Với gói giải

pháp kịp thời và đồng bộ của NHNN thì tới cuối tháng 7 năm 2008, tỷ giá đã ổn

định quanh mức 16.800 trên cả hai thị trường.

Tuy nhiên, dưới tác động của làn sóng thoái vốn đầu tư trên thị trường chứng

khoán và việc mua vàng lậu đã tạo sức ép làm USD tăng giá trở lại. Tỷ giá

USD/VND của các NHTM tăng trở lại từ mức 16.600 lên tới mức 16.998 vào tháng

11/2008. Xu hướng tăng tỷ giá lần này của thị trường trong nước giống với xu

hướng biến động của đồng USD trên thế giới. Trước diễn biến này, NHNN tiếp tục

phải tăng tỷ giá lên mức mới 16.517 và buộc phải điều chỉnh biên độ từ mức 2%

tăng lên 3%.

76

Năm 2009, Việt Nam trực tiếp chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng toàn cầu tới

nền kinh tế. Diễn biến tỷ giá được chia làm hai giai đoạn chính: 9 tháng đầu năm và

3 tháng cuối năm. Từ đầu năm 2009, tỷ giá BQLNH tương đối ổn định dao động

quanh mức 16.975. Tuy nhiên, khi tỷ giá vượt ngưỡng 18.000 thì NHNN đã điều

tiết bằng cách tiếp tục mở rộng biên độ từ 3% lên 5% ngày 24/3/2009. Đây là mức

lớn nhất kể từ khi áp dụng thả nổi có điều tiết của Việt Nam. Sau đó, tỷ giá đã bình

ổn hơn, dao động quanh mức 16.900 cho tới hết tháng 9/2009.

Như vậy, trong suốt giai đoạn đầu của năm 2009, tỷ giá tự do luôn có sự

cách biệt lớn so với tỷ giá BQLNH. Trong khi tỷ giá chính thức thường xuyên được

duy trì ở mức 16.875 – 16.983 thì tỷ giá tự do ở mức 17.800 - 18.250. Chính vì vậy,

để giảm bớt chênh lệch giữa hai thị trường thì vào cuối tháng 11, NHNN đã một lần

nữa nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 17.941 và ổn định tới hết năm.

Nhìn chung, xu hướng tỷ giá tăng lên được thể hiện rõ rệt trên cả hai thị trường

năm 2008 – 2009. Tỷ giá tăng lên thể hiện sự suy yếu của VND trước những áp lực từ

nhập khẩu tăng, thiếu hụt ngoại tệ trên thị trường hay kỳ vọng phá giá nội tệ của thị

trường, chênh lệch giữa tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tự do ngày càng tăng từ

cuối năm 2008 tới cuối năm 2009 từ 3-6% theo báo cáo của WB (2009).

Đây là hai năm đầy biến động đối với thị trường ngoại hối Việt Nam. Để ổn

định tình hình, NHNN đã triển khai đồng bộ và kịp thời nhiều biện pháp. Trong đó,

biện pháp bán ngoại tệ ra thị trường nhằm giảm áp lực tăng giá USD được sử dụng

thường xuyên. Đặc biệt, NHNN đã linh hoạt điều chỉnh biên độ và tăng tỷ giá bình

quân liên ngân hàng. Riêng trong tháng 10 và 11/2008, hơn 1 tỷ USD đã được bán ra

để đáp ứng nhu cầu của các NHTM. Bên cạnh đó, NHNN còn áp dụng nhiều biện pháp

gián tiếp như công bố dự trữ ngoại hối để trấn an thị trường và siết chặt kiểm soát thị

trường tự do, đặc biệt là việc mua bán ngoại tệ tại các điểm không được ủy quyền

77

25,000 20,000 15,000 10,000 5,000 0

8 0 0 2 / 1 / 1

8 0 0 2 / 1 / 2

8 0 0 2 / 1 / 3

8 0 0 2 / 1 / 4

8 0 0 2 / 1 / 7

8 0 0 2 / 1 / 8

8 0 0 2 / 1 / 9

9 0 0 2 / 1 / 1

9 0 0 2 / 1 / 2

9 0 0 2 / 1 / 3

9 0 0 2 / 1 / 4

9 0 0 2 / 1 / 5

9 0 0 2 / 1 / 8

9 0 0 2 / 1 / 9

8 0 0 2 / 1 / 5

8 0 0 2 / 1 / 6

9 0 0 2 / 1 / 6

9 0 0 2 / 1 / 7

8 0 0 2 / 1 / 0 1

9 0 0 2 / 1 / 0 1

9 0 0 2 / 1 / 1 1

8 0 0 2 / 1 / 1 1

8 0 0 2 / 1 / 2 1

9 0 0 2 / 1 / 2 1

TG BQLNH

TG TTTD

Biểu đồ 3.4: Diễn biến tỷ giá BQLNH và tỷ giá tự do năm 2008 - 2009

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của NHNN VN

Cuối năm 2009, biện pháp kết hối tiếp tục được sử dụng như một giải pháp

hỗ trợ NHNN để tăng cung ngoại tệ. Cụ thể là, ngày 23/12/2009, công văn số

2578/TTg- KTTH được ban hành quy định về việc bán ngoại tệ của bảy tập đoàn,

tổng công ty nhà nước cho các tổ chức tín dụng được phép. Theo báo cáo của

NHNN, tính tới hết năm 2009, bảy tổng công ty, tập đoàn đã bán trên 460 triệu

USD cho các NHTM.

Trong giai đoạn này, NHNN sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt để hạn chế

đầu cơ và hiện tượng đô la hóa. Khi tỷ giá tăng mạnh từ tháng 3 đến tháng 7/2008,

NHNN tăng lãi suất VND so với USD, góp phần giảm cầu USD. Ngược lại, từ

tháng 7/2008 đến cuối năm 2009, NHNN giảm lãi suất VND để kích cầu USD và

hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Như vậy nhìn chung trong năm 2008 – 2009, Việt Nam phải đối mặt với tăng

trưởng thấp, thâm hụt thương mại, tỷ giá thì liên tục bất ổn. Chính trong bối cảnh

này thì CĐTG neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh phát huy được tác dụng của

nó. Tỷ giá cố định đóng vai trò như một chiếc neo danh nghĩa giúp giảm lạm phát.

Điều này đã chứng minh khi lạm phát năm 2009 (6,7%) đã giảm đáng kể so với

năm 2008 (hơn 20%).

Với cơ chế điều chỉnh thông qua tỷ giá bình quân liên ngân hàng và sử dụng

công cụ biên độ tỷ giá một cách linh hoạt thì tỷ giá đã bám sát thị trường hơn.

Trong thời điểm cung cầu mất cân bằng, việc sử dụng tỷ giá liên ngân hàng như một

cái neo cho tỷ giá của các NHTM, từ đó góp phần định hướng và ổn định thị trường.

78

Với sức ép lớn trên thị trường, NHNN phải điều chỉnh nới lỏng biên độ

khiến VND mất giá. Và như một tiền lệ, trong các giai đoạn có biến động lớn như

thế này thì CĐTG được lựa chọn thường là “cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều

chỉnh” giống như trong giai đoạn 1997 – 1998. Mặt tích cực của áp dụng chính sách

này đó là giúp giữ được tỷ giá ổn định, hỗ trợ các doanh nghiệp giữ được sự ổn định

trước biến động.

Tuy nhiên việc áp dụng CĐTG trong giai đoạn 2008 - 2009 vẫn tồn tại hạn

chế:

Trước hết, điều hành của NHNN được đánh giá là chưa kịp thời và chưa nhất

quán trong chính sách, cụ thể là sử dụng công cụ biên độ thay cho phá giá nội tệ

trong giai đoạn đầu năm 2009 chưa đem lại được hiệu quả cao, theo Nguyễn Thị

Thu Hằng (2010).

Hai là, tỷ giá liên ngân hàng được sử dụng như tỷ giá chính thức trong giai

đoạn này thế nhưng vẫn chưa phản ánh đúng với giá trị thị trường, chênh lệch giữa

tỷ giá ở hai thị trường vẫn còn cách khá xa (như thời điểm tháng 5-6/2008 hay nửa

cuối năm 2009). Hệ quả là tạo ra nguy cơ đầu cơ ngoại tệ bùng trở lại.

Thứ ba là, khi áp dụng CĐTG neo cố định NHNN đã phải liên tục can thiệp

để duy trì tỷ giá làm cho dự trữ NH bị giảm mạnh. Mặc dù NHNN đã kịp thời ứng

phó trước những biến động trên thị trường nhưng với mức độ và tần suất lớn đã tạo

sức ép lớn lên NHNN về dự trữ ngoại hối. Năm 2008, NHNN công bố dự trữ ngoại

hối ở mức 20,7 tỷ USD nhằm trấn an người dân trước tin đồn nhưng sau đó giảm

xuống chỉ còn 16,4 tỷ vào năm 2009. Vì vậy, việc theo đuổi CĐTG neo cố định

trong thời gian dài sẽ gây nhiều khó khăn cũng như áp lực cho NHNN.

Cuối cùng là, NHNN vẫn chưa độc lập cả về mặt tài chính nhân sự cũng như

điều hành chính sách tiền tệ.

3.3.1.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn CĐTG của

Việt Nam

a. Quy mô nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng từ 31,2 tỷ USD năm 1997 lên 115,9 tỷ

USD năm 2010. Sự tăng trưởng này thúc đẩy Việt Nam chuyển sang CĐTG linh

79

hoạt hơn để hỗ trợ xuất khẩu và thu hút đầu tư, nhưng NHNN vẫn ưu tiên ổn định

để tránh rủi ro tài chính bằng cách vẫn can thiệp trên thực tế khi cần thiết, đặc biệt

trong giai đoạn khủng hoảng 2008 – 2009.

b. Lạm phát

Lạm phát biến động mạnh trong cả giai đoạn, cụ thể là từ mốc 4,1% năm

1997 đã tăng lên 9,2% năm 2000 rồi tiếp tục giảm xuống 3,8% năm 2006, rồi tăng

phi mã tới mức 23% năm 2008 do giá hàng hóa toàn cầu tăng và tác động lớn từ

cuộc khủng hoảng tài chính. Như vậy, lạm phát đã thúc đẩy sự lựa chọn CĐTG thả

nổi có quản lý đồng thời tiếp tục duy trì sự hỗ trợ can thiệp của NHNN nhằm giúp

giảm được lạm phát phi mã nhanh chóng theo NHNN (2008).

c. Độ mở cửa thương mại quốc tế.

Việt Nam có mức độ mở cửa thương mại tăng mạnh từ 70% GDP năm 1997

lên 150% năm 2010. Như vậy, độ mở cửa thương mại tăng đã có ảnh hưởng lớn tới

việc lựa chọn CĐTG linh hoạt để có thể duy trì được lợi thế cạnh tranh theo báo cáo

của ADB (2010).

d. Độ mở cửa tài khoản vốn

Độ mở cửa vốn của Việt Nam tăng từ mức thấp năm 1997 lên mức trung

bình năm 2010, với dòng vốn FDI tăng từ 2,2 tỷ USD năm 1997 lên 11 tỷ USD năm

2010. Tuy nhiên, NHNN duy trì kiểm soát vốn chặt chẽ để tránh rủi ro dòng vốn

tháo chạy (như trong khủng hoảng 1997-1998), dẫn đến CĐTG thả nổi có quản lý

nhưng vẫn cần kết hợp với can thiệp mạnh của NHNN để kiểm soát vốn chặt chẽ

hơn giúp ổn định tài chính.

e. Sự ổn định chính trị

Mức độ ổn định chính trị ở Việt Nam vẫn được duy trì ở mức cao, dao động

quanh 0,8-1,0 theo tổng hợp của WB hàng năm. Điều này tạo điều kiện cho NHNN

thực hiện chính sách tỷ giá với can thiệp chặt chẽ mà không chịu áp lực chính trị

lớn, hỗ trợ ổn định kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng khu vực và toàn cầu.

f. Mức độ kiểm soát tham nhũng

Giai đoạn này chỉ số CPI của Việt Nam được nhận thấy ở mức khá cao, dao

động quanh mức 25-30. Như vậy, nhân tố này đã tác động làm giảm niềm tin vào hệ

80

thống tài chính của người dân cũng như các nhà đầu tư. Chính vì vậy, đòi hỏi

NHNN duy trì can thiệp tỷ giá để ổn định kinh tế và duy trì niềm tin của nhà đầu tư

quốc tế.

g. Mức độ dân chủ

Mức độ dân chủ giai đoạn này còn thấp, dao động quanh 2-3 theo số liệu

tổng hợp được từ EIU. Việt Nam áp dụng hệ thống chính trị tập trung và cũng chính

vì vậy nhân tố này góp phần cho phép NHNN thực hiện chính sách can thiệp tỷ giá

mạnh mà không chịu áp lực từ dư luận công chúng.

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số KOF tăng từ 45 năm 1997 lên 55 năm 2010, phản ánh sự hội nhập

quốc tế nhanh của Việt Nam. Điều này đã mở ra một bước tiếp mới trong sự phát

triển kinh tế của Việt Nam cũng như tạo ra sự cần thiết phải áp dụng một CĐTG

linh hoạt hơn nhằm đối phó với các cú sốc bên ngoài, nhưng NHNN can thiệp chặt

để bảo vệ nền kinh tế nội địa.

i. Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Mức độ hiệu quả của Chính phủ Việt Nam tăng từ 0,1 năm 1997 lên 0,5 năm

2010, phản ánh khả năng quản lý kinh tế tốt hơn theo WB (2010). Điều này hỗ trợ

NHNN lựa chọn chuyển đổi sang thả nổi có quản lý. dự trữ ngoại hối vẫn tiếp tục

được tăng cường (từ 2 tỷ USD năm 1997 lên 12 tỷ USD năm 2010) để can thiệp tỷ

giá và ổn định kinh tế.

3.3.2 Giai đoạn 2010 – 2023

3.3.3.1 Chế độ tỷ giá theo pháp định

Trong khoản 2 Điều 15 của nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014

của Chính phủ quy định: “CĐTG của đồng Việt Nam là CĐTG thả nổi có điều tiết

do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có

quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ

mô trong từng thời kỳ”. Như vậy, bắt đầu từ nửa cuối năm 2014, Việt Nam đã công bố

việc áp dụng CĐTG này và lựa chọn cơ sở xác định là dựa vào một rổ tiền tệ.

Từ ngày 4/1/2016, NHNN áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm, công bố hàng ngày

dựa trên rổ tiền tệ và điều chỉnh theo cung cầu thị trường. Biên độ dao động được mở

81

rộng từ ±1% lên ±3% (2016) và ±5% (2022) nhằm tăng tính linh hoạt của tỷ giá.

3.3.2.2 Chế độ tỷ giá theo thực tế

Giai đoạn từ năm 2010 – 2019, Việt Nam áp dụng CĐTG ổn định theo thực

tế phân loại bởi IMF. Từ tháng 3 năm 2020 Việt Nam áp dụng CĐTG tương đương

cố định trượt.

Trong hai năm đầu của giai đoạn từ 2010 - 2011, tỷ giá có xu hướng tăng

mạnh trên cả hai thị trường. Tỷ giá tự do đã có thời điểm tăng tới hai mốc đỉnh cao

đó là mức 21.500 vào tháng 10/2010 và tiếp tục là 22.000 vào tháng 2/2011. NHNN

giữ tỷ giá chính thức ổn định xoay quanh mức 18.932 nhưng cho tới 11/2/2011, tỷ

giá bình quân liên ngân hàng đã tăng từ 18.932 lên 20.693. Nguyên nhân từ chính

những bất ổn trong nước như thâm hụt cán cân, lạm phát cao vượt xa mức dự báo

cùng với lượng dự trữ thấp. Chính những bất ổn này đã tạo sức ép làm đồng USD

lên giá và VND mất giá. Trước tình hình đó, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải

pháp cả về điều chỉnh tỷ giá, lãi suất và biện pháp kết hối nhằm củng cố niềm tin

vào VND.

Từ 2012 - 2014, tỷ giá được duy trì khá ổn định bởi NHNN đã đưa ra cam kết

kiểm soát dao động của tỷ giá không quá 2-3% nhằm ổn định tâm lý của người tham

gia thị trường. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục quản lý TTNH chặt chẽ, theo tín hiệu thị

trường cùng với đó bổ sung lượng ngoại hối dự trữ. Chính vì vậy, tỷ giá chính thức từ

đầu năm 2012 tới năm 2014 được duy trì quanh mức 21.000. Hơn thế nữa, diễn biến tỷ

giá trên cả hai thị trường bám sát nhau trong giai đoạn này.

Năm 2015, thị trường ngoại hối Việt Nam gặp nhiều thách thức trước tác

động từ thế giới. Đồng USD liên tục lên giá trong năm và Trung Quốc phá giá đồng

nhân dân tệ vào tháng 8/2015. Đứng trước bối cảnh đó, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá

bình quân liên ngân hàng liên tục 4 lần từ mức 21.246 ngày 7/1/2015 lên tới 22.547

ngày 19/8/2015 đồng thời 02 lần thực hiện tăng biên độ tỷ giá từ 1% lên 2% (ngày

12/8/2015) và ngay sau đó từ 2% lên 3% (19/8/2015). Như vậy, chỉ trong một

khoảng thời gian rất ngắn NHNN đã phải liên tục điều chỉnh tỷ giá cũng như nới lỏng

biên độ để bám sát thị trường. Tất cả những lần điều chỉnh tỷ giá đột biến này được

NHNN đánh giá là hoàn toàn cần thiết trước những biến động lớn như giá dầu giảm

82

mạnh hay Fed tăng lãi suất, Trung Quốc phá giá nhân dân tệ hay khủng hoảng ở Hy

Lạp, NHNN (2015). Những biến động này gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu nên

NHNN đã nới lỏng tỷ giá để có thể bám sát thị trường đồng thời kích thích xuất khẩu.

Sau một loạt những điều chỉnh này thì tới cuối năm, thị trường đã dần ổn định.

25,000 20,000 15,000 10,000 5,000 0

0 1 0 2 / 1 / 4

1 1 0 2 / 1 / 1

1 1 0 2 / 1 / 4

1 1 0 2 / 1 / 7

2 1 0 2 / 1 / 1

2 1 0 2 / 1 / 7

3 1 0 2 / 1 / 1

3 1 0 2 / 1 / 4

4 1 0 2 / 1 / 4

4 1 0 2 / 1 / 7

0 1 0 2 / 1 / 1

0 1 0 2 / 1 / 7

2 1 0 2 / 1 / 4

3 1 0 2 / 1 / 7

4 1 0 2 / 1 / 1

0 1 0 2 / 1 / 0 1

2 1 0 2 / 1 / 0 1

3 1 0 2 / 1 / 0 1

4 1 0 2 / 1 / 0 1

1 1 0 2 / 1 / 0 1

Tỷ giá BQLNH

Tỷ giá TTTD

Biểu đồ 3.5: Diễn biến TGBQLNH và tỷ giá tự do giai đoạn 2010 -2014

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ NHNN và IMF

Trong giai đoạn 2010–2015, NHNN đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp

nhằm ổn định và điều tiết thị trường ngoại hối. Giai đoạn 2010–2012, NHNN điều

chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng ba lần và thu hẹp biên độ giao dịch từ

3% xuống 1% vào tháng 2/2012. NHNN cũng linh hoạt can thiệp thị trường nhằm

giảm áp lực lên tỷ giá, tiêu biểu là việc mua vào 4 tỷ USD đầu năm 2012 và bán ra

USD vào các tháng 8 và 10 cùng năm. Bên cạnh đó, NHNN mở rộng đối tượng bắt

buộc thực hiện kết hối ngoại tệ và cam kết duy trì tỷ giá trong biên độ dao động 2–3%.

Giai đoạn 2012–2014 ghi nhận sự ổn định tương đối của tỷ giá, kéo theo việc

can thiệp và điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng được hạn chế. Trong suốt ba

năm này, NHNN chỉ điều chỉnh tăng tỷ giá hai lần với mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu.

Ngược lại, năm 2015 chứng kiến nhiều biến động trên thị trường, buộc NHNN

phải liên tục áp dụng các biện pháp điều hành tỷ giá. Cụ thể, NHNN đã điều chỉnh tỷ

giá BQLNH bốn lần và mở rộng biên độ hai lần chỉ trong vòng một tháng. Đồng thời,

để giảm thiểu hoạt động đầu cơ khi USD tăng mạnh, NHNN hạ lãi suất tiền gửi bằng

USD. Nhờ cách điều hành chủ động và linh hoạt, tỷ giá và thị trường ngoại hối vẫn duy

trì được sự ổn định trong bối cảnh nhiều biến động.

83

Theo Phạm Thế Anh (2014), việc lựa chọn CĐTG trong giai đoạn này được

đánh giá là phù hợp, khi NHNN không công bố trước tỷ giá trung tâm và tỷ giá giao

dịch hàng ngày chủ yếu được hình thành theo cung cầu thị trường. Tuy nhiên,

NHNN vẫn duy trì quyền can thiệp khi cần thiết thông qua các biện pháp điều tiết

hoặc kiểm soát ngoại hối. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết đã giúp Việt Nam ứng

phó hiệu quả với các cú sốc từ thị trường hàng hóa quốc tế.

Mặc dù Việt Nam công bố áp dụng CĐTG thả nổi có điều tiết nhưng trên

thực tế, NHNN vẫn duy trì chính sách neo tỷ giá vào đồng USD, đồng thời linh hoạt

trong điều chỉnh tỷ giá và cam kết duy trì trong biên độ mục tiêu. Cách tiếp cận này

đã góp phần ổn định thị trường ngoại hối, thu hẹp chênh lệch tỷ giá giữa thị trường

chính thức và phi chính thức. Việc duy trì biên độ dao động ở mức 1–2% không chỉ

giúp ổn định kỳ vọng thị trường mà còn phù hợp với mục tiêu điều hành trong bối

cảnh nền kinh tế đang dần phục hồi. Trong giai đoạn 2010–2015, chính sách tỷ giá

của NHNN đã mang lại nhiều kết quả tích cực như cải thiện cán cân thương mại,

kiềm chế hoạt động đầu cơ và giải quyết tình trạng thiếu hụt nguồn cung ngoại tệ.

Đặc biệt, lạm phát đã được đã được kiểm soát hiệu quả, giảm dần qua các năm và

đạt mức 0,63% vào năm 2015. Mặc dù vậy, trên thực tế, CĐTG mà Việt Nam áp

dụng vẫn mang tính chất neo vào đồng USD khá cứng nhắc, chưa thực sự phản ánh

đầy đủ cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Điều này buộc Chính phủ phải thường

xuyên can thiệp để giảm thiểu tác động từ các cú sốc bên ngoài, qua đó tạo áp lực

đáng kể lên dự trữ ngoại hối quốc gia. Cuối năm 2011, NHNN đã phải liên tục mua

vào ngoại tệ để cải thiện tình trạng thiếu hụt dự trữ ngoại hối. Theo Mai Thu Hiền

(2013), khi sử dụng chỉ số áp lực ngoại hối (EMPI) để đo lường đã cho thấy chỉ số này

có xu hướng ngày càng tăng lên trong giai đoạn 2012 - 2015. Chỉ số này được đo lường

bằng tốc độ thay đổi của dự trữ ngoại hối và tốc độ thay đổi của tỷ giá. Chính vì vậy,

khi áp lực ngoại hối càng lớn trong CĐTG mà tỷ giá không đổi thì dự trữ ngoại hối có

nguy cơ giảm mạnh (IMF, 2009a).

Thứ hai, tỷ giá chính thức vẫn dựa vào tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đặc

biệt điểm tồn tại này được bộc lộ rõ nét trong năm 2015 khi nền kinh tế bị ảnh

hưởng mạnh bởi những biến động từ bên ngoài. NHNN đã liên tục phải điều chỉnh

tỷ giá và biên độ tỷ giá nhằm bám sát biến động trên thị trường và ổn định thị

84

trường. Cơ chế điều hành cũng quy định biên độ dao động và tỷ giá của các NHTM

nên bị phụ thuộc vào khung tỷ giá trần – tỷ giá sàn cho phép.

Cuối cùng, việc duy trì neo tỷ giá hoặc phá giá đồng VND trong giai đoạn

này chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Nguyên nhân chủ

yếu là do phần lớn nguyên liệu đầu vào của các mặt hàng xuất khẩu tại Việt Nam có

nguồn gốc từ nhập khẩu. Do đó, việc điều chỉnh tỷ giá chỉ mang lại lợi ích hạn chế,

trong khi chi phí sản xuất có thể tăng theo, làm giảm sức cạnh tranh thực tế của

hàng hóa xuất khẩu. Điều này cho thấy, tăng trưởng xuất khẩu không thể phụ thuộc

hoàn toàn vào các biện pháp tỷ giá mà cần đi kèm với cải thiện năng lực sản xuất

trong nước và đa dạng hóa chuỗi cung ứng.

Dựa trên số liệu từ IFS, trong giai đoạn 2016–2019, tỷ giá chính thức bình

quân theo quý tại Việt Nam có xu hướng tăng đều, từ mức 21.889 VND/USD năm

2016 lên 23.153 vào năm 2019, tương đương mức tăng trung bình hơn 1% mỗi

năm. Theo Nguyễn Đắc Hưng (2021), tỷ giá giao dịch giữa các ngân hàng thương

mại và khách hàng trong cùng giai đoạn cũng chỉ ghi nhận mức tăng nhẹ, dao động

trong khoảng 1,2–1,5% mỗi năm. Đáng chú ý, trong hai năm đầu, chỉ có quý I năm

2017 ghi nhận biến động lớn với mức tăng 1,3% so với quý IV năm 2016 (từ 22.073

lên 22.730 VND/USD), song tỷ giá đã nhanh chóng điều chỉnh giảm về 22.216

trong quý II năm 2017. Năm 2018, tỷ giá trung tâm tăng khoảng 1,6%, trong khi tỷ

giá thị trường tăng khoảng 2,7%. Những biến động này phần lớn bắt nguồn từ yếu

tố bên ngoài, bao gồm việc Fed nâng lãi suất USD bốn lần, khiến đồng USD mạnh

lên đáng kể. Đồng thời, căng thẳng thương mại Mỹ–Trung gia tăng rủi ro chính

sách, gây sức ép lên các đồng tiền châu Á, trong đó đồng VND mất giá khoảng

2,7% trong năm.

Dù đối mặt với nhiều biến động từ bên ngoài, năm 2018 vẫn được đánh giá

là thành công trong điều hành tỷ giá của NHNN. Sang năm 2019, tỷ giá trung tâm

tiếp tục được điều chỉnh tăng lên mức 23.169 VND/USD vào cuối tháng 12 – mức

tăng kỷ lục tính đến thời điểm đó, phản ánh sự chủ động hơn của NHNN trong bối

cảnh thị trường toàn cầu diễn biến phức tạp.

Trong giai đoạn 2016–2019, NHNN đã chủ động điều hành tỷ giá trung tâm

một cách linh hoạt, phù hợp với biến động của các đồng tiền chủ chốt trên thị

85

trường quốc tế. Mục tiêu điều hành tập trung vào việc hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát

nhập siêu và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong nửa đầu năm 2019,

chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do vẫn ở mức khá

cao, chủ yếu do tác động từ căng thẳng thương mại Mỹ–Trung, sự mất giá của đồng

nhân dân tệ (CNY) và xu hướng tăng giá của đồng USD. Trước những biến động

đó, NHNN đã kịp thời can thiệp thị trường để ổn định tỷ giá. Cụ thể, vào cuối năm

2016 và nửa cuối năm 2018 – thời điểm tỷ giá tăng mạnh và cầu ngoại tệ gia tăng –

NHNN đã bán ngoại tệ, bao gồm cả hình thức bán kỳ hạn, để cân bằng cung–cầu và

ổn định thị trường. Ngược lại, khi điều kiện thị trường thuận lợi, NHNN đã chủ

động mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng nhằm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Đặc

biệt trong năm 2019, NHNN đã tích cực bổ sung lượng ngoại tệ lớn, nâng quy mô

dự trữ ngoại hối lên khoảng 79 tỷ USD (Đào Vũ, 2019).

23,500

23,000

22,500

22,000

21,500

21,000

Tỷ giá bình quân

Biểu đồ 3.6: Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2016 – 2019

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ IMF

Nhìn chung, trong cơ chế điều hành mới, tỷ giá được công bố hàng ngày

nhưng vẫn đảm bảo quản lý theo thả nổi có điều tiết. Bên cạnh đó, thay vì neo vào

một đồng USD như trước đây thì với cơ chế mới 8 tiền tệ được sử dụng để tính toán

tỷ giá trung tâm. Với cách thức này sẽ cho phép tỷ giá thay đổi kịp thời với những

biến động trên thị trường, Bùi Thanh Sơn (2020).

Một ưu điểm nữa là NHNN đã sử dụng những công cụ mang tính thị trường

hơn là các công cụ mang tính áp đặt hành chính theo Nguyễn Đắc Hưng (2021).

NHNN đã sử dụng linh hoạt cơ chế mới giúp thanh khoản thị trường được đảm bảo,

86

các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, dự trữ ngoại hối được tăng cường. Bên

cạnh đó, trong giai đoạn này sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nước cũng góp phần ổn

định giá trị VND. Trong khi VND chỉ mất giá 2% trong năm 2018 thì các tiền tệ

khác như CNY mất giá 5,9%, MYR mất giá 3,3%.

Bên cạnh các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước, giai đoạn 2017–2019 còn chịu

tác động đáng kể từ bối cảnh quốc tế, đặc biệt là cuộc chiến thương mại Mỹ–

Trung.Trong bối cảnh đó, việc chuyển sang cơ chế điều hành tỷ giá mới với công

bố tỷ giá trung tâm hàng ngày kết hợp điều chỉnh biên độ dao động một cách linh

hoạt đã góp phần nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá. Những thay đổi

này không chỉ giúp thị trường ngoại hối hoạt động ổn định hơn mà còn tạo điều kiện

để dự trữ ngoại hối tăng nhanh và hạn chế tình trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ trên

thị trường.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai từ năm 2016 đến 2019, cơ chế mới vẫn

bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, tỷ giá trung tâm chưa phản ánh kịp thời diễn biến thị

trường do độ trễ nhất định trong điều hành của NHNN. Trong khi tỷ giá tự do điều

chỉnh linh hoạt theo cung cầu thị trường thì việc cập nhật tỷ giá trung tâm của

NHNN có độ chậm nhất định, làm nảy sinh nguy cơ đầu cơ ngoại tệ trở lại (Nguyễn

Thị Lan, 2017)

Bước sang giai đoạn 2020–2022, tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước

duy trì ổn định trong phần lớn thời gian, dao động quanh mức 23.200 từ đầu năm

2020 đến tháng 9/2022, trước khi bắt đầu tăng dần vào quý IV năm 2022, đạt mức

khoảng 23.700. Tỷ giá chính thức trong giai đoạn này nhìn chung bám sát sát với

biến động trên thị trường tự do, phản ánh sự linh hoạt hơn trong điều hành.

Theo diễn biến thể hiện qua biểu đồ, trong hai năm đầu của giai đoạn, tỷ giá

trong nước có xu hướng tăng cùng chiều với đà tăng mạnh của đồng USD trên thị

trường quốc tế. Cuối năm 2020, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại dao

động từ 23.035–23.215 trong khi tỷ giá trên thị trường tự do ở mức 23.280–23.350

cho thấy mức chênh lệch giữa hai thị trường là không đáng kể. Tuy nhiên, khoảng

cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do bắt đầu nới rộng dần từ cuối năm 2020,

87

và đến cuối năm 2021, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.145.

Năm 2022 tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với NHNN Việt Nam. Sau

khi đại dịch Covid-19 từng bước được kiểm soát, cuộc xung đột Nga–Ukraine bùng

nổ đã làm gia tăng áp lực lên nền kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng năng lượng

kéo theo sự gia tăng mạnh của giá hàng hóa thế giới, trong khi Fed buộc phải tăng

lãi suất mục tiêu liên tục 7 lần, đưa mức lãi suất lên khoảng 4,25–4,5%. Đây là chu

kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh nhất của Mỹ kể từ năm 1981 và đã dẫn đến sự

mất giá đáng kể của nhiều đồng tiền lớn: đồng Yên Nhật giảm 13,89%, Euro giảm

6,7%, và Bảng Anh giảm 12,39% (BIS, 2022). Trong bối cảnh đó, đồng VND cũng

chịu áp lực mất giá, có thời điểm giảm tới 9% so với USD. Tuy nhiên, mức mất giá

này chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Tính chung cả năm, VND chỉ giảm khoảng 3% so

với cuối năm 2021, cho thấy sự ổn định tương đối. Tỷ giá trung tâm cuối năm 2022

được NHNN giữ ở mức 23.612 phản ánh nỗ lực điều hành linh hoạt và kịp thời

trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động.

23,800

23,600

23,400

23,200

23,000

22,800

22,600

Biểu đồ 3.7: Diễn biến tỷ giá trung tâm năm 2020 - 2022

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ NHNN

Với diễn biến tỷ giá như vậy, NHNN vẫn tiếp tục điều hành thông qua cơ chế

tỷ giá trung tâm và can thiệp trực tiếp trên thị trường trong giai đoạn 2020 - 2023.

Bên cạnh đó, NHNN đã chú trọng cách thức giao dịch theo hợp đồng phái sinh hơn.

Các NHTM được chủ động hơn trong việc thực hiện giao dịch với đối tác trên thị

trường và được hủy ngang giữa chừng để mua ngoại tệ khi có giá tốt hơn. Tuy

88

nhiên, NHNN vẫn sẽ đảm nhiệm vai trò của người cung cấp ngoại tệ nhằm đảm bảo

cung cấp đủ ngoại tệ cho các NHTM.

Đặc biệt, vai trò điều hành can thiệp của NHNN càng được thể hiện rõ khi

bước vào năm 2022. Khi tỷ giá chịu sức ép tăng mạnh, NHNN đã bán ra ngoại tệ

góp phần giúp thị trường hạ nhiệt. Bên cạnh đó, ngày 17/10/2022, Thống đốc

NHNN đã ban hành QĐ số 1747/QĐ-NHNN nhằm điều chỉnh biên độ từ +/- 3% lên

+/- 5%. Và cuối cùng qua nhiều sự điều chỉnh, thị trường Việt Nam tới cuối năm

2022 đã dần ổn định. Sang năm 2023, tỷ giá có tăng nhẹ lên mức 23.836 trung bình

cả năm nhưng tỷ giá vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát của NHNN Việt Nam.

Như vậy, tiếp nối những tín hiệu khởi sắc mà cơ chế tỷ giá mới đã đạt được

trong giai đoạn trước, những ưu điểm như giúp tỷ giá phản ánh sát với thị trường,

giúp hấp thu cú sốc bên ngoài vẫn tiếp tục được duy trì. Bên cạnh đó, tỷ giá biến

động phù hợp với định hướng chính sách tiền tệ nhằm đảm bảo thị trường ổn định.

Hơn nữa, đánh giá thông qua cả giai đoạn từ năm 2016 – 2023 thì hoạt động đầu cơ

– một trong những vấn đề tồn tại đã từ nhiều năm của NHNN đã được hạn chế.

Một ưu điểm nổi trội nữa là NHNN đã mua - bán ngoại tệ với tỷ giá và

phương thức linh hoạt hơn trước, áp dụng cả giao ngay và kỳ hạn nhằm bổ sung

lượng dự trữ. Dự trữ trong giai đoạn này đã đạt được mức cao kỷ lục (hơn 80 tỷ

USD năm 2022) theo số liệu từ NHNN (2022).

Tuy nhiên, mặc dù chuyển đổi sang cách thức điều hành tỷ giá mới thì Việt

Nam vẫn áp dụng vẫn CĐTG neo tỷ giá vào đồng USD. Theo đánh giá của IMF

(2022) thì sau 26/3/2020, Việt Nam áp dụng CĐTG tương tự cố định trượt. Và nhất

là khi thị trường trong giai đoạn này lại tiếp tục xuất hiện những bất ổn mới xuất

phát từ việc tăng lãi suất của nhiều NHTW lớn trên thế giới thì lại càng bộc lộ rõ

một số hạn chế. Việt Nam chịu nhiều áp lực hơn khi mà Chính phủ vẫn đang theo

đuổi chính sách đa mục tiêu.

Tính độc lập của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ

giá chưa cao dẫn tới hiệu quả chính sách còn kém và có độ trễ, thể hiện ở sự chênh

lệch giữa tỷ giá trung tâm và tự do. Chính vì vậy, tỷ giá trung tâm luôn phải được

89

cập nhật để có thể bám sát được thay đổi không ngừng. Việc điều hành chính sách

của NHNN còn phụ thuộc vào chính sách và quan điểm của Chính phủ.

Như vậy, sự thay đổi cơ chế từ năm 2016 là phù hợp và cần thiết giúp Việt

Nam ứng phó với những biến động.

3.3.2.3 Tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá của Việt Nam

a. Quy mô nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế tăng từ 135,5 tỷ USD năm 2011 lên 429,7 tỷ USD năm

2023, Như vậy, khi quy mô tăng lên việc áp dụng CĐTG linh hoạt hơn là cần thiết

tuy nhiên giai đoạn này NHNN vẫn ưu tiên ổn định để tránh rủi ro tài chính bằng cơ

chế tỷ giá mới và cho phép can thiệp linh hoạt theo WB (2022).

b. Lạm phát

Dưới ảnh hưởng từ khủng hoảng, lạm phát đã được giảm đáng kể từ mức

18,7% năm 2011 xuống dưới 4% trong giai đoạn 2015-2023. Như vậy, cơ chế tỷ giá

trung tâm cùng với sự can thiệp linh hoạt của NHNN giúp giải quyết vấn đề lạm

phát theo báo cáo của NHNN (2022)

c. Độ mở cửa thương mại.

Độ mở cửa thương mại của Việt Nam vẫn được duy trì ở mức cao, dao động

quanh 180-200% GDP và giảm xuống còn 166% vào năm 2023 theo ADB (2023).

Cơ chế tỷ giá mới giúp đồng VND theo định hướng thị trường hơn để duy trì lợi thế

cạnh tranh tuy nhiên NHNN vẫn tiếp tục can thiệp khi cần để ổn định cán cân

thương mại.

d. Độ mở cửa tài khoản vốn

Giai đoạn 2011 – 2023, trên thực tế NHNN vẫn kiểm soát vốn chặt chẽ để

tránh rủi ro tài chính, hạn chế các dòng vốn nóng như trong năm 2015 khi đồng

CNY mất giá và 2023 khi đồng USD tăng giá. Thực trạng này góp phần thúc đẩy

Việt Nam tiếp tục áp dụng CĐTG với can thiệp linh hoạt.

e. Sự ổn định chính trị

Ổn định chính trị tiếp tục ở mức cao, với chỉ số ổn định chính trị dao động

quanh 0,8-1,0. Điều này tạo điều kiện cho NHNN đạt được chính sách linh hoạt

90

nhưng có kiểm soát để duy trì ổn định kinh tế theo WB (2022).

f. Mức độ kiểm soát tham nhũng

Kiểm soát tham nhũng của Việt Nam được cải thiện. Chỉ số CPI tăng từ 31

năm 2011 lên 42 năm 2022 và giảm nhẹ ở mức 40 năm 2023. Tuy nhiên, mức độ

kiểm soát tham nhũng tại Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại và ở mức trung bình so

với thế giới. Khi vấn đề tham nhũng được cải thiện tại Việt Nam đã góp phần tăng

cường niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường, hỗ trợ NHNN duy trì can thiệp tỷ giá

để ổn định kinh tế.

g. Mức độ dân chủ

Mức độ dân chủ ở Việt Nam tiếp tục ở mức thấp và góp phần thúc đẩy cho

những các chính sách tỷ giá linh hoạt từ phía NHNN hoạt động hiệu quả mà không

chịu áp lực từ dư luận do hệ thống chính trị tập trung.

h. Toàn cầu hóa

Chỉ số KOF của Việt Nam có xu hướng tăng dần trong giai đoạn từ 2010 –

2023. Động lực của sự phát triển này xuất phát từ Việt Nam đã ký thêm nhiều hiệp

định thương mại như EVFTA, CPTPP. Để phát huy được nhân tố này đòi hỏi Việt

Nam tiếp tục áp dụng các CĐTG linh hoạt hơn và song song với đó là sự can thiệp

khi cần thiết của NHNN để bảo vệ kinh tế nội địa trước các cú sốc toàn cầu.

i. Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Mức độ hiệu quả của Chính phủ tiếp tục tăng từ -0,25 năm 2010 lên 0,24

năm 2021 và có sự giảm nhẹ từ 2022 – 2023, giảm còn 0,13 vào năm 2023 theo đo

lường của WB hàng năm. Như vậy trong giai đoạn 2010 – 2021, sự cải thiện trong

hiệu quả chính phủ tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển từ CĐTG cố định sang thả

nổi có quản lý, với biên độ dao động mở rộng và cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt.

Giai đoạn 2022 – 2023, sự suy giảm nhẹ trong hiệu quả chính phủ đặt ra thách thức

trong việc duy trì ổn định tỷ giá, đòi hỏi NHNN phải thận trọng hơn trong điều hành

chính sách tiền tệ và tỷ giá.

Đánh giá chung:

Giai đoạn 1997-2010: Việt Nam chuyển từ CĐTG cố định sang thả nổi có

quản lý với can thiệp chặt chẽ để ổn định kinh tế sau khủng hoảng châu Á và trong

91

bối cảnh kinh tế còn nhỏ, dễ tổn thương. Các nhân tố kinh tế và chính trị có tầm ảnh

hưởng lớn trong sự lựa chọn CĐTG cũng như ổn định tỷ giá.

Giai đoạn 2011-2023: Việt Nam duy trì CĐTG thả nổi có quản lý với cơ chế

tỷ giá trung tâm, tăng tính linh hoạt để hỗ trợ một nền kinh tế lớn hơn và hội nhập

sâu hơn, nhưng vẫn can thiệp linh hoạt để đối phó với các cú sốc toàn cầu như năm

2015 và năm 2022). Các nhân tố lại tiếp tục có tác động mạnh tới sự lựa chọn của

Việt Nam để phù hợp với bối cảnh mới.

Sự khác biệt chính giữa hai giai đoạn nằm ở mức độ linh hoạt: giai đoạn

1997-2010 tập trung vào ổn định với can thiệp chặt, trong khi giai đoạn 2011-2023

áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm để tăng tính linh hoạt, nhưng vẫn giữ kiểm soát khi

cần thiết.

3.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ Trung Quốc và Thái Lan

3.4.1 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc cho Việt Nam

Trung Quốc đã duy trì CĐTG thả nổi có quản lý với mức điều chỉnh linh

hoạt nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Bài

học này cho thấy, việc duy trì tỷ giá ổn định, tránh các biến động quá lớn là cần

thiết để bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài. Việt

Nam có thể học hỏi kinh nghiệm này để duy trì chính sách tỷ giá phù hợp với mục

tiêu tăng trưởng và ổn định kinh tế.

Ngoài ra, kể từ năm 2005, Trung Quốc đã từng bước chuyển sang CĐTG

linh hoạt hơn thông qua việc mở rộng biên độ dao động, điều chỉnh cơ chế xác định

tỷ giá tham chiếu và tham chiếu vào một rổ tiền tệ. Quá trình này diễn ra có lộ trình

và đi kèm với việc sử dụng các công cụ can thiệp cũng như quản lý dòng vốn. Việt

Nam hiện đang áp dụng CĐTG thả nổi có quản lý và cần tiếp tục tăng tính linh hoạt

theo lộ trình rõ ràng. Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường ngoại hối – bao gồm sự

tham gia của các tổ chức phi ngân hàng và mở rộng các công cụ phái sinh – là điều

kiện cần thiết để hỗ trợ hiệu quả cho một CĐTG linh hoạt hơn trong tương lai.

3.4.2 Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan cho Việt Nam

Sau khủng hoảng 1997, Thái Lan chuyển từ CĐTG cố định sang CĐTG thả

nổi có quản lý (managed floating) từ ngày 2/7/1997. Điều này giúp đồng baht

(THB) phản ánh tốt hơn cung cầu thị trường, giảm áp lực từ các cú sốc bên ngoài.

92

Từ năm 2000, Thái Lan tiếp tục duy trì CĐTG thả nổi có quản lý với tính linh hoạt

cao hơn, kết hợp mục tiêu lạm phát (inflation targeting) để ổn định giá cả và tỷ giá.

Trong các giai đoạn biến động lớn (2008-2009, 2020-2023), BOT can thiệp mạnh

mẽ để ổn định tỷ giá, nhưng trong các giai đoạn ổn định (2000-2007, 2010-2015),

mức độ can thiệp giảm, cho phép tỷ giá dao động trong khoảng 30-38 THB/USD.

Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đã giúp Thái Lan duy trì ổn định tỷ giá (ví

dụ, USD/THB ổn định quanh mức 33.000 từ 2000-2018) và hạn chế biến động quá

mức, ngay cả trong bối cảnh kinh tế biến động.

Việt Nam hiện áp dụng CĐTG thả nổi có quản lý với tỷ giá trung tâm điều

chỉnh hàng ngày, nhưng biên độ dao động còn tương đối hẹp (±5% kể từ 2023). Để

tăng khả năng thích ứng với các cú sốc kinh tế toàn cầu (như biến động lãi suất của

Fed, chiến tranh thương mại, hay suy thoái kinh tế), Việt Nam nên:

+ Tiếp tục mở rộng biên độ dao động tỷ giá để tăng tính linh hoạt, cho phép

tỷ giá phản ánh sát hơn cung cầu thị trường.

+ Học hỏi Thái Lan trong việc áp dụng mục tiêu lạm phát làm mỏ neo danh

nghĩa, sử dụng lãi suất chính sách làm công cụ điều hành chính thay vì phụ thuộc

quá nhiều vào can thiệp tỷ giá.

+ Cần xây dựng cơ chế can thiệp linh hoạt: can thiệp mạnh trong các giai

đoạn biến động lớn (như khủng hoảng hoặc dòng vốn tháo chạy), nhưng giảm can

thiệp trong các giai đoạn ổn định để tránh méo mó thị trường.

93

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, luận án tập trung phân tích thực trạng lựa chọn CĐTG của

một số quốc gia đang phát triển tại khu vực châu Á đó là Trung Quốc, Thái Lan và

Việt Nam trong giai đoạn sau khủng hoảng 1997 tới 2023 theo hai khía cạnh: i) theo

pháp định, ii) theo thực tế. Trong đó, diễn biến và sự điều hành CĐTG và các nhân

tố kinh tế, chính trị, thể chế của các quốc gia được đưa ra phân tích nhằm đánh giá

tác động tới lựa chọn CĐTG của các quốc gia theo từng giai đoạn và đưa ra bài học

kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong lựa chọn CĐTG và điều hành tỷ giá.

94

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI

LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ TẠI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN

4.1 Thống kê mô tả và các kiểm định

4.1.1 Biến phụ thuộc

+ Biến CĐTGPĐ phản ánh chế độ tỷ giá theo pháp định của các quốc gia,

với giá trị phân loại từ 0 đến 2 dựa theo mức độ linh hoạt của tỷ giá, cụ thể: 0 – chế

độ tỷ giá cố định, 1 – chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, và 2 – chế độ tỷ giá thả nổi

hoàn toàn. Đây là chế độ tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương của mỗi quốc

gia công bố. Trong giai đoạn 2010–2023, xu hướng toàn cầu cho thấy sự gia tăng rõ

rệt trong việc áp dụng các chế độ tỷ giá linh hoạt. Tỷ lệ quốc gia sử dụng chế độ tỷ

giá thả nổi hoàn toàn chiếm phần lớn, dao động từ 50–60% và có xu hướng tăng

dần: từ 50% trong giai đoạn 2010–2016, lên 55% trong giai đoạn 2017–2022 và đạt

60% vào năm 2023. Trong khi đó, tỷ lệ các quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi

có điều tiết giảm nhẹ, từ 40% (2011–2016) xuống còn 30% vào năm 2023. Chế độ

tỷ giá cố định là ít phổ biến nhất, giảm từ 15% năm 2010 xuống còn 10% trong giai

đoạn 2011–2023. Sự thay đổi này phản ánh xu hướng ưu tiên các cơ chế tỷ giá linh

hoạt hơn nhằm thích ứng tốt hơn với môi trường kinh tế toàn cầu nhiều biến động,

đặc biệt là sau các cú sốc lớn như khủng hoảng tài chính 2008–2009 hay đại dịch

COVID-19. Cụ thể, số quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn đã tăng từ

10 nước (50%) năm 2010 lên 12 nước (60%) vào năm 2023; trong khi số quốc gia

duy trì chế độ tỷ giá cố định giảm từ 3 (15%) xuống 2 (10%); và số quốc gia áp

dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết giảm từ 8 (40%) xuống còn 6 (30%).

+ Biến CĐTGTT phản ánh chế độ tỷ giá theo thực tế của các quốc gia, được

phân loại theo thang điểm từ 0 đến 2 dựa trên Bảng 2.4. Việc phân loại này dựa vào

đánh giá thực tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố hàng năm, chia thành 10

chế độ tỷ giá cụ thể, nhưng được gộp thành ba nhóm chính theo mức độ linh hoạt

tăng dần: chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá trung gian và chế độ tỷ giá thả nổi. Dữ

liệu từ các quốc gia trong mẫu nghiên cứu cho thấy chế độ tỷ giá trung gian là lựa

chọn phổ biến nhất trong phần lớn thời kỳ, dao động từ 30% đến 45%, đạt đỉnh vào

giai đoạn 2012–2013 (45%) và giảm nhẹ còn 35% vào năm 2023. Trong khi đó, chế

độ tỷ giá thả nổi ghi nhận xu hướng gia tăng đáng kể, từ 30% trong giai đoạn 2010–

95

2015 lên tới 45% vào năm 2023, cho thấy ngày càng nhiều quốc gia lựa chọn

CĐTG linh hoạt hơn trong thực tiễn điều hành. Ngược lại, chế độ tỷ giá cố định

ngày càng ít được áp dụng, giảm từ 35% năm 2010 xuống còn 20% vào năm 2023

phản ánh xu hướng từ bỏ các cơ chế neo tỷ giá cứng trong bối cảnh thị trường tài

chính quốc tế biến động mạnh. Xu hướng chung trong lựa chọn chế độ tỷ giá thực

tế vẫn là tăng tính linh hoạt tỷ giá, thể hiện ở số quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả

nổi tăng từ 30% (2010) lên 45% (2023), áp dụng chế độ tỷ giá cố định giảm từ

35% (2010) xuống 20% (2023) và áp dụng chế độ tỷ giá trung gian dao động

nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (35-45%), cho thấy nhiều quốc gia thực tế vẫn can

thiệp đáng kể vào thị trường ngoại hối.

Bảng 4.1: Chế độ tỷ giá theo pháp định của 20 quốc gia đang phát triển tại khu

vực châu Á trong giai đoạn 2010 – 2023

Quốc gia

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023

Bangladesh

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Bhutan

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

China

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Indonesia

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

India

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Kazakhstan

0

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Kyrgyzstan

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Cambodia

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Laos

2

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Sri Lanka

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Myanmar

0

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Mongolia

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Malaysia

1

1

1

1

1

1

2

2

2

2

2

2

2

2

Nepal

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

Pakistan

1

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Philippines

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Thailand

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Tajikistan

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Uzbekistan

0

1

1

1

1

1

1

2

2

2

2

2

2

2

Vietnam

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo hàng năm của IMF (AEAER)

96

Bảng 4.2: Chế độ tỷ giá theo thực tế của 20 quốc gia đang phát triển tại khu

vực châu Á năm 2010 – 2023

Quốc gia

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023

Bangladesh

0

1

1

1

0

0

0

0

1

1

1

0

1

2

Bhutan

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

China

0

1

1

1

1

1

0

0

1

1

1

0

0

1

Indonesia

2

2

2

1

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

India

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Kazakhstan

1

1

1

1

0

0

2

2

2

2

2

2

2

2

Kyrgyzstan

1

1

1

1

1

1

1

1

0

0

1

1

0

1

Cambodia

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

0

0

1

Laos

0

0

0

0

1

1

1

1

1

1

1

1

1

2

Sri Lanka

0

2

2

2

0

0

1

1

1

1

0

2

1

1

Myanmar

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Mongolia

2

2

2

2

2

2

2

2

1

1

0

0

0

1

Malaysia

1

1

1

1

1

1

1

2

2

2

2

2

2

2

Nepal

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

Pakistan

2

0

2

2

1

1

1

0

0

1

1

2

2

1

Philippines

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Thailand

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

2

Tajikistan

1

0

0

0

1

1

0

0

0

0

0

0

0

0

Uzbekistan

0

1

1

1

1

1

1

0

0

1

1

1

1

1

Vietnam

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

1

1

0

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ báo cáo của IMF hàng năm

4.1.2 Biến tác động

4.1.2.1 Nhóm các nhân tố kinh tế

Nhóm các nhân tố kinh tế (biến độc lập) bao gồm: INF (tỷ lệ lạm phát),

TRADE (độ mở thương mại), lnGDP (logarit của tổng sản phẩm quốc nội, phản

ánh quy mô nền kinh tế), KAO (độ mở cửa vốn).

97

Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến nhóm kinh tế tác động sử dụng trong các

mô hình

Tên biến Min Max Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn

lnGDP 280 8,35 0,53 7,32 9,72

INF 280 6,24 5,14 -1,14 49,72

TRADE 280 77,11 35,90 33,45 169,3

KAO 260 0,25 0,19 0 1

Nguồn: Kết quả chạy từ phần mềm Stata

4.1.2.2 Nhóm các nhân tố chính trị, thể chế

Nhóm nhân tố chính trị, thể chế bao gồm: POL (mức độ ổn định chính trị),

CPI (mức độ nhận thức tham nhũng), DEMO (mức độ dân chủ), GLO (chỉ số toàn

cầu hóa), GOV (mức độ hiệu quả của Chính phủ).

Bảng 4.4: Thống kê mô tả các biến nhóm chính trị, thể chế tác động sử dụng

trong mô hình

Tên biến Min Max

POL CPI DEMO GLO GOV Số quan sát 280 280 280 260 280 Giá trị trung bình -0,42 32,9 0,34 58,5 -0,27 Độ lệch chuẩn 0,63 10,5 0,21 10,6 0,56 -2,15 14 0,02 35,6 -1,65 1,07 68 0,72 82,3 0,78

Nguồn: Kết quả chạy từ phần mềm Stata

4.1.3 Phân tích hệ số tương quan của các biến trong các mô hình

Căn cứ vào nghiên cứu của Kennedy (2008) đã chỉ ra rằng với mức tương

quan trên 0,8 có thể là dấu hiệu của vấn đề tương quan chéo. Hay theo Hair và cộng

sự (2010) cũng sử dụng ngưỡng 0,8 như một điểm tham chiếu để đánh giá tương

quan giữa các biến trong phân tích đa biến. Chính vì vậy, dựa trên kết quả của kiểm

định hệ số tương quan giữa các biến độc lập được thể hiện trong bảng 4.6 và 4.7

cho thấy không có hiện tượng tương quan chéo đáng kể.

98

Bảng 4.5: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến nhân tố kinh tế trong mô

hình chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế

CĐTGPĐ CĐTGTT lnGDP INF KAO TRADE

CĐTGPĐ 1

CĐTGTT 0,56 1

lnGDP 0,21 0,36 1

INF -0,01 -0,09 -0,20 1

KAO 0,06 0,02 -0,07 -0,19 1

TRADE -0,08 -0,03 0,14 -0,24 0,5 1

Nguồn: Kết quả từ chạy mô hình

Bảng 4.6: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến nhân tố chính trị, thể chế

trong mô hình chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế

CĐTGPĐ CĐTGTT POL CPI DEMO GLO GOV

CĐTGPĐ 1

CĐTGTT 0,56 1

POL -0,32 -0,18 1

CPI -0,14 0,03 0,61 1

DEMO 0,36 0,39 0,25 0,52 1

GLO 0,31 0,34 0,44 0,26 0,29 1

GOV 0,05 0,24 0,62 0,77 0,48 0,63 1

Nguồn: Kết quả từ chạy mô hình

4.1.4 Kiểm định đa cộng tuyến

Bảng 4.7: Hệ số VIF

Biến VIF 1/VIF

TRADE 1,43 0,69

KAO 1,41 0,70

INF 1,12 0,89

lnGDP 1,1 0,91

Giá tri trung bình 1,26

99

Bảng 4.8: Hệ số VIF

Biến VIF 1/VIF

GOV 5,03 0,19

CPI 4,19 0,23

GLO 2,32 0,43

POL 1,94 0,51

DEMO 1,49 0,67

Giá tri trung bình 3,00

Nguồn: Kết quả từ chạy mô hình

Hiện tượng đa cộng tuyến được kiểm định thông qua hệ số phóng đại

phương sai VIF, các hệ số nhỏ hơn 10. Điều này cho thấy mô hình có hiện tượng đa

cộng tuyến ở mức thấp, không ảnh hưởng đến kết quả ước lượng của mô hình.

4.2 Kết quả mô hình

4.2.1 Kết quả hồi quy mô hình các nhân tố nhóm kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá tỷ giá.

Mô hình probit thứ bậc được sử dụng với hai mục đích. Mục đích thứ nhất

đánh giá khả năng tác động của các nhân tố kinh tế bao gồm: quy mô nền kinh tế

(lnGDP), lạm phát (INF), độ mở cửa thương mại (TRADE), độ mở cửa tài

khoản vốn (KAO) tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế của

nhóm các quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á. Mục đích thứ hai đó là đánh

giá chiều hướng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố. chế độ tỷ giá theo pháp

định bao gồm: cố định, thả nổi có điều tiết và thả nổi hoàn toàn. Chế độ tỷ giá theo

thực tế bao gồm: cố định, trung gian và thả nổi. Cả hai cách phân loại này đều được

sắp xếp theo thứ tự linh hoạt tăng dần của tỷ giá. Trong kết quả của mô hình, sự ảnh

hưởng được đánh giá thông qua hệ số hồi quy và tác động biên. Theo đó, nếu hệ

số hồi quy có giá trị dương hay âm phản ánh nhân tố trong mô hình có tác động

thuận chiều hay ngược chiều với khả năng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn.

Điều này tức là nếu hệ số hồi quy dương nghĩa là nhân tố đó tăng thì sẽ tăng khả

năng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn ngược lại nếu hệ số hồi quy âm thì khi

100

nhân tố biến động tăng, quốc gia có khả năng giảm lựa chọn các chế độ tỷ giá linh

hoạt hơn và có xu hướng lựa chọn các chế độ tỷ giá cố định nhiều hơn. Hơn thế

nữa, chỉ số tác động biên (marginal effects) phản ánh khi một nhân tố biến động

thì sẽ làm tăng hay giảm lựa chọn các chế độ tỷ giá với mức độ là bao nhiêu.

4.2.1.1 Kết quả hồi quy mô hình các nhân tố nhóm kinh tế tác động tới lựa chọn chế

độ tỷ giá theo pháp định

Kết quả trong bảng 4.9 dưới đây thể hiện tác động của các nhân tố kinh tế tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định của các quốc gia đang phát triển ở khu vực

châu Á trong giai đoạn 2010–2023. Giai đoạn nghiên cứu được chia thành: 2010–

2015 và 2016–2023. Việc tách thành hai giai đoạn nhằm phản ánh sự thay đổi trong

bối cảnh kinh tế toàn cầu và khu vực. Giai đoạn 2010–2015 là giai đoạn phục hồi

sau khủng hoảng kinh tế vào năm 2008, các quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh từ sự

bất ổn kinh tế và các biện pháp kích thích kinh tế. Trong khi đó, giai đoạn 2016–

2023 chứng kiến sự ổn định tương đối, cùng với sự gia tăng hội nhập kinh tế khu

vực và toàn cầu tuy nhiên cũng có những biến động lớn đến từ phá giá tiền tệ của

Trung Quốc, đại dịch Covid -19. Chính vì vậy có thể tạo nên những ảnh hưởng khác

nhau trong hai giai đoạn.

Bảng 4.9: Kết quả nghiên cứu mô hình probit thứ bậc với nhân tố kinh tế tác

động tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 – 2023.

Biến độc lập

CĐTGPĐ 2016 – 2023 Hệ số hồi quy

Quy mô nền kinh tế (LnGDP)

CĐTGPĐ 2010 – 2023 Hệ số hồi quy 0,56*** 0,007

CĐTGPĐ 2010 – 2015 Hệ số hồi quy 0,4** -0,01

0,71*** 0,01

Lạm phát (INF)

1,28***

1,6***

0,97**

Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO)

Độ mở cửa thương mại (TRADE)

-0,007***

260

-0,008*** 120

-0,005** 160

Số quan sát

0,0468

0,0430

0,0525

R-squared

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

101

Nhìn tổng quan, kết quả nghiên cứu mô hình probit thứ bậc ở bảng 4.9 cho

thấy các nhân tố có ý nghĩa thống kê đều duy trì xu hướng tác động trong giai đoạn

2010 – 2023, 2010 – 2015 và 2016 – 2023. Cụ thể là, hầu hết các biến nhân tố kinh

tế (chỉ trừ nhân tố lạm phát) có ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định.

Tuy nhiên, mỗi nhân tố có chiều và mức độ tác động khác nhau thể hiện qua hệ số

hồi quy và tác động biên. Theo đó, nhân tố quy mô nền kinh tế, độ mở cửa tài khoản

vốn có tác động thuận chiều còn nhân tố độ mở cửa thương mại quốc tế lại có tác

động nghịch chiều với lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt.

Bảng 4.10: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định giai đoạn 2010 – 2023.

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố

CĐTG thả nổi

CĐTG thả nổi

định

có điều tiết

hoàn toàn

Quy mô nền kinh tế (LnGDP)

-0,1***

-0,11***

0,21***

-0,001

-0,001

0,002

Lạm phát (INF)

Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO)

-0,23***

-0,25***

0,48***

Độ mở cửa thương mại (TRADE)

0,001***

0,001***

-0,003***

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.11: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định giai đoạn 2010 – 2015.

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định CĐTG thả nổi có

CĐTG thả nổi

điều tiết

hoàn toàn

Quy mô nền kinh tế (LnGDP)

-0,07*

-0,07**

0,149**

0,003

0,003

-0,006

Lạm phát (INF)

Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO)

-0,315***

-0,284***

0,599***

Độ mở cửa thương mại (TRADE)

0,002***

0,002***

-0,003***

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

102

Bảng 4.12: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định giai đoạn 2016 -2023.

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định CĐTG thả nổi có

Quy mô nền kinh tế (LnGDP) Lạm phát (INF) Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO) Độ mở cửa thương mại (TRADE)

-0,116*** -0,002 -0,160* 0,001*

điều tiết -0,149*** -0,003 -0,205** 0,001*

CĐTG thả nổi hoàn toàn 0,265*** 0,006 0,365** -0,002*

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Thảo luận kết quả mô hình:

a. Nhân tố quy mô nền kinh tế:

Kết quả ước lượng từ mô hình cho thấy biến quy mô nền kinh tế có ý nghĩa

thống kê và tác động dương đến xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt theo pháp

định trong giai đoạn 2010–2013. Cụ thể, khi quy mô tăng thêm một đơn vị, khả

năng quốc gia lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn tăng khoảng 21%, giảm khả

năng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 10%. Điều này phản ánh xu hướng quốc gia có

quy mô lớn hơn thường ưu tiên chế độ tỷ giá linh hoạt nhằm đối phó hiệu quả hơn

với các cú sốc kinh tế. Theo lý thuyết của Mundell (1961), những quốc gia có thị

trường tài chính phát triển và khả năng hấp thụ cú sốc tốt hơn thường không cần thiết

phải duy trì chế độ tỷ giá cố định để đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô. Ngược lại, chế

độ tỷ giá linh hoạt tạo điều kiện cho việc theo đuổi chính sách tiền tệ độc lập.

Bên cạnh cơ sở lý thuyết, nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng ghi

nhận mối quan hệ tương đồng. Von Hagen và Zhou (2002), Reinhart và Rogoff

(2004), Edwards (2001), cùng với Klein và Shambaugh (2010) đều chỉ ra rằng các

quốc gia có quy mô lớn có xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Cụ thể,

Edwards (2001) lập luận rằng các nền kinh tế lớn có động cơ duy trì chính sách tiền

tệ độc lập nên thường chọn chế độ tỷ giá thả nổi. Trong khi đó, Klein và

Shambaugh (2010) cho rằng các quốc gia này có năng lực điều hành tỷ giá hiệu quả

hơn trong môi trường tỷ giá linh hoạt. Reinhart và Rogoff (2004) cũng ghi nhận xu

hướng các quốc gia đang phát triển chuyển dần sang chế độ tỷ giá linh hoạt khi quy

mô tăng lên.

103

Tuy nhiên, khi phân tích kết quả mô hình theo hai giai đoạn riêng biệt: giai

đoạn 2010–2015 và giai đoạn 2016–2023 nhận thấy ảnh hưởng của quy mô nền

kinh tế đến lựa chọn chế độ tỷ giá pháp định của các quốc giaa đang phát triển tại

châu Á trở nên rõ rệt hơn trong giai đoạn sau. Sự khác biệt này có thể bắt nguồn từ

một số nguyên nhân. Thứ nhất, trong giai đoạn 2016–2023, nhiều quốc gia trong

khu vực như Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng GDP nhanh

hơn. Do đó, các quốc gia này bắt đầu chuyển trọng tâm từ mục tiêu ổn định tỷ giá,

hỗ trợ xuất khẩu sang ưu tiên ổn định nền kinh tế nội địa từ đó có xu hướng lựa

chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn nhằm bảo đảm hiệu quả điều hành chính sách tiền

tệ. Thứ hai, các nền kinh tế lớn nếu duy trì chế độ tỷ giá cố định không phù hợp với

điều kiện thị trường sẽ dễ trở thành mục tiêu của các đợt tấn công đầu cơ.

b. Nhân tố độ mở cửa tài khoản vốn:

Độ mở cửa tài khoản vốn là một trong những nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ

tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Thông qua kết quả mô hình cho thấy nhân

tố này có ý nghĩa thống kê và có tác động dương với lựa chọn chế độ tỷ giá linh

hoạt hơn. Cụ thể là, khi độ mở tài khoản vốn tăng lên 1 đơn vị thì quốc gia tăng xác

suất lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn lên 48% theo kết quả từ mô hình với

mẫu nghiên cứu trong giai đoạn từ 2010 – 2023. So sánh với các nghiên cứu trước

đây, Obstfeld và cộng sự (2005), Chinn và Ito (2006), Rey (2013), Quinn và

Toyoda (2008) cũng có cùng quan điểm tương đồng khi họ đưa ra luận điểm rằng

khi tài khoản vốn mở rộng, dòng vốn có thể ra/vào nhanh chóng, do đó các nước

khó duy trì chế độ tỷ giá cố định sẽ phải hy sinh chính sách tiền tệ độc lập, tăng

nguy cơ bị đầu cơ tiền tệ nếu duy trì tỷ giá cố định không phù hợp. Do đó, mở cửa

vốn càng lớn thì quốc gia càng có xu hướng chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn để ứng

phó với biến động dòng vốn.

Dựa vào bảng kết quả 4.11 và 4.12 dễ dàng nhận thấy độ mở tài khoản vốn

có mức độ ảnh hưởng giảm dần từ giai đoạn 2010 - 2015 sang giai đoạn 2016 –

2023. Cụ thể là, tác động biên giảm từ 0,599 xuống còn 0,365 ở chế độ tỷ giá thả

nổi. Trong giai đoạn 2010–2015, nhiều quốc gia đang phát triển tại châu Á vẫn chưa

hoàn thiện đầy đủ các công cụ và cơ chế kiểm soát dòng vốn. Việc mở cửa tài

104

khoản vốn diễn ra nhanh chóng trong khi năng lực điều tiết còn hạn chế đã làm gia

tăng rủi ro dòng vốn nóng (dòng vốn ngắn hạn và dễ biến động) gây áp lực lên thị

trường tài chính nội địa. Trong bối cảnh đó, các quốc gia buộc phải lựa chọn chế độ

tỷ giá linh hoạt nhằm thích ứng với biến động từ bên ngoài. Vì vậy tác động của

nhân tố Kao có phần mạnh hơn trong giai đoạn này.

c. Nhân tố độ mở cửa thương mại

Dựa vào kết quả mô hình, độ mở cửa thương mại tác động tới lựa chọn chế

độ tỷ giá theo pháp định xuyên suốt giai đoạn từ năm 2010 – 2023 do có ý nghĩa

thống kê và có tác động ngược chiều. Cụ thể, khi mức độ mở cửa tăng thêm 1 đơn

vị, khả năng quốc gia lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn giảm 0,3%, tăng lựa

chọn chế độ tỷ giá cố định và thả nổi có điều tiết 0,1%. Mặc dù mức độ ảnh hưởng

không lớn nhưng xu hướng này phù hợp với lý thuyết kinh tế và các bằng chứng

thực nghiệm trước đó. Theo lập luận của Mundell (1961) và McKinnon (1963),

quốc gia có độ mở thương mại quốc tế cao, việc duy trì chế độ tỷ giá ổn định có thể

giúp kiểm soát biến động giá cả hàng nhập khẩu từ đó hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô

và thúc đẩy thương mại quốc tế. Do vậy, các quốc gia này thường có xu hướng ưu

tiên chế độ tỷ giá cố định. Quan điểm này cũng được củng cố bởi Calvo và Reinhart

(2002), Meissner và Oomes (2009), khi các tác giả này nhấn mạnh rằng độ mở

thương mại quốc tế cao làm gia tăng động lực lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhằm

đảm bảo một môi trường thương mại quốc tế ổn định.

Dựa trên phân tích từ bảng 4.10 và 4.11, có thể nhận thấy rằng tác động của

độ mở cửa thương mại quốc tế đến lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định mạnh hơn

trong giai đoạn 2010–2015 so với giai đoạn 2016–2023. Nguyên nhân chủ yếu là do

trong giai đoạn đầu, nhiều quốc gia trong khu vực phụ thuộc đáng kể vào xuất khẩu

như một động lực tăng trưởng kinh tế, dẫn đến ưu tiên của chính sách tỷ giá là nhằm

hỗ trợ thương mại quốc tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn sau, mặc dù mối quan hệ giữa

độ mở thương mại và lựa chọn chế độ tỷ giá vẫn giữ nguyên chiều hướng, nhưng

cường độ tác động đã suy giảm. Điều này phản ánh xu hướng đa dạng hóa thị

trường xuất khẩu tại nhiều quốc gia, cũng như sự dịch chuyển chiến lược phát triển

sang thúc đẩy nội địa hóa chuỗi cung ứng và giảm dần sự lệ thuộc vào thương mại

quốc tế.

105

4.2.1.2 Kết quả hồi quy mô hình các nhân tố nhóm kinh tế tác động tới lựa chọn chế

độ tỷ giá theo thực tế.

Trước hết, thông qua kết quả mô hình ở bảng 4.13 dưới đây dễ dàng nhận

thấy rằng chỉ có nhân tố lạm phát tiếp tục không có ý nghĩa thống kê, phản ánh

không có tác động rõ ràng tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế của nhóm quốc

gia đang phát triển tại khu vực châu Á trong cả giai đoạn 2010 – 2023. Các nhân

tố còn lại: quy mô nền kinh tế, độ mở cửa tài khoản vốn và độ mở cửa thương mại

đều có tác động với chiều hướng và mức độ khác nhau tới lựa chọn của các quốc

gia. Cụ thể là, quy mô nền kinh tế và độ mở tài khoản vốn có tác động thuận chiều

còn độ mở cửa thương mại quốc tế có tác động ngược chiều với lựa chọn chế độ tỷ

giá linh hoạt. Xu hướng tác động của các nhân tố này đối với chế độ tỷ giá cả theo

pháp định và theo thực tế là giống nhau.

Bảng 4.13: Kết quả nghiên cứu mô hình probit thứ bậc với nhân tố kinh

tế tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế.

Biến độc lập

CĐTGTT Giai đoạn 2016 – 2023 (3) Hệ số hồi quy

CĐTGTT Giai đoạn 2010 – 2023 (1) Hệ số hồi quy 0,901*** -0,006

CĐTGTT Giai đoạn 2010 – 2015 (2) Hệ số hồi quy 0,627*** -0,017 0,895*

1,345*** -0,005 1,286**

-0,006 120 0,0454

Quy mô nền kinh tế (LnGDP) Lạm phát (INF) Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO) 0,972*** Độ mở cửa thương mại -0,008* -0,006** (TRADE) 160 260 Số quan sát R- squared 0,1329 0,0773 Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.14: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế giai đoạn 2010 – 2023.

Biến độc lập

CĐTG thả nổi

CĐTG cố định -0,291*** 0,002 -0,314*** 0,002**

Tác động biên CĐTG trung gian 0,008 0,000 0,008 0,000

0,283*** -0,002 0,305*** -0,002**

Quy mô nền kinh tế (LnGDP) Lạm phát (INF) Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO) Độ mở cửa thương mại (TRADE) Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

106

Bảng 4.15: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế giai đoạn 2010 – 2015.

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định CĐTG trung gian CĐTG thả nổi

Quy mô nền kinh tế (LnGDP)

-0,207***

0,006

0,201***

Lạm phát (INF)

0,006

-0,59

-0,005

Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO)

-0,295*

0,009

0,286*

Độ mở cửa thương mại (TRADE)

0,002*

0,000

-0,002*

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.16: Tác động biên của các nhân tố kinh tế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế giai đoạn 2016 -2023.

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định CĐTG trung gian CĐTG thả nổi

Quy mô nền kinh tế (LnGDP)

-0,415***

0,026

0,390***

Lạm phát (INF)

0,002

0,000

-0,001

Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO)

-0,397**

0,025

0,372***

Độ mở cửa thương mại (TRADE)

0,002**

0,000

-0,002**

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Thảo luận kết quả mô hình

a. Nhân tố quy mô nền kinh tế

Dựa vào bảng 4.13, nhân tố quy mô nền kinh tế có ảnh hưởng tích cực và

đáng kể tới lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi theo thực tế trong các giai đoạn. Cụ thể là,

khi quốc gia tăng quy mô lên 1 đơn vị thì sẽ làm tăng xác suất lựa chọn chế độ tỷ

giá thả nổi lên 28,3% trong giai đoạn 2010 – 2023. Xu hướng tác động này giống

như đã phản ánh trong lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và cũng tương đồng

với nhiều kết quả nghiên cứu trước đây như Juhn và Mauro, (2002); Aizenman và

cộng sự (2011). Các nghiên cứu này đã nhận định rằng các nước có GDP lớn hơn có

xu hướng chọn tỷ giá thả nổi để tận dụng ưu thế chính sách tiền tệ độc lập.

107

Khi so sánh trong hai giai đoạn 2010 - 2015 và 2016 – 2023 thông qua kết

quả tác động biên ở bảng 4.15 và 4.16 đã cho thấy rằng quy mô nền kinh tế có ảnh

hưởng lớn hơn trong giai đoạn sau từ 2016 – 2023. Tương tự, xu hướng tác động

này cũng đã được phân tích từ lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Đối với nhóm

quốc gia đang phát triển ở châu Á, trong giai đoạn 2016 – 2023, nhiều quốc gia có

GDP tăng trưởng nhanh, Chính phủ có năng lực điều hành tốt hơn. Đồng thời, giai

đoạn này các quốc gia cũng phải đối mặt với nhiều biến động, cú sốc từ bên ngoài nên

họ cũng cần linh hoạt tỷ giá hơn.

b. Nhân tố độ mở cửa tài khoản vốn.

Thông qua kết quả mô hình ở ba bảng trên, nhân tố độ mở cửa tài khoản vốn

có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê cao tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực

tế. Xu hướng này cũng đã được nhận thấy trong mô hình tác động tới lựa chọn theo

pháp định. Điều này phản ánh khi độ mở cửa tài khoản vốn tăng thì quốc gia sẽ lựa

chọn các chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Cụ thể là trong giai đoạn 2010 - 2023, khi độ

mở tài khoản vốn tăng 1 đơn vị thì xác suất quốc gia giảm lựa chọn chế độ tỷ giá cố

định 31,4% ngược lại tăng lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi lên 30,5%.

Đánh giá kỹ hơn trong hai giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau là 2010 –

2015 và 2016 - 2023, kết quả từ mô hình cho thấy rằng Kao có tác động mạnh mẽ

hơn trong giai đoạn sau thể hiện ở tác động biên lớn hơn. Khi độ mở cùng tăng lên

1 đơn vị thì trong giai đoạn đầu, quốc gia có khả năng tăng lựa chọn chế độ tỷ giá

thả nổi 28,6% còn ở giai đoạn sau là 37,2%. Trong giai đoạn 2010–2015, tác động

của độ mở tài khoản vốn yếu hơn do các quốc gia đang phát triển ở châu Á vẫn thận

trọng trong việc mở cửa tài khoản vốn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhiều

quốc gia duy trì kiểm soát vốn để ổn định kinh tế vĩ mô, làm giảm tác động của độ

mở tài khoản vốn. Còn trong giai đoạn 2016–2023, nhân tố này có tác động mạnh

hơn, phản ánh xu hướng tự do hóa tài chính và hội nhập toàn cầu mạnh mẽ hơn, đặc

biệt ở các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, Ấn Độ, hay Malaysia.

d. Nhân tố độ mở cửa thương mại.

Dựa vào kết quả mô hình trên cho thấy độ mở cửa thương mại có tác động

âm và có ý nghĩa thống kê tới việc lựa chọn chế độ tỷ giá thực tế. Điều này nghĩa là

108

khi độ mở thương mại tăng, các quốc gia có xu hướng ít chọn các chế độ tỷ giá linh

hoạt hơn. Trong giai đoạn 2010–2023, độ mở cửa thương mại quốc tế có xu hướng

thúc đẩy các quốc gia đang phát triển ở châu Á chọn chế độ tỷ giá cố định hơn là

thả nổi, tuy nhiên mức độ tác động biên khá nhỏ (0,2%). Khi phân tích theo từng

giai đoạn, kết quả cho thấy độ mở thương mại không có tác động đáng kể đến chế

độ tỷ giá trong giai đoạn 2010–2015, nhưng lại có ảnh hưởng rõ rệt trong giai đoạn

2016–2023.

Khi các quốc gia có độ mở cửa thương mại cao thường phụ thuộc nhiều vào

xuất nhập khẩu dẫn đến mức độ nhạy cảm cao hơn với biến động tỷ giá. Trong bối

cảnh đó, việc lựa chọn chế độ tỷ giá cố định hoặc trung gian giúp ổn định giá cả

hàng hóa xuất nhập khẩu, qua đó giảm thiểu rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp. Do vậy,

xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định có xu hướng tăng khi độ mở thương mại gia

tăng. Thực tiễn tại một số quốc gia châu Á như Việt Nam và Thái Lan cho thấy, với

tỷ trọng xuất khẩu lớn, đặc biệt trong các ngành như điện tử và dệt may, các nước

này thường ưu tiên áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc thả nổi có quản lý nhằm hỗ

trợ tăng trưởng xuất khẩu.

Kết luận

Thông qua kết quả mô hình, việc so sánh chiều hướng tác động của các nhân

tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá trên hai khía cạnh pháp định và thực tế cho thấy

sự tương đồng lớn. Tuy nhiên, tác động biên của các nhân tố có ý nghĩa thống kê

(quy mô nền kinh tế, độ mở cửa tài khoản vốn, độ mở cửa thương mại) tới chế độ tỷ

giá theo thực tế đều lớn hơn so với lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Điều này

cho thấy các nhân tố có ảnh hưởng tới áp dụng chế độ tỷ giá của các quốc gia trong

thực tiễn mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, kết quả mô hình cũng nhất quán với các phát hiện

từ các công trình nghiên cứu trước đó, được trình bày chi tiết tại Bảng 4.17.

109

Bảng 4.17: So sánh chiều tác động của các nhân tố từ kết quả mô hình và giả

thuyết nghiên cứu

Nhân tố Kỳ vọng CĐTGPĐ CĐTGTT

Quy mô nền kinh tế (+) (+) (+)

Lạm phát (-) N/A N/A

Độ mở tài khoản vốn (+) (+) (+)

Độ mở cửa thương mại (-) (-) (-)

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu.

Bảng 4.18: So sánh tác động biên của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định và theo thực tế giai đoạn 2010 -2023

CĐTGPĐ

CĐTGTT

Biến độc lập

Cố định Thả nổi

Thả nổi

Cố định

Trung

Thả nổi

có điều

hoàn

gian

tiết

toàn

Quy mô nền

kinh tế

-0,1***

-0,11***

0,21***

-0,291***

0,008 0,283***

Độ mở cửa

tài khoản vốn

-0,23***

-0,25***

0,48***

-0,314***

0,008 0,305***

Độ mở cửa

thương mại

0,001*** 0,001***

-0,003***

0,002**

0

-0,002**

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu.

4.2.2 Kết quả hồi qui mô hình các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa

chọn chế độ tỷ giá.

Mô hình nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá tác động của các nhân tố chính

trị, thể chế: POL (mức độ ổn định chính trị), CPI (mức độ nhận thức tham nhũng),

DEMO (mức độ dân chủ của quốc gia), GLO (chỉ số toàn cầu hóa), GOV (mức độ

hiệu quả của Chính phủ) tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế

của các quốc gia.

4.2.2.1 Kết quả hồi qui mô hình các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định.

110

Kết quả trong bảng 4.19 dưới đây phản ánh mối quan hệ của các nhân tố

chính trị, thể chế tới lựa chọn các chế độ tỷ giá theo pháp định trong toàn bộ giai

đoạn từ năm 2010 – 2023, trong giai đoạn 2010 – 2015 và từ 2016 – 2023.

Thông qua bảng kết quả mô hình 4.19, hầu hết các nhân tố chính trị, thể chế

có tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định chỉ trừ nhân tố mức độ hiệu

quả Chính phủ có sự khác biệt hơn. Khi đánh giá tác động trong cả giai đoạn từ

2010 – 2023, nhân tố này không có ý nghĩa thống kê tuy nhiên trong giai đoạn 2016

– 2023 lại có tác động thuận chiều và có ý nghĩa thống kê với chế độ tỷ giá linh

hoạt hơn. Đối với các nhân tố còn lại, nhân tố ổn định chính trị (POL) và mức độ

nhận thức tham nhũng (CPI) có tác động ngược chiều trong khi nhân tố toàn cầu

hóa và mức độ dân chủ có tác động thuận chiều với chế độ tỷ giá linh hoạt.

Bảng 4.19: Kết quả mô hình với nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định

CĐTGPĐ

CĐTGPĐ

CĐTGPĐ

Biến độc lập

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

2010 - 2023

2010 - 2015

2016- 2023

Hệ số hồi quy Hệ số hồi quy Hệ số hồi

quy

Mức độ ổn định chính trị (POL)

-1,573***

-1,948***

-1,274*** -0,031

Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI)

-0,035**

-0,074***

Mức độ dân chủ (DEMO)

3,284***

3,344***

3,898***

Chỉ số toàn cầu hóa (GLO)

0,075***

0,063***

0,083***

Mức độ hiệu quả của Chính phủ

0,279

-0,057

(GOV)

1,236***

Số quan sát

260

120

140

0,3121

0,3516

0,4376

R squared Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Kết hợp với kết quả ở bảng 4.20, 4.21 và 4.22 về tác động biên của các nhân

tố trong giai đoạn 2010 – 2023, 2010 – 2015 và 2016 – 2023 cho thấy mức độ ảnh

hưởng cụ thể tới lựa chọn các chế độ tỷ giá khác nhau.

111

Bảng 4.20: Tác động biên của các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 – 2023

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định

CĐTG thả nổi có điều tiết

CĐTG thả nổi hoàn toàn

0,167***

0,238***

-0,405***

0,004*** -0,348*** -0,008***

0,005*** -0,497*** -0,011***

-0,009*** 0,844*** 0,019***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

-0,030

-0,042

0,072

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.21: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2010 -1015

Biến độc lập

chế độ tỷ giá cố định

0,157***

Tác động biên chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết 0,190***

chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn -0,347***

0,004 -0,413*** -0,008***

0,005 -0,498*** -0,009***

-0,009 0,911*** 0,017***

0,007

0,008

-0,015

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.22: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2016 - 2023

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG cố định CĐTG thả nổi có

điều tiết

CĐTG thả nổi hoàn toàn

0,151***

0,285***

-0,436***

0,006*** -0,303*** -0,006***

0,011*** -0,570*** -0,012***

-0,017*** 0,873*** 0,019***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

-0,096***

-0,181***

0,277***

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

112

Thảo luận kết quả mô hình

a. Nhân tố mức độ ổn định chính trị

Mức độ ổn định chính trị có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Điều này thể hiện chính trị ổn định góp phần

thúc đẩy lựa chọn chế độ tỷ giá cố định và giảm xác suất chọn chế độ tỷ giá thả nổi

của các quốc gia. Cụ thể là, khi mức độ ổn định chính trị tăng 1 đơn vị, quốc gia có

xu hướng tăng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 16,7% và giảm lựa chọn chế độ tỷ giá

thả nổi 40,5% theo bảng 4.20.

Ngoài ra, khi xem xét trong hai giai đoạn nhỏ hơn, ổn định chính trị có ảnh

hưởng mạnh mẽ hơn tới chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn trong giai đoạn 2016–2023.

Cụ thể là, trong khi giai đoạn 2010–2015, mức độ tác động tới chế độ tỷ giá thả nổi

hoàn toàn là 34,7 % thì ở giai đoạn 2016 – 2023 lên tới 43,6%. Do bất ổn kinh tế

toàn cầu đã khiến một số quốc gia châu Á (như Indonesia) đối mặt với rủi ro chính

trị nội tại, làm giảm hiệu quả của ổn định chính trị trong việc định hình chính sách

tiền tệ trong giai đoạn 2010 -2015. Sang giai đoạn 2016–2023, tác động của nhân tố

này trở nên mạnh hơn phản ánh xu hướng cải thiện ổn định chính trị ở nhiều quốc

gia châu Á (như Việt Nam sau các cải cách thể chế) và sự hội nhập kinh tế qua các

hiệp định như CPTPP và RCEP.

Ổn định chính trị của quốc gia góp phần tăng cường khả năng kiểm soát

chính sách kinh tế vĩ mô, giảm nhu cầu linh hoạt tỷ giá và phù hợp với lý thuyết bộ

ba bất khả thi khi các quốc gia ổn định chính trị ưu tiên chế độ tỷ giá cố định để

tăng cường lòng tin và ổn định kinh tế.

Kết quả từ mô hình là phù hợp khi so sánh với trong thực nghiệm nhưng mức

độ tác động biên trong mô hình có thể khác nhau do đặc thù của các quốc gia châu

Á trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Các nghiên cứu của Alesina và Wagner (2006),

Cukierman và cộng sự (1992), Bearce và Hallerberg (2011), Edwards (1996),

Aliyev (2014), Berdiev và cộng sự (2012), Bernhard và Leblang (2002), Klein và

Shambaugh (2010) cũng đã đưa ra nhận định rằng các quốc gia có mức độ ổn định

chính trị giảm, bất ổn thì thường có xu hướng lựa chọn linh hoạt hơn và ngược lại.

113

Nghiên cứu của Alesina và Wagner (2006) cho thấy rằng các quốc gia có mức độ ổn

định chính trị cao thường áp dụng chế độ tỷ giá cố định để đảm bảo tính nhất quán

của chính sách kinh tế. Khi một quốc gia có môi trường chính trị ổn định, các nhà

đầu tư và người dân có niềm tin vào các chính sách ban hành. Trong bối cảnh ổn

định, nhu cầu về một chế độ tỷ giá linh hoạt để điều chỉnh theo các cú sốc chính trị

hoặc đầu cơ tiền tệ là không cần thiết. Do đó, quốc gia có thể chọn tỷ giá cố định để

duy trì sự nhất quán trong chính sách kinh tế. Khi có bất ổn chính trị, nhà đầu tư

thường lo ngại về rủi ro và rút vốn, gây biến động tỷ giá mạnh, buộc Chính phủ phải

chọn linh hoạt để thích ứng với dòng vốn. Ngược lại, khi ổn định chính trị cao, rủi

ro dòng vốn tháo chạy giảm xuống. Điều này giúp chính phủ dễ dàng duy trì chế độ

tỷ giá cố định mà không phải lo ngại áp lực từ dòng vốn đầu cơ.

b. Nhân tố mức độ nhận thức tham nhũng

Nhân tố nhận thức tham nhũng (CPI) tiếp tục có tác động ngược chiều và có

ý nghĩa thống kê tới lựa chọn chế độ tỷ giá pháp định trong giai đoạn 2010–2023.

Cụ thể là, CPI tăng (tham nhũng giảm) làm tăng xác suất chọn chế độ tỷ giá cố định

(0,4%) và giảm xác suất chọn chế độ tỷ giá thả nổi của các quốc gia (0,9%). Tuy

nhiên với mức độ tác động biên rất nhỏ cho thấy vai trò của nhận thức tham nhũng

tương đối hạn chế so với các yếu tố khác trong mô hình. Từ 2010–2015, CPI không

có tác động rõ ràng tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Điều này có thể do

bối cảnh bất ổn kinh tế sau khủng hoảng 2008–2009, khi các yếu tố kinh tế vĩ mô

khác (như lạm phát hoặc dòng vốn) chi phối mạnh hơn. Ngược lại, giai đoạn 2016–

2023, CPI có ảnh hưởng mạnh nhất với xu hướng thúc đẩy chế độ tỷ giá cố định và

giảm chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này có thể do nhiều quốc gia châu Á đã cải thiện

được minh bạch thể chế ở (như Việt Nam, Malaysia) trong bối cảnh hội nhập kinh

tế. Mức độ nhận thức tham nhũng cao giúp tăng cường lòng tin, giảm cú sốc thể chế

và hỗ trợ chế độ tỷ giá cố định theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, đặc biệt ở các quốc

gia như Singapore và Malaysia.

Theo tổng quan nghiên cứu, kết quả từ mô hình nghiên cứu phù hợp với các

nghiên cứu của Alesina và Wagner (2006), Rose-Ackerman và Palifka (2016),

114

Berdiev và cộng sự (2012) và Méon và Sekkat (2005), nhưng mức độ tác động nhỏ

hơn, có thể do đặc thù của các quốc gia đang phát triển tại châu Á.

c. Nhân tố mức độ dân chủ

Thông qua kết quả mô hình, dễ dàng nhận thấy mức độ dân chủ (DEMO) có

tác động tích cực và ý nghĩa thống kê tới lựa chọn chế độ tỷ giá pháp định. Như vậy

khi dân chủ hóa cao hơn, các quốc gia có xu hướng chọn các chế độ tỷ giá linh hoạt

hơn. Trong giai đoạn 2010–2023, DEMO có tác động mạnh, thúc đẩy các quốc gia

chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Cụ thể là khi mức độ dân chủ tăng lên

một đơn vị, quốc gia sẽ tăng khả năng lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi lên 84% và

giảm lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 34,7%. Mức độ ảnh hưởng của nhân tố này tới

lựa chọn của các quốc gia là lớn nhất trong nhóm các nhân tố chính trị thể chế trong

mô hình nghiên cứu.

Trong giai đoạn 2010–2015, nhân tố dân chủ có tác động mạnh nhất, thúc

đẩy xu hướng chọn chế độ tỷ giá thả nổi và giảm chế độ tỷ giá cố định, có thể do

các cải cách dân chủ ở một số quốc gia châu Á (như Indonesia) sau khủng hoảng.

Giai đoạn 2016–2023 cho thấy tác động của nhân tố này giảm nhẹ so với giai đoạn

trước, nhưng vẫn là yếu tố quyết định thúc đẩy chế độ tỷ giá thả nổi và giảm chế độ

tỷ giá cố định, phản ánh xu hướng dân chủ hóa tiếp tục ở các quốc gia như

Philippines và Thái Lan. Cụ thể là, khi mức độ dân chủ cùng tăng 1 đơn vị, trong

giai đoạn 2010 – 2015, nhân tố này góp phần tác động làm tăng xác suất lựa chọn

chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn lên 91% thì trong giai đoạn 2016 – 2023 mức độ

tác động là 87%.

Các quốc gia dân chủ hơn thường có cơ chế ra quyết định minh bạch và chịu

áp lực từ công chúng, khiến họ ưu tiên các chính sách kinh tế linh hoạt, như chế độ

tỷ giá thả nổi. chế độ tỷ giá thả nổi cho phép tỷ giá tự điều chỉnh theo cung-cầu thị

trường, phù hợp với nhu cầu phản ứng nhanh trước các cú sốc kinh tế trong môi

trường dân chủ. Điều này giải thích cho mức độ tác động của nhân tố dân chủ đối

với chế độ tỷ giá thả nổi. Ví dụ: Indonesia, với cải cách dân chủ sau năm 1998, đã

chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết để quản lý biến động kinh tế trong

giai đoạn 2010–2023.

115

Ngoài ra, chế độ tỷ giá cố định đòi hỏi sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ

và dự trữ ngoại hối lớn, điều có thể gây tranh cãi trong các xã hội dân chủ do áp lực

minh bạch và trách nhiệm giải trình. Các quốc gia dân chủ có xu hướng tránh chế độ

tỷ giá cố định để giảm rủi ro chính trị, dẫn đến tác động âm đối với chế độ tỷ giá cố định.

Trong bối cảnh châu Á, các quốc gia như Philippines, với mức độ dân chủ tăng, đã

chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi để tránh áp lực chính trị từ việc duy trì tỷ giá cố định.

Kết quả mô hình phù hợp với các nghiên cứu trước đây như Bearce và

Hallerberg (2011), Berdiev và cộng sự (2012), Steinberg và Malhotra (2014), và

Broz (2002), Eichengreen & Leblang (2003). Theo Bearce và Hallerberg (2011),

các quốc gia dân chủ có xu hướng chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn do áp lực từ các

nhóm lợi ích và cử tri, những người yêu cầu chính sách kinh tế phản ứng nhanh với

biến động thị trường. Berdiev và cộng sự (2012) đưa ra nhận định về mối quan hệ

giữa dân chủ và chế độ tỷ giá tỷ giá, cho thấy các quốc gia có mức độ dân chủ cao

thường tránh chế độ tỷ giá cố định do khó duy trì trong bối cảnh tự do hóa tài chính.

d. Nhân tố toàn cầu hóa

Dựa vào kết cả quả bảng 4.19 thấy nhân tố toàn cầu hóa có tác động thuận

chiều và có ý nghĩa thống kê tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định. Điều này

cho thấy mức độ toàn cầu hóa cao hơn có xu hướng thúc đẩy các quốc gia lựa chọn

các chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Cụ thể là, trong giai đoạn 2010–2023, khi chỉ số

toàn cầu hóa tăng lên 1 đơn vị góp phần thúc đẩy các quốc gia đang phát triển ở

châu Á tăng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn theo pháp định tuy nhiên mức độ

tác động biên chỉ ở mức thấp (1,9%). Khi kết hợp phân tích đánh giá trong hai giai

đoạn phát triển từ 2010 – 2015 và 2016 – 2023 cho thấy tác động của toàn cầu hóa

khá ổn định tuy nhiên giai đoạn sau có mức độ tác động biên lớn hơn giai đoạn trước

(1,7% và 1,9%) phản ánh xu hướng hội nhập toàn cầu ngày càng mạnh mẽ hơn.

Toàn cầu hóa làm tăng dòng vốn quốc tế, khiến các quốc gia khó duy trì chế

độ tỷ giá cố định do áp lực từ các cú sốc tài chính bên ngoài. chế độ tỷ giá thả nổi

cho phép tỷ giá điều chỉnh linh hoạt để hấp thụ các cú sốc này. Bên cạnh đó, các

quốc gia có mức độ toàn cầu hóa cao thường tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn

cầu, đòi hỏi chính sách tiền tệ linh hoạt để duy trì sức cạnh tranh xuất khẩu. Chính

vì vậy, tác động của nhân tố toàn cầu hóa từ kết quả của mô hình là phù hợp và

116

đồng quan điểm với nhiều nghiên cứu trước đây như: Berdiev và cộng sự (2012),

Eichengreen và Leblang (2003), Coudert và cộng sự (2011), Rose (2011). Berdiev

và cộng sự (2012) phân tích các yếu tố chính trị và kinh tế ảnh hưởng đến chế độ tỷ

giá ở các quốc gia phát triển và đang phát triển. Họ nhận thấy rằng các quốc gia có

mức độ hội nhập kinh tế toàn cầu cao có xu hướng chọn chế độ tỷ giá linh hoạt để

quản lý các biến động kinh tế. Rose (2011) cũng nhận thấy rằng các quốc gia có

mức độ hội nhập kinh tế cao thường chọn chế độ tỷ giá thả nổi để tận dụng sự linh

hoạt trong chính sách tiền tệ.

e. Nhân tố hiệu quả Chính phủ.

Thông qua kết quả của bảng 4.19 cho thấy hiệu quả chính phủ (GOV) chỉ có

tác động đáng kể tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định trong giai đoạn 2016 -

2023. Trong giai đoạn này, khi hiệu quả của Chính phủ tăng lên góp phần tác động

làm tăng xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn 27,7% và làm giảm xác

suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 18,1%. Tuy nhiên, trong các giai đoạn 2010 -

2023 và 2010 - 2015, nhân tố hiệu quả Chính phủ không ảnh hưởng tới quyết định

của các quốc gia. Điều này có thể do sự khác biệt về chất lượng thể chế giữa các

quốc gia hoặc sự cải thiện dần hiệu quả Chính phủ trong giai đoạn sau.

Một Chính phủ hoạt động hiệu quả không chỉ thể hiện năng lực trong việc

duy trì ổn định kinh tế vĩ mô mà còn thể hiện khả năng thiết kế, điều chỉnh và điều

hành chính sách tiền tệ, tài khóa một cách linh hoạt, minh bạch và có trách nhiệm.

Trong bối cảnh đó, việc lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt trở nên khả thi và hấp dẫn

hơn. Với hiệu quả cao trong điều hành, Chính phủ và NHTW có thể sử dụng các

công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, cung tiền hay chính sách tài khóa để đạt mục

tiêu ổn định kinh tế mà không cần phụ thuộc vào CĐTG cố định.

Kết quả phù hợp với các nghiên cứu của Carmignani và cộng sự (2008),

Alesina và Wagner (2006), Berdiev và cộng sự (2012) và Acemoglu và cộng sự

(2003). Berdiev và cộng sự (2012) đã phân tích vai trò của chất lượng thể chế trong

đó bao gồm nhân tố hiệu quả chính phủ trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá ở các quốc

gia phát triển và đang phát triển. Họ kết luận rằng các quốc gia có thể chế hiệu quả

hơn có xu hướng chọn chế độ tỷ giá linh hoạt để quản lý các biến động kinh tế toàn

cầu. Carmignani và cộng sự (2008) xem xét mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và

117

lựa chọn chế độ tỷ giá đã nhấn mạnh rằng các quốc gia có hiệu quả quản lý cao

thường chọn chế độ tỷ giá thả nổi để tận dụng sự linh hoạt trong chính sách kinh tế

vĩ mô. Von Hagen và Zhou (2007) phân tích các yếu tố thể chế ảnh hưởng đến lựa

chọn chế độ tỷ giá ở các quốc gia đang phát triển, bao gồm hiệu quả Chính phủ. Họ

nhận thấy rằng các quốc gia có thể chế hiệu quả hơn có xu hướng chọn chế độ tỷ giá

linh hoạt để đối phó với áp lực từ thị trường quốc tế và các cú sốc kinh tế.

4.2.2.2 Kết quả hồi qui mô hình các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo thực tế.

Thông qua kết quả mô hình bảng 4.23 cho thấy tất cả các nhân tố chính trị

thể chế trong mô hình có tác động tới lựa chọn theo thực tế của các quốc gia đang

phát triển ở châu Á bởi hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê. Trong đó, nhân tố ổn

định chính trị và mức độ nhận thức tham nhũng có tác động ngược chiều và nhân tố

mức độ dân chủ, toàn cầu hóa và hiệu quả Chính phủ lại có tác động thuận chiều

với lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt của quốc gia, trên thực tế. Điều này phản ánh

khi quốc gia có mức độ chính trị tăng, tham nhũng giảm (thể hiện qua mức độ nhận

thức tham nhũng tăng), quốc gia sẽ có xu hướng áp dụng chế độ tỷ giá cố định trên

thực tiễn hơn. Ngược lại, khi mức độ dân chủ ngày càng tăng, toàn cầu hóa tăng, Chính

phủ hiệu quả hơn thì quốc gia sẽ có xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi hơn.

Bảng 4.23: Kết quả nghiên cứu mô hình với nhân tố chính trị, thể chế tác động

tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế

Biến độc lập

CĐTGTT 2010 - 2015

CĐTGTT CĐTGTT 2010 - 2023 2016- 2023 Hệ số hồi quy Hệ số hồi quy Hệ số hồi

-1,271*** -0,033** 2,374*** 0,048***

-1,095*** -0,036* 3,188*** 0,042***

quy -1,333*** -0,051** 1,926*** 0,045***

0,472

0,875*** 260 0,2382

1,536*** 140 0,2611

120 0,2415

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV) Số quan sát R squared Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp

118

Bảng 4.24: Tác động biên của các nhân tố chính trị, thể chế tác động tới lựa

chọn chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2010 – 2023

Tác động biên

Biến độc lập

CĐTG thả nổi

CĐTG cố định 0,311***

CĐTG trung gian 0,013

-0,323***

0,008*** -0,580*** -0,012***

0,000 -0,024 0,000

-0,008*** 0,604*** 0,012***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

-0,214***

-0,009

0,223***

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.25: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2010 -1015

Biến độc lập

Tác động biên trung

CĐTG thả nổi

CĐTG cố định

CĐTG gian

0,255***

0,021

-0,276***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI)

0,008* -0,743*** -0,010***

0,001 -0,061 -0,001

-0,009* 0,804*** 0,011***

Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

-0,110

-0,009

0,119

Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

Bảng 4.26: Tác động biên của các nhân tố chính trị thể chế tác động tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo thực tế trong giai đoạn 2016 -2023

Biến độc lập

cố

Tác động biên trung

CĐTG thả nổi

CĐTG định

CĐTG gian

0,310***

0,031

-0,341***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI)

0,012*** -0,448*** -0,011*** -0,358***

0,001 -0,045 -0,001 -0,036

-0,013*** 0,493*** 0,012*** 0,393***

Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của CP (GOV) Ghi chú: *p<0,1; **p<0,05; ***p<0,01

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu

119

Thảo luận kết quả mô hình

a. Nhân tố ổn định chính trị

Dựa trên kết quả mô hình, yếu tố ổn định chính trị (POL) cho thấy có ý nghĩa

thống kê rõ rệt trong tất cả các giai đoạn nghiên cứu, với hệ số hồi quy âm và biên

độ tác động lớn. Điều này phản ánh vai trò quan trọng của ổn định chính trị trong

việc thúc đẩy xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định, đồng thời làm giảm xác suất

lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi.

Cụ thể, trong giai đoạn 2010–2023, khi mức độ ổn định chính trị tăng thêm 1

đơn vị, khả năng quốc gia lựa chọn chế độ tỷ giá cố định tăng thêm 31%, trong khi xác

suất chọn chế độ tỷ giá thả nổi giảm 32%. Điều này cho thấy tác động của nhân tố ổn

định chính trị là nhất quán giữa chế độ tỷ giá theo pháp định và chế độ tỷ giá thực tế.

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của yếu tố này trong lựa chọn chế độ tỷ giá thực tế lại

mạnh hơn so với chế độ quốc gia công bố.

Khi quan sát tác động của ổn định chính trị trong hai giai đoạn nhỏ hơn 2010

-2015 và 2016 – 2023, kết quả mô hình cho thấy ảnh hưởng của nhân tố này trở nên

rõ ràng hơn trong giai đoạn sau. Cụ thể, trong giai đoạn 2010–2015, tác động biên

của ổn định chính trị đối với xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định là 25,5%, trong

khi con số này tăng lên 31% ở giai đoạn 2016–2023. Tương tự, đối với chế độ tỷ giá

thả nổi, tác động giảm từ ổn định chính trị là 27,6% ở giai đoạn đầu và tăng lên

34% trong giai đoạn sau. Sự gia tăng mức độ tác động này có thể được lý giải bởi

bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động trong giai đoạn 2016–2023, với các cú

sốc lớn như đại dịch Covid-19, căng thẳng thương mại Mỹ – Trung và những bất ổn

địa chính trị khác. Các yếu tố này gây áp lực đáng kể lên các nền kinh tế đang phát

triển, đặc biệt là ở khu vực châu Á. Trong môi trường nhiều rủi ro như vậy, các quốc

gia có mức độ ổn định chính trị cao có khả năng tận dụng lợi thế này để duy trì chế độ

tỷ giá cố định nhằm ổn định kinh tế hơn, thu hút đầu tư và thương mại quốc tế.

b. Nhân tố nhận thức tham nhũng

Mức độ nhận thức tham nhũng là một trong những chỉ số phổ biến được sử

dụng để đánh giá mức độ tham nhũng ở các quốc gia và được đo lường trên thang

từ 0 -100. Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) càng cao nghĩa là tham nhũng càng

120

thấp và ngược lại. Từ kết quả trong mô hình cho thấy nhân tố này có ý nghĩa thống

kê và có tác động ngược chiều với lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt trên thực tế. Như

vậy khi mức độ nhận thức tham nhũng tăng (tham nhũng giảm) thì quốc gia sẽ giảm

xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi và tăng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định. Cụ

thể là trong giai đoạn 2010 – 2023, khi chỉ số CPI tăng lên 1 đơn vị, quốc gia sẽ có

xu hướng tăng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định hơn 0,8% và giảm lựa chọn chế độ tỷ

giá thả nổi 0,8%.

Khi so sánh tác động của nhận thức tham nhũng trong hai giai đoạn 2010 -

2015 và 2016 - 2023, dễ dàng nhận thấy mức độ tác động của nhân tố này mạnh

hơn trong giai đoạn sau. Nguyên nhân có thể xuất phát từ các cú sốc kinh tế toàn

cầu diễn ra trong giai đoạn 2016 - 2023 làm tăng nhu cầu duy trì chế độ tỷ giá cố

định ở các quốc gia có CPI cao để ổn định kinh tế. Ngoài ra các cuộc cải cách tham

nhũng cũng diễn ra mạnh mẽ hơn trong 2016 - 2023 ở khu vực châu Á (như ở Việt

Nam, Indonesia) làm tăng CPI, củng cố chế độ tỷ giá cố định trong thực tế.

c. Nhân tố dân chủ

Đối với nhân tố mức độ dân chủ (DEMO), kết quả mô hình phân tích giai

đoạn 2010 - 2023 đã ghi nhận ảnh hưởng nổi bật đến lựa chọn chế độ tỷ giá. Cụ thể,

với hệ số hồi quy dương, có ý nghĩa thống kê và tác động biên lớn nhất so với các

nhân tố khác, khi mức độ dân chủ tăng thêm một đơn vị, mức độ dân chủ được xác

định là yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi. Cụ thể là,

khi chỉ số dân chủ tăng thêm một đơn vị, xác suất một quốc gia lựa chọn chế độ tỷ

giá thả nổi tăng lên 60% và giảm xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 58%.

Khi phân tách giai đoạn nghiên cứu thành hai khoảng thời gian nhỏ hơn, mô

hình cho thấy tác động của mức độ dân chủ mạnh hơn trong giai đoạn 2010–2015

so với giai đoạn 2016–2023. Điều này có thể phản ánh xu hướng ban đầu của các

quốc gia dân chủ trong việc ưu tiên tính linh hoạt và minh bạch trong điều hành

chính sách kinh tế, thông qua việc sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Tuy nhiên, trong

bối cảnh nhiều biến động toàn cầu diễn ra sau năm 2015, như các cuộc khủng hoảng

y tế, địa chính trị và thương mại, xu hướng này có thể đã bị điều chỉnh phần nào

nhằm đáp ứng yêu cầu ổn định vĩ mô và giảm thiểu rủi ro từ bên ngoài.

121

d. Nhân tố toàn cầu hóa

Nhân tố toàn cầu hóa (GLO) tiếp tục có tác động tích cực đến chế độ tỷ giá

thực tế trong giai đoạn 2010 - 2023. Theo đó, mức độ toàn cầu hóa cao góp phần

thúc đẩy chế độ tỷ giá thả nổi. Cụ thể là, khi quốc gia mở rộng toàn cầu hóa lên 1

đơn vị, quốc gia có thể tăng xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi 1,2% và giảm

lựa chọn chế độ tỷ giá cố định 1,2%. Ngoài ra, khi phân tích sâu hơn theo hai giai

đoạn nhỏ, tác động của toàn cầu hóa được ghi nhận là mạnh hơn trong giai đoạn

2016–2023. Trong giai đoạn này, tác động biên tăng lên 1,5% cho CĐTG thả nổi và

giảm 1,5% cho CĐTG cố định, so với mức tương ứng 1% và 1,1% trong giai đoạn

2010–2015. Sự khác biệt này xuất phát từ các hiệp định thương mại lớn trong 2016-

2023 đã góp phần tăng cường hội nhập kinh tế, thúc đẩy các quốc gia có mức độ hội

nhập quốc tế cao áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi để điều chỉnh linh hoạt trước biến động

dòng vốn. Thứ hai là cú sốc kinh tế toàn cầu (COVID-19, căng thẳng thương mại Mỹ-

Trung) cũng góp phần làm tăng nhu cầu linh hoạt tỷ giá ở các nước hội nhập sâu.

e. Nhân tố hiệu quả của Chính phủ

Trong khi mô hình đánh giá tác động của hiệu quả Chính phủ (GOV) đối với

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định không ghi nhận ý nghĩa thống kê thì kết quả

phân tích chế độ tỷ giá thực tế lại cho thấy nhân tố này có ảnh hưởng đáng kể và

tích cực trong giai đoạn 2010–2023. Cụ thể, hiệu quả cao hơn của Chính phủ có xu

hướng thúc đẩy việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Khi mức độ hiệu quả Chính phủ

tăng thêm một đơn vị, xác suất quốc gia lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi tăng 22,3%,

đồng thời xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định giảm 21,4%. Điều này phản ánh

rằng các quốc gia có Chính phủ hoạt động hiệu quả thường ưu tiên sử dụng chính

sách tiền tệ linh hoạt để quản lý nền kinh tế vĩ mô một cách chủ động hơn. Họ có

khả năng điều chỉnh các công cụ chính sách mà không cần quá phụ thuộc vào

CĐTG cố định để duy trì ổn định kinh tế. Khi phân tích theo hai giai đoạn nhỏ, hiệu

quả Chính phủ không có tác động trong giai đoạn 2010–2015. Tuy nhiên, trong giai

đoạn 2016–2023, tác động biên tăng mạnh, với xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi

tăng 39,3% và xác suất lựa chọn chế độ tỷ giá cố định giảm 35,8%.

122

Kết luận

Thông qua kết quả mô hình, việc so sánh chiều hướng tác động của các nhân

tố chính trị, thể chế tới chế độ tỷ giá trên hai khía cạnh pháp định và thực tế cho

thấy sự tương đồng lớn tuy nhiên vẫn có một số điểm khác biệt. Trước hết là, hiệu

quả Chính phủ có ý nghĩa thống kê trong mô hình với chế độ tỷ giá thực tế, nhưng

không có ảnh hưởng đáng kể đối với chế độ tỷ giá pháp định. Bên cạnh đó, mức độ

tác động của các yếu tố có ý nghĩa thống kê đến chế độ tỷ giá thực tế đều lớn hơn so

với chế độ pháp định, cho thấy rằng các nhân tố này có ảnh hưởng rõ nét hơn đến

lựa chọn chế độ tỷ giá trong thực tế. Ngoài ra, kết quả mô hình cũng có nhiều điểm

tương đồng với các phát hiện từ các công trình nghiên cứu trước đó, được trình bày

chi tiết tại Bảng 4.27

Bảng 4.27: So sánh kết quả mô hình và giả thuyết nghiên cứu trong giai

đoạn 2010 -2023

Nhân tố

Chiều tác động kỳ vọng

KQMH theo pháp định

KQMH theo thực tế

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Mức độ ổn định chính trị Mức độ nhận thức tham nhũng

(+)

(+)

(+)

Mức độ dân chủ

(+)

(+)

(+)

Mức độ toàn cầu hóa

(+)

(+)

Không có ý nghĩa thống kê

Mức độ hiệu quả Chính phủ

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả mô hình

Như vậy, nhìn tổng thể, sự ảnh hưởng của các nhân tố chính trị tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế có kết quả khá tương đồng và phù hợp

với các nghiên cứu trước đây.

123

Bảng 4.28: So sánh tác động biên của các nhân tố kinh tế tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định và theo thực tế giai đoạn 2010 - 2023

CĐTGTT

Biến độc lập

Cố định

Cố định Trung

Thả nổi

Thả nổi hoàn toàn

gian

CĐTGPĐ Thả nổi có điều tiết

0,166***

0,238***

-0,404*** 0,311***

0,013

- 0,323***

0,004***

0,005***

-0,009*** 0,008***

0

- 0,008***

-0,347***

-0,496***

-0,024

0,844***

0,604***

-0,008***

-0,011***

0,019***

0,012***

0

Mức độ ổn định chính trị Mức độ nhận thức tham nhũng Mức độ dân chủ Mức độ toàn cầu hóa Mức độ hiệu quả CP

-0,030*

0,071*

-0,009

-0,042*

- 0,580*** - 0,012*** - 0,223*** 0,214*** Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu.

4.3 Kiểm định Robustness

Nhằm kiểm định tính vững trong tác động của các biến trong mô hình, mô

hình logit được sử dụng. Lý do tác giả lựa chọn mô hình logit là bởi xuất phát từ lý

thuyết cũng như ứng dụng thực tế của hai mô hình. Trước hết là, mô hình logit và

mô hình probit thứ bậc đều thuộc nhóm mô hình hồi quy đa thức, được sử dụng để

dự đoán xác suất của một biến phụ thuộc có nhiều hơn hai thứ bậc. Sự khác biệt

chính giữa chúng nằm ở hàm liên kết. Trong khi mô hình logit sử dụng hàm phân

phối logistic thì mô hình probit sử dụng hàm phân phối tích lũy chuẩn. Do hai mô

hình này có đặc điểm tương tự nhau trong việc mô tả mối quan hệ phi tuyến giữa

biến độc lập và xác suất của biến phụ thuộc, các nhà nghiên cứu thường sử dụng

chúng để kiểm tra tính vững của kết quả. Nếu kết quả từ cả hai mô hình (hệ số, dấu,

ý nghĩa thống kê) nhất quán với nhau, điều này cho thấy mô hình không quá nhạy

cảm với giả định phân phối cụ thể (logistic hay chuẩn), tăng độ tin cậy vào kết quả.

Bên cạnh đó, trong tổng quan nghiên cứu đã có nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình

logit để kiểm tra tính vững của mô hình probit (hoặc ngược lại) như Wooldridge

(2010), Greene (2012).

124

Bảng 4.29: Kết quả chạy mô hình logit thứ tự đánh giá nhân tố kinh tế

tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và thực tế

Biến độc lập

CĐTGPĐ Hệ số hồi quy 0,893***

CĐTGTT Hệ số hồi quy 1,480***

Quy mô nền kinh tế (LnGDP) Lạm phát (INF) Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO) Độ mở cửa thương mại (TRADE) Số quan sát R squared

0,011 1,918*** -0,013*** 260 0,0434

-0,014 1,700** -0,011*** 260 0,0768

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả chạy phần mềm Stata,

Bảng 4.30: Kết quả chạy mô hình logit đánh giá nhân tố chính trị, thể chế tới

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và thực tế

Biến độc lập

CĐTGTT Hệ số hồi quy -2,180*** -0,057** 3,974*** 0,077*** 1,505***

Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV) Số quan sát

CĐTGPĐ Hệ số hồi quy -2,650*** -0,064** 6,544*** 0,122*** 0,392 260

R squared

0,3526

260 0,2609

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả chạy phần mềm Stata.

Bảng 4.31: Bảng so sánh kết quả mô hình probit thứ tự và logit thứ tự

Mô hình probit

Mô hình logit

Biến độc lập

Quy mô nền kinh tế (LnGDP) Lạm phát (INF) Độ mở cửa tài khoản vốn (KAO) Độ mở cửa thương mại (TRADE) Mức độ ổn định chính trị (POL) Mức độ nhận thức tham nhũng (CPI) Mức độ dân chủ (DEMO) Chỉ số toàn cầu hóa (GLO) Mức độ hiệu quả của Chính phủ (GOV)

Chiều tác động + N/A + - - - + + N/A

Chiều tác động + N/A + - - - + + +

CĐTGPĐ CĐTGTT CĐTGPD CĐTGTT Chiều tác Chiều tác động động + + N/A N/A + + - - - - - - + + + + N/A + Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả chạy phần mềm Stata.

125

Như vậy, thông qua mô hình logit nhằm kiểm tra tính vững của các mô hình

chính tác giả nhận thấy xu hướng tác động của các nhân tố tới lựa chọn chế độ tỷ

giá theo pháp định và theo thực tế là không thay đổi. Về mức độ tác động tuy có sự

khác nhau giữa hai mô hình nhưng chỉ ở mức chênh lệch nhỏ.

4.4 Đánh giá chung tác động của các nhân tố tới lựa chọn chế độ tỷ giá của

các quốc gia.

Thông qua kết quả mô hình tổng hợp đánh giá các nhân tố tới lựa chọn chế

độ theo pháp định và theo thực tế, tác giả nhận thấy rằng hầu hết các nhân tố đều

có ảnh hưởng tới lựa chọn CĐTG nhưng chiều hướng và mức độ ảnh hưởng là

khác nhau. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số đánh giá chung như sau:

Trước hết, các nhân tố mức độ mở cửa tài khoản vốn, quy mô nền kinh tế,

ổn định chính trị, hiệu quả chính phủ và mức độ dân chủ có tác động đáng kể đến

quyết định lựa chọn chế độ tỷ giá thể hiện ở mức độ tác động lớn tới cả chế độ tỷ

giá theo pháp định và theo thực tế. Trong đó, mức độ ổn định chính trị tăng cường

góp phần thúc đẩy xu hướng chọn chế độ tỷ giá cố định. Ngược lại, khi quy mô

nền kinh tế tăng, độ mở cửa tài khoản vốn mở rộng, mức độ dân chủ tăng. Chính

phủ hiệu quả hơn thì lại gắn liền với chế độ tỷ giá linh hoạt hơn.

Thứ hai là, các biến như độ mở cửa thương mại và mức độ nhận thức tham

nhũng (CPI), toàn cầu hóa cũng có ảnh hưởng, nhưng mức độ tác động thấp hơn.

Trong đó, khi độ mở thương mại tăng, mức độ nhận thức tham nhũng tăng (tham

nhũng giảm) thì quốc gia có xu hướng tăng lựa chọn chế độ tỷ giá cố định hơn

trong khi mức độ toàn cầu hóa tăng góp phần làm tăng xác suất lựa chọn chế độ tỷ

giá linh hoạt hơn.

Thứ ba là, duy nhất nhân tố lạm phát không có ý nghĩa thống kê thể hiện

không có tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia đang phát triển khu

vực châu Á trong giai đoạn 2010 – 2023 theo cả hai cách thức phân loại.

Thứ tư là, tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế tới lựa chọn

chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế hầu như là tương đồn, chỉ có một vài

sự khác biệt thể hiện ở nhân tố hiệu quả Chính phủ. Nhân tố này có tác động tích

126

cực đối với lựa chọn chế độ tỷ giá trong thực tế nhưng lại không có tác động trong

lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định của quốc gia.

Thứ năm, phân tích theo hai giai đoạn 2010–2015 và 2016–2023 cho thấy

xu hướng tác động của phần lớn các nhân tố đến chế độ tỷ giá là tương đối ổn

định. Tuy nhiên, vẫn có một số nhân tố thay đổi theo thời kỳ và mức độ tác động

đến chế độ tỷ giá thực tế nhìn chung mạnh hơn so với chế độ tỷ giá pháp định. Khi

xét tác động đến CĐTG thực tế, hiệu quả Chính phủ và độ mở thương mại có ảnh

hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá thực tế trong giai đoạn 2016–2023 cũng như

toàn bộ giai đoạn 2010–2023, nhưng không có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn

2010–2015. Khi xét tác động đến chế độ tỷ giá pháp định, hiệu quả Chính phủ chỉ

có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn 2016–2023 và không có tác động trong giai

đoạn đầu và toàn kỳ nghiên cứu.

127

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Trong chương 4, các nhân tố thuộc nhóm kinh tế và chính trị - thể chế ảnh

hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia đang phát triển ở châu Á được

tác giả đánh giá thông qua sử dụng mô hình probit thứ bậc. Hầu hết các nhân tố đều

có ý nghĩa thống kê và có kết quả tương đồng với những nghiên cứu trước đây. Đặc

biệt với nhân tố mới được đưa vào nghiên cứu – nhân tố hiệu quả của Chính phủ đã

cho thấy có tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá cả theo pháp định và theo thực tế.

Hiệu quả của Chính phủ tăng có ảnh hưởng tới lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt hơn

kể cả theo pháp định và theo thực tế.

Kết quả từ chương 4 là cơ sở để tác giả đề xuất những ứng dụng trong lựa

chọn chế độ tỷ giá của Việt Nam và đề xuất giải pháp thúc đẩy các nhân tố tích cực

tới quyết định lựa chọn chế độ tỷ giá của Việt Nam trong nội dung chương 5.

128

CHƯƠNG 5: ỨNG DỤNG KẾT QUẢ MÔ HÌNH VÀO LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ

TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC NHÂN

TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM.

5.1 Định hướng phát triển kinh tế, chính trị của Việt Nam tới năm 2030.

5.1.1 Nhóm nhân tố kinh tế

5.1.1.1 Quy mô nền kinh tế

Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng kinh tế tích cực

trong những năm tới, với các dự báo từ các tổ chức quốc tế đưa ra các con số khả

quan. WB dự đoán tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt 6,8% vào năm

2025 và 6,5% vào năm 2026 trong khi IMF ước tính mức tăng trưởng 6,1% cho

năm 2025 (World Bank, 2024; IMF, 2024). Những dự báo này phù hợp với định

hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021–2030 của Chính phủ

Việt Nam, trong đó đặt mục tiêu tăng trưởng GDP trung bình khoảng 7,0% mỗi

năm trong suốt thập kỷ này và đến năm 2030, Việt Nam hướng tới mức GDP bình

quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD theo giá hiện hành. Cơ cấu nền kinh tế cũng

được tái định hướng rõ rệt, với mục tiêu đưa tỷ trọng khu vực dịch vụ lên trên 50%

GDP, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm trên 40%, trong khi khu vực nông,

lâm và thủy sản giảm xuống dưới 10%.

5.1.1.2 Mức độ mở cửa thương mại

Việt Nam tiếp tục duy trì vai trò là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu với

mức độ hội nhập thương mại quốc tế cao. Triển vọng tăng trưởng xuất khẩu trong

trung hạn đang đối mặt với nhiều thách thức do tác động từ suy giảm kinh tế tại

Trung Quốc và Hoa Kỳ – hai thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – cùng với

những bất ổn ngày càng gia tăng trong thương mại toàn cầu. Theo WB (2024), tốc độ

tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có thể giảm từ mức 14% trong năm 2024 xuống

còn 12,1% vào năm 2025 và dự kiến sẽ tiếp tục xu hướng giảm trong năm 2026.

5.1.1.3 Độ mở tài khoản vốn

Định hướng về độ mở tài khoản vốn của Việt Nam đến năm 2030 được thiết

kế theo lộ trình thận trọng, nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính quốc gia trong bối

129

cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách

quản lý tài khoản vốn một cách thận trọng, với mục tiêu từng bước mở cửa nhưng

vẫn đảm bảo kiểm soát rủi ro. Theo báo cáo của UNDP: “việc duy trì tài khoản vốn

chưa hoàn toàn tự do và đồng tiền không thể chuyển đổi hoàn toàn giúp Việt Nam

điều tiết tốt hơn trong giai đoạn hậu COVID-19, khi dòng vốn toàn cầu có nhiều

biến động”. Để chuẩn bị cho việc mở cửa tài khoản vốn, Việt Nam đặt mục tiêu

phát triển thị trường tài chính một cách toàn diện và bền vững. Chiến lược phát triển

thị trường tài chính giai đoạn 2021–2030 nhấn mạnh: “hoàn thiện khung pháp lý,

nâng cao năng lực quản lý và giám sát, cũng như áp dụng các chuẩn mực quốc tế để

tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của thị trường”. Việc từng bước mở cửa tài

khoản vốn cũng nhằm mục tiêu thu hút nhiều hơn dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc

biệt là vào các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao và kinh tế số. Chiến lược hợp

tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 đặt ra mục tiêu tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ các

quốc gia phát triển, đồng thời cải thiện môi trường kinh doanh để đáp ứng các tiêu

chuẩn quốc tế. Dòng vốn FDI dự kiến sẽ tăng với dự báo thu hút 25 tỷ USD trong

năm 2025, phản ánh sự hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư toàn cầu theo

IMF (2024).

5.1.2 Nhóm nhân tố chính trị - thể chế:

5.1.2.1 Mức độ ổn định chính trị

Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu “giữ vững ổn định chính trị như một nền

tảng cốt lõi cho phát triển bền vững” trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10

năm 2021–2030 và các văn kiện của Đảng. Cụ thể hơn của những mục tiêu này là:

Thứ nhất là, Việt Nam hướng đến việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,

phục vụ nhân dân và thúc đẩy phát triển đất nước. Điều này bao gồm tăng cường

công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ

cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.

Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan

liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.

130

Thứ hai là, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021–2030 nhấn mạnh việc

tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến, nâng cao trình độ, khả

năng sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Đồng

thời, giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống.

Thứ ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục công cuộc xây dựng, chỉnh đốn

Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương

thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống

chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng

đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có

đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

5.1.2.2 Mức độ nhận thức tham nhũng

Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi tham

nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, liêm chính, giữ vững

ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội trong Chiến lược quốc gia phòng,

chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030, ban hành theo Nghị quyết số 168/NQ-

CP ngày 11/10/2023 của Chính phủ. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong

nhận thức và phòng chống tham nhũng tuy nhiên mức độ tham nhũng tại Việt Nam

vẫn ở mức cao.

5.1.2.3 Mức độ hiệu quả của Chính phủ

Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của

Chính phủ, hướng tới một nền hành chính hiện đại, minh bạch và phục vụ người

dân, doanh nghiệp một cách tối ưu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10

năm (2021–2030) và cụ thể như sau:

Thứ nhất là Việt Nam đang triển khai Chương trình Chính phủ số, với định

hướng chuyển từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ thông minh vào năm 2030.

Mục tiêu là cung cấp dịch vụ công trực tuyến chủ động, cá thể hóa và tích hợp trí

tuệ nhân tạo; các cơ quan nhà nước vận hành thông minh dựa trên dữ liệu qua các

mô hình IoC và các nền tảng số quốc gia.

Thứ hai là nhấn mạnh việc xây dựng thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh,

hiệu lực, hiệu quả. Điều này bao gồm việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao

131

chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cải cách hành chính nhằm tạo

môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

5.1.2.4 Mức độ toàn cầu hóa

Đến năm 2030, Việt Nam định hướng đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và

sâu rộng, nhằm nâng cao vị thế quốc gia, phát triển kinh tế bền vững và giữ vững độc

lập, tự chủ. Định hướng này được cụ thể hóa trong Chiến lược tổng thể hội nhập quốc

tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, được phê duyệt tại Quyết định số 40/QĐ-

TTg ngày 7/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Chiến lược đặt mục tiêu: (1) Tăng

cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, (2) Tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi

để sớm đưa đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời

sống nhân dân, (3) Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo

vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, (4) Nâng cao vị thế, uy tín quốc tế

của đất nước.

5.1.2.5 Mức độ dân chủ

Đến năm 2030, Việt Nam định hướng phát triển nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa toàn diện, sâu rộng và thực chất hơn, nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân

dân, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng xã hội công bằng, văn minh.

Định hướng này được thể hiện rõ trong các văn kiện chiến lược và nghị quyết của

Đảng và Nhà nước. Dự báo trong giai đoạn 2025-2030 mức độ dân chủ sẽ không

thay đổi đáng kể, vì Chính phủ Việt Nam ưu tiên ổn định chính trị và tăng trưởng

kinh tế.

Ứng dụng kết quả mô hình từ chương 4 những nhân tố kinh tế, chính trị thể

chế được dự báo ở trên là những nhân tố có tác động tới lựa chọn chế độ tỷ giá của

quốc gia. Xuất phát từ phần định hướng phát triển của Việt Nam về kinh tế, chính

trị trong giai đoạn sắp tới, tác giả nhận thấy xu hướng lựa chọn chế độ tỷ giá của

Việt Nam tiếp tục là hướng tới chế độ tỷ giá linh hoạt.

132

Bảng 5.1: Bảng tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, thể chế và lựa chọn chế

độ tỷ giá từ kết quả mô hình

Nhân tố kinh tế, chính trị, Biến động Xu hướng lựa chọn chế

thể chế có tác động độ tỷ giá theo kết quả

mô hình

Quy mô nền kinh tế Tăng Tăng lựa chọn chế độ tỷ

giá linh hoạt

Độ mở thương mại Giảm nhẹ Tăng lựa chọn chế độ tỷ

giá linh hoạt

Độ mở tài khoản vốn ổn định Không ảnh hưởng

Ổn định chính trị ổn định Không ảnh hưởng

Mức độ nhận thức tham Giảm nhẹ Tăng lựa chọn chế độ tỷ

nhũng giá linh hoạt

Mức độ dân chủ ổn định Không ảnh hưởng

Mức độ hiệu quả Chính Tăng Tăng lựa chọn chế độ tỷ

phủ giá linh hoạt

Mức độ toàn cầu hóa Tăng Tăng lựa chọn chế độ tỷ

giá linh hoạt

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

5.2 Định hướng về chế độ tỷ giá của Việt Nam tới năm 2030

Định hướng về chế độ tỷ giá của Việt Nam đến năm 2030 được thể hiện rõ

trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và ngành Ngân hàng, nhằm đảm bảo

ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Đó là Việt

Nam duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, cho phép tỷ giá biến động linh hoạt

theo cung cầu thị trường, đồng thời Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp khi cần

thiết để ổn định thị trường ngoại hối. Mục tiêu là điều hành tỷ giá với mức độ linh

hoạt cao hơn, bám sát diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế, đồng

thời đảm bảo phù hợp với các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ

trong từng thời kỳ.

133

5.3 Giải pháp cho Việt Nam nhằm thúc đẩy các nhân tố có ảnh hưởng tích cực

tới định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt.

5.3.1 Nhóm giải pháp phát triển quy mô nền kinh tế

5.3.2.1 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để tăng quy mô nền kinh tế Việt Nam một cách bền vững, trước hết cần đẩy

mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Việc phát triển ngành công nghiệp chế biến,

chế tạo, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới kỹ thuật sẽ

nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó tăng sức cạnh tranh trên

thị trường quốc tế. Song song đó, việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ

giúp giảm nhập khẩu nguyên liệu, thúc đẩy chuỗi giá trị nội địa phát triển toàn diện.

Xây dựng lộ trình:

Trong ngắn hạn: Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến chế tạo trọng

điểm; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.

Trung hạn: Mở rộng ứng dụng công nghệ số, tự động hóa trong sản xuất;

phát triển hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ đồng bộ.

Dài hạn: Xây dựng các trung tâm công nghiệp công nghệ cao, nâng tầm

ngành công nghiệp quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.

5.3.2.2 Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt để mở rộng quy

mô kinh tế. Việt Nam cần đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo, nâng cao kỹ năng

nghề nghiệp, đặc biệt là các kỹ năng số và kỹ năng khởi nghiệp. Đồng thời, việc thu

hút và giữ chân nhân tài, hỗ trợ đổi mới sáng tạo sẽ tạo ra lực lượng lao động có khả

năng sáng tạo và đáp ứng tốt yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.

Xây dựng lộ trình:

Ngắn hạn: Rà soát, cập nhật chương trình đào tạo nghề, đại học; triển khai

các chương trình đào tạo lại cho lực lượng lao động hiện có.

Trung hạn: Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục; mở

rộng các chương trình đào tạo kỹ năng số, STEM.

Dài hạn: Xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo hiện đại, linh hoạt, kết hợp

chặt chẽ với đổi mới công nghệ và thị trường lao động

134

5.3.2.3. Nâng cao hiệu quả đầu tư công và thu hút đầu tư tư nhân

Hiệu quả đầu tư công cần được cải thiện mạnh mẽ, tập trung vào các dự án

hạ tầng trọng điểm và ngành công nghiệp then chốt nhằm tạo đòn bẩy phát triển

kinh tế. Song song với đó, môi trường kinh doanh cần được cải thiện để thu hút đầu

tư tư nhân, đặc biệt là đầu tư vào các ngành công nghệ cao và phát triển bền vững.

Việc thúc đẩy liên kết công tư cũng sẽ giúp gia tăng nguồn lực đầu tư và nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn.

Xây dựng lộ trình:

Ngắn hạn: Rà soát, đánh giá lại các dự án đầu tư công trọng điểm; tăng

cường minh bạch, kiểm soát chất lượng đầu tư.

Trung hạn: Xây dựng chính sách thu hút đầu tư ưu đãi vào các lĩnh vực công

nghệ cao.

Dài hạn: Phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, hỗ trợ mở rộng quy

mô và chất lượng nền kinh tế.

5.3.2.4. Mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao giá trị chuỗi cung ứng

Việc mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao giá trị chuỗi cung ứng là giải

pháp quan trọng khác nhằm tăng quy mô nền kinh tế. Việt Nam cần đa dạng hóa thị

trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường lớn, đồng thời nâng cao

chất lượng sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung vào các mặt hàng công nghệ cao và

có giá trị gia tăng lớn. Tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ giúp Việt

Nam tận dụng tốt hơn cơ hội hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế cạnh tranh.

Xây dựng lộ trình:

Ngắn hạn: Tăng cường xúc tiến thương mại, ký kết các hiệp định thương mại

tự do mới.

Trung hạn: Phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng

lớn; cải thiện năng lực logistics, hạ tầng xuất nhập khẩu.

Dài hạn: Xây dựng các trung tâm xuất khẩu, khu công nghiệp chuyên sâu,

nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

5.3.2.5. Đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế số

Đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế số sẽ tạo ra động lực mới cho

tăng trưởng kinh tế. Việc ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Big

135

Data và Blockchain trong sản xuất và quản lý sẽ nâng cao hiệu quả, giảm chi phí và

tạo ra các ngành kinh tế mới như thương mại điện tử, fintech và logistics thông

minh. Xây dựng hạ tầng số đồng bộ, an toàn và bảo mật sẽ là nền tảng vững chắc

giúp nền kinh tế số của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

Xây dựng lộ trình

Ngắn hạn: Hoàn thiện khung pháp lý về chuyển đổi số; thúc đẩy chuyển đổi

số trong các ngành trọng điểm.

Trung hạn: Mở rộng ứng dụng công nghệ mới như AI, Big Data, Blockchain

trong sản xuất, kinh doanh

Dài hạn: Phát triển nền kinh tế số đa ngành, đa lĩnh vực với tỷ trọng ngày

càng lớn trong GDP.

5.3.2 Giải pháp mở rộng độ mở tài khoản vốn

Tài khoản vốn của Việt Nam vẫn đang chịu sự kiểm soát chặt chẽ nhằm bảo

vệ ổn định vĩ mô, song điều này cũng làm hạn chế dòng vốn quốc tế chảy vào đầu

tư dài hạn và làm giảm khả năng hội nhập sâu với thị trường tài chính toàn cầu.

Trong bối cảnh Việt Nam đang vươn lên trở thành thị trường hấp dẫn, việc mở rộng

tài khoản vốn là cần thiết để thu hút thêm vốn đầu tư, mở rộng quy mô nền kinh tế

và hỗ trợ sự phát triển thị trường tài chính trong nước.

Nội dung giải pháp:

Để mở rộng độ mở tài khoản vốn một cách hiệu quả và an toàn, Việt Nam

cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm chuẩn bị đầy đủ về pháp lý, thể chế và

năng lực thị trường. Trước tiên, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến

quản lý dòng vốn, đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp, mua bán chứng khoán và

chuyển tiền qua biên giới. Việc sửa đổi này cần hướng tới minh bạch, linh hoạt và

phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và

ngoài nước yên tâm hoạt động. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường năng lực

giám sát và điều tiết dòng vốn, bao gồm cả việc xây dựng hệ thống theo dõi dòng

vốn ra – vào, nhất là các dòng vốn ngắn hạn dễ gây biến động. Ứng dụng công nghệ

số như Big data và trí tuệ nhân tạo để giúp nâng cao hiệu quả giám sát và cảnh báo

sớm rủi ro tài chính.

136

Một giải pháp quan trọng khác là phát triển thị trường tài chính trong nước.

Việt Nam cần mở rộng quy mô và độ sâu của thị trường chứng khoán, trái phiếu và

thị trường ngoại hối, đồng thời cải thiện tính minh bạch, quản trị doanh nghiệp và

khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Đồng thời, tăng tính chuyển đổi của

đồng Việt Nam theo hướng từng bước cho phép giao dịch quốc tế bằng VND trong

các lĩnh vực có kiểm soát sẽ giúp tăng tính linh hoạt và hội nhập.

Về lộ trình thực hiện, trong ngắn hạn, Việt Nam cần tập trung xây dựng nền

tảng pháp lý và thể chế cần thiết. Việc rà soát các quy định liên quan đến quản lý

ngoại hối, đầu tư gián tiếp và tài khoản vốn cần được tiến hành khẩn trương, song

song với việc thiết lập hệ thống giám sát dòng vốn bằng công nghệ hiện đại. Cũng

trong giai đoạn này, có thể thí điểm nới lỏng có kiểm soát một số hoạt động chuyển

vốn ra nước ngoài đối với tổ chức tài chính hoặc quỹ đầu tư có điều kiện rõ ràng.

Trong trung hạn, Việt Nam có thể mở rộng thêm các hoạt động đầu tư gián tiếp ra

nước ngoài đối với nhà đầu tư cá nhân đủ điều kiện, đồng thời cho phép giao dịch

mua bán doanh nghiệp xuyên biên giới một cách minh bạch hơn. Đây cũng là giai

đoạn cần củng cố hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tài chính và tăng dự trữ ngoại hối để

đảm bảo ổn định vĩ mô.

Về dài hạn, khi nền kinh tế đã đủ khả năng chống chịu với các cú sốc từ bên

ngoài, Việt Nam có thể tiến tới dỡ bỏ phần lớn các biện pháp kiểm soát vốn ngắn

hạn và cho phép chuyển đổi tài khoản vốn gần như hoàn toàn. Khi đó, đồng Việt

Nam có thể đạt mức chuyển đổi cao hơn, thị trường tài chính nội địa đủ sâu để hấp

thụ các dòng vốn vào – ra và Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn với thị trường tài chính

toàn cầu.

5.3.3 Giải pháp tăng cường mức độ dân chủ

Tăng cường mức độ dân chủ là một mục tiêu quan trọng nhằm thúc đẩy sự

tham gia của người dân vào đời sống chính trị – xã hội, nâng cao tính minh bạch và

trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước, từ đó góp phần tạo dựng lòng tin xã hội

và phát triển bền vững. Đối với Việt Nam, việc mở rộng dân chủ cần được thực hiện

một cách phù hợp với điều kiện thể chế hiện tại, trên cơ sở bảo đảm ổn định chính

137

trị, đoàn kết xã hội và hiệu quả quản lý nhà nước. Để thực hiện được điều này Việt

Nam cần tăng cường minh bạch thông tin và tiếp cận dữ liệu. Minh bạch thông tin

kinh tế và chính sách tại Việt Nam còn hạn chế với nhiều dữ liệu quan trọng không được

công khai thường xuyên, làm giảm niềm tin của nhà đầu tư và công chúng.

Nội dung giải pháp:

Một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường mức độ dân chủ và

trách nhiệm giải trình của Nhà nước là thúc đẩy minh bạch thông tin, đặc biệt trong

lĩnh vực kinh tế – tài chính. Trước hết, cần công khai toàn diện dữ liệu kinh tế và tài

chính trên các cổng thông tin chính phủ. Thông tin này cần được trình bày rõ ràng,

dễ tiếp cận, cập nhật định kỳ và được cung cấp bằng nhiều ngôn ngữ để phục vụ

người dân, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế.

Ngoài ra, để truyền thông minh bạch đạt hiệu quả, cần đào tạo bài bản đội

ngũ cán bộ chính phủ về truyền thông công, đặc biệt là trong bối cảnh thông tin dễ

bị bóp méo hoặc gây hoang mang. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế như WB,

UNDP hay OECD trong đào tạo kỹ năng truyền đạt dữ liệu, kỹ thuật viết báo cáo, tổ

chức họp báo và xây dựng hệ thống hỏi – đáp công khai sẽ góp phần nâng cao năng

lực truyền thông chính sách.

5.3.4 Giải pháp tăng cường hiệu quả Chính phủ

5.3.4.1 Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị công

Mặc dù Việt Nam đã triển khai cổng dịch vụ công quốc gia và hệ thống

chính phủ điện tử, nhưng nhiều quy trình hành chính vẫn thủ công, đặc biệt ở cấp

địa phương, dẫn đến chậm trễ và thiếu minh bạch.

Nội dung giải pháp:

+ Mở rộng hệ thống chính phủ điện tử: Hoàn thiện và tích hợp các dịch vụ

công trực tuyến (thuế, hải quan, cấp phép đầu tư) vào một nền tảng thống nhất, sử

dụng công nghệ AI để tự động hóa xử lý dữ liệu.

+ Triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia để liên kết

thông tin giữa các bộ, ngành, và địa phương, giảm trùng lặp và tăng tốc độ xử lý.

+ Đầu tư vào hạ tầng số: Mở rộng mạng 5G và hệ thống đám mây để hỗ trợ

các ứng dụng quản trị công, đặc biệt ở các khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa.

138

5.3.4.2. Cải cách bộ máy hành chính

Bộ máy hành chính Việt Nam còn cồng kềnh, với nhiều tầng nấc trung gian

và chồng chéo chức năng, làm giảm hiệu quả ra quyết định.

Nội dung giải pháp:

+ Tinh giản bộ máy hành chính: Giảm số lượng cơ quan trung gian và sáp

nhập các đơn vị có chức năng tương đồng, ví dụ, hợp nhất các cục/vụ trong các bộ

để giảm chi phí và tăng tốc độ xử lý,

+ Tăng lương và phúc lợi công chức: Nâng lương công chức lên mức cạnh

tranh với khu vực tư nhân để giảm tham nhũng và thu hút nhân tài. Kèm theo các

chính sách thưởng dựa trên hiệu suất để khuyến khích trách nhiệm.

+ Đơn giản hóa quy trình hành chính

5.3.4.3. Đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ

Năng lực quản trị của đội ngũ cán bộ, công chức hiện vẫn còn nhiều hạn chế,

đặc biệt trong các lĩnh vực chuyên sâu và có tính kỹ thuật cao như điều hành kinh tế

vĩ mô, hoạch định chính sách tiền tệ và phân tích dữ liệu phục vụ ra quyết định.

Nội dung giải pháp:

+ Đào tạo chuyên sâu về quản lý kinh tế: Tăng cường hợp tác với các tổ chức

quốc tế (World Bank, IMF, ADB) để tổ chức các khóa đào tạo về chính sách tiền tệ,

quản lý tỷ giá, và phân tích kinh tế vĩ mô cho cán bộ của NHNN và các bộ liên quan.

+ Thu hút nhân tài từ khu vực tư nhân: Tuyển dụng các chuyên gia từ khu

vực tư nhân (ngân hàng, công ty tư vấn) vào nhiều vị trí trong các cơ quan nhà

nước, thông qua các hợp đồng ngắn hạn hoặc cố vấn.

Hướng tác động: Cán bộ có năng lực cao sẽ cải thiện khả năng hoạch định và

thực thi chính sách, đặc biệt trong quản lý tỷ giá linh hoạt.

5.3.5 Giải pháp tăng cường toàn cầu hóa

5.3.5.1 Tối ưu hóa các hiệp định thương mại tự do (FTA)

Mặc dù Việt Nam đã tham gia được 20 FTA trong đó có 16 FTA đã có

hiệu lực và đang được thực thi nhưng việc tận dụng các lợi ích (giảm thuế, mở rộng

thị trường) của Việt Nam vẫn còn hạn chế.

139

Nội dung giải pháp:

+ Tăng cường năng lực đáp ứng tiêu chuẩn FTA: doanh nghiệp cần được hỗ

trợ để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, và lao động của các FTA

như CPTPP và EVFTA, thông qua các chương trình đào tạo và trợ cấp.

+ Tận dụng RCEP và EVFTA để tăng xuất khẩu nông sản, thủy sản, và sản

phẩm công nghệ cao sang EU, Nhật Bản, và Hàn Quốc, giảm phụ thuộc vào Mỹ và

Trung Quốc.

+ Tăng cường truyền thông về FTA: Tổ chức các hội thảo và chiến dịch

truyền thông (trực tuyến và trực tiếp) để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp vừa

và nhỏ về lợi ích và yêu cầu của các FTA.

5.3.5.2. Tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu

+ Thu hút FDI vào công nghệ cao: Ưu tiên FDI vào các ngành bán dẫn, trí

tuệ nhân tạo (AI) và năng lượng tái tạo thông qua ưu đãi thuế và các khu công

nghiệp chuyên biệt.

+ Đầu tư vào các ngành sản xuất linh kiện điện tử, máy móc, và hóa chất để

giảm phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc, thông qua các chính sách hỗ trợ

doanh nghiệp nội địa.

+ Cải thiện hạ tầng logistics: Nâng cấp hệ thống cảng biển và sân bay để tăng

năng lực vận chuyển hàng hóa, đồng thời số hóa chuỗi cung ứng để giảm chi phí.

140

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5

Trong chương 5, luận án đã trình bày định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá của

Việt Nam dựa trên phân tích định hướng phát triển của các nhân tố kinh tế, chính trị

thể chế của Việt Nam. Cùng với kết quả mô hình từ chương 4 tác giả đưa ra nhận

định rằng Việt Nam nên dần dần chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt. Trên cơ sở đó,

tác giả đã đề xuất các giải pháp thúc đẩy các nhân tố có ảnh hưởng mang tính quyết

định tới lựa chọn chế độ tỷ giá cho Việt Nam theo định hướng ngày càng linh hoạt

hơn.

141

KẾT LUẬN

Lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp vẫn luôn là bài toán khó và là chủ đề được các

quốc gia quan tâm. Đối với các quốc gia đang phát triển thì tầm quan trọng của việc áp

dụng và có định hướng đúng đắn trong lựa chọn chế độ tỷ giá có thể tác động tới lạm

phát, tăng trưởng kinh tế, cán cân thương mại của các quốc gia. Chính vì vậy, việc

nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn đối với

các quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á, đặc biệt là cho Việt Nam.

Luận án đã đạt được những kết quả nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, luận án hệ thống hóa cơ sở luận về các nhân tố ảnh hưởng tới lựa chọn

chế độ tỷ giá của các quốc gia. Trong đó, tác giả phân tích những lý luận chung về chế

độ tỷ giá như khái niệm, đặc điểm, vai trò và cách phân loại. Tác giả cũng tiến hành tổng

hợp phân tích và phân chia thành hai nhóm: nhân tố kinh tế và chính trị - thể chế có ảnh

hưởng tới lựa chọn của các quốc gia.

Thứ hai, luận án đã trình bày phương pháp nghiên cứu với quy trình thực

hiện gồm 8 bước và chỉ ra nội dung từng bước thực hiện. Đồng thời chương 2 cũng

đã đưa ra các mô hình đánh giá: mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố kinh

tế tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định và theo thực tế; mô hình đánh giá ảnh

hưởng của các nhân tố chính trị - thể chế tới lựa chọn chế độ tỷ giá theo pháp định,

và theo thực tế với giai đoạn nghiên cứu từ 2010 – 2023 và chia theo giai đoạn từ

2010 – 2015 và 2016 – 2023.

Thứ ba, luận án tập trung phân tích thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá của

một số quốc gia đang phát triển tại khu vực châu Á (Trung Quốc, Thái Lan và Việt

Nam) trong giai đoạn từ sau khủng hoảng châu Á ở 2 khía cạnh: i) chế độ tỷ giá

pháp định, ii) chế độ tỷ giá thực tế. Trong quá trình phân tích, đánh giá tác động của

các nhân tố kinh tế, chính trị thể chế tác động tới sự lựa chọn chế độ tỷ giá của các

quốc gia này trong các giai đoạn khác nhau và đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt

Nam.

Thứ tư, lượng hóa tác động các nhân tố kinh tế và các nhân tố chính trị - thể chế

có ảnh hưởng đến lựa chọn chế độ tỷ giá thông qua sử dụng mô hình probit thứ bậc.

142

Hầu hết các nhân tố kinh tế và chính trị được đưa vào nghiên cứu trong mô hình đều

cho thấy có ý nghĩa thống kê chỉ có duy nhất lạm phát không có tác động tới lựa

chọn chế độ tỷ giá của nhóm quốc gia nghiên cứu. Thông qua kết quả từ mô hình

cho thấy các nhân tố: quy mô nền kinh tế, độ mở cửa tài khoản vốn, ổn định chính

trị, mức độ dân chủ và hiệu quả Chính phủ là những nhân tố quyết định, có tác động

lớn tới lựa chọn chế độ tỷ giá của các quốc gia trong giai đoạn này. Các nhân tố: độ

mở cửa thương mại, mức độ nhận thức tham nhũng và toàn cầu hóa có góp phần tác

động tới lựa chọn của các quốc gia tuy nhiên chỉ ở mức độ nhỏ. Nhân tố mới được

đưa vào mô hình đánh giá đó là nhân tố hiệu quả Chính phủ đã cho thấy có tác động

tích cực và có mức độ ảnh hưởng lớn tới lựa chọn chế độ tỷ giá của quốc gia trên

thực tế tuy nhiên không có tác động rõ ràng tới lựa chọn chế độ tỷ giá của quốc gia

theo pháp định.

Thứ năm, ứng dụng kết quả của mô hình vào Việt Nam nhằm đưa ra nhận

xét về định hướng lựa chọn chế độ tỷ giá, tác giả nhận thấy rằng chế độ tỷ giá

linh hoạt là xu hướng phù hợp với đặc điểm và sự phát triển của Việt Nam. Trên

cơ sở đó, một số giải pháp được đưa ra nhằm thúc đẩy các nhân tố có tác động

tích cực tới định hướng này.

143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1. Hoàng Thị Lan Hương (2020), “Hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam

giai đoạn 2010 – 2020”, Luận án tiến sỹ.

2. Mai Thu Hiền (2007). “Solutions for Exchange Rate Policy of Transition

Economy of Vietnam,” Doctoral dissertation, Martin Luther University.

3. Mai Thu Hiền (2013), Chính sách tỷ giá hối đoái cho nền kinh tế chuyển

đổi Việt Nam, NXB Bách Khoa.

4. Nguyễn Đức Thành và cộng sự (2009), Báo cáo Kinh tế Thường niên

2008, VEPR.

5. Nguyễn Thị Thu Hằng và cộng sự (2010), “Lựa chọn chính sách tỷ giá

trong bối cảnh phục hồi kinh tế”, Báo cáo Kinh tế Thường niên 2010, VEPR

6. Nguyễn Trần Phúc (2009), “Implications of Exchange Rate Policy for

Foreign Exchange Market Development: Vietnam, 1986-2008,” Griffen University.

7. Nguyễn Trần Phúc và Nguyễn Đức-Thọ, (2009), “Exchange Rate Policy

in Vietnam, 1985- 2008,” ASEAN Economic Bulletin, Vol. 26, No. 2, pp. 137-163.

8. Nguyễn Văn Tiến (2023), Giáo trình “Tài chính quốc tế”, NXB Thống kê.

9. Nguyễn Thị Thu Hằng và cộng sự (2010), Lựa chọn chính sách tỷ giá

trong bối cảnh phục hồi kinh tế, Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

10. Phạm Thế Anh (2014), “Chính sách tỷ giá hối đoái: Lựa chọn nào cho

Việt Nam?”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 210, t12/2914, trang 11- 20.

11. Phạm Thị Hoàng Anh (2023), “Điều hành chính sách tiền tệ của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam trong năm 2022 nhằm ứng phó với các cú sốc”, Tạp chí

Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 248+249, Tháng 1&2/2023, trang 1-10

12. Võ Trí Thành, Đinh Hiển Minh, Đỗ Xuân Trường, Hoàng Văn Thanh và

Phạm Chí Quang (2000), “Exchange Rate Arrangement in Vietnam: Information

Content and Policy Options,” East Asian Development Network (EADN),

Individual Research Project.

144

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

1.Acemoglu, D., Johnson, S., Robinson, J., & Thaicharoen, Y. (2003).

Institutional causes, macroeconomic symptoms: Volatility, crises and growth.

Journal of Monetary Economics, 50(1), 49–123.

2. Agbeyegbe, T., Stotsky, J., & WoldeMariam, A. (2006). Trade

liberalization, exchange rate changes, and tax revenue in Sub-Saharan Africa.

Journal of Asian Economics, 17(2), 261–284.

https://doi.org/10.1016/j.asieco.2005.09.003

3. Aizenman, J., Chinn, M. D., & Ito, H. (2010). The emerging global

financial architecture: Tracing and evaluating new patterns of the trilemma

configuration. Journal of International Money and Finance, 29(4), 615–641.

https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2010.01.005

4. Alesina, A., & Wagner, A. F. (2006). Choosing (and reneging on)

exchange rate regimes. Journal of the European Economic Association, 4(4), 770–

799. https://doi.org/10.1162/JEEA.2006.4.4.770

5. Alesina, A., (1987), “Macroeconomic Policy in a Two-Party System as a

Repeated Game”, The Quarterly Journal of Economics, Volume 102, Issue 3,

August 1987, Pages 651–678, https://doi.org/10.2307/1884222

6. Aliyev, R. (2014) Determinants of the Choice of Exchange Rate Regime

in Resource-Rich Countries. IDEAS Working Paper Series from RePEc.

7. Aliyev, R., & Zeynalov, A. (2024). Determinants of the choice of

exchange rate regime in oil-exporting countries. Economic Systems, 101269.

8. Amirkhalkhali, S., & Dar, A. (2019). Trade openness, factor productivity,

and economic growth: Recent evidence from OECD countries (2000–2015).

International Journal of Economics and Business Research, 18(4), 441–457.

9. Bearce, D. H., & Hallerberg, M. (2011). Democracy and de facto

exchange rate regimes. Economics & Politics, 23(2), 172–194.

145

10. Berdiev, A. N., Kim, Y., & Chang, C.-P. (2012). The political economy

of exchange rate regimes in developed and developing countries. European Journal

of Political Economy, 28(1), 38–53.

11. Berger, H. et al. (2001) Capital Controls and Exchange Rate Regimes:

An Empirical Investigation. IDEAS Working Paper Series from RePEc.

12. Bernhard, W., & Leblang, D. (1999). Democratic Institutions and

Exchange-Rate Commitments. International Organization, 53, 71-97.

https://doi.org/10.1162/002081899550814

13. Bleaney, M. & Francisco, M. (2005) Exchange rate regimes and

inflation: only hard pegs make a difference. The Canadian journal of economics.

[Online] 38 (4), 1453–1471.

14. Bodea, C. (2010) Exchange Rate Regimes and Independent Central

Banks: A Correlated Choice of Imperfectly Credible Institutions. International

organization. [Online] 64 (3), 411–442.

15. Broz, J. L. (2002). Political system transparency and monetary

commitment regimes. International Organization, 56(4), 861–887.

16. Broz, J. L., Frieden, J., & Weymouth, S. (2008). Exchange rate policy

attitudes: Direct evidence from survey data. IMF Staff Papers, 55(3), 417–444.

17. Calvo, G. M. & Reinhart, C. M. 2002. Fear of Floating, The Quarterly

Journal of Economics, President and Fellows of Harvard College, vol. 117(2), pages

379-408.

18. Chang, C. & Lee, C. (2017) The Effect of Government Ideology on an

Exchange Rate Regime: Some International Evidence. World economy. [Online] 40

(4), 788–834.

19. Charles T. C., Timothy S. F., (2006), Central bank independence: The

key to price stability? Economic Commentary.

20. Chinn, M. D. and Ito, H. (2006), What Matters for Financial

Development? Capital Controls, Institutions, and Interactions, Journal of

Development Economics, Volume 81, Issue 1, Pages 163-192 (October)

146

21. Chinn, M. D., & Ito, H. (2008). A new measure of financial openness.

Journal of Comparative Policy Analysis: Research and Practice, 10(3), 309–322.

https://doi.org/10.1080/13876980802231123

22. Cukierman, A., Webb, S. B., & Neyapti, B. (1992). Measuring the

independence of central banks and its effect on policy outcomes. The World Bank

Economic Review, 6(3), 353–398.

23. Cukierman, Alex, 2008. Central bank independence and monetary

policymaking institutions -- Past, present and future, European Journal of Political

Economy, Elsevier, vol. 24(4), pages 722-736, December.

24. Das, S. (2019). China's evolving exchange rate regime (IMF Working

Paper No.19/50), IMF. https://doi.org/10.5089/9781498302029.001

25. Dreher, A., Gaston, N., & Martens, P. (2008). Measuring globalisation:

Gauging its consequences. Springer.

26. Edwards, S., (1996), “The Determinants of the Choice Between Fixed

and Flexible Exchange-rate Regimes,” NBER Working Paper No. 5756.

27. Eichengreen, B., Bayoumi T., (1994), The political economy of fiscal

restrictions: Implications for Europe from the United States, European Economic

Review, Volume 38, Issues 3–4, 1994, Pages 783-791,

28. Fischer, S. (2001). Exchange rate regimes: Is the bipolar view correct?

Journal of Economic Perspectives, 15(2), 3–24. https://doi.org/10.1257/jep.15.2.3

29. Frankel, J. A. (2010). Monetary policy in emerging markets: A survey. In

B. M. Friedman & M. Woodford (Eds.), Handbook of monetary economics (Vol. 3,

pp. 1439–1520). Elsevier. https://doi.org/10.1016/B978-0-444-53454-5.00005-2

30. Ghosh, A. R., Gulde, A.-M., Ostry, J. D., & Wolf, H. C. (2002).

Exchange rate regimes: Choices and consequences. MIT Press.

31. Guclu, M. (2008) The Determinants of Exchange Rate Regimes in

Emerging Market Economies. IDEAS Working Paper Series from RePEc.

32. Gygli, S., Haelg, F., Potrafke, N., & Sturm, J.-E. (2019). The KOF

Globalisation Index – revisited. Review of International Organizations, 14(3), 543–574.

147

33. Habermeier Karl F , Kokenyne A. & Veyrune Romain M & & Anderson

Harald J, (2009). "Revised System for the Classification of Exchange Rate

Arrangements," IMF Working Papers 2009/211, International Monetary Fund.

34. Hadj Fraj, M., Bouchoucha, N., & Maktouf, S. (2020). Political stability

and exchange rate regime choice in developing countries. MPRA Paper No.

104586.

35. Honig, A. (2005) Fear of floating and domestic liability dollarization.

Emerging markets review. [Online] 6 (3), 289–307.

36. Husain, A. M., Mody, A., & Rogoff, K. S. (2005). Exchange rate regime

durability and performance in developing versus advanced economies. Journal of

Monetary Economics, 52(1), 35–64. https://doi.org/10.1016/j.jmoneco.2004.07.001

37. IMF (2003). Exchange rate regimes: Still a matter of debate. IMF

Occasional PaperNo.229.

https://www.imf.org/en/Publications/OCP/Issues/2016/12/30/Exchange-

Rate-Regimes-Still-a-Matter-of-Debate-16535

38. Itskhoki, O., & Mukhin, D. (2021). Exchange rate disconnect in general

equilibrium. Journal of Political Economy, 129(8), 2183–2232.

https://doi.org/10.1086/714447

39. Jbili, A., & Kramarenko, V. (2003). Choosing exchange rate regimes in

the Middle East and North Africa. IMF Occasional Paper No. 219.

40. Juhn, G.; Mauro, P., (2002), Long-Run Determinants of Exchange Rate

Regimes A Simple Sensitivity Analysis IMF Working Paper No. 02/104, Available

at SSRN: https://ssrn.com/abstract=879677

41. Jurek M., (2018). Choosing the exchange rate regime–a case for

intermediate regimes for emerging and developing economies, Economics and

Business Review, Sciendo, vol. 4(4), pages 46-63, November.Kaminsky và

Schmukler (2001)

42. Karras, G. (2011). Exchange-rate regimes and the effectiveness of

monetary policy. Journal of Applied Economics, 14(2), 279–297.

https://doi.org/10.1016/S1514-0326(11)60016-9

148

43. Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2010). The worldwide

governance indicators: Methodology and analytical issues. Hague Journal on the

Rule of Law, 3(2), 220–246.

44. Keho, Y. (2017). The impact of trade openness on economic growth: The

case of Côte d’Ivoire. Cogent Economics & Finance, 5(1), 1332820.

45. Latter, T. (1996), "The Choice of Exchange Rate Regime," Handbooks,

Centre for Central Banking Studies, Bank of England, number 2, April.Levine,

2005).

46. Leblang, D. A. (1999). Domestic political institutions and exchange rate

commitments in the developing world. International Studies Quarterly, 43(4), 599–

620.

47. Levy-Yeyati, E., & Sturzenegger, F. (2005). Classifying exchange rate

regimes: Deeds vs. words. European Economic Review, 49(6), 1603–1635.

https://doi.org/10.1016/j.euroecorev.2004.01.001

48. Libman, A. (2018). Economic openness and exchange rate regimes in

post-Soviet countries. Post-Communist Economies, 30(3), 317–339.

https://doi.org/10.1080/14631377.2017.1366657

49. Markiewicz, A., 2006. Choice of exchange rate regime in transition

economies: An empirical analysis, Journal of Comparative Economics, Elsevier,

vol. 34(3), pages 484-498, September.

50. McKinnon M. (1963), “Optimum Currency Areas” American Economic

Review 53: 717–25.

51. Mishkin, F. (2010) The Economics of Money, Banking and Financial

Markets. Business School Edition, 2nd Edition, Pearson Education, Inc., Boston.

52. Mundell R. (1961), “A Theory of Optimum Currency Areas,” American

Economic Review 51: 657–65. Mundell, R. (1963), “Capital Mobility and

Stabilization Policy under Fixed and Flexible Exchange Rates,” Canadian Journal

of Economics and Political Science 29: 475–85.

149

53. Obstfeld, M., & Rogoff, K. (2005). International economics: Theory and

policy (7th ed.). Pearson..

54. Ohno, S., Fukuda, S., (2003), Exchange Rate Regimes in East Asia after

the Crisis: Implications from Intra-daily Data, CIRJE F-Series CIRJE-F-247,

CIRJE, Faculty of Economics, University of Tokyo.

55. Poirson, H., (2001), How do countries choose their exchange rate

regime? International Monetary Fund Working Paper 01/46

56. Pollard, S. (1993), Central bank independence and economic

performance, Review, Federal Reserve Bank of St. Louis, issue Jul, pages 21-36.

57. Quinn, D. P., & Toyoda, A. M. (2008). Does capital account

liberalization lead to growth? Review of Financial Studies, 21(3), 1403–1449.

58. Rabhi, A. (2022) Flexibility Versus Fixity of Exchange Rate Regimes in

Developing Countries: An Empirical Assessment of Macroeconomic Effects. The

journal of applied business and economics. [Online] 24 (2), 113–124.

59. Rault, C. (2021). How economic, political and institutional factors

influence the choice of exchange rate regimes? New evidence from selected

countries of the MENA region. Academia.edu.

60. Reinhart, C. M, & Rogoff, K. S., 2004. The Modern History of Exchange

Rate Arrangements: A Reinterpretation, The Quarterly Journal of Economics,

President and Fellows of Harvard College, vol. 119(1), pages 1-48.

61. Rodrik, D. (2008). The real exchange rate and economic growth.

Brookings Papers on Economic Activity, 2008(2), 365–412.

62. Rodriguez, A. (2016), Exchange Arrangements and Currency Crises:

What´s the matter with the exchange rate classification? Journal of economics and

political economy. [Online] 3 (2), 377

63. Rogoff, K., Bacchetta, P., Aghion, P., & Rancière, R. (2006). Exchange

rate volatility and productivity growth: The role of financial development. CEPR

Discussion Papers, 5629. Centre for Economic Policy Research.

150

64. Russell, J. (2011). Herding and the shifting determinants of exchange rate

regime choice. Applied Economics, 44(32), 4187–4197.

65. Shambaugh, Jay C., (2004). The Effect of Fixed Exchange Rates on

Monetary Policy, The Quarterly Journal of Economics, President and Fellows of

Harvard College, vol. 119(1), pages 301-352.

66. Steinberg, D. A., & Malhotra, K. (2014). The effect of authoritarian

regime type on exchange rate policy. World Politics, 66(3), 491–529.

67. Von Hagen, Zhou, J. (2002), De facto and Official Exchange Rate

Regimes in Transition Economies, CEIS Working Paper.

68. Von Hagen, Zhou, J. (2004), The choice of exchange rate regimes in

developing countries: A mulitnominal panal analysis, CEIS Working Paper.

69. Williamson, J. (2000). Exchange rate regimes for emerging markets:

Reviving the intermediate option. Institute for International Economics.

70. Yagci, F., (2001), Choice of Exchange Rate Regimes For Developing

Countries, Africa Region Working Paper Series No. 16

PHỤ LỤC

Bangladesh

Malaysia

Thailand

Bhutan

Mongolia

Uzbekistan

Cambodia

Myanmar

Vietnam

China

Nepal

Kryzic Republic

India

Pakistan

Indonesia

Philippines

Kazakhstan

Sri Lanka

Laos

Tajikistan

Phụ lục 1: Các quốc gia đang phát triển tại Châu Á trong mẫu nghiên cứu:

Phụ lục 2: Kết quả chạy mô hình từ phần mềm Stata.

Bảng 1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Bảng 2: Kiểm tra tính tự tương quan và kiểm định VIF.

Bảng 3: Kết quả các mô hình probit thứ bậc

Bảng 4: Chạy mô hình logit thứ bậc (cho kiểm định robustness test)