TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----(cid:91)(cid:92)(cid:9)(cid:91)(cid:92)----- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Đề tài:

Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng ở Công ty Dược Phẩm Trung Ương I

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 3 CHƯ ƠNG I..................................................................................................... 5 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ............................................... 5 I. DOANH NGHIỆP VÀ VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG .............................. 5 1. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường................................................ 5 2. Kinh doanh thương mại trong cơ chế thị trường ................................ 8 3. Hoạt động bán hàng và vai trò của nó đối với doanh nghiệp ............. 9

II NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG............................................................ 14 1- Nội dung ........................................................................................... 14 2. Các hình thức và phương pháp bán hàng. ........................................ 31

III. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP................................................................ 35 1. Các yếu tố chủ quan:......................................................................... 35 2. Các yếu tố khách quan. ..................................................................... 37

CHƯƠNG II .................................................................................................. 39 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG Ở CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG I................................................................ 39

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG I .............................................................. 39

1. Quá trình hình thành, chức năng và nhiệm vụ của Công ty dược phẩm trung ương I. ............................................................................... 39 2. Cơ cấu tổ chức. ................................................................................. 40 3. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban ......................................... 41 4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dược Trung ương I. ................................................................................................... 43 5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Dược phẩm TW I. ....... 47

LỜI NÓI ĐẦU

Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh đã có không ít doanh nghiệp do không chuyển biến thích ứng với cơ chế thị trường nên đã không thể đứng vững và tồn tại trong cơ chế mới. Điều này đã chứng tỏ mức độ cạnh tranh trên thị trường đang ngày càng quyết liệt hơn, và một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp là không tiêu thụ được hàng hoá. Do đó để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đã phải áp dụng rất nhiều chính sách trong đó đẩy mạnh bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ sống còn của mỗi doanh nghiệp.

Cũng như các thị trường khác, thị trường dược phẩm ở nước ta hiện nay đang phát triển rất mạnh nhưng song song với sự phát triển cũng có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết ngay mà Công ty Dược phẩm trung ương I đang tham gia hoạt động kinh doanh, cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt đòi hỏi các mặt hàng của Công ty bán ta phải luôn luôn thay đổi cả về mẫu mã, chất lượng để phù hợp với cơ chế thị trường. Do đó hiện nay Công ty Dược phẩm Trung Ương I đang đứng trước những thử thách hết sức khó khăn. Vì vậy để duy trì và phát triển trong tương lai thì một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Công ty hiện nay là làm thế nào để ngày càng hoàn thiện công tác bàn hàng đang là vấn đề được Công ty đặc biệt quan tâm chú ý.

Đây là một vấn đề lớn, phạm vi nghiên cứu sâu rộng và liên quan đến nhiều vấn đề. Do đó, trong thời gian thực tập tại Công ty Dược phẩm Trung Ương I bản thân được làm trực tiếp với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nhận thấy rằng hoàn thiện công tác bán hàng là điều kiện cần thiết nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh cho Công ty.

Nội dung cơ bản của chuyên đề được trình bày trong ba chương:

Chương I: Lý luận cơ bản về hoạt động bán hàng của doanh nghiệp

trong cơ chế thị trường.

Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng ở Công ty

Dược Phẩm Trung Ương I.

Chương III: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh bán hàng trong kinh

doanh thương mại ở Công ty Dược phẩm Trung Ương I.

CHƯ ƠNG I

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA

DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

I. DOANH NGHIỆP VÀ VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA

DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

1. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường

Thị trường được hiểu là nơi mua bán hàng hoá, là một quá trình trong

đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để

xác định số lưoựng và giá cả hàng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán

hàng bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định. Bởi vậy khi nói

đến thị trường người ta phải bao gồm ba yếu tố chính đó là: người bán, nhu

cầu có khả năng thanh toán và giá cả.

Trong cơ chế thị trường, các tổ chức kinh doanh, các nhà kinh doanh

đều được quyền chủ động quyết định trong sản xuất kinh doanh, chủ động

về vốn, công nghệ và lao động... Trong sản xuất kinh doanh tự chịu trách

nhiệm về lỗ, lãi trong hoạt động kinh doanh của mình. Để phát triển nền

kinh tế hàng hoá đòi hỏi các doanh nghiệp các tổ chức kinh doanh phảie mở

rộng quan hệ và bán hàng trên thị trường trong nước và quốc tế trên cơ sở

tuân thủ pháp luật, kế hoạch, chính sách kinh doanh-xã hội của Nhà nước.

Việc tìm ra thị trường ổn định của mình là hết sức quan trọng mang tính chất

sống còn của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp phải hết sức năng động và

nhạy bén trong mọi quyết định kinh doanh. Khái niệm về kinh doanh có thể

được phát triển như sau: Kinh doanh chính là việc đầu tư công sức, tiền của

để tổ chức hoạt động nhằm mục đích kiếm lời (thu lợi nhuận).

Kinh doanh thương mại là các doanh nghiệp thực hiện các công đoạn

mua bán lưu thông sản phẩm đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng nhằm

mục đích thu lợi nhuận.

Một doanh nghiệp muốn kinh doanh được ban đầu phải có một số vốn

nhất định (T). Số vốn này đem mua bán, làm nhà xưởng, mua nhiên nguyê

vật liệu, thuê nhân công... Tóm lại là dt cho cơ sở hạ tầng rồi tiến hành sản

xuất kinh doanh. Kết quả là người kinh doanh sẽ có khối lượng hàng hoá

(H). Khi mang hàng hoá này bán ra trên thị trường sẽ thu được một số tiền

(T’ = T + lợi nhuận). Tuy vậy, việc tối đa hoá lợi nhuận không được vi phạm

hành lang pháp lý do Nhà nước quy định thì khi đó có thể coi việc kinh

doanh của doanh nghiệp là có hiệu quả. Nhà kinh doanh thương mại có thể

là người cung cấp những yếu tố đầu trong quá trình sản xuất kinh doanh như

nguyên vật liệu, nhiên liệu... tất cả các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất

hoặc là người thực hiện giá trị hàng hoá được sản xuất ra ở mọi lúc moị nơi

nhằm thu được lợi nhuận. Nếu như việc cung cấp này do Nhà nước sản xuất

tự thực hiện thì sẽ gây đình đốn làm chậm vòng chu chuyển của vốn và tất sẽ

hoạt động kém hiệu quả. Vậy bản chất củ kinh doanh thương mại là hoạt

động nhằm mục đích thu lợi nhuận. Song mặc dù tìm mọi cách tăng lợi

nhuận các doanh nghiệp luôn phải nhớ là phải luôn đi đúng hướng, phục vụ

cho mục tiêu kinh tế-xã hội mà Đảng và Nhà nước đã xác định trong thời kỳ

cụ thể. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, nhà kinh doanh phải nghiên cứu

và nắm vững quy chế, quy định của Nhà nước đồng thời cũng phải hiểu rõ

các quy luật kinh tế chi phối hoạt động của thị trường (Quy luật hàng hoá

vận ddộng từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao, quy luật mua rẻ, bán

đắt, quy luật mua của người chán bán cho người cần...)

Những năm tới, với sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước được

đẩy mạnh, ngành thương mại phải là một khâu thúc đẩy sự nghiệp công

nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phục vụ một cách đắc lực bằng lực lượng

vật chất của mình, đồng thời, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước cũng tạo ra những tiền đề để đảm bảo hàng hoá ngày càng đa

dạng, phong phú, hiện đại để mở rộng và phát triển không ngừng thị trường

và quy mô của lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.

+ Phát triển các hoạt động dịch vụ khách hàng kịp thời, thuận lợi và

văn minh nhằm phục vụ tốt nhất người tiêu dùng. Ngày nay trong hoạt động

kinh doanh thương mại, dv là lĩnh vực cạnh tranh. Doanh nghiệp có phát

triển mà mở rộng được thị trường hay không, một phần lớn phụ thuộc vào

các hoạt động dịch vụ khách hàng có kịp thời, thuận lợi và văn minh hay

không.

+ Giảm chi phí kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh

tuân thủ luật pháp và chính sách xã hội. Muốn tăng hiệu quả kinh doanh,

tăng lợi nhuận thì đi đôi với tăng doanh số bán hàng dịch vụ, cần phải giả

các khoản chi phí kinh doanh không cần thiết, lãng phí và có khả năng giảm.

Trong mối quan hệ chi phí và thu nhập, phải có chi mới có thu, phải biết chi

mới có thu. Vì vậy giảm chi phí kinh doanh và tiết kiệm các khoản chi

không tạo ra nguồn thu, các khoản chi phí có tính chất phô trương hình thức,

lãng phí vô ích. Trong đó, đặc biệt phải chú trọng giảm chi phí lưu thông.

Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh là nhiệm vụ thường xuyên của

kinh doanh thương mại. Do vốn là phạm trù giá trị nên chịu nhiều ảnh

hưởng tỷ lệ lạm phát (mất giá trượt giá) của đồng tiền, quan hệ tỷ giá với các

đồng tiền chuyển đổi khác và tỷ lệ lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng. Dù

đứng trên lĩnh vực nào đi chăng nữa thì trách nhiẹm của người quản trị điều

hành doanh nghiệp kinh doanh vẫn có nhiệm vụ bảo toàn vốn được giao và

phải phát triển được vốn kinh doanh, theo yêu cầu của hội đồng quản trị

doanh nghiệp mỗi giai đoạn.

2. Kinh doanh thương mại trong cơ chế thị trường

* Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá dịch vụ

để lựa chọn kinh doanh. Có nghĩa là doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định

cho được nhu cầu của khách hàng và sự đáp ứng cho các nhu cầu đó hiện

nay. Nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) loại hàng hoá nào đó cũng

có thể doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá chưa hề có trên thị trường

nhưng qua nghiên cứu tin chắc rằng khách hàng sẽ có và ngày càng tăng lên.

Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường mà doanh nghiệp sẽ đáp ứng,

đồng thời doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu và xác định khả năng

của nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng

nhu cầu của khách hàng. từ đó doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng và quyết

định các cơ sở vật chất phù hợp với mặt hàng đã lựa chọn để đi vào kinh

doanh.

* Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn nhân lực và kinh doanh:

Kinh doanh thương mại cũng phải huy động các nguồn lực để tiến hành các

hoạt động kinh doanh. Các nguồn lực của kinh doanh mà doanh nghiệp có

thể huy động được gồm: Tiền, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng... và vốn vô hình

như: Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá, tín nhiệm của khách hàng... và

con người với tài năng, kinh nghiệm nghề nghiệp đã được đào tạo... được

huy động vào kinh doanh.

Việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực do tập thể hội đồng

quản trị có trách nhiệm, song về cơ bản đó là tài năng của giám đốc, cũng

như sự phát huy khả năng của mọi thành viên trong doanh nghiệp, vấn đề kỹ

thuật, kỷ cương trong doanh nghiệp và vấn đề khuyến khích bằng lợi ích vật

chất và tinh thần với mọi thành viên

* Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ mua, bán, dự trữ, bảo quản, vận

chuyển, khuyến mại và các hoạt động dịch vụ khách hàng. Trong đó tổ chức

phân phối và bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng bậc nhất, bởi vì

chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, mới có nguồn

trang trải chi phí lưu thông và mới có lợi nhuận. Doanh nghiệp cũng phải dự

trữ hàng hoá để đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời đồng bộ và ổn định cho

các khách hàng. Để thực hiện các nghiệp vụ mua, các kho dự trữ, các cửa

hàng, qúy hàng để bán hàng. Đồng thời phải thực hiện các nghiệp vụ vận

chuyển, giao nhận, thanh toán với người mua, người bán... Trong hoạt động

kinh doanh cần phải thực hiện các hoạt động dịch vụ, phục vụ khách hàng.

Chỉ có thực hiện các hoạt động dịch vụ bán hàng mới thu hút được khách

hàng và khách hàng tương lai của doanh nghiệp.

* Quản lý tốt lao động, vật tư, tiền vốn nhằm không ngừng nâng cao

hiệu quả kinh doanh.

3. Hoạt động bán hàng và vai trò của nó đối với doanh nghiệp

Đặc điểm nổi bật của nền sản xuất hàng hoá là sản phẩm sản xuất ra là

để trao đổi, mua bán, vì vậy trao đổi đã xuất hiện cùng với sự ra đời của sản

xuất hàng hoá (nhưng lúc đầu chỉ mang tính giản đơn, thô sơ theo công thức

hàng-hàng (H-H) nghĩa là hàng hoá chỉ được thực hiện dưới hình thức trao

đổi hiện vật. Đến khi tiền tệ làm phương tiện lưu thông xuất hiện công thức

của trao đổi đó là hàng-tiền-hàng (H-T-H) và đó chính là quá trình lưu thông

hàng hoá. Vậy lưu thông hàng hoá gồm hai giai đoạn là giai đoạn Hàng-Tiền

(H-T) và giai đoạn Tiền-Hàng (T-H). trong giai đoạn hàng hoá được chuyển

từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị, đó chính là việc bán hàng.

Vậy thực chất bán hàng là sự chuyển hoá hình thái giá trị của hàng

hoá từ hàng sang tiền (H-T) nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một

giá trị sử dụng nhất định, là khâu cuối cùng có tính chất quyết định của quá

trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

Chúng ta biết rằng hàng hoá được sản xuất ra là để trao đổi, để bán,

nhưng khi một hàng hoá được đem ra thị trường mua bán thì người mua và

người bán quan tâm đến hàng hoá đó với những mục đích hoàn toàn khác

nhau, mục đích của người bán là giá trị, họ có giá trị sử dụng nhưng họ cần

giá trị. Ngược lại người mua rất cần giá trị sử dụng, nhưng họ phải có một

giá trị tương đương để trao đổi với người bán thì mới sở hữu được giá trị của

hàng hoá. Như vậy quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai quá

trình khác nhau về không gian và thời gian. Quá trình thực hiện giá trị được

thực hiện trước quá trình thực hiện giá trị sử dụng. Quá trình thực hiện giá

trị được tiến hành trên thị trường, còn quá trình thực hiện giá trị được tiến

hành trong tiêu dùng. Khi việc bán hàng không thành thì tuy bản thân hàng

hoá không bị thiệt hại gì, nó không bị mất đi giá trị sử dụng, nhưng khi đó

giá trị của hàng hoá không được thực hiện và do vậy giá trị sử dụng cũng

không thể thực hiện được, điều đó cũng có nghĩa là lao động xã hội của

người sản xuất hàng hoá không được xã hội thừa nhận, ở nước ta trước đây,

trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấo, hàng hoá

được Nhà nước cấp phát theo chỉ tiêu pháp lệnh. Hàng hoá được bán với giá

“rẻ như tro”. Giá cả của một vật tách rời với giá trị của nó, hoạt động bán

hàng chỉ là hình thức. Nhưng từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986)

đến nay nước ta được thực hiện phương thức đổi mới “Quản lý nền kinh tế

theo cơ chế thị trường có từ đây, từ khi hoạt động bán hàng được thực hiện,

hàng hoá được đi vào lưu thông, vào tiêu dùng phục vụ đời sống, thực hiện

giá trị của mình.

- Đối với các doanh nghiệp bán hàng là khâu cuối cùng trong khâu sản

xuất kinh doanh nên nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Mọi hoạt

động công tác khác đều nhằm mục đích là bán được hàng hoá và chỉ có bán

hàng mới thực hiện được mục tiêu trước mắt đó là lợi nhuận, bởi vì lợi

nhuận là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp. Ngoài ra từ khâu bán hàng, hàng hoá chuyển từ hình thái

hiện vật sang hình thái tiền tệ, vòng chu chuyển vốn củă doanh nghiệp được

hoàn thành và tiếp tục vòng mới, doanh nghiệp tiếp tục đi vào hoạt động sản

xuất kinh doanh. Vì vậy hoạt động bán hàng là hoạt động nghiệp vụ cơ bản

nhất, nó chi phối và quyết định các nghiệp vụ khách hàng của doanh nghiệp.

Nếu khâu bán được tổ chức tố, hàng hoá bán ra được nhiều sẽ làm cho

lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên, ngược lại nếu khâu bán hàng không

được tổ chức tốt sẽ làm lợi nhuận củ doanh nghiệp giảm. Tổ chức tốt khâu

bán hàng làm tăng lượng hàng hoá bán ra, tăng khả năng thu hồi vốn nhanh,

từ đó làm tăng vòng quay của vốn lưu động cho phép tiết kiệm một khoản

vốn đầu tư sản xuất kinh doanh hàng hoá khác, hoặc cho phép mở rộng quy

mô kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp.

- Hoạt động bán hàng được thực hiện, sản phẩm của doanh nghiệp bán

được chứng tỏ thị trường đã chấp nhận sản phẩm, doanh nghiệp tạo được

chữ tín trên thị trường. Bán hàng là khâu có quan hệ mật thiết với khách

hàng, vì vậy khâu này ảnh hưởng tiếp tới niềm tin, uy tín và tái tạo nhu cầu

của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp. Đây chính là vũ khí cạnh tranh

của doanh nghiệp trên thị trường.

Thực vậy khi người sản xuất bán được hàng trên thị trường có nghĩa

là sản xuất của họ đã ăn khớp với nhu cầu của xã hội. Điều này có ý nghĩa

hết sức quan trọng đối với người sản xuất hàng hoá, vì nó thể hiện sự thừa

nhận của xã hội về lao động củ người hàng hoá là có ích, nó tạo điều kiện

cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác hoạt động bán hàng

được thực hiện thành công cho phép doanh nghiệp xây dựng được mối quan

hệ mật thiết và có uy tín cao đối với khách hàng. Đặc biệt trong nền kinh tế

thị trường, ở đó thị trường thuộc về người mua, thì việc thu hút được khách

hàng có quan hệ tốt đẹp đối với khách hàng là yếu tố đáng kể quyết định khả

năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp.

- Bán hàng là hoạt động vừa liên quan đến người sản xuất – người bán

vừa liên quan đến người tiêu dùng – người mua. Vì vậy nó thúc đẩy tính chủ

động sáng tạo của các doanh nghiệp. Qua hoạt động bán hàng doanh nghiệp

có thể thu hút được đầy đủ, chính xác các thông tin về cung, cầu, giá cả, thị

hiếu... của người tiêu dùng. Từ đó doanh nghiệp có thể tổ chức các hoạt

động sản xuất kinh doanh những mặt hàng phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động bán hàng đạt hiệu quả cao hơn.

Từ những phân tích trên, ta thấy rằng công tác bán hàng càng được

hoàn thiện bao nhiêu. Nếu càng mở rộng hoạt động bán hàng có hiệu quả,

mở rộng hoạt mặt hàng, mở rộng các dịch vụ hỗ trợ bán hàng thì doanh

nghiệp càng có nhiều khả năng thu được nhiều lợi nhuận. Do đó vấn đề tổ

chức hoạt động bán hàng là vấn đề cần được coi trọng thích đáng trong mỗi

doanh nghiệp, đồng thời phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện vấn đề này

cho phù hợp với cơ chế thị trường trong từng giai đoạn.

Hoạt động bán hàng có tầm quan trọng đặc biệt với bất kỳ một đơn vị

sản xuất kinh doanh nào, tuy nhiên việc tổ chức quản lý hoạt động bán hàng

như thế nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, nhưng dù thế nào đi chăng nữa

trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì hoạt động bán hàng

phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng cả vê số lượng, chất lượng,

chủng loại, dịch vụ với những khả năng có thể của doanh nghiệp. Đặc biệt

trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được coi là “thượng đế” thì hoạt

động bán hàng phải bám sát nhu cầu thị trường với phương châm phục vụ

nhu cầu của khách hàng là mục tiêu trước tiên để có thể chiếm được lòng tin

của khách hàng, để thu được nhiều lợi nhuận.

+ Hoạt động bán hàng phải kích thích, gợi mở được nhu cầu của thị

trường về hàng hoá mà doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh nhằm khai

thác triệt để nhu cầu của thị trường. Muốn vậy hoạt động bán hàng đòi hỏi

phải tích cực, chủ động khai thác, mở rộng thị trường tiêu thụ, biến nhu cầu

ở dạng khả năng thành nhu cầu có thể thanh toán. Chủ động nắm bắt nhu cầu

và khả năng sản xuất của doanh nghiệp để có thể tổ chức mọi hoạt động sản

xuất kinh doanh được thường xuyên và liên tục.

+ Hoạt động sản xuất kinh doanh phải lấy phục vụ sản xuất làm mục

đích. Yêu cầu này đòi hỏi mọi hoạt động trong quá trình bán hàng phải

hướng tới mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng phải

phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh và kích thích được khả năng sản

xuất, nâng cao chất lượng sản xuất của doanh nghiệp.

+ Hoạt động bán hàng phải đảm bảo nâng cao được uy tín và không

ngừng nâng cao uy tín của sản phẩm cũng như của Công ty.

+ Hoạt động bán hàng phải được tổ chức một cách khoa học hợp lý có

kế hoạch. Phân công vụ thể và thường xuyên được theo dõi, chỉ đạo, kiểm

tra đánh giá. Hơn thế nữa phải biết tổ chức một cách khoa học và nghệ thuật

trong quá trình tổ chức hoạt động bán hàng.

Hiệu quả của hoạt động bán hàng ngày càng được nâng cao với chi

phí thấp nhất và lợi nhuận ngày càng tăng. Đây là mục tiêu mà bất cứ doanh

nghiệp nào cũng phải theo đuổi, bởi vì lợi nhuận là mục tiêu trước mắt quan

trọng, mà hoạt động của hoạt động bán hàng thì ảnh hưởng trực tiếp đến lợi

nhuận. Để có thể đạt được mục tiêu này, công tác bán hàng phải chú ý phân

phối đúng lượng hàng, luồng hàng. Đảm bảo sự vận động của hàng hoá hược

hợp lý, giảm bớt chi phí lưu thông, đồng thời phát triển các dịch vụ để phục

vụ tốt các yêu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng và làm tăng lợi

nhuận.

Tóm lại, trước hết những biến động của nền kinh tế hiện nay, các

doanh nghiệp phải luôn luôn cố gắng tìm cách đổi mới chế độ quản lý hoạt

động bán hàng sao cho phù hợp nhất với sự biến động trên thương trường,

để hoạt động này có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp.

Muốn vậy trước tiên ta phải đi vào tìm hiểu nội dung của hoạt động bán

hàng.

II NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP

TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.

1- Nội dung

hoạt động bán hàng là bộ phận chịu ảnh hưởng trực tiếp của chiến

lược chung của doanh nghiệp, thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đề

ra. Vì vậy hoạt động bán hàng không chỉ đơn thuần là hành động bán mà nó

còn là việc tìm mọi biện pháp tác động đến cơ cấu nhu cầu theo chiều hướng

có lợi nhất. Hoạt động bán hàng của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh

bao gồm những nội dung chính sau:

• Nghiên cứu thị trường và xác định nhu cầu.

• Xây dựng mạng lưới bán hàng

• Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng

• Tổ chức thực hiện hợp đồng

• Tổ chức các hoạt động dịch vụ và xúc tiến bán

• Đánh giá hiệu quả của công tác bán hàng

1.1 Nghiên cứu thị trường và xác định nhu cầu thị trường

Kinh tế hàng hoá là kinh tế trao đổi mua bán chỉ diễn ra trên thị

trường, vì vậy thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến bán hàng và

hiệu quả công tác bán hàng. Do đó nghiên cứu thị trường luôn là việc làm

cần thiết đầu tiên của doanh nghiệp. Khi nói về thị trường thì có rất nhiều

khái niệm được đưa ra, nhưng hiện nay, theo quan điểm hiện đại.

Thị trường là quá trình người mua và người bán tác động qua lại lẫn

nhau để xác định giá cả và chất lượng hàng hoá mua bán.

Có khái niệm cho rằng: thị trường của doanh nghiệp là nơi diễn ra

hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ bao gồm một hoặc nhiều nhóm

khách hàng tiềm năng với các nhu cầu tương tự giống nhau và những người

bán cụ thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng

hoá và doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu trên của khách hàng.

Nghiên cứu thị trường là điểm xuất phát của kế hoạch, các biện pháp,

định hướng để đạt mục đích tìm kiếm lơị nhuận của doanh nghiệp, nó là cơ

sở đối tượng để xây dựng chế độ ứng xử trong hoạt động kinh doanh, giải

thích những hiện tượng bất thường xảy ra trong quá trình kinh doanh. Đồng

thời thông qua công tác nghiên cứu thị trường, các khách hàng và các hành

vi mua sắm của họ, doanh nghiệp sẽ quyết định được lĩnh vực kinh doanh,

việc sử dụng lực lượng lao động và tiền vốn như sử dụng tiềm năng khác của

doanh nghiệp như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất.

Để nghiên cứu thị trường, trước tiện phải có sự hiểu biết cặn kẽ đặc

điểm tính chất của từng loại thị trường. Hiện nay người ta dựa vào nhiều

tiêu thức khác nhau để chia thị trường thành: thị trường độc quyền và thị

trường cạnh tranh, thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ, thị trường công

nghiệp và thị trường tiêu dùng cá nhân, thị trường thống nhất và thị trường

khu vực, thị trường người mua và thị trường người bán, thị trường chính....

Trong đó nghiên cứu thị trường tiêu thụ (đầu ra) có một ý nghĩa hết sức quan

trọng đối với hoạt động bán hàng. Chỉ có nghiên cứu thị trường, nghiên cứu

nhu cầu tiêu dùng thì trên cơ sở đó mới huy động được mọi khả năng đáp

ứng nhu cầu một cách tốt nhất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện

nay việc nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu thị trường có ý nghĩa cực kỳ quan

trọng, nó đem lại kết quả to lớn và góp phần nâng cao thế cạnh tranh của

doanh nghiệp.

Nhìn chung việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp phải giải đáp

được những vấn đề chủ yếu: doanh nghiệp sẽ bán cái gì: Với số lượng bao

nhiêu, sẽ được bán ra sao? ở đâu? giá cả ra sao nghĩa là phải tiến hành công

việc sau:

- Ước lượng bao nhiêu đơn vị, khách hàng sẽ mua hàng của doanh

nghiệp trong thời gian tới, và họ sẽ mua bao nhiêu.

- Dự đoán khi nào họ sẽ mua các sản phẩm đó.

- Xác định hình dáng, màu sắc, vật liệu chế tạo sản phẩm và khách

hàng ưu thích, đồng thời dự kiến chủng loại sản phẩm mà khách hàng muốn

mua và cơ cấu từng loại sản phẩm.

- Xác định nên sử dụng những quảng cáo nào cho hiệu quả

- Cần đánh giá khả năng có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh, họ sản xuất

được bao nhiêu sản phẩm, chất lượng và giá cả ra sao.

Qua Công ty nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp đề ra các đối sách

phù hợp nắm bắt, thoã mãn nhu cầu, nâng cao hiệu quả công tác bán hàng

cũng như hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường

thường được tiến hành theo hai bước sau: thu thập thông tin và xử lý thông

tin. Để nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chủ yếu thường đựoc sử

dụng là:

+ Nghiên cứu tại văn phòng hay tại bàn làm việc là phương pháp phổ

biến nhất vì nó đỡ tốn kém nhưng chậm và mức độ tin cậy có hạn.

Phương pháp này nghiên cứu thông qua hệ thống tư liệu, tài liệu thông

tin về thị trường.

+ Nghiên cứu tại hiện trường: Việc thu thập thông tin chủ yếu thông

qua tiếp xúc với các đối tượng đang hoạt động trên thị trường. Để thu thập

thông tin có thể dùng phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra..

Khi nghiên cứu thị trường không chỉ nhìn vào bề mặt chung của nó

mà phải nghiên cứu, phân tích và giải quyết tốt mối hiệu quả giữa các yếu tố

cấu thành thị trường, chính các yếu tố này quyết định bản chất và khuynh

hướng hoạt động của thị trường. Các yếu tố cấu thành nên thị trường đó là

cung cầu-giá cả-cạnh tranh. Trong đó giá cả là nhân tố của thị trường, cung

– cầu là trung tâm của thị trường và cạnh tranh là linh hồn và mức sống của

thị trường.

* Cung:

Cung là toàn bộ hàng hoá hiện có hoặc là có thể có đưa ra thị trường

trong một thời gian nhất định nào đó với mưchính sách giá cả đã biết.

Cung chịu tác động của nhiều nhân tố như quy mô và tốc độ phát triển

của sản xuất, tính chất, trình độ của sản xuất, giá cả hàng hoá, các điều kiện

tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, sự phát triển của hệ thống giao thông vận

tải, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các chính sách kinh tế, chính trị của

Đảng và Nhà nước, điều kiện chính trị trong nước và thế giới.

Trong kinh doanh để đảm bảo có hàng hoá, quá trình kinh doanh liên

tục không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp phải thực hiện phương châm

“nhà buôn nắm lấy sản xuất” Điều đó có nghĩa là không chỉ đơn giản là mua

sản phẩm được sản xuất mà phải cùng người sản xuất tạo ra sản phẩm. Đầu

tư nhân tài vật lự vào sản xuất càng nhiều bao nhiêu càng tăng khả năng

cung lên bấy nhiêu. Nhưng muốn cho hàng hoá bán ra phục vụ được nhu cầu

và thị hiếu người tiêu dùng, có chất lượng cao thì các doanh nghiệp phải

thường xuyên tiếp thu ý kiến của người tiêu dùng để truyền đạt cho ngươì

sản xuất nhằm giúp cho việc nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới sản

phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.

* Cầu:

Cầu hàng hoá là nhu cầu có khả năng thanh toán của các đơn vị, các tổ

chức kinh tế và tư nhân về hàng hoá. Cầu hàng hoá chịu tác động rất lớn của

quy mô nhu cầu (Xét về mặt khối lượng) quy mô nhu cầu càng lớn thì cầu

càng lớn và ngược lại, nhu cầu là nguồn gốc, nội dung của cầu, không có

nhu cầu thì khong có cầu, nhu cầu tồn tại mang tính xã hội, còn cầu mang

tính thị trường. Ngoài ra cầu còn chiụ tác động của nhiều nhân tố khác như

giá cả hàng hoá và giá cả hàng hoá thay thế, đặc điểm tâm lý, thị hiếu người

tiêu dùng, sự tác động của chung tới cầu và các chính sách khuyến khích hay

hạn chế tiêu dùng hàng hoá.

Kinh doanh trong cơ chế thị trường, xác định nhu cầu thị trường là

một công việc cực kỳ quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào. Các

doanh nghiệp cầnphân biệt được cầu và nhu cầu. Muốn xác định được nhu

cầu, người kinh doanh phải là người thực sự đại diện cho quyền lợi người

tiêu dùng, quyền lợi này được biểu hiện với một lượng tiền nhất định. Người

ta có thể mua được tối đa lượng hàng hoá với chất lượng cao, đảm bảo đáp

ứng được nhu cầu người tiêu dùng. Người tiêu dùng phải có điều kiện

muahàng tốt nhất. Muốn mua thì có hàng để mua, mua một cách dễ dàng,

thuận lợi, thoải mái. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải là cơ quan bảo hiểm

cho khách hàng để người tiêu dùng yên tâm dùng sản phẩm của mình.

* Giá cả:

Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, giá cả là phạm trù kinh tế

tổng hợp, cho nên sự hình thành và vận động của nó chịu sự tác động tổng hợp của

các nhân tố như giá trị cá biệt của hàng hoá, giá trị của đồng tièn, quy luật cung cầu,

quy luật lưu thông tiền tệ, sự cạnh tranh trên thị trường.

Các quy luật thị trường hình thành là do mối liên hệ giữa cung cầu và

giá cả thị trường thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, nghiên cứu

thị trường cần phải nghiên cứu sự tác động qua lại giữa chúng với nhau.

Cung cầu và giá cả thị trường có quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ cần một

một trong ba yếu tố thay đổi thì hai yếu tố còn lại thay đổi. Khi cung lớn hơn

cầu thì giá cả sẽ giảm xuất, ngược lại khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả tăng

lên. Khi số lượng cung cầu thì giá cả trên thị trường là giá cả bình quân

nhưng khả năng này hiếm khi xảy ra trên thị trường.

_

Giao điểm của đường cung-cầu nói lên trạng thái cân bằng chung,

cung – cầu phản ánh mức giá cần thiết để có sự phù hợp cân đối cung cầu.

Xét trên toàn xã hội thì trạng thái tối ưu trong tương quan cung cầu là sự cân

đối, cân bằng hợp với chúng cả về khối lượng cơ cấu, mặt hàng, cả về không

gian lẫn thời gian. Nếu như cầu cao hơn cung thì một bộ phận sức mua

không thực hiện được, xuất hiện loại cầu không được thoả mãn và liên quan

đến nó là vấn đề tiêu cực.

Nếu như cung cao hơn cầu thì một phần hàng hoá không tiêu thụ

được, sẹ trữ hàng hoá tăng lên, nhu cầu về vốn lưu động tăng lên, chi phí lưu

thông cũng tăng.

* Cạnh tranh trên thị trường:

Cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường, do vậy nghiên cứu

thị trường nhất thiết phải nghiên cứu mức độ cạnh tranh trên thị trường.

Nghiên cứu mức độ cạnh tranh trên thị trường là nghiên cứu môi trường

doanh nghiệp đang kinh doanh để từ đó có cách ứng xử cho phù hợp. Trên

thị trường có ba mối quan hệ cơ bản, ba mối quan hệ này tạo ra ba hình thức

cạnh tranh của thị trường.

+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua: là cuộc cạnh tranh diễn

ra theo luật mua rẻ, bán đắt.

+ Cạnh tranh giữa người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh trên cơ sở

quy luật cung cầu.

+Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: (Cạnh tranh giữa các

doanh nghiệp): là cuộc cạnh tranh trên vũ đài thị trường, đồng thời cũng là

cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, có ý nghĩa sống còn đối với chủ doanh

nghiệp.

Trên thị trường căn cứ vào số lượng người mua, người bán mà nói

quan hệ giữa họ có các hình thái thị trường khác nhau. Với từng hình thái thị

trường, các doanh nghiệp có các cách ứng xử khác nhau. Có ba hình thái thị

trường phổ biến là: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường có tính độc

quyền, thị trường độc quyền.

- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Số người tham gia thị trường tương

đối lớn, và không có ưu thế để cung ứng hay mua một số lượng lớn sản

phẩm khả dĩ ảnh hưởng đến giá cả. Người mua và người bán không ai quyết

định giá cả mà chỉ chấp nhận mà thôi. Các sản phẩm mua bán trên thị trường

này là đồng nhất, không có sự dị biệt. Điều kiện tham gia thị trường sẽ dễ

dàng... nói chung thị trường cạnh tranh hoàn hảo khó tìm thấy trong điều

kiện hiện nay.

- Thị trường độc quyền chỉ có người bán một loại sản phẩm hay dịch

vụ đặc thù mà những người bán khác không có hay không thể làm được.

Tình trạng độc quyền chỉ có thể xảy ra khi không có sản phẩm nào thay thế

sản phẩm độc quyền.

- Thị trường cạnh tranh có tính độc quyền: Đây là thị trường bao gồm

nhiều doanh nghiệp nhỏ dễ ra nhập cũng dễ rút lại, mỗi doanh nghiệp sản

xuất một loại hàng hoá hơi khác nhau. Các doanh nghiệp mua bán hàng hoá

rất khác nhau. Hàng hoá khong hoàn toàn giống nhau, khi tăng giá cả mà

không bị phá sản. Việc mua bán sản phẩm được thực hiện trong bầu không

khí vừa độc quyền vừa cạnh tranh.

Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, số người bán

hàng tăng lên thi cạnh tranh càng khốc liệt Trong quá trình ấy, một mặt sản

xuất hàng hoá với quy luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt bỏ ra khỏi thị trường

những chủ doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh phù hàng hợp,

nhưng mặt khác nó lại mở đường cho nhiều nơi sản phẩm của Công ty vẫn

chưa đến được với người bệnh do nhiều yếu tố như vị trí địa lý, thu nhập của

người dân, tập và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Về mặt chất lượng, giá

cả Công ty bằng mọi cách đưa quy trình kiểm tra trước khi đem sản phẩmuả.

Đồng thừi có thể tổ chức được tốt công tác khcs, trong việc lưu chuyển hàng

hoá, mua bán dự trữ một cách có khoa học, hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả

nhất. Kết quả nghiên cứu thị trường và xác định nhu cầu sẽ là cơ sở để thực

hiện các nội dung tiếp theo của hoạt động bán hàng.

1.2 Xác định kênh bán hàng và mạng lưới bán hàng:

Xây dựng- Tổ chức tốt mạng lưới bán hàng có tầm quan trọng đặc biệt

giúp đẩy nhanh quá trình vận động của hàng hoá, tiết kiệm chi phí, giúp

doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đa. Đồng thời nó còn giúp cho doanh

nghiệp thoả mãn nhu cầu của các khách hàng một cách tốt nhất.

Mạng lưới bán hàng ở doanh nghiệp thương mại là tổng hợp các đơn

vị bán hàng liên kết và phối hợp với nhau nhằm thực hiện tốt việc phục vụ

bán hàng. Tổ chức mạng lứi bán hàng là sự sắp xếp có hệ thống, kết hợp

chặt chẽ các loại hình kinh doanh nhằm phục vụ tốt nhất các nhu cầu của

khách hàng theo phạm vi thị trường và ngành hàng kinh doanh của doanh

nghiệp.

Khi tổ chức – xây dựng mạng lưới bán hàng cần tuân theo những

nguyên tắc dưới đây:

- Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất. Nguyên

tắc này đòi hỏimạng lưới kinh doanh phải có khả năng tiếp cận và chiếm

lĩnh thị trường một cách nhanh chóng, tìm kiếm và lôi cuốn được nhiều

khách hàng đến với doanh nghiệp, đáp ứng, thoả mãn đầy đủ nhu cầu của

khách hàng.

- Nguyên tắc hệ thống: Mục đích của nguyên tắc này là tạo thuận lợi

cho khách hàng, đáp ứng được nguyên tắc này, mạng lưới bán hàng của

doanh nghiệp phải được phân bố rộng rãi trên thị trường, các điểm bán hàng

phải được khai trương ở nơi đông dân cư, gần đường giao thông có nhiều

người qua lại, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng ra vào mua hàng và

người bán hàng được tiếp xúc với khách hàng.

- Nguyên tắc đổi mới và phát triển: là nguyên tắc được coi trọng khi

tổ chức – Xây dựng mạng lưới bán hàng ở doanh nghiệp. Do nhu cầu của thị

trường thường xuyên biến đổi cả về dung lượng và cơ cấu, vì vậy để thoả

mãn đầy đủ nhu cầu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có mạng lưới bán

hàng nhanh nhạy thích nghi với các nhu cầu mới của khách hàng về cả quy

mô và phạm vi kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường

Khi tiến hành và phân bổ mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cần vận

dụng các nguyên tắc trên cho phù hợp với tình hình kinh doanh của mình

nhằm tạo ra một mạng lướii bán hàng có hiệu quả, bên cạnh đó doanh

nghiệp cũng cần phải có tính thống nhất tỏng toàn mạng lưới bán hàng cũng

như sự quản lý các mạng lưới trong quá trình kinh doanh nhừm thực hiện tố

các mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Đồng thời mạng lưới bán hàng khi được

thiết lập phải đảm baỏ thoả mãn hai điều kiện phải kiểm soát được mạng

lưới thông tin và có hiệu quả. Để đạt được hai điều kiện này thông thường có

hai phương pháp thiết lập mạng lưới bán hàng sau:

- Phương pháp vết dầu loang: Trên một thị trường xác định, người ta

chỉ thiết lập một địa điểm bán hàng duy nhất và thông qua việc bán hàng

ngày càng có uy tín, doanh nghiệp sẽ tiếp tục xây dựng và thiết lập mạng

lưới bán hàng phủ kín khắp thị trường mà doanh nghiệp định thâm nhập, từ

đó điều kiện và chi phối toàn bộ thị trường. Đây là phương pháp mà các

doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có uy tín, nổi tiếng trên thế

giới thường áp dụng khi muốn xâm nhập vào thị trường mới.

- Phương pháp điểm hàng: Trái ngược với phương pháp vết dầu loang,

phương pháp này trên cùng một khu vực thị trường, trong cùng một khoảng

thời gian nhất định doanh nghiệp sẽ thiết lập cùng một lúc nhiều điểm bán

hàng, nhanh chóng thâm nhập và khống chế thị trường. Phương pháp này

thường được các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh một thứ hàng hoá

nào đó trên một khu vực thị trường nhất định nhưng chưa hoàn toàn chiếm

lĩnh thị trường đó, lúc này doanh nghiệp sẽ áp dụng kết hợp hai phương

pháp trên để nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường.

1.3 Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng:

Muốn tiết kiệm chi phí đi lại, tham gia khảo sát thị trường doanh

nghiệp phải lập kế hoạch giao dịch, tìm hình thức và biện pháp đàm phán

phù hợp để ký kết hợp đồng.

Các bước tiến hành giao dịch: người chào hàng, người mua hỏi gía,

đặt hàng, hai bên hoàn giá (mặc cả) chấp nhận và xác nhận, hợp đồng có thể

được ký kết thông qua các hình thức đàm phán: qua thư từ, qua điện thoại

gặp gỡ trực tiếp. Mỗi hình thức đàm phán có ưu nhược điểm riêng và điều

kiện áp dụng cụ thể. Vì vậy cần sử dụng một hình thức thích hợp hoặc kết

hợp giữa các hình thức đó để tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế và thông qua

hợp đồng kinh tế, lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh doanh độc lập được kết

hợp lại với nhau theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi.

Đây là hình thức pháp lý chủ yếu giữa các doanh nghiệp quan hệ mua

bán.

Hợp đồng kinh tế là công cụ, phương tiện để xây dựng và thực hiện kế

hoạch Nhà nước và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là biện

pháp quan trọng để thực hiện các nguyên tắc hạch toán kinh doanh và chế độ

quản lý kinh tế trong các doanh nghiệp thương mại. Hợp đồng kinh tế thắt

chặt các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong việc đáp ứng bán hàng

hay còn gọi là hợp đồng tín dụng, có thể dưới dạng văn bản, có thể dưới

dạng đơn hàng, chào hàng, công văn, điện báo... Sau khi gặp gỡ, thương

lượng hai bên có thể đi đến ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm hàng hoá,

trong hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản chủ yếu thể hiện nhưng thoả

thuận cơ bản giữa hai bên.

- Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế, tên, địa chỉ, số tài khoản

và ngân hàng giao dịch. Họ tên chức vụ của người ký kết hợp đồng.

- Giá cả

- Bảo hành

- Điều kiện thu, giao nhận

- Phương thức thanh toán

- Trách nhiệm do phạm vi hợp đồng kinh tế

- Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng

- Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế

- Các thoả thuận khác.

Các điều khoản này rất quan trọng nên phải mô tả bằng ngôn ngữ

chính xác, cụ thẻ để dễ hiểu. Ngoài các điều kiện chủ yếu này ra còn có các

điều khoản thường lệ, điều khoản tuỳ nghi và điều khoản giải thích. Đối

tơnựg ký kết hợp dồng kinh tế mua bán hàng hoá bao gồm các đơn vị sản

xuất kinh doanh, thương nghiệp dịch vụ... có nhu cầu mua sản phẩm của các

doanh nghiệp và có đủ các điều kiện để thực hiện hợp đồng, không phân biệt

thànhphần kinh tế cũng như địa bàn kinh doanh.

1.4 Tổ chức thực hiện hợp đồng:

Ở khâu công tác này giải quyết các vấn đề kinh tế, tổ chức và luật

pháp phát sinh giữa các doanh nghiệp trong quá trình mua bán hàng hoá. các

doanh nghiệp mua bán với nhau thường ràng buộc trách nhiệm với nhau

bằng việc ký kết hợp đồng kinh tế. Thông qua hợp đồng kinh tế, lợi ích kinh

tế của các chủ thể kinh doanh độc lập được kết hợp lại với nhau theo nguyên

tắc hai bên cùng có lợi. Đây là hình thức pháp lý chủ yếu giữa các doanh

nghiệp trong quan hệ mua bán.

Hợp đồng điều kiện là công cụ, phương tiện để xây dựng và thực hiện

kế hoạch nhà nước và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là

biện pháp quan trọng để thực hiện các nguyên tắc hạch toán kinh doanh và

chế độ quản lý kinh tế trong các doanh nghiệp thương mại. Hợp đồng thắt

chặt các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong việc đáp ứng những nhu

cầu hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Hợp đồng bán hàng hay

còn gọi là hợp đồng tín dụng, có thể dưới dạng văn bản, có thể là đơn đặt

hàng, chào hàng, công văn, điện báo... Sau khi gặp gỡ, thương lượng hai bên

có thể đi đến ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá. trong hợp đồng phải đảm

bảo các điều khoản chủ yếu thể hiện nhưng thoả thuận cơ bản giữa hai bên.

+ Ngày, tháng, năm ký kết hợp đồng kinh tế, tên, địa chỉ, số tài khoản

và ngân hàng giao dịch, họ tên, chức vụ của người ký hợp đồng.

+ Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng

hoặc giá trị quy ước.

+ Giá cả

+Bảo hành

+ Điều kiện thu, giao nhận

+Phương thức thanh toán

+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế

+Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế.

+ Các thoả thuận khác.

Các điều khoản này rất quan trọng nên phải mô tả bằng ngôn ngữ từ

chính xác, cụ thể, dễ hiểu. Ngoài ra các điều khoản chủ yếu này ra còn có

các điều khoản thường lệ, điều khoản tuỳ nghi, điều khoản giải thích. Đối

tượng ký hợp đồng kinh tế mua bán hàng hoá bao gồm các đơn vị sản xuất

kinh doanh, thương nghiệp dịch vụ... có nhu cà có đủ các điều kiện để thực

hiện hợp đồng, không phân biệt thành phần kinh tế cũng như địa bàn kinh

doanh.

Tổ chức trước khi giao dịch cho khách hàng bằng việc chuẩn bị bao

gói đóng hòm, bảo quản và các biện pháp kỹ thuật khác.

Việc sử dụng các phương thức thanh toán như bán hàng thu tiền mặt

hay chuyển séc, nhận tiền mới giao hàng, cho thanh toán chậm trả... đều có

ảnh hưởng nhất định đến khối lượng hàng hoá bán ra. Chế độ thanh toán gọn

nhẹ, thuận lợi và phù hợp với khả năng của khách hàng sẽ thu hút được

nhiều khách hàng hơn. Để đẩy mạnh bán hàng tạo uy tín và giữ khách hàng,

doanh nghiệp cần nhạy bén, linh hoạt trong việc áp dụng các phương thức

thanh toán.

1.5 Tổ chức các hoạt động dịch vụ đẩy mạnh bán hàng

Để đẩy mạnh bán hàng thì bên cạnh công tác bán hàng doanh nghiệp

phải đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ khác như: Quảng cáo, cá dịch vụ có liên

quan xúc tiến bán hàng. Những hoạt động này giúp cho doanh nghiệp thoả

mãn tốt nhu cầu của khách hàng, làm cho khách hàng nhận thức, hiểu biết

hơn về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, tạo sự ham muốn mua

hàng của họ.

+ Quảng cáo:

Là cách thức làm cho khách hàng hiều được hhj mà doanh nghiệp

kinh doanh để quyết định mua hàng hoá ấy. Mục đích của quảng cáo là bán

được nhiều hàng hoá, thu được nhiều lợi nhuận. Hàng hoá muốn bán được

ngoài vấn đề chất lượng, giá cả, hợp thị hiếu của người tiêu dùng phải cần

biết đến quảng cáo sẽ thông tin cho người tiêu dùng rõ về ưu thế sản phẩm

của doanh nghiệp và về bản thân doanh nghiệp.

Quảng cáo có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau như:

báo chí, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí, áp phích, bao bì sản phẩm, phim

ảnh...

+ Các dịch vụ có liên quan:

Dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng là các loại hình hoạt động có tính chất trợ

giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh.

Dịch vụ giúp cho doanh nghiệp bán được nhiều hàng, thu được nhiều

lợi nhuận. Dịch vụ lập nên hàng rào chắn ngăn chặn sự xâm nhập của đối

thủ cạnh tranh.

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá ngày càng đa dạng và

phong phú, dịch vụ xuất hiện ở mọi giai đoạn của hoạt động bán hàng. Nó

hỗ trợ cả trước, trong và sau khi bán hàng. dịch vụ trước khi bán hàng nhằm

chuẩn bị thị trường tiêu thụ, khuyếch trương thanh thế gây sự chú ý của

khách hàng. dịch vụ trong quá trình bán hàng nhằm chứng minh sự hiện hữu

của doanh nghiệp và khách hàng thể hiện sự tôn trọng và niềm tin cho khách

hàng. dịch vụ sau khi bán hàng nhằm tái tạo nhu cầu cho khách hàng. Dưới

đây là một số loại hình dịch vụ chủ yếu.

- Bán hàng và tổ chức chuyển đưa hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng.

- Tổ chức cung ứng đồng bộ có đảm bảo hàng hoá cho người tiêu

dùng

- Tổ chức các cửa hàng, trạm sửa chữa, bảo hành sản phẩm.

+ Xúc tiến bán hàng:

Xúc tiến bán hàng bất kỳ hay toàn bộ các hoạt động không kể các

phương tiện truyền thông đại chúng, dẫn đến bán hàng có hiệu quả, có năng

suất và có lợi ích.

Vậy xúc tiến bán hàng bao hàm toàn bộ các thủ pháp được tiến hành

với người tiêu dùng, với các điều kiện đẩy thương vụ và với sức bán để mở

rộng doanh số bán hàng của doanh nghiệp.

1.6 Đánh giá hiệu quả của hoạt động bán hàng:

Sau mỗi kỳ kinh doanh, khái niệm cần phải tổng hợp đánh giá hiệu

quả của công tác bán hàng để rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc

thực hiện chu kỳ sản xuất kinh doanh sau được tốt hơn.

Hiệu quả của công tác bán hàng thể hiện thông qua các chỉ tiêu phản

ánh tình hình bán hàng của doanh nghiệp. Lượng sản phẩm bán ra được đo

bằng thước đo hiện vật và thước đo giá trị.

- Bằng thước đo hiện vật, lượng sản phẩm bán ra biểu hiện bằng số

mét, kg, chiếc... đáng bán được, thước đo hiện vật biểu hiện cụ thể dưới

lượng hàng hoá bán ra trong kỳ. Đây là căn cứ để tính mức thoả mãn hu cầu

của các thành viên trong xã hội, nhưng thước đo hiện vật có nhược điểm là

không cho phép doanh nghiệp tổng hợp được kết quả sản xuất kinh doanh

nhất là khi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng có tính chất

không so sánh được.

- Bằng thước đo giá trị: Lượng sản phẩm hàng hoá bán ra biểu hiện

công việc đã hoàn thành và được khách hàng chấp nhận, đó là doanh thu bán

hàng.

Để mang tính so sánh được, khi tính giá trị sản lượng hàng hoá (doanh

thu) người ta dùng giá trị buôn công nghiệp để tính.

Công thức tính doanh thu:

Đầu tư = Qt x Gt

Trong đó:

- Qt: Sản lượng tiêu thụ sản phẩm thứ t (có m sản phẩm )

- Gt: Giá bán sản phẩm thứ t

Sản lượng bán từng mặt hàng phụ thuộc vào các nhân tố dự trữ đầu kỳ

(Dđk), sản xuất trong kỳ (SX) và tồn kho cuối kỳ (Dck)

Qt = Dđk + SX - Gt

Từ các chỉ tiêu Qt, Dđk, SX, Gt và Dck có thể tính ra các hệ số phân

tích, phản ánh tình hình bán hàng trong kỳ.

Hệ số bán hàng SX = _ eq \f(Qt,SX) _ < 1

Hệ số quay kho = _ eq \f(DT,\f(Dđk+Dck,2)) _

Hệ số bán hàng hoá sản xuất cho thấy mức độ phù hợp của sản phẩm

với nhu cầu thị trường. Hệ số quay kho cho biết mức độ chu chuyển hàng

hoá. Các hệ số này càng cao thì tốc độ bán hàng cao, càng tốt đối với doanh

nghiệp.

2. Các hình thức và phương pháp bán hàng.

2.1. Lựa chọn các kênh phân phối

Trong nền kinh tế thị trường, việc bán hàng được thực hiện bằng

nhiều kênh khác nhau, theo đó các sản phẩm vận động từ doanh nghiệp sản

xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Các kênh này chính là hệ thống tổ

chức thương mại nối liền người sản xuất với người bán buôn, người bán lẻ,

các đại lý và người tiêu dùng cuối cùng.

Mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn các kênh dài hay ngắn, trực tiếp

hay gián tiếp căn cứ vào đặc điểm sản xuất và sản phẩm của mình. Mặc dù

có rất nhiều hình thức bán hàng nhưng đa số quá trình bán hàng đều thông

qua một số kênh chủ yếu: Doanh nghiệp sản xuất bán trực tiếp cho người

tiêu dùng cuối cùng, bán thông qua các Công ty bán buôn của mình và các

hãng bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc lập. Tuỳ thuộc vào hàng hoá

mà doanh nghiệp sử dụng các hình thức dịch vụ bán hàng của khách hàng

độc lập và các đại lý. Dưới đây là sơ đồ của các kênh bán hàng:

_

1. Doanh nghiệp -> Người sử dụng cuối cùng, các hãng bán lẻ độc

lập, cửa hiệu riêng.

2. Doanh nghiệp -> Đại lý độc lập -> người sử dụng cuối cùng...

3. Doanh nghiệp -> Chi nhánh bán buốn -> đại lý độc lập -> người sử

dụng cuối cùng.

4. Doanh nghiệp -> Chi nhánh bán buôn -> Hãng bán buôn độc lập ->

Người sử dụng cuối cùng.

5. Doanh nghiệp -> Hãng bán buôn độc lập -> người sử dụng cuói

cùng

7. Doanh nghiệp -> Chi nhánh bán buôn -> Người sử dụng cuối cùng.

Giữa hàng hoá tiêu dùng cho sản xuất và hàng hoá tiêu dùng cho cá

nhân có sự khác nhau rất lớn, trong các hình thức bán phần lớn hàng hoá tiêu

dùng cho sản xuất (vật tư) được bán trực tiếp giữa doanh nghiệp sản xuất

vưói doanh nghiệp tgiêu dùng. Trong khi các hàng hoá tiêu dùng cho cá

nhân chủ yếu được bán qua các trung gian khác nhau. Ngày nay hình thức

bán trực tiếp cho khách hàng có xu hướng phát triển và phổ biến ở hầu hết

các ngnàh sản xuất, vì hình thức bán hàng trực tiếp cho phép phát triển các

quan hệ hợp đồng và quan hệ các đơn đặt hàng cá biệt.

Doanh nghiệp sau khi đã xác định được các kênh bán hàng, căn cứ

vào chiến lược kinh doanh của mình sẽ tiến hành phân phối hàng hoá vào

các kênh. Đó là việc xác định lượng hàng hoá bán theo không gian và thời

gian trên cơ sở cân đối khả năng hàng hoá của doanh nghiệp và nhu cầu của

thị trường. Quá trình phân phối hàng hoá phải đảm bảo các yêu cầu.

- Đảm bảo tình hình hoạt động bộ máy phân phối.

- Giảm được chi phí lưu thông

- Đạt được mục tiêu mở rộng thị trường của doanh nghiệp.

- Quản lý được các kênh tiêu thụ.

Việc lựa chọn tổ chức, phân phối hàng hoá cho các kênh bán hàng

một cách hợp lý sẽ làm cho các quá trình vận động hàng hoá trong lưu thông

nhanh, đẩy mạnh bán hàng, tiết kiệm chi phí, khai thác tốt nhất nhu cầu thị

trường để đạt mục đích tối đa hoá lợi nhuận.

2.2 Xác định các phương thức bán hàng:

Xác định phương thức bán hàng có liên quan trực tiếp các kênh bán

hàng. Doanh nghiệp có thể bán cho tổ chức trung gian và các đơn vị sản

xuất theo phương thức bán buôn, bán trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng

theo phương thức bán lẻ. Trong thực tế các doanh nghiệp thường sử dụng

đan xen cả phương thức bán buôn và bán lẻ nhằm bổ sung cho nhau, hạn chế

các nhược điểm tạo nên hệ thống bán hàng tối ưu nhất.

+ Phương thức bán buôn:

là các loại hoạt động bán hàng hoá cho người mua để bán lại hay sử

dụng cho các kinh doanh. Bán buôn thường bán với khối lượng lớn, giá cả

ổn định. Các hình thức bán buôn bao gồm:

Mua đứt bán đoạn: bên bán chủ động chào hàng, đặt giá. Bên mua căn

cứ khả năng tiêu thụ, gía bán ra và tính toán các khoản chi phí, rủi ro, Nếu

thấy mua được thì gặp gỡ thoả thuận với người bán để mua hàng. Hình thức

này tạo điều kiện cho nhà sản xuất (người bán) có thể sản xuất theo kế hoạch

một cách ổn định và hiệu quả. Bên mua hoàn toàn chủ động trong việc định

giá lượng bán.

Mua bán theo hình thức đại lý, ký gửi: Đây là hình thức có ý nghĩa bổ

sung cho hình thức mua đứt bán đoạn không thể áp dụng được. Hình thức

này hai bên thống nhất với nhau về giá cả, chi phí phát sinh trong quá trình

mua bán và phần lợi mà người đại lý sẽ hưởng.

Liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: căn cứ vào điều kiện sản xuất

và khả năng hợp tác doanh nghiệp có thể liên kết trong sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm nhằm khai thác tạo nguồn hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản phẩm

hàng hoá góp phần điều tiết thị trường, đảm bảo hai bên cùng có lợi. Ưu

điểm của phương thức bán buôn là tiêu thụ ổn định, khối lượng lớn, thời

gian nhanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí lưu thông, thu

hồi vốn nhanh nhưng phương thức này cũng làm cho giá cả hàng hoá nâng

cao và thường phải trải qua các khâu trung gian, doanh nghiệp sản xuất

không kiểm soát được giá bán, không có cơ hội để gây thanh thế và tạo uy

tín với khách hàng, không nắm bắt được yêu cầu của khách hàng và là người

tiêu thụ cuối cùng.

+ Phương thức bán lẻ:

Bán lẻ bao gồm các hoạt động liên quan đến các hoạt động mua bán

hàng bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định. Bởi vậy khi nói

đến thị trường người ta phải nói đến phương thức bán lẻ.

Phương thức bán lẻ có ưu điểm: là phương thức bán hàng đa dạng, hệ

thống cửa hàng phong phú và tiện lợi, có khả năng nắm bắt được nhanh và

chính xác những mong muốn và nguyện vọng của người tiêu dùng từ đó có

điều kiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.

Nhược điểm là tổ chức và quản lý tiêu thụ phức tạp, vốn và nhân lực

phân tán, chu chuyển vốn chậm. Phương thức này phù hợp với các doanh

nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, quan hệ thị trường hẹp.

III. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG BÁN

HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP.

1. Các yếu tố chủ quan:

Các yếu tố chủ quan là do bản thân doanh nghiệp tác động tới hoạt

động bán hàng vì hoạt động bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình hoạt

động sản xuất kinh doanh do đó nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố.

Dưới đây là một vài yếu tố chính có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bán

hàng của doanh nghiệp.

- Chủng loại chất lượng và giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn

cũng khác nhau thì cách tổ chức, cách thức bán hàng cũng khác nhau. DO đó

tuỳ thuộc vào loại sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn sản xuất để tổ chức

công tác bán hàng sao cho có hiệu quả đồng nhất. Đồng thời chất lượng sản

phẩm mà doanh nghiệp sản xuất như thế nào cũng đều ảnh hưởng không nhỏ

đến hoạt động bán hàng. Nó tác động đến chi phí, giá bán lợi nhuận cũng

như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên chất lượng cao phải

cần đến chi phí lớn, mà nhiều khi không phải khách nào cũng yêu cầu đến

chất lượng hoàn hảo kèm với giá cao. Vì vậy tuỳ khả năng mà doanh nghiệp

lựa chọn sản phẩm với chất lượng và giá cả phải phù hợp sao cho hoạt động

bán hàng nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung đạt hiệu quả

cao.

- Công nghệ sản xuất mà được phải sử dụng: tuy rằng trong nền kinh

tế thị trường, định hướng marketing nhất mạnh: “hãy bán những thứ thị

trường cần chứ không phải những thứ thị trường có”. Nhưng để sản xuất ra

thứ thị trường cần lại là một vấn đề phải đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải đảm

bảo nhiều yếu tố. Trong đó công nghệ sản xuất công nghiệp sản xuất hiện

đại cho phép doanh nghiệp sản xuất được những sản phẩm có chất lượng

cao, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó tạo kinh

doanh cung cấp nguồn hàng đủ, kịp thời, tăng hiệu quả bán hàng.

- Cơ cấu tổ chức bộ máy, khả năng trình độ của người quản lý và của

cán bộ công nhân viên, người quản lý năng động có trình độ cao, một bộ

máy tổ chức chặt chẽ cùng với một đội ngũ cán bộ công nhân viên bán hàng,

họ góp phần quyết định trực tiếp đến kết quả hoạt động bán hàng cũng như

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến hoạt động bán hàng của doanh

nghiệp là điều kiện và khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Điều kiện của

doanh nghiệp cho phép sản xuất được khối lượng hàng hoá nhiều hay ít, chất

lượng ra sao sẽ tác động lớn đến hoạt động bán hàng. Chất lượng tốt, khối

lượng phù hợp sẽ phục vụ công tác bán hàng, đồng thời nếu hoạt động sản

xuất khuyến khích sản xuất phát triển.

2. Các yếu tố khách quan.

Là yếu tố hay tham số của môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp

không thể kiểm soát được. Đó là tham số vận động không phụ thuộc vào ý

chí chủ quan của doanh nghiệp, các tham số đó là: Môi trường văn hoá - xã

hội, môi trường kinh tế công nghệ. Môi trường cạnh tranh và môi trường

chính trị, pháp luật.

- Môi trường văn hoá - xã hội thể hiện qua các tham số sau: Dân số

ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp vì dân số có tác động d

đến dung lượng thị trường. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp khi xác định thị

trường phải xem xét số lượng khách hàng có đảm bảo được doanh số bán

không. Và do đó sự dịch chuyển của dân cư cũng ảnh hưởng trực tiếp đến

hoạt động bán hàng.

+ Thu nhập dân cư: có tác động rất lợi đến nhu cầu và khả năng mua

hàng của người tiêu dùng. Thu nhập càng cao thì nhu cầu càng lớn và ngược

lại.

+ Tập quán tiêu dùng, trình độ văn hoá, nhận thức và thị hiếu của

người tiêu dùng. Khi có trình độ học vấn cao thì người tiêu dùng có nhu cầu

về các sản phẩm có giá trị văn hoá , giá trị kinh tế, sản phẩm khoa học kỹ

thuật tiên tiến.

+ Thói quen và tâm lý bán hàng đối với từng loại hàng hoá, người tiêu

dùng thương có thói quen như thế nào? Tâm lý mua ra sao?Đó là những yếu

tố không thể xem xét khi doanh nghiệp tổ chức bán hàng.

+ Đặc điểm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo: thường thì mỗi dân tộc có sở

thích, mối quan tâm khác nhau về đặc điểm hàng hoá mà họ mua.

- Môi trường kinh tế và công nghệ:Đó là tham số về sự tăng trưởng

của nền kinh tế (hoặc ngành kinh tế) lạm phát, và tốc độ lạm phát, khả năng

sử dụng công nhân (thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp), trình độ trang bị kỹ

thuật chung của nền kinh tế cũng như của các ngành. Cơ sở hạ tầng, trình độ

nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật và khả năng sử dụng công nghệ

mới, kỹ thuật mới trong nền kinh tế...

- Môi trường cạnh tranh: Hoạt động trong cơ chế thị trường đỏi hỏi

các doanh nghiệp phải quan tâm tới các yếu tố cạnh tranh, vì điều kiện cạnh

tranh có ảnh hưởng tới khả năng khai thác cơ hội kinh doanh và tới việc lựa

chọn chiến lược cạnh tranh. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải xác định

được trạng thái cạnh tranh của thị trường. thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị

trường cạnh tranh độc quyền, hay thị trường độc quyền có cách ứng xử thích

hợp.

CHƯƠNG II

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG Ở

CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG I

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY

DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG I

1. Quá trình hình thành, chức năng và nhiệm vụ của Công ty

dược phẩm trung ương I.

Công ty Dược phẩm TW I là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc

Tổng Công ty Dược Việt Nam

Sự hình thành và phát triển của Công ty gắn liền với sự phát triển của

ngnàh kinh tế kỹ thuật dược và yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Trong

những năm 1960, Công ty có tên gọi là Quốc doanh Dược phẩm I, có nhiệm

vụ cung cấp thuốc chữa bệnh cho các bệnh viện trung ương ở miền Bắc và

chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam. Năm 1971, được chính thức

thành lập với tên gọi là Công ty Dược phẩm cấp I.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ của Công ty là

cung cấp và phân phối thuốc chữa bệnh và nguyên liệu làm thuốc cho các

bệnh viện trung ương, các xí nghiệp dược phẩm trung ương, các xí nghiệp

dược từ các tỉnh Thừa Thiên – Huế trở ra và cho Cục quân y, Cục y tế bộ

Nội vụ. Trong thời kỳ bao cấp, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là dự trữ và

phân phối thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

Năm 1998, Công ty Dược phẩm cấp I đổi tên thành Công ty Dược

phẩm Trung ương I thuộc Liên hiệp các xí nghiệp Dược Việt Nam – Bộ Y tế

(nay là Tổng Công ty Dược Việt Nam). Trong suốt quá trình hình thành và

phát triển, nhiệm vụ của Công ty không chỉ là một đơn vị mua bán đơn

thuần mà nó phải mang cả hai tình chất là phục vụ và kinh doanh, vừa là một

đơn vị hạch toán độc lập, có quan hệ hợp đồng kinh tế với các đơn vị, vừa

giúp Bộ và Liên hiệp xí nghiệp Dược Việt Nam trong việc tổ chức và chỉ

đạo mạng lưới lưu thông phân phối có nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ tuyến dưới.

Trong thời kỳ hiện nay, khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị

trường thì vấn đề kinh doanh của Công ty cũng được chuyển biến. Ngoài

việc đảm bảo cung cấp các loại thuốc thiết yếu theo yêu cầu của Bộ Y tế,

hiện nay Công ty đã và đang kinh doanh xuất nhập khẩu tất cả các loại

nguyên liệu sản xuất thuốc, các thuốc thông thường, thuốc chuyên khoa biệt

dược, bông băng gạc, dụng vụ y tế.

2. Cơ cấu tổ chức.

Công ty Dược phẩm trung ương I có bộ máy quản lý tổ chức như

hình vẽ sau:

_

Hiện nay Công ty có 200 cán bộ công nhân viên, trong đó

Chuyên khoa cấp I: 11 người

Đại học Dược: 40 người

Đại học kinh tế và đại học khác: 12 người

Trung cấp Dược: 40 người

Trung cấp khác: 12 người

Dược tá và công nhân dược: 35 người

Thợ sửa chữa và lái xe: 10 người

Nhân viên hành chính: 18 người

Bảo vệ: 22 người

Cơ cấu tổ chức của Công ty được chia thành 8 phòng ban, 1 phân

xưởng, 5 cửa hàng và 1 chi nhánh.

Toàn bộ hoạt động sản xuất của Công ty đều được sử dụng quản lý

thống nhất của ban giám đốc Công ty. Ban giám đốc là người quản lý và

chịu trách nhiệm chung cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tuy mỗi phòng ban có nhiệm vụ riêng, song liên hệ mật thiết với

nhau trong phạm vi chức năng quyền hạn của bộ phận mình làm.

3. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban

- Phòng hành chính – tổ chức: có nhiệm vụ bố trí, sắp xếp lao động

trong Công ty về số lượng, trình độ nghiệp vụ, tay nghề, làm kế hoạch tiền

lương, làm công tác chế độ, công tác đào tạo của Công ty.

- Phòng kế hoạch nghiệp vụ: lập kế hoạch và theo dõi thực hiện kế

hoạch mua, bán hàng hoá theo các hợp đồng và dự trù hàng tháng, hàng quý

của các bệnh viện và các Công ty Dược, các đối tượng theo quy định.

- Phòng xuất nhập khẩu: làm đơn hàng và ký kết hợp đồng nhập

khẩu thuốc và nguyên liệu, khai thác các nguồn hàng mới.

- Phòng kỹ thuật kiểm nghiệm: tổ chức thực hiện các quy chế chuyên

môn quản lý thuốc, theo dõi, kiểm tra chất lượng hàng hoá, kiểm nghiệm

hàng nhập, hàng xuất đảm bảo chất lượng thuốc đúng quy định của Bộ y tế,

tổ chức công tác bảo hộ lao động, kỹ thuật an toàn lao động.

- Phòng điều vận: có nhiệm vụ điều động phương tiện vận chuyển,

giao nhận hàng hoá khi có kế hoạch và hợp đồng của phòng kế hoạch.

- Phòng bảo vệ: tổ chức lực lượng bảo vệ ngày đêm, bảo đảm an toàn

cho Công ty, tổ chức lực lượng tự vệ, phòng cháy và chữa cháy.

- Ban kho: được chia thành hai tổ chức bảo quản và xuất nhập hàng

hoá theo đúng quy định của Công ty.

- Các cửa hàng: có nhiệm vụ giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, và cũng

có thể tự khai thác nguồn hàng để phục vụ nhu cầu đa dạng của nhân dân.

- Chi nhánh của Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh: mới thành lập

nhằm tìm hiểu, chiếm lĩnh thị trường tại miền Nam.

- Phòng kế toán tài vụ: Tổ chức quản lý công tác tài chính giá cả và

hạch toán bao gồm hạch toán các nhiệm vụ kế toán nhằm góp phần bảo toàn

và phát triển vốn sản xuất, giám sát đầy đủ, kịp thời và chính xác mọi nghiệp

vụ kinh tế phát sinh trong Công ty, chấp hành nghiêm pháp lệnh thống kê, kế

toán và tài chính của Nhà nước.

- Phân xưởng sản xuất: làm nhiệm vụ ra lẻ và sản xuất một số mặt

hàng bổ sung cho kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm cho cán bộ nhân

viên.

- Chi nhánh Công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh: có nhiệm vụ tìm

hiểu, khai thác thị trường mới và giao dịch.

4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dược

Trung ương I.

4.1. Tình hình kinh doanh dược phẩm trên thị trường Việt Nam.

Thuốc phục vụ lĩnh vực phòng và chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ

của nhân dân, nó liên quan trực tiếp đến sinh mạng của con người nên thuốc

là một loại hàng hoá đặc biệt và do đó thị trường kinh doanh thuốc có những

đặc điểm riêng có.

Trước hết, có một điều khẳng định rằng nhu cầu về thuốc luôn tồn tại

và trở nên đa dạng, phức tạp cùng với sự phát triển của xã hội. Kinh doanh

thuốc là một ngành kinh tế lành mạnh, mang lại lợi nhuận cao ngay cả khi

nền kinh tế suy thoái.

Tuy vậy, cũng do là hàng hoá đặc biệt nên việc sản xuất và buôn bán

dược phẩm chịu sự quản lý chặt chẽ về phía Nhà nước cũng như tổ chức y tế

trong và ngoài nước. Mọi sản phẩm trước khi được ra thị trường đều được

kiểm định và thử nghiệm kỹ càng và được sự cho phép lưu hành của Bộ y tế.

Cùng với việc xoá bỏ chế độ bao cấp, thực hiện chính sách “đổi mới”, ngành

Dược đã có những bước phát triển đáng kể. Ngoài các doanh nghiệp Nhà

nước, loại hình kinh tế tư nhân hình thành và phát triển mạnh. Cả nước có

43000 nhà thuốc tư nhân trong đó 3100 nhà thuốc tập trung ở các thành phố

lớn. Bên cạnh đó, các hãng dược phẩm nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam. Vì

vậy thị trường Dược phẩm Việt Nam trở nên phong phú và đa dạng với sự

có mặt của các mặt hàng nhập khẩu và thuốc sản xuất trong nước.

Hiện nay, ở Việt Nam có 140 Công ty sản xuất và kinh doanh Dược

phẩm, trong đó có khoảng 6 liên doanh va 4 dự án 100% vốn nước ngoài.

Thị trường cạnh tranh phối hợp với sự ra mắt không rõ ràng của các hãng

lớn, sự ganh đua thị phần quyết liệt giữa các hãng vừa và nhỏ. Nhìn chung

ưu thế không thuộc hẳn về một doanh nghiệp nào và mỗi Công ty đều phải

cố gắng phát huy tối đa mọi nguồn lực của mình.

4.2. Đặc điểm tình hình kinh doanh của Công ty Dược phẩm

Trung ương I.

a. Đặc điểm sản phẩm của Công ty.

Xét về khía cạnh chung của sản phẩm, sản phẩm của Công ty là một

loại hàng hoá đặc biệt, người tiêu dùng phải có một kiến thức nhất định hoặc

phần lớn là cần có sự trợ giúp của các nhà chuyên môn (cụ thể là các Bác sĩ,

Dược sĩ) khi dùng loại hàng này và sản phẩm củ Công ty có yêu cầu về chất

lượng rất cao vì nó liên quan đến sức khoẻ con người. Mặt khác, một doanh

nghiệp kinh doanh là chủ yếu với vai trò là trung gian thương mại trong việc

phân phối Dược, nên sản phẩm của Công ty là sản phẩm để kinh doanh và là

sản phẩm hỗn hợp. Hiện nay Công ty kinh doanh hơn 4000 loại mặt hàng

dược phẩm theo danh mục thuốc thông thường, thuốc thiết yếu, và các thuốc

chuyên khoa biệt dược. Thuốc nhiều chủng loại như thuốc độc A, B; thuốc

kháng sinh; các loại Vitamin; nội tiết tố, tiêu hoá... được chia thành hai

nhóm chính là: nguyên liệu (chủ yếu nhập ngoại) chiếm khoảng 40% doanh

số bán, còn lại là thành phẩm với những xuất xứ đa dạng của các nhà sản

xuất trong và ngoài nước.

Xét về góc độ cạnh tranh, sản phẩm của Công ty luôn có uy tín trên

thị trường, nhờ phần cấu thành vô hình đó là chất lượng, việc đảm bảo các

yêu cầu chặt chẽ về nguồn hàng, nhập hàng, các sản phẩm của Công ty phải

qua một hệ thống kiểm tra chất lượng nghiêm ngặt và chính xác và được

tàng trữ ở các điều kiện kho tàng đạt tiêu chuẩn cao. Chính vì vậy sản phẩm

của Công ty hầu như không vi phạm vào các nguyên tắc chất lượng cũng

như các quy chế dược chính cuả Bộ y tế,và được bạn hàng tín nhiệm.

b. Điều kiện khách hàng của Công ty

Phần lớn các khách hàng của Công ty đều là các nhà buôn và những

người bán lẻ. Xét theo tính chất hoạt động của họ, có thể chia khách hàng

của Công ty thành một số nhóm chính sau:

- Các doanh nghiệp Nhà nước, đó là 31 Công ty dược của 31 tỉnh

thành (chủ yếu từ Bình Trị Thiên trở ra). Đây là các khách hàng truyền

thống của Công ty, vốn là hệ thống phân phối cấp dưới của Công ty từ thời

bao cấp. Do khách hàng của họ đều ở các tỉnh vùng xa nên nhu cầu về sản

phẩm của họ thường là hàng nội trong danh mục thuốc thiết yếu truyền

thống của Công ty. Nhìn chung, nhóm khách hàng này là những đơn vị kinh

doanh có uy tín trên thị trường với các điểm tiêu thụ rải đều trên một địa bàn

rộng, họ có thể mua khối lượng lớn nhưng đòi hỏi rất cao về giá cả và chất

lượng.

- Các xí nghiệp Dược phẩm trung ương: chuyên mua nguyên liệu

dược của Công ty để sản xuất thuốc nhiều năm. Đây là những khách hàng

quan trọng vì họ tiêu thụ hơn 60% giá trị hàng bán của Công ty. Hiện nay,

do các xí nghiệp này được phép kinh doanh, nên đây đồng thời cũng là

những đối thủ cạnh tranh của Công ty trong thị trường hàng nội.

- Các bệnh viện trung ương và một số bệnh viện tuyến tỉnh thành.

Cùng với các Công ty nhiều năm, song hiện nay, do tính chất chữa bệnh và

điều trị bệnh nhân theo các chuyên ngành sâu, nên yêu cầu về sự đa dạng

cũng như tính chữa trị đặc hiệu và tính chuyên môn cao hơn rất nhiều, sản

phẩm cần đáp ứng đa số là hàng ngoại và các biệt dược mới. Vì vậy, thị

trường này của Công ty hiện đang bị giành giật tương đối khốc liệt bởi các

hãng dược nước ngoài, mặc dù giá cả hàng ngoại đắt hơn nhiều so với hàng

nội.

- Các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các nhà thuốc tư nhân, và các

Công ty cổ phần: theo số liệu nghiên cứu năm 1997 thì ở Việt Nam có hai

Công ty cổ phần tư nhân, ba Công ty cổ phần doanh nghiệp Nhà nước, 170

Công ty TNHH và 4231 nhà thuốc và 5524 đại lý thuốc. Có thể nói đây là

mạng lưới bán lẻ rộng khắp nhưng tập trung cao ở các thành phố, tỉnh lỵ và

thị trấn. Hiện nay một trong số các đơn vị kinh doanh ở khối này bắt đầu trở

thành khách hàng của Công ty. Đây là những khách hàng mới và là những

khách hàng mục tiêu, nhưng cũng là những đối thủ cạnh tranh tương đối linh

hoạt của Công ty, nhất là trên địa bàn Hà Nội. Việc tiêu thụ thuốc của nhóm

khách hàng này chính là đầu ra của các nhà phân phối dược phẩm nói chung

cũng như Công ty nói riêng. Nhưng hiện nay Việt Nam chưa có quy định về

giá thuốc cho khu vực tư nhân nên chênh lệch giữa giá bán lẻ và bán buốn là

tương đối lớn, nhất là với hàng ngoại. Sự chênh lệch giữa giá bán buôn (giá

cập cảng - CIF) và giá bán lẻ ở khu vực tư nhân là 35%. Vì vậy, nhiều khi

nhu cầu thực tế của nhân dân các vùng sâu, vùng xa và các tầng lớp nhân

dân có thu nhập thấp chưa được đáp ứng tối đa.

4.3. Các yếu tố khác phụ thuộc vào tiềm lực của Công ty

Về nhân sự, Công ty tuyển dụng lao động theo chế độ hợp đồng lao

động. Công ty có một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm và có chuyên môn

tinh thông nghề nghiệp.

Công ty có một hệ thống kho tàng tương đối hiện đại và có dụng

lượng lớn đáp ứng được nhu cầu tàng trữ, một mạng lưới kỹ thuật viên kiểm

tra chất lượng thuốc có kinh nghiệm và các thiết bị kiểm nghiệm tiên tiến.

Công ty cũng là một doanh nghiệp đứng đầu trong Tổng Công ty Dược Việt

Nam về vốn. Ngoài ra Công ty có quan hệ tốt và luôn được hỗ trợ từ các cơ

quan quản lý cấp trên như Tổng Công ty Dược Việt Nam, Bộ y tế và các cơ

quan hữu quan.

5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Dược phẩm TW I.

Căn cứ vào biểu trên, phân tích qua các kỳ kinh doanh, ta thấy Công

ty đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Tỷ lệ tăng đều so

với kỳ trước.

* Tỷ suất lợi nhuận liên quan đến doanh số được thể hiện như sau th vừa độc quyền vừa cạnh tranh. Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, số người