VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG THANH TÚ

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG THANH TÚ

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết

luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Học viên Lương Thanh Tú

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN

THOẠI THÔNG MINH ........................................................................................... 10

1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại điện tử .......................................................... 10

1.2. Khái quát về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh .......................................................................................... 18

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN

THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM .................................................................. 29

2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ................................................................. 29

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua

phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 53

Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN

THOẠI THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 65

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua

phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 65

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua

phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ........................................................ 68

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh .............................. 71

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 74

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

B2B

Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business-to-Business)

B2C

Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với cá nhân (Business-to-Consumer)

C2C

Giao dịch thương mại điện tử giữa cá nhân với cá nhân (Consumer-to-Consumer)

CNTT Công nghệ thông tin

G2B

Giao dịch thương mại điện tử giữa Chính phủ với doanh nghiệp (Government-to-Business)

GDĐT Giao dịch điện tử

TMĐT Thương mại điện tử

UNCITRAL

United Nations Commission on International Trade Law (Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ngày 19/11/1997 là ngày đầu tiên Việt Nam hòa vào mạng Internet toàn cầu, mở đầu cho giai đoạn phát triển mạnh mẽ của Internet tại Việt Nam. Sau hơn 20 năm, đến năm 2018 Việt Nam có 50.231.474 người sử dụng Internet, 36.188.417 thuê bao băng rộng di động phát sinh lưu lượng thoại, tin nhắn, dữ liệu (3G, 4G) [4] và 422.601 tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” được duy trì (là tên được sử dụng để định danh địa chỉ Internet của máy chủ), 170.712 website đang hoạt động, 15.902.976 địa chỉ Internet (địa chỉ IP - địa chỉ mạng của thiết bị, máy chủ) (số liệu tính đến tháng 10/2018) [14].

Chính sự phát triển của Internet trên thế giới đã tạo tiền đề ra đời cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Mạng Internet đã trở thành một bộ phận tất yếu trong đời sống kinh tế - xã hội mà qua đó, mọi chủ thể sử dụng để thực hiện các mục đích khác nhau như chính trị, kinh doanh, truyền thông, quảng bá, tương tác, kết nối, tìm kiếm thông tin… và cả mục đích cá nhân, riêng tư.

1

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (AR), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), công nghệ thiết bị di động… đang làm thay đổi căn bản hình thái, trình độ sản xuất của thế giới. Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt kinh tế - xã hội, tác động làm thay đổi hình thái và phương thức sản xuất theo hướng tiên tiến, hiện đại. Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên nền tảng Internet mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm; tạo ra sự thay đổi lớn về hình thái kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử khi sử dụng các thiết bị di động thông minh; tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ

số và Internet; đồng thời cũng là cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến.

Số liệu báo cáo thống kê của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số - Bộ Công Thương năm 2018 [3] cho thấy, doanh thu bán lẻ trực tuyến của Hoa Kỳ đạt 354 tỷ USD (chiếm 7,4% tổng doanh thu bán lẻ), Trung Quốc đạt 470 tỷ USD (chiếm 13,5% tổng doanh thu bán lẻ), Hàn Quốc đạt 39 tỷ USD (chiếm 11,2% tổng doanh thu bán lẻ), Ấn Độ đạt 20 tỷ USD (chiếm 1,7% tổng doanh thu bán lẻ), Indonesia đạt 6,9 tỷ USD (chiếm 1,4% tổng doanh thu bán lẻ) và Việt Nam đạt gần 7 tỷ USD (chiếm 5% tổng doanh thu bán lẻ). Theo ước tính của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam [7], tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 đạt trên 25% và tốc độ này có thể được duy trì trong ba năm tiếp theo 2018 - 2020.

Cũng theo số liệu công bố tại Diễn đàn Thanh toán điện tử Việt Nam năm 2018 (VEPF - Vietnam E-Payment Forum) [5] được tổ chức vào tháng 11/2018 tại Hà Nội và số liệu thống kê của Appota [31] (đến thời điểm quý II/2018) thì hiện có 72% dân số Việt Nam sở hữu điện thoại thông minh smartphone; 68% truy cập mạng bằng thiết bị di động thường xuyên hơn sử dụng máy tính; 72% tổng số lượt truy cập các trang thương mại điện tử xuất phát từ điện thoại thông minh, 53% các giao dịch mua hàng trực tuyến thực hiện qua điện thoại, thương mại điện tử trên điện thoại thông minh có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong năm.

2

Trước thực tế hành vi sử dụng thiết bị di động (bao gồm điện thoại thông minh smartphone và máy tính bảng tablet có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động) ngày càng trở nên phổ biến, tiện lợi trong mọi hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi mua sắm trực tuyến và thương mại điện tử nên đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải kịp thời nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử sử dụng các thiết bị di động nói chung cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh việc giao kết, thực hiện hợp đồng thương mại điện tử bằng thiết bị di động nói riêng. Vĩ lẽ đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giao kết hợp

đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước: Trải qua hơn 20 năm phát triển Internet ở Việt Nam, và đặc biệt là sau khi Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đặt nền móng pháp lý cho sự phát triển của hoạt động thương mại điện tử, tác giả nhận thấy các vấn đề về pháp luật thương mại điện tử nói chung và pháp luật điều chỉnh từng khía cạnh, vấn đề cụ thể trong hoạt động thương mại điện tử nói riêng ở Việt Nam đã giành được sự chú ý, quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:

2.1.1. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật thương mại điện tử nói chung và một số khía cạnh của hoạt động thương mại điện tử: - Luận văn Thạc sĩ luật học “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng, Học viện Khoa học xã hội, 2018.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Minh, Học viện Khoa học xã hội, 2018.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm pháp luật trong giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Thái Thanh Sơn, Học viện Khoa học xã hội, 2018.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Điều kiện hoạt động của Website thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Trọng Trí, Học viện Khoa học xã hội, 2017.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Mua bán hàng hóa trong thương mại điện tử theo pháp luật ở nước ta hiện nay” của tác giả Trịnh Lâm Khả Thành, Học viện Khoa học xã hội, 2016.

3

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Tuấn Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2015.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử”

của tác giả Lê Hồng Thanh, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2013.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Dương Thị Mai Ngọc, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Một số vấn đề pháp lý về thương mại điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế” của tác giả Hà Lan Anh, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về thương mại điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Tố Lan, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” của tác giả Lê Hà Vũ, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.

- Bài viết “Đặc điểm, vai trò của pháp luật thương mại điện tử và quan điểm hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử trong thời gian tới” của Lương Tuấn Nghĩa, Tạp chí Công Thương, số 6 - tháng 5/2017.

- Bài viết “Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong thương mại

điện tử” của Lê Văn Thiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2016.

- Bài viết “Bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam” của Đinh Thị Lan Anh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2015.

- Bài viết “Chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử” của Nguyễn Thị Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2012.

- Bài viết “Những vấn đề pháp lý về thương mại điện tử ở Việt Nam”

của Bùi Bích Liên, Tạp chí Luật học số 6/2000.

2.1.2. Một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến pháp luật

4

về hợp đồng thương mại điện tử:

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Mai Chí Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2017.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Giao kết hợp đồng trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Hoàng Nam, Học viện Khoa học xã hội, 2015.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Hợp đồng mua bán hàng hoá qua mạng điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của tác giả Huỳnh Thanh Đông, Học viện Khoa học xã hội, 2015.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử ở Việt Nam” của tác giả Trịnh Thị Thu Thảo, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Giao kết hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt

Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Lan Anh, Học viện Khoa học xã hội, 2013.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam”

của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2009.

- Luận văn Thạc sĩ luật học “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam” của tác giả Trần Đình Toản, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004.

2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: - Bài viết “Phân tích hành vi người tiêu dùng trực tuyến trên thiết bị di động và PC: Cách tiếp cận khai thác sử dụng web mới” của tác giả Orit Raphaeli, Anat Goldstein, Lior Fink, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 26/2017, trang 1-12 [21].

- Bài viết “Bảo vệ quyền riêng tư của người dùng trong thương mại điện tử bằng thiết bị di động” của tác giả Chunhui Piao, Xiaoyan Li, Xiao Pan, Changyou Zhang, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 18/2016, trang 58-70 [18].

5

- Bài viết “Vai trò của chuyển giao tín thác liên kênh trong việc thiết lập niềm tin thương mại điện tử bằng thiết bị di động” của tác giả Jiabao Lin,

Yaobin Lu, Bin Wang, Kwok Kee Wei, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 10/2011, trang 615-625 [19].

- Bài viết “Những rào cản đối với các mô hình kinh doanh thương mại điện tử và cạnh tranh ở các nước đang phát triển: Một nghiên cứu điển hình” của Nir Kshetri, Tạp chí Electronic Commerce Research and Applications, số 6/2007, trang 443-452 [20].

Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, sau khi nghiên cứu một số công trình trong nước và ngoài nước nêu trên, tác giả nhận thấy mỗi công trình khoa học đều có những giá trị tham khảo nhất định đối với đề tài nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, do khác nhau về phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, nên các công trình nêu trên chưa đề cập một cách sâu sắc, nghiên cứu cụ thể vấn đề pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam. Có thể nói, việc tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình đến thời điểm hiện nay mang tính thời sự, là duy nhất và không bị trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học đã công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài có mục đích là phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh; trên cơ sở đó đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích khái niệm và cơ sở lý luận về pháp luật thương mại điện tử, pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh.

6

- Đánh giá được thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh và thực tiễn thực thi pháp luật; chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này ở Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử được giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt bằng điện thoại thông minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Với tính chất đặc thù của hoạt động thương mại điện tử không bị giới hạn bởi địa giới hành chính hay vị trí địa lý cụ thể nên đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là trên không gian mạng, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

- Về thời gian: tác giả lựa chọn thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay do đây là thời điểm Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử tạo cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử.

- Về hoạt động thương mại điện tử: sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của Internet, khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đã làm thay đổi các hình thái thương mại điện tử (Electronic commerce) ở các cấp bậc, mức độ phát triển khác nhau như sau: Telephone commerce, Fax commerce, Email commerce, Web commerce, Mobile commerce, Television commerce. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử được giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt bằng điện thoại thông minh smartphone (Mobile commerce).

7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các nội dung được đề cập đến. Bên cạnh đó, luận văn còn bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý và phát triển hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp; thống kê; kết hợp lý luận với thực tiễn; lịch sử; so sánh… để giải quyết nội dung đề tài luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài nghiên cứu “Giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay” mang tính thời sự đến thời điểm hiện nay, do đó đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn như:

- Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của các tác giả trong nước và ngoài nước, luận văn đưa ra khái niệm pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh. Từ đó, luận văn xây dựng cơ sở lý luận về những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh, chỉ rõ những vấn đề bất cập cần hoàn thiện trong thời gian tới.

- Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử bằng điện thoại thông minh thời gian qua, đồng thời kế thừa những hạt nhân hợp lý của lý thuyết, lý luận pháp luật quốc tế về hợp đồng thương mại điện tử có thể áp dụng vào thực tiễn nước ta, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học, luận chứng khoa học đối với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền hoạch định chính sách, pháp luật trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại điện tử nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử nói riêng.

8

- Những kiến thức khoa học của đề tài sẽ có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo chuyên môn về pháp luật thương mại điện tử và có giá trị tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này.

7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn sẽ được trình bày, kết cấu theo 03 chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề chung về giao kết hợp đồng thương mại điện

tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh.

Chương 2. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện

tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam.

Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện

9

tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI

THÔNG MINH

1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại điện tử

1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại điện tử

Giao kết hợp đồng thương mại điện tử với bản chất là một giao dịch

được thực hiện bằng phương tiện điện tử và được coi là có giá trị pháp lý

tương đương với hợp đồng được giao kết bằng văn bản, hợp đồng thương mại

điện tử không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì nó được giao kết bằng phương

tiện điện tử.

Luật Giao dịch điện tử đưa ra các nguyên tắc chung như: các bên tự

nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch; tự thỏa

thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch điện tử...

Hành vi giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để

tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng.

Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu.

Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị

giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện

thông qua thông điệp dữ liệu. Hình thức phổ biến của thông điệp dữ liệu trong

trường hợp này là các chứng từ điện từ - kết quả của quá trình sử dụng chức

năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử hoặc phần mềm ứng

dụng trên điện thoại thông minh. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện

tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo

bằng phương pháp truyền thống.

Trên cơ sở tiếp thu những quy định chung áp dụng cho một giao dịch

10

dân sự cũng như giao dịch điện tử, pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử

cũng đưa ra những quy định cụ thể hơn cho việc giao dịch, giao kết hợp đồng

thương mại điện tử giữa các bên tham gia hoạt động thương mại điện tử như

việc quy định: về địa điểm kinh doanh của các bên; về quy trình giao kết hợp

đồng trực tuyến; về hợp đồng được giao kết từ sự tương tác giữa một hệ thống

thông tin tự động với một người hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với

nhau; việc cung cấp các điều khoản của hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt

hàng trực tuyến qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh; về thủ

tục chấm dứt hợp đồng,…

Luật Giao dịch điện tử điều chỉnh chung tất cả các loại hợp đồng được

thực hiện bằng phương thức điện tử, mà không phụ thuộc vào mục đích giao

kết của chúng. Điểm khác biệt căn bản của hợp đồng thương mại điện tử so

với các hợp đồng truyền thống khác là ở hình thức và phương thức giao kết.

Pháp luật về giao dịch điện tử là khung pháp lý điều chỉnh chung hợp đồng

điện tử, còn về hình thức, nội dung của từng loại hợp đồng sẽ do văn bản

pháp luật chuyên ngành liên quan quy định.

Như vậy, nghiên cứu từ bản chất hợp đồng và đặc thù giao dịch điện tử,

có thể hiểu: Hợp đồng thương mại điện tử là sự thỏa thuận giữa các bên về

việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ nhằm mục đích sinh lợi

bằng cách trao đổi các thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử

có kết nối mạng máy tính toàn cầu internet, mạng viễn thông di động hoặc

các mạng mở khác.

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử

Ngoài những đặc điểm chung của một hợp đồng thì hợp đồng thương

mại điện tử còn có những đặc điểm riêng xuất phát từ đặc thù hoạt động

thương mại điện tử như sau:

Một là, hợp đồng thương mại điện tử có sự kết hợp các yếu tố truyền

11

thống với yếu tố hiện đại. Bản chất hoạt động thương mại điện tử là sự kết

hợp giữa hoạt động thương mại truyền thống và việc ứng dụng công nghệ

thông tin. Bởi vậy, các quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại điện

tử được thiết kế, xây dựng, ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ

thương mại, hành vi thương mại, hoạt động thương mại diễn ra trên môi

trường mạng; các hành vi ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin, công

nghệ cao, hành vi sử dụng các phương tiện điện tử, thiết bị số, điện thoại

thông minh để thực hiện hoạt động thương mại.

Hai là, đối tượng của hợp đồng thương mại điện tử bao gồm vật thể và

phi vật thể. Tham gia trao đổi, mua bán trên môi trường mạng bao gồm tất cả

sản phẩm của ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, có vật hữu hình và vật

vô hình, sản phẩm dịch vụ, sản phẩm nội dung số, phần mềm, ứng dụng,

quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ… Với sự phong phú, đa

dạng của hàng hóa, dịch vụ tham gia như vậy, hợp đồng thương mại điện tử

có sự phức tạp hơn rất nhiều so với hợp đồng thương mại truyền thống.

Ba là, hợp đồng thương mại điện tử được thực thi chủ yếu trên môi trường

mạng. Để điều chỉnh hoạt động thương mại diễn ra trên môi trường mạng, các

quy định của pháp luật về thương mại điện tử được thiết kế, xây dựng phù hợp

với đặc điểm này. Như việc quy định hành vi giao kết, giao dịch điện tử; quy

định việc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trực tuyến; quy định

việc thanh toán, thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước; quy định công tác quản

lý nhà nước; thu thập chứng cứ điện tử, xử lý vi phạm…

Bốn là, hợp đồng thương mại điện tử không bị giới hạn bởi khoảng

cách địa lý. Khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử, các chủ thể tham gia

hoàn toàn có thể ở bất kỳ vị trí địa lý nào mà vẫn trao đổi, đàm phán, thương

lượng và đi đến thống nhất ký kết hợp đồng điện tử. Kết nối internet toàn cầu

đã giúp xóa bỏ khoảng cách, ranh giới giữa các đối tượng, chủ thể hay thậm

12

chí giữa các quốc gia khác nhau. Do đó dù khác nhau về thời gian, khoảng

cách, địa điểm thì hợp đồng thương mại điện tử vẫn thực hiện giao kết được.

Đây cũng là đặc điểm hữu ích của hợp đồng thương mại điện tử so với hợp

đồng thương mại thông thường.

Năm là, hợp đồng thương mại điện tử tiềm ẩn nhiều rủi ro trong các

giao dịch thương mại điện tử mua sắm nhỏ lẻ, đơn thuần. Trong các giao dịch

mua sắm trực tuyến nhỏ lẻ, hợp đồng thương mại điện tử chủ yếu được giao

kết dưới hình thức sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến. Hay hiểu đơn giản

hơn, trên hệ thống chỉ ghi nhận những tệp tin, thông điệp dữ liệu ngắn gọn về

giao dịch mua bán của khách hàng và những tệp tin này cũng theo thời gian sẽ

nhanh chóng bị xóa bỏ khỏi hệ thống. Và như vậy, rõ ràng việc bảo vệ quyền

người tiêu dùng cũng vì thế mà bị hạn chế theo.

Sáu là, hợp đồng thương mại điện tử không những chịu sự điều chỉnh

của pháp luật thương mại điện tử ở quốc gia nơi phát sinh giao kết hợp đồng,

mà nó còn phải tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật thương mại

quốc tế.

1.1.3. Phân loại hợp đồng thương mại điện tử

Tùy theo đối tượng, chủ thể, hình thức giao kết hợp đồng mà có những

quan điểm hay cách phân loại hợp đồng thương mại điện tử khác nhau và

cũng rất đa dạng. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả phân loại hợp

đồng thương mại điện tử như sau:

a) Phân loại hợp đồng thương mại điện tử theo chủ thể giao dịch:

Hợp đồng thương mại điện tử có thể được tiến hành giữa các chủ thể

như sau:

- B2B - Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh

nghiệp (Business-to-Business).

- B2C - Giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với cá nhân

13

(Business-to-Consumer).

- C2C - Giao dịch thương mại điện tử giữa cá nhân với cá nhân

(Consumer-to-Consumer).

- G2B - Giao dịch thương mại điện tử giữa Chính phủ với doanh nghiệp

(Government-to-Business).

b) Phân loại hợp đồng thương mại điện tử theo hình thức giao dịch:

Telephone commerce: được hiểu là việc sử dụng thiết bị liên lạc hữu

tuyến (có dây) trong giao dịch, giao kết hợp đồng, đặt hàng, mua hàng, trao

đổi, đàm phán đối tác mua bán hàng hóa, dịch vụ.

Fax commerce (Facsimile - viết tắt là Fax): được hiểu là việc sử dụng

thiết bị fax trong giao dịch thương mại điện tử, ký kết hợp đồng.

Email commerce: được hiểu là việc sử dụng địa chỉ điện tử (thư điện

tử) trong giao dịch thương mại điện tử như gửi thư điện tử để giới thiệu, chào

mua, chào bán hàng hóa, dịch vụ; gửi và nhận đề nghị giao kết hợp đồng,...

Web commerce: được hiểu là việc sử dụng công nghệ web, thiết lập và

vận hành website để tiến hành giao dịch thương mại điện tử. Chỉ cần có kết

nối Internet, các chủ thể sử dụng máy tính để bàn (desktop) hoặc máy tính

xách tay (laptop) có cài đặt phần mềm trình duyệt (Internet Explore, Google

Chrome, Mozilla FireFox, Safari, Opera,…) để truy cập website thương mại

điện tử, tiến hành các hoạt động thương mại, mua bán hàng hóa, thanh toán

với các bên.

Mobile commerce: được hiểu là việc sử dụng điện thoại thông minh,

thiết bị di động, công nghệ di động, công nghệ vô tuyến (không dây) để tiến

hành giao dịch thương mại điện tử. Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác

Kinh tế và Phát triển OECD (Organisation for Economic Co-operation and

Development), “Mobile commerce” là các giao dịch thương mại được thực

hiện thông qua các mạng và dịch vụ truyền thông không dây (dịch vụ gọi,

14

dịch vụ tin nhắn SMS, dịch vụ tin nhắn đa phương tiện MMS, dịch vụ truy

nhập Internet), sử dụng các thiết bị cầm tay, nhỏ gọn được thiết kế cho mục

đích liên lạc. Hay nói cách khác, Mobile commerce là các giao dịch thương

mại được thực hiện thông qua các mạng và dịch vụ truyền thông không dây,

sử dụng các thiết bị di động cầm tay được thiết kế kết nối với mạng viễn

thông di động hoặc các mạng truyền thông không dây.

Television commerce: được hiểu là việc sử dụng thiết bị điện tử (máy

thu hình - tivi) để mua hàng trực tuyến. Thương mại điện tử sử dụng công

nghệ truyền hình thường áp dụng cho việc giới thiệu sản phẩm, hàng hóa,

dịch vụ qua các kênh truyền hình thương mại.

Với sự phát triển và mức độ phổ biến của khoa học công nghệ làm thay

đổi hình thức thương mại nêu trên thì giao kết hợp đồng thương mại điện tử

chủ yếu được thực hiện bởi web-commerce và mobile-commerce do hai loại

hình thương mại điện tử này đáp ứng được trọn vẹn một quy trình giao kết

hợp đồng thương mại: niêm yết thông tin sản phẩm, đàm phán giao dịch,

thanh toán trực tuyến, hậu mãi trực tuyến.

Khoản 17 Điều 4 Luật Công nghệ thông tin quy định: trang thông tin

điện tử (website) là trang thông tin hoặc một tập hợp trang thông tin trên môi

trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin. Tại Điều 3 Nghị

định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương

mại điện tử quy định: website thương mại điện tử là trang thông tin điện tử

được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua

bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ

đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng.

Website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do

các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến

15

thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình.

Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là website thương mại điện

tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các thương

nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại, bao gồm:

Một là, sàn giao dịch thương mại điện tử là website thương mại điện tử

cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website

có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ

trên đó.

Hai là, website khuyến mại trực tuyến là website thương mại điện tử do

thương nhân, tổ chức thiết lập để thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ

của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác theo các điều khoản của hợp đồng

dịch vụ khuyến mại.

Ba là, website đấu giá trực tuyến là website thương mại điện tử cung

cấp giải pháp cho phép thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu

website có thể tổ chức đấu giá cho hàng hóa của mình trên đó.

Với các phần mềm ứng dụng thương mại điện tử (mobile-commmerce)

cài đặt trên điện thoại thông minh, phương tiện điện tử, thiết bị số có nối

mạng cho phép người dùng truy nhập vào cơ sở dữ liệu của thương nhân, tổ

chức, cá nhân khác để mua bán hàng hóa, cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, tùy

theo tính năng của ứng dụng đó mà thương nhân, tổ chức phải tuân thủ các

quy định về website thương mại điện tử bán hàng hoặc website cung cấp dịch

vụ thương mại điện tử.

1.1.4. Cơ sở pháp lý của hợp đồng thương mại điện tử

Từ năm 1996, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế

(UNCITRAL) đã ban hành Luật mẫu về Thương mại điện tử. Ở Việt Nam,

đến trước năm 2000, thương mại điện tử vẫn còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ

thống pháp luật Việt Nam bước đầu đã có ghi nhận nhưng chưa thể hiện được

16

bản chất và tầm quan trọng của thương mại điện tử. Tại Điều 49 Luật Thương

mại năm 1997 quy định: điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức

thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản trong giao kết hợp

đồng mua bán hàng hóa.

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2003, một số văn bản pháp lý

chuyên ngành đã có những quy định về giao dịch điện tử như: Bộ luật Hình sự

năm 1999, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, Luật Kế

toán năm 2003 và các văn bản hướng dẫn luật trong lĩnh vực ngân hàng… Tuy

nhiên, do nhận thức chưa đúng đắn và toàn diện về thương mại điện tử, các chế

định pháp lý trên còn thiếu cụ thể, rõ ràng, vì vậy dẫn tới việc khó áp dụng

những quy định đó trên thực tế. Tháng 01 năm 2002, Chính phủ đã giao Bộ

Thương mại chủ trì xây dựng Pháp lệnh Thương mại điện tử nhằm hình thành cơ

sở pháp lý toàn diện cho thương mại điện tử. Sau gần hai năm xây dựng, tới cuối

năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành Dự thảo 6 của Pháp lệnh. Sau đó, do

nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của

đời sống kinh tế - xã hội nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật Giao dịch

điện tử bao trùm nội dung của Pháp lệnh Thương mại điện tử.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay là thời gian các cơ quan Nhà nước hữu

quan đã ban hành khá nhiều chính sách và văn bản quy phạm pháp luật quan

trọng cho sự phát triển của thương mại điện tử. Đó là: Kế hoạch tổng thể phát

triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010, Chiến lược phát triển công

nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến

năm 2020, Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ,

Luật Công nghệ thông tin, Bộ luật Dân sự, Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về

Thương mại điện tử và một số Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động

tài chính, ngân hàng, chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số…

Sau 07 năm thi hành, ngày 16 tháng 5 năm 2013, Chính phủ đã ban

17

hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP thay thế cho Nghị định trước đây về

thương mại điện tử. Có thể nói, đây là văn bản pháp lý cao nhất đến thời điểm

hiện tại quy định riêng về hoạt động thương mại điện tử cũng như các vấn đề

về giao kết hợp đồng thương mại điện tử; là cơ sở pháp lý khá rõ ràng điều

chỉnh các mối quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình giao kết và thực hiện

hợp đồng thương mại điện tử.

1.2. Khái quát về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

1.2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh

Hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

thông minh cũng là một loại hợp đồng. Các chủ thể khi tham gia giao kết hợp

đồng thương mại điện tử thì ngoài việc phải tuân thủ các quy định pháp lý

chung về giao kết hợp đồng còn phải tuân thủ các quy định pháp lý điều chỉnh

việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử.

Nguyên tắc giao kết hợp đồng nói chung được quy định tại Điều 3 Bộ

luật Dân sự, đó là:

- Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân

sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết,

thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có

hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

- Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ

dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.

Những nguyên tắc dân sự cơ bản nói trên buộc các bên tham gia giao

kết mọi loại hợp đồng phải tuân thủ; bất kể là loại hợp đồng nào, hình thức

hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử.

Hơn nữa, khi ký kết hợp đồng thương mại [9], các chủ thể tham gia ký

18

kết cũng phải áp dụng các quy định của Luật Thương mại. Đó là nguyên tắc

bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại,

nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại, nguyên

tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên,

nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại, nguyên tắc bảo vệ

lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý

của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại. Các nguyên tắc do Luật

Thương mại quy định tiếp tục chi phối việc ký kết hợp đồng trong giao dịch

thương mại điện tử trong lĩnh vực thương mại. Luật Thương mại đã quy định

về việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động

thương mại. Các thông điệp dữ liệu trong giao dịch thương mại mà đáp ứng

các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa

nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản. Vì lẽ đó, khi giao kết hợp đồng

thương mại điện tử thì đòi hỏi các chủ thể hợp đồng cần tuân thủ các quy

định, nguyên tắc để đạt được thỏa thuận hợp đồng có hiệu lực, không bị vô

hiệu theo pháp luật.

Ngoài Luật Thương mại thì Luật Giao dịch điện tử cũng có những quy

định, nguyên tắc điều chỉnh quá trình bên mua, bên bán giao kết, thỏa thuận

với nhau [9], cụ thể:

- Tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để ký kết và thực

hiện hợp đồng.

- Tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện hợp đồng

điện tử.

- Không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch

điện tử.

- Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi

19

ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

- Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử

trong giao kết và thực hiện hợp đồng.

- Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy

định của Luật này và pháp luật về hợp đồng.

- Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả

thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn,

bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.

1.2.2. Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

Các chủ thể chính tham gia trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh bao gồm [11]:

Thứ nhất, các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập phần mềm ứng

dụng thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng

hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu phần mềm ứng dụng

thương mại điện tử bán hàng).

Thứ hai, các thương nhân, tổ chức thiết lập phần mềm ứng dụng thương

mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác

tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ

(thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử).

Thứ ba, các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng phần mềm ứng

dụng của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục

vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của

mình (người bán).

Thứ tư, các thương nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ

trên phần mềm ứng dụng thương mại điện tử bán hàng và phần mềm ứng

20

dụng cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (khách hàng).

Thứ năm, các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho

người sở hữu phần mềm ứng dụng thương mại điện tử bán hàng và cho

thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (thương nhân, tổ

chức cung cấp hạ tầng).

Thứ sáu, các thương nhân, tổ chức thiết lập hệ thống phân phối trực

tuyến các phần mềm ứng dụng thương mại điện tử để cài đặt trên điện thoại

thông minh.

Thứ bảy, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động thương mại điện tử ở

các cấp.

Khi các bên tương tác, giao dịch với nhau trên không gian mạng, họ

không tiếp xúc trực tiếp với nhau mà chỉ gián tiếp thông qua các phương tiện

điện tử để thực hiện hành vi của mình. Có trường hợp người mua, người bán

trao đổi, tương tác với nhau nhưng cũng có những trường hợp người mua trao

đổi, tương tác với những hệ thống giao dịch sản phẩm đã được lập trình sẵn.

Việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh, ngoài các chủ thể thông thường là người mua và

người bán thì như đã đề cập ở trên còn có một chủ thể cũng không kém phần

quan trọng là các nhà cung cấp dịch vụ mạng Internet, dịch vụ email, dịch vụ

công nghệ thông tin và các cơ quan chứng thực chữ ký điện tử… Các tổ chức

này đảm nhiệm việc gửi, lưu trữ thông tin giữa các bên tham gia giao kết hợp

đồng thương mại điện tử, cung cấp những thông tin cần thiết giữa các bên để

xác nhận độ tin cậy của thông điệp dữ liệu trong giao kết hợp đồng thương

mại điện tử.

Ngoài ra, trong giao dịch thương mại điện tử, người bán hàng qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh chắc chắn không muốn và không

thể bán hàng hoá và dịch vụ cho mọi đối tượng vào mạng Internet. Họ bị ràng

21

buộc và chi phối bởi các quy định pháp lý của quốc gia mình cũng như quốc

gia người tham gia giao kết với họ. Chẳng hạn theo quy định của pháp luật

mỗi nước, một mặt hàng hoá hay dịch vụ đối với nước này là hợp pháp nhưng

ở nước khác lại bị cấm lưu thông cũng làm cho hợp đồng điện tử được giao

kết để mua hàng hay dịch vụ không thực hiện được dù đã giao kết. Vì vậy, chỉ

một sơ suất nhỏ trong việc xác định năng lực của các chủ thể sẽ có thể dẫn

đến hợp đồng vô hiệu và gây ra nhiều tổn thất thiệt hại cho người bán. Khó

khăn nhất trong việc xác định năng lực chủ thể đối với các doanh nghiệp cung

cấp hàng hoá, dịch vụ qua mạng là khó xác định được xem liệu khách hàng có

đủ năng lực hành vi hay chưa. Vấn đề rắc rối phát sinh khi khách hàng ở tuổi

vị thành niên. Một là, theo quy định của pháp luật ở một số nước, có một số

loại hàng hóa cấm bán cho đối tượng là vị thành niên như thuốc lá, rượu,…

Theo pháp luật của những nước này, người bán trong trường hợp này có thể

chịu trách nhiệm hình sự hoặc phải chịu trách nhiệm dân sự nếu không biết

chắc khách hàng của mình đã đủ tuổi hành vi hay chưa. Rất khó xác định

được điều này khi mua bán hàng trên không gian mạng. Hai là, các hợp đồng

giao kết với người vị thành niên mà không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt

thiết yếu của họ cũng sẽ bị vô hiệu. Vấn đề là hợp đồng sẽ bị vô hiệu với

khách hàng vị thành niên nhưng họ sẽ được miễn trách nhiệm và gây ra nhiều

hậu quả pháp lý cho người bán. Tóm lại, việc xác định năng lực của chủ thể

trong giao kết hợp đồng điện tử là vô cùng quan trọng, với tính đặc thù của

loại hình kinh doanh này mang tính phi biên giới nên nó mang trong mình

những rủi ro pháp lý về chủ thể giao kết hợp đồng mà những nhà kinh doanh

cần hết sức cẩn trọng trong việc giao kết hợp đồng điện tử để tránh những tổn

thất và hậu quả pháp lý nghiêm trọng.

1.2.3. Quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

22

ứng dụng trên điện thoại thông minh

Việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh phải tuân theo những thủ tục và quy trình nhất

định. Khác với hợp đồng truyền thống, theo đó, việc ký kết hợp đồng có thể

được thực hiện thông qua việc các bên đàm phán trực tiếp và khi đàm phán

xong thì cùng ký vào hợp đồng; hoặc, việc ký kết có thể thực hiện qua trao

đổi thư từ giao dịch nếu các bên ở xa nhau và không có điều kiện đàm phán

trực tiếp, hợp đồng điện tử sẽ được ký kết theo quy trình gửi và nhận thông

điệp dữ liệu. Việc các bên giao kết, ký kết hợp đồng thương mại điện tử sẽ

không có khâu gặp mặt trực tiếp mà chỉ gián tiếp trao đổi, gửi nhận thông

điệp dữ liệu điện tử qua các phương tiện điện tử. Các bên sử dụng phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh để giao kết hợp đồng thương mại điện tử

sẽ tương tác với nhau bằng các tính năng, công dụng của phần mềm nhằm đạt

được mục đích giao kết.

Quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng

dụng trên điện thoại thông minh nói riêng và giao kết hợp đồng điện tử nói

chung gồm có hai giai đoạn, sử dụng các công cụ có tính năng như sau [2]:

- Công cụ chào hàng, nhờ vào đó bên bán tham gia vào mối quan hệ

hợp đồng thương mại bằng các phương tiện điện tử và gửi cho bên kia hoặc

sắp đặt để bên kia có các điều khoản mà theo đó công cụ chào hàng được

chuẩn bị sẵn để thực hiện.

- Công cụ chấp nhận được tạo bởi người chấp nhận các điều khoản đã

đề nghị trong công cụ chào hàng nếu như các điều khoản này được chấp nhận.

Các bên có thể chọn tham gia vào đàm phán nội dung của hợp đồng

thương mại điện tử trước khi chuyển công cụ chào hàng dưới hình thức mà cả

hai bên có thể chấp nhận được và ghi lại các điều khoản đã thống nhất. Hợp

đồng trong giao dịch thương mại điện tử được giao kết bởi sự kết hợp giữa

23

công cụ chào hàng và công cụ chấp nhận mà không yêu cầu thêm thủ tục nào

nữa. Tuy nhiên, cần cẩn trọng trong việc lưu trữ thông tin của các công cụ này

để tiến hành thực hiện hợp đồng. Cả hai công cụ phải được các bên ghi nhận

và lưu trữ.

Cũng như hợp đồng dân sự nói chung, giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh vẫn bao gồm hai

bước cơ bản là lời đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.

Sự khác biệt so với ký kết hợp đồng truyền thống ở chỗ lời đề nghị giao kết

hợp đồng và việc chấp nhận giao kết hợp đồng sẽ là sự gửi, nhận thông điệp

dữ liệu điện tử qua các thiết bị điện tử có kết nối internet. Thời điểm gửi một

thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống

thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo và người nhận được xem

là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ

thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được.

Theo quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của

Chính phủ về thương mại điện tử đã có một số quy định về quy trình giao kết

hợp đồng sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến qua phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh mà các bên phải tuân thủ như quy định về: Thông báo mời

đề nghị giao kết hợp đồng, trách nhiệm cung cấp các điều khoản của hợp đồng

khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến, về đề nghị giao kết hợp đồng, cơ chế

rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng, công cụ trả lời đề nghị giao kết hợp

đồng, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm giao kết hợp đồng khi sử

dụng chức năng đặt hàng trực tuyến và thủ tục chấm dứt hợp đồng đối với hợp

đồng dịch vụ thương mại điện tử và các dịch vụ trực tuyến khác.

1.2.4. So sánh giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh với các hình thức giao kết hợp đồng

24

thương mại điện tử khác

Điểm chung và giống nhau giữa giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh với các hình thức giao

kết hợp đồng thương mại điện tử khác ở chỗ hành vi giao kết của các bên đều

được thực hiện thông qua phương tiện điện tử có kết nối mạng Internet, mạng

viễn thông hay mạng mở khác; các bên sử dụng phần cứng và phần mềm công

nghệ thông tin để tương tác với nhau; tài liệu giao kết thể hiện dưới định dạng

thông điệp dữ liệu, phi giấy tờ và được lưu trữ trên các phương tiện điện tử,

chỉ in ấn thành tài liệu giấy trong trường hợp cần thiết để kiểm tra, đối chiếu

hoặc làm bằng chứng cho một quá trình giao dịch.

Tuy nhiên, giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng

dụng trên điện thoại thông minh cũng có những điểm khác biệt so với các

hình thức giao kết hợp đồng thương mại điện tử khác, cụ thể như sau:

- Hình thức, phương tiện điện tử: giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh là việc sử dụng các phần

mềm ứng dụng thương mại điện tử (application) được tải về từ các kho ứng dụng

(Android, iOS...) trên không gian mạng để cài đặt tại điện thoại thông minh của

người mua. Người mua sử dụng phần mềm ứng dụng thương mại điện tử của

một nhãn hàng hay của sàn giao dịch thương mại điện tử để tương tác, giao dịch

mua bán trực tuyến với người bán; đồng thời sử dụng các tính năng, chức năng

có sẵn của phần mềm để đạt được mục đích giao kết của mình.

Nếu như giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua website thương mại

điện tử thì người bán chỉ cần công khai địa chỉ mạng website của mình và

người mua dễ dàng truy nhập vào website thương mại điện tử thông qua các

công cụ trình duyệt Internet như Google Chrome, Cốc Cốc, Mozilla Firefox,

Safari, Opera, Internet Explorer... thì để giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh thì người bán yêu cầu

25

người mua phải tải về phần mềm ứng dụng thương mại điện tử (application)

do người bán phát hành và cài đặt phần mềm ứng dụng này trên điện thoại

thông minh của người mua.

- Tính cá biệt hóa, bảo mật cao: do người mua tự nguyện cài đặt phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh của họ để giao kết hợp đồng

thương mại điện tử với người bán nên người bán hoàn toàn có thể dành cho

những nhóm người mua, đối tượng cụ thể những chính sách bán hàng ưu đãi,

đặc biệt theo mùa, theo khung giờ hoặc theo chiến dịch bán hàng của người

bán. Những chính sách này không hoàn toàn công khai, “cào bằng” giữa các

nhóm người mua và tạo được lợi thế cạnh tranh trong chăm sóc khách hàng

của người bán.

Cũng vì lẽ đó mà giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh có phần bảo mật hơn, riêng tư hơn trong

mối quan hệ mua bán giữa các bên.

- Tính định danh: điện thoại thông minh là phương tiện điện tử cá nhân,

gắn liền với mỗi người, đi kèm là các thông tin, dữ liệu cá nhân quan trọng.

Việc người mua tự nguyện, chấp nhận cài đặt phần mềm ứng dụng thương

mại điện tử trên điện thoại thông minh của mình là đồng nghĩa với việc họ đã

chấp nhận chia sẻ và cung cấp một vài thông tin cá nhân cơ bản cho người

bán - bên sở hữu phần mềm ứng dụng thương mại điện tử.

Giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh có tính định danh cao hơn; giúp cho người bán dễ dàng

xác thực thông tin người mua, thông tin chấp nhận giao kết hợp đồng thông

qua các công cụ xác nhận số điện thoại, xác nhận tin nhắn SMS. Đây là điều

mà các hình thức giao kết hợp đồng thương mại điện tử khác không thể thực

hiện trực tiếp được.

- Tính định vị: điện thoại thông minh sở hữu tính năng định vị GPS

26

(Global positioning system - hệ thống định vị toàn cầu), giúp cho người bán

có thể tùy biến chính sách bán hàng của mình theo vùng miền, khu vực; giúp

cho người bán thuận tiện bố trí khu vực dự trữ và cung cấp sản phẩm, hàng

hóa ở gần khu vực người mua; giúp giảm chi phí bán hàng và thời gian giao

hàng đến cho người mua.

Sự bùng nổ của giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh là nhờ tính năng này. Các nhà phát triển

đã không chỉ tạo ra môi trường để cho giao dịch sản phẩm, hàng hóa hữu hình

mà còn tạo ra những tiện ích cung cấp dịch vụ trực tuyến như dịch vụ đặt xe

(Grab, Uber,...), dịch vụ gọi món ăn Foody đang rất phát triển trên toàn thế

giới và ở Việt Nam hiện nay.

Tiểu kết Chương 1

Qua nghiên cứu các nội dung đã trình bày ở Chương 1, có thể rút ra

những kết luận như sau:

Thứ nhất, giao kết hợp đồng thương mại điện tử với bản chất là một

giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử và được coi là có giá trị

tương đương giao dịch bằng văn bản và không bị phủ nhận giá trị pháp lý.

Hợp đồng thương mại điện tử là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,

thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ nhằm mục đích sinh lợi bằng cách trao

đổi các thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử có kết nối mạng

máy tính toàn cầu internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.

Thứ hai, hợp đồng thương mại điện tử có sự kết hợp các yếu tố truyền

thống với yếu tố hiện đại; đối tượng của hợp đồng thương mại điện tử bao

gồm vật thể và phi vật thể; hợp đồng thương mại điện tử được thực thi chủ

yếu trên môi trường mạng; hợp đồng thương mại điện tử không bị giới hạn

bởi khoảng cách địa lý; hợp đồng thương mại điện tử tiềm ẩn nhiều rủi ro

27

trong các giao dịch thương mại điện tử mua sắm nhỏ lẻ, đơn thuần và hợp

đồng thương mại điện tử chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật quốc tế trong

giao dịch xuyên biên giới.

Thứ ba, giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh cũng có những điểm khác biệt so với các hình thức

giao kết hợp đồng thương mại điện tử khác ở chỗ người mua sử dụng phần

mềm ứng dụng thương mại điện tử của một nhãn hàng hay của sàn giao dịch

thương mại điện tử để tương tác, giao dịch mua bán trực tuyến với người bán.

Giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng có tính cá

biệt hóa, bảo mật cao; tính định danh, tính định vị giúp cho người bán có thể

tận dụng, khai thác tính năng này để gia tăng hiệu quả chính sách bán hàng và

28

hậu mãi.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI

THÔNG MINH Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh giao

kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

thông minh

a) Pháp luật về dân sự

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11

năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017; là bộ luật cơ

bản, quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân,

pháp nhân trong quan hệ dân sự.

Trong mọi quan hệ hợp đồng dân sự nói chung hay trong phạm vi mối

quan hệ giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh nói riêng thì các bên đều phải tuân theo tinh thần quy

định đã nêu tại Bộ luật Dân sự về giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa

đổi, chấm dứt hợp đồng.

- Khi các bên tiến hành đề nghị giao kết hợp đồng, căn cứ quy định tại

khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự thì “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện

rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị

đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”. Mọi thông điệp dữ liệu

mang thông tin thương mại, thông tin chào bán được phát hành từ hệ thống giao

dịch thương mại điện tử của người bán đến điện thoại thông minh của người

29

mua qua phần mềm ứng dụng được xem như là lời mời, đề nghị giao kết hợp

đồng; và rõ ràng người bán đã thể hiện rõ ý định chào bán sản phẩm, hàng hóa

đến người mua; họ phải chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết này.

- Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực: tại khoản 1 Điều

388 Bộ luật Dân sự trao quyền cho bên đề nghị được ấn định thời điểm đề

nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực. Theo đó, bên bán hoàn toàn chủ động đề

xuất, ấn định thời điểm mà các chính sách bán hàng, hậu mãi của mình có

hiệu lực đối với người mua. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thì đề

nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề

nghị đó; nghĩa là khi điện thoại thông minh của người mua nhận được thông

điệp chào hàng từ người bán.

- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: theo quy định của Bộ luật Dân

sự, tại khoản 2 Điều 393 thì “Sự im lặng của bên được đề nghị không được

coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Một thông điệp dữ liệu từ hệ

thống giao dịch thương mại điện tử của người bán gửi thành công đến điện

thoại thông minh của người mua qua phần mềm ứng dụng cũng chưa đảm bảo

chắc chắn rằng người mua đó sẽ lựa chọn và tham gia mua sắm; quyền quyết

định là thuộc về người mua. Thực tế là chỉ khi thông điệp dữ liệu chào hàng

nào đó phù hợp với nhu cầu, sở thích của người mua thì khi đó họ sẽ phản hồi

cho người bán để xác nhận giao dịch hoặc cần làm rõ hơn các thông tin về sản

phẩm, giá cả, cách thức giao hàng; từ thời điểm đó trở đi, đề nghị giao kết hợp

đồng mới được coi là chấp nhận.

- Địa điểm giao kết hợp đồng: Bộ luật Dân sự quy định “Địa điểm giao

kết hợp đồng do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm

giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa

ra đề nghị giao kết hợp đồng”. Đây là quy định chung về địa điểm giao kết

hợp đồng và áp dụng cho mọi loại hợp đồng, bao gồm cả giao kết hợp đồng

30

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Tuy

nhiên, trên không gian mạng, việc giao kết hợp đồng điện tử không hề đơn

giản để có thể xác định chính xác địa điểm, vị trí của người mua, người bán

nếu các bên không có thỏa thuận về địa điểm giao kết hợp đồng. Do là quy

định chung nên tất yếu đòi hỏi quy định của pháp luật chuyên ngành cần phải

quy định cụ thể hơn cho phù hợp đặc thù giao kết hợp đồng điện tử.

- Thời điểm giao kết hợp đồng: hiện nay, Bộ luật Dân sự chưa có quy

định cụ thể đối với thời điểm giao kết hợp đồng điện tử. Thay vào đó, hiện

mới chỉ có quy định về “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời

điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng” và “Thời điểm giao

kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay

bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”. Giao dịch thương

mại điện tử với sự tương tác, trao đổi, truyền đưa các thông điệp dữ liệu điện

tử chứa đựng thông tin thương mại giữa người mua và người bán; họ không

trực tiếp gặp gỡ nhau và chỉ trao đổi, thỏa thuận, giao kết thông qua các

phương tiện điện tử có kết nối mạng. Giao dịch giữa họ là phi giấy tờ và cũng

không diễn ra sự đối thoại nào ở đây. Rõ ràng, nếu chỉ căn cứ vào quy định

của Bộ luật Dân sự thì chưa đủ cơ sở pháp lý để xác định thời điểm giao kết

hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông

minh và tất yếu điều này sẽ được giải quyết tại quy định của pháp luật chuyên

ngành, cụ thể hơn được trình bày ở nội dung tiếp theo.

b) Pháp luật về thương mại và thương mại điện tử

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp

thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Với 9

chương và 324 điều, Luật Thương mại đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, không

chỉ mua bán hàng hóa mà còn điều chỉnh cả hoạt động cung ứng dịch vụ, xúc

tiến thương mại và nhiều loại hình thương mại khác. Các quy định trong Luật

31

Thương mại vừa phù hợp với các nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, vừa đảm

bảo hài hòa với các chuẩn mực quốc tế, hỗ trợ cho quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế. Luật Thương mại 2005 là văn bản pháp lý nền tảng cho các hoạt

động thương mại, trong đó có thương mại điện tử. Điều 15 của Luật Thương

mại đã quy định: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp

ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được

thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản”. Ngoài ra, một điều khoản

khác liên quan đến thương mại điện tử là khoản 4, Điều 120 Luật Thương mại

(Các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ), trong đó ghi nhận

“Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên Internet” là một hình thức trưng

bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ. Trong bối cảnh thương mại điện tử đang

ngày càng được các doanh nghiệp nhận thức rõ về tầm quan trọng và có ứng

dụng ở nhiều mức độ khác nhau, những quy định về thương mại điện tử chưa

được phản ánh tương xứng trong Luật Thương mại thì sẽ được quy định trong

những văn bản dưới luật.

Ngày 16/5/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP

về thương mại điện tử (thay thế cho Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương

mại điện tử) nhằm tập trung điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù, phát

sinh trên môi trường điện tử, không nhắc lại những quy định pháp luật chung

về kinh doanh - thương mại mà các chủ thể tham gia thương mại điện tử

đương nhiên có nghĩa vụ tuân thủ.

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP áp dụng đối với các thương nhân, tổ

chức, cá nhân Việt Nam; cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; thương

nhân, tổ chức nước ngoài có sự hiện diện tại Việt Nam thông qua hoạt động

đầu tư, lập chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc thiết lập website dưới tên

miền Việt Nam.

Đồng thời, nghị định cũng quy định rõ ràng nghĩa vụ của một số chủ

32

thể chính tham gia hoạt động thương mại điện tử như:

Một là, người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng có nghĩa vụ

thông báo website thương mại điện tử, minh bạch thông tin và nghĩa vụ khác

theo pháp luật về kinh doanh, thương mại.

Hai là, người bán có nghĩa vụ minh bạch thông tin và nghĩa vụ khác

theo pháp luật về kinh doanh, thương mại.

Ba là, người cung cấp môi trường giao dịch thương mại điện tử có

nghĩa vụ đăng ký website thương mại điện tử, xây dựng quy chế, giám sát và

quản lý môi trường giao dịch, minh bạch thông tin và nghĩa vụ khác theo

pháp luật về kinh doanh, thương mại.

Đối với hoạt động thương mại điện tử sử dụng các thiết bị di động thì

nghị định cũng quy định các ứng dụng cài đặt trên thiết bị điện tử có nối mạng

cho phép người dùng truy cập vào cơ sở dữ liệu của thương nhân, tổ chức, cá

nhân khác để mua bán hàng hóa, cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, tùy theo

tính năng của ứng dụng đó mà thương nhân, tổ chức phải tuân thủ các quy

định về website thương mại điện tử bán hàng hoặc website cung cấp dịch vụ

thương mại điện tử. Tuy còn sơ sài nhưng đây là quy định đầu tiên và duy

nhất đến thời điểm hiện tại áp dụng đối với hình thức mobile-commerce.

Hay nói cách khác, khi người bán xuất bản trên không gian mạng phần

mềm ứng dụng thương mại điện tử cài đặt trên điện thoại thông minh mà có

giao thức website thương mại điện tử bán hàng hoặc website cung cấp dịch vụ

thương mại điện tử thì cần tuân thủ quy định tương ứng.

Để phù hợp với những thay đổi của thực tiễn hoạt động thương mại

điện tử, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã có hướng dẫn về quản lý website

thương mại điện tử (Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 5 tháng 12 năm

2014), cụ thể: Quy định thủ tục thông báo, đăng ký website thương mại điện

tử; việc công bố thông tin liên quan đến website thương mại điện tử; việc tăng

33

cường quản lý hoạt động kinh doanh trên các website thương mại điện tử,

mạng xã hội, website khuyến mại trực tuyến; phân định phạm vi quản lý các

website chuyên ngành; về kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh,

kinh doanh có điều kiện trên website thương mại điện tử. Đồng thời, Bộ Công

Thương cũng đã ban hành Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015

quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị

di động và gần đây là Thông tư số 21/2018/TT-BCT ngày 20/8/2018 sửa đổi

một số điều của Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công

Thương quy định về quản lý website thương mại điện tử và Thông tư số

59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 của Bộ Công Thương quy định về quản lý

hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động.

Về nguyên tắc quản lý thì website thương mại điện tử và ứng dụng

thương mại điện tử (phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh) là như

nhau, đều là các phần mềm cài đặt trên phần cứng tương thích cho phép các

bên tiến hành giao dịch thương mại điện tử.

c) Pháp luật về giao dịch điện tử

Ngày 29/11/2005, Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội khóa XI,

kỳ họp thứ 8 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/03/2006. Luật gồm 8

chương, 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực

chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của

cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử,

giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều

chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan

nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, tài chính, thuế.

Được xây dựng dựa trên cấu trúc và nội dung Luật mẫu UNCITRAL về

thương mại điện tử, Luật Giao dịch điện tử đã thừa nhận thông điệp dữ liệu

34

không bị phủ nhận giá trị pháp lý, có giá trị như văn bản, bản gốc và làm

chứng cứ. Luật cũng công nhận hợp đồng điện tử và các loại thông báo được

thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.

Luật Giao dịch điện tử nhấn mạnh nguyên tắc tiến hành giao dịch điện

tử là tự nguyện, được tự thỏa thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện

giao dịch; trung lập về công nghệ, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn. Chữ ký

điện tử là một nội dung cũng được đề cập trong Luật Giao dịch điện tử. Luật

công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quy định nghĩa vụ của bên ký,

bên chấp nhận chữ ký và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử.

Luật Giao dịch điện tử dành riêng một chương đề cập giao dịch điện tử của cơ

quan nhà nước. Cơ quan nhà nước được chủ động thực hiện từng phần hoặc

toàn bộ các giao dịch trong nội bộ cơ quan hoặc với cơ quan khác của Nhà

nước bằng phương tiện điện tử. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn

phương thức giao dịch với cơ quan nhà nước nếu cơ quan nhà nước đó đồng

thời chấp nhận giao dịch theo phương thức truyền thống và phương thức điện

tử. Tuy đã tạo ra nền tảng pháp lý cho các giao dịch điện tử trong thương mại,

nhưng Luật Giao dịch điện tử vẫn không thể hiện được những đặc trưng riêng

của thương mại điện tử.

Đây được coi là thời điểm lịch sử của các giao dịch điện tử tại Việt

Nam, bao gồm các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại. Luật Giao

dịch điện tử đã thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu và chữ ký

điện tử được sử dụng trong các quan hệ dân sự, thương mại và hành chính;

đồng thời cụ thể hóa các quy định áp dụng cho hợp đồng điện tử và các giao

dịch điện tử của khối cơ quan nhà nước. Tổ chức, cá nhân sẽ yên tâm khi tiến

hành các giao dịch điện tử, vừa giảm các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian

xử lý và vẫn có thể yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi của mình một khi có tranh

chấp xảy ra.

35

d) Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Quốc hội thông qua vào

cuối năm 2010. Nhận thức của xã hội về quyền lợi người tiêu dùng gia tăng,

cùng với sự phát triển nhanh của các mô hình thương mại điện tử B2C và

C2C khiến những vụ việc liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng trong giao

dịch trên môi trường mạng thời gian qua thu hút sự chú ý rộng rãi của dư

luận. Quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử chịu ảnh hưởng bởi

các nhân tố như: một là, những vấn đề tồn tại trong hoạt động thương mại

truyền thống như thông tin, chất lượng hàng hóa, dịch vụ,…; hai là, những

vấn đề tồn tại trong hoạt động trên không gian mạng như bảo vệ thông tin cá

nhân, ngăn chặn quảng cáo không mong muốn, vấn đề an ninh an toàn trong

giao dịch,… Vì lẽ đó, các nguyên tắc cơ bản khi xây dựng quy định pháp luật

về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử bao gồm:

Một là, giao dịch thương mại điện tử phải tuân thủ các quy định pháp

luật chung về bảo vệ người tiêu dùng. Những tranh chấp về chất lượng hàng

hóa, quảng cáo không đúng sự thật, thông tin sai lệch sẽ được xử lý như trong

các giao dịch truyền thống.

Hai là, mức độ bảo vệ của pháp luật đối với người tiêu dùng trong giao

dịch thương mại điện tử cũng tương đương như trong môi trường truyền

thống. Bên bán trong mối quan hệ thương mại điện tử thực hiện nghĩa vụ của

mình tương tự như trong mối quan hệ thương mại truyền thống.

Ba là, hệ thống pháp luật thương mại điện tử chỉ điều chỉnh những khía

cạnh đặc thù của giao dịch điện tử liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng.

Với tinh thần trên, các văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu

dùng trong thương mại điện tử thời gian qua chủ yếu tập trung vào 2 khía

cạnh đặc thù là bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng và bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website thương mại

36

điện tử (hiện chưa có quy định cụ thể đối với bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong giao kết hợp đồng qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông

minh mà hiện chỉ đang áp dụng nguyên tắc pháp luật tương tự như giao kết

hợp đồng qua website thương mại điện tử), cụ thể:

Thứ nhất, bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong giao dịch

thương mại điện tử, bao gồm vấn đề quản lý và sử dụng thông tin cá nhân trong

thương mại điện tử (data privacy), chống thư rác và quản lý thư quảng cáo

thương mại, và xử lý tội phạm về thông tin cá nhân trong thương mại điện tử.

Thứ hai, bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên

website thương mại điện tử: trong đó tập trung điều chỉnh vấn đề cung cấp

thông tin và giao kết hợp đồng trên môi trường điện tử, nhằm thu hẹp khoảng

cách về bất bình đẳng thông tin đối với người tiêu dùng và nâng cao tính minh

bạch của môi trường thương mại điện tử. Trường hợp giao kết hợp đồng bằng

phương tiện điện tử thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải

tạo điều kiện để người tiêu dùng xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi giao kết,

có thể truy nhập, tải, lưu giữ và in hóa đơn, chứng từ, tài liệu.

đ) Pháp luật về quảng cáo, chào bán, giới thiệu sản phẩm, hàng hóa

Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật Quảng cáo số

16/2012/QH13 thay thế cho Pháp lệnh Quảng cáo và đã hoàn thiện các quy

định của pháp luật về quảng cáo trên môi trường mạng như sau:

Một là, ghi nhận trang thông tin điện tử, thiết bị điện tử, thiết bị đầu

cuối và các thiết bị viễn thông khác là phương tiện quảng cáo.

Hai là, quy định cụ thể hơn danh mục sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm

quảng cáo.

Ba là, quy định chi tiết những hành vi cấm trong hoạt động quảng cáo.

Với danh mục sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo đã được quy

định tại Luật Quảng cáo, thì mọi đề nghị giao kết hợp đồng liên quan đến các

37

sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ này từ người bán gửi đến người mua thông qua

phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh đều không được coi là đề

nghị giao kết hợp pháp.

Đặc biệt, vừa qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV đã thông qua

Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia số 44/2019/QH14, có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/2020. Theo đó, Luật cũng đã quy định cho phép bán rượu,

bia theo hình thức thương mại điện tử với những điều kiện cụ thể như:

- Đáp ứng quy định về điều kiện cấp phép mua bán rượu có độ cồn từ

5,5 độ trở lên.

- Bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm đối với rượu, bia.

- Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về thương mại điện tử.

- Thực hiện các biện pháp theo quy định của Chính phủ để ngăn ngừa

người chưa đủ 18 tuổi tiếp cận, truy cập, tìm kiếm thông tin và mua rượu, bia.

- Áp dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Với quy định như trên, để tạo điều kiện cho các thương nhân có thể

kinh doanh mặt hàng rượu, bia trên môi trường mạng, Bộ Công Thương cần

sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày

05/12/2014 do hiện Thông tư này đang quy định không cho phép kinh doanh

mặt hàng rượu các loại trên website thương mại điện tử và ứng dụng thương

mại điện tử (phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh).

Về khuyến mại khi giới thiệu, chào bán, giao kết hợp đồng thương mại

điện tử: Ngày 22/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2018/NĐ-CP

quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, có hiệu

lực từ ngày 15/7/2018. Đây là văn bản thay thế Nghị định số 37/2006/NĐ-CP

ngày 4/4/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động

xúc tiến thương mại. Theo đó, thương nhân nếu chỉ thực hiện bán hàng và

38

khuyến mại thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử, website khuyến mại

trực tuyến thì không phải thực hiện thủ tục hành chính thông báo hoạt động

khuyến mại.

Thay vào đó, quy định cũng ràng buộc nghĩa vụ của thương nhân cung

cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử, website khuyến mại trực tuyến

phải thực hiện:

- Đảm bảo các nội dung thông tin về hoạt động khuyến mại được công

bố trên sàn phải tuân thủ pháp luật về khuyến mại, giao dịch điện tử, quảng

cáo và pháp luật có liên quan;

- Yêu cầu thương nhân thực hiện khuyến mại trên sàn cung cấp thông

tin về hoạt động khuyến mại;

- Có cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo việc cung cấp thông tin của

thương nhân thực hiện khuyến mại trên sàn được thực hiện chính xác, đầy đủ;

- Có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh về

hành vi khuyến mại vi phạm pháp luật trên sàn;

- Hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước điều tra, kiểm tra, giám sát các hành

vi khuyến mại vi phạm pháp luật, cung cấp thông tin đăng ký, lịch sử giao

dịch và các tài liệu khác về đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật trên sàn;

- Chịu trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hoạt

động khuyến mại cho người tiêu dùng theo quy định của pháp luật về bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng.

e) Pháp luật về thanh toán điện tử, hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử

Ngày 11/12/2014, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số

39/2014/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 20/2016/TT-

NHNN ngày 30/6/2016 và Thông tư số 30/2016/TT-NHNN ngày 14/10/2016

của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) hướng dẫn về dịch vụ trung

gian thanh toán được quy định tại Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày

39

22/11/2012 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số

80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ) về thanh toán không dùng

tiền mặt. Theo đó, các loại dịch vụ trung gian thanh toán trong thanh toán

điện tử là: dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử, dịch vụ

Cổng thanh toán điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ, dịch vụ hỗ trợ chuyển

tiền điện tử và dịch vụ Ví điện tử.

Thông tư số 39/2014/TT-NHNN đã có quy định về loại hình dịch vụ

trung gian thanh toán, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

Thông tư cũng quy định nghĩa vụ của các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian

thanh toán phải thực hiện như sau:

Một là, xây dựng và thực hiện các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt

động ngân hàng điện tử.

Hai là, đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong

hoạt động ngân hàng; an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng

điện tử.

Ba là, tuân thủ các quy định về việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ

chứng từ điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử trong hoạt

động ngân hàng.

Thông tư số 39/2014/TT-NHNN nói trên đã quy định về giải pháp

thanh toán Ví điện tử, làm cơ sở pháp lý để Ví điện tử được sử dụng rộng rãi

trong thanh toán thương mại điện tử.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế

số ngày càng phát triển và phổ biến trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã

hội, “chứng từ điện tử” tiếp tục được thừa nhận giá trị pháp lý của nó trong

các văn bản pháp luật ban hành sau này. Tại khoản 1 Điều 17 Luật Kế toán

năm 2015 quy định: “Chứng từ điện tử được coi là chứng từ kế toán khi có

các nội dung quy định tại Điều 16 của Luật này và được thể hiện dưới dạng

40

dữ liệu điện tử, được mã hóa mà không bị thay đổi trong quá trình truyền qua

mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên vật mang tin như băng từ, đĩa từ,

các loại thẻ thanh toán” và “...Chứng từ điện tử được quản lý như tài liệu kế

toán ở dạng nguyên bản mà nó được tạo ra, gửi đi hoặc nhận nhưng phải có

đủ thiết bị phù hợp để sử dụng”.

Người bán khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử với người mua

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh hoàn toàn có thể tạo ra

những chứng từ điện tử, lưu giữ thông tin hóa đơn bán hàng, thông tin thanh

toán và “chứng từ điện tử” sử dụng trong giao dịch điện tử phải được ký điện

tử phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử (khoản 5 Điều 8

Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2022, riêng Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020).

Cũng theo Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 sẽ có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/7/2020, tại Điều 91 đã cho phép áp dụng hóa đơn điện tử khi bán

hàng hóa, cung cấp dịch vụ trong kinh doanh thương mại điện tử. Phải một

thời gian nữa thì quy định này mới có hiệu lực thực thi trong thực tế nhưng đã

cho thấy quan điểm của các cơ quan quản lý nhà nước tạo mọi điều kiện thuận

lợi nhất hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động thương mại điện tử, hình thành

được quy trình điện tử hoàn toàn trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh.

2.1.2. Quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

a) Chủ thể giao kết hợp đồng thương mại điện tử

Chủ thể giao kết hợp đồng thương mại điện tử được nhìn nhận ở những

góc độ pháp lý khác nhau thì cũng mang nội hàm khác nhau.

Thực tế là theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, những chủ thể

như người bán, người mua còn được gọi là người khởi tạo, người nhận [9].

41

- Về người khởi tạo:

Tại Điều 16 Luật Giao dịch điện tử quy định: “Người khởi tạo thông điệp

dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ liệu trước

khi thông điệp dữ liệu đó được lưu giữ nhưng không bao hàm người trung gian

chuyển thông điệp dữ liệu”. Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 3 Nghị định số

52/2013/NĐ-CP cũng đưa ra khái niệm: “Người khởi tạo là bên, hoặc người đại

diện của bên đó, đã tạo ra hoặc gửi đi chứng từ điện tử trước khi lưu trữ nó”.

Người khởi tạo không bao gồm bên hoạt động với tư cách là người

trung gian liên quan tới chứng từ điện tử. Ở đây, Luật Giao dịch điện tử sử

dụng thuật ngữ “người khởi tạo” thông điệp dữ liệu mà không sử dụng thuật

ngữ “người gửi” thông điệp dữ liệu vì chính sự đặc thù của hợp đồng thương

mại điện tử. Đó là, trong giao dịch thương mại điện tử, không phải tất cả

thông điệp dữ liệu đều được soạn thảo ra bởi một người. Trong điều kiện

mạng Internet hiện nay thông tin được trao đổi trên phạm vi toàn cầu, từ tất cả

mọi quốc gia trên thế giới, cùng với việc người dùng mạng có thể thoải mái

tạo và gửi thông tin nên đôi khi người sử dụng thông điệp dữ liệu không biết

chính xác thông tin mình sử dụng là của tác giả nào. Chẳng hạn, rất nhiều

trang thông tin điện tử hiện nay sử dụng hình thức đăng ký thành viên để quản

lý người dùng, hoặc khách hàng của mình (ví dụ như tiki.vn, lazada.vn,

shopee.vn…). Nhưng trong đó, do không quản lý chặt chẽ nên một người

dùng thật có thể đăng ký rất nhiều tài khoản ảo, với những tên đăng nhập khác

nhau do sở thích hoặc do nhu cầu không muốn công khai danh tính trên mạng

vì những lý do bảo mật. Khi tiến hành giao kết hợp đồng thông qua thương

lượng, hay gửi yêu cầu giao kết, họ có thể sử dụng bất kỳ tài khoản nào mà họ

có, và chỉ đến khi thực hiện giao dịch như mua hàng, nhận hàng, và thanh

toán thì họ mới phải công khai những thông tin cá nhân đích thực của mình

như số tài khoản ngân hàng, số định danh cá nhân, địa chỉ chính xác… Do đó,

42

việc một người tạo ra thông điệp dữ liệu bằng tài khoản này, nhưng lại gửi nó

đi bằng một tài khoản khác của chính họ là điều hoàn toàn có thể xảy ra, và

khi có tranh chấp xảy ra, sẽ cần qua nhiều bước xác minh để biết được hai hay

nhiều tài khoản là thuộc sở hữu của cùng một người và quy trách nhiệm cho

người đó. Có những trường hợp do chủ tài khoản cố tình che giấu hoặc khai

thông tin sai lệch trong tài khoản của mình thì các cơ quan chức năng sẽ rất

khó trong việc xác định chủ thể thực sự tham gia vào giao dịch.

- Về người nhận:

Luật Giao dịch điện tử tại Điều 18 đã quy định: “Người nhận thông

điệp dữ liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo

thông điệp dữ liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp

dữ liệu đó”. Ngoài ra, “Người nhận là bên nhận được chứng từ điện tử theo

chủ ý của người khởi tạo. Người nhận không bao gồm bên hoạt động với tư

cách là người trung gian liên quan tới chứng từ điện tử” (khoản 5 Điều 3 Nghị

định 52⁄2013/NĐ-CP của Chính phủ). Về người nhận thông điệp dữ liệu thì

không xảy ra trường hợp nhầm lẫn giữa tác giả của thông điệp dữ liệu và

người gửi đi thông điệp dữ liệu như đối với trường hợp của người khởi tạo

thông điệp dữ liệu. “Người nhận” là người cuối cùng nhận và sử dụng thông

điệp dữ liệu phục vụ cho giao dịch thương mại điện tử, và có nhiệm vụ phản

hồi lại thông điệp dữ liệu cho người khởi tạo (nếu cần), khi đó, người nhận lại

đóng vai trò là người khởi tạo thông điệp dữ liệu.

Theo quy định của pháp luật về Thương mại điện tử, Điều 24 Nghị định

số 52/2013/NĐ-CP đã quy định các chủ thể tham gia hoạt động thương mại

điện tử bao gồm:

- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website/phần mềm ứng

dụng thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng

hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu website/phần mềm ứng

43

dụng thương mại điện tử bán hàng).

- Các thương nhân, tổ chức thiết lập website/phần mềm ứng dụng

thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá

nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung

ứng dịch vụ (thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử).

- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website/phần mềm ứng

dụng của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục

vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của

mình (người bán).

- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên

website/phần mềm ứng dụng thương mại điện tử bán hàng và website/ phần

mềm ứng dụng cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (khách hàng).

- Các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho người sở hữu

website/ phần mềm ứng dụng thương mại điện tử bán hàng và cho thương

nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (thương nhân, tổ chức

cung cấp hạ tầng).

- Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối

mạng khác để tiến hành hoạt động thương mại.

b) Trình tự giao kết hợp đồng thương mại điện tử

Đối với giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh, trong phần này tác giả tập trung phân tích, làm rõ

pháp luật điều chỉnh trình tự giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua chức

năng đặt hàng trực tuyến.

Ở thời điểm Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, gần

như toàn bộ quy phạm được thiết kế, xây dựng để điều chỉnh đối tượng là

website thương mại điện tử; ngoài ra cũng có một quy định điều chỉnh hoạt

động thương mại điện tử thông qua thiết bị di động (quy định này chỉ mang

44

tính định hướng, khá khiêm tốn về nội dung). Do đó, các nội dung quy định

tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP áp dụng cho website thương mại điện tử thì

được hiểu áp dụng pháp luật tương tự cho ứng dụng thương mại điện tử (phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh), cả về mặt từ ngữ.

- Đề nghị giao kết hợp đồng:

Dưới phương diện pháp lý người bán, pháp luật quy định tại Điều 15

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP “phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông

minh có chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng hàng hóa, dịch vụ

thì các thông tin giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan

được coi là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ

chức, cá nhân bán hàng”. Có thể nói, chỉ cần người mua sử dụng phần mềm

ứng dụng thương mại điện tử trên điện thoại thông minh của mình thì sẽ luôn

nhận được lời đề nghị giao kết hợp đồng, lời chào hàng từ người bán. Trong

trường hợp này, đề nghị giao kết hợp đồng của người bán được ghi nhận là đã

có hiệu lực theo quy định của pháp luật về dân sự.

Ở phương diện pháp lý người mua, thông điệp dữ liệu - chứng từ điện

tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng

trực tuyến được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng

hóa hoặc dịch vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó.

- Rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng: để người mua được quyền

tùy biến lựa chọn mua sắm, lựa chọn mặt hàng, giá cả hay các điều kiện giao

dịch khác thì “trước khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến để gửi đề

nghị giao kết hợp đồng, phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh phải

có cơ chế cho phép khách hàng rà soát, bổ sung, sửa đổi và xác nhận nội

dung giao dịch”. Quy định này là cần thiết để bảo vệ quyền người tiêu dùng

trong trường hợp họ nhận ra rằng cần phải rà soát, xem lại những gì họ đã

dự kiến mua thay vì họ bị bắt buộc phải mua do đã sử dụng chức năng đặt

45

hàng trực tuyến.

- Trả lời đề nghị giao kết hợp đồng: khoản 1 Điều 19 Nghị định số

52/2013/NĐ-CP quy định “Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị

giao kết hợp đồng phải được thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có

thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ thống thông tin của khách hàng”. Tuy

nhiên, trên thực tế thì không phải hệ thống giao dịch thương mại điện tử của

người bán nào cũng có thể hỗ trợ người mua tra cứu, xem lại thông tin mình đã

giao dịch, nhất là đối với những khách hàng vãng lai, không có tài khoản mua

sắm cố định trên hệ thống. Trong trường hợp này, người mua thường mong đợi

một sự xác nhận bằng cách nào đó từ người bán chẳng hạn như một cuộc điện

thoại xác nhận, một tin nhắn SMS xác nhận hay một đoạn chat qua ứng dụng

mạng xã hội. Người mua hiểu rằng khi đó đề nghị giao kết hợp đồng, đề nghị

mua hàng của họ mới được người bán trả lời rõ ràng, có hiệu lực.

c) Thời điểm giao kết hợp đồng thương mại điện tử

Khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến của phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh, pháp luật đã quy định thời điểm giao kết hợp đồng

là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân, tổ chức, cá nhân

bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Và “thông điệp dữ liệu trả lời” của người bán phải cung cấp cho khách

hàng những thông tin sau:

- Tên, chủng loại mặt hàng; số lượng, giá trị từng mặt hàng; tổng số

lượng, tổng giá trị hợp đồng, giá trị thanh toán.

- Thời gian cam kết giao hàng dự kiến.

- Thông tin hỗ trợ sau bán hàng, hậu mãi, chăm sóc khách hàng, bảo

hành sản phẩm.

“Thông điệp dữ liệu trả lời” chính là kết quả được tạo ra từ quá trình

tương tác với hệ thống giao dịch thương mại điện tử, tương tác mang tính hệ

46

thống, hoạt động trực tuyến chứ không phải là hành động xác nhận bằng cuộc

điện thoại xác nhận, một tin nhắn SMS xác nhận hay một đoạn chat qua ứng

dụng mạng xã hội xác nhận như đã đề cập ở phần trên.

d) Địa điểm giao kết hợp đồng thương mại điện tử

Địa điểm giao kết hợp đồng cũng cần được xác định rõ ràng bởi nó có ý

nghĩa quan trọng trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử. Theo quy định

tại Điều 399 Bộ luật Dân sự quy định địa điểm giao kết hợp đồng do các bên

thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì địa điểm giao kết hợp đồng sẽ là

nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết

hợp đồng [12].

Trong hoạt động thương mại điện tử, hợp đồng được thiết lập trên cơ sở

gửi - nhận các thông điệp dữ liệu, các dữ liệu này được tạo ra và truyền dẫn

trong môi trường mạng nên không như hợp đồng truyền thống, các bên có thể

giao kết hợp đồng từ bất kỳ đâu chứ không chỉ ở nơi cư trú cá nhân hoặc trụ

sở của tổ chức. Đây chính là điểm khác biệt đặc thù khi giao kết hợp đồng

thương mại điện tử.

Chính vì vậy, Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn đã quy

định chi tiết về vấn đề này. Tại khoản 2 Điều 17 và khoản 2 Điều 19 Luật

Giao dịch điện tử quy định: Địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở của

người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của

người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có

nhiều trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật

thiết nhất với giao dịch. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người

nhận nếu người nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của

người nhận nếu người nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ

sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất

47

với giao dịch.

Bên cạnh đó, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP cũng đưa ra thuật ngữ mới

về địa điểm kinh doanh: “là cơ sở cố định để tiến hành hoạt động kinh doanh,

không bao gồm cơ sở cung cấp tạm thời hàng hóa hay dịch vụ”. Theo đó, địa

điểm gửi và nhận chứng từ điện tử cũng là địa điểm giao kết hợp đồng và

cũng được xác định thông qua địa điểm kinh doanh của các bên (khoản 3

Điều 10 Nghị định 52/2013/NĐ-CP). Đồng thời, Điều 11 Nghị định cũng quy

định địa điểm kinh doanh của các bên trong từng trường hợp như sau:

“- Địa điểm kinh doanh của mỗi bên là địa điểm do bên đó chỉ ra, trừ

khi bên khác nêu rõ bên đó không có địa điểm kinh doanh tại địa điểm này.

- Trong trường hợp một bên có nhiều địa điểm kinh doanh nhưng

không chỉ ra địa điểm kinh doanh nào thì địa điểm kinh doanh là địa điểm có

mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng liên quan xét tới mọi bối cảnh trước

và tại thời điểm giao kết hợp đồng.

- Trong trường hợp một cá nhân không có địa điểm kinh doanh thì địa

điểm kinh doanh là nơi đăng ký thường trú của cá nhân đó.

- Một địa điểm không được coi là địa điểm kinh doanh nếu địa điểm đó

chỉ là nơi đặt máy móc, thiết bị công nghệ của hệ thống thông tin do một bên

sử dụng để giao kết hợp đồng hoặc chỉ là nơi các bên khác có thể truy cập hệ

thống thông tin đó.

- Một địa danh gắn với tên miền hay địa chỉ thư điện tử của một bên

không nhất thiết liên quan tới địa điểm kinh doanh của bên đó”.

Đây là những quy định hết những cần thiết và hợp lý, bởi khác với hợp

đồng truyền thống, giao kết hợp đồng thương mại điện tử có thể được thực

hiện ở bất kì đâu tại mọi quốc gia. Chỉ cần một chiếc máy tính có kết nối

Internet là một thương nhân có thể giao kết hàng trăm hợp đồng ở các quốc

gia khác nhau. Vì vậy, trường hợp sai lệch hoặc thậm chí là “giả mạo” địa

48

điểm giao kết để lừa đảo khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử là hoàn

toàn có thể xảy ra. Do đó, các quy định về xác định địa điểm có mối quan hệ

gắn bó nhất với thương nhân kinh doanh là rất cần thiết trong lĩnh vực thương

mại điện tử.

đ) Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử

Trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh, khi người mua sử dụng chức năng đặt hàng trực

tuyến (hoặc các công cụ đặt hàng tương tự) để giao kết hợp đồng với người

bán thì kết quả giao dịch (gọi là hợp đồng giao dịch) được lưu trữ dưới dạng

thông điệp dữ liệu, được pháp luật thừa nhận là chứng từ điện tử.

Tuy nhiên, để chứng từ điện tử trong giao kết hợp đồng thương mại

điện tử có đầy đủ tính pháp lý của nó thì cũng cần tuân thủ các quy định nêu

tại Điều 9 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, cụ thể:

“1. Chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại có giá trị pháp lý như

bản gốc nếu đáp ứng cả hai điều kiện sau:

a) Có sự bảo đảm đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong

chứng từ điện tử từ thời điểm thông tin được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng

chứng từ điện tử;

b) Thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập, sử dụng được

dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.

2. Tiêu chí đánh giá tính toàn vẹn là thông tin còn đầy đủ và chưa bị

thay đổi, ngoài những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình trao đổi,

lưu trữ hoặc hiển thị chứng từ điện tử.

3. Tiêu chí về sự bảo đảm đủ tin cậy là khi một trong những biện pháp

sau được áp dụng trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên trao đổi và sử dụng

chứng từ điện tử:

a) Ký chứng từ điện tử bằng chữ ký số do tổ chức cung cấp dịch vụ

49

chứng thực chữ ký số hợp pháp cấp;

b) Lưu trữ chứng từ điện tử tại hệ thống của một tổ chức cung cấp dịch

vụ chứng thực hợp đồng điện tử đã được cấp phép mà các bên thỏa thuận lựa

chọn;

c) Có sự bảo đảm từ phía thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng cho

việc khởi tạo, gửi và lưu trữ chứng từ điện tử về tính toàn vẹn của thông tin

chứa trong chứng từ điện tử trong quá trình gửi và lưu trữ trên hệ thống;

d) Biện pháp khác mà các bên thống nhất lựa chọn;

e) Biện pháp bảo đảm an toàn khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

- Sử dụng chữ ký điện tử trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử và

thanh toán hóa đơn thương mại điện tử: Đáp ứng yêu cầu thực tiễn, pháp luật

về chữ ký số - chữ ký điện tử ngày càng được hoàn thiện. Ngày 27/9/2018,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi

hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.

Theo đó, tại Điều 8 quy định giá trị pháp lý của chữ ký số đã nêu:

“1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu

cầu đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ

liệu đó được ký bằng chữ ký số và chữ ký số đó được đảm bảo an toàn theo

quy định tại Điều 9 Nghị định này.

2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của

cơ quan tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là

đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký số cơ quan, tổ chức và

chữ ký số đó được đảm bảo an toàn theo quy định tại Điều 9 Nghị định này.

3. Chữ ký số và chứng thư số nước ngoài được cấp giấy phép sử dụng

tại Việt Nam theo quy định tại Chương V Nghị định này có giá trị pháp lý và

hiệu lực như chữ ký số và chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng

50

thực chữ ký số công cộng của Việt Nam cấp”.

Với nhu cầu ngày càng cao trong xác thực điện tử các giao dịch, giao

kết hợp đồng thương mại điện tử thì cũng cần bổ sung thêm các quy định cụ

thể hơn áp dụng đối với giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

trên điện thoại thông minh; cũng không nhất thiết chỉ giới hạn bởi việc ký số

hay ký điện tử mà pháp luật có thể quy định xác thực điện tử bằng việc định

danh, định tính điện thoại thông minh, người sở hữu phương tiện điện tử đó.

- Thông báo, đăng ký phần mềm ứng dụng thương mại điện tử trên điện

thoại thông minh: Đây là nghĩa vụ của người bán, người sở hữu phần mềm

ứng dụng thương mại điện tử phải thực hiện theo quy định của cơ quan quản

lý nhà nước. Quy định này đã được thực hiện từ năm 2013 cùng với sự ra đời

của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP. Ban đầu quy định áp dụng cho website

thương mại điện tử (Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 5 tháng 12 năm 2014

của Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quy định về quản lý website

thương mại điện tử) và đến khi ngày càng xuất hiện nhiều các phần mềm ứng

dụng thương mại điện tử trên điện thoại thông minh thì người bán, người sở

hữu phần mềm ứng dụng thương mại điện tử này cũng phải thực hiện nghĩa

vụ thông báo/đăng ký hoạt động với cơ quan nhà nước (Thông tư số

59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 quy định về quản lý hoạt động thương mại

điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động và gần đây là Thông tư số

21/2018/TT-BCT ngày 20/8/2018 sửa đổi một số điều của Thông tư số

47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công Thương quy định về quản lý

website thương mại điện tử và Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày

31/12/2015 của Bộ Công Thương quy định về quản lý hoạt động thương mại

điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động).

Các thông tin về thông báo/đăng ký phần mềm ứng dụng thương mại điện

51

tử được công khai thông tin trên Cổng thông tin quản lý hoạt động thương mại

điện tử Việt Nam; là căn cứ đầu tiên giúp cho người mua nhận biết được địa chỉ

mua hàng đã được người bán thông báo với cơ quan nhà nước.

2.1.3. Quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

Ngày 15/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 185/2013/NĐ-CP

quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản

xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hình

thức phạt tiền quy định tại Nghị định này là hình thức xử phạt chính và mức

tiền phạt quy định tại Nghị định này áp dụng đối với hành vi vi phạm hành

chính do cá nhân thực hiện. Trường hợp hành vi vi phạm hành chính do tổ

chức thực hiện thì phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt quy định đối với cá

nhân. Nghị định dành riêng 5 điều (từ Điều 81 đến Điều 85) để quy định về

hành vi vi phạm và các hình thức xử lý vi phạm trong hoạt động thương mại

điện tử.

Ngày 19/11/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 124/2015/NĐ-CP

để sửa đổi, bổ sung Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013; theo đó

bổ sung thêm chế tài đối với các vi phạm trong hoạt động ứng dụng thương

mại điện tử (phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh) tương tự như xử

lý vi phạm trong hoạt động website thương mại điện tử.

Bên cạnh sự ra đời của Nghị định 185/2013/NĐ-CP, Chính phủ cũng

ban hành Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 (đã

được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2017/NĐ-CP ngày 24/4/2017 của

Chính phủ) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính,

viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, trong đó Điều 74 có

quy định phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với hành vi

lừa đảo trong TMĐT, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và

52

thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân.

Đi cùng với mức phạt tiền, đối tượng có hành vi vi phạm sẽ chịu thêm hình

thức xử phạt bổ sung như bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và cùng

với đó là biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có

được do thực hiện hành vi.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật trong giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

2.2.1. Một số kết quả đạt được

- Sự hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo động lực phát triển thương mại

điện tử nói chung và thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện

thoại thông minh nói riêng: Năm 2018 tiếp tục chứng kiến sự tăng trưởng

mạnh mẽ của thương mại điện tử. Dựa trên thông tin từ cuộc khảo sát, Hiệp

hội thương mại điện tử Việt Nam [7] ước tính tốc độ tăng trưởng của thương

mại điện tử năm 2018 so với năm 2017 đạt trên 30%. Về quy mô, với điểm

xuất phát thấp khoảng 4 tỷ USD vào năm 2015 nhưng nhờ tốc độ tăng trưởng

trung bình trong ba năm liên tiếp cao nên quy mô thị trường thương mại điện

tử năm 2018 lên tới khoảng 7,8 tỷ USD. Thị trường này bao gồm bán lẻ trực

tuyến, du lịch trực tuyến, tiếp thị trực tuyến, giải trí trực tuyến và mua bán

trực tuyến các dịch vụ và sản phẩm số hóa khác.

Theo Báo cáo e-Conomy SEA 2018 của Google và Temasek [7], quy

mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 là 9 tỷ USD. Báo cáo

cũng dự báo tốc độ tăng trưởng trung bình năm (Compound Average Growth

Rate - CAGR) của giai đoạn 2015 - 2018 là 25% và thị trường đạt 33 tỷ USD

vào năm 2025. Nếu kịch bản này xảy ra, quy mô thị trường thương mại điện

tử Việt Nam năm 2025 đứng thứ ba ở Đông Nam Á, sau Indonesia (100 tỷ

USD) và Thái Lan (43 tỷ USD).

Theo khảo sát năm 2018 của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam

53

[7], trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát có website phiên bản di động

hoặc ứng dụng di động, có 43% doanh nghiệp cho biết đã cho phép người

mua thực hiện toàn bộ quá trình mua sắm trên thiết bị di động, 31% doanh

nghiệp cho biết có triển khai chương trình khuyến mại dành riêng cho khách

hàng sử dụng thiết bị di động để mua hàng hóa/dịch vụ và 45% doanh nghiệp

cho biết có nhận đơn đặt hàng qua ứng dụng bán hàng trên thiết bị di động.

Đạt được kết quả nêu trên, phải kể đến mức độ ngày càng hoàn thiện

của pháp luật thương mại điện tử nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh nói

riêng. Các cơ quan nhà nước hữu quan đã kịp thời ban hành các chính sách,

văn bản điều chỉnh các hành vi, quan hệ giao dịch, đối tượng giao kết và hình

thức hợp đồng thương mại điện tử là cơ sở cho các chủ thể hoạt động thương

mại điện tử triển khai thực hiện. Cụ thể:

Tên văn bản

Ngày ban hành Cơ quan ban hành

Văn bản Luật

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13

24/11/2015

Quốc hội

27/11/2015

Quốc hội

Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH14

Luật Thương mại số 36/2005/QH11

14/6/2005

Quốc hội

Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14

12/6/2017

Quốc hội

Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11

29/11/2005

Quốc hội

Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11

29/6/2006

Quốc hội

Luật Viễn thông số 41/2009/QH12

23/11/2009

Quốc hội

Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13

21/6/2012

Quốc hội

Luật Đầu tư số 67/2014/QH13

26/11/2014

Quốc hội

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14

12/6/2018

Quốc hội

lợi người

tiêu dùng số

17/11/2010

Quốc hội

Luật Bảo vệ quyền 59/2010/QH12

Luật Kế toán số 88/2015/QH13

20/11/2015

Quốc hội

Văn bản hướng dẫn Luật

54

Tên văn bản

Ngày ban hành Cơ quan ban hành

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử

16/5/2013

Chính phủ

22/5/2018

Chính phủ

Nghị định số 81/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại

01/03/2018

Chính phủ

Nghị định số 28/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về một số biện pháp phát triển ngoại thương

01/03/2018

Chính phủ

Nghị định số 27/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng

15/01/2018

Chính phủ

Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

14/11/2013

Chính phủ

Nghị định số 181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo

27/9/2018

Chính phủ

Nghị định số 130/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số

15/7/2013

Chính phủ

Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng

22/11/2012

Chính phủ

Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về Thanh toán không dùng tiền mặt

5/10/2012

Chính phủ

Nghị định số 77/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về Chống thư rác

19/11/2014

Chính phủ

Nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

7/4/2014

Chính phủ

Nghị định số 25/2014/NĐ-CP quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao

13/11/2013

Chính phủ

Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông,

55

Tên văn bản

Ngày ban hành Cơ quan ban hành

công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện

12/11/2013

Chính phủ

Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao du lịch và quảng cáo

Văn bản hướng dẫn Nghị định

5/12/2014

Bộ Công Thương

Thông tư số 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý website thương mại điện tử

31/12/2015

Bộ Công Thương

Thông tư số 59/2015/TT-BCT quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động

20/8/2018

Bộ Công Thương

tử và

thông

Thông tư số 21/2018/TT-BCT sửa đổi một số điều của Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công Thương quy định về quản lý website thương mại điện tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 của Bộ Công Thương quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng di động

18/8/2015

Thông tư số 24/2015/TT-BTTTT quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet

Bộ Thông tin và Truyền thông

28/7/2015

Bộ Tài chính

Thông tư số 110/2015/TT-BTC hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

31/12/2014

Thông tư số 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt

Ngân hàng nhà nước Việt Nam

11/12/2014

Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán

Ngân hàng nhà nước Việt Nam

10/9/2012

Liên Bộ

Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP- BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông

14/03/2011

Bộ Tài chính

Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng dẫn về khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

- Về việc ban hành Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 của

Bộ Công Thương quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng

56

dụng trên thiết bị di động: ở thời điểm năm 2013, Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP với rất nhiều quy định mới, đáp ứng nhu cầu

thực tiễn để điều chỉnh hoạt động website thương mại điện tử và đến năm

2015 Bộ Công Thương chính thức ban hành quy định riêng để điều chỉnh hoạt

động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động (hay còn gọi là

phần mềm ứng dụng thương mại điện tử trên điện thoại thông minh). Các bên

mua bán khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh, qua chức năng đặt hàng trực tuyến đều đã có cơ sở

pháp lý để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Người bán có nghĩa vụ

kiểm soát chặt chẽ thông tin chào bán, giới thiệu sản phẩm và bảo mật thông

tin người tiêu dùng; còn người mua khi đã giao kết hợp đồng qua chức năng

đặt hàng trực tuyến thì cũng phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ thanh toán

của mình, không được từ chối thanh toán nếu hàng hóa nhận được đúng với

giao kết ban đầu.

- Về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm/ứng dụng

mạng xã hội: Việc giao kết hợp đồng trực tuyến có thể thực hiện trên chính

ứng dụng Facebook qua Message (messenger), comments, Form online hay

link tới các ứng dụng đặt hàng trực tuyến của bên thứ ba hoặc các kênh khác

như Whatsapp, Viber, Zalo…

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử và

Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 quy định về quản lý website

thương mại điện tử đã xác định các mạng xã hội hỗ trợ mua bán trực tuyến

phải tuân theo các quy định đối với sàn thương mại điện tử. Theo đó, đơn vị

sở hữu và quản lý mạng xã hội này có trách nhiệm như thương nhân, tổ chức

cung cấp dịch vụ sàn thương mại điện tử, bao gồm: 1) Áp dụng các biện pháp

cần thiết để đảm bảo an toàn thông tin liên quan tới bí mật kinh doanh của

người bán và người mua; 2) Có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện hoặc

57

nhận được phản ánh về hành vi kinh doanh vi phạm pháp luật; 3) Công bố

công khai cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh. Khi khách hàng trên sàn

thương mại điện tử phát sinh mâu thuẫn với người bán hoặc bị tổn hại lợi ích

hợp pháp, phải cung cấp cho khách hàng thông tin về người bán, tích cực hỗ

trợ khách hàng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

- Về minh bạch điều kiện kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong thương

mại điện tử: Luật Đầu tư năm 2014 với cải cách đột phá trong quy định Danh

mục ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và được cụ thể hóa trong

khoảng 85 Nghị định, Thông tư quy định và hướng dẫn về điều kiện kinh

doanh nói chung và quy định về hàng hóa, dịch vụ được phép kinh doanh trên

không gian mạng nói riêng. Môi trường kinh doanh trực tuyến, việc giao kết

mua bán hàng hóa qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh trở

nên minh bạch và rõ ràng hơn. Người bán hiểu rõ tính pháp lý của mặt hàng

mà mình dự định kinh doanh; đồng thời, người mua cũng hiểu rõ tính hợp

pháp, nguồn gốc xuất xứ mặt hàng mình giao kết mua.

- Về sản phẩm nội dung số tham gia giao dịch thương mại điện tử:

Thông tư số 59/2015/TT-BCT đã quy định cho phép giao dịch mua bán sản

phẩm nội dung số qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Pháp

luật cũng quy định sản phẩm nội dung số là các văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm

thanh được thể hiện dưới dạng số, được lưu giữ, truyền đưa trên môi trường

mạng. Như vậy, đối với hàng hóa vật chất hay sản phẩm phi vật chất đều đã

có quy định điều chỉnh trong giao dịch thương mại điện tử qua website

thương mại điện tử hoặc qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh.

2.2.2. Những hạn chế, khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình thực hiện pháp luật điều

chỉnh hoạt động giao kết hợp đồng qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

58

thông minh thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn nhất định như sau:

- Khó xác định nguồn pháp luật điều chỉnh khi giao kết hợp đồng

thương mại điện tử xuyên biên giới. Đặc điểm “phi biên giới” là một lợi thế

rất lớn nhưng đồng thời cũng là một hạn chế khi thực thi pháp luật thương

mại điện tử. Khi giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng

dụng trên điện thoại thông minh, các chủ thể tham gia có thể ở bất kỳ đâu trên

thế giới, do đó rất khó xác định được địa điểm giao kết hợp đồng, đặc biệt là

trong các giao dịch có yếu tố quốc tế. Trên không gian mạng Internet, có rất

nhiều sản phẩm, dịch vụ thương mại điện tử của các doanh nghiệp tại nước

trên thế giới mà được rất nhiều người Việt Nam sử dụng hàng ngày như

Ebay.com, Amazon.com,... Những doanh nghiệp hầu hết không có trụ sở hay

chi nhánh đại diện thương mại tại Việt Nam (bởi chiến lược kinh doanh toàn

cầu trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0), vậy nên những quy định của

pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử của Việt Nam sẽ rất khó khăn áp

dụng đối với những loại hình doanh nghiệp đa quốc gia này; thậm chí còn gây

khó khăn cho cả công tác quản lý nhà nước, xử lý vi phạm hoặc tranh chấp

xảy ra nếu có giữa các bên.

Một vấn đề nữa về yếu tố nước ngoài là Việt Nam còn chưa có quy

định về hợp đồng thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài [9]. Pháp luật

nước ta chưa có quy định cụ thể nào về hợp đồng thương mại điện tử có yếu

tố nước ngoài. Các doanh nghiệp hay cá nhân khi thực hiện giao kết hợp đồng

có yếu tố nước ngoài, chỉ căn cứ và tuân theo các quy định của hợp đồng

thương mại truyền thống đồng thời thỏa mãn các yêu cầu của một hợp đồng

điện tử.

- Sự chậm trễ ban hành pháp luật điều chỉnh chưa đáp ứng được yêu

cầu thực tiễn giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

trên điện thoại thông minh. Không chỉ riêng trong lĩnh vực hoạt động thương

59

mại điện tử mà trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác của đời sống kinh tế - xã

hội, công cụ pháp luật điều chỉnh thường có xu thế được ban hành chậm hơn

so với thực tiễn hoạt động đang diễn ra. Cũng có thể lý giải điều này vì chỉ

khi thực tiễn giao kết hợp đồng thương mại điện tử có nhiều phát sinh cả theo

chiều hướng tích cực và tiêu cực, làm nảy sinh nhu cầu pháp luật điều chỉnh

để đạt được mục tiêu quản lý nhà nước nào đó thì khi đó mới “thôi thúc” các

nhà làm luật, ban hành chính sách quản lý. Sự chậm trễ này tạo khoảng trống,

khe hở pháp luật; thời điểm đó, các giao dịch thương mại điện tử sẽ ở trạng

thái tùy nghi, không bị giới hạn bởi các công cụ pháp luật.

Ngoài ra, xét trên phương diện quan điểm, nguyên tắc quản lý thì quy

định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di

động khá tương đồng với quy định quản lý website thương mại điện tử; cơ

quan lập quy chưa xem xét quy định các vấn đề đặc thù liên quan đến phương

tiện giao kết hợp đồng thương mại điện tử - điện thoại thông minh (tính định

danh, tính định vị, tính riêng tư...), hoặc các vấn đề khác liên quan đến phần

mềm ứng dụng thương mại điện tử (nguồn gốc phần mềm, địa chỉ mạng công

bố, tính năng cung cấp thông tin giao dịch với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền...).

- Ý thức chấp hành pháp luật của các bên giao kết hợp đồng thương mại

điện tử còn thấp. Trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử, dù qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh hay dưới các hình thức phương

tiện điện tử khác luôn đòi hỏi các bên tự giác thực hiện các nghĩa vụ đã giao

kết, tự giác chấp hành pháp luật. Tuy nhiên thực tế là các bên thường xuyên vi

phạm nghĩa vụ của mình và cho rằng cũng không ảnh hưởng đến ai; các bên

thường có những vi phạm “vụn vặt” nhưng vô hình chung lại ảnh hưởng đến

môi trường kinh doanh trực tuyến nói chung, tạo tâm lý không tốt.

- Nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân luôn tiềm ẩn. Rõ ràng đã có khá nhiều

60

quy định của pháp luật để bảo vệ thông tin cá nhân, thông tin người tiêu dùng

như Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật An ninh mạng và pháp luật

về thương mại điện tử nhưng thực tế nguy cơ rò rỉ, bị đánh cắp dữ liệu cá

nhân, sử dụng dữ liệu cá nhân sai mục đích vẫn thường xuyên diễn ra. Người

mua, người tiêu dùng không thể biết chắc chắn người bán sau khi thu thập

thông tin cá nhân của mình sẽ làm gì; liệu họ có giữ đúng cam kết bảo mật

thông tin hay không. Chỉ biết rằng, sau khi họ cung cấp thông tin cá nhân

trong giao dịch hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh, họ bắt đầu nhận được những cuộc điện thoại chào

hàng, lời mời sử dụng dịch vụ, mua sắm không mong muốn.

- Tình trạng vi phạm pháp luật trong chào bán hàng hóa giả, hàng hóa

vi phạm sở hữu trí tuệ diễn ra phổ biến. Rất khó kiểm soát được chất lượng,

nguồn gốc xuất xứ hàng hóa chào bán. Mặc dù pháp luật thương mại điện tử

đã có quy định về việc người bán phải niêm yết đầy đủ và rõ ràng thông tin

nguồn gốc xuất xứ, chất lượng hàng hóa nhưng do việc niêm yết chỉ thực hiện

trên môi trường mạng, đơn thuần là các trường thông tin thông điệp dữ liệu

điện tử nên cho dù người bán đã tuân thủ nghĩa vụ niêm yết thông tin nhưng

thực tế khi giao hàng hóa lại là hàng hóa kém chất lượng, hàng giả hoặc hàng

hóa vi phạm sở hữu trí tuệ. Người mua trong quan hệ mua bán qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh có khi là chủ ý mua hàng giả, hàng nhái

để tiết kiệm chi phí mà vẫn thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nhưng cũng có trường

hợp là bị người bán lừa đảo, trái với giao kết hợp đồng ban đầu.

- Trình tự giải quyết tranh chấp theo pháp luật tố tụng chưa phù hợp với

giải quyết tranh chấp trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Các tranh chấp phát sinh trong

giao dịch thương mại điện tử phần lớn có quy mô nhỏ, giá trị giao dịch nhỏ, là

những tranh chấp đơn thuần trong giao kết mua bán, có tính chất không quá

61

phức tạp. Tuy nhiên, khi các bên có tranh chấp phát sinh thì đối chiếu với các

quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại hay

giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự thì lại quá phức tạp, khiến cho các bên

khi bị xâm phạm quyền sẽ e ngại, chần chừ áp dụng. Bởi họ cho rằng thời

gian và chi phí để có thể khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm

quyền giải quyết tranh chấp sẽ lớn hơn rất nhiều so với giá trị thiệt hại mà họ

gặp phải; và họ chấp nhận chịu thiệt hại như điều tất yếu họ gặp khi mua sắm

trực tuyến.

2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn

a) Nguyên nhân khách quan

Một là, hoạt động giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm

ứng dụng trên điện thoại thông minh không bị giới hạn phạm vi hoạt động

theo địa giới hành chính; không bị giới hạn thời gian hoạt động; diễn ra

thường xuyên, liên tục trên môi trường mạng và được thực hiện bởi các hành

vi giao dịch, giao kết điện tử.

Hai là, hoạt động giao kết hợp đồng thương mại điện tử có sự kết hợp

giữa hoạt động giao kết hợp đồng thương mại truyền thống và việc ứng dụng

công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện điện tử, thiết bị số, điện thoại

thông minh nên việc quản lý hoạt động thương mại điện tử phải trên cơ sở

quy định của pháp luật về: thương mại, công nghệ thông tin, giao dịch điện tử,

viễn thông, quảng cáo, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, sở hữu trí tuệ,… và

thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhiều cấp, ngành; quy phạm pháp luật điều

chỉnh trực tiếp hoạt động giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh chưa đầy đủ, chưa đồng bộ.

Ba là, quá trình từ nhận thức sự vận động, phát triển các giao dịch

thương mại điện tử đến thực tiễn xây dựng pháp luật điều chỉnh cần có thời

gian. Nhất là trong lĩnh vực thương mại điện tử, có sự kết hợp và chịu ảnh

62

hưởng rất nhiều từ tốc độ phát triển khoa học công nghệ, công nghệ thông tin.

Bốn là, hành vi vi phạm trong hoạt động giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh là hành vi sử

dụng công nghệ cao, tinh vi, diễn ra rất nhanh chóng, dễ “mất dấu”.

b) Nguyên nhân chủ quan

- Từ phía cơ quan ban hành pháp luật: Nguồn nhân lực chất lượng cao,

có trình độ chuyên môn trong quản lý hoạt động thương mại điện tử, hoạch

định chính sách thương mại điện tử, khả năng lập pháp, lập quy trong lĩnh vực

thương mại điện tử còn thiếu vì để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

thương mại điện tử không chỉ đòi hỏi chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật

mà cần có chuyên môn trong các lĩnh vực: công nghệ thông tin, kinh tế,

thương mại.

- Từ phía các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh: do nhận thức pháp luật

còn hạn chế nên chưa hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình cũng như quy định

của pháp luật cần tuân thủ, chấp hành trong giao dịch thương mại điện tử.

Tiểu kết Chương 2

Sau khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam,

có thể rút ra những kết luận như sau:

Thứ nhất, về cơ bản khung pháp lý điều chỉnh giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh đã

được ban hành; và không chỉ có pháp luật chuyên ngành thương mại điện tử

được quan tâm, ban hành mà còn có sự đồng bộ, kết hợp của các pháp luật

chuyên ngành khác như công nghệ thông tin, giao dịch điện tử, thuế - tài

chính điện tử.

Thứ hai, pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

63

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh ở Việt Nam là cơ sở, động lực góp

phần phát triển hoạt động thương mại điện tử, đưa hình thức thương mại điện

tử trở hành phương thức mua sắm ngày càng phổ biến.

Thứ ba, pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh cần thường xuyên phải được

nghiên cứu, đánh giá, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn thay đổi của khoa

64

học công nghệ, hành vi giao dịch điện tử và thực tế đời sống kinh tế - xã hội.

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ QUA PHẦN MỀM ỨNG DỤNG TRÊN ĐIỆN THOẠI

THÔNG MINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

3.1.1. Tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước

về hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thương mại điện tử nói

riêng

Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh (một chế định của pháp luật về

giao kết hợp đồng) sẽ góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam nói chung, đảm bảo tính thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch nhằm

đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,

đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập

kinh tế quốc tế.

“Phát triển nhanh hệ thống thương mại điện tử” là một trong những

định hướng lớn về phát triển hạ tầng thương mại được nêu tại Nghị quyết số

13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa

nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm

2020. Do vậy, công tác hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh phải thể chế hóa

được chủ trương này. Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử phải

65

tạo được sự công bằng đối với các chủ thể tham gia, phải xử lý nghiêm minh

đối với các hành vi vi phạm, phải có chính sách phát triển hoạt động thương

mại điện tử phù hợp, vừa để tạo lập môi trường kinh doanh trực tuyến cạnh

tranh, vừa để thu hút sự tham gia đông đảo của các thành phần kinh tế, nâng

cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh

tế quốc tế.

3.1.2. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những mặt tích cực và phù hợp của

pháp luật về thương mại điện tử hiện hành; sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ

những quy định không phù hợp; đảm bảo sự đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và

khả thi

Nhận thức trong quá trình xây dựng pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh phải

đảm bảo khách quan, toàn diện, thực tiễn, phát triển, lịch sử - cụ thể. Đồng

thời, việc tổng kết, đánh giá tác động của pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử nói chung cần được tiến hành thường xuyên, định kỳ,

khoa học nhằm tìm ra những quy định tích cực, phù hợp, hỗ trợ các bên tham

gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện

thoại thông minh, tạo lập môi trường kinh doanh trực tuyến cạnh tranh. Đến

quá trình thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử, quá

trình đưa các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi

thực tế của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua

phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh cần phải phát hiện ra những

bất cập, khó khăn, vướng mắc khi triển khai; phát hiện được những quy định

bất hợp lý, bất khả thi; phát hiện những “lỗ hổng” của pháp luật về giao kết

hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông

minh mà các chủ thể tìm cách né tránh trách nhiệm trước pháp luật; phát hiện

được những xung đột giữa quy phạm pháp luật thương mại điện tử với quy

66

phạm của các ngành luật khác. Trên cơ sở đó, tiến hành hoàn thiện pháp luật

về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện

thoại thông minh đảm bảo sự đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và khả thi.

3.1.3. Đảm bảo điều chỉnh, bao quát được các vấn đề phát sinh trong

lĩnh vực thương mại điện tử

Xuất phát từ thực tiễn hoạt động giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh, việc nghiên cứu, đề xuất

xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh phải bao quát

điều chỉnh được mọi quan hệ phát sinh, hành vi giao dịch, giao kết điện tử,

quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại

điện tử, điều kiện về hàng hóa, dịch vụ tham gia giao dịch, hành vi vi phạm,...

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân được Nhà nước trao quyền lập

pháp, lập quy khi nghiên cứu xây dựng pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh phải dự liệu

được những vấn đề mới, có khả năng phát sinh như: sự xuất hiện trào lưu kinh

doanh mới trên môi trường mạng, sự thay đổi khoa học công nghệ, sự phát

triển nhu cầu sử dụng thiết bị di động, điện thoại thông minh trong đời sống

kinh tế xã hội, nhu cầu giao dịch tài sản phi vật chất, tài sản ảo, nhu cầu sử

dụng đồng tiền ảo trong thanh toán thương mại điện tử, sự phát triển kinh

doanh nội dung số, hoạt động logistics điện tử,...

3.1.4. Tham khảo, chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế và đảm bảo phù

hợp, tương thích với các chuẩn mực, nguyên tắc, quy định của pháp luật quốc

tế trong giao dịch điện tử

Với nội dung, cấu trúc cơ bản dựa theo Luật mẫu Thương mại điện tử

của UNCITRAL, pháp luật về thương mại điện tử Việt Nam nói chung và

pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng

67

trên điện thoại thông minh nói riêng đã kế thừa những nguyên tắc, quy định

khung cơ bản điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử. Quá trình phát triển

khoa học công nghệ trên thế giới tất yếu đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về

thương mại điện tử ở từng quốc gia để kịp thời điều chỉnh những sự vật, hiện

tượng phát sinh trong hoạt động thương mại điện tử. Pháp luật về thương mại

điện tử là một bộ phận của pháp luật thương mại quốc tế vì tính chất hoạt

động không biên giới của nó và để phát huy hiệu quả, việc xây dựng pháp luật

về giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện

thoại thông minh phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, cam kết quốc tế,

điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh

3.2.1. Giải pháp chung

- Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Thương mại điện tử. Dự án

Pháp lệnh Thương mại điện tử dựa trên Luật mẫu về Thương mại điện tử của

UNCITRAL mặc dù đã được “thai nghén” nghiên cứu từ giai đoạn 2002 - 2004

nhưng do mức độ quan trọng ở thời điểm đấy nên Quốc hội đã xem xét và

quyết định ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 để quy định về giao dịch

điện tử trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, không chỉ riêng cho

lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, đến nay với tốc độ phát triển thương mại điện

tử trên toàn thế giới rất mạnh mẽ, thể hiện xu thế tất yếu của quá trình phát

triển và đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển kinh tế - xã hội thì rõ ràng

chúng ta cần nhìn nhận nghiêm túc vấn đề và ban hành quy định ở cấp độ luật.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Nghị định mới thay thế

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại

điện tử. Thời điểm ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP thì đối tượng và

phạm vi điều chỉnh của văn bản này tập trung điều chỉnh hoạt động của

68

website thương mại điện tử và các nội dung liên quan đến đặc thù website

thương mại điện tử. Tuy Bộ Công Thương có ban hành Thông tư số

59/2015/TT-BCT quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng

dụng trên thiết bị di động ngày 31/12/2015 nhưng do Nghị định số

52/2013/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể đối với phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh (ứng dụng thương mại điện tử) và hoạt động giao kết

hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông

minh nên việc ban hành Thông tư có hướng dẫn một số quy định ngoài quy

định nêu tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP được xem là “nhạy cảm” bởi

nguyên tắc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “văn bản quy định chi tiết

chỉ được quy định nội dung được giao”.

3.2.2. Giải pháp cụ thể

- Quy định cụ thể về hiệu lực hợp đồng điện tử được giao kết qua phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Mặc dù những quy định về thời

điểm có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định khá đầy đủ, tuy nhiên những

quy định về điều kiện có hiệu lực và hiệu lực ràng buộc của hợp đồng cần

được làm rõ hơn trong những quy định cụ thể. Về điều kiện có hiệu lực của

hợp đồng, yếu tố hình thức hợp đồng điện tử đã được pháp luật công nhận,

nhưng cần làm rõ thêm để những thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó

có thể truy nhập được và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết. Về hiệu

lực ràng buộc của hợp đồng, ngoài chữ ký điện tử thì cũng cần nghiên cứu bổ

sung các quy định về xác thực danh tính điện tử, định danh điện tử nhằm

hướng đến giao dịch thương mại điện tử minh bạch, rõ ràng.

- Quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử

qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Vấn đề giao kết hợp

đồng điện tử nói chung đã được quy định trong Luật Giao dịch điện tử; tuy

nhiên, những quy định này vẫn còn rất sơ sài về giao kết hợp đồng điện tử nói

69

chung và giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên

điện thoại thông minh nói riêng. Chỉ với những quy định này, hàng loạt vấn

đề liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử vẫn chưa rõ ràng, về giá trị đảm

bảo của hợp đồng, hay trong trường hợp người đề nghị giao kết hợp đồng

điện tử đã gửi đi một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử nhưng sau đó lại

muốn thu hồi lại đề nghị đó mặc dù đề nghị giao kết đã gửi đến hệ thống xử lý

dữ liệu điện tử của bên kia, bên kia đã biết nhưng chưa chính thức tiếp nhận

xử lý, vậy quy định có cho phép hủy ngang hay không vì thực tế cũng chưa

làm phát sinh bất kể quyền, hay nghĩa vụ, chi phí gì liên quan đến đối tượng

giao kết hợp đồng.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về việc xác định

nguyên tắc áp dụng và lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, cơ quan tố tụng

có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh; đặc biệt là các

hợp đồng có yếu tố nước ngoài nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của thương mại

điện tử trong phạm vi mỗi quốc gia cũng như để đáp ứng được các yêu cầu

chung mang tính thống nhất trong môi trường kinh doanh trực tuyến.

- Quy định cụ thể quy trình thủ tục giao kết hợp đồng thương mại điện

tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Vì môi trường thương

mại điện tử khá thoải mái cho người dùng Internet, khách hàng có thể thiết lập

đơn hàng qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh, nhưng sau đó

ngay lập tức có thể hủy đi, và thực hiện thao tác đó nhiều lần. Như vậy, sẽ gây

khó khăn cho doanh nghiệp thương mại điện tử. Giả sử với những giao dịch

giao hàng tận nhà, nhưng khi giao đến nơi khách hàng trả lời là đã hủy giao

dịch, thì sẽ gây ra khó khăn và lãng phí cho doanh nghiệp. Hiện nay, có một

số doanh nghiệp đưa ra một số biện pháp như là gọi điện xác nhận với khách

trước khi chuyển hàng, hay quy định giới hạn về việc đặt và hủy đơn hàng,

70

hay quy định về việc đặt cọc hoặc bắt buộc thanh toán trước khi giao hàng...

Những hoạt động thực tiễn này cũng rất đáng cân nhắc, xem xét luật hóa để

đảm bảo quyền lợi cho người kinh doanh chính đáng.

- Quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp, những chế tài xử lý vi phạm

và cơ chế áp dụng chế tài với những vi phạm trong giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Quy định cơ

chế tiếp nhận, chuyển tiếp những thông tin phản ánh vi phạm từ các phần

mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh đến cơ quan nhà nước hữu quan để

giám sát, giải quyết. Quy định cho phép sử dụng thiết bị điện tử (desktop,

laptop, smartphone, tablet) có khả năng chụp hình, ghi hình hành vi vi phạm

pháp luật thương mại điện tử vào danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật

nghiệp vụ được sử dụng trong việc phát hiện vi phạm hành chính.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao kết

hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

thông minh

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức

về pháp luật thương mại điện tử nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh để

các bên hiểu và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình.

Hai là, chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực thương mại điện

tử. Môi trường kinh doanh trực tuyến chỉ trở nên chuyên nghiệp khi được

thực hiện, điều hành bởi những con người chuyên nghiệp. Do đó, phải hết sức

chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thương mại điện tử.

Ba là, tập trung xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại điện

tử: xây dựng hệ thống thanh toán thương mại điện tử quốc gia; xây dựng giải

pháp thẻ thanh toán thương mại điện tử tích hợp; xây dựng hệ thống quản lý

trực tuyến hoạt động vận chuyển cho thương mại điện tử; xây dựng hạ tầng

71

chứng thực chữ ký số cho thương mại điện tử; xây dựng các tiêu chuẩn trao

đổi thông điệp dữ liệu trong thương mại điện tử; xây dựng hệ thống đảm bảo

lòng tin cho hoạt động mua sắm trực tuyến và cơ chế giải quyết tranh chấp

trực tuyến.

Năm là, tăng cường pháp chế trong quản lý hoạt động thương mại điện

tử: nghiên cứu, ban hành thủ tục, trình tự xác định hành vi vi phạm trong giao

kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

thông minh; quy trình đánh giá chứng cứ điện tử trong hoạt động thương mại

điện tử; quy chế phối hợp giữa các lực lượng thực thi pháp luật.

Tiểu kết Chương 3

Qua việc nghiên cứu các nội dung ở Chương 3, có thể rút ra một số kết

luận như sau:

Thứ nhất, xuất phát từ cơ sở lý luận của pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh và thực

tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực này thời gian qua, có thể thấy nhu cầu cấp

thiết cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại

điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh nhằm đáp ứng cho

sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Từ đó, tác

giả đưa ra một số quan điểm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương

mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh.

Thứ hai, cùng với việc đưa ra quan điểm hoàn thiện pháp luật thì tác giả

đề xuất một số giải pháp chung và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về

giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

72

thông minh ở Việt Nam hiện nay.

KẾT LUẬN

Sự phổ biến của thiết bị di động, điện thoại thông minh trong đời sống

xã hội đang từng bước tạo ra những thay đổi đáng kể trong hành vi của con

người. Các lĩnh vực hoạt động được các nhà phát triển, nhà kinh doanh sáng

tạo khai thác triệt để trong việc áp dụng công nghệ từ cuộc Cách mạng công

nghiệp 4.0. Trong thương mại điện tử, nếu như ở giai đoạn trước, máy tính để

bàn (desktop) và máy tính cá nhân (laptop) phát triển đã giúp người dùng truy

nhập website thương mại điện tử dễ dàng, thuận tiện trao đổi mua bán hàng

hóa dịch vụ thì ngày nay và trong tương lai sẽ có sự “soán ngôi” để thay vào

đó là việc người dùng sử dụng các thiết bị di động, điện thoại thông minh

(smartphone) và qua các phần mềm ứng dụng thương mại điện tử (app) được

cài đặt trên thiết bị đó để tương tác với nhau, thực hiện các hành vi giao dịch

mua sắm điện tử; người dùng chỉ với chiếc điện thoại thông minh của mình là

có thể thực hiện được mọi nhu cầu của mình từ mua sắm, thanh toán, liên lạc,

trao đổi, gọi xe... hoàn toàn trực tuyến.

Trước thực tế đó, tất yếu đòi hỏi hệ thống pháp luật phải bắt kịp và có

những quy định điều chỉnh tương ứng. Qua các nội dung nghiên cứu ở trên,

trước tiên tác giả đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về giao kết hợp đồng

thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh. Đây là

nền tảng pháp lý quan trọng để có thể đánh giá và phân tích được thực trạng

pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp

đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh nói

riêng. Đồng thời, với nhận thức của bản thân, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một

số giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này để các cơ quan nhà nước

hữu quan, các học giả nghiên cứu, tham khảo. Hy vọng pháp luật điều chỉnh các

giao kết hợp đồng thương mại điện tử qua phần mềm ứng dụng trên điện thoại

73

thông minh ngày càng trở nên thiết thực và hiệu quả hơn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đinh Thị Lan Anh (2015), Bảo vệ thông tin cá nhân trong thương

mại điện tử theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2015.

2. Trần Văn Biên (2012), Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

3. Bộ Công Thương (2018), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam

năm 2018, Hà Nội.

4. Bộ Thông tin và Truyền thông (2018), Sách trắng Công nghệ thông

tin và Truyền thông Việt Nam, Hà Nội.

5. Diễn đàn Thanh toán điện tử Việt Nam VEPF (2018), Kỷ yếu Diễn

đàn Thanh toán điện tử Việt Nam 2018, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Hà (2012), Chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm

quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử, Tạp chí Tòa án nhân dân

số 4/2012.

7. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2018), Báo cáo Chỉ số

thương mại điện tử Việt Nam năm 2018, Hà Nội.

8. Bùi Bích Liên (2000), Những vấn đề pháp lý về thương mại điện tử ở

Việt Nam, Tạp chí Luật học số 6/2000.

9. Vũ Hoàng Nam (2015), Giao kết hợp đồng trong giao dịch thương

mại điện tử theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học,

2015.

10. Lương Tuấn Nghĩa (2017), Đặc điểm, vai trò của pháp luật thương

mại điện tử và quan điểm hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử trong thời

74

gian tới, Tạp chí Công Thương, số 6 - tháng 5/2017.

11. Tào Thị Quyên và Lương Tuấn Nghĩa (2016), Hoàn thiện pháp luật

về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

12. Mai Chí Tùng (2017), Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại

điện tử ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2017.

13. Lê Văn Thiệp (2016), Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp

trong thương mại điện tử, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2016.

14. Trung tâm Internet Việt Nam (2018), Báo cáo Tài nguyên Internet

Việt Nam năm 2018, Hà Nội.

15. Trường Đại học Ngoại thương (2013), Thương mại điện tử căn bản,

Nxb Bách khoa - Hà Nội, Hà Nội.

II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

16. Arpad Gered (2011), “A” is for Apple, “M” is for Commerce - On

What M-commerce Is and Why It Is Special, New York.

17. ASEAN (2010), The ASEAN E-commerce database project.

18. Chunhui Piao, Xiaoyan Li, Xiao Pan, Changyou Zhang (2016),

User privacy protection for a mobile commerce alliance, Electronic

Commerce Research and Applications, Volume 18, July–August 2016, Pages

58-70.

19. Jiabao Lin, Yaobin Lu, Bin Wang, Kwok Kee Wei (2011), The role

of inter-channel trust transfer in establishing mobile commerce trust,

Electronic Commerce Research and Applications, Volume 10, Issue 6,

November–December 2011, Pages 615-625.

20. Nir Kshetri (2007), Barriers to e-commerce and competitive

business models in developing countries: A case study, Electronic Commerce

Research and Applications, Volume 6, Issue 4, Winter 2007, Pages 443-452.

21. Orit Raphaeli, Anat Goldstein, Lior Fink (2017), Analyzing online

75

consumer behavior in mobile and PC devices: A novel web usage mining

approach, Electronic Commerce Research and Applications, Volume 26,

November–December 2017, Pages 1-12.

22. Philippines (1999), The E-commerce law of the Philippines.

23. Singapore (1998), Electronic Transactions Act of Singapore.

24. Singapore (2000), 2000 e-ASEAN Framework Agreement.

25. Sweden (2010), E-invoicing in cross-border trade.

26. The European parliament and of the council (2000), Electronic

Commerce Directive, Directive 2000/31/EC of The European parliament and

of the council.

27. UNCITRAL (1998), Model Law on Electronic Commerce 1996

with additional article 5 bis as adopted in 1998.

28. UNCITRAL (2007), Electronic Communications in International

Contracts.

29. UNCITRAL (2009), Legal issues on international use of electronic

authentication and signature methods.

30. United States of America (2000), Electronic Signatures in Global

and National Commerce Act - One Hundred Sixth Congress of the United

States of America.

III. LIÊN KẾT TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ:

31. https://news.appota.com/appota-ra-mat-bao-cao-thi-truong-ung-

76

dung-di-dong-viet-nam-nua-dau-2018/ truy nhập ngày 22/7/2019.