VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN HẢI
BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN HẢI
BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế “Bảo vệ cổ đông thiểu số
theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Những kết quả, trích
dẫn và số liệu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cận và trung thực. Nội
dung bài viết này chưa ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về sự cam đoan này.
Tác giả luận văn
Phạm Văn Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU
SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ................................ 7
1.1. Khái quát về cổ đông và cổ đông thiểu số ............................................... 7
1.1.1. Khái niệm về cổ đông ...................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm về cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông ............................ 8
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của cổ đông thiểu số trong quản trị công ty cổ
phần ......................................................................................................... 11
1.1.4. Nhu cầu và bản chất của bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số . 12
1.2. Các phương thức bảo vệ quyền lợi của của cổ đông thiểu số theo pháp
luật Việt Nam. ............................................................................................... 15
1.3. Quy định về các quyền của cổ đông thiểu số ......................................... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VỀ BẢO VỆ
CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM ... 24
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ của cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần tại Việt Nam ......................................................................................... 24
2.1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần tại Việt Nam ......................................................... 24
2.1.2. Thực trạng các phương thức bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ..................................................... 28
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty
cổ phần tại Việt Nam .................................................................................... 41
2.2.1. Các kết quả đạt được ..................................................................... 41
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ....................................... 44
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ .............................................. 54
3.1. Nhu cầu, định hướng nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam. ................................................. 54
3.2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của
cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp tại Việt
Nam. .............................................................................................................. 56
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông thiểu số ............... 57
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ nội bộ đối với cổ đông thiểu số ............ 64
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ bên ngoài đối với cổ đông thiểu số ...... 68
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm quyền cổ đông ...................... 69
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BKS Ban kiểm soát
BCTC Báo cáo tài chính
CĐTS Cổ đông thiểu số
CTCP Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
LDN Luật doanh nghiệp
HĐQT Hội đồng quản trị
GĐ Giám đốc
TGĐ Tổng giám đốc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập,Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt pháp luật về các chủ thể kinh doanh. Chính
hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến không những có những tác động lớn đến hoạt động
đầu tư kinh doanh ở trong nước mà còn vấn đề bảo vệ cổ đông. Ngoài ra, Việt Nam
phải cam kết thực hiện những thông lệ quốc tế, chấp nhận cạnh tranh quốc tế, mở
cửa cho thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi theo
nguyên tắc đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
dưới các hình thức khác nhau. Muốn như vậy, thì chúng ta phải cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, trong đó việc tăng cường các cơ chế biện pháp bảo vệ nhà đầu
tư, các cổ đông là thiết yếu.
Cổ đông thiểu số thường chiếm số lượng lớn và thậm chí trong nhiều công
ty, đặc biệt là các công ty đại chúng có thể có đến hàng ngàn CĐTS và tổng vốn cổ
phần của họ cũng thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ. Nói cách khác, một
khi tập hợp được đa số cổ đông nhỏ, cũng có thể tạo được một nguồn vốn lớn góp
phần vào công ty cổ phần. Nên trong những năm qua, có sự xảy ra tình trạng các
ĐHĐCĐ thường niên tổ chức không thành công nhiều đợt trong nhiều năm, đơn cử
là trường hợp tranh chấp của các cổ đông của Ngân hàng Exim Bank dẫn đến nhiều
lần phải huỷ các cuộc họp ĐHĐCĐ hoặc sự mua bán chuyển nhượng cổ phần của
các cổ đông lớn và nhỏ như ở Sacombank, Sabeco, Vinaconex cũng gây nhiều lãng
phí và tranh chấp xảy ra kéo dài.
Hơn nữa việc quản lý công ty cổ phần thường chịu tác động từ phía các cổ
đông lớn, mặc dù họ có tỷ lệ vốn góp chưa chắc đã cao và quyết định. Tuy nhiên,
thực tế hoạt động của các công ty cổ phần cho thấy, đã có những trường hợp xãy ra
như cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, không ít HĐQT và Ban GĐ thể hiện lộng
quyền trong vai trò quản lý công ty, xuất hiện trường hợp cổ đông có quyền kiểm
soát thông tin, điều hành có sự áp đảo CĐTS; trong khi đó ý thức bảo vệ quyền và
nghĩa vụ của các CĐTS còn thấp. Ngoài ra, thị trường chứng khoán là một kênh
1
không thể thiếu cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư và đang trên đà phát triển vì vậy
để phát triển thì vấn đề thiết lập, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên
quan để bảo vệ tốt quyền và đảm bảo tính cạnh tranh, hấp dẫn cũng như lợi ích của
các nhà đầu tư cổ phần là cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo vệ cổ đông thiểu số
theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để tìm hiểu các quy định của
pháp luật hiện hành, thực trạng áp dụng về quyền và nghĩa vụ của CĐTS trong các
công ty cổ phần trong thời gian qua. Đồng thời, từ đó rút ra một số bất cập trong
quy định của pháp luật, có đề xuất một số hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
CĐTS trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần là một nội dung trong pháp luật về
các chủ thể kinh doanh và pháp luật thương mại, được nhiều nhà khoa học, các nhà
doanh nghiệp nghiên cứu trong thời gian qua. Thông thường, các nhà nghiên cứu
khác nhau sẽ có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, tại
từng thời điểm nghiên cứu sẽ có những nhận định khác nhau là điều không thể tránh
khỏi. Nhiều công trình đã xuất bản như: Sách, luận văn, báo, đề tài khoa học cấp
bộ, ngành, nhiều bài báo, tạp chí có đề cập đến nội dung nghiên cứu. Nhận thấy tầm
quan trọng của nó trong tình hình quản trị các doanh nghiệp và định hướng phát
triển kinh tế thị trường của đất nước, trong khả năng của người viết đã sưu tầm và
xin đề cập một vài nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Quách Thuý Quỳnh, 2010, “Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí luật học, Hà Nội. Bài viết đưa ra hai luận điểm chính: thứ nhất, bảo
vệ quyền lợi CĐTS, đây là vấn đề quan trọng trong việc quản trị công ty trong các
nền kinh tế chuyển đổi; thứ hai, quyền cổ đông , một phương tiện và cơ sở pháp luật
để bảo vệ CĐTS. Từ đó đã đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường
bảo vệ CĐTS theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam..
- Đỗ Thái Hán, 2012,“Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Trình bày những
vấn đề về quyền của cổ đông, sự cần thiết phải bảo vệ CĐTS, cơ chế bảo vệ CĐTS
2
và so sánh pháp luật một số nước trên thế giới với các nội dung nghiên cứu: thực
trạng bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần, thực tiễn quản lý và điều hành công ty cổ
phần, bảo vệ CĐTS ở một số nước như Nhật Bản, Pháp, Mỹ.. từ đó rút ra những
quan điểm và đề xuất một số nghiên cứu để áp dụng cho Việt Nam, giải pháp và
kiến nghị.
- Nguyễn Thị Thu Hương, 2015,“Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội,
Việt Nam. Luận án nghiên cứu về sâu về quan điểm và nhu cầu bảo vệ CĐTS,
thông qua đó góp phần làm rõ nhận thức về bảo vệ CĐTS; làm rõ vai trò về việc
bảo vệ CĐTS và các yêu cầu đối với pháp luật về bảo vệ CĐTS, những yếu tố tác
động đến pháp luật về bảo vệ CĐTS đối với công ty cổ phần, từ đó đề ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ CĐTS.
- Đỗ Quang Minh, 2018, “Bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện
Khoa học Xã hội, Việt Nam. Luận văn gồm 03 chương bao quát về: Những lý luận
về quyền cổ đông và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP; Đánh giá
thực trạng bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP từ đó xây dựng phương hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong
CTCP trong thời gian sắp tới.
- Phan Hoàng Ngọc, 2018,“Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số công ty cổ
phần ở Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Nhật bản và Hoa kỳ”, Luận án Tiến Sĩ
Luật, Học viện Khoa Học Xã hội, Việt Nam. Luận án khái quát về lý luận cơ bản về
bảo vệ CĐTS; phân tích và đánh giá pháp luật bảo vệ CĐTS, có liệt kê và đối chiếu
làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt với pháp luật của Nhật Bản và Hoa Kỳ,
từ đó rút ra những khuyến nghị để tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ CĐTS.
Ngoài ra những cuốn sách rất ý nghĩa đã mang đến nhiều kiến thức bổ ích
cho việc nghiên cứu công ty cổ phần tại Việt Nam
- PGS.TS Bùi Xuân Hải và Nhóm biên soạn (2017), “Giáo trình Pháp luật về
chủ thể kinh doanh”, Nhà xuất bản Hồng Đức.
3
- Bùi Thị Hằng Nga và nhóm biên soạn (2018), “Pháp luật doanh nghiệp:
quy định và tình huống”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM.
Những công trình trên đã có những đóng góp cơ bản cho khoa học pháp lý
Việt Nam đối với việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần. Tác giả luận văn kế
thừa những đóng góp khoa học đó, từ đó bổ sung thêm kiến thức khoa học pháp lý
kết hợp với tư duy nhận thức, kiến thức và thực tiễn để có thể hoàn thiện và viết
luận văn đạt chất lượng cao nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận pháp luật và thực trạng trong việc bảo vệ CĐTS theo
LDN, rút ra một số định hướng từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ CĐTS theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm thực hiện và hoàn thiện các mục đích trên, luận văn giải quyết các vấn
đề sau:
Nghiên cứu lý luận về quyền và nghĩa vụ cổ đông thiểu trong công ty cổ
phần.
Phân tích các quy định cũng như thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện
hành điều chỉnh về bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật để bảo vệ CĐTS trong
công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp cao học, người viết tập
trung vào việc phân tích LDN 2014 về các vấn đề cơ bản về CĐTS, quy định pháp
luật về bảo vệ CĐTS hiện nay, cơ chế bảo vệ CĐTS, giải pháp và kiến nghị về bảo
vệ CĐTS trong CTCP ở Việt Nam.
Luận văn không đề cập đến khía cạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
hoặc cổ đông với tư cách là người nắm giữ các loại chứng khoán khác như: trái
phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư; các loại chứng khoán khác. Không nghiên cứu toàn bộ
4
các quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông của công ty, mà chỉ tập trung vào nghiên
cứu khía cạnh pháp luật về bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin gồm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là nghiên cứu lý luận chung về Nhà
nước và Pháp Luật. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp để xem xét một cách
toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
- Phương pháp logic, phương pháp lịch sử: phương pháp này sử dụng chủ
yếu ở chương 1 nhằm phân tích quá trình phát triển để hình thành loại hình công ty
cổ phần tại Việt Nam. Làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận về vấn đề cổ đông, bảo
vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích luật viết: tập trung nghiên cứu những quy
định của pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền của cổ đông và CĐTS. Trên cơ
sở phân tích kết hợp với thực tiễn trong quá trình thực hiện trong thời gian qua liên
quan đến vấn đề bảo vệ CĐTS tại các công ty cổ phần ở Việt Nam.
- Phương pháp quy nạp, diễn dịch: chủ yếu được sử dụng ở chương 3 với
mục đích đánh giá các quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài, đánh giá tình
hình chung của cả nước cũng như nêu lên những thực trạng về vấn đề bảo vệ CĐTS.
Qua đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ cổ đông thiểu số.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở lý luận, tài liệu tham khảo cho
các công trình nghiên cứu có những nội dung có liên quan, cho các cơ quan quản lý,
các cổ đông và những người quản trị, điều hành công ty.
Những phân tích thực tiễn, kiến nghị những giải pháp trong luận văn sẽ là
định hướng và góp phần bổ sung các quan điểm lý luận khi các nhà làm luật hoàn
thiện pháp luật về góp vốn thành lập CTCP tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương chưa bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo theo quy định, kếu cấu như sau:
5
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền cổ đông và sự cần thiết bảo vệ
quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công ty
- Chương 2: Thực trạng pháp luật doanh nghiệp về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông
thiểu số
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO
PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Khái quát về cổ đông và cổ đông thiểu số
1.1.1. Khái niệm về cổ đông
Theo khoản 2 Điều 3 LDN 2014 “cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu ít
nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Cổ phần chính là vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau, cũng chính là phần vốn nhỏ nhất của CTCP.
Theo quy định LDN 2014, tư cách cổ đông của tổ chức, cá nhân có thể được
xác lập trong các trường hợp sau: đăng ký mua cổ phần tại thời điểm đăng ký thành
lập doanh nghiệp; mua cổ phần do công ty chào bán trong phạm vi cổ phần được
quyền chào bán; nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ đông của công ty; thừa kế cổ
phần thuộc di sản của người để lại thừa kế; được cổ đông của công ty tặng cho; mua
cổ phần được bán đấu giá để thi hành án.
Tại Việt Nam, pháp luật không có quan niệm và công nhận về CTCP có một
cổ đông. Nhưng trên thực tế hoạt động của một số CTCP thì có loại hình CTCP chỉ
có một cổ đông chi phối hoặc biến tướng để phù hợp khi đăng ký thành lập nhưng
thực tế hoạt động điều hành chỉ có một cổ đông. Trong giáo trình Luật thương mại
của PGS.TS Ngô Huy Cương, “cũng có khái quát về pháp luật nhiều nước trên thế
giới có thừa nhận và điều tiết Công ty cổ phần một thành viên” [6, tr.229]. Tại
Điểm b, Khoản 1 Điều 110 LDN 2014 quy định “trong Công ty cổ phần bắt buộc
phải có tối thiểu 03 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa.”.
Mọi CTCP đều phải lập sổ đăng ký cổ đông theo quy định, sổ đăng ký cổ
đông có thể là văn bản, tập dữ liệu điện tử hoặc cả hai loại này. Phải được lưu trữ tại
trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc trung tâm lưu ý chứng khoán. Cổ đông được
quyền kiểm tra, tra cứu, trích lục, sao chép nội dung sổ đăng ký cổ đông. Việc quy
định sổ cổ đông và cách thức quản lý sổ cổ đông và thông tin trao đổi được quy
định tại Khoản 2 Điều 121 LDN2014.
7
Tuỳ theo cách phân loại theo quyền và nghĩa vụ gắn liền với loại cổ phiếu
mà cổ đông sở hữu, cổ đông được phân thành như sau: cổ đông sáng lập, cổ đông
phổ thông và cổ đông ưu đãi.
Tuỳ theo tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ trong một công ty, cổ đông được
phân loại thành:
- Cổ đông lớn: do điều lệ công ty cổ phần quy định tỷ lệ để được coi là cổ
đông lớn trên cơ sở pháp luật hiện hành. Theo Điều 2, Thông tư số 155/2015/TT-
BTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán quy định “cổ
đông lớn là nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu đang lưu
hành có quyền biểu quyết của công ty đại chúng; nhà đầu tư sở hữu từ 5% trở lên
chứng chỉ quỹ của quỹ đóng; cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế chuyển
nhượng của công ty đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; thành viên
sáng lập của quỹ đại chúng”.
- Cổ đông nhỏ: Như đề cập định nghĩa về cổ đông lớn, thì có thể hiểu “cổ
đông nhỏ là những cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp dưới 5% số cổ phiếu có
quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”.
Căn cứ vào khả năng chi phối của công ty, cổ đông được chia thành 02 loại:
Cổ đông đa số và CĐTS.
1.1.2. Khái niệm về cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông
CĐTS là khái niệm trên thực tế còn tồn tại rất nhiều tên gọi khác nhau và có
nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất như sau:
Quan điểm thứ nhất khái niệm CĐTS dựa trên khái niệm của cổ đông lớn.
Trong khi Luật doanh nghiệp không định nghĩa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, thì
Hiện nay có văn bản luật trực tiếp quy định về cổ đông lớn đó là Luật các tổ chức
tín dụng 2010. Khoản 26 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 khái niệm“cổ đông
lớn của tổ chức tín dụng cổ phần là cổ đông sở hữu trực tiếp gián tiếp từ 5% vốn cổ
phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng cổ phần”. Như vậy, Luật đưa
ra một tỷ lệ là 5% để phân ranh giới giữa cổ đông lớn và loại cổ đông còn lại trong
CTCP, vì vậy có thể khái quát rằng cổ đông nhỏ hay còn gọi là CĐTS là cổ đông sở
8
hữu dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết. Cách đề cập như trên là chưa hợp lý
bởi vì những tỷ lệ này chưa đủ phản ánh bản chất của CĐTS, mà tỷ lệ này được quy
định nhằm mục đích để ghi nhận các quyền lợi cho cổ đông lớn.
Quan điểm thứ hai cho rằng loại hình CTCP là loại công ty đối vốn, nên một
khi cổ đông góp nhiều vốn (cổ phần) thì sẽ có nhiều quyền hơn so với các cổ đông
khác và ngược lại. Nên từ đó hiểu rằng, CĐTS là những cổ đông sở hữu một tỷ lệ
phần trăm tương đối nhỏ cổ phần có quyền biểu quyết trong CTCP. Cách tiếp cận
này cũng có lý nhưng chưa đầy đủ, vì có những trường hợp các CĐTS tập hợp lại
thành nhóm cổ đông, đạt được một mức chi phối thì có thể chi phối được công ty,
trong khi đó các cổ đông được coi là cổ đông lớn lại có thể bị lép với bởi nhóm cổ
đông này. Ví dụ trong trường hợp có 40 cổ đông, trong đó có 01 cổ đông sở hữu
22% cổ phần của công ty và 39 cổ đông còn lại mỗi cổ đông sở hữu 2% cổ phần
công ty. Thông thường cổ đông có tỷ lệ cổ phần sở hữu đạt 22% thì được xem là cổ
đông lớn. Và cổ đông nắm giữ 2% là cổ đông nhỏ, các cổ đông này tập hợp lại cổ
phần của mình, tạo thành nhóm cổ đông sở hữu 78% cổ phần công ty thì cổ đông sở
hữu 22% cổ phần trong công ty lại ở vào vị trí CĐTS do bị hạn chế về khả năng chi
phối các quyền điều hành và định đoạt trong công ty.
Quan điểm thứ ba, theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Hải
(2018) trong cuốn giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh định nghĩa “Cổ đông
thiểu số dựa trên cả hai yếu tố quan trọng: thứ nhất, là phần vốn góp của họ (tỷ lệ
phần trăm có quyền biểu quyết) hay phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ của
công ty. Thứ hai là khả năng trong việc tác động và chi phối đến các vấn đề quan
trọng cũng như có quyền biểu quyết thông qua các vấn đề được đưa ra tại Đại hội
đồng cổ đông”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2015) “nếu tỷ lệ cổ phần
của cổ đông mà không quyết định và kiểm soát công ty thì bản thân số lượng cổ
phần không thể nói lên được vị trí của cổ đông là cổ đông thiểu số hay cổ đông đa
số” hay theo như Luật sư Nguyễn Ngọc Bích và Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung trong
trang 349 sách Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005 thì
9
cho rằng “được gọi là cổ đông ít vốn hay nhiều vốn là khi phải nói đến số lượng tiền
họ bỏ ra thực tế để góp vốn vào công ty và gọi là đa số hay thiểu số là khi họ thực
thi và khả năng thực hiện quyền biểu quyết”.
Từ những phân tích và nhận định trên, cho thấy việc xác định CĐTS nên
theo hướng mở tuỳ thuộc cơ cấu cổ đông từng doanh nghiệp, theo đó khi nhận định
CĐTS không nên chỉ căn cứ vào việc ấn định tỷ lệ sở hữu vốn cụ thể mà cần phải
xem xét khả năng chi phối của cổ đông trong việc thực hiện quyền điều hành công
ty. Nói một cách khác, CĐTS nên được hiểu và xác định chính xác tuỳ thuộc vào cơ
cấu sở hữu thực tế trong mỗi CTCP. Theo thông lệ quốc tế về quản trị công ty tốt
thì được xem là CĐTS (minority shareholders) khi mà cổ đông/nhóm cổ đông đó
không có quyền biểu quyết hoặc nắm tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết dưới 50%,
do quy định tại luật pháp đa số các nước tiên tiến là các Nghị quyết ĐHCĐ được
thông qua khi có số cổ phần có quyền biểu quyết chỉ cần từ 51% trở lên là hợp
pháp.
Thực tế cho thấy tỷ lệ phần vốn góp mà cổ đông nắm giữ quyết định khả
năng tham gia vào quá trình quản lý, kiểm soát CTCP. Theo đó, các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần càng cao thì khả năng chi phối các vấn đề lớn
của công ty càng lớn và ngược lại. CĐTS với số vốn góp hạn chế sẽ gặp phải không
ít những bất lợi khi thực hiện quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng trong công ty,
để tự bảo vệ mình những CĐTS có tiếng nói chung có thể tập hợp lại, thông qua
nhóm cổ đông thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép. Về nhóm cổ đông, luật
quy định rõ tại Khoản 2 Điều 114 LDN như sau: “ Nhóm cổ đông là một tập hợp
các cổ đông thiểu số sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời
hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công
ty”. Nhóm cổ đông được hình thành một cách đơn giản và linh hoạnh như: chỉ cần
có từ hai cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa, khi tập hợp lại sở hữu ít nhất
10% tổng số cổ phần hoặc ít hơn theo Điều lệ công ty quy định, sở hữu cổ phần đó
liên tục ít nhất là 06 tháng. Nhờ đó, cổ đông tự mình hoặc được gộp các cổ đông
nhỏ lẻ thành nhóm cổ đông để thực hiện quyền đề cử, bầu, bổ nhiệm, miễn hội đồng
10
quản trị (HĐQT), ban kiểm soát (BKS); quyền triệu tập họp đại hội đồng cổ đông
(ĐHĐCĐ)…, những quy định này mang ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
các biện pháp để bảo vệ CĐTS.
Trên cơ sở quan điểm về các quy định, phân tích trên về CĐTS và Nhóm cổ
đông. Tác giả đề xuất khái quát khái niệm CĐTS như sau: CĐTS còn gọi là cổ đông
nhỏ là cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong CTCP, không có khả năng chi
phối, kiểm soát hoạt động của công ty một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của cổ đông thiểu số trong quản trị công ty cổ
phần
CĐTS cũng là cổ đông phổ thông, do đó, quyền và nghĩa vụ của CĐTS cũng
giống như cổ đông phổ thông. Ngoài các quyền của cổ đông phổ thông, CĐTS còn
có những quyền rất đặc thù để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cổ đông lớn đầy
quyền lực, như quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 114 LDN 2014. Về cơ bản, kế thừa
và tiếp thu các ý kiến sau khi vận dụng LDN 2005, LDN 2014 đã xây dựng thêm
một cơ chế để bảo vệ các CĐTS, vốn luôn là những nhóm có quyền và nghĩa vụ bé
nhỏ trong CTCP, bởi họ ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các cổ
đông lớn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật này đã xảy ra
nhiều vấn đề cho những nhà làm luật tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định
của pháp luật. Thông qua đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CĐTS bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình cũng có một cơ sở và cấu trúc hoàn chỉnh trong quản trị để
chính CTCP có thể hoạt động thuận lợi và hội nhập hơn.
LDN 2005 cũng như LDN 2014 gần như không có quy định nào liên quan
đến khái niệm cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn, ngoại trừ một lần nhắc đến cụm từ “cổ
đông lớn”. Luật không quy định về CĐTS và cổ đông đa số, nhưng có thể coi cổ
đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu số cổ phần mà trong ĐHĐCĐ không đạt tỷ lệ biểu
quyết cần thiết để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ là CĐTS. Như vậy, cổ đông
nhỏ và nhiều cổ đông lớn, thậm chí sở hữu tới 49% số cổ phần vẫn có thể thuộc vào
nhóm CĐTS, đây là đặc điểm để nhận biết CĐTS.
11
Về vai trò, cổ đông đa số hay CĐTS cũng đều phát sinh các vấn đề tương tự
nhau, trong đó có việc tranh chấp các vấn đề liên quan đến quyền lợi trong nội bộ
công ty. Chính vì vậy, cả LDN 2005 và LDN mới năm 2014 đều quy định, nguyên
tắc giải quyết tranh chấp nội bộ là một trong những vấn đề quan trọng bắt buộc phải
có trong Điều lệ của công ty.
Tuy nhiên, từ “tranh chấp” chỉ xuất hiện rất ít trong LDN 2014, chẳng hạn,
quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 120 về “Cổ phiếu”, LDN 2014: Cổ đông phải
“chịu trách nhiệm về những tranh chấp phát sinh từ việc cấp lại cổ phiếu mới”
trong trường hợp đề nghị công ty cấp lại cổ phiếu mới, nếu bị mất, bị huỷ hoại hoặc
hư hỏng khác. Nhưng, Luật lại có nhiều quy định khác xử lý vấn đề tranh chấp nội
bộ công ty, trong đó có việc khởi kiện đối với người quản lý công ty.
1.1.4. Nhu cầu và bản chất của bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, bảo vệ có nghĩa là: chống lại mọi sự hủy hoại,
xâm phạm để giữ gìn cho được nguyên vẹn; bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý kiến
hay quan điểm; bảo vệ quyền lợi có nghĩa là bảo vệ các lợi ích được hưởng, mà
người khác không được xâm phạm đến. Do vậy, bảo vệ quyền lợi CĐTS trong
CTCP được hiểu là: hoạt động pháp lý được thực hiện bởi những chủ thể có nghĩa
vụ bảo vệ các lợi ích được hưởng của CĐTS trong CTCP nhằm phòng ngừa, trừng
trị hành vi vi phạm quyền của CĐTS, đồng thời phục hồi những quyền đã bị hạn
chế, tước bỏ bởi hành vi vi phạm quyền của CĐTS.
Bảo vệ CĐTS là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của pháp
luật CTCP. CĐTS thường chiếm số lượng lớn và thậm chí nhiều công ty đặc biệt
trong các công ty đại chúng có CĐTS lên đến hàng ngàn người và tổng vốn cổ phần
của họ cũng thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ. Nói cách khác, một khi tập
hợp được lại các cổ đông nhỏ thì cũng có thể tạo một nguồn vớn lớn góp vào CTCP,
chứ để từng cổ đông nhỏ riêng lẽ sẽ không có tiếng nói trong CTCP. Cho nên, thông
thường việc quản lý CTCP lại thường chịu tác động từ các cổ đông lớn, trong khi
chúng chưa chắc có một tỷ lệ vốn cổ phần cao. Như vậy, việc bảo vệ quyền lợi của
các cổ đông nhỏ sẽ tạo ra một sự phát triển bền vững trong mộ hình quản trị CTCP,
12
bởi nó sẽ đảm bảo tính cạnh tranh, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cổ phần. Tuy
- Cổ đông lớn chèn ép CĐTS: bảo vệ cả cổ đông lớn và CĐTS là phù hợp với
nhiên, thực tế trên thị trường có những trường hợp xảy ra như sau:
tinh thần của pháp luật doanh nghiệp, mọi cổ đông đều có quyền được đối xử công
bằng. Trong một công ty đối vốn như công ty cổ phần, cổ đông lớn với số lượng cổ
phần mà họ nắm giữ đã được pháp luật bảo vệ rất nhiều, ưu thế về vốn giúp họ
không chỉ tự bảo vệ quyền lợi của mình mà còn có thể dễ dàng chi phối công ty,
trục lợi thông tin, cá nhân, đẩy thiệt hại cho CĐTS. Nếu quyền lợi của CĐTS không
bị xâm phạm và bị xem thường từ thì sẽ không nêu ra vấn đề bảo vệ CĐTS. Lý do
khiến cổ đông lớn lạm quyền, xâm phạm quyền lợi của CĐTS chủ yếu là vì mục
đích tư lợi. Thực tế cho thấy các cổ đông lớn có những quyền lợi, tìm cách thâm
tóm công ty để dành quyền quản lý, từ đó không khó để họ thực hiện điều chèn ép
CĐTS bởi họ có trong tay sức mạnh quyền lực. Các CĐTS dù có biết mình bị xâm
phạm, nhưng do thời gian, thông tin tiếp cận khó nên phần lớn vẫn phải cam chịu
chấp nhận. Các thủ đoạn, cách thức mà cổ đông lớn hay dùng trong việc lấn quyền
phổ biến là việc cổ đông lớn trực tiếp điều hành công ty với quyền kiểm soát
HĐQT, thậm chí cả Ban giám đốc nên thông qua HĐQT bành trướng quyền lực,
xây dựng những quyết định có lợi cho mình tước bỏ quyền CĐTS hoặc lợi dụng
quyền hạn của mình và sử dụng các thông tin của công ty để thực hiện tối đa các
giao dịch tư lợi, chiếm đoạt tài sản của công ty.
- Sự lộng quyền của HĐQT, Ban giám đốc trong vai trò quản lý, thực tế rất
nhiều công ty không có sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý là một dấu hiệu đặc
trưng của CTCP. Chính vì vậy, có những người được làm quản lý công ty rồi có
những hành động cá nhân mà không vì mục tiêu tối đa hóa của cải cho các cổ đông.
- Sự áp đảo của cổ đông có quyền kiểm soát thông tin, điều hành với CĐTS
trong CTCP, họ có quyền để giữ tài sản với số vốn đã góp vào công ty và lòng tham
nổi lên. Do vậy, về mặt lý thì các cổ đông góp nhiều vốn sẽ có nhiều ưu thế hơn
trong việc ứng cử và tham gia quản lý, từ đó quản lý được phần vốn của mình một
cách chính đáng và trục lợi phần vốn của các cổ đông nhỏ, gây ra bất công cho
13
những cổ đông nhỏ khi mà quyền của họ không được chính những người quản lý
bảo vệ.
- Ngoài ra ý thức tinh thần tham gia đầu tư góp vốn theo kiểu đám đông, nên
ý thức tự bảo vệ chính mình của CĐTS ở Việt Nam còn thấp. CĐTS thường không
hiểu biết hoặc ít hiểu biết về các quy định pháp luật hiện hành. Đa số họ xuất phát
từ nhiều thành phần khác nhau, vì vậy có trình độ, nhận thức, kiến thức, phương
thức đầu tư chủ yếu quan tâm đến khoản lời. Họ chỉ quan tâm đến việc tăng giá, giá
giá trị cổ phiếu hằng ngày, không quan tâm đến những nguy cơ gây thất thoát trong
vấn đề quản trị doanh nghiệp đó. Trong khi đó, các cổ đông lớn có thể biết nhau nên
họ gắn kết và liên minh dễ dàng để có thể kiểm soát công ty, từ đó có những xâm
hại đến lợi ích chung của định hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như lợi ích
của các CĐTS.
Ngoài ra, sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của CĐTS nói chung và cổ đông nói
riêng xét theo khía cạnh mục đích hoạt động của công ty: Các cổ đông với vai trò là
chủ sở hữu công ty sẽ được bảo đảm bảo lợi ích tốt nhất, công ty cũng có trách
nhiệm bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của những chủ thể có có liên quan khác như
khách hàng, ngân hàng, nhân viên và đối tác của công ty.
Vì vậy có thể nói rằng, bản chất của việc bảo vệ CĐTS là:
- Đối với nhà đầu tư: Đảm bảo quyền lợi của các CĐTS, các CĐTS khi tham
gia góp vốn vào công ty cổ phần mà được bảo vệ thì sẽ có quyền lợi. Việc pháp luật
bảo vệ CĐTS sẽ giúp các nhà đầu tư có thể thực hiện được các quyền có cơ sở hơn.
Ngoài ra tránh được sự chèn ép, đối xử không công bằng của các cổ đông lớn, và
cuối cùng là nhận được quyền lợi công bằng của các cổ đông lớn và xứng đáng với
số vốn mình bỏ ra.
- Đối với công ty cổ phần: Khi bảo vệ quyền lợi CĐTS, thì sẽ khuyến khích
nhà đầu tư tin tưởng bỏ vốn thêm khi công ty có nhu cầu huy động. Cũng như các
CĐTS sẽ giữ đầu tư dài hạn, tạo sự bền vững trong phát triển của công ty và thị
trường chứng khoán nếu công ty lên sàn chứng khoán. Bảo vệ CĐTS, giúp nhà đầu
tư tin tưởng, lựa chọn tham gia góp vốn thay vì công ty phải đi vay ngân hàng,
14
chính sự minh bạch có thể phát huy giá trị của công ty thông qua kêu gọi góp vốn..
- Đối với quốc gia: Bảo vệ CĐTS sẽ làm cho môi trường đầu tư vốn được
minh bạch, lành mạnh từ đó thu hút đầu tư trong và ngoài nước, giúp tăng trưởng
kinh tế bền vững. Muốn phát triển kinh tế thì cần phải có chính sách thu hút nguồn
vốn nhàn rỗi từ xã hội và các nhà đầu tư. Vì vậy việc xây dựng một cơ chế pháp lý
hoàn chỉnh trong việc bảo vệ CĐTS không chỉ giữ được chân các nhà đầu tư trong
nước mà lựa chọn đầu tư tại Việt Nam mà còn ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường vốn của chúng ta.
Vì vậy, có thể thấy trên phương diện bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đặc biệt
là CĐTS, pháp luật cần phải bảo vệ cổ đông qua các cơ chế hay phương thức bảo
đảm vì lợi ích tốt nhất và công bằng để có quyền lợi cho cổ đông.
1.2. Các phương thức bảo vệ quyền lợi của của cổ đông thiểu số theo
pháp luật Việt Nam.
Ở Việt Nam, cơ chế tự bảo vệ CĐTS bao gồm 03 phương thức như sau:
- Cơ chế tự vệ của cổ đông (thông qua quyền)
Cơ chế tự vệ của cổ đông là dựa trên quyền của chính mình để CĐTS tự bảo
vệ quyền lợi bằng các quy định mà pháp luật trao quyền cho họ, đó chính là các quy
định về quyền của cổ đông. Theo tiến sĩ Quách Thuý Quỳnh“quyền của cổ đông
chính là công cụ duy nhất mà cổ đông có thể tự mình sử dụng để thực quyền và đảm
bảo quyền cho mình”. Mỗi loại cổ đông có một quy khái niệm, đặc trưng và được
pháp luật xây dựng một quy định riêng biệt., LDN 2014 có phân ra các loại cổ đông
khác nhau căn cứ vào việc nắm giữ: cổ đông phổ thông; cổ đông ưu đãi. Trong cổ
đông ưu đãi thì có cổ đông có quyền biểu quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu
đãi hoàn lại và cổ đông có ưu đãi khác theo điều lệ công ty.
Bên cạnh hình thức để bảo vệ: các CĐTS có quyền tham gia trực tiếp; thông
qua đại diện theo uỷ quyền, hình thức khác do pháp luật, điều lệ công ty quy định.
LDN chưa có hướng dẫn làm rõ “Các hình thức khác” sẽ áp dụng như thế nào,
nhưng quy định này đã trao quyền chủ động cho các doanh nghiệp trong việc tổ
chức họp ĐHĐCĐ, bảo đảm các quyền và lợi ích của toàn bộ các cổ đông.
15
Về tỷ lệ quy định đối với điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và tỷ
lệ biểu quyết thông qua tại Đại hội đồng cổ đông được triển khai theo hướng bảo vệ
tiếng nói của CĐTS, cụ thể như sau:
Theo khoản 1 và 2 Điều 141 LDN năm 2014, điều kiện tiến hành họp
ĐHĐCĐ lần lượt với các tỷ lệ tương ứng với lần thứ nhất, lần thứ hai là 51%, 33%
và lần thứ ba giữ nguyên không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ
đông dự họp. Việc quy định tỷ lệ theo LDN 2014 rõ ràng tạo điều kiện cho các
CĐTS thực hiện quyền tiến hành họp ĐHĐCĐ được dễ dàng hơn.
Điều kiện thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ trong LDN 2014 là 51% và
65%. Quy định này cho thấy quyền của CĐTS được nâng cao, khi đã đủ điều kiện
tiến hành họp ĐHĐCĐ, thì có thể dễ dàng quyết định các vấn đề lớn của công ty.
- Cơ chế bảo vệ bên trong (cơ chế tổ chức nội bộ để bảo vệ cổ đông thiểu số)
Được hiểu là CĐTS được bảo vệ bởi các chủ thể bên trong CTCP như Đại
hội đồng cổ đông, thành viên HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ.
Để bảo vệ quyền của cổ đông, ĐHĐCĐ phải có hiệu quả, LDN 2014 đã quy
định cụ thể về thủ tục, trình tự tiến hành họp ĐHĐCĐ, trách nhiệm thông báo, báo
cáo thông tin cho các tổ chức trước cuộc họp, quyền của các cổ đông đưa ra các vấn
đề bàn bạc tại cuộc họp, thủ tục bỏ phiếu,… Việc quy định ngày càng cụ thể, chi
tiết, rõ ràng cho thấy LDN 2014 đã mang lại một bước tiến dài trong vấn đề bảo vệ
CĐTS ở Việt Nam.
Các quyền và nghĩa vụ của HĐQT theo LDN 2014 không thay đổi so với
LDN 2005 trừ quy định: HĐQT có quyền “thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho
vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được
ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty…”. Mặc dù quy định này giảm đi
quyền của HĐQT nhưng về cơ bản trong quan hệ pháp luật về bảo vệ CĐTS , thì
quy định này có phần chi phối, kiểm soát mạnh và phục vụ cho lợi ích của đa số so
với quy định quyền của HĐQT theo LDN 2005..
16
Về cơ bản các chế định liên quan đến Giám đốc/Tổng giám đốc theo LDN
2014 không có sự thay đổi so với LDN 2005. Pháp luật đặt ra những tiêu chí lựa
chọn giám đốc, phân định quyền lực rõ ràng giữa cổ đông với HĐQT để công ty có
thể phát triển bền vững cũng như CĐTS được bảo vệ. Nhưng thực tế Giám
đốc/Tổng giám đốc có thể là những cá nhân không có cổ phần, lại do chính HĐQT
tuyển dụng và bổ nhiệm, nên Giám đốc/Tổng giám đốc vẫn có xu hướng đứng về
phía một vài thành viên HĐQT và đặc biệt là Chủ tịch HĐQT.
- Cơ chế bảo vệ bên ngoài (kiểm soát bên ngoài để bảo vệ CĐTS)
Được hiểu là quyền lợi của CĐTS được các chủ thể bên ngoài của CTCP bảo
vệ, bao gồm: cơ chế hành chính của Nhà nước, cơ chế khởi kiện và các thiết chế
thực thi khác. Theo quy định tại Điều 147 LDD 2014, theo đó CĐTS hoặc nhóm cổ
đông theo quy định tại khoản 2 Điều 113 có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài
huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ bởi các lý do nêu tại điều này, đây là một quyền
khá quan trọng có tác dụng bảo vệ cho cổ đông. Như vậy, cổ đông mà đặc biệt là
CĐTS có thể tự chủ động lên tiếng, yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài can thiệp để bảo
vệ quyền lợi và tài sản của mình. Điều này cũng hạn chế được sự thụ động trong
việc cổ đông chỉ biết trông chờ vào sự giám sát của cơ quan nhà nước, bởi vì quyết
định của ĐHĐCĐ là những vấn đề mang tính nội bộ của doanh nghiệp, hơn ai hết
cổ đông sẽ là người tiếp cận và bị tác động nhanh nhất, do đó trao quyền năng này
cho cổ đông để tự họ chủ động bảo vệ mình là hoàn toàn hợp lý
1.3. Quy định về các quyền của cổ đông thiểu số
Dù sở hữu một tỷ lệ vốn góp hay cổ phần nhỏ vốn điều lệ, CĐTS vẫn được
hưởng các quyền cơ bản của một thành viên, cổ đông như quyền biểu quyết và được
chia lợi nhuận. Khi CĐTS đạt đến một tỷ lệ sở hữu vốn nhất định, họ sẽ có những
quyền tương ứng với mức sở hữu đó. Một số mốc tỷ lệ chính được quy định bởi luật
có liên quan mật thiết đến quyền của CĐTS.
Nhóm quyền tài sản
Quyền nhận cổ tức: Cũng như những cổ đông lớn, CĐTS có quyền nhận cổ
tức với mức theo quyết định của ĐHĐCĐ, so với LDN 2005, Khoản 4, Điều 132
17
LDN 2014 quy định rõ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày kết thúc họp ĐHĐCĐ
thường niên CTCP phải thanh toán cổ tức cho cổ đông. Điều này sẽ góp phần hạn
chế tình trạng nợ cổ tức, củng cố thêm niềm tin của nhà đầu tư khi đầu tư vào
CTCP.
Trường hợp CTCP vi phạm các quy định về trả cổ tức, cổ đông có quyền
khởi kiện để yêu cầu tòa án buộc CTCP phải tuân thủ. Nếu các cổ đông có bằng
chứng chứng minh CTCP vi phạm các quy định về trả cổ tức thì ngoài việc khởi
kiện yêu cầu tòa án buộc công ty thanh toán cổ tức, các cổ đông còn có quyền yêu
cầu tòa án đưa ra phán quyết buộc công ty phải thanh toán thêm phần lãi chậm trả
cổ tức cho các cổ đông.
Các quyền liên quan đến chuyển nhượng cổ phần, yêu cầu công ty mua lại cổ
phần: LDN 2014 duy trì nguyên tắc tự do chuyển nhượng (trừ trường hợp 03 năm
của cổ đông sáng lập) từ LDN 2005, ngoài ra, cũng có quy định mới cho phép Điều
lệ công ty được quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần. Theo đó, các cổ đông
đã có ý tưởng sáng lập ra công ty thường là những cổ đông lớn, họ phải có trách
nhiệm gắn bó với công ty, không được tùy ý từ bỏ công ty. Việc một cổ đông sáng
lập rời khỏi công ty phải được sự đồng ý của các cổ đông khác, cụ thể là được
ĐHĐCĐ chấp thuận, điều này cũng không nằm ngoài vấn đề bảo vệ CĐTS, đặc biệt
là những cổ đông đến mua cổ phần sau khi công ty thành lập.
Bên cạnh đó, cũng giống như các cổ đông khác trong công ty, CĐTS cũng có
các quyền khác về tài sản như quyền nhận một phần tài sản khi công ty giải thể hoặc
phá sản, quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán…
Nhóm quyền quản trị công ty
Về hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết: Theo Điểm a, Khoản 1,
Điều 114 LDN 2014, bên cạnh hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết
trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền thì còn có “các hình thức khác” do
pháp luật, điều lệ công ty quy định. Mặc dù “các hình thức khác” chưa được làm rõ,
nhưng quy định này không những đã thể hiện được sự chủ động của công ty trong
việc lựa chọn các hình thức tham dự cuộc họp phù hợp với tình hình hoạt động
18
(VD: họp trực tuyến, bỏ phiếu điện tử…) còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
của toàn bộ cổ đông, đặc biệt là các CĐTS trong việc tham dự và thực hiện quyền
biểu quyết của mình.
Về điều kiện tiến hành họp: Nếu như trước đây, LDN 2005 quy định tỷ lệ cổ
đông dự họp lần thứ nhất, lần thứ hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) lần lượt
là: ít nhất 65% và ít nhất 51% thì Điều 141 LDN 2014 giảm xuống còn: ít nhất 51%
và ít nhất 33%. Như vậy, việc thực hiện quyền tiến hành họp ĐHĐCĐ dễ dàng tiến
hành hơn vì chỉ cần phối hợp với nhau để tạo thành nhóm cổ đông đạt tỷ lệ đủ điều
kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ lần thứ hai mà không cần phải triệu tập và làm quy
trình ĐHCĐ lần thứ ba.
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, LDN 2005 bảo vệ quyền dự họp của
CĐTS được tốt hơn, hạn chế sự chi phối công ty của những cổ đông lớn. Tuy nhiên
theo chúng tôi, dù việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên cơ sở hợp lí, bởi
thực tế trong thời kỳ LDN 2005 có hiệu lực do CĐTS không tham dự họp ĐHĐCĐ
xảy ra khá nhiều, gây khó khăn không nhỏ trong việc họp ĐHĐCĐ tại CTCP.
Về tỉ lệ biểu quyết trong cuộc họp: Điều 144 LDN 2014 quy định tỷ lệ thông
qua các quyết định của ĐHĐCĐ từ 51% đối với quyết định thông thường, từ 65%
đối với quyết định quan trọng (LDN 2005 quy định tỷ lệ cũ là 65% và 75%). Xét
trên phương diện bảo vệ CĐTS việc giảm tỉ lệ trên dường như gây bất lợi hơn cho
CĐTS so với LDN 2005, tuy nhiên đây chỉ là những tỷ lệ tối thiểu; trong trường
hợp các bên có thỏa thuận một tỷ lệ lớn hơn thì sẽ áp dụng theo tỷ lệ đó. Do vậy,
nếu các cổ đông nhỏ có thể gôm lại để có một tỷ lệ đủ để quyết định thì vẫn hợp
pháp và sẽ bảo vệ quyền lợi của cổ đông tốt hơn. Mặt khác, việc giảm tỷ lệ biểu
quyết theo quy định tại LDN 2014 còn hạn chế được những trường hợp chỉ vì lợi
ích của một CĐTS trong công ty mà ngăn cản những chính sách lớn có lợi cho đa số
cổ đông.
Về việc bầu thành viên HĐQT, BKS: So với LDN 2005, LDN 2014 quy định
bầu dồn phiếu không còn là phương thức bắt buộc trong việc thực hiện bầu thành
viên HĐQT, BKS, việc lựa chọn bầu bằng phương pháp bầu dồn phiếu hay không
19
phụ thuộc vào quyền chủ động của công ty và được quy định trong điều lệ (Khoản
3, Điều 144). Bầu dồn phiếu là một công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ CĐTS,
mục đích cơ bản của việc bầu dồn phiếu chính là tăng cường sự hiện diện của các
CĐTS trong HĐQT và BKS, đảm bảo điều hòa được quyền hành và kiểm soát công
ty giữa các nhóm cổ đông với nhau. Mặc dù sự thay đổi trong LDN 2014 đã trao
thêm quyền tự chủ hoạt động cho các CTCP nhưng xét trên khía cạnh bảo vệ quyền
lợi của CĐTS thì quy định này phần nào hạn chế tác dụng của “công cụ pháp lý bầu
dồn phiếu”. Trường hợp nhà đầu tư trở thành cổ đông của công ty thì điều lệ công ty
đã có từ trước, trong đó nếu có quy định không áp dụng nguyên tắc bầu dồn phiếu
thì sẽ là một bất lợi cho nhóm cổ đông này.
Về quyền ứng cử, đề cử vào HĐQT, BKS: Khi những CĐTS liên kết lại để
hình thành nhóm cổ đông, họ sẽ được quyền cử người vào HĐQT, BKS. Bên cạnh
việc đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên HĐQT, khác với LDN 2005
(quy định thành viên HĐQT phải là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ
phần phổ thông) LDN 2014, không quy định cụ thể số cổ phần mà cổ đông phải
nắm giữ. Đây là một tiến bộ lớn tạo cơ hội để CĐTS tiến gần hơn vào bộ máy quản
lý của công ty, trực tiếp giám sát các hoạt động của công ty, bảo đảm lợi ích chính
đáng cho mình.
Nhóm quyền về thông tin
Quyền được nắm bắt những thông tin trong công ty mà cổ đông tham gia góp
vốn là một trong những quyền cơ bản và rất quan trọng. Khi có thông tin mới có cơ
sở để cổ đông thực hiện chất vấn về tình hình công ty, sử dụng các quyền khác như
quyền biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ, quyền bầu và miễn nhiệm HĐQT và cả
quyền quản lý cổ phần của cổ đông. Về nhóm quyền này, kế thừa LDN 2005, Luật
DN 2014 quy định đối với các thông tin quan trọng về báo cáo tài chính giữa năm
và hằng năm, biên bản, nghị quyết của HĐQT, báo cáo của BKS, chỉ khi các CĐTS
tập hợp lại thành nhóm cổ đông thì mới có thể thực hiện (Khoản 2 Điều 114). Như
vậy, có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam đã trao quyền cho CĐTS cơ hội được tiếp
cận thông tin để có thể kiểm soát và theo dõi được tình hoạt động của công ty, tuy
20
nhiên với việc hạn chế lượng thông tin bắt buộc phải cung cấp và giới hạn về chủ
thể được yêu cầu cung cấp đã phần nào cản trở mục đích bảo vệ CĐTS của nhóm
quyền này trên thực tế.
Nhóm quyền mang tính khắc phục
Về quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ: Điều 147 LDN 2014 đã
giới hạn lại chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy bỏ nghị
quyết của ĐHĐCĐ đó là “cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ
phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác
nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty”. Trước đây, LDN 2005 trao quyền này cho tất
cả các cổ đông, mặc dù có lợi hơn cho các CĐTS nhưng lại không tránh được khả
năng bị lạm dụng bởi những vi phạm trong quá trình triệu tập và ra quyết định của
ĐHĐCĐ rất phổ biến. Việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên cơ sở hợp lí,
các quy định của pháp luật vẫn phải tránh việc gây bất lợi cho cổ đông lớn do đó
LDN 2014 đã quy định chặt chẽ hơn vấn đề này.
Về quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ: Khoản 1 Điều 161
LDN 2014 quy định “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ
thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty
khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc trong một số trường hợp Luật định”. Nếu như trước đây, Nghị định
102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều LDN 2005 quy định cổ
đông, nhóm cổ đông nói trên không được trực tiếp khởi kiện ngay từ đầu mà phải
thông qua BKS, chỉ sau 15 ngày kể từ ngày BKS nhận yêu cầu mà không tiến hành
khởi kiện thì cổ đông, nhóm cổ đông trên mới có quyền trực tiếp khởi kiện. Việc
trao quyền trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý cho cổ đông, nhóm cổ đông
ngay từ ban đầu mà không phải thông qua BKS theo LDN 2014 sẽ giảm bớt tính
phức tạp trong thủ tục khởi kiện những chức danh quản lý của công ty. Thêm vào
đó, họ có thể nhân danh công ty khởi kiện người quản lý khi phát hiện người quản
lý có các hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho công ty để đòi bồi thường thiệt hại sẽ
góp phần bảo vệ CĐTS một cách hữu hiệu.
21
Ấn định nghĩa vụ và trách nhiệm cơ bản của người quản lý công ty
Theo quy định tại Điều 160 LDN 2014 thì người quản lý công ty bao gồm
thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác. Có trách
nhiệm bằng năng lực của mình phải bảo lợi ích hợp pháp cho công ty chính là lợi
ích cho cổ đông theo nguyên tắc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một
cách trung thực, cẩn trọng, tốt. Đây là những quy định được bổ sung trên tinh thần
trách nhiệm của người quản lý và từ đó đem lại lợi ích cho các CĐTS.
Liên quan đến vấn đề trách nhiệm của người quản lý công ty đối với việc
thực hiện yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ, LDN 2014 còn quy định thêm một số nội dung
như: Cả Chủ tịch HĐQT và các thành viên HĐQT đều phải chịu trách nhiệm khi
không thực hiện việc triệu tập cuộc họp bất thường theo đúng quy định (mà không
phải là Chủ tịch HĐQT phải chịu trách nhiệm như trong LDN 2005). Mặc dù Luật
chưa có quy định trong việc xác định mức độ trách nhiệm để bồi thường của các
thành viên HĐQT, nhưng đây vẫn là một trong những quy định giúp đảm bảo hơn
quyền lợi của CĐTS.
Kiểm soát các giao dịch tư lợi
Theo LDN 2014, các hợp đồng, giao dịch giữa công ty với cổ đông, người
đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công
ty và những người có liên quan của họ; giữa công ty với thành viên HĐQT,
GĐ/TGĐ và người có liên quan của họ; giữa công ty với các doanh nghiệp mà
thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, GĐ/TGĐ và người quản lý khác của công ty có
sở hữu cổ phần phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận” (Điều 159, Điều
162).“Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhở hơn
35%....”. Trước đó, Điều 120 LDN 2005 quy định là cao hơn 35%. Như vậy, việc
quy định giảm tỷ lệ như trên đã giúp quyền lợi của CĐTS được bảo đảm hơn rất
nhiều.
Tiểu kết chương 1
CTCP ra đời gắn liền với giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Trong những
22
giai đoạn khác nhau, nhà nước có xây dựng những quy định pháp luật khác nhau áp
dụng đặc thù của mỗi nền kinh tế, với từng loại hình kinh doanh tương ứng.
Nội dung trọng tâm được trình bày là các vấn đề lý luận chung về cổ đông và
bảo vệ quyền của CĐTS theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Chương 2 sẽ xem
xét, xác định rõ thực trạng vấn đề bảo vệ CĐTS trong phạm vi pháp luật về công ty
cổ phần tại Việt Nam.
23
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG
THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ của cổ đông thiểu số trong công ty
cổ phần tại Việt Nam
2.1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần tại Việt Nam
Khái niệm cụm từ cổ đông chỉ xuất hiện khi có loại hình CTCP, cho nên
pháp luật về bảo vệ quyền lợi CĐTS luôn gắn liền với pháp luật của CTCP tại Việt
Nam. Hình thức CTCP được ra đời theo Luật công ty 1990. Tiếp theo đó ngày
12/6/1999 Quốc hội thông qua LDN 1999 để hợp nhất và thay thế Luật Công ty
1990 và LDN tư nhân 1990. LDN 2005 ra đời đánh dấu nhiều vấn đề đổi mới pháp
luật về CTCP và bảo vệ CĐTS ở Việt Nam, pháp luật về bảo vệ CĐTS ở Việt Nam
được quy định theo hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Trước
vấn đề hội nhập và tiếp thu việc áp dụng LDN 2005, LDN 2014 ra đời nhằm tạo
hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh, trong đó chú trọng đến Pháp luật về
công ty cổ phần và bảo vệ CĐTS, đã tạo ra có một bước đột phá bởi các điều khoản
luật đã tiếp cận được với pháp luật các nước phát triển.
Nghiên cứu lịch sử phát triển CTCP và pháp luật về bảo vệ CĐTS thì LDN
chính là đạo luật duy nhất quy định trực tiếp về CTCP và các vấn đề liên quan đến
cổ đông. Vì vậy, việc phải phân chia các giai đoạn phát triển của Pháp luật về bảo
vệ CĐTS cần được xây dựng trên nền tảng lịch sử phát triển của các LDN ở Việt
Nam.
Giai đoạn thứ nhất: Pháp luật về bảo vệ CĐTS thời kỳ Luật công ty 1990 cho
đến trước khi LDN 1999 có hiệu lực thi hành:
Luật công ty 1990 ra đời, trong đó không thể hiện và phân biệt các loại cổ
phần khác nhau, nghĩa là tất cả các cổ phần đều cùng loại như nhau. Theo Điều 8
Luật công ty 1990, quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên hay còn gọi là
cổ đông trong CTCP. Chúng ta thấy, các quy định về quyền của các thành viên
24
trong công ty rất sơ sài và thiếu. Trong đó quy định thành viên công ty sở hữu một
tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty là chưa phù hợp bởi vì
cổ đông một phần quyền sở hữu của công ty chứ không phải đối với tài sản của
công ty. Cổ đông chủ yếu mới có hai quyền đó là: tham dự, thảo luận, biểu quyết
các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng và được chia lợi nhuận chịu lỗ tương
ứng với phần vốn góp vào công ty. Các quyền khác của một thành viên trong công
ty như quyền được cung cấp thông tin cơ bản về tài chính, quản lý và hoạt động
kinh doanh của công ty; quyền được mua ưu đãi cổ phần hoặc góp vốn chi phối theo
tỷ lệ vốn góp hiện có đối với cổ phần mới phát hành; quyền đề cử người vào
HĐQT, kiến nghị nội dung và chương trình họp ĐHĐCĐ; quyền xem xét danh sách
cổ đông có quyền biểu quyết .. và những nội dung như công khai hoá thông tin,
minh bạch quản lý điều hành hay cấm giao dịch nội gián và kiểm soát giao dịch với
các bên có liên quan… không được thể hiện trong Luật.
Giai đoạn thứ hai: Pháp luật về bảo vệ CĐTS thời kỳ LDN 1999 có hiệu lực
LDN 1999 kế thừa và ghi nhận từ thực tế áp dụng trong giai đoạn 1, có sự
phân biệt giữa cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi (cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ
phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi cổ tức). Như vậy đã đa dạng cấu trúc cổ
phần của loại hình CTCP. Theo Điều 51 LDN 1999 quy định “cổ đông có thể là tổ
chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa” .
Đây là sự thay đổi khác nhiều so với Luật công ty 1990 trước kia yêu cầu số lượng
cổ đông tối thiểu trong CTCP là bảy (khoản 1 Điều 30 Luật Công ty 1990)
Theo Điều 53 LDN 1999, quy định về quyền của cổ đông khá đổi mới. So
với Luật Công ty 1990, LDN 1999 đã quy định một số quyền mới mà trước đây
chưa được quy định, đó là: Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần, quyền được ưu
tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng; Quyền được cung cấp thông tin cơ bản
về quản lý và hoạt động của công ty thông; Các quy định về thêm các quyền cho cổ
đông.
25
Như vậy, những quy định mới trên của LDN 1999 có ưu điểm khi đây chính
là các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các CĐTS, hạn chế sự lạm quyền từ các
cổ đông đa số khác trong CTCP.
Giai đoạn thứ ba: Pháp luật về bảo vệ CĐTS thời kỳ LDN 2005 có hiệu lực
Kế thừa các quy định về cấu trúc cổ phần của CTCP trong LDN 1999, nhưng
quy định đầy đủ hơn địa vị pháp lý của từng loại cổ đông nắm giữ từng loại cổ phần
tương ứng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, đại đa số CTCP chỉ có cổ phần phổ thông,
chỉ có một ít công ty phát hành loại cổ phần ưu đãi biểu quyết hay cổ phần ưu đãi cổ
tức, còn cổ phần ưu đãi hoàn lại hầu như chưa dùng đến.
Theo Điều 77 LDN 2005,“cổ đông trong công ty cổ phần có thể là tổ chức,
cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu để thành lập Công ty cổ phần là ba và không
hạn chế số lượng tối đa”. Quy định này được giữ nguyên so với LDN 1999, thể hiện
phù hợp với thực tế.
Theo Điều 79 LDN 2005, quy định rõ các quyền của cổ đông phổ thông. So
với LDN 1999, LDN 2005 cổ đông đã được bổ sung thêm một số quyền mới liên
quan đến xem xét, tra cứu, trích lục thông tin, đây là điểm tốt để bảo vệ quyền lợi
cho CĐTS. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định
tại Điều lệ công ty, so với LDN 1999 thì bổ sung thêm nhiều quyền hơn như “Xem
xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài
chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo
cáo của Ban kiểm soát;Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông khi Hội đồng
quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc
ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị vượt
quá 6 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế; Yêu cầu Ban kiểm
soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của
công ty khi xét thấy cần thiết”
Những quy định tăng thêm về quyền của cổ đông theo LDN 2005 đã góp
phần giúp CĐTS rất nhiều trong quá trình tự bảo vệ mình,tăng cường tính giám sát
26
của cổ đông đối với hoạt động quản lý, điều hành của công ty không chỉ giúp tăng
cường tính minh bạch thông tin của CTCP mà còn đảm bảo được tối đa quyền lợi
của cổ đông, đặc biệt là CĐTS. Quyền được mở rộng và nghĩa vụ cũng mở rộng
tương ứng của cổ đông phổ thông như sau: Cổ đông phổ thông phải chịu trách
nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong
các hành vi sau đây
- Vi phạm pháp luật
- Tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích
của tổ chức, cá nhân khác
- Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy
ra đối với công ty. Những quy định này phần nào có tác dụng ngăn chặn các cổ
đông lớn, giúp bảo vệ quyền lợi của CĐTS.
Giai đoạn thứ tư: Pháp luật về bảo vệ CĐTS thời kỳ LDN 214 có hiệu lực
Theo Điều 110 LDN 2014, “cổ đông trong Công ty cổ phần có thể là tổ
chức, cá nhân. Số lượng cổ đông tối thiểu để thành lập Công ty cổ phần là ba và
không hạn chế số lượng tối đa”. Quy định này được giữ nguyên so với LDN 2005,
LDN 199. Theo Điều 114 LDN 2014, quy định rõ quyền của các cổ đông phổ
thông.
So với LDN 2005, LDN 2014 giữ nguyên quy định về cấu trúc công ty cổ
phần, nhưng có các quy định tăng cường thêm quyền mới cho cổ đông, đặc biệt là
cổ đông phổ thông. Từ đó cho thấy đã có những cố gắng trong việc xây dựng một
cơ chế để bảo vệ các CĐTS, vốn luôn là những nhóm lợi ích nhỏ trong CTCP,
nhóm cổ đông mà ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các cổ đông
lớn đặc biệt là cổ đông phổ thông. Thực tiễn áp dụng các quy định này trong các
năm qua đã làm phát sinh nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và tổng kết để
hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho CĐTS bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình cũng như xây dựng một cơ chế hiệu quả để làm sao
CTCP hoạt động một cách hiệu quả và có khả năng tối đa bản chất của loại hình
này. Nhưng nội dung cụ thể của các điều luật đã có những sự thay đổi, dưới đây
27
phân tích những điểm mới của LDN 2014.
2.1.2. Thực trạng các phương thức bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
2.1.2.1. Cơ chế tự vệ thông qua các quyền của cổ đông thiểu số
Từ các quy định tại Điều 110 LDN 2014, có thể định nghĩa CTCP là một loại
hình công ty có tư cách pháp nhân, có chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn, có vốn
điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, trong đó phải có cổ
phần phổ thông và có thể có những cổ phần ưu đãi khác nhau, cổ phần được tự do
chuyển nhượng trừ một số trường hợp ngoại lệ theo quy định pháp luật và điều lệ
công ty quy định; Công ty có thể phát hành thêm cổ phần để huy động vốn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh; cổ đông trong CTCP có thể là tổ chức, cá nhân góp
vốn thành lập và tối thiểu là ba và không có tối đa cổ đông. Các quy định trên đều
kế thừa các nội dung quy định tương ứng tại Điều 77 LDN 2005 cũng như Điều 51
LDN 1999. Điều đó cho thấy, những bản chất căn bản của loại hình CTCP có thể
xem như đã được định hình rất rõ rệt trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, mặt
dù mỗi luật về sau đều phát triển một cách đáng kể từ những đúc kết của luật trước
về các quy định mới về mối quan hệ pháp lý của loại công ty này so với luật trước
đó.
Đối với quyền của cổ đông phổ thông, thì LDN 2014 đã quy định rõ tại Điều
114. Sau khi so sánh với LDN 2005 thì chúng ta thấy vẫn giữ các quyền như cũ.
Nhưng nội dung cụ thể của các điều luật đã có sự thay đổi, cụ thể như sau:
Quyền nhận cổ tức
LDN 2014 quy định rõ thời hạn doanh nghiệp phải thanh toán cổ tức cho cổ
đông, được thể hiện rõ trong Khoản 4 Điều 132 với nội dung được bổ sung như sau
“ Cổ tức phải được thanh toán đầy đủ trong thời gian 06 tháng, kể từ ngày kết thúc
họp Đại hội đồng cổ đông thường niên:”. Đây là một quy định mang tính chất đột
phá. Trước đây cơ chế trả cổ tức do các cổ đông quyết định tại ĐHĐCĐ, cụ thể
ĐHCĐ quyết định mức trả cổ tức, hình thức trả cổ tức bằng cách thông qua nghị
quyết trên cơ sở đề nghị của HĐQT; còn về mặt thời gian, thời gian chi trả cổ tức
28
thường không nói đến hoặc uỷ quyền cho GĐ/TGĐ hoặc HĐQT quyết định. Việc
này dẫn đến nợ trả cổ tức cho các cổ đông mà không có quyền đòi. Với quy định tại
Khoản 4 Điều 132 LDN 2014 chắc chắn sẽ giúp giảm bớt tình trạng chiếm dụng
vốn không trả cổ tức cho cổ đông, để nguồn vốn đó phục vụ trong hoạt động kinh
doanh của công ty theo ý chí của những nhà quản lý công ty. Một điểm mới nữa là
tại Khoản 6 Điều 132 LDN 2014 còn quy định thêm về trường hợp chi trả cổ tức
bằng cổ phần. Có như vậy, giúp tăng niềm tin cho các cổ đông nhỏ lẻ khi tham gia
đầu tư cổ phiếu vào các công ty cổ phần.
Thực tế những năm qua, nhiều trường hợp doanh nghiệp nợ cổ tức và để cổ
đông, nhất là cổ đông nhỏ lẻ có thể đòi được cổ tức lại được nhiều ý kiến đánh giá
là việc không dễ. Như vậy, xét về lý thuyết và quy định của pháp luật, cổ đông có
quyền khởi kiện doanh nghiệp nợ cổ tức ra tòa án. Nhưng trên thực tế, việc khởi
kiện được đánh giá khó khả thi. Giả sử, cổ đông nhỏ có thắng kiện thì cũng có nhiều
khó khăn để bản án được thi hành, chưa kể nếu có đòi được cũng không tương xứng
với chi phí và công sức bỏ ra. Tại Điều 4, Quyết định 21/2012/QĐ-TTg quy chế
quản lý quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp có quy định, nếu chậm nộp
cổ tức, lợi nhuận được chia của phần vốn nhà nước góp tại các doanh nghiệp trong
vòng 3 tháng, doanh nghiệp phải chịu thêm tiền lãi tính trên lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước và phải chịu thêm tiền lãi tính theo lãi suất tiền vay quá hạn
nếu chậm nộp quá 3 tháng và sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế khi quá hạn 4
tháng cũng như các khoản phạt chậm nộp này không được tính vào chi phí hợp lý
khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này chỉ áp dụng với cổ đông
nhà nước, còn các cổ đông khác không có sự bảo vệ như vậy.
Quyền yêu cầu mua lại cổ phần
Các quyền liên quan đến chuyển nhượng cổ phần, yêu cầu công ty mua lại cổ
phần: LDN 2014 duy trì nguyên tắc tự do chuyển nhượng (trừ trường hợp 03 năm
của cổ đông sáng lập) theo quy định từ LDN 2005, ngoài ra cũng có quy định mới
cho phép Điều lệ công ty được quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần như tại
Khoản 1 Điều 126 LDN 2014. Theo đó, các cổ đông đã có ý tưởng sáng lập ra công
29
ty thường là những cổ đông lớn, họ phải có trách nhiệm gắn bó với công ty, không
được tùy ý từ bỏ công ty. Việc một cổ đông sáng lập rời khỏi công ty phải được sự
đồng ý của các cổ đông khác, cụ thể là được ĐHĐCĐ chấp thuận, điều này cũng
không nằm ngoài vấn đề bảo vệ CĐTS, đặc biệt là những cổ đông đến mua cổ phần
sau khi công ty thành lập.
Bên cạnh đó, cũng giống như các cổ đông khác trong công ty, CĐTS cũng có
các quyền khác về tài sản như quyền nhận một phần tài sản khi công ty giải thể hoặc
phá sản, quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán…
Quyền dự họp ĐHĐCĐ
Về hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết: Theo Điểm a, Khoản 1,
Điều 114 LDN 2014, bên cạnh hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết
trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền thì còn có “các hình thức khác” do
pháp luật, điều lệ công ty quy định. Mặc dù “các hình thức khác” chưa được làm rõ,
nhưng quy định này không những đã thể hiện được sự chủ động của công ty trong
việc lựa chọn các hình thức tham dự cuộc họp phù hợp với tình hình hoạt động
(VD: họp trực tuyến, bỏ phiếu điện tử…) còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
của toàn bộ cổ đông, đặc biệt là các CĐTS trong việc tham dự và thực hiện quyền
biểu quyết của mình. Như vậy về hình thức giao cho doanh nghiệp có thể chủ động
xây dựng hình thức tổ chức ĐHĐCĐ, miễn sao đảm bảo lợi ích cho các cổ đông.
Thực tế cho thấy rằng, có nhiều CTCP có số lượng cổ đông lớn, trải dài khắp cả
nước, thậm chí sinh sống và công tác ở nước ngoài. Việc có thể tổ chức ĐHĐCĐ
với mong muốn có đầy đủ các cổ đông hoặc đại diện hợp pháp tham gia là rất khó
khăn,tốn kém và bất khả thi. Như vậy, với quy định được quyền xây dựng các hình
thức khác sẽ hứa hẹn giải quyết những khó khăn, tồn đọng cho các doanh nghiệp.
Các hình thức khác ở đây có thể hiểu rằng là việc áp dụng linh hoạt các biện
pháp,công cụ, phương tiện điện tử như truyền hình trực tiếp, kết nối trực tiếp hai
chiều, các phần mềm họp trực tuyến… phù hợp với các đặc điểm cụ thể của từng
công ty. Trước đây theo LDN 1990 và LDN 1999, cổ đông chỉ được tham dự và
thực hiện biểu quyết trực tiếp. Đến Điều 79 LDN 2005 cổ đông ngoài việc được
30
tham dự và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp thì được thông qua đại diện được
uỷ quyền.
Về điều kiện tiến hành họp: Nếu như trước đây, LDN 2005 quy định tỷ lệ cổ
đông dự họp lần thứ nhất, lần thứ hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) lần lượt
là: ít nhất 65% và ít nhất 51% thì Điều 141 LDN 2014 giảm xuống còn: ít nhất 51%
và ít nhất 33%. Điều này đã tạo điều kiện cho các CĐTS thực hiện quyền tiến hành
họp ĐHĐCĐ được dễ dàng hơn vì các cổ đông nhỏ thì sở hữu ít cổ phần nên họ phải
phối hợp với nhau để tạo thành nhóm cổ đông đạt tỷ lệ đủ điều kiện tiến hành họp
ĐHĐCĐ lần thứ hai mà không cần phải chờ đến lần thứ ba do gôm hoặc tụ tập không
đủ số lượng và bị vướng mắc của việc quy định tỷ lệ cao như trong LDN 2005.
Có quan điểm cho rằng, LDN 2005 là luật có bảo vệ quyền dự họp của
CĐTS được tốt hơn hạn chế sự chi phối công ty của những cổ đông lớn nhưng sẽ
tạo rất nhiều khó khăn cho việc tổ chức một lần ĐHĐCĐ nếu các CĐTS xem
thường quyền lợi của mình không tham dự họp. Ví dụ chỉ cần tỷ lệ CĐTS xem
thường quyền lợi của mình, khi có cuộc họp ĐHĐCĐ, quyết không tham dự họp có
tỷ lệ sở hữu cổ phần lớn hơn 35% (lần 1) và lớn hơn 49% lần hai thì cuộc họp
ĐHĐCĐ bị huỷ bỏ, gây tốn kém thời gian và chi phí cho công ty.
Tuy nhiên theo tác giả, dù việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên cơ
sở hợp lí, bởi thực tế trong thời kỳ LDN 2005 có hiệu lực do CĐTS không tham dự
họp ĐHĐCĐ xảy ra khá nhiều, gây khó khăn không nhỏ trong việc họp ĐHĐCĐ
cho các CTCP, từ đó dẫn đến việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá trị của doanh
nghiệp.
Chính vì vậy, với điều kiện quy định tại Điều 141 LDN 2014, thì đây là một
quy định chặt chẽ của LDN 2014, vì việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên
cơ sở hợp lý, các quy định của pháp luật vẫn phải tránh việc gây bất lợi cho cổ đông
lớn.
Quyền biểu quyết
Về tỉ lệ biểu quyết trong cuộc họp: Điều 144 LDN 2014 quy định 65% và
51% là những tỉ lệ sở hữu cổ phần mang tính chất quyết định. Như vậy, có thể hiểu
31
rằng những cổ đông, nhóm cổ đông giữ 35% hoặc 49% trở lên sẽ có quyền phủ
quyết các quyết định của ĐHĐCĐ và HĐQT liên quan đến các nội dung được quy
định tại Điều 144 LDN 2014. Những tỷ lệ này theo Điều 104 LDN lần lượt là 75%
và 65%. Việc giảm tỷ lệ cổ phần để thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ cho phù hợp
hơn với thông lệ quốc tế của LDN 2014 đã góp phần thu hút mạnh mẽ các nhà đầu
tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế. Việc này làm cho việc ngăn cản một số CĐTS có thể làm ảnh hưởng đến những
chính sách lớn có lợi cho đa số cổ đông. Xét trên phương diện bảo vệ CĐTS quy
định LDN 2014 có thể thấy là bất lợi hơn so với LDN 2005, lý do là các nhóm cổ
đông chỉ cần có tỷ lệ đủ 65% hoặc 51% cổ phần là có thể quyết định các vấn đề
trong công ty.
Nhưng ngay tại Điều 144 LDN 2014, để khắc phục vấn đề này, cũng đã quy
định những tỷ lệ trên chỉ là tỷ lệ tối thiểu; trong trường hợp các bên có thoả thuận
một tỷ lệ lớn hơn thì sẽ áp dụng theo tỷ lệ đó để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ
và HĐQT.Do vậy trong đàm phán ban đầu nếu các cổ đông nhỏ có thể đạt được các
thoả thuận có lợi trong đó tỷ lệ cổ phần được thông qua lớn hơn những con số trên
thì thoả thuận đó vẫn là hợp pháp và sẽ bảo vệ quyền lợi của cổ đông tốt hơn
- Đối với hình thức lấy ý kiến bằng văn bản: cũng có sự thay đổi và mang ý
nghĩa tương tự như đối với hình thức biểu quyết. Khoản 4 Điều 144 LDN 2014 quy
định “ nghị quyết của ĐHĐCĐ được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất
51% tổng số phiếu biểu quyết tán thành”, tỷ lệ này theo Khoản 5 Điều 104 LDN
2005 là 75%.
- Về việc bầu thành viên HĐQT, BKS: điểm mới của LDN 2014 là quy định
việc thực hiện bầu thành viên HĐQT, BKS bằng phương pháp bầu dồn phiếu hay
không phụ thuộc vào quyền chủ động của công ty và được quy định trong điều lệ tại
Khoản 3 Điều 144. Trước đây theo điều 104 LND 2005 “ việc biểu quyết bầu thành
viên HĐQT và BKS phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu”; còn LDN
1999 và LND 1990 chỉ quy định một hình thức biểu quyết duy nhất khi họp
ĐHĐCĐ là biểu quyết theo phương thức thông thường. Sự thay đổi trong LDN
32
2014 đã trao thêm quyền tự chủ hoạt động cho các CTCP nhưng xét trên khía cạnh
bảo vệ quyền lợi của CĐTS thì quy định này phần nào hạn chế tác dụng của công cụ
bầu dồn phiếu. Nếu trao cho công ty cổ phần có quyền tự quyết việc bầu dồn phiếu
thì có thể dẫn đến trường hợp: (i) Khi một nhà đầu tư mua cổ phiếu và trở thành cổ
đông của công ty thì điều lệ công ty đó đã quy định không áp dụng nguyên tắc bầu
dồn phiếu ngay từ đầu hoặc (ii) Trường hợp những cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn
nắm trên 65% cổ phần phổ thông hoặc một tỷ lệ khác do điều lệ công ty quy định
thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông đó có thể phủ quyết việc áp dụng nguyên tắc bầu
dồn phiếu ngay cả khi trong điều lệ của công ty có quy định.
Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ
LDN 2014 thêm một số quy định: mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm khi
không thực hiện việc triệu tập cuộc họp bất thường theo đúng quy định cả Chủ tịch
HĐQT và các thành viên HĐQT đều phải chịu trách nhiệm. So với LDN 2005 thì
chỉ có Chủ tịch HĐQT chịu trách nhiệm.
Khi BKS được quyền thay thế HĐQT triệu tập theo đúng quy định thì tất cả
các thành viên BKS phải chịu trách nhiệm. So với LDN 2005 thì chỉ có Trưởng
BKS chịu trách nhiệm.
Điều 136 LDN 2014 còn quy định thêm một số nội dung khác như: “Địa
điểm họp ĐHĐCĐ phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp cuộc họp Đại hội
đồng cổ đông được tổ chức đồng thời ở nhiều địa điểm khác nhau thì địa điểm họp
Đại hội đồng cổ đông được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp; báo cáo tự đánh
giá kết quả hoạt động của Ban kiểm soát và của từng Kiểm soát viên”
Công việc người triệu tập ĐHĐCĐ thêm một vài chi tiết về nhiệm vụ: phải
có dự thảo nghị quyết của ĐHĐCĐ theo nội dung dự kiến của cuộc họp; danh sách
và thông tin chi tiết, rõ ràng của các ứng cử viên trong trường hợp HĐCĐ tổ chức
có chương trình bầu thành viên HĐQT, Kiểm soát viên.
Quyền ứng cử vào HĐQT và BKS
Về cơ cấu, tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên HĐQT và BKS, người
tham gia ứng cử phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện tại Điều 151 LDN
33
2014 đối với HĐQT và Điều 164 LDN 2014 đối với BKS. Điểm mới của điều này
là không quy định cụ thể số cổ phần mà cổ đông phải nắm giữ để ứng cử vào
HĐQT và BKS. Đây là một bước tiến bộ lớn so với Điều 110 LDN 2005 “Thành
viên Hội đồng quản trị phải là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần
phổ thông”
Quy định về hợp đồng, giao dịch phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp
thuận.
Khoản 2, 3 Điều 162 LDN 2014 quy định cụ thể các hợp đồng và giao dịch
có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính
gần nhất, phải được HĐQT chấp thuận; còn đối với các giao dịch có giá trị lớn hơn
35% sẽ thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. So với Điều 120 LDN 2005 đã quy định về
tỷ lệ ranh giới giữa thẩm quyền cuả HĐQT hoặc ĐHĐCĐ là 50%.
Ngoài ra tại quy định Điều 159 và Điều 162 LDN 2014 thì các hợp đồng,
giao dịch giữa công ty với cổ đông, người đại diện uỷ quyền của cổ đông sở hữu
trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của
họ; giữa công ty với Thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ và người liên quan đến họ; giữa
công ty với các doanh nghiệp mà Thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, GĐ/TGĐ và
người quản lý khác của công ty có sở hữu cổ phần phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT
chấp thuận. Trước đó Điều 120 Luật DN 2005 quy định “Hợp đồng, giao dịch giữa
công ty với các đối tượng sau đây phải được Đại hội đồng cổ đồng hoặc Hội đồng
quản trị chấp thuận: Cổ đông, người đại diện uỷ quyền của cổ đông sở hữu trên
35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ”.
Như vậy, với việc giảm tỷ lệ như trên đã làm cho quyền của các CĐTS được đảm
bảo hơn rất nhiều.
Ngoài ra tại Khoản 1 Điều 159 LDN 2014 cũng đã quy định thêm một nội
dung: “công ty phải tập hợp và cập nhật danh sách những người có liên quan của
công ty”. Việc quy định cụ thể hơn thể hiện sự công khai thông qua xem xét, trích
lục, sao chép danh sách người có liên quan và lợi ích có liên quan để các cổ đông
biết và bảo vệ lợi ích cho công ty.
34
Quyền yêu cầu huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ
Theo quy định tại Điều 147 LDN 2014, trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
nhận được biên bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến
ĐHĐCĐ, cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 114 Luật Doanh
nghiệp 2014 có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết
hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp
sau đây
Như vậy, muốn có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ, bạn phải
là cổ đông, nhóm cổ đông thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: sở hữu 10% tổng số cổ
phần phổ thông trở lên (nếu điều lệ công ty quy định tỷ lệ khác nhỏ hơn thì theo quy
định của Điều lệ). Và thời gian sở hữu số cổ phần nói trên: liên tục ít nhất 06 tháng
tính đến thời điểm muốn yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Trước đây Điều 79 LDN 1999 và Điều 107 LDN 2005 trao quyền này cho tất
cả các cổ đông. Mặc dù có lợi hơn cho các nhóm cổ đông nhỏ nhưng lại không
tránh được khả năng bị lạm dụng bởi những vi phạm trong quá trình triệu tập và ra
quyết định của ĐHĐCĐ rất phổ biến. Đây là một quy định khá chặt chẽ của LDN
2014 vì việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên cơ sở hợp lý, các quy định
của pháp luật phải tránh gây bất lợi cho các cổ đông lớn.
Quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và trong CTCP nói
riêng, đôi khi tồn tại các trường hợp sai phạm của thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hay Tổng giám đốc. Đây là các chủ thể có quyền quản lý, điều hành trong
công ty, song không vì thế mà các chủ thể này được loại trừ các trách nhiệm tham
gia tố tụng. LDN 2014 đã dự trù các trường hợp cụ thể về việc khởi kiện đối với
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc, từ đó quy định cụ thể
quyền khởi kiện tại Điều 161 như sau: “Chủ thể được trao quyền khởi kiện trách
nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
trong Công ty cổ phần bao gồm: Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ
phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng.” (Khoản 1 Điều 161 LDN 2014).
35
Nếu như trước đây, Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều LDN 2005 quy định cổ đông, nhóm cổ đông nói trên không được trực
tiếp khởi kiện ngay từ đầu mà phải thông qua BKS, chỉ sau 15 ngày kể từ ngày BKS
nhận yêu cầu mà không tiến hành khởi kiện thì cổ đông, nhóm cổ đông trên mới có
quyền trực tiếp khởi kiện. Việc trao quyền trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý
cho cổ đông, nhóm cổ đông ngay từ ban đầu mà không phải thông qua BKS theo
LDN 2014 sẽ giảm bớt tính phức tạp trong thủ tục khởi kiện những chức danh quản
lý của công ty. Thêm vào đó, họ có thể nhân danh công ty khởi kiện người quản lý
khi phát hiện người quản lý có các hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho công ty để đòi
bồi thường thiệt hại sẽ góp phần bảo vệ CĐTS một cách bình đẳng.
2.1.2.2. Cơ chế bảo vệ bên trong về bảo vệ cổ đông thiểu số
Theo Điều 134 LDN 214 quy định về cơ cấu tổ chức CTCP thì CTCP có
quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình có BKS
hoặc không có BKS. Như vậy, điểm mới đặc biệt của LDN 2014 là CTCP có quyền
lựa chọn việc có hay không có BKS trong cơ cấu tổ chức, quản lý công ty của mình
theo các quy định của Pháp luật. Trước đây Điều 95 LDN 2005 không có quy định
mở như vậy: “Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông
là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty
phải có Ban kiểm soát.”. Sự thay đổi này được đánh giá là phù hợp với thông lệ
quốc tế; phù hợp với thực tế đa dạng của doanh nghiệp về quy mô, tính chất sở hữu
và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty ở Việt Nam; hơn nữa là phù hợp với
thực tế hoạt động của BKS trong CTCP hiện nay. Về lý thuyết, việc tồn tại BKS có
vẻ mang đến nhiều lợi ích cho công ty nhưng trên thực tế BKS chưa thể hiện hết vai
trò của mình theo đúng chức năng nhiệm vụ pháp luật đã quy định. Do vậy việc cho
CTCP tự quyết việc có thành lập BKS hay không là hoàn toàn hợp lý theo nhu cầu
riêng của từng CTCP.
Đại hội đồng cổ đông
36
ĐHĐCĐ cơ quan quyết định cao nhất trong loại hình CTCP, trong đó gồm
tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, các cổ đông ưu đãi khác không có quyền
biểu quyết thì không thuộc ĐHĐCĐ. Quyền của ĐHĐCĐ được quy định đầy đủ tại
Điều 135 LDN 2014.
ĐHĐCĐ chỉ bao gồm các “nhà đầu tư tích cực” hay “nhà đầu tư chủ động”
nghĩa là những người mà cũng đầu tư vốn vào công ty muốn tham gia định đoạt số
phận của công ty thông qua quyền biểu quyết của mình. Cuộc họp của ĐHĐCĐ là
cơ hội quan trọng để các cổ đông có thể đối thoại, chất vấn các thành viên HĐQT,
Giám đốc/ Tổng giám đốc và các thành viên quản lý công ty.
Pháp luật Việt Nam chỉ nhìn nhận cổ đông CTCP là nhà đầu tư chứ chưa
phải là nhà quản lý doanh nghiệp. ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất trong
công ty cổ phần chứ không phải là cơ quan quản lý và điều hành công ty.
Do vậy, có thể thấy để đảm bảo quyền lợi của các cổ đông, tăng tính hiệu
quả trong hoạt động ĐHĐCĐ, LDN 2014 đã quy định rất cụ thể về trình tự thủ tục,
tiến hành họp ĐHĐCĐ, trách nhiệm thông báo, báo cáo công bố thông tin cho các
tổ chức trước cuộc họp, quyền của các cổ đông đưa ra các vấn đề bàn bạc tại cuộc
họp, thủ tục bỏ phiếu.. Có thể nói LDN 2014 mang lại một bước tiến dài trong vấn
đề bảo vệ CĐTS ở Việt Nam.
Hội đồng quản trị
Điều 149 LDN 2014 quy định chi tiết về HĐQT, HĐQT là cơ quan quản lý
công ty, để thực hiện chức năng này, HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ những vấn đề thuộc
thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Quyền nhân danh ở quy định này là quyền nhân danh
trong các mối quan hệ đối nội, mặc dù quyết định của HĐQT cũng có giá trị pháp lý
đối với bên thứ ba trong giao dịch pháp luật, còn sự nhân danh công ty trong các
mối quan hệ đối ngoại luôn phải thực hiện qua người đại diện theo pháp luật và
người đại diện theo uỷ quyền của công ty.
HĐQT có từ 3 đến 11 thành viên; Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng
thành viên HĐQT (khoản 1 Điều 150 LDN 2014). Cần lưu ý là cổ đông hoặc nhóm
37
cổ đông phải phù hợp tại khoản 2 Điều 114 LDN 2014, còn ĐHĐCĐ bầu thành viên
HĐQT theo tại điểm C khoản 2 Điều 135 LDN 2014.
Về quyền và nghĩa vụ của HĐQT, có sự tách bạch giữa quyền của ĐHĐCĐ
và HĐQT. Bởi vì, mặc dù là các đồng chủ sở hữu đối với công ty, nhưng các cổ
đông chỉ được xem là các nhà đầu tư, còn các thành viên HĐQT mới là người quản
lý doanh nghiệp. Trong chừng mực nào đó các nhà đầu tư gửi gắm vốn đầu tư và
quyền chèo lái công ty cho những người quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy mà
HĐQT có thẩm quyền rất lớn, thể hiện trong danh mục quyền hạn và nhiệm vụ quy
định tại Điều 149 và một số điều riêng lẽ khác như Điều 155, 162 LDN 2014. Về
cơ bản, các quyền và nghĩa vụ của HĐQT của LDN 2014 không thay đổi so với
LDN 2005, trừ quy định quyền của HĐQT tại điểm h, khoản 2 Điều 149 LDN 2014
với tỷ bằng hoặc lớn hơn 35% báo cáo tài chính gần nhất. Trước đây thì theo tỷ lệ
này là 50% quy định tại Điều 108 LDN 2005. Mặt dù quy định này giảm đi tỷ lệ %
quyền của HĐQT nhưng về cơ bản trong quan hệ pháp luật về bảo vệ CĐTS,
HĐQT giống như LDN 2005 đang chi phối, dành quyền cho các cổ đông trong đó
có CĐTS. Tuy nhiên thực tế cho thấy, HĐQT thường là đại diện cho các cổ đông
lớn, vì vậy để CĐTS có quyền thực sự trong HĐQT là một vấn đề tồn tại nhiều năm
qua mà luật khó thay đổi và tìm ra một giải pháp nào để bảo vệ triệt để.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Về cơ bản các chức năng, quyền và điều kiện liên quan đến GĐ/ TGĐ không
có sự thay đổi nhiều so với LDN 2005. Trong mối quan hệ với HĐQT, GĐ hoặc
TGD là người thừa hành, chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước
HĐQT. Tuy nhiên để thực hiện chức năng điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty, GĐ hoặc TGĐ cũng có thẩm quyền riêng biệt. GĐ hoặc TGĐ
cũng có quyền quyết định về các vấn đề trong phạm vi điều hành đó. Bên cạnh chức
năng điều hành, GĐ hoặc TGĐ cùng với Chủ tịch HĐQT còn thực hiện chức năng
đại diện theo pháp luật đương nhiên của công ty trong trường hợp công ty có 02
người đại diện theo pháp luật, hoặc là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu
Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật
38
trong trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều
134 LDN 2014).
Pháp luật trao cho GĐ/TGĐ những quyền riêng biệt với HĐQT, nhằm giúp
cho GĐ/ TGĐ không phải phụ thuộc quá nhiều vào HĐQT. Do vậy, pháp luật đặt ra
những tiêu chí lựa chọn GĐ/ TGĐ tại khoản 2 Điều 175, Điều 65 LDN 2014. Trước
đây LDN 2005 (khoản 3 Điều 116) còn quy định GĐ/ TGĐ không được đồng thời
là GĐ/ TGĐ của doanh nghiệp khác, việc quy định này nhằm đảm bảo toàn quyền
điều hành hoạt động hằng ngày. LDN 2014 không áp đặt điều này nữa vì bản thân
công ty biết rõ hơn việc nó có nên thuê một người làm Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc của một doanh nghiệp khác hay không hoặc cho phép GĐ hoặc TGĐ của mình
làm việc ở doanh nghiệp khác hay không. Pháp luật phân rõ quyền và nghĩa vụ để
mong muốn bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông. Trên thực tế thì thường Chủ tịch
HĐQT kiêm GĐ/ TGD và ít có doanh nghiệp tách bạch giữa vai trò này.
Ban kiểm soát
Là một bộ phận của cơ cấu tổ chức công ty trong trường hợp CTCP lựa chọn
mô hình đa hội đồng; tuy nhiên, kể cả trong trường hợp này công ty có dưới 11 cổ
đông và các cổ đông tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì
không bắt buộc phải có BKS (điểm a khoản 1 Điều 134 LDN 2014).
BKS có chức năng giám sát HĐQT,GĐ hoặc TGĐ trong việc quản lý và điều
hành công ty (khoản 1 Điều 165 LDN 2014).
Với chức năng đó, BKS không phải là cơ quan quản lý của công ty, các
Kiểm soát viên cũng không phải là người quản lý doanh nghiệp theo khoản 8 Điều 4
LDN 2014. Tuy nhiên, kiểm soát viên cũng có trách nhiệm tương tự như người
quản lý doanh nghiệp (so sánh quy định tại điều 168 và Điều 160 LDN 2014)
Với chức năng giám sát công việc quản lý và điều hành công ty bởi HĐQT
và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kiểm soát viên độc lập với các cơ quan này. Bởi
vậy, khác với GĐ hoặc TGĐ, Kiểm soát viên được bầu bởi ĐHĐCĐ. Mối quan hệ
giữa Ban kiểm soát với HĐQT là mối quan hệ giữa cơ quan giám sát và cơ quan bị
giám sát. Để đảm bảo BKS có thể thực hiện chức năng đó, LDN 2014 quy định chi
39
tiết quyền được cung cấp thông tin của BKS (Điều 166). Tuy nhiên, việc kiểm tra
của BKS trên cơ sở yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2
Điều 114 không được cản trở hoạt động bình thường của HD9QT, không được gây
gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty theo khoản 6 Điều 165 LDN
2015.
Hiện nay, hầu hết các công ty có 03 thành viên trong ban kiểm soát, chỉ có số
lượng nhỏ công ty là có đến 05 thành viên. Những thành viên này thường do hội
đồng quản trị chỉ định, không độc lập và là cấp dưới, phụ thuộc vào thành viên của
hội đồng quản trị và tổng giám đốc. Như vậy, hoạt động của ban kiểm soát sẽ không
hiệu quả. Trên thực tế, hầu hết các kiểm soát viên làm việc kiêm nhiệm tại công ty,
chỉ có một số lượng nhỏ kiểm soát viên là cổ đông, đại diện của cổ đông, không là
người lao động trong công ty, không chuyên trách, không có chuyên môn cao. Thực
tế cho thấy, ban kiểm soát chưa thể hiện đầy đủ vai trò theo đúng chức năng nhiệm
vụ đã được pháp luật quy định, từ đó có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư và
CĐTS.
2.1.2.3. Cơ chế bảo vệ bên ngoài về bảo vệ cổ đông thiểu số
Cơ chế hành chính
Tại Việt Nam, Chính phủ đại diện cho nhà nước quản lý đối với doanh
nghiệp, trong quản lý đã chỉ định cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì
phối hợp với các Bộ, ngành khác thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Các CTCP sẽ hoạt động theo pháp luật việt nam, ngoài ra còn tùy theo quy mô sẽ
chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước sau: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ
ban chứng khoán nhà nước, trung tâm lưu ký chứng khoán, cơ quan quản lý thuế,
ngân hàng nhà nước, Bảo hiểm, Cơ quan quản lý địa phương… Với sự quản lý tốt
của cơ chế hành chính, sẽ thúc đẩy cho hoạt động của doanh nghiệp được thông
suốt và phù hợp với pháp luật, từ đó là công cụ tốt nhất có thể bảo vệ CĐTS.
Cơ chế khởi kiện
Căn cứ vào Điều 161 LDN 2014 quy định về quyền khởi kiện của cổ
đông. Khởi kiện tại Tòa án là một trong những quyền quan trọng nhất của cổ đông.
40
Tuy nhiên, LDN2014 quy định cổ đông sở hữu từ 1% cổ phần phổ thông liên tục
trong 6 tháng mới có quyền khởi kiện. Đây là một trong những quy định mới của
LDN2014 nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông; đảm bảo
nguyên tắc đối xử công bằng giữa các cổ đông. Với quy định này cổ đông không chỉ
có quyền tự mình khởi kiện mà còn nhân danh công ty khởi kiện cá nhân người
quản lý doanh nghiệp khi phát hiện người quản lý có các hành vi vi phạm, gây thiệt
hại cho doanh nghiệp và gián tiếp cho cổ đông, để đòi bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra còn có thể khởi kiện theo hình thực giải quyết bằng trọng tài theo
quy định của Luật trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010. Trọng
tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính pháp lý, giống như kiện tụng ở
toà án và khác hoàn toàn với các nhóm các biện pháp không mang tính bắt buộc
pháp lý như đàm phán, trung gian, thẩm tra và hoà giải. Tuy nhiên, ở Việt Nam số
lượng các vụ tranh chấp thương mại sử dụng Tổ chức trọng tài thương mại Việt
Nam còn ít và chưa tạo thành thói quy cho các doanh nghiệp.
Các thiết chế hỗ trợ khác
Trong giai đoạn này chủ yếu như cơ quan kiểm toán độc lập, các tổ chức luật
sư và vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, công đoàn.. ngày
càng hoạt động tích cực, đi vào thực tiễn cao so với thời kỳ trước. Từ đó có giám sát
các hoạt động của doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp phát triển, cũng là
cách bảo vệ các CĐTS khi tham gia đầu tư vào doanh nghiệp.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công
ty cổ phần tại Việt Nam
2.2.1. Các kết quả đạt được
Tại Hội thảo“Vấn đề và giải pháp cải thiện khởi sự kinh doanh và bảo vệ cổ
đông thiểu số” diễn ra ngày 28/2, tại Hà Nội, Ngân hàng thế giới chỉ ra, bảo vệ cổ
đông tốt là một trong những tiêu chí đánh giá quản trị công ty tốt. Khi luật pháp bảo
vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư tốt mới khiến họ bỏ tiền đầu tư vào doanh
nghiệp. Và ngược lại, nếu môi trường đầu tư rủi ro thì họ sẽ mang tiền gửi tiết kiệm,
không kích thích phát triển kinh tế.
41
Theo Ngân hàng thế giới, có 5 tiêu chí để bảo vệ cổ đông tốt, đó là: Công
khai hóa giao dịch có liên quan; trách nhiệm người quản lý; quyền của cổ đông; tỷ
lệ sở hữu và kiểm soát công ty; minh bạch hóa thông tin. Áp các tiêu chí này vào
thực trạng bảo vệ cổ đông ở Việt Nam, các chỉ số đều rất thấp so với các nước được
đánh giá.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ CĐTS cũng chưa bao giờ được nâng tầm quan
trọng như hiện nay, khi mà tại Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về
tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh năm 2017, định hướng đến năm 2020, Chính phủ đã giao
cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Đảm bảo hiệu quả thực thi
các quy định về Bảo vệ nhà đầu tư” với mục tiêu từng bước nâng cao thứ hạng chỉ
số bảo vệ CĐTS (thuộc báo cáo Doing Business của Ngân hàng Thế giới) từ thứ
87/189 (năm 2016) lên thứ 80 (năm 2017) và 60 (năm 2020). Chỉ số bảo vệ CĐTS
thuộc Báo cáo Doing Business cung cấp dữ liệu về 38 khía cạnh liên quan đến quản
trị doanh nghiệp, được chia thành 02 nhóm, mỗi nhóm gồm 03 chỉ số thành phần.
Quy định về quyền dự họp ĐHĐCĐ
LDN 2005 chỉ quy định 02 hình thức dự họp ĐHĐCĐ là tham gia trực tiếp
và thông qua uỷ quyền cho người đại diện. Quy định này là quá cứng nhắc so với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm
pháp luật “bất đắt dĩ” là công ty tự đặt ra các tiêu chí về điều kiện để hạn chế sự
tham gia của CĐTS. Để hạn chế tình trạng này, Nghị định 102/2010/NĐ-CP có bổ
sung thêm một hình thức tham gia ĐHĐCĐ là gửi phiếu biểu quyết bằng thư bảo
đảm đến HĐQT chậm nhất 01 ngày trước khi khai mạc ĐHĐCĐ. Đây là một
hướng đi tích cực, tuy nhiên vẫn không thể giải quyết quyết hiệu quả vấn đề nêu
trên bởi: Trên nguyên tắc thì đây là một trường hợp điển hình mà nghị định sửa luật.
Và dù bổ sung thêm một hình thức thì quy định này vẫn còn tương đối cứng nhắc và
không phải cổ đông nào cũng có điều kiện để tham gia họp ĐHĐCĐ theo ba hình
thức trên. Trên thực tế, nhiều công ty lớn chọn hình thức việc họp trực tuyến, biểu
quyết online và đã thống nhất được các nội dung trong cuộc họp. Tuy nhiên, để kết
42
quả của việc biểu quyết được công nhận thì các cổ đông vẫn phải bỏ vào thư bảo
đảm và gửi cho HĐQT. Đây có thể xem là những phiền phức, gánh nặng và không
cần thiết đối với các cổ đông.
Thấy được điều này, pháp luật đã thay đổi quyền của cổ đông, thể hiện rõ
trong Khoản 1 Điều 114 LDN 2014, bên cạnh hình thức: tham gia trực tiếp; thông
qua đại diện theo uỷ quyền thì còn có: các hình thức khác do pháp luật, điều lệ công
ty quy định. Các hình thức khác do pháp luật, điều lệ công ty quy định thể hiện việc
trao quyền chủ động cho các doanh nghiệp trong việc tổ chức các kỳ họp ĐHĐCĐ,
bảo đảm quyền và lợi ích của toàn bộ các cổ đông. Một số doanh nghiệp đã áp dụng
linh hoạt các hình thức khác trên như truyền hình trực tiếp, kết nối trực tiếp hai
chiều, các phần mềm họp trực tuyến đã từng bước làm cho giữa nhà quản lý với cổ
đông được gần nhau hơn.
Những thay đổi về tổ chức ĐHĐCĐ đã được triển khai theo hướng bảo vệ
tiếng nói của CĐTS, cụ thể như sau:
LDN 2005 quy định tỷ lệ 65% và 75% là những tỷ lệ sở hữu cổ phần mang
tính chất quyết định để tổ chức ĐHĐCĐ. Nhưng tỷ lệ này trong LDN 2014 lần lượt
là 51% và 65%. Việc giảm tỷ lệ cổ phần để thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ có ý
nghĩa thuận lợi trong việc triệu tập họp, thay vì phải tổ chức lại gây tốn kém.. Từ đó
quyết định các vấn đề quan trọng của công ty được nhanh chóng và đáp ứng nhu
cầu thị trường. Tuy nhiên xét trên phương diện bảo vệ CĐTS thì nó lại phản ánh
không tốt và gây bất lợi cho CĐTS, vì với quy định này sẽ làm cho các cổ đông nhỏ
không có quyền biểu quyết trong ĐHĐCĐ. Theo đó chỉ cần nhóm cổ đông hoặc cổ
đông có tỷ lệ chiếm 51% hoặc 65% cổ phần là có thể quyết định mọi hoạt động của
công ty, khi đó nhóm cổ đông 49% hoặc 35% không có quyền và không ý nghĩa
trong hoạt động biểu quyết các vấn đề trong ĐHĐCĐ.
Những thay đổi về tổ chức Đại hội đồng cổ đông đã được triển khai theo
hướng bảo vệ tiếng nói của CĐTS, cụ thể như sau:
Nếu như trước đây, LDN 2005 quy định tỷ lệ cổ đông dự họp lần thứ nhất,
lần thứ hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) lần lượt là: ít nhất 65% và ít nhất
43
51% thì Điều 141 LDN 2014 giảm xuống còn: ít nhất 51% và ít nhất 33%. Như vậy,
pháp luật đã tạo điều kiện cho các CĐTS một quyền quyết định tổ có thể tổ chức
ĐHĐCĐ hay không mà không cần chờ đến lần thứ hai, lần thứ ba.
Về tỉ lệ biểu quyết trong cuộc họp: Điều 144 LDN 2014 quy định tỷ lệ thông
qua các quyết định của ĐHĐCĐ: từ 51% đối với quyết định thông thường, từ 65%
đối với quyết định quan trọng (LDN 2005 quy định tỷ lệ cũ là 65% và 75%). Xét
trên phương diện bảo vệ CĐTS việc giảm tỉ lệ trên dường như gây bất lợi hơn cho
CĐTS so với LDN 2005, tuy nhiên đây chỉ là những tỷ lệ tối thiểu; trong trường
hợp các bên có thỏa thuận một tỷ lệ lớn hơn thì sẽ áp dụng theo tỷ lệ đó. Mặt khác,
việc giảm tỷ lệ biểu quyết theo quy định tại LDN 2014 còn hạn chế được những
trường hợp chỉ vì lợi ích của một CĐTS trong công ty mà ngăn cản những chính
sách lớn có lợi cho đa số cổ đông.
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
2.2.2.1. Những hạn chế và vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần.
Quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHĐCĐ bị hạn chế
CTCP tại Việt Nam hay lựa chọn tháng 3, tháng 4 hàng năm để tổ chức
ĐHĐCĐ thường niên. Ngoài ra, mỗi khi có những phát sinh vấn đề, các cổ đông có
thể triệu tập ĐHĐCĐ bất thường để xin ý kiến thông qua các vấn đề thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ. Hoặc CTCP cũng có thể lấy ý kiến cổ đông về một số vấn đề
quan trọng bằng văn bản. Có thể kể đến việc vi phạm quyền cổ đông phát sinh ngay
trong các cuộc ĐHĐCĐ như: Không cho cổ đông nhỏ lẻ tham dự ĐHĐCĐ bằng
nhiều hình thức như gởi thư chậm hoặc không báo. Một số công ty thì chọn địa
điểm tổ chức ĐHĐCĐ xa để cổ đông khó tham dự hoặc muốn đăng ký dự họp thì cổ
đông phải đăng ký trước mới được tham dự ĐHĐCĐ. Không cho cổ đông nhỏ lẻ
quyền biểu quyết đầy đủ tại ĐHĐCĐ: Đối với việc lấy ý kiến cổ đông bằng văn
bản, nhiều công ty đã không gửi văn bản đến cho cổ đông. Một số công ty còn quy
định cổ đông sở hữu dưới một lượng cổ phiếu nhất định nào đó thì không được
quyền biểu quyết, không được chất vấn.
44
Theo quy định tại LDN 2014, tất cả các cổ đông phổ thông đều có quyền
tham dự và biểu quyết mọi vấn đề tại kỳ họp ĐHĐCĐ. Mỗi một cổ phần phổ thông
có một phiếu biểu quyết và dù ít hay nhiều đều có quyền ngang nhau trong việc
tham dự và biểu quyết theo tỷ lệ cổ phần tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Trên thực tế, hầu
hết các CTCP đều không thực hiện triệt để nguyên tắc này và có sự phân biệt giữa
các cổ đông với nhau. Rất nhiều các lý do mà công ty đưa ra mà không dựa trên cơ
sở pháp lý cụ thể, chẳng hạn như: do địa điểm tổ chức chật hẹp, không đủ diện tích
cho tất cả các cổ đông trong công ty tham dự ngồi họp, hoặc phải một tỷ lệ nhất
định. Như vậy, để đảm bảo quyền lợi thì các CĐTS phải tập hợp lại với nhau để có
thể đạt một tỷ lệ tối thiểu và có quyền để ủy quyền cho một người đại diện đi họp
theo quy định. Thông thường các CĐTS do không có thông tin nên không thể tập
hợp nhau lại trong một thời gian ngắn nên không tham dự hoặc khi dự thì không thể
có tiếng nói chung trong cuộc họp ĐHĐCĐ, đành nhường cho các cổ đông lớn
quyết định mọi vấn đề liên quan đến lợi ích của chính mình.
Quyền thông tin của cổ đông bị hạn chế:
Sai phạm trong thực hiện BCTC gây thiệt hại cho cổ đông. Trong đó phổ
biến có các dạng gian lận BCTC: che giấu công nợ và chi phí, ghi nhận doanh thu
không có thật, định giá sai tài sản, ghi nhận sai niên độ… Sai phạm về CBTT cho
cổ đông.
Các vi phạm này thường chỉ bị phát hiện khi nó đã xảy ra hoặc để lại hậu quả
cho các cổ đông của công ty. Ở mức độ nhẹ, cổ đông không được hưởng quyền lợi
của mình một cách đầy đủ sẽ cảm thấy khó chịu, bất mãn, nhưng ở mức độ nặng,
các vi phạm này còn có thể gây ra những thua lỗ lớn cho các cổ đông. Các công ty
vi phạm vẫn có động lực để tiếp tục hành vi vi phạm do chế tài xử lý lỏng lẻo, phần
lớn các vụ việc xảy ra chỉ bị xử phạt hành chính với mức xử phạt quá nhẹ so với
những thiệt hại mà họ gây ra cho cổ đông. Mặt khác, nhiều công ty vi phạm quyền
cổ đông và bị các cổ đông khởi kiện, yêu cầu đòi bồi thường, nhưng công ty vẫn
chây ỳ, không chịu thực hiện bồi thường mặc dù tòa án đã phán quyết.
45
Về phía các cơ quan chức năng như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) hay các Sở Giao dịch Chứng khoán, việc quản lý, phát hiện và xử lý
các vi phạm quyền cổ đông vẫn chưa được toàn diện. BCTC của các CTCP vẫn chỉ
được kiểm soát dựa trên đội ngũ các công ty kiểm toán (CTKT). Hàng năm,
UBCKNN vẫn lập ra danh sách khoảng 20 - 25 CTKT được chấp thuận. Tuy nhiên,
việc quản lý các CTKT này vẫn chưa thực sự được chú trọng, nhiều trường hợp
CTKT có dấu hiệu cấu kết với các CTCP làm giả, làm đẹp BCTC nhằm che giấu kết
quả thua lỗ.
Hiện nay, các quy định pháp luật liên quan đến quyền cổ đông vẫn chưa hoàn
thiện và chi tiết để bảo vệ tối đa quyền lợi của cổ đông. Ngoài các quy định về
quyền của cổ đông theo LDN 2014 và các quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh
vực cổ phần và thị trường chứng khoán được quy định tại Văn bản số
01/VBHN/BTC (hợp nhất Nghị định số 145/2016/NĐ-CP và Nghị định số
108/2013/NĐ-CP của Chính phủ). Việt Nam hiện vẫn chưa có các quy định cụ thể
liên quan đến việc xử lý các vi phạm đối với quyền cổ đông. Bản thân các điều luật
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều điểm
hạn chế và chưa phù hợp, chẳng hạn như LDN chưa định nghĩa được rõ ràng về cổ
đông nhỏ lẻ và nhiều bất cập khác.
2.2.2.2 Những bất cập trong cách thức thực hiện quyền của cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần
Bản thân nhận thức pháp luật của cổ đông cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự bất mãn khi tham gia vốn trong các công ty cổ phần, từ đó dẫn đến
những tranh chấp kéo dài trong nội bộ công ty. Theo quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều 161 LDN 2014 quy định về “Quyền khởi kiện đối với thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”. Như vậy, rõ ràng khi các thành viên
HĐQT vi phạm điều lệ, không hoàn thành nghĩa vụ, các cổ đông không thực hiện
quyền thay thế HĐQT của mình để đảm bảo hoạt động kinnh doanh và bảo vệ vòng
vốn do mình bỏ ra, mà phải tiến hành các thủ tục khởi kiện hoặc viết đơn tố cáo yêu
cầu cơ quan Nhà nước can thiệp; hoặc khi công ty có dấu hiệu vi phạm chế độ quản
46
lý tài chính thì cổ đông không có một bất cứ quyền nào yêu cầu BKS của công ty
làm rõ mà lại yêu cầu cơ quan nhà nước thanh tra, kiểm soát.
Một số công ty đã chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình CTCP, đặc biệt
từ những công ty có nguồn gốc nhà nước, các cổ đông và người lao động có thói
quen sử dụng các thiết chế chính trị, xã hội như tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn
thanh niên như công cụ để bày tỏ nguyện vọng của mình mà không tiếp cận theo
hướng quy định pháp luật, vì thế các cổ đông chưa phát huy được vai trò và sử dụng
quyền của mình một cách hợp lý.
Bất cập liên quan đến nhóm quyền tài sản
Cổ tức được chi trả không công bằng: Thể hiện trong một số hình thức sau
đây:
Một là, chia cổ tức bằng cổ phiếu tính theo mệnh giá, không theo thị giá của
cổ phiếu khi giá cổ phiếu của công ty đang tăng lên, gây ảnh hưởng quyền lợi chung
của cổ đông. Bằng cách này các cổ đông đã lấy đi một phần thặng dư vốn của công
ty, nguồn vốn cần thiết để phát triển và người được lợi nhiều nhất là các cổ đông
lớn. Hơn nữa, cách làm nói trên còn làm giảm giá trị cổ phần của công ty bởi nó
“pha loãng” cổ phiếu công ty (tức là tăng cung về cổ phiếu công ty), và làm suy
giảm tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai.
Hai là, “cổ phần hóa’’ tạo ra thặng dư vốn và có phương án phân phối số cổ
phần đó cho cổ đông. Hay thực chất là công ty chia giá trị của doanh nghiệp cho các
cổ đông thay vì phát hành thêm cổ phần cho cổ đông, để huy động vốn. Cụ thể hơn,
các cổ đông chia cổ phần đó cho nhau để chuyển nhượng cho người khác không chỉ
thu lại vốn đã đầu tư và cả phần thặng dư vốn đáng ra là thuộc sở hữu của công ty.
Ba là, phát hành thêm cổ phần theo mệnh giá cho nội bộ khi thị giá cổ phần
của công ty cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Cách làm này
gây thất thoát cho công ty và đặc biệt o có lợi cho CĐTS, tương tự như cách làm
thứ nhất nói trên.
Tóm lại, trong quản trị điều hành đã có xung đột quyền lợi lẫn nhau giữa các
cổ đông, các cổ đông thường có xu hướng chạy theo lợi ích ngắn hạn, đầu cơ trước
47
mắt, nên không chú ý tăng cường tiềm năng phát triển lâu dài của công ty. Chính vì
vậy chính họ mà không đảm đảm bảo lợi ích lâu dài và bền vững của chính họ cũng
như cho công ty nơi mà họ tham gia đầu tư vốn.
Công ty chậm chi trả cổ tức hoặc không chịu chi trả cổ tức cho cổ đông.
Trước đây tình trạng các công ty đưa ra nhiều lý do để chưa ấn định ngày chi
trả cổ tức (chỉ thông báo chung chung rằng sẽ chi trả khi có nguồn) hoặc ấn định
ngày rồi xin lùi, xin khất rất phổ biến. Gia hạn trả cổ tức là bình thường nếu doanh
nghiệp chưa sắp xếp được nguồn vốn hoặc cần vốn để đầu tư khi cơ hội xuất hiện,
việc này chỉ bất thường khi công ty không “rõ ràng” với cổ đông. Nhiều nguyên
nhân khác nhau để lý giải cho việc trì hoãn, nhưng tựu trung lại là “chưa có tiền” -
lý do hoàn toàn hợp lý khi trong thứ bậc phân chia lợi ích tại công ty cổ phần, cổ
đông vốn xếp ở vị trí cuối cùng, điều này được quy định rõ tại Khoản 2, Điều 132,
LDN 2014 “công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức của cổ phần phổ thông khi đã hoàn
thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; đã
trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định và sau khi trả hết
số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác đến hạn”. Ngoài ra, còn một lý do chính đáng nữa là doanh nghiệp viện cớ
là tập trung dòng tiền cho hoạt động kinh doanh, tái đầu tư để đem lại lợi ích cho
doanh nghiệp, thay vì tăng vay nợ và phải chịu gánh nặng lãi vay, cuối cùng cũng là
có lợi cho cổ đông.
Ví dụ gần đây: Cổ đông của CTCP Dầu khí Đông Đô (PVC Đông Đô – mã:
PFL) vừa nhận được thông báo về việc lùi ngày trả cổ tức thêm một năm nữa đến
ngày 29/6/2020. Đây là lần thứ 10, PVC Đông Đô “khất” việc thanh toán cổ tức
năm 2010. Một trong những kỷ lục về số lần hoãn và thời gian chi trả cổ tức kéo dài
phải kể đến CTCP Sông Đà 9.06 (mã: S96) với việc hoãn thời gian trả cổ tức bằng
tiền năm 2010 tới 31/12/2021 thay vì chi trả vào ngày 31/12/2018 như thông báo
trước đó, đánh dấu lần thay đổi thứ 9 về thời hạn trả cổ tức.Trong khi đó, danh sách
cổ đông nhận cổ tức đã được chốt vào ngày 1/7/2011 với tỷ lệ thanh toán 20% bằng
48
tiền mặt. Kết quả là Cổ phiếu S96 đã bị hủy niêm yết trên Sàn chứng khoán Hà Nội
và sau đó không có thanh khoản trên thị trường.
Quyền ưu tiên mua trước bị vi phạm hoặc lạm dụng:
Một là, cổ đông đa số có số vốn và chiếm tỷ lệ lớn nên có quyền chi phối tại
ĐHĐCĐ, thống nhất bỏ phiếu để có những nghị quyết phát hành thêm cổ phần mới
theo phương thức phát hành nội bộ. Từ đó, dành cho mình quyền mua cổ phần
nhiều hơn với giá ưu đãi hoặc thông qua nó gôm thêm những cổ phần không mua
hoặc có nhu cầu chuyển nhượng lại để tăng tỷ lệ cổ phần thêm so với các cổ đông
khác.
Hai là, phát hành dưới hình thức “ưu tiên cho người lao động” với tỷ lệ khác
so với tỷ lệ sở hữu, tỷ lệ này được dựa trên thời gian làm việc. Thông thường,
những cổ đông mà vào làm quản lý doanh nghiệp đã làm việc lâu năm có vị trí cũng
như khung lương cao, nên được hưởng lợi nhiều hơn so với các cổ đông, người lao
động khác.
Ba là, kêu gọi vốn cho các cổ đông chiến lược. Đây là hình thức vận động
các cổ đông khác trở thành “cổ đông chiến lược” dựa trên quy chế do mình tạo ra.
Sau đó bắt tay nhau và “hợp pháp hóa” thanh của mình trong thời gian sớm nhất.
Các nghị quyết của ĐHĐCĐ chọn lựa cổ đông chiến lược thường giá thấp hơn, đó
cũng là cách trục lợi của các cổ đông lớn. Nhu vậy, cho thấy nguyên tắc đối xử bình
đẳng giữa các cổ đông cùng loại đã bị vi phạm; có hành vi chiếm đoạt một phần giá
trị tài sản của các cổ đông nhỏ; và có thể coi đó là một hình thức trục lợi giá trị tài
sản công ty.
Giao quyền cho thành viên HĐQT quá lớn
Theo Điều 149 LDN 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ: “Thông qua hợp
đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35%
tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, nếu Điều
lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc giá trị khác. Quy định này không áp dụng
đối với hợp đồng và giao dịch quy định, tại điểm d khoản 2 Điều 135, khoản 1 và
khoản 3 Điều 162 của Luật này”.
49
Thực tế có nhiều trường hợp, HĐQT vì có sự chủ quan trong nhận định của
mình, ra các quyết định đầu tư và mở rộng kinh doanh sai lầm, gây thiệt hai cho các
CĐTS, người mà bỏ vốn vào công ty.
Cổ đông lớn hạn chế CĐTS thực hiện quyền dự họp
Công ty yêu cầu cổ đông phải sở hữu lượng cổ phần nhất định mới được
tham dự, biểu quyến, được chất vấn tại ĐHĐCĐ. Có nhiều CTCP tự đặt ra quy định
trong Điều lệ về việc cổ đông phải nắm trong tay số lượng cổ phần nhất định mới
được tham dự ĐHĐCĐ với lý do công ty có số lượng cổ đông lớn nên không thể
thuê được địa điểm để tổ chức cho tất cả các cổ đông tham dự, chưa kể kinh phí gia
tăng, thậm chí lãng phí nếu cổ đông không tham dự; thực hiện nguyên nguyên tắc
“một cổ phần, một phiếu bầu” có thể khiến cho ĐHĐCĐ kéo dài hơn dự kiến do thủ
tục triệu tập phức tạp mà khoảng thời gian từ khi chốt danh sách đến khi họp là
ngắn (dưới 30 ngày làm việc). Hay việc quy định một tỷ lệ nắm giữ cổ phần nhất
định đã được thể hiện trong Điều lệ mà chính các cổ đông đã thông qua nên mặc
nhiên các cổ đông phải công nhận (bao gồm cả cổ đông vào công ty sau này).Ví dụ
như trường hợp của Công ty cổ phần Bánh Kẹo Hải Châu, theo như thông cáo báo
chí năm 2014 để tiến hành ĐHĐCĐ thì cho phép cổ đông sở hữu từ 12.000 cổ phần
trở lên được tham dự ĐHĐCĐ, các cổ đông còn lại có thể và có quyền liên kết đề
cử đại diện từ 18.000 cổ phần trở lên. Việc làm này đã bị báo chí và lên tiếng về
việc không bảo vệ cổ đông nhỏ, từ đó Bánh kẹo Hải Châu đã thay đổi lại thông cáo
báo chí và phương án để cho phép tất cả các cổ đông hoặc người được ủy quyền
hợp pháp đều được tham dự ĐHĐCĐ.
Công ty buộc cổ đông phải đăng ký trước mới được tham dự ĐHĐCĐ.
Trong khi LDN không có quy định nào buộc cổ đông phải đăng ký mới được
tham dự ĐHĐCĐ. Thậm chí, Luật còn quy định, cổ đông đến muộn vẫn được tham
dự đại hội và biểu quyết một số vấn đề chưa được biểu quyết. Nhưng một số công
ty vẫn cố tình đưa ra quy định buộc cổ đông phải đăng ký trước mới được tham dự
ĐHĐCĐ, gây bất tiện cho các CĐTS. Ví dụ, Tháng 2/2014, một công ty thuộc
Vinacomin tổ chức ĐHĐCĐ bất thường, yêu cầu cổ đông phải đăng ký trước, khiến
50
Ủy ban chứng khoán nhà nước phải lên tiếng, yêu cầu công ty giải trình. Sau đó,
doanh nghiệp này đã phải ra thông báo mới, cho phép cổ đông tham dự mà không
cần đăng ký. Trong thông báo họp ĐHĐCĐ năm 2014 của CTCP Than Cao Sơn
đưa ra hồi cuối tháng 2 vừa qua cũng buộc cổ đông phải đăng ký trước ngày 25/3
thì mới được Ban tổ chức đại hội chấp nhận.
Còn nhiều hình thức nhằm gây phiền toái cho việc dự hợp ĐHĐCĐ của
CĐTS như: mời họp cận ngày tổ chức, không gửi thông báo mời họp ĐHĐCĐ kèm
theo thư ủy quyền đương nhiên cho HĐQT, buộc cổ đông phải sử dụng mẫu ủy
quyền có đóng dấu treo của công ty…Có trường hợp doanh nghiệp không cho cổ
đông vào dự họp, bởi giấy ủy quyền được lấy từ website công ty, không có đóng
dấu treo. Bản có dấu treo được công ty cung cấp cho cổ đông kèm thư mời, nhưng
cổ đông không nhận được thư mời.
Cổ đông lớn hạn chế CĐTS thực hiện quyền biểu quyết
Công ty quy định bỏ phiếu tại cuộc họp ĐHĐCĐ theo đầu người, chứ không
theo số cổ phần sở hữu; Đối với việc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản, nhiều công
ty đã không gửi văn bản đến cho cổ đông hoặc gửi thiếu tài liệu; Tại đại hội, muốn
phát biểu, tranh luận cũng khó vì họp muộn, ca nhạc kéo dài, báo cáo đọc lâu nên
thời gian thảo luận đôi khi chỉ còn 10-15 phút..tất cả nhằm làm nản lòng CĐTS.
Cổ đông lớn cố tình vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, cố tình sai phạm
trong thực hiện Báo cáo tài chính.
Một số quy định về quyền cổ đông chưa phù hợp cho lắm, đã cản trở cổ
đông, đặc biệt là nhóm CĐTS tiếp cận thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty và tham gia vào các quyết định quan trọng của công ty. Ví dụ, khoản 2
Điều 114, khoản 4 Điều 149 LDN2014 yêu cầu cổ đông phải có thời gian sở hữu tối
thiểu từ 10% cổ phần và trong 6 tháng liên tục mới có quyền đề cử người vào
HĐQT.
Trên thực tế các CTCP không bao giờ tự nguyện công bố thông tin hoặc
công bố thông tin một cách trung thực; việc công bố thông tin còn mang tính hình
thức và đối phó, cổ đông lớn hoặc là hạn chế quyền tiếp cận thông tin của CĐTS
51
hoặc là che giấu hầu hết các thông tin quan trọng để sử dụng cho mục đích tư lợi,
gây ra những thiệt hại đáng kể cho các CĐTS. Thời gian gần đây nhiều trường hợp
cổ đông nội bộ tại các doanh nghiệp niêm yết vi phạm quy định về công bố thông
tin trước khi thực hiện mua, bán cổ phiếu bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sợ
giao dịch chứng khoán xử phạt. Các dạng gian lận Báo cáo tài chính có thể kể đến
như: che giấu công nợ và chi phí, ghi nhận doanh thu không có thật, định giá sai tài
sản, ghi nhận sai niên độ, gây thiệt hại cho cổ đông.
Cổ đông thiểu số thực sự chưa đủ thông tin để thực hiện quyền khởi kiện
Các cổ đông chưa thực sự thuận lợi trong khởi kiện những người quản lý do
vi phạm trong điều hành công ty hoặc ngăn ngừa việc ký kết và thực hiện giao dịch
mà có thể gây thiệt hại cho công ty., cổ đông hiện không có nhiều quyền tiếp cận
các thông tin về giao dịch giữa công ty với người có liên quan, không được quyền
tiếp cận các nghị quyết của HĐQT. Theo quy định Điều 147, 161 LDN 2014, khi
CĐTS phát hiện những sai sót, gian lận trong quá trình điều hành của cấp quản lý
công y đều có quyền khởi kiện, đều có quyền kiến nghị, yêu cầu đối với công ty và
khi xảy ra mâu thuẫn, xung đột quyền lợi, thì giải pháp cuối cùng là có quyền tự
mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với người quản lý
công ty. Tuy nhiên, quyền khởi kiện ra tòa không dành cho cổ đông quá nhỏ. Chỉ cổ
đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn
06 tháng trở lên mới có quyền khởi kiện và phải trả chi phí khởi kiện khi bị bác đơn
Tuy nhiên, thứ nhất do về mặt tâm lý người dân Á Đông nhìn chung không
thích kiện; thứ hai là về mặt thủ tục, nó rắc rối, rườm rà; thứ ba là về mặt ý thức của
nhà đầu tư, họ chưa quen với việc kiện tụng, mà thường quen với việc gửi đơn kiến
nghị hơn. Phần lớn các nhà đầu tư nhỏ thường khiếu nại lên Ủy ban Chứng khoán
(UBCK) hay Sở Giao dịch chứng khoán, chứ họ không thực hiện quyền kiện dù đây
là quyền rất lớn và thực hiện triệt để hơn. Một yếu tố nữa khiến việc kiện tụng ít xảy
ra là thi hành án. Ngay cả khi đã thắng kiện ở tòa, thì việc thi hành án cũng rất lâu,
thêm vào đó việc kiện là vì lợi ích chung của công ty, nhưng CĐTS là người chịu
thiệt ít hơn, nên cũng có tâm lý ngại khởi kiện.
52
Kiểm soát viên chưa thực sự hoạt động đúng quy định
Ngoài ra một số quy định khác của LDN 2014 về quản trị doanh nghiệp cũng
chưa rõ ràng và chưa phù hợp với thực tiễn. Ví dụ, khoản 2 Điều 164 LDNyêu cầu
kiểm soát viên công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là
kiểm toán viên hoặc kế toán viên là yêu cầu cao hơn so với thực tế; do số lượng
kiểm toán viên, kế toán viên đã có chứng chỉ, đáp ứng đủ yêu cầu LDN là không
nhiều.
Ban kiểm soát vẫn là lao động, ký hợp đồng và được trả lương từ người
quản lý công ty, vì vậy rất khó thực hiện đủ hết chức năng và nhiệm vụ theo pháp
luật quy định đối với Ban kiểm soát, nên rất nhiều khoản sai phạm mà BKS phát
hiện không ra hoặc ngại va chạm trong thực thi nhiệm vụ. Do đó, rủi ro mà nhà đầu
tư và cổ đông khi đầu tư vốn vào công ty sẽ bị gánh chịu một cơ chế làm việc thiếu
minh bạch và thiếu cơ sở theo đúng chức năng cấu trúc của công ty cổ phần.
Tiểu kết chương 2
Pháp luật về bảo vệ CĐTS ra đời từ Luật Công ty 1990 đến LDN 2014 đã có
những quy định cụ thể về cách thức quản trị và nguyên tắc hoạt động của CTCP.
Tuy nhiên, cho thấy giữa các quy định quyền của các cổ đông trong luật so với thực
tế vẫn chưa được thực thi, cách áp dụng chưa thống nhất triệt để. Việc thực hiện,
giám sát chưa nghiêm từ các mối có liên quan đến vấn đề bảo vệ CĐTS và một
phần thiếu thông tin cũng là một phần tạo ra vấn đề chưa đảm bảo quyền lợi cho
CĐTS. Chương 2 của luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về quyền lợi của
CĐTS trong CTCP theo quy định pháp luật như nhóm quyền về tài sản, nhóm
quyền về thông tin... Bên cạnh đó, cũng phân tích các cơ chế bảo vệ CĐTS được
quy định theo pháp LDN hiện hành, đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế
trong thực hiện pháp luật về quyền của CĐTS.
53
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO
VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ
3.1. Nhu cầu, định hướng nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của cổ
đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam.
Xây dựng khung khổ pháp lý tốt về quản trị doanh nghiệp là một yêu cầu
quan trọng; đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng mà đòi hỏi phải có tính chuyên
môn và tính kỹ thuật cao. Quy định pháp lý về quản trị doanh nghiệp không có tác
động ngay tức thì như quy định về thành lập doanh nghiệp hay nghĩa vụ thuế, tuy
nhiên, có tác động đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế mà trước tiên là củng
cố niềm tin của nhà đầu tư. Bảo vệ nhà đầu tư là một trong các yếu tố quan trọng
cho sự phát triển của nền kinh tế, bởi vì nhà đầu tư sẽ không bỏ vốn kinh doanh nếu
như quyền và lợi ích chính đáng của họ không được pháp luật bảo vệ và đảm bảo,
nhất là trong điều kiện của một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam.
LDN 2014 có những bước tiến bộ và thành công hơn so với LDN 2004, Luật công
ty 1990 và LDN 1999, thể hiện qua số lượng và quy mô của các doanh nghiệp được
thành lập tăng lên nhanh chóng và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển của
nền kinh tế. Theo Báo cáo số 444/BC-UBTVQH11 ngày 19/11/2005, Quốc hội luôn
khẳng định trong những lần thay xây dựng và hoàn thiện dự thảo pháp LDN đều
cho rằng một trong những tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng LDN là tăng cường
bảo vệ cổ đông, đặc biệt là CĐTS.
Trong thời gian tới, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ CĐTS cần những
nguyên tắc định hướng hướng đến và bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, Pháp luật phải bảo vệ cổ đông phải trên nguyên tắc bình đẳng mà
không có sự phân biệt cổ đông lớn hay CĐTS; cổ đông định chế hay cổ đông cá
nhân; cổ đông nhà nước hay tư nhân; cổ đông trong nước hay nước ngoài. Đối xử
bình đẳng giữa các cổ đông chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản
trị công ty được quy định trong Bộ nguyên tắc quản trị công ty do OECD phát hành
năm 2019.
54
Thứ hai, Pháp luật bảo vệ cổ đông phải đảm bảo sự hài hoà, cân bằng lợi ích
giữa các nhóm cổ đông lớn và CĐTS.Vấn đề tương quan về lợi ích, vị thế, đặc điểm
của các loại cổ đông cũng là những vấn đề khá phức tạp cho các nhà làm luật khi
xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Nói đến bảo vệ CĐTS là
nói đến bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ trong công ty. Song, thế nào là
quyền lợi ích chính đáng cũng là một câu hỏi khó trả lời, bởi vì bảo vệ lợi ích cổ
đông này nhưng không thể làm thiệt hại đến cổ đông kia trong cùng một công ty.
Nếu pháp luật quy định điều kiện để ĐHĐCD tiến hành và biểu quyết với một tỷ lệ
thật cao thì sẽ có lợi cho CĐTS, giúp tỷ lệ của họ có trọng lượng. Song, cũng có thể
gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp cũng như tốn kém chi phí, cơ hội, trong
khi về nguyên tắc nhận lợi nhuận và chịu lỗ sẽ chia theo tỷ lệ tương ứng với cổ phần
của của họ. Tuy vấn đề bảo vệ cổ đông không chỉ thực hiện thông qua cơ chế biểu
quyết ĐHĐCĐ hay HĐQT, nhưng những con số về tỷ lệ tối thiểu 51%, 65%, 75%
khi biểu quyết thông qua ĐHĐCĐ luôn là chủ đề được tranh luận trong các nhà làm
luật, các luật gia và nhà nghiên cứu... Pháp luật công ty không thể quá thiên vị, bảo
vệ nhóm CĐTS hay nhóm cổ đông đa số một cách thái quá, vượt quá mức độ cần
thiết.
Thứ ba, các quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số phải nhằm phát triển chung
và định hướng theo công ty. Việc xây dựng các quy định phải để công ty có thể hoạt
động kinh doanh hiệu quả vì lợi ích chung chứ không cản trở các hoạt động kinh
doanh,mất thời gian và chi phí không đáng có của công ty.
Các quy định về bảo vệ cổ đông cũng phải tính đến vấn đề chi phí tức là hiệu
quả kinh tế, để nó không phải là gánh nặng tài chính cho công ty. Trong những năm
qua, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của CTCP và thị trường chứng khoán đã
đóng góp cho nền kinh tế quốc gia. Chính loại hình này mà chúng ta có được những
ty phát triển xứng tầm thế.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả bảo vệ CĐTS nhằm xây dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh để thu hút đầu tư.
55
Nền kinh tế của quốc gia ngoại trừ đầu tư công thì được hình thành từ nguồn
vốn và hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài.Thu hút được nhiều nhà đầu tư thì nền kinh tế sẽ càng
phát triển và đem lại hiệu quả rõ rệt cho các ngành trong xã hội. Do đó chúng ta
phải hoàn thiện một cơ chế pháp luật làm sao thuận lợi cho môi trường đầu tư trong
đó việc bảo hộ quyền lợi là đặt lên hàng đầu.
Về môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều bất cập dù rất
tiềm năng, sự bất cập đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau. Đa phần là do chính sách quản lý của nhà nước chưa kịp thời, nền tảng
tri thức của chúng ta chưa đủ hấp thụ, văn hoá doanh nghiệp, thời gian và chi phí
mà một doanh nghiệp trong nước phải bỏ ra để đáp ứng được các quy định kinh
doanh như thành lập và vận hành doanh nghiệp, giao dịch thương mại quốc tế, nộp
thuế, giải thể doanh nghiệp. Chúng ta không thể phủ nhận rằng công tác bảo vệ các
nhà đầu tư nói chung và các CĐTS nói riêng còn nhiều việc phải thay đổi nhằm
nhiều tình trang tranh chấp xảy ra, hạn chế vấn đề tham nhũng trong điều hành quản
trị. Nếu có được sự nhìn nhận và thấu hiểu như vậy, một kế hoạch hành động nhanh
gọn và cầu tiến, chắc chắn sẽ góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh lành
mạnh,hấp dẫn nhất cho các nhà đầu tư .
Trước môi trường kinh doanh Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế cùng với sự
cần thiết phải thu hút các nhà đầu tư là yếu tố bắt buộc nếu muốn hội nhập, chúng ta
cần phải thu thập, lắng nghe những nhà đầu tư, thực hiện cải tiến nhanh chóng một
cách hiệu quả vấn đề bảo vệ CĐTS, đây là kế hoạch quan trọng và cần thiết để xây
dựng một hệ thống pháp luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông thiểu số, từ đó tạo được
môi trường kinh doanh lành mạnh, là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư, tạo sự
yên tâm bỏ vốn vào thị trường từ những nhà đầu tư trong nước lẫn các nhà đầu tư
ngoài nước.
3.2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp tại
Việt Nam.
56
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông thiểu số
3.2.1.1. Thay đổi quy định về điều kiện thành lập nhóm cổ đông
Khoản 2 Điều 138, LDN 2014 quy định: “cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy
định tại khoản 2 Điều 114 của Luật này có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương
trình họp Đại hội đồng cổ đông”.
Khoản 2 Điều 114, LDN 2014 quy định “cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc
một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ tại Điều lệ công ty có các quyền ...”.
Theo tác giả, tỷ lệ 10% là khá lớn để các CĐTS có thể gôm lại đủ tỷ lệ như trên để
có thể sử dụng hết quyền trên, ngoài ra còn phải thoả mãn điều kiện là phải sở hữu
liên tục ít nhất 06 tháng là “làm khó” CĐTS trong việc thực hiện quyền của họ, và
trong trường hợp này, là làm giảm tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp. Như
vậy nếu cổ đông lớn họ nhận chuyển nhượng thêm thì có được biểu quyết hay
không thì không có ý nghĩa, luật không đề cập đến, trong khi các cổ đông nhỏ thì bị
ràng buộc bởi quy định trên.
Như trường hợp, năm 2018 nhà đầu tư từ Thái Lan đã chi gần 5 tỷ USD để
sở hữu lượng lớn cổ phần tại Tổng công ty Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn
(Sabeco) nhưng không thể ngay lập tức có thể tham gia vào điều hành công ty, bởi
bị giới hạn do quy định phải sở hữu cổ phần liên tục trên 6 tháng. Quy định này cho
thấy đã hạn chế quyền của cổ đông và đặc biệt là nhóm CĐTS. Vì vậy, việc tăng
quyền cho cổ đông nhỏ là cần thiết, và giảm mạnh tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhỏ hơn
10% (theo tác giả nên 3%) như Khoản 2 Điều 114 LDN 2014 đã quy định có quyền
tiếp cận thông tin và can thiệp vào hoạt động của DN cũng có thể dẫn đến tình trạng
đối thủ cạnh tranh mua cổ phần và gây khó dễ, thậm chí quấy phá DN. Bên cạnh đó
còn có nguy cơ đẩy chi phí quản trị doanh nghiệp tăng cao. Tuy nhiên một tỷ lệ nhỏ
hơn 10% sở hữu cổ phần của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán là có tổng số vốn đã đầu tư rất lớn. Và với một nhà đầu tư, bản thân họ phải
hành động dựa trên lợi ích của tỷ lệ cổ phần đó đem lại, không ai mạo hiểm hy sinh
quyền lợi của mình để quấy phá rối doanh nghiệp. Hơn nữa, thông lệ thế giới, quản
57
trị công ty ở các nước đều đề cao quyền cổ đông, hệ thống pháp luật các nước luôn
có xu hướng bảo vệ cao nhất quyền cổ đông, trong đó có các CĐTS để nhà đầu tư
yên tâm, đã bỏ vốn đầu tư là được bảo đảm quyền lợi. Nếu muốn tăng cường khả
năng quản trị doanh nghiệp dần tiếp cận theo chuẩn quốc tế thì không thể không đi
theo xu hướng này.
3.2.1.2. Về quyền nhận cổ tức
Mặc dù đã có những quy định mới về quyền nhận cổ tức của cổ đông theo
Điều 132 LDN 2014, tuy nhiên theo chúng tôi để giải quyết tình trạng chậm chi trả
cổ tức, không chịu chi trả cổ tức cho cổ đông đang diễn ra phổ biến trong thời gian
gần đây một cách triệt để.
Theo quy định pháp luật hiện nay không can thiệp sâu vào việc chi trả cổ tức
của doanh nghiệp, mà giao toàn quyền cho ĐHĐCĐ - cơ quan quyền lực cao nhất
trong CTCP quyết định. Nhưng trong thực tế, ĐHĐCĐ của các công ty thường chỉ
thông qua tỷ lệ cổ tức, còn thời gian thanh toán thường được ủy quyền cho HĐQT
quyết định. Sau khi HĐQT quyết định chi trả cổ tức cho cổ đông và ngày đăng ký
cuối cùng được xác lập. Về luật thì cổ đông có quyền khởi kiện doanh nghiệp nợ cổ
tức ra tòa án, nhưng trên thực tế, việc khởi kiện được đánh giá khó khả thi. Giả sử,
cổ đông nhỏ có thắng kiện thì cũng có nhiều khó khăn để bản án được thi hành,
chưa kể nếu có đòi được cũng không tương xứng với chi phí và công sức bỏ ra.
Vì vậy, cần phải hoàn thiện thêm các quy định pháp luật như sau: Việc chi
trả cổ tức đúng thời hạn là trách nhiệm và nghĩa vụ của Giám đốc/ Tổng giám đốc
hoặc Chủ tịch HĐQT; nếu không thực hiện được đúng những người này phải chịu
trách nhiệm cá nhân tương tự như việc trách nhiệm về công bố thông tin. Bởi nếu
chỉ bắt doanh nghiệp trả thêm lãi suất hay lãi phạt, thì bản chất tiền đó cũng là chi
phí hoạt động của doanh nghiệm, xét cho cùng cũng là tiền của các cổ đông của
doanh nghiệp. Hoặc phải có quy định nếu doanh nghiệp vi phạm, thì bất cứ cổ động
nào cũng có quyền khởi kiện yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng hoặc bồi thường
cho những thiệt hại mà doanh nghiệp gây ra cho mình.
58
3.2.1.3. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Được quy định tại Điều 129 LDN 2014: “cổ đông biểu quyết phản đối nghị
quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy
định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Việc
yêu cầu này phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội
đồng cổ đông thông qua nghị quyết về các vấn đề quy định tại khoản này”. Nội
dung văn bản yêu cầu phải có tối thiểu các thông tin sau: tên, địa chỉ của cổ đông,
số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Giá mua
lại cổ phần được tính theo giá thị trường hoặc theo quy định của điều lệ công ty.
Nếu các bên không thỏa thuận được công ty sẽ giới thiệu ít nhất 3 tổ chức định giá
để cổ đông lựa chọn và đó sẽ là kết quả cuối cùng. Công ty thực hiện việc mua lại
cổ phần của cổ đông trong vòng 90 ngày kể từ ngày có yêu cầu. Như vậy quy định
cho thấy, thời gian mua lại là khá dài, thông thường việc đề nghị công ty mua lại rơi
vào đa số là các CĐTS, họ là nhóm cổ đông dễ bị tác động tiêu cực từ các quyết
định của nhóm cổ đông lớn. Vì họ không có nhiều quyền trong công ty, nên việc
kéo dài thời gian như trên là không cần thiết, vì một khi các cổ đông đã yêu cầu
công ty mua lại là họ đã không mong muốn tham gia đầu tư dài hạn. Do vậy pháp
luật nên quy định rút ngắn thời gian lại trong trường hợp cổ đông yêu cầu công ty
mua lại theo quy định, chính việc này làm cho các CĐTS có điều kiện thu hồi vốn
và đầu tư ở những nơi có khả năng sinh lời theo nhu cầu. Ngoài ra, quy định về mức
giá cổ phần được xác định bằng cách thức định giá của tổ chức chuyên nghiệp ,
pháp luật cũng không quy định cụ thể vấn đề chi phí định giá thuộc về cổ đông hay
phía công ty. Vì vậy, nên quy định rõ ràng để dễ thực thi khi triển khai thực hiện
3.2.1.4. Hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết
Trước đây, LDN 2005 chỉ quy định 2 hình thức dự họp truyền thống là tham
dự trực tiếp và ủy quyền cho người khác. LDN2014 đã cấp tiến theo lộ trình quốc tế
hoá, áp dụng công nghệ thông tin nên đã bổ sung các hình thức khác như hình thức
hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử khác; gửi phiếu biểu
quyết đến cuộc họp thông qua thư, fax, thư điện tử.
59
Dù việc tổ chức ĐHCĐ trực tuyến đã được luật hóa, tháo gỡ băn khoăn liệu
đại hội trực tuyến có hợp pháp, nhưng số lượng doanh nghiệp tổ chức đại hội đồng
cổ đông trực tuyến rất hiếm.
Vì vậy, pháp luật cần quy định cụ thể hình thức khác bao gồm những hình
thức nào, đối với mỗi hình thức quy định rõ quy trình, thủ tục và các điều kiện thực
hiện để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng quy định trên thực tế một cách có hiệu
quả. Ngoài ra cần quy định cơ quan giám sát việc thực hiện cách thức tham dự và
thực hiện biểu quyết cho chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của cổ đông.
LDN 2014 đã quy định không bắt buộc việc bầu thành viên Hội đồng quản
trị và Ban kiểm soát phải theo phương thức bầu dồn phiếu. Nếu doanh nghiệp bỏ
phương thức bầu cử này, mà chuyển sang phương thức bầu cử thông thường, thì
nhóm CĐTS gần như không có cơ hội bầu đại diện của mình vào cơ quan quản trị
và kiểm soát doanh nghiệp. Vì vậy tác giả kiến nghị, việc quy định việc bầu thành
viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát nên theo hình thức và bắt buộc phải thực
hiện theo phương thức bầu dồn phiếu như quy định của LDN 2005. Đồng thời, việc
bầu thành viên độc lập Hội đồng quản trị phải được tiến hành đồng thời với bầu các
thành viên khác. Việc quy định bầu HĐQT và BKS quy định tại khoản 3 Điều 144
LDN năm 2014 cần phải được sửa đổi theo hướng bảo vệ, nâng cao quyền của
CĐTS trong CTCP; việc bãi miễn thành viên hội đồng quản trị phải có cơ sở, điều
kiện và lý do rõ ràng.
3.2.1.5. Quyền yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông.
Theo khoản 3 Điều 114 và Khoản 6 Điều 136 LDN 2014 quy định “quyền
của cổ đông và nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng sồ cổ phần phổ thông trở lên
trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ nhỏ hơn quy định tại Điều lệ
công ty có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông…..”; Việc xác định HĐQT vi
phạm quyền nghiêm trọng…như vậy thế nào là vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy rất
khó áp dụng cho cổ đông có quyền chính thức trong việc thực thi điều này. Vì vậy
cần cụ thể hoá trong pháp luật hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành để các
CĐTS có định lượng trong việc thực thi quyền của mình. Ngoài ra tính chi tiết sẽ
60
làm kim chỉ nam cho các nhà quản lý có trách nhiệm và biết được mình phải làm gì
đối với quyền và nghĩa vụ tương ứng chức vụ được ĐHĐCĐ giao phó.
Đối với vấn đề triệu tập ĐHĐCD bất thường, tại Điểm a, Khoản 3 Điều 136
LDN 2014 cho phép HĐQT triệu tập họp bất thường ĐHĐCĐ “nếu xét thấy cần
thiết vì lợi ích của công ty”, cho thấy khá rủi ro và bất lợi cho CĐTS. Bởi vì, HĐQT
thường là đại diện cho các cổ đông lớn, việc cho phép HĐQT toàn quyền quyết định
trong việc triệu tập ĐHĐCĐ bất thường một cách tuỳ tiện, sẽ làm ảnh hưởng đến
tình hình hoạt động của công ty. Đặc biệt, việc quy định tổ chức ĐHĐCĐ bất
thường được tổ chức như thế nào khi thời hiệu tổ chức ĐHĐCĐ thường niên vẫn
còn (từ 4 đến 6 tháng kể từ khi thời hiệu tổ chức ĐHĐCĐ thường niên vẫn còn. Một
sốt CTCP trong thời gian qua, trong thời gian chuẩn bị ĐHĐCĐ thường niên, thì
HĐQT triệu tập ĐHĐCĐ bất thường, nhằm để thực hiện một số mục tiêu của các cổ
đông lớn, gây ảnh hưởng và xâm phạm đến quyền lợi của CĐTS . Khi các cổ đông
khiếu nại, thì lý do vì lợi ích công ty được cho rằng là quan trọng hoặc cho rằng làm
đúng luật. Vì vậy đề nghị pháp luật LDN nên quy định lại theo hướng “Trong thời
gian tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên, doanh nghiệp không được tổ chức
Đại hội đồng cổ đông bất thường để giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của
ĐHĐCĐ bất thường để giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng
cổ đông thường niên”.
3.2.1.6. Đối với nhóm quyền về thông tin và kiểm soát
Hiện nay, yêu cầu về công khai và minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp đối
với các cổ đông nói chung còn yếu, chưa thật đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc
tế; chưa có cơ chế kiểm tra và giám sát chất lượng của các thông tin được công bố
đến cổ đông. Ngoài ra, các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch hóa
thông tin bên trong của doanh nghiệp còn mang tính hình thức, sơ sài. Các quy định
của LDN 2014 cũng cho thấy sự hạn chế trong các cơ chế kiểm tra và giám sát các
thông tin công bố ra ngoài của các công ty cổ phần gây ra rất nhiều thiệt hại cho thị
trường, cho các cổ đông, cho các nhà đầu tư và cho tất cả các bên liên quan.
61
Vì vậy, cần hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch hóa thông tin trong
quản trị công ty để đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; đồng thời,
nâng cao yêu cầu công khai hóa thông tin đối với công ty, mở rộng quyền tiếp cận
thông tin cho cổ đông, tăng cường quyền của cổ đông được tiếp cận thông tin theo
định kỳ hoặc theo yêu cầu đối với mọi cổ đông khi có nhu cầu, không hạn chế về tỷ
lệ sở hữu cổ phần trong công ty cổ phần mới có thể tiếp cận thông tin, đặc biệt đối
với các thông tin về quản lý và giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi của công ty.
Chính vì điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước,
Nhà nước là trung tâm lưu trữ thông tin về các doanh nghiệp, và công khai để có cơ
sở và tạo sự an toàn cho các hoạt động kinh doanh và giao dịch của cộng đồng
doanh nghiệp. Thông qua đó, các doanh nghiệp, các cổ đông có thể truy tìm thông
tin nhằm đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm thông tin cần thiết của các tổ chức, cá
nhân.
3.2.1.7. Quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi
Cần có sự sửa đổi nhất định đối với quy định về kiểm soát giao dịch lớn
trong cổ phần của pháp luật hiện hành để tránh tư lợi và gây ảnh hưởng đến quyền
lợi của CĐTS.Trước hết về các hình thức biểu hiện của giao dịch cần phải kiểm
soát, có thể lựa chọn một trong hai cách khắc phục như sau: dỡ bỏ toàn bộ các quy
định về biểu hiện của giao dịch được liệt kê trong 135 của LDN 2014 (bán, đầu tư)
và chỉ cần quy định theo hướng “các giao dịch có giá trị từ 35% hoặc 50% giá trị tài
sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất cần có sự thông qua ĐHĐCĐ”. Hai là, giữ
nguyên quy định hiện hành về việc liệt kê các hình thức biểu hiện giao dịch nhưng
bổ sung thêm hai hình thức “cho vay và vay” trong quy định tại điểm h Khoản 2
Điều 149 thẩm quyền của HĐQT vào điểm d khoảng 2 Điều 135. Sự sửa đổi này sẽ
tạo ra sự thống nhất trong cách thiết kế quy định pháp luật về cùng một vấn đề ở các
doanh nghiệp khác nhau.
Về vấn đề kiểm soát các giao dịch tư lợi được ghi nhận trong Điều 162
LDN2014, xác định trường hợp hợp đồng cần phải có sự kiểm soát, chủ thể có thẩm
quyền kiểm soát, trình tự thủ tục kiểm soát và hậu quả pháp lý trong trường hợp các
62
hợp đồng trên không được giao kết theo đúng quy định của pháp luật. Đây là việc
vô cùng cần thiết để đảm bảo các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp và các
chủ thể có mối liên hệ nhất định với doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan, minh
bạch và xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp mà không trở thành một cơ hội để
“rút ruột” doanh nghiệp của các chủ thể có “vai vế” nhất định trong tổ chức này.
Nhìn từ góc độ thực tiễn áp dụng, nội dung Điều 162 LDN 2014 lại có những điểm
bất cập và chưa hợp lý để vận dụng và áp dụng như sau:
Một là, ngay trong cách đặt tên của các điều luật là “hợp đồng, giao dịch của
công ty phải được Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông chấp thuận” (Điều
162) đã là một sự bất hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
giao dịch bao gồm hai loại là “hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng” vậy trong
trường hợp này, các quy định liệt kê cả “hợp đồng và giao dịch” là nhằm đề cập đến
đối tượng cần phải kiểm soát bao gồm cả “hợp đồng và hành vi pháp lý đơn
phương”. Tuy nhiên, hành vi pháp lý đơn phương là một loại giao dịch chỉ đề cập
đến ý chí của một chủ thể, trong khi đó hợp đồng là loại giao dịch đề cập đến hành
vi của ít nhất là hai chủ thể trở lên. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều
162 của LDN năm 2014 hướng tới giao dịch gồm ít nhất hai chủ thể trở lên, do đó,
trong tên gọi của những điều luật trên dùng thuật ngữ “giao dịch” là không cần
thiết. Ở đây, chỉ cần dùng thuật ngữ “hợp đồng” là đủ truyền tải nội dung cũng như
mục đích của việc thiết kế những quy định trên.
Hai là, mặc dù tên gọi của các điều luật nêu trên đề cập đến “hợp đồng”
nhưng nội dung cụ thể được triển khai trong từng điều luật lại đề cập đến “dự thảo”
hợp đồng khi quy định về trình tự, thủ tục kiểm soát hợp đồng“người đại diện theo
pháp luật hoặc Hội đồng quản trị trình dự thảo hợp đồng hoặc nội dung chủ yếu
của giao dịch cho Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông” quyết định tùy
theo giá trị của hợp đồng đối với công ty cổ phần (Điều 162 LDN 2014). Điều này
đã dẫn đến những lúng túng, khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp khi thực
hiện trình tự, thủ tục kiểm soát đối với những hợp đồng này. Sở dĩ như vậy là bởi vì
trong quá trình đàm phán và giao kết hợp đồng, các bên trong hợp đồng có thể phải
63
trao đổi vô cùng nhiều các loại giấy tờ, văn bản để có thể đi đến thống nhất ý chí
với nhau. Nếu theo tinh thần của những điều luật trên thì tất cả những loại văn bản
mà các bên trao đổi cho nhau đều là các dự thảo hợp đồng và đều phải có sự “đồng
ý” hoặc “chấp thuận” của Hội đồng thành viên, HĐQT hoặc ĐHĐCĐ… Mỗi lần
như vậy, các cơ quan này lại phải tổ chức họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản để có
thể xem xét và thông qua những bản dự thảo hợp đồng. Như vậy, đến khi đến được
quá trình ký kết hợp đồng, thì sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức để các cơ quan
có thẩm quyền trong doanh nghiệp thực hiện được quyền kiểm soát đối với những
hợp đồng có khả năng dẫn đến tình trạng tư lợi này. Trong khi việc kiểm soát đến
mức chi tiết, cụ thể từng văn bản trao đổi trong quá trình trao đổi là không thực sự
cần thiết.
Tóm lại để khắc phục tình trạng bất hợp lý trên, có thể thiết kế lại những quy
định Điều 162 theo hướng để các cơ quan có thẩm quyền trong các doanh nghiệp có
thể kiểm soát được những “hợp đồng” dễ phát sinh tư lợi thì họ phải thông qua hai
thủ tục: Thứ nhất, thông qua chủ trương của hợp đồng và nội dung này giữ lại toàn
bộ quy định hiện hành về thủ tục thông qua dự thảo hợp đồng trong LDN 2014. Thứ
hai, thông qua hợp đồng sau khi đã thống nhất ý chí giữa các bên trong hợp đồng và
bản thân doanh nghiệp cần kiểm soát phải có nghĩa vụ thông báo cho chủ thể phía
bên kia về thủ tục kiểm soát như là điều kiện để phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
3.2.1.8. Đối với quyền yêu cầu huỷ bỏ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông
Điều 147 LDN 2014 quy định cổ đông có quyền yêu cầu tòa án, trọng tài hủy
nghị quyết ĐHĐCĐ trong một số trường hợp, điều này nghĩa là trao cho Toà án
hoặc Trọng tài có thẩm quyền hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Tác giả cho rằng,
không nên trao cho họ thẩm quyền này bởi việc yêu cầu hủy bỏ quyết định của
ĐHĐCĐ không phải là một tranh chấp thương mại, do đó theo Luật Trọng tài
thương mại 2010 thì trọng tài không thể thụ lý giải quyết yêu cầu này, vì vậy không
nên quy định cho Trọng tài quyền này.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ nội bộ đối với cổ đông thiểu số
64
Để việc bảo vệ CĐTS được hiệu quả và đạt được tính công bằng giữa các cổ
đông chúng ta cần hoàn thiện cơ chế bảo vệ nội bộ, trong đó quan trọng hơn cả là
cần phải đẩy mạnh việc hoàn thiện chế định pháp lý về ban kiểm soát, để cơ quan
này thực hiện đúng vai trò giám sát của mình trong CTCP, tránh quyền lực trong
CTCP dồn và tập trung vào HĐQT và GĐ/TGĐ. Nếu như chế định về BKS được
xây dựng một cách hoàn thiện, mang tính độc lập, không bị chi phối bởi HĐQT thì
cơ quan này sẽ mang lại nhiều hiệu quả trong việc giám sát hoạt động của HĐQT,
quy trình chuẩn bị chương trình, nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ và cả công tác tổ chức
cuộc họp ĐHĐCĐ để đảm bảo tiến hành ĐHĐCĐ sẽ diễn ra đúng theo trình tự thủ
tục, tinh thần pháp luật. Từ đó các vi phạm của HĐQT và các cổ đông lớn ít đi và
đảm bảo quyền lợi cho CĐTS.
Ngoài ra để đảm bảo hiệu quả thực thi các quy định về Bảo vệ nhà đầu tư tức
là bảo vệ CĐTS, tác giả kiến nghị một số sửa đổi trong pháp luật hiện hành, như
sau:
Thứ nhất, sửa đổi quy định về mức độ chịu trách nhiệm của người quản lý
Để đảm bảo các nguyên tắc: người quản lý doanh nghiệp phải làm việc vì lợi
ích cao nhất của cổ đông và quyền lợi của cổ đông cũng cần phải được bảo vệ ở
mức độ cao nhất, đề nghị xem xét sửa đổi Khoản 4, Điều 162, LDN năm 2014 như
sau: “Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật khi được
ký kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận theo quy định tại Khoản 2 và
Khoản 3 Điều này hoặc nếu bị cổ đông khởi kiện và được xác định là có gây thiệt
hại cho lợi ích của công ty. Nếu hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu theo quy định này
và/hoặc gây thiệt hại cho công ty hoặc quyền lợi của các cổ đông khác, cổ đông có
quyền yêu cầu người chấp thuận, ký kết hợp đồng và cổ đông, thành viên Hội đồng
quản trị, hoặc giám đốc hoặc tổng giám đốc có liên quan phải liên đới bồi thường
thiệt hại phát sinh hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực hiện
hợp đồng, giao dịch đó”.
Thứ hai, sửa đổi quy định về khởi kiện người quản lý
65
Khoản 2, Điều 161, LDN 2014 quy định: “Chi phí khởi kiện trong trường
hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của
công ty, trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện.” Tuy nhiên,
nên xem xét sửa đổi quy định này thành nội dung như sau: “Trình tự, thủ tục khởi
kiện thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Chi phí
khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ
tính vào chi phí của công ty”.
Thứ ba, sửa đổi quy định về việc kiêm nhiệm vị trí chủ tịch HĐQT và CEO
Việc có nên cho phép chủ tịch HĐQT của CTCP đồng thời đảm nhiệm vị trí
điều hành hay không vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Trên thế giới, xu hướng
chung là các doanh nghiệp tách bạch giữa vị trí chủ tịch HĐQT (người trong hội
đồng hoạch định chiến lược) và Giám đốc/ Tổng giám đốc (CEO- người điều hành
và thực hiện chiến lược), nhưng tại Việt Nam, trong bối cảnh các doanh nghiệp
chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản trị ở cấp HĐQT và Giám đốc/ Tổng
giám đốc, việc tách bạch hai vị trí này chưa hẳn đã tốt và thuận lợi vì gây tốn kém
cũng như bộ máy cồng kềnh. Hiện nay, pháp luật Việt Nam không cấm việc kiêm
nhiệm hai chức danh Chủ tịch HĐQT và Giám đốc/ Tổng giám đốc theo quy định
tại khoản 1 Điều 125 LDN 2014 và quy định về quản trị công ty áp dụng cho các
công ty đại chúng tại khoản 3 Điều 10 Thông tư số 121/TT-BTC ngày 26/7/2012
của Bộ Tài chính Đối với vấn đề này, trong quá trình sửa đổi các quy định về đầu tư
kinh doanh, cần tiếp tục có sự xem xét kỹ lưỡng hơn trên cơ sở đánh giá thực tiễn
triển khai để áp dụng quy định phù hợp.
Thứ tư, sửa đổi quy định liên quan đến tính minh bạch trong quản trị doanh
nghiệp. Khoản 2 Điều 138 LDN 2014 quy định: “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy
định tại khoản 2 Điều 114 của Luật này có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương
trình họp Đại hội đồng cổ đông”. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2
Điều 114 của LDN 2014 là “cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ
phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng”. Tỷ lệ 10% là quá
lớn, thêm vào đó, việc phải thỏa mãn điều kiện về thời gian sở hữu “trong thời hạn
66
liên tục ít nhất 06 tháng” là “làm khó” CĐTS việc thực hiện quyền của họ, và trong
trường hợp này, là làm giảm tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp. Theo
thông lệ thế giới, giới hạn tỷ lệ sở hữu của cổ đông, nhóm cổ đông để được quyền
đề xuất vấn đề đưa vào chương trình nghị sự của cuộc họp ĐHĐCĐ là 3%-5%. Do
đó, nên xem xét sửa đổi tỷ lệ quy định tại khoản 2 Điều 138 LDN2014 theo thông lệ
quốc tế tốt (5%), đồng thời bỏ yêu cầu về thời gian sở hữu.
Với mục đích là nhằm đảm bảo tính minh bạch, cung cấp thời gian đủ dài để
cổ đông thu thập thông tin hoặc chuẩn bị ý kiến đối với các vấn đề của cuộc họp,
theo tiêu chuẩn Ngân hàng thế giới đưa ra, các thông tin chi tiết về cuộc họp
ĐHĐCĐ nên được gửi đến cổ đông trước 21 ngày diễn ra cuộc họp. Vì vậy, để phù
hợp với tiêu chuẩn này, tác giả đề nghị bổ sung quy định tại Điều 6, Thông tư số
121/TT-BTC: “Thông tin chi tiết về cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên phải được gửi
đến các cổ đông trước ngày diễn ra cuộc họp ít nhất 21 ngày. Các thông tin cần
thông báo bao gồm: thời gian dự kiến diễn ra cuộc họp, dự thảo chương trình nghị
sự của cuộc họp”.
Tăng cường trách nhiệm của người quản lý
Tại Điều 160 LDN 2014 về Trách nhiệm của người quản lý công ty có thể bổ
sung thêm một số thông tin quy định sau: Quy định “người quản lý doanh nghiệp
phải cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu trong trường hợp cổ đông khởi kiện
người quản lý doanh nghiệp”. Mở rộng phạm vi phải chịu trách nhiệm đối với các
thành viên. Yêu cầu thành viên HĐQT, Giám đốc/Tổng Giám đốc có trách nhiệm
trực tiếp hoàn trả khoản lợi nhuận thu được từ giao dịch có vi phạm, sau khi nguyên
đơn (cổ đông) khởi kiện đòi hỏi thường thành công;
Khoản 4 Điều 162 LDN 2014 quy định hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử
lý theo quy định của pháp luật. Theo quy định trên thì cổ đông chỉ có thể yêu cầu
bồi thường thiệt hại nếu hợp đồng, giao dịch được thực hiện không đúng với quy
định của pháp luật. Về nguyên tắc, người quản lý doanh nghiệp/doanh nghiệp phải
làm việc/hoạt động vì lợi ích cao nhất của cổ đông, quyền lợi của cổ đông cũng cần
phải được bảo vệ ở mức cao nhất; do vậy, khi hợp đồng, giao dịch gây thiệt hại đến
67
quyền, lợi ích của cổ đông, cổ đông có quyền yêu cầu bộ phận ra quyết định chấp
thuận hợp đồng, giao dịch đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, để đảm bảo
các nguyên tắc trên, nên xem xét sửa đổi khoản 4 Điều 162 LDN2014 như sau:
“Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật khi được ký
kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này hoặc nếu bị cổ đông khởi kiện và được xác định là có gây thiệt hại cho lợi
ích của công ty. Nếu hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu theo quy định này và/hoặc gây
thiệt hại cho công ty hoặc quyền lợi của các cổ đông khác, cổ đông có quyền yêu
cầu người chấp thuận, ký kết hợp đồng và cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị
hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên quan phải liên đới bồi thường thiệt hại
phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng,
giao dịch đó”.
Tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm soát nội bộ
Chúng ta có thể thấy, nếu toàn bộ quyền lực trong CTCP đều tập trung vào
hội HĐQT và ban giám đốc, thì rất dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền và khi đó cổ
đông đặc biệt là CĐTS sẽ không được bảo vệ. BKS cần tạo ra một kênh thông tin,
một kênh giao lưu và kết nối với các cổ đông, từ đó có một cơ chế phù hợp để cổ
đông dựa vào để tự bảo vệ mình. Muốn vậy, hoạt động của ban kiểm soát cần được
điều chỉnh bởi một quy định pháp lý theo hướng như sau: (i) Ban kiểm soát cần phải
được độc lập hoạt động trong cơ chế làm việc, tránh tình trạng ban kiểm soát hoạt
động vì lợi ích của hội đồng quản trị và ban giám đốc mà phải vì cổ đông; (ii) Việc
bầu ra ban kiểm soát, cơ chế hiệu quả nhất là các thành viên hội đồng quản trị và
ban giám đốc không được quyền đề cử, giới thiệu và bỏ phiếu bầu ra các thành viên
ban kiểm soát bởi ban kiểm soát không điều hành quản lý doanh nghiệp, mà đóng
vai trò giám sát hoạt động của hội đồng quản trị và ban giám đốc.
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ bên ngoài đối với cổ đông thiểu số
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại cơ
quan quản lý nhà nước về CTCP để làm kim chỉ nam cho định hướng trong quản trị
và điều hành. Các hoạt động tại các cơ quan này bao gồm: Sở Kế hoạch và Đầu tư,
68
Ủy ban chứng khoán nhà nước, các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký
chứng khoán, cơ quan quản lý thuế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hệ thống cơ
quan thống kê,...) cần phải đồng bộ thông tin, thống nhất hơn nữa. Ví dụ cụ thể:
Nên thủ tục công khai mẫu dấu trên cổng thông tin điện tử quốc gia hoặc nội dung
về việc mua bán hay tự in hóa đơn để góp phần làm giảm thủ tục doanh nghiệp phải
gửi cho cơ quan thuế, vừa tiết kiệm thời gian vừa tiết kiệm chi phí đồng nghĩa với
số ngày không còn là 10 ngày mà giảm xuống còn 3 ngày, bởi vì những việc trên
không thực sự có ý nghĩa, nhưng lại phát sinh thủ tục hành chính và chi phí cho
doanh nghiệp. Do đó, nên bãi bỏ toàn bộ sự quản lý nhà nước về dấu, nên giao cho
doanh nghiệp toàn quyền tự quản lý và sử dụng và thể hiện quyền tự chủ của doanh
nghiệp và có lợi cho Chính phủ điện tử trong việc tinh giảm thủ tục hành chính.
Hai là thủ tục về khai trình lao động bởi hiện nay, theo Bộ Luật lao động yêu cầu 3
thủ tục: Trong vòng 30 ngày kể từ ngày thành lập, thì phải ra cơ quan lao động khai
báo; định kỳ 6 tháng-1 năm hoặc có phát sinh thì phải khai báo lao động. Như vậy,
nếu doanh nghiệp thành lập từ tháng 5 thì phải làm 2 thủ tục (vừa khai báo ban đầu,
vừa khai báo theo định kỳ 6 tháng); mua hóa đơn hoặc tự in hóa đơn VAT trong 10
ngày.
Thứ hai, để hoạt động bảo vệ CĐTS được toàn diện, cần phải nâng cao vai
trò thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển của các cơ quan độc
lập như: cơ quan kiểm toán độc lập, tổ chức luật sư và các Hội, Hiệp hội, tổ chức
Công đoàn … các câu lạc bộ nhà đầu tư, để các thành viên có thể trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm, cùng nhau góp tiếng nói chúng, nâng cao sức mạnh của mình. Tiếng
nói của CĐTS vốn nhỏ bé nhưng rõ ràng tập thể của những CĐTS thì không hề nhỏ
bé, thông qua tiếng nói của tập thể họ không chỉ có thể tự bảo vệ mình mà còn có
thể đưa những vấn đề vướng mắc của công ty ra trước công luật để gây sức ép đối
với các cổ đông lớn, qua đó góp phần hạn chế hành vi vi phạm của cổ đông đa số.
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm quyền cổ đông
Xây dựng hệ thống chế tài vi phạm quyền cổ đông phù hợp trên tinh thần
mức chế tài phải đủ sức răn đe. Các chế tài phải thể hiện được quan điểm: những
69
khoản thu bất hợp pháp từ vi phạm quyền cổ đông đều phải bị tịch thu và bên cạnh
đó, chủ thể vi phạm quyền cổ đông còn phải chịu chế tài hành chính hoặc chế tài
chính hình sự (nếu có).
Trong một số trường hợp, bên cạnh việc cổ đông khởi kiện yêu cầu tòa án
cấp có thẩm quyền giải quyền bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra, các chủ
thể vi phạm quyền cổ đông còn có thể bị xử phạt vi phạm chính trong lĩnh vực đó.
Trước hết, cần phải có cách nhìn thoáng hơn về xử lý vi phạm quyền cổ
đông. Tức là phải xem đây là hướng mở với tư cách là quyền của cổ đông, cổ đông
có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Chúng ta nên bổ sung Luật Tố tụng dân sự
hiện hành về cơ chế rút gọn để thực hiện xử lý các vi phạm quyền cổ đông đã có
chứng cứ rõ ràng, với tính chất là tranh chấp kinh tế do cổ đông thực hiện quyền
khởi kiện. Thể hiện ở thủ tục ngắn gọn, thời gian nhanh hơn thời gian tố tụng thông
thường hiện nay. Những trường hợp phức tạp sẽ thực hiện theo thủ tục chung.
Quản lý của cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các CTCP khi thực hiện
các quyền cổ đông là cần thiết. Trên cơ sở những quy định pháp luật khi nhận thấy
các vi phạm pháp luật cần thiết phải có sự tác động bằng các chế tài chính hoặc chế
tài hình sự, các cơ quan nhà nước trong thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh những
vi phạm xâm hại đến quyền cổ đông. Đây là sự thể hiện quyền lực nhà nước trong
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, cần thiết phải thiết lập lại trật tự xã hội trong
lĩnh vực này.
Ý thức pháp luật và cập nhật thông tin là rất quan trọng cho bất kỳ ai, nên
phải chú trọng việc nâng cao ý thức pháp luật của các cổ đông. Tuy nhiên việc thực
hiện vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức về các quyền của cổ đông phải thực
hiện dựa trên nguyên tắc xuất phát từ mong muốn của các cổ đông không phải lúc
nào cũng nghĩ đến quyền cổ đông của mình. Phần lớn các cổ đông quan tâm vì
những lý do khác nhau. Do vậy, không thể hoàn toàn đánh giá các cổ đông không
có ý thức pháp luật về quyền cổ đông, đôi khi có những trường hợp hiểu biết về
quyền của mình nhưng cổ đông không muốn thực hiện. Cho nên, việc vận động
tuyên truyền quyền cổ đông được thực hiện ở những địa chỉ nhất định, hình thức
70
phù hợp làm sau có thể đáp ứng được những cổ đông quan tâm, làm cơ sở để những
cổ đông khi cần có thể tìm hiểu quyền của mình và chúng ta cũng không cần thiết
quá quan tâm đến những cổ đông không bao giờ muốn lưu ý đến quyền của mình
Phân định rõ chức năng của các cơ quan xử lý vi phạm quyền cổ đông theo
ba hướng chính:
Một là, tòa án nhân dân cấp quyền có thẩm quyền. Các cổ đông khi nhận
thấy quyền của mình bị xâm hại có thể yêu cầu tòa án thực hiện quyền của mình và
tòa án có thể áp dụng các chế tài cần thiết để đảm bảo thực hiện các quyền hoặc
khôi phục các quyền cổ đông bị xâm hại.
Hai là, các hoạt động liên quan đến chứng khoán thì sẽ do Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước thực hiện xử lý dưới hình thức các chế tài hành chính. Nếu những
vi phạm quyền cổ đông của các CTCP là công ty chứng khoán sẽ do Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước thực hiện. Những vi phạm quyền cổ đông trong lĩnh vực chứng
khoán đến mức vi phạm pháp luật hình sự thì sẽ được xử lý theo thủ tục tố tụng
hình sự và áp dụng những chế tài hình sự cần thiết.
Ba là, Sở kế hoạch và nhà đầu tư (thông qua Phòng Đăng ký kinh doanh) chỉ
là cơ quan vừa thực hiện “tiền kiểm” và “hậu kiểm” đối với doanh nghiệp. Cơ quan
có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh đối với các loại CTCP (bao gồm cả
công ty chứng khoán), và xử lý hành vi vi phạm quyền cổ đông trong các CTCP
không phải là công ty chứng khoán.
Tiểu kết chương 3
Trong chương này, đã phân tích hiện trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ
CĐT trong công ty cổ phần, đưa ra nhiều giải pháp để hoàn thiện pháp luật nhằm
bảo vệ CĐTS. Vì vậy,việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ CĐTS là rất là quan
trọng, qua đó các nhà làm luật, nhà quản lý nhà nước có thể cải cách hành chính và
từ đó phát triển kinh tế theo hướng hội nhập. Từ nghiên cứu thực trạng pháp luật
bảo vệ CĐTS trong CTCP ở Việt Nam, kết hợp với lý thuyết pháp luật hiện tại, đã
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ CĐTS.
71
KẾT LUẬN
Nội dung Pháp luật về bảo vệ CĐTS trong CTCP tại Việt Nam đã xuất hiện
khá sớm và trải qua các thời kỳ, pháp luật CTCP vẫn chưa bảo vệ CĐTS một cách
đầy đủ và hiệu quả. Pháp luật ngày càng được hoàn thiện cho thấy sự quan tâm của
Nhà nước đối với các cổ đông này. Luận văn đã phân tích khái quát Pháp luật về
bảo vệ CĐTS ở Việt Nam; phân chia các giai đoạn phát triển của pháp luật về bảo
vệ CĐTS; nghiên cứu, phân tích pháp luật về bảo vệ CĐTS theo LDN năm 2014,
từ đó chỉ ra được sự phát triển của pháp luật về bảo vệ CĐTS.
LDN năm 2014 đã tích hợp tất cả những tinh tuý của năm tháng lịch sử thực
hiện pháp luật về các chủ thể kinh doanh nói chung và pháp luật về bảo vệ CĐTS
nói riêng để xây dựng cơ chế pháp luật về bảo vệ CĐTS mới thích hợp với Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập và phát triển, tuy nhiên không thể tránh khỏi những
thiếu sót và cần bổ sung thêm.
Luận văn đã đưa ra một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ CĐTS trong CTCP qua kinh nghiệm lịch sử pháp luật ở Việt Nam trong
chương 3 đó là: Pháp luật cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý đã
có, cùng với việc xây dựng các giải pháp mới nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy
định về: Quyền của cổ đông; Cơ cấu tổ chức nội bộ (cơ chế bảo vệ bên trong);
Kiểm soát bên ngoài (cơ chế bảo vệ bên ngoài). Chú trọng xây dựng cơ chế về kiểm
soát thông tin của cổ đông lớn trên thị trường chứng khoán, cơ chế thực thi các quy
định xử lý vi phạm lý vi phạm và giải quyết tranh chấp các vấn đề liên quan đến
quyền lợi của cổ đông. Cần quan tâm nghiên cứu xây dựng các cơ chế về thành viên
HĐQT và BKS hoạt động một cách độc lập để tăng hiệu quả trong việc quản trị
doanh nghiệp
Trong bối cảnh tính minh bạch thông tin của doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn những hạn chế nhất định. Việc rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy định của
pháp luật để bảo vệ quyền lợi cổ đông, nhất là nhóm CĐTS là rất cần thiết nhằm
tăng mức độ an toàn cho cổ đông, tạo khả năng huy động vốn trong dân cư. Qua đó
cũng nâng cao chất lượng quản trị và điều hành doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế,
72
nâng cao tính hấp dẫn môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Nếu những giải pháp
trên được pháp luật đề cập và bổ sung, chắc chắn rằng điểm số chỉ số bảo vệ CĐTS
của Việt Nam sẽ được nâng lên để có thể đạt kết quả tốt hơn chỉ tiêu đặt ra được
khả thi theo Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về việc “tiếp tục thực
hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh,nâng cao năng lực
cạnh tranh năm 2017, định hướng đến năm 2020” do Chính phủ đã giao cho Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Đảm bảo hiệu quả thực thi các quy
định về bảo vệ nhà đầu tư” với mục tiêu từng bước nâng cao thứ hạng chỉ số bảo vệ
CĐTS.
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty: vốn, quản lý
và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005, NXB Tri Thức
2. Nguyễn Thanh Bình (2013) “Những lợi thế của công ty cổ phần trong
nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01, tr.18-21.
3. Nguyễn Thị Kim Chi (2015) Pháp luật về bảo vệ cổ đông nhỏ ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật
Hà Nội.
4. Ngô Thị Hải Chiến (2014) Hoàn thiện pháp luật về Đại hội đồng cổ
đông Công ty cổ phần, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Hà Nội.
5. Chính Phủ (2017) Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính Phủ ban hành
chương trình hành động của Chính Phủ về tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, giải pháp
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2017 và định
hướng đến 2020, ban hành ngày 06/2/2017, Hà Nội.
6. Chính Phủ (2015) Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đăng
ký doanh nghiệp, ban hành ngày 14/9/2015, Hà Nội.
7. Ngô Huy Cương (2013) Giáo trình luật thương mại, NXB Đại học quốc
8. Trần Việt Dũng, Phạm Hoài Huấn (2015) “Xác định giá để trả cổ tức
gia Hà Nội.
bằng cổ phần”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 140209/Xac- dinh-gia-de-tra-co-tuc-bang-co-phan.html>, truy cập: 15/8/2019. 9. Dương Mạnh Hà (2011) Quy chế pháp lý về đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. 10. Bùi Xuân Hải và Nhóm biên soạn (2017) Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng Đức. 11. Đỗ Thái Hán (2012) Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM. 12. Từ Hảo (2010) “Lịch sử hình thành công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam”, Thông tin pháp luật dân sự, 13. Lê Thị Xuân Huế (2018) “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong quản trị doanh nghiệp, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam”,Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, tuc/611/4696/bao-ve-co-dong-thieu-so-trong-quan-tri-doanh-nghiep---kinh-nghiem- quoc-te-va-khuyen-nghi-doi-voi-viet-nam.aspx>, truy cập 12/3/2020. 14. Nguyễn Thị Thu Hương (2015) Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong cổng ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. 15. Đỗ Quang Minh (2018) Bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, Việt Nam. 16. Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2015), Quyền của CĐTS trong Công ty cổ phần, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. 17. Bùi Thị Hằng Nga và nhóm biên soạn (2018) Pháp luật doanh nghiệp: quy định và tình huống, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM 18. Phan Hoàng Ngọc (2018) Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số công ty cổ phần ở Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Nhật bản và Hoa kỳ, Luận án Tiến Sĩ Luật, Học viện Khoa Học Xã hôi Việt Nam. 19. Quốc hội (1999) Luật doanh nghiệp 1999, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999, Hà Nội. 20. Quốc hội (2005) Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, Hà Nội. 21. Quốc hội (2014) Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, Hà Nội. 22. Quốc hội (1990) Luật công ty 1990, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990, Hà Nội. 23. Quách Thuý Quỳnh ( 2010) “Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí luật học, số 4, tr.19, Hà Nội. 24. Phạm Thị Tâm (2015) Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong công ty cổ phần - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội. 25. Lê Minh Thắng (2014) “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi)”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9, tr. 33-36. 26. Đoàn Tranh (2013) “Vấn đề kiểm soát ban điều hành trong quản trị công ty”, Trang điện tử Trường Đại học Duy Tân, ban-dieu-hanh-trong-quan-tri-cong-ty>, truy cập: 13/8/2019.

