Luận văn Một số ý kiến đề xuất về tăng cường quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối

LỜI MỞ ĐẦU

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quản trị tài chính là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý kinh tế cả về mặt vi mô và vĩ mô. Muốn có được lợi nhuận trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải thường xuyên quan tâm đến chi phí sản xuất. Do đó công tác quản lý chi phí là công việc trọng tâm và luôn được xoay quanh trước các quyết định quản trị tài chính.

Việc doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bảo đảm bù đắp được chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh hay không. Điều dó có nghĩa là doanh nghiệp phải tính toán hợp lý chi phí sản xuất và thực hiện quá trình sản xuất theo đúng sự tính toán ấy. Chi phí là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất sản phẩm thấp hay cao, giảm hay tăng phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư lao động tiền vốn. Việc phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất là mục tiêu quan trọng không những của mọi doanh nghiệp mà còn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, công tác quản lý chi phí sản xuất là một khâu quan trong đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời chính xác về kết quả hoạt động sản xuất, đáp ứng nhu cầu trong việc ra quyết định quản lý, là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung.

Qua quá trình thực tập tại Trung tâm lưới điện phân phối cùng với kiến thức học ở trường, em đã nhận thức được phần nào vai trò quan trọng của việc quản lý chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Em quyết định chọn đề tài: "Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh" được chia thành 3 chương:

Chương 1: Những lý luận chung về chi phí sản xuất kinh doanh và công tác

quản lý chi phí sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.

Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối.

Chương III: Một số ý kiến đề xuất về tăng cường quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối.

1

CHƯƠNG I

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ CÔNG TÁC

QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH Ở DOANH NGHIỆP.

1. Chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp

1.1. Khái niệm và bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh

Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất.

Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động

và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản

xuất hàng hoá là quá trình kết hợp giữa ba yếu tố : tư liệu lao động, đối tượng lao động

và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao

của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá, người lao

động phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì

thế sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu

khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.

Các chi phí mà doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị của sản phẩm, lao vụ

dịch vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Giá trị sản phẩm gồm ba bộ phận là :

C,V,m.

Trong đó :

- C: Là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm

dịch vụ như : Khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu, công cụ, năng lượng...

Bộ phận này được gọi là hao phí vật chất.

- V: Là chi phí tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia quá

trình sản xuất tạo ra sản phẩm, dịch vụ, được gọi là hao phí lao động cần thiết.

- m : Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất ra

giá trị sản phẩm, dịch vụ.

Do vậy, chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các

hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành

sản xuất sản phẩm trong một thời gian nhất định.

Tiếp theo sau quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tổ chức việc tiêu thụ sản

phẩm để thu tiền về. Để thực hiện được việc này, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những

2

chi phí nhất định chẳng hạn như chi phí đóng gói sản phẩm, chi phí vận chuyển, bốc dỡ,

bảo quản sản phẩm... Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh

như hiện nay, ngoài các chi phí tiêu thụ trên, doanh nghiệp còn phải bỏ ra chi phí để

nghiên cứu thị trường, chi phí quảng cáo để giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo hành sản

phẩm. Những khoản chi phí này phát sinh trong lĩnh vực lưu thông sản phẩm nên được

gọi là chi phí tiêu thụ hay chi phí lưu thông sản phẩm.

Ngoài những chi phí nêu trên, doanh nghiệp còn phải thực hiện được nghĩa vụ

của mình với Nhà nước như nộp thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ

đặc biệt, thuế khai thác tài nguyên... Những khoản chi phí này đều diễn ra trong quá

trình kinh doanh vì thế đó cũng là khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.

Tóm lại, chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí

sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản tiền thuế mà doanh nghiệp phải bỏ

ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.

1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh

Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán

được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất của toàn doanh nghiệp, doanh

nghiệp cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. Phân loại chi phí sản

xuất kinh doanh có nhiều cách phân loại sau:

* Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí :

Cách phân loại này để phục vụ cho việc tập hợp quản lý các chi phí theo nội

dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến địa điểm phát sinh và chi phí

được dùng cho mục đích gì trong sản xuất. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng

và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán

chi phí.

Theo quy định hiện hành ở Việt Nam toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh phát

sinh lần đầu trong doanh nghiệp được chia thành các yếu tố như:

+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu bao gồm toàn bộ giá trị tài nguyên vật liệu chính,

nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ sử dụng vào sản xuất kinh

doanh trong kỳ (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với

nhiên liệu động lực).

+ Yếu tố nhiên liệu, động lực mua ngoài sử dụng vào quá trình sản xuất kinh

doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).

3

+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương : Phản ánh tổng số tiền lương và

phụ cấp mang tính chất lương chủ doanh nghiệp phải trả cho cán bộ công nhân viên

chức.

+ Yếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy

định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương chủ doanh nghiệp phải trả cho công nhân

viên chức.

+ Yếu tố khấu hao tài sản cố định : Phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định

phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.

+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài.

+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền : Phản ánh toàn bộ các chi phí khác bằng tiền

chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ.

* Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành

Theo quy định hiện hành, giá thành công xưởng sản phẩm bao gồm ba khoản

mục chi phí sau:

+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : gồm các chi phí về nguyên liệu, vật liệu,

nhiên liệu và động lực trực tiếp dùng vào sản xuất kinh doanh.

+ Chi phí nhân công trực tiếp : gồm các khoản chi phí trả cho người lao động

trực tiếp sản xuất (chi phí tiền lương,tiền công) và các khoản trích nộp của công nhân

trực tiếp sản xuất mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm chi trả cho họ.

+ Chi phí sản xuất chung: là các chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất

chế biến của phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp trực tiếp tạo ra sản

phẩm. Chi phí sản xuất chung bao gồm chi phí tiền lương, phụ cấp trả cho nhân viên

phân xưởng, chi phí vật liệu, dụng cụ dùng cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định

thuộc phân xưởng (bộ phận sản xuất), chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền

phát sinh ở phân xưởng.

Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm tiêu thụ thì chỉ tiêu giá thành còn

bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng.

* Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối

lượng sản xuất sản phẩm.

Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản phẩm, công

việc lao vụ sản xuất trong kỳ, chi phí sản xuất được chia làm hai loại:

4

+ Chi phí cố định (hay chi phí bất biến) là những chi phí không bị biến động trực

tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm. Chi phí này gồm có khấu hao

tài sản cố định, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, tiền thuê đất, chi phí quản lý doanh

nghiệp... Tuy nhiên trong kỳ có thể thay đổi về khối lượng sản phẩm thì các khoản chi

phí cố định này chỉ mang tính chất tương đối có thể khống đổi hoặc biến đổi ngược

chiều. Nếu như trong kỳ có sự thay đổi về khối lượng sản phẩm thì các khoản chi phí cố

định này tính trên một đơn vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với sự

biến động của sản lượng.

+ Chi phí biến đổi (hay còn gọi là chi phí khả biến): là những chi phí bị biến

động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm các chi phí

này cũng tăng theo tỷ lệ tương ứng. Thuộc về chi phí khả biến bao gồm chi phí vật liệu

trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.

Việc phân loại chi phí theo tiêu thức trên có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý

doanh nghiệp. Nó giúp nhà quản lý tìm ra các biện pháp quản lý thích ứng với từng loại

chi phí để hạ thấp giá thành sản phẩm. Nó cũng giúp cho việc phân điểm hoà vốn để xác

định được khối lượng sản xuất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.

1.3. Giá thành sản phẩm

1.3. Khái niệm

Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí vật chất và hao phí sức

lao động của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm

nhất định

1.3.2. Nội dung

* Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ gồm:

- Chi phí vật tư trực tiếp : Bao gồm chi phí nguyên liệu, nhiên liệu sử dụng trực

tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.

- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí lương, tiền công, các khoản trích

nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp phải nộp theo

quy định như bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế của công nhân sản

xuất.

- Chi phí sản xuất chung : Là các chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế

biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Bao gồm : Chi phí vật

liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phân xưởng, tiền lương các khoản

5

trích nộp theo quy định của nhân viên phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí

khác bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng.

Giá thành sản xuất sản phẩm = Chi phí vật tư trực tiếp + Chi phí nhân công trực

tiếp + Chi phí sản xuất chung.

* Giá thành tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ bao gồm:

- Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ

- Chi phí bán hàng : Là toàn bộ các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm,

dịch vụ, bao gồm các chi phí bảo hành sản phẩm.

- Chi phí quản lý doanh nghiệp : Bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý và

điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp như : Chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ

máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, tiền lương và các khoản trích nộp theo quy

định của bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, chi phí mua ngoài, chi phí khác

bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí về tiếp khách, giao dịch, chi các khoản

trợ cấp thôi việc cho người lao động.

Giá thành tiêu thụ = giá thành sản xuất + chi phí bán hàng + chi phí quản lý

doanh nghiệp.

1.3.3. Phân loại giá thành sản phẩm

Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm cũng như xây

dựng giá cả hàng hoá cần phải phân biệt các loại giá thành khác nhau. Có hai cách phân

loại chủ yếu là :

* Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành:

- Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên

cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch.

- Giá thành định mức : Giá thành định mức là giá thành được tính trên cơ sở định

mức chi phí sản xuất và sản lượng sản phẩm hàng năm.

- Giá thành thực tế : Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí

sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng đã sản xuất

thực tế trong kỳ.

* Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành:

6

- Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất là biểu hiện bằng tiền các hao phí vật

chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành việc sản xuất sản

phẩm nhất định.

Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm : các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm

(chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất

chung) tính cho sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành.

- Giá thành tiêu thụ của sản phẩm tiêu thụ: Là biểu hiện bằng tiền các hao phí vật

chất và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành việc sản xuất và

tiêu thụ sản phẩm, lao vụ nhất định.

Giá thành sản phẩm tiêu thụ bao gồm : Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí

bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ. Giá thành toàn bộ

dùng để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

1.3.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm.

Mỗi doanh nghiệp khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thì doanh

nghiệp đó phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định để tiến hành sản xuất ra sản phẩm.

Từ đó ta thấy chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật

thiết với nhau, giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào chi phí cao hay thấp.

Chi phí sản xuất và giá thành đều giống nhau về chất : đều biểu hiện bằng tiền

các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá nhưng trong phạm vi và nội dung của

chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có những điểm khác nhau.

Chi phí sản xuất là tính toàn bộ những chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ

nhất định (tháng, quý, năm). Giá thành sản phẩm thì giới hạn số chi phí sản xuất có liên

quan đến một khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành.

II. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá

thành sản phẩm và các biện pháp phấn đâú giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm

2.1. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá

thành sản phẩm

2.1.1 Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ

Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ việc áp dụng nhanh chóng những

thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép

7

các doanh nghiệp giảm được chi phí hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong

kinh doanh.

Máy móc hiện đại dần dần thay thế sức người trong những công việc lao động

nặng nhọc cũng như đòi hỏi sự tinh vi, chính xác và từ đó làm thay đổi điều kiện của

quá trình sản xuất. Với trình độ chuyên môn hoá, tự động hoá cao, với sự ra đời của các

công nghệ mới, không chỉ có chi phí về tiền lương được hạ thấp mà còn hạ thấp cả mức

tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm. Nhiều loại vật liệu mới ra đời với tính

năng tác dụng hơn, chi phí thấp hơn cũng làm cho chi phí nguyên vật liệu được hạ thấp.

2.1.2. Tổ chức sản xuất và sử dụng con người

Đây là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động giảm chi phí và hạ

giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao

động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản

xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có

tác dụng rất lớn thúc đẩy nâng cao năng suất lao động giảm chi phí và hạ giá thành sản

phẩm - dịch vụ.

2.1.3. Nhân tố tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp

Nhân tố này tác động mạnh mẽ tới chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành

sản phẩm. Bởi lẽ chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao

động sống và lao động vật hoá qua đó ta thấy để sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần

phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định, qua quá trình sản xuất lượng vốn tiền tệ này sẽ

bị tiêu hao nên việc quản lý và sử dụng chúng tốt là một trong những hoạt động tài

chính chủ yếu của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính có tác động lớn tới việc hạ thấp

chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh

nghiệp.

2.2. Các phương hướng biện pháp giảm chi phí hạ giá thành

Phấn đấu giảm phí và hạ giá thành là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận của

doanh nghiệp. Muốn giảm chi phí và hạ giá thành thì phải thực hiện đồng bộ nhiều

phương hướng, biện pháp sau:

2.2.1 Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng trong giá thành sản

phẩm

Trong giá thành sản phẩm, để tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, năng lượng cần

phải cải tiến kết cấu của sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp

8

nguyên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm,

bảo quản, vận chuyển.

Tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi phí nguyên vật

liệu... trong giá thành giảm và sẽ làm cho giá thành giảm nhiều vì trong kết cấu giá

thành tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60-

80%.

2.2.2. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm

Muốn giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm cần tăng nhanh năng

suất lao động, bảo đảm cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và

tiền công. Như vậy cần : cải tiến tổ chức sản xuất, cải tiến tổ chức lao động, áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá tự động hoá, hoàn

thiện định mức lao động, tăng cường kỹ thuật lao động, áp dụng các hình thức tiền

lương, tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động, đào tạo nâng cao

trình độ kỹ thuật công nhân.

Tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân và

tiền công sẽ cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm do đó khoản

mục tiền lương trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong

giá thành.

2.2.3. Giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm

Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh,

tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra.

Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong

giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định chậm hơn tốc độ tăng quy mô và

sản lượng. Nói cách khác là tốc độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và

quy mô tăng của sản lượng. Để tăng sản lượng hàng hoá cần phải sản xuất nhiều. Muốn

sản xuất nhiều thì phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động, phải mở rộng

quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do

ngừng sản xuất gây ra.

9

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN

PHẨM TẠI TRUNG TÂM THIẾT BỊ LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI

CÔNG TY SẢN XUẤT THIẾT BỊ ĐIỆN

I. Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của Trung tâm.

1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm thiết bị lưới điện phân

phối.

Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối được thành lập ngày 30 tháng 4 năm 1988

tại Hà Nội theo quyết định số 553/NL - TCCBLĐ của Bộ thương Mại và Quyết dịnh

thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước số 1170/NL-TCCBLĐ ngày 24.6.1993 theo nghị

định 388/CP của Chính phủ. Trung tâm hoạt động dưới sự quản lý toàn diện của Công

ty sản xuất thiết bị điện và chịu sự quản lý của Nhà nước về hoạt động kinh danh xuất

nhập khẩu của Bộ thương mại,

Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đặt trụ sở tại :

Số 14 Phố Bích Câu - Phường Quốc Tử Giám - Quận Đống Đa - HN.

Tên giao dịch: VINAELECTRO.

Điện thoại : 7.320.946

Quá trình hình thành phát triển của trung tâm có thể phân chia làm hai giai

đoạn như sau:

- Giai đoạn I : Từ khi thành lập ( 1988 ) đến năm 1991.

- Giai đoạn II : từ 1991 đến nay.

Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới cũng như

sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế nên trong những giai đoạn phát triển của trung tâm

cũng có những đặc điểm khác nhau.

1.2. Chức năng nhiệm vụ của Trung tâm

Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm được quy định cụ thể trong điều lệ về tổ

chức và hoạt động của Trung tâm được thể hiện ở như sau:

- Tiếp nhận vật tư hàng hoá, thiết bị kỹ thuật điện thuộc chương trình lưới điện

35KV trên toàn quốc theo hiệp định ngày 19/5/1987 giữa Việt Nam và Liên Xô cũ.

10

- Năm 1991 Trung tâm được Bộ Năng lượng giao nhiệm vụ dịch vụ uỷ thác nhập

khẩu, cung ứng vật tư, nguyên liệu thiết bị điện và tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị

trong Công ty.

Phạm vi hoạt động

- Xuất nhập khẩu:

+ Vật liệu và thiết bị phục vụ phát triển lưới điện, phân phối và truyền tải điện từ

khâu gia công, chế tạo, lắp đặt và sửa chữa.

+ Các dịch vụ, kỹ thuật ngành sửa chữa và chế tạo thiết bị điện kể cả nguồn lưới

- thiết bị dùng điện.

+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vật liệu, thiết bị kỹ thuật điện, xây dựng và

tham gia các hình thức hợp tác để phát triển các công trình điện tại Việt Nam.

+ Có quan hệ hợp tác với trên 100 doanh nghiệp, Công ty, tổ chức trong và ngoài

nước để thực thi các dự án phát triển điện lực Việt Nam.

- Cung ứng vật tư - điện lực:

+ Thực hiện các dịch vụ lưu thông vận tải các loại hàng đặc chủng của ngành

điện theo yêu cầu của khách hàng.

+ Quản lý và cung ứng vật tư - thiết bị điện thuộc chương trình phát triển lưới

điện 35KV và các chương trình phát triển lưới điện nông thôn bằng nguồn vốn vay nước

ngoài.

1.3. Tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức công tác kế toán ở Trung tâm

1.3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý

Bộ máy quản lý của Trung tâm được tổ chức theo cơ cấu quản lý trực tuyến chức

năng và được thể hiện qua sơ đồ sau :

11

SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA TRUNG TÂM

Giám đốc

Phòng Dự án

Cửa hàng GTSP

Phòng Tổchứ c hành chính

Phòng Kế hoạch vật tư

Phòng Kinh doanh- Tiếp thị

đấu thầu

Phòng Tài chính kế toán

1.3.2. Tổ chức công tác kế toán

* Trưởng phòng:

Phụ trách chung, chịu sự điều hành, chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc và

pháp luật. Điều hành tổ chức hoạt động tài chính của Trung tâm.

* Kế toán bán hàng :

Theo dõi hàng hoá nhập xuất tồn, theo dõi thẻ kho chi tiết cho từng loại hàng

hoá. Viết hoá đơn bán hàng theo lệnh xuất kho, theo dõi cho đến khi khách hàng nhận

đầy đủ hàng hoá, theo dõi đôn đốc thu nợ (nếu có) chi tiết cho từng khách hàng.

* Kế toán thanh toán

Theo dõi tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ : căn cứ chứng từ, hạch toán vào sổ, lưu

giữ chứng từ theo trình tự thời gian, cân đối dự báo tình hình về ngoại tệ để báo cáo

lãnh đạo. Theo dõi thanh toán các hợp đồng mua bán.

* Kế toán quỹ, tiền lương và BHXH

Kiểm soát chứng từ thu chi vào sổ quỹ, kiểm quỹ hàng ngày. Cuối tháng, quý,

năm lập báo cáo quỹ, tiền lương và BHXH.

* Kế toán TSCĐ

12

Hàng tháng tính khấu hao TSCĐ chi tiết cho từng loại tài sản, theo dõi tăng,

giảm, theo dõi thẻ kho chi tiết cho từng loại tài sản, vào bảng kê TSCCĐ.

* Nhân viên kinh tế của cửa hàng GTSP: Có nhiệm vụ thu nhập chứng từ định kỳ chuyển về phòng TC - KT kiểm tra và ghi sổ kế toán. Có trách nhiệm báo cáo giải trình đầy đủ và trung thực số liệu về phòng để tổng hợp, lập báo cáo.

* Kế toán tổng hợp, Thuế :

Cuối quý năm căn cứ vào các báo cáo chi tiết của các bộ phận, kiểm soát và lập

báo cáo tài chính. Tập hợp các nhật ký chứng từ, bảng kê, lên sổ cái, gửi báo cáo tài

chính (theo pháp lệnh kế toán) định kỳ lên các cơ quan chức năng

1.4. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm

* Về thị trường :

Nếu như trong giai đoạn I, thị trường của Trung tâm chủ yếu là Liên Xô cũ và

các nước xã hội chủ nghĩa do đặc điểm kinh tế đối ngoại nước ta lúc bấy giờ và thị

trường bán của Trung tâm chỉ duy nhất là các đơn vị trong ngành điện Việt Nam thì

trong giai đoạn phát triển thứ hai của Trung tâm có sự thay đổi và mở rộng cả thị trường

mua lẫn thị trường bán. Về thị trường nhập khẩu, hiện nay Trung tâm đã có quan hệ

giao dịch với nhiều bạn hàng nước ngoài ở hầu hết các khu vực trên thế giới như :

Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Đức.

Về thị trường bán cũng có những thay đổi đó là việc Trung tâm mở rộng việc

buôn bán kinh doanh với các đơn vị ngoài Công ty sản xuất thiết bị điện. Bên cạnh

những việc xác định thị trường Trung tâm là các đơn vị thuộc Công ty sản xuất thiết bị

điện, Trung tâm còn mở rộng thị trường bằng việc cung cấp các vật tư thiết bị lưới điện

cho các doanh nghiệp trong cả nước.

* Về vốn kinh doanh :

Hiện nay tỷ trọng vốn lưu động trên tổng số vốn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng 70%.

Năm 2001, tổng số vốn kinh doanh của Trung tâm đạt 5.065.000.000 đồng trong đó vốn

lưu động chiếm 70.68% hàng năm. Vốn kinh doanh của Trung tâm thường xuyên được

bổ sung từ hai nguồn vốn chính là vốn tự bổ sung và ngân sách nhà nước, đạt tốc độ

tăng trưởng vốn bình quân hàng năm khá cao. Điều nay thể hiện qua bảng số liệu sau :

13

Bảng 2 : CƠ CẤU NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA TRUNG TÂM

Vốn cố định BQ

Vốn lưu động BQ

Tổng vốn KDBQ

TT

Năm

Lượng vốn

Tỷ trọng

Lượng vốn

Tỷ trọng

Lượng vốn

Tỷ trọng

(1000đ)

(%)

(1000đ)

(%)

(1000đ)

(%)

1

1999

702.000

17,76 3.250.000

82,24 3.952.000

100

2

2000

881.000

20,75 3.364.000

79,25 4.245.000

100

3

2001

1.485.000

29,32 3.580.000

70,68 5.065.000

100

Nhìn vào Bảng 2, ta thấy quy mô hoạt động sản xuất của Trung tâm ngày càng

mở rộng và đạt được hiệu quả. Vốn cố định năm 2001 tăng đáng kể so với năm 2000 =

68,58 % ( tức là 604.000 ngàn đồng) phần tăng này một phần do Trung tâm được ngân

sách nhà nước cấp và một phần do Trung tâm vay của ngân hàng. Cũng trong năm 2000

Trung tâm bắt đầu đưa trụ sở mới và sử dụng bước đầu đem lại hiệu quả cho Trung tâm

thể hiện tổng vốn kinh doanh của Trung tâm năm 2001 tăng 19% so với năm 2000. Đây

có lẽ là bước thuận lợi cho Trung tâm hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn trong các

năm tới.

* Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh :

Mặc dầu đứng trước những khó khăn do những cuộc khủng hoảng tài chính khu

vực, trên thế giới mà nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, tỷ giá USA tăng cao

khiến việc nhập khẩu một số ngành gặp nhiều khó khăn. Có thể nói nguồn đem lại

doanh thu lớn hàng năm cho Trung tâm chính là việc xuất nhập khẩu mặt hàng của

Trung tâm ra các đối tác nước ngoài mà chủ yếu là các nước Tây Âu và Đông Âu, trong

khi giá thành nhập khẩu vật tư, thiết bị phục vụ cho công nghiệp trao đổi bằng ngoại tệ

không thay đổi thì giá tiêu thụ tại thị trường lại tăng lên, các khách hàng trong nước khó

có khả năng chấp nhận sự thay đổi nay. Mặc dù vậy, bằng sự cố gắng vươn lên, Trung

tâm không những duy trì được hoạt động của mình mà còn phát huy hiệu quả tích cực

thể hiện ở bảng sau đây:

14

Bảng 3 : KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA TRUNG TÂM TỪ 1999 - 2001

NĂM 2000

Chỉ tiêu

Năm 1999

Năm 2001

TH

TH

TH/KH

TH

2000/1999 %

2001/2000 %

%

25

139

30

120

32

107

Tổng D.Thu

(tỷ đ )

6,1

130

9,1

149

9,2

101

Kim nghạch

XNK (Tr USD)

5,2

137

11

211

6,5

59

Thu nộp

NSNN (tỷ đ)

300

128

504

168

704

140

Lợi nhuận

(tr.đ)

886.463

110

1.081.661

122

1.116.125

103

Thu nhập

bquân ( đ/ng )

II. Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành

sản phẩm của Trung tâm một số năm qua

2.1. Những thuận lợi và khó khăn của Trung tâm trong công tác quản lý chi

phí

Trong công tác quản lý chi phí, cùng với việc tập hợp chi phí theo yếu tố đúng

theo quy định chế độ của nhà nước ban hành, Trung tâm luôn luôn tập trung nghiên cứu,

tìm tòi để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giảm thiểu tối đa chi phí trong hoạt động

kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm. Qua đó giá bán sản phẩm của từng mặt hàng đã hạ

mặc dù một số chi phí trong từng mặt hàng vẫn có xu thế tăng lên.

Bên cạnh những ưu điểm mà Trung tâm đã đạt được trong công tác quản lý chi

phí, Trung tâm vẫn còn những nhược điểm cần được khắc phục.

Công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh còn sơ sài chưa được coi

trọng trong công tác quản lý chi phí, chưa được vận dụng tốt trong công tác quản lý chi

phí hoạt động kinh doanh và hạ giá bán sản phẩm.

15

Hàng hoá của Trung tâm chủ yếu là nhập khẩu theo những hợp đồng đã ký kết

sẵn, nên Trung tâm chưa thực sự chủ động trong việc xác định chi phí cũng như giá bán

của sản phẩm đó.

Đối với việc sử dụng các yếu tố của quá trình hoạt động kinh doanh thì việc áp

dụng các hình thức thưởng phạt chưa được tốt nên chưa taọ được sự thi đua cạnh tranh

nhau trong Trung tâm.

Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác còn cao chưa tương ứng với

kết quả đem lại.

Đánh giá hiệu quả kinh doanh bằng mối quan hệ giữa doanh thu đạt được và chi

phí bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh

Doanh thu Hiệu quả kinh doanh = Chi phí

29.893 Hiệu quả kinh doanh năm 2000 = =1,10 27.215

31.903 Hiệu quả kinh doanh năm 2001 = =1,07 29.901

Từ kết quả tính toán trên ta thấy hiệu quả kinh doanh năm 2000 là 1,10 tức là

một đồng chi phí bỏ ra năm 2000 tạo ra doanh thu lớn hơn một đồng chi phí bỏ ra năm

2001 là 1,10 - 1,07 = 0,03 đồng. Từ đó ta thấy đây cũng là một trong những nhược điểm

mà Trung tâm cần khắc phục.

2.2. Khái quát về chi phí sản xuất kinh doanh của Trung tâm

Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối tập hợp chi phí hoạt động sản xuất kinh

doanh theo yếu tố chi phí và được chia ra năm loại:

- Yếu tố chi phí nguyên vật liệu

- Yếu tố chi phí nhân công

- Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định

- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài

- Yếu tố chi phí bằng tiền khác.

16

Để đánh giá khái quát về thực trạng quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của

Trung tâm ta đi phân tích đánh giá công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của

Trung tâm trong hai năm qua ở bảng sau :

Bảng 4 : Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố của Trung tâm thiết

bị lưới điện phân phối trong một số năm qua Đơn vị : 1.000 đ

Năm 2000

Năm 2001

Chênh lệch

Yếu tố chi phí

Số tiền

TT

Số tiền

TT

Số tiền

TT

26.903.155

94,08

28.327.538

92,8 1.424.383 5,29

1. Chi phí NLVL

442.292

1,16

774.000

2,53

331.708

75

2. Chi phí NC

131.423

0,5

81.213

0,3

50.210 -38,2

3. Chi phí KHTSCĐ

526.451

1,84

659.221

2,2

132.770

25

4. Chi phí DVMN

593.440

700.909

2,3

107.469

18

2,1

5. Chi phí bằng tiền

Tổng chi phí

28.596.761

30.542.881

100 1.946.120

6,8

100

* Chi phí nguyên liệu, vật liệu:

Chi phí nguyên liệu vật liệu là khoản chi phí cấu thành nên thực thể của sản

phẩm. Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí nguyên liệu vật liệu của

Trung tâm chiếm tỷ trọng lón nhất trong tổng chi phí từ 92,7% - 94%.

Năm 2001 chi phí nguyên liệu vật liệu đã tăng lên so với năm 2000 với mức tăng

1.424.388 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 5,29% và chiếm tới 73% trong mức tăng

của tổng chi phí.

Trên góc độ là một nhà quản lý chi phí, thì chi phí nguyên liệu vật liệu là trọng

tâm trong công tác quản lý chi phí của Trung tâm. Việc tiết kiệm khoản chi phí này là

nhân tố quyết định việc phấn đấu hạ giá thành của sản phẩm.

Nguyên liệu vật liệu ở Trung tâm chính là giá vốn hàng hoá mà Trung tâm nhập

khẩu về bao gồm các loại chi phí như : giá mua hàng hoá, thuế nhập khẩu phải nộp, chi

phí vận chuyển, chi phí quản lý, bao bì,...

Công tác quản lý chi phí nguyên liệu : đối với tất cả các loại nguyên liệu vật liệu

Trung tâm nhập khẩu về đều tiến hành nhập kho, khi có khách hàng mua mới xuất kho

giá thực tế nguyên liệu vật liệu xuất kho được tính theo đơn giá nguyên liệu vật liệu

xuất kho theo giá bình quân nguyên liệu vật liệu xuất kho

17

* Chi phí nhân công :

Ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối : chi phí nhân công bao gồm toàn bộ

tiền lương và các khoản phụ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của

nhân viên quản lý. Tiền lương thực tế phải trả cho nhân viên quản lý được căn cứ vào hệ

số lương cơ bản của từng cán bộ công nhân viên.

Các khoản trích theo lương bao gồm : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí

công đoàn được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh theo đúng chế độ quy định hiện

hành của nhà nước.

- Bảo hiểm xã hội : 15% tính vào tiền lương cơ bản.

- Bảo hiểm y tế : 2% tính vào tiền lương cơ bản.

- Kinh phí công đoàn : 2% tính theo tiền lương thực tế.

Chi phí nhân công của Trung tâm chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí

từ 1,6% đến 2,53%.

Năm 2001 chi phí nhân công của Trung tâm đã tăng lên so với năm 2000 là

331.708 ngàn đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 75%. Điều này cho thấy trong năm 2001

đời sống cán bộ công nhân viên của Trung tâm đã được cải thiện đáng kể thông qua

tổng quỹ lương tăng lên. Trong khi đó tốc độ tăng doanh thu thuần năm 2001 chỉ đạt

7,5%, mà tổng quỹ lương của Trung tâm năm 2001 lại tăng lên 75%. Điều này cho thấy

việc tăng quỹ lương của Trung tâm là quá cao so với doanh thu thuần đạt được, chưa

phản ánh đúng thực chất hiệu quả kinh doanh mang lại. Nhưng điều này cũng dễ lý giải

bởi vì Trung tâm ngoài hoạt động kinh doanh thì còn thực hiện cung cấp hàng cho

chương trình 35KV của Tổng công ty điện lực Việt Nam, nên sẽ được trả tiền lương,

điều này có thể lý giải tại sao doanh thu thuần chỉ tăng có 7,5%, mà trong khi đó tổng

quỹ lương lại tăng lên 75%.

* Chi phí khấu hao :

Theo kết quả tính toán ở bảng trên ta thấy chi phí khấu hao chiếm một tỷ trọng

rất nhỏ trong tổng chi phí, đây cũng là đặc điểm cơ bản của loại hình doanh nghiệp

thương mại - dịch vụ.

18

Năm 2001 chi phí khấu hao là 81.213 ngàn đồng giảm 50.210 ngàn đồng so với

năm 2000 - tương ứng với tỷ lệ giảm 38,2%.

Qua tìm hiểu thực tế năm 2001, Trung tâm đã thanh lý một số tài sản hết thời hạn

khấu hao và đánh giá lại tài sản cố định để việc tính khấu hao được chính xác hơn. Nên

đã làm chi phí khấu hao tài sản cố định của Trung tâm trong năm 2001 giảm đi so với

năm 2000.

* Chi phí dịch vụ mua ngoài :

Chi phí dịch vụ mua ngoài là khoản chi phí hết sức cần thiết phục vụ cho quá

trình hoạt động kinh doanh của Trung tâm bao gồm (điện, điện thoại và các dịch vụ

khác....). Qua bảng so sánh cho thấy chi phí dịch vụ mua ngoài của Trung tâm không

ngừng tăng lên với mức tăng 132.770 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 25%, cũng theo số liệu

chi tiết của chi phí và số liệu của doanh thu cho thấy thì tốc độ tăng của doanh thu qua

so sánh của hai năm 2000 và 2001 tương ứng (tốc độ tăng doanh thu chỉ đạt 6,7% trong

khi tốc độ tăng chi phí dịch vụ mua ngoài tăng với 25%, tăng hơn ba lần tốc độ tăng

doanh thu). Qua tìm hiểu số liệu thực tế cho thấy chi phí dịch vụ mua ngoài tăng lên chủ

yếu tăng ở hai khoản : chi phí giao nhận giám định hàng hoá và chi phí thử nghiệm sản

phẩm công tơ điện tử, khoản chi phí này tuỳ theo từng thời điểm cũng như theo từng

mặt hàng mà thời điểm đó Trung tâm nhập khẩu, nếu như nhập khẩu chủng loại máy

móc nhiều thì các khoản chi phí về giám định, thử nghiệm sản phẩm sẽ tăng lên.

* Chi phí bằng tiền khác :

Chi phí bằng tiền không phải là khoản chi phí trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá

như : chi phí tiếp khách, quảng cáo, các loại thuế, công tác phí, văn phòng phí... Tuy

nhiên nó cũng là một trong những khoản chi phí tương đối lớn mà doanh nghiệp phải

chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình qua bảng 4 cho thấy chi phí bằng

tiền năm 2001 tăng 107.469 ngàn đồng đạt tỷ lệ tăng 18%, đem so sánh tỷ lệ tăng doanh

thu chỉ đạt 6,7%. Cho thấy tốc độ tăng chi phí bằng tiền lớn hơn hai lần so với mức tăng

của doanh thu nguyên nhân làm tăng chi phí bằng tiền là tăng khoản tiền tiếp khách năm

2001 tăng 75.713 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 48,6% chiếm tỷ trọng 22,2% tổng chi phí

bằng tiền.

Vậy cũng như khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác, công tác

quản lý chi phí bằng tiền còn yếu kém, chưa tiết kiệm gây lãng phí làm ảnh hưởng tới

hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm.

19

Năm 2001 doanh thu của Trung tâm là 31.903.333 ngàn đồng tăng 2.009.725

ngàn đồng với tỷ lệ tăng 6,7%.

Như vậy tốc độ tăng doanh thu năm 2001 là 6,7% nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí là

6,8%, mặc dù chênh lệch giữa tốc độ tăng doanh thu và chi phí là không đáng kể,.

Nhưng điều này cho thấy công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của Trung tâm

chưa tốt. Đây là nguyên nhân chính làm giảm lợi nhuận của Trung tâm trong năm vừa

qua.

2.3. Tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm ở Trung tâm

Ở Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

hàng hoá phục vụ cho ngành điện, nên sản phẩm của nó khá đa dạng và phong phú. Từ

đó muốn đánh giá chi phí sản xuất kinh doanh của Trung tâm ta đi sâu phân tích nhiệm

vụ hạ giá thành của một số sản phẩm có thể so sánh được của Trung tâm: dây thép mạ

kẽm, nhôm thỏi.

Đây là hai sản phẩm chủ yếu mà Trung tâm nhập thường xuyên nên có thể so

sánh được đối với việc đánh giá công tác hạ giá thành sản phẩm.

Do việc Trung tâm chưa thực sự coi trọng công tác kế hoạch hoá công tác quản

lý chi phí cũng như kế hoạch hạ giá thành của Trung tâm, nên ở đây ta chỉ đi sâu phân

tích sự biến động các yếu tố chi phí trong giá thành của hai sản phẩm thực hiện qua hai

năm 2000 và 2001.

Dựa vào đặc điểm trong việc quản lý giá thành sản phẩm của Trung tâm, để có

được những đánh giá đúng thực tế về vấn đề này ta đi phân tích sự biến đổi chi phí

trong giá thành đơn vị sản phẩm từ đó phát hiện sự tăng giảm của các yếu tố trong giá

thành sản phẩm giúp Trung tâm biết được sẽ khai thác việc giảm giá thành sản phẩm ở

yếu tố nào.

Đầu tiên ta đi xem xét chi phí của hai sản phẩm tiêu thụ trong hai năm.

20

Bảng 5 : CHI PHÍ SẢN PHẨM DÂY THÉP MẠ KẼM

Chênh lệch

Yếu tố chi phí

Năm 2000 Năm 2001

Số tiền

TL (%)

TT

629.647

834.974 + 205.327

32,60

93,5

1. Chi phí NLVL

7.350

8.834

+1.484

20,19

0,67

2. Chi phí NC

8.590

10.515

+1.925

22,41

0,87

4. Chi phí DVMN

50.299

63.266

+12.967

25,78

5,9

5. Chi phí bằng tiền

7.156

5.037

-2.119

-29,61

-0,94

3. Chi phí KHTSCĐ

Tổng chi phí

703.042

922.626

219.584

31,23

100

Doanh thu

712.303

869.157

156.854

22,02

Bảng 6 : CHI PHÍ SẢN PHẨM NHÔM THỎI

Chênh lệch

Yếu tố chi phí

Năm 2000 Năm 2001

Số tiền

TL (%)

TT

8.046.610 7.521.165

-525.445

-6,53

-93,8

1. Chi phí NLVL

18.251

20.552

+2.301

+12,61

+0,4

2. Chi phí NC

26.392

25.650

-742

-2,81

0,13

4. Chi phí DVMN

159.632

121.652

-37.980

-23,79

6,7

5. Chi phí bằng tiền

8.174

10.159

1.985

24,28

0,35

3. Chi phí KHTSCĐ

Tổng chi phí

8.259.059 7.699.178

-559.881

-6,78

100

Doanh thu

8.292.874 7.732.805

-560.069

-6,7

Qua số liệu tính toán ở hai bảng trên ta thấy được chi phí của hai sản phẩm dây

thép mạ kẽm và nhôm thỏi.

Đối với sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí sản xuất kinh doanh năm 2001 tăng

219.584 ngàn đồng so với năm 2000 với tỷ lệ tặng 31,23% trong đó chỉ có yếu tố chi

phí khấu hao là giảm 2.119 ngàn đồng với tỷ lệ giảm là 29,61% còn lại các yếu tố chi

phí khác đều tăng lên.

21

- Chi phí nguyên liệu vật liệu tăng 205.327 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 32,60%

chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng mức tăng toàn bộ chi phí 93,50%.

- Chi phí nhân công tăng 1.484 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 20,19% chiếm tỷ trọng

0,67% trong tổng chi phí.

- Chi phí dịch vụ mua ngoài tăng 1.925 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 22,41% chiếm

tỷ trọng 0,87% trong tổng chi phí.

- Chi phí bằng tiền khác tăng 12.967 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 25,78% chiếm tỷ

trọng 5,8% trong tổng chi phí.

- Chi phí khấu hao giảm 2.119 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 29,61% chiếm tỷ trọng

0,94%.

Doanh thu sản phẩm dây thép mạ kẽm năm 2001 cũng tăng hơn so với năm 2000

là 156.854 ngàn đồng với tỷ lệ tăng 22,02%. Trong khi đó tốc độ tăng chi phí 31,23%

lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. Như vậy ta thấy tốc độ tăng chi phí của sản phẩm dây

thép mạ kẽm là chưa hợp lý.

Đối với sản phẩm nhôm thỏi thì chỉ có yếu tố chi phí nhân công là tăng lên năm

2001 tăng lên 2.301 ngàn đồng với tỷ lệ tặng 12,61% chiếm tỷ trọng 0,4% trong tổng

chi phí.

Tổng chi phí năm 2001 giảm so với năm 2000 là 559.881 ngàn đồng với tỷ lệ

giảm 6,78%.

Trong đó chi phí nguyên liệu vật liệu năm 2001 giảm so với năm 2000 là

525.445 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 6,53% chiếm tỉ trọng 93,80% trong tổng chi phí.

Chi phí dịch vụ mua ngoài giảm 742 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 2,81% chiếm tỉ

trọng 0,13%.

Chi phí bằng tiền khác giảm 37.980 ngàn đồng với tỷ lệ giảm 23,79% chiếm tỉ

trọng 6,7% tổng chi phí.

Chi phí khấu hao giảm 1.985 ngàn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 24,28% chiếm

0,35% tổng chi phí.

Doanh thu năm 2001 giảm hơn so với năm 2000 là 560.069 ngàn đồng tương ứng

với tỷ lệ giảm 6,7%. Trong khi đó tốc độ giảm của chi phí 6,78% thì tốc độ giảm doanh

thu là 6,7%. Như vậy việc giảm chi phí của sản phẩm nhôm thỏi có thể coi như là hợp

lý.

22

Nhìn vào kết quả phân tích chi phí trên đây thì ta mới chỉ nhận biết được một

cách tổng quát các yếu tố chi phí và doanh thu. Như vậy, ta chưa thể đánh giá một cách

chính xác công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của

Trung tâm tăng hay giảm và hợp lý hay không hợp lý vậy chúng ta đi sâu phân tích giá

thành đơn vị sản phẩm, từ đó xem xét sự biến động của các khoản mục trong giá thành

sản phẩm.

Căn cứ vào đặc điểm của công tác quản lý giá thành sản phẩm của Trung tâm, để

có được đánh giá đúng đắn về vấn đề này ta dùng phương pháp phân tích sự biến đổi chi

phí trong giá thành đơn vị sản phẩm từ đó phát hiện được các chi phí làm tăng, giảm giá

thành sản phẩm giúp Trung tâm biết được khai thác khả năng giảm giá thành ở khoản

mục chi phí nào. Vì công tác kế hoạch giá thành ở Trung tâm chưa thực sự được chú

trọng cho nên ở đây có thể thấy rõ được sự biến động các khoản mục chi phí trong giá

thành sản phẩm được thực hiện qua hai năm 2000 và 2001.

Bảng 7 : GIÁ THÀNH ĐƠN VỊ DÂY THÉP MẠ KẼM

Đơn vị 1000đ

Chênh lệch

Yếu tố chi phí

Năm 2000 Năm 2001

Số tiền

TL (%)

8.061

8.235

174

2,15

1.

Chi

phí

NLVLTT

93

86

-7

-7,5

2. Chi phí NCTT

745

723

-22

2,95

4. Chi phí SXC

Giá thành

8.899

9.044

145

1,63

23

Bảng 8 : GIÁ THÀNH ĐƠN VỊ SẢN PHẨM NHÔM THỎI

Đơn vị 1000đ

Chênh lệch

Yếu tố chi phí

Năm 2000

Năm 2001

Số tiền

TL (%)

13.053

13.003

-50

0,38

1. Chi phí NLVLTT

32

33

1

3,1

2. Chi phí NCTT

254

301

47

18,5

4. Chi phí SXC

Giá thành

13.339

13.337

-2

0,014

Qua số liệu của hai bảng tính giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm và

nhôm thỏi có thể thấy rằng giá thành của sản phẩm dây thép mạ kẽm tăng, còn giá thành

sản phẩm nhôm thỏi thì đã giảm song mức giảm không đáng kể.

Năm 2001 giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm 9.044 ngàn đồng/1tấn sản

phẩm so với giá thành đơn vị sản phẩm năm 2000 là 8.899 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm

thì đã tăng 145 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương đối là 1,63%. Còn với

sản phẩm nhôm thỏi năm 2001 giá thành sản phẩm đã giảm được 2 ngàn đồng/tấn sản

phẩm với tỷ lệ giảm tương đối là 0,014%. Cũng qua hai bảng 7 và 8 ở trên ta thấy rằng:

sự tăng giảm của từng mục chi phí đã tổng hợp nên mức hạ của giá thành sản phẩm.

Đối với sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản

chung đã giảm cụ thể :

Chi phí nhân công trực tiếp giảm 7 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm

tương đối 7,5%.

Chi phí sản xuất chung trực tiếp giảm 22 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ

giảm tương đối 2,95%.

Song khoản mục chi phí nguyên vật liệu lại tăng lên hơn mức hạ của các khoản

mục trong giá thành, làm giá thành sản phẩm vẫn tăng lên.

Còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm còn chi phí nhân

công trực tiếp và chi phí sản xuất chung lại tăng lên cụ thể:

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm 50 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ

giảm tương đối 0,38%.

Chi phí nhân công trực tiếp tăng 1 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương

ứng 3,1%.

24

Chi phí sản xuất chung tăng 47 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ 18,5%.

Để đánh giá được mức độ ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí tới giá thành

sản phẩm cũng như công tác quản lý các khoản mục chi phí đó của Trung tâm, ta tiến

hành phân tích từng khoản mục chi phí trong giá thành.

* Khoản mục chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp trong giá thành đơn vị sản

phẩm

Dây thép mạ kẽm được Trung tâm nhập khẩu từ Hàn Quốc nó là vật liệu phụ cho

việc sản xuất dây điện cao thế. Tác dụng của nó không phải là dẫn điện mà là chịu lực.

Khoản mục nguyên liệu vật liệu trực tiếp trong sản phẩm dây thép mạ kẽm năm

2001 tăng 174 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng 2,15% so với năm 2000. Chi phí

nguyên liệu vật liệu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kết cấu của giá thành sản phẩm nên

việc thay đổi khoản mục này có tác động tích cực đến giá thành đơn vị của sản phẩm.

Năm 2001 chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp tăng hơn năm 2000 là do giá cả trên thị

trường có sự biến động hàng hoá nhập khẩu cập cảng quá xa nơi bán làm cho giá cả

nguyên liệu vật liệu Trung tâm nhập về tăng cao.

Còn đối với sản phẩm nhôm thỏi yếu tố chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp năm

2001 giảm so với năm 2000 là 50 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm 0,38%. Sản

phẩm nhôm thỏi Trung tâm nhập khẩu từ nước Nga do trong năm 2000 nước Nga có sự

biến động về thị trường, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ quy đổi USD cao, nhưng sang năm 2001

thị trường nước Nga dần trở lại bình ổn lạm phát giảm, giá cả trở lại bình thường.

* Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành đơn vị sản phẩm :

Năm 2001 chi phí nhân công tính cho một tấn sản phẩm dây thép mạ kẽm là 86

ngàn đồng, năm 2000 chi phí nhân công 93 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm. Như vậy

chi phí nhân công năm 2001 giảm 7 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm

7,5%.

Đối với sản phẩm nhôm thỏi yếu tố chi phí nhân công năm 2001 so với năm

2000 tăng lên 1 ngàn đồng trên một tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng 3,1%.

Yếu tố chi phí nhân công là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá

thành sản phẩm của Trung tâm. Qua nghiên cứu thực tế các khoản trích nộp theo lương

được Trung tâm thực hiện theo đúng chế độ quy định của nhà nước, xem xét số liệu trên

sổ kế toán cho thấy tổng quỹ lương năm 2001 đã tăng lên, thu thập bình quân đầu người

tăng lên đời sống cán bộ công nhân viên đã được cải thiện. Như vậy có thể kết luận việc

25

quản lý yếu tố chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm của Trung tâm tương đối tốt,

tăng năng suất lao động nhằm giảm yếu tố chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm.

* Khoản mục chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm :

Khoản mục chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm dây thép mạ

kẽm giảm còn trong giá thành đơn vị sản phẩm nhôm thỏi lại tăng lên cụ thể:

Sản phẩm dây thép mã kẽm chi phí sản xuất chung năm 2001 là 723 ngàn

đồng/`1 tấn sản phẩm còn năm 2000 là 745 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Như vậy năm

2001 đã giảm được 22 ngàn động/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ giảm tương đối 2,95%.

Còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí sản xuất chung năm 2001 là 301 ngàn đồng/1

tấn sản phẩm và năm 2000 là 254 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Như vậy năm 2001 đã

tăng lên 47 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm với tỷ lệ tăng tương đối là 18,5%.

Khoản chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều khoản mục như chi phí khấu hao

tài sản cố định, chi phí nguyên liệu vật liệu, tiền lương nhân viên phân xưởng... Đây là

khoản chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm. Vậy quản lý sao cho chi

phí này giảm trong giá thành sản phẩm đòi hỏi Trung tâm phải quan tâm nhiều vấn đề,

tức là phải qua tâm tới các khoản mục chi tiết trong chi phí sản xuất chung. Có thể thấy

rõ sự biến động cho chi phí sản xuất chung trong giá thành đơn vị sản phẩm qua số liệu

ở bảng sau:

Bảng 9 : BẢNG CHI TIẾT KHOẢN MỤC CHI PHÍ SẢN XUẤT CHUNG TRONG

ĐƠN VỊ SẢN PHẨM DÂY THÉP MẠ KẼM Đơn vị 1000đ

Chi tiết khoản mục chi phí trong chi

Năm 2000

Năm 2001

Tăng giảm chi

- Chi phí tiền lương

189

+6

183

- Chi phí khấu hao tài sản cố định

52

-34

86

- Chi phí nguyên liệu vật liệu

48

+5

43

- Chi phí dịch vụ mua ngoài và bằng tiền

434

+1

433

Tổng chi phí sản xuất chung

723

-22

745

26

Bảng 10 : BẢNG CHI TIẾT KHOẢN MỤC CHI PHÍ SẢN XUẤT CHUNG

TRONG ĐƠN VỊ SẢN PHẨM NHÔM THỎI Đơn vị 1000đ

Chi tiết khoản mục chi phí trong chi

Năm 2000

Năm 2001

Tăng giảm chi

- Chi phí tiền lương

57

72

15

- Chi phí khấu hao tài sản cố định

43

39

-4

- Chi phí nguyên liệu vật liệu

33

42

+9

- Chi phí dịch vụ mua ngoài và bằng tiền

121

148

+27

Tổng chi phí sản xuất chung

254

301

+47

Từ số liệu ở bảng 9 và 10 ở trên ta thấy : chi phí sản xuất chung tính cho một đơn

vị sản phẩm dây thép mạ kẽm giảm đi so với năm 2000 là do sự giảm đi của chi phí

khấu hao tài sản cố định. Chi phí sản xuất chung tính cho một đơn vị sản phẩm nhôm

thỏi tăng so với năm 2000 là do tăng chi phí tiền lương.

Chi phí khấu hao tài sản cố định tính cho một đơn vị sản phẩm dây thép mạ kẽm

là giảm đi 34 ngàn đồng/1 tấn sản phẩm, còn sản phẩm nhôm thỏi chi phí này giảm đi 4

ngàn đồng/1 tấn sản phẩm. Con số này chứng tỏ ở Trung tâm, việc trang bị tài sản cố

định mới và việc sử dụng tài sản cố định được chú trọng. Năm 2001, Trung tâm trang bị

thêm tài sản cố định và thanh lý một số tài sản cố định sử dụng kém hiệu qủa và cũng đã

đánh giá lại toàn bộ tài sản cố định của Trung tâm cùng với ý thức gìn giữ của cán bộ

công nhân viên tốt đã làm cho khấu hao tài sản cố định của Trung tâm giảm đi.

Tuy nhiên chi phí sản xuất chung vẫn còn tăng lên ở các khoản mục chi phí so

với năm 2000 như :

Chi phí tiền lương cho nhân viên phân xưởng của sản phẩm dây thép mạ kẽm

tăng 6 ngàn đồng, sản phẩm nhôm thỏi tăng 15 ngàn đồng.

Chi phí nguyên liệu vật liệu của sản phẩm dây thép mạ kẽm tăng 5 ngàn đồng,

còn sản phẩm nhôm thỏi tăng 9 ngàn đồng. Do vậy Trung tâm cần phải tìm hiểu rõ

nguyên nhân làm tăng các khoản chi phí này, để có biện pháp quản lý thích hợp hơn.

Đóng góp lớn vào việc tăng chi phí sản xuất chung là khoản tăng về chi phí dịch

vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác. Sản phẩm dây thép mạ kẽm chi phí dịch vụ

mua ngoài và chi phí bằng tiền khác năm 2001 tăng lên 1 ngàn đồng và sản phẩm nhôm

thỏi tăng 27 ngàn đồng. Trung tâm cần xem xét lại khoản mục chi phí này trong giá

thành sản phẩm, nếu như chi phí dịch vụ mua ngoài tăng ở các khoản như chi phí tiếp

khách, chi phí điện, nước, chi phí thử nghiệm sản phẩm thì Trung tâm cần có biện pháp

khắc phục nhằm góp phần tăng lợi nhuận cho Trung tâm.

27

CHƯƠNG III

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH

DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở TRUNG TÂM THIẾT BỊ LƯỚI ĐIỆN

PHÂN PHỐI - CÔNG TY SẢN XUẤT THIẾT BỊ ĐIỆN

Những ưu điểm và nhược điểm trong công tác quản lý chi phí và giá thành sản

phẩm

* Ưu điểm :

Nhìn chung công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm ở Trung tâm là tương

đối và hợp lý. Trong công tác tập hợp chi phí Trung tâm đã xác định đối tượng tập hợp

chi phí theo toàn doanh nghiệp. Theo cách tập hợp này công tác tập hợp chi phí đơn

giản, dễ làm, phục vụ kịp thời cho công việc tính giá thành. Từ đó dùng phương pháp

hợp lý để tính toán giá thành sản phẩm, thực hiện tốt chiến lược hạ giá thành mà vẫn

đảm bảo có lợi nhuận.

Trung tâm đã từng bước mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, cũng như việc

tìm kiếm những đối tác mới trong việc nhập khẩu hàng hoá sao cho hàng có chất lượng

cao hơn mà giá thành lại hạ. Trung tâm đã xây dựng nhiều chính sách ưu đãi với khách

hàng, góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho Trung tâm.

Với sự nỗ lực cố gắng của tất cả tập thể cán bộ công nhân viên trong Trung tâm,

nên đã đạt được một số thành tích cụ thể nhưng xét trên góc độ thực tế thì giá thành sản

phẩm của Trung tâm vẫn chưa giảm. Do đó trong công tác quản lý chi phí hoạt động

kinh doanh vẫn còn những tồn tại mà Trung tâm cần phải được khắc phục.

* Nhược điểm :

- Công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm

chưa được coi trọng nên việc đánh giá, cũng như định giá sản phẩm còn nhiều hạn chế.

Từ đó dẫn đến việc kiểm soát sự tăng giảm của chi phí rất khó khăn.

- Trung tâm là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại dịch vụ, nên

chi phí bán hàng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí của Trung tâm. Nhưng Trung

tâm lại tính chung vào chi phí quản lý doanh nghiệp nên không biết được chi phí bán

hàng là bao nhiêu, từ đó làm cho giá thành sản phẩm tăng lên.

- Trong yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp chi phí tiền lương trả cho nhân viên

quản lý bao gồm cả tiền ăn trưa (theo quy định tiền ăn trưa là khoản phụ cấp trích theo

28

lương) hoặc được trích từ quỹ phúc lợi của Trung tâm. Do vậy không được tính vào chi

phí quản lý doanh nghiệp làm tăng giá thành sản phẩm.

- Kế hoạch giá thành của Trung tâm còn sơ sài, do đó việc đánh giá, phân tích và

xác định trọng tâm của công tác quản lý để tiết kiệm chi phí và hạ giá thành còn nhiều

khó khăn. Kế hoạch giá thành là trọng tâm của công tác quản lý, vì thế phát huy tốt vai

trò của kế hoạch giá thành sẽ làm cho công tác quản lý đem lại hiệu quả tốt hơn

Trong điều kiện nền kỹ thuật thị trường hiện nay, mục tiêu tồn tại của mỗi doanh

nghiệp là các hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra thu nhập từ tiêu thụ sản phẩm

hàng hoá, dịch vụ đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất

và tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn

đấu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình tức là phải chú ý

tới việc ngày càng nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh và giảm chi phí bỏ ra.

Là sinh viên thực tập tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối Hà Nội, em xin

mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến nhỏ hy vòng góp phần hoàn thiện hơn công tác quản lý

chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm ở Trung tâm.

Thứ nhất : Chú trọng hơn tới công tác kế hoạch hoá chi phí hoạt động kinh

doanh và hạ giá thành sản phẩm

Lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh chính là việc tính toán trước mọi chi

phí mà Trung tâm dự chi trong kế hoạch để phục vụ cho hoạt động kinh doanh và tiêu

thụ sản phẩm. Còn việc lập kế hoạch giá thành là việc xác định toàn bộ các khoản chi

phí mà Trung tâm sẽ chi ra để có sản phẩm đó và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hoặc

một loại sản phẩm của Trung tâm trong năm kế hoạch.

Lập chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành sản phẩm sẽ giúp Trung tâm có

mục tiêu để phấn đấu, có cơ sở để tìm tòi và khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong

hoạt động kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận cho mình.

Ở Trung tâm, công tác lập kế hoạch chi phí hoạt động kinh doanh và giá thành

sản phẩm chưa được coi trọng. Vì thế nó chưa thực sự phát huy được chức năng quản lý

chi phí. Theo em Trung tâm cần quan tâm hơn tới công tác này để ngày càng hoàn thiện

hơn công việc quản lý chi phí và giá bán sản phẩm của Trung tâm.

Căn cứ để lập kế hoạch giá thành :

- Căn cứ vào giá thành thực tế năm trước : căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh

tính vào giá thành sản phẩm năm trước để phân tích, đánh giá sự tăng, giảm của từng

29

nhân tố, xác định những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm tính toán các yếu

tố chi phí cho giá thành kế hoạch kỳ tới được chính xác.

- Căn cứ vào sự biến động của giá cả thị trường : hàng kỳ căn cứ vào chi phí bỏ

ra và giá cả của các loại hàng hoá để tính toán chi phí trực tiếp trong giá bán của sản

phẩm kỳ kế hoạch.

- Căn cứ vào khối lượng sản phẩm tiêu thụ : đây là căn cứ rất quan trọng để lập

kế hoạch giá thành. Giá bán của sản phẩm cũng như tổng chi phí phụ thuộc nhiều vào số

lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm. Nếu số lượng sản phẩm tiêu thụ trong năm tăng thì

doanh thu sẽ tăng và ngược lại.

- Căn cứ vào hình thức tổ chức quản lý : tình hình tổ chức, xắp xếp bố trí cán bộ

quản lý và sự tăng hay giảm cán bộ quản lý cũng là căn cứ để Trung tâm tính chi phí

gián tiếp vào giá bán đơn vị sản phẩm : ra quyết định về hưu, mất sức với CBCNV già,

yếu hoặc chưa đủ tuổi nhưng là việc kém hiệu quả, giảm biên chế cán bộ phòng ban,

cuối năm khen thưởng cho CBCNV trẻ, làm việc nhiệt tình từ 01 tháng lương /Năm.

Thứ hai : Tiết kiệm tối đa các chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền

khác.

Chi phí dịch vụ mua ngoài của Trung tâm bao gồm nhiều khoản trong đó chủ yếu

là chi phí vận chuyển, thử nghiệm sản phẩm, thông tin liên lạc, thuế, phí lệ phí và các

khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước... Các khoản chi phí này rất dễ bị lãng phí và bị

sử dụng thiếu ý thức tiết kiệm.

- Giảm chi phí vận chuyển từ cảng về kho Trung tâm bằng cách liên kết với DNo

khác có nhu cầu vận chuyển đến Cảng, Trung tâm vận chuyển hàng về kho còn DNo

bạn chở hàng ra Cảng, như vậy, giảm được chi phí thuê phương tiện vận tải.

- Bảng 5 – Năm 2002, có thể giảm Chi phí Dây thép mạ kẽm tăng hơn so với

doanh thu bằng cách giảm chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền : nên ký

Hợp đồng vận chuyển nguyên tắc cả năm với một đơn vị dịch vụ cố định nhằm tiết kiệm

chi phí Xăng dầu, sửa chữa, chi phí bốc xếp, vận chuyển chuyến lẻ...

- Xử lý nhanh lượng hàng tồn kho : tận dụng lượng vật tư hàng hoá tồn thuộc

Ctr35KV có thể dùng để sản xuất, thúc đẩy quá trình thanh lý lượng hàng này có thông

báo rộng rãi trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng để các DNo, cá nhân được biết,

từ đó giảm được chi phí bảo quản, tránh ứ đọng vốn, giảm sút chất lượng hàng hoá gây

ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, tránh thất thu cho NSNN.

30

Thứ ba : Xây dựng định mức chi tiêu, đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí

hành chính.

Như đã trình bày ở trên chi phí quản lý doanh nghiệp ở Trung tâm tăng khá cao

trong đó chủ yếu là chi phí hành chính. Đó là các khoản chi tiếp khách, giao dịch, đối

ngoại, chi phí về mua sắm đồ dùng văn phòng, báo chí... Trong điều kiện Trung tâm

ngày càng mở rộng hoạt động kinh doanh và quan hệ với các đối tác kinh doanh, các

khoản chi này tăng lên là một tất yếu khách quan. Song cũng như chi phí dịch vụ mua

ngoài, chi phí này rất dễ bị rơi vào tình trạng tuỳ tiện và lãng phí bất hợp lý .

- Căn cứ vào kế hoạch kinh doanh năm nay và năm tới để tự đề ra định mức

từng khoản mục chi phí trên doanh thu bán hàng đạt được : chẳng hạn, nên phân loại rõ

khoản mục chi tiếp khách ra làm các khoản nhỏ như : Chi tiếp khách nước ngoài, DNo

liên doanh, liên kết, cấp trên, tổng công ty, các cơ quan Bộ...từ đó, so sánh được với

năm trước mà có quyết định chi hợp lý.

- Ban hành nội quy sử dụng thiết bị văn phòng, nâng cao hơn ý thức tiết kiệm

cho cán bộ công nhân viên trong quá trình sử dụng hệ thống chiếu sáng để tránh hao tổn

điện năng, báo cho bưu điện cắt toàn bộ liên lạc điện thoại đường dài chỉ để lại 01 máy

thật cần thiết vì khách hàng của đơn vị chủ yếu trong ngành điện mà doanh nghiệp đã có

Sổ điện thoại liên lạc ngành điện riêng rất thuận tiện.....

Thứ tư : Trung tâm nên tách chi phí bán hàng ra khỏi chi phí quản lý doanh

nghiệp

Trung tâm là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ nên

khoản chi phí bán hàng tương đối lớn, muốn quản lý tốt khoản chi phí này em đề nghị

Trung tâm nên tập hợp chi phí bán hàng riêng, không nên tập hợp chung vào cùng với

chi phí quản lý. Theo em làm như vậy Trung tâm không biết rõ được chi phí bán hàng

tăng bao nhiêu và tăng ở những khoản mục nào, nên khó khăn trong việc quản lý chi phí

được chính xác. Khi tách chi phí bán hàng ra khỏi chi phí quản lý doanh nghiệp thì

Trung tâm quản lý tốt được cả hai khoản chi phí này, có như vậy thì Trung tâm mới biết

được cả hai khoản chi phí này tăng bao nhiêu và tăng ở những khoản mục nào để kịp

thời có biện pháp xử lý thích hợp nhằm giảm chi phí tăng lợi nhuận cho Trung tâm.

31

Thứ năm : Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho đội ngũ

CBCNV nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, sử dụng MMTB có hiệu quả hơn.

Yếu tố con người tại một DNo vô cùng quan trọng, hàng năm, Trung tâm nên tổ

chức cho CBCNV học tập tại chỗ về PCCC, mời giảng viên bổ sung kiến thức tin học

cho mọi người, cử cán bộ theo học các lớp nâng cao về quản trị kinh doanh, sản xuất,

bán hàng...cả ở trong nước và nước ngoài.

Đặc biệt, Trung tâm nên cử cán bộ nghiên cứu, tìm hiểu về Hệ thống quản lý chất

lượng ISO 9000, dần dần áp dụng, thực hiện rồi xin cấp chứng chỉ nhằm nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh, theo kịp với xu thế của thị trường trên thế giới.

32

KẾT LUẬN

Thời gian thực tập tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân phối đã thực sự giúp Em

rất nhiều trong công việc củng cố kiến thức đã được học và việc vận dụng lý thuyết vào

thực tế. Qua đó Em càng nhận thức rõ về tầm quan trọng của chi phí sản xuất kinh

doanh và việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay.

Nhờ sự hướng dẫn tận tình của TS. Trần Công Bảy, sự chỉ bảo giúp đỡ của lãnh

đạo Trung tâm đặc biệt là Phòng Tài chính kế toán, trên cơ sở những số liệu thu thập

được kết hợp với kiến thức đã học, Em đã hoàn thành luận văn này.

Tuy đã cố gắng rất nhiều nhưng vì điều kiện còn hạn chế nên luận văn chắc chắn

không tránh khỏi sai sót trong nhận thức về chi phí và giá thành vốn là vấn đề rất phức

tạp và sinh động. Vì vậy, Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cán bộ

công nhân viên Trung tâm, các thầy cô giáo và bạn bè.

Một lần nữa Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của TS Trần Công Bảy,

Ban lãnh đạo cùng toàn bộ cán bộ công nhân viên tại Trung tâm thiết bị lưới điện phân

phối đã giúp Em hoàn thành luận văn này.

33