BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂN
TÁC ĐỘNG LẪN NHAU CỦA TỶ LỆ CHI TRẢ CỔ TỨC, CƠ HỘI ĐẦU TƢ, ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH: NGHIÊN CỨU TẠI THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TPHCM
Chuyên ngành Mã số
: Tài chính – Ngân hàng : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS TRẦN NGỌC THƠ
TP.Hồ Chí Minh-Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “TÁC ĐỘNG LẪN NHAU CỦA TỶ LỆ CHI TRẢ
CỔ TỨC, CƠ HỘI ĐẦU TƢ, ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH: NGHIÊN CỨU TẠI
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TP HCM” là công trình nghiên cứu của chính
tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực
tiễn trong thời gian qua, các số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy Trần Ngọc
Thơ.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Ngọc Trân
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình, đồ thị
Tóm lược bài nghiên cứu ............................................................................................ 1
1.Giới thiệu nghiên cứu ............................................................................................... 2
2.Tổng quan lý thuyết ................................................................................................. 4
2.1 Lý thuyết trật tự phân hạng ................................................................................ 4
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước đây ............................................................... 10
3.Các giả thuyết, dữ liệu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu ............................... 12
3.1 Các giả thuyết ................................................................................................. 12
3.2 Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 15
3.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 17
4. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................... 30
4.1 Phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) ........................................ 30
4.2 Nghiên cứu mở rộng: Phương pháp bình phương bé nhất (OLS) ................... 54
5. Kết luận ................................................................................................................. 59
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
: Phương pháp bình phương bé nhất OLS
: Phương pháp bình phương bé nhất hai bước TSLS
: Phương pháp bình phương bé nhất ba bước 3SLS
: Merton Miller và Franco Modigliani MM
: Tỷ lệ chi trả cổ tức DIV
: Đầu tư INV
: Đòn bẩy tài chính FL
: Giá thị trường trên giá trị sổ sách PB
: Thị trường chứng khoán TTCK
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 : Tóm tắt tác động của biến nội sinh trong hệ phương trình ..................... 29
Bảng 3.2 : Tóm tắt tác động của biến ngoại sinh trong hệ phương trình .................. 29
Bảng 4.1 : Tóm tắt các chỉ tiêu thống kê mô tả của các biến .................................... 31
Bảng 4.2 : Ma trận hệ số tương quan giữa các biến nội sinh ................................... 32
Bảng 4.3 : Ma trận hệ số tương quan giữa các biến ngoại sinh ................................ 33
Bảng 4.4 : Tổng hợp kết quả hồi quy năm 2008 với biến DIV08 và FL08 .............. 36
Bảng 4.5 : Tổng hợp kết quả hồi quy năm 2009 với biến DIV09 và FL09 .............. 38
Bảng 4.6 : Tổng hợp kết quả hồi quy năm 2010 với biến DIV10 và FL10 .............. 40
Bảng 4.7 : Tổng hợp kết quả hồi quy năm 2011 với biến DIV11 và FL11 ............. 42
Bảng 4.8 : Tổng hợp kết quả hồi quy của biến trung bình AVDIV và AVFL ......... 44
Bảng 4.9 : Tóm tắt kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời ......................... 46
Bảng 4.10 : Kết quả nghiên cứu của các biến nội sinh so với các giả thuyết .......... 49
Bảng 4.11 : Kết quả nghiên cứu của các biến ngoại sinh so với lý thuyết .............. 50
Bảng 4.12 : Tổng hợp so sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu trước đây ... 53
Bảng 4.13 : Kết quả thống kê mô tả của hệ phương trình hồi quy bằng OLS ......... 55
Bảng 4.14 : Kết quả nghiên cứu của hệ phương trình bằng OLS ............................. 56
Bảng 4.15 : So sánh kết quả nghiên cứu với giả thuyết trong hệ phương trình bằng
phương pháp OLS .................................................................................................... 57
Bảng 4.16 : Bảng so sánh kết quả nghiên cứu bằng phương pháp OLS với kết quả
nghiên cứu của Ching (2009) .................................................................................... 57
Bảng 4.17 : Tổng hợp kết quả nghiên cứu bằng hai phương pháp nghiên cứu ........ 58
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1 : So sánh phân bổ ngành giữa mẫu nghiên cứu và tổng thể ....................... 16
1
Tóm lƣợc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu này khảo sát các giả định của lý thuyết trật tự phân hạng
bằng cách nghiên cứu tác động lẫn nhau của tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy
tài chính trên mẫu nghiên cứu gồm 129 công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2008-2012. Trong bài nghiên cứu tác
giả sử dụng phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) hồi quy trên hệ
phương trình đồng thời để kiểm tra các giả định của lý thuyết trật tự phân hạng. Kết
quả của nghiên cứu ủng hộ cho giả thuyết này, kết quả cho thấy giữa tỷ lệ chi trả cổ
tức và đầu tư có một mối quan hệ tiêu cực lẫn nhau điều này phù hợp với giả định
của lý thuyết trật tự phân hạng. Nghiên cứu cũng kết luận rằng tại Việt Nam tồn tại
mối quan hệ tích cực giữa đầu tư và tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Bài nghiên cứu cũng
chứng minh rằng đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức
nhưng tỷ lệ chi trả cổ tức lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên đòn bẩy
tài chính. Bài này cũng thêm vào các nghiên cứu trước đây bằng cách sử dụng
phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) tại Việt Nam. Kết quả tổng quát
cho thấy, kết quả nghiên này phù hợp với các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ
lẫn nhau giữa đầu tư và tỷ lệ chi trả cổ tức, cũng như tác động lẫn nhau của đầu tư
và tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu khác với các nghiên cứu
trước đây là kết quả nghiên cứu trong bài này kết luận tại Việt Nam không tồn tại
tác động qua lại lẫn nhau của tỷ lệ chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính, tỷ lệ chi trả cổ
tức không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến tỷ lệ đòn bẩy tài chính nhưng
đòn bẩy tài chính lại có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức. Trong khi các
nghiên cứu trước đây đều tìm thấy một mối quan hệ tích cực lẫn nhau giữa tỷ lệ chi
trả cổ tức và đòn bẩy tài chính.
2
1.Giới thiệu nghiên cứu:
Lý thuyết trật tự phân hạng ngày nay vẫn là một trong những lý thuyết
quan trọng của tài chính doanh nghiệp. Đây được coi là một trong những lý thuyết
có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế thế giới. Lý thuyết trật tự phân hạng nghiên
cứu các nguồn tài trợ của doanh nghiệp trong thị trường vốn bất hoàn hảo. Trong thị
trường bất hoàn hảo các công ty quyết định tài trợ cho các khoản đầu tư mới chủ
yếu từ nguồn lợi nhuận giữ lại hoặc nguồn vốn nội bộ hơn là từ các nguồn tài chính
bên ngoài. Tuy nhiên khi nguồn vốn nội bộ không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư, thì
công ty sẽ huy động nguồn tài chính từ bên ngoài, đầu tiên với nợ phi rủi ro trước
sau đó đến nợ rủi ro và cuối cùng là phát hành cổ phần mới để tài trợ cho các quyết
định đầu tư của mình (Donalson,1961).
Baskin (1989) cho rằng dựa vào lý thuyết trật tự phân hạng cùng với mô
hình tỷ lệ chi trả cổ tức của Lintner’s (1956) có thể dự đoán tác động của tỷ lệ chi
trả cổ tức lên đòn bẩy tài chính. Theo nghiên cứu của Lintner’s (1956) các công ty
có tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu dài hạn nhưng trong ngắn hạn các công ty luôn tránh
các thay đổi trong tỷ lệ chi trả cổ tức, đặc biệt là sự cắt giảm cổ tức. Kết quả là các
công ty vẫn duy trì một tỷ lệ chi trả cổ tức ổn định và tài trợ cho các cơ hội đầu tư
có NPV dương bằng các nguồn tài chính từ bên ngoài. Tóm lại, từ lý thuyết trật tự
phân hạng của Donalson (1961) và mô hình cổ tức của Lintner (1956) có thể kết
luận giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính có một mối tương quan tích cực và
các công ty thích sử dụng nguồn tài chính nội bộ để tài trợ cho các dự án có NPV
dương và chi trả cổ tức hơn là huy động tài chính từ bên ngoài.
Các công ty trả cổ tức cao trong một thời gian dài sẽ làm suy giảm nguồn
tài chính sẵn có trong kỳ để tài trợ cho các cơ hội đầu tư và do đó sẽ phải gia tăng
nguồn tài chính trong kỳ tiếp theo bằng cách phát hành nợ hoặc cổ phần để tài trợ
cho các cơ hội đầu tư mới. Ngược lại, khi nguồn tài chính tài trợ cho các dự án đầu
tư lớn sẽ dẫn tới việc giảm nguồn tài chính dùng để chi trả cổ tức và do đó cũng gia
tăng nhu cầu với nguồn tài chính từ bên ngoài. Trên cơ sở này lý thuyết trật tự phân
3
hạng dự đoán giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính có một mối quan
hệ qua lại lẫn nhau (Adedeji, 1998).
Baskin (1989) và Allen (1993) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ chi
trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính tại Mỹ và Úc, còn Adedeji (1998) nghiên cứu
tác động qua lại của đầu tư và đòn bẩy tài chính, tỷ lệ chi trả cổ tức tại Anh. Tại
Việt Nam chưa có một nghiên cứu thực nghiệm chính thức nào về tác động lẫn nhau
của tỷ lệ chi trả cổ tức, cơ hội đầu tư và đòn bẩy tài chính dựa trên lý thuyết trật tự
phân hạng nên đã hình thành nên ý tưởng chính của bài nghiên cứu này. Sử dụng
chuỗi dữ liệu sơ cấp từ các báo cáo tài chính của 129 công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán TPHCM trong giai đoạn năm 2008-2012, Theo Greene (1993)
đã đề nghị rằng phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) sẽ thích hợp hơn
so với phương pháp bình phương bé nhất (OLS) cho việc kiểm định tác động của
các biến nội sinh trong hệ phương trình đồng thời, dựa trên đặc điểm của nghiên
cứu và kết quả nghiên cứu của Greene (1993) tác giả đã sử dụng phương pháp bình
phương bé nhất ba bước (3SLS) tiến hành hồi quy trên hệ phương trình đồng thời để
kiểm định tác động lẫn nhau của tỷ lệ chi trả cổ tức, cơ hội đầu tư và đòn bẩy tài
chính tại Việt Nam. Nói cách khác, câu hỏi nghiên cứu của bài này là “Tại Việt
Nam tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và cơ hội đầu tư có tác động qua lại lẫn
nhau không ? và nếu có thì tác động theo chiều hướng nào ?”. Kết quả nghiên cứu
ủng hộ cho giả thuyết này, kết quả nghiên cứu cho thấy giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và
đầu tư có một mối quan hệ tiêu cực lẫn nhau điều này phù hợp với lý thuyết trật tự
phân hạng. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tồn tại một mối quan hệ tích cực qua lại
giữa đầu tư và tỷ lệ đòn bẩy tài chính trong cùng thời gian. Ngoài ra trong khi đòn
bẩy tài chính có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức nhưng tỷ lệ chi trả cổ tức
lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên đòn bẩy tài chính.
Kết cấu của bài nghiên cứu được tổ chức như sau: phần 2 là tổng quan lý
thuyết bao gồm phần thảo luận lý thuyết trật tự phân hạng và tổng quan các nghiên
cứu trước đây. Phần 3 là phần mô tả các giả thuyết, dữ liệu và phương pháp nghiên
4
cứu. Phần 4 là kết quả nghiên cứu và nghiên cứu mở rộng. Phần cuối cùng, phần 5
là kết luận nghiên cứu.
2. Tổng quan lý thuyết
2.1 Lý thuyết trật tự phân hạng:
Câu hỏi được đặt ra là các công ty sẽ sử dụng những nguồn tài trợ nào
cho các dự án đầu tư của mình ? Vấn đề này đầu tiên được đề xuất bởi Donaldson
(1961) và được phát triển bởi Myers và Majluf (1984) thì lý thuyết trật tự phân hạng
là trung tâm lý thuyết của quyết định này. Theo Myers (1984) các công ty được dự
đoán rằng sẽ sử dụng nguồn tài chính nội bộ của họ như một nguồn đầu tư chính,
sau đó tới vay nợ và cuối cùng là phát hành cổ phần mới. Đây là kết quả của việc
tồn tại sự bất cân xứng thông tin. Nhà quản lý thì được giả định rằng sẽ biết nhiều
về các tiềm năng, rủi ro và giá trị công ty hơn các nhà đầu tư từ bên ngoài do đó các
nhà quản lý rất miễn cưỡng phát hành cổ phần mới khi cho rằng giá quá thấp mà họ
cố gắng tìm thời điểm phát hành khi cổ phần có giá trị phải chăng hay được định giá
cao. Tất cả các nhà đầu tư điều hiểu điều này, và diễn dịch một quyết định phát
hành cổ phần như một tin tức xấu. Điều này có thể là nguyên nhân các công ty
không muốn phát hành cổ phần mới và vì vậy có thể bỏ qua các cơ hội đầu tư tiềm
năng. Trong tình huống đó công ty sẽ thích sử dụng nguồn lợi nhuận giữ lại, họ sẽ
tránh phát hành cổ phần mới và phần vay nợ sẽ là phần chênh lệch giữa nhu cầu đầu
tư và lợi nhuận giữ lại của công ty.
Myers và Majluf (1984) đã mô tả lý thuyết trật tự phân hạng như dưới đây:
- Các doanh nghiệp thích nguồn tài trợ nội bộ hơn.
- Các doanh nghiệp điều chỉnh tương ứng các tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu theo các
cơ hội đầu tư, trong khi tránh các thay đổi đột xuất trong cổ tức.
- Các chính sách cổ tức cứng nhắc, cộng với các dao động không thể dự đoán trong
khả năng sinh lợi và các cơ hội đầu tư, có nghĩa là dòng tiền phát sinh nội bộ đôi khi
lớn hơn các chi tiêu vốn và đôi khi nhỏ hơn. Nếu lớn hơn, doanh nghiệp thanh toán
5
hết nợ hay đầu tư vào chứng khoán thị trường. Nếu nhỏ hơn, doanh nghiệp rút số dư
tiền mặt của mình trước hoặc bán các chứng khoán thị trường.
- Nếu cần đến nguồn tài trợ từ bên ngoài, các doanh nghiệp sẽ phát hành chứng
khoán an toàn nhất trước. Có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ bắt đầu với nợ, rồi đến
các chứng khoán ghép như trái phiếu chuyển đổi được và sau đó có lẽ cổ phần
thường là giải pháp cuối cùng.
Cũng theo nghiên cứu của Myer và Majluf (1984) chứng minh rằng sự
thiếu thông tin của những người tham gia thị trường có thể dẫn đến việc định giá cổ
phần mới phát hành dưới giá trị của nó. Việc công ty phát hành các cổ phiếu để lấy
nguồn đầu tư cho một dự án bị định giá thấp có thể làm cho chi phí tăng nhiều hơn
phần đáng lẽ dự án đó cần có, do đó có thể dẫn đến sự chán nản đầu tư. Còn vay nợ
thì không phải chịu rủi ro định giá sai. Điều này thì phù hợp với lý thuyết trật tự
phân hạng nơi mà nợ thì được yêu thích hơn, sau đó chứng khoán ghép và cuối
cùng là phát hành cổ phần mới.
Trong nghiên cứu của Baskin (1989) thì sau năm 1934, các báo cáo tài
chính mới được công bố trên thị trường nhưng các tính năng tài chính hiện đại thì
nửa thế kỷ sau đó mới được thực hiện. Bất cân xứng thông tin tác động đến cấu trúc
vốn bằng cách giới hạn nguồn tiếp cận tài chính bên ngoài. Tuy nhiên sự bất cân
xứng thông tin không chỉ cản trở khả năng của công ty gia tăng vốn thông qua việc
phát hành cổ phần mới mà còn tạo ra hạn chế trong việc sử dụng vốn cổ phần bằng
cách giới hạn nguồn lợi nhuận giữ lại. Theo mô hình cổ tức của Lintner (1956) các
giám đốc tài chính rất miễn cưỡng khi thay đổi chính sách chi trả cổ tức vì cổ tức
đóng vai trò cung cấp tín hiệu và cổ tức có nội dung hàm chứa thông tin nên các
thay đổi trong cổ tức được coi như cung cấp tín hiệu rõ ràng về triển vọng tương lai
của công ty – các thông tin không thể chuyền tải đầy đủ bằng các phương tiện khác
như các báo cáo thường niên hay các phần trình bày của ban điều hành trước các
nhà phân tích chứng khoán. Do đó tỷ lệ chi trả cổ tức không thể tự do điều chỉnh để
đáp ứng nhu cầu đầu tư hoặc cổ tức sẽ là một dấu hiệu bất lợi theo sau nhu cầu đầu
6
tư lớn. Vì khi nhu cầu đầu tư lớn việc cắt giảm tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại có thể là
một dấu hiệu tiêu cực.
Một bằng chứng khác được cung cấp bởi nghiên cứu: kiểm định tác động
của nguồn tài trợ vốn tới giá cổ phần của Korwar (1986) đã kết luận tất cả các thông
báo phát hành cổ phần mới sẽ làm trì hoãn sự tăng giá cổ phần. Điều này phù hợp
với giả định của lý thuyết trật tự phân hạng dựa trên sự tồn tại của bất cân xứng
thông tin và có thể giải thích tại sao các công ty lớn không thường xuyên phát hành
cổ phần mới. Tuy nhiên bên cạnh đó, có nhiều nghiên cứu lại kết luận thông báo
phát hành cổ phần có tác động trung lập lên giá cổ phần. Còn theo nghiên cứu của
Lummer và McConnell (1989) kết luận rằng nợ ngân hàng có tác động tích cực lên
giá cổ phần.
Ở khía cạnh khác, Baskin (1989) đã cung cấp tóm tắt các bằng chứng tại
Mỹ cho thấy các công ty có nhiều lợi nhuận thì có tỷ lệ đòn bẩy tài chính thấp hơn
các công ty có ít lợi nhuận. Nghiên cứu của Toy (1974) thực hiện mẫu nghiên cứu
gồm các công ty ở Mỹ, Hà Lan, Na Uy, Nhật Bản và Pháp cũng cho một kết quả
tương tự. Kester (1986) cũng báo cáo một mối quan hệ tiêu cực giữ lợi nhuận và tỷ
lệ đòn bẩy tài chính cho mẫu nghiên cứu gồm các công ty của Mỹ và Nhật. Các
bằng chứng ở trên đã ủng hộ cho lý thuyết trật tự phân hạng rằng các nhà quản lý sẽ
thích tìm kiếm nguồn tài chính bên ngoài dưới dạng nợ hơn là cổ phần.
Theo nghiên cứu của Shyam-Sunder và Myers’s (1999), sự thâm hụt tài
chính được đo lường bằng chi trả cổ tức, chi phí đầu tư và dòng tiền trong nội bộ.
Sự đo lường này dựa trên dự đoán của lý thuyết trật tự phân hạng rằng các công ty
thích sử dụng các nguồn tài chính nội bộ để chi trả cổ tức và đầu tư. Giả thuyết cũng
đề nghị rằng nếu cần các nguồn tài trợ từ bên ngoài thì công ty thích gia tăng nợ
hơn so với tăng vốn cổ phần (Donaldson, 1961, Myers và Majluf, 1984). Trong lý
thuyết có hai quan điểm khác nhau tại sao công ty thích nguồn vốn nội bộ hơn so
với nguồn tài trợ từ bên ngoài. Donaldson (1961) giải thích rằng nguồn vốn nội bộ
thì được ưa thích hơn vì các công ty muốn tránh chi phí phát hành thường phát sinh
cùng với nguồn tài chính bên ngoài. Ông cũng đề nghị rằng công ty thích nợ hơn
7
vốn cổ phần nếu cần huy động thêm nguồn tài chính từ bên ngoài vì chi phí phát
hành của nợ thường thấp hơn vốn cổ phần.
Myers và Majluf (1984) không đồng ý với quan điểm rằng công ty thích
nguồn vốn nội bộ hơn nợ vì chi phí phát hành. Họ tranh luận rằng lợi ích của phát
hành nợ bao gồm tấm chắn thuế và rủi ro của khủng hoảng tài chính, khi doanh
nghiệp rơi vào khủng hoảng hoặc tình trạng khó khăn tài chính thì các cổ đông có
thể thực hiện quyền phá sản, trách nhiệm hữu hạn cho phép các cổ đông dễ dàng rời
bỏ doanh nghiệp, để tất cả phiền phức, trách nhiệm cho các trái chủ và các trái chủ
trước đây trở thành cổ đông mới, cổ đông cũ không còn quyền hạn gì với tài sản
doanh nghiệp nữa, những lợi ích này thì vượt hơn chi phí phát hành. MM cho rằng
công ty thích nguồn vốn nội bộ hơn vì công ty muốn tối đa hóa tài sản của cổ đông,
việc phát hành cổ phần mới không có lợi cho các cổ phần hiện tại vì nó thường làm
giảm giá thị trường của cổ phiếu hiện tại. Các công ty thích nợ hơn phát hành thêm
cổ phần bên ngoài vì một món nợ phi rủi ro sẽ không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến
giá trị cổ phiếu hiện tại. Có sự tranh luận xa hơn khi nợ là rủi ro, thì ảnh hưởng của
nợ lên giá cổ phiếu hiện tại sẽ ít hơn so với phát hành cổ phiếu mới, bởi vì thứ tự ưu
tiên của nợ sẽ làm cho khoản nợ rủi ro mới có ít thông tin nhạy cảm hơn so với phát
hành cổ phiếu mới. Bằng chứng được thực hiện bởi Korwar (1986) thì phù hợp với
dự đoán của Myers và Majluf (1984).
Mặc dù có sự khác biệt, nhưng lời giải thích của cả Donaldson và MM
đều dẫn đến cùng một kết luận rằng có mối liên quan giữa lợi nhuận, cơ hội đầu tư
và tỷ lệ chi trả cổ tức dài hạn để tối thiểu nhu cầu tài chính từ bên ngoài. Myers
(1984) kết luận có một mối liên hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và lợi nhuận.
Họ giải thích rằng các công ty có lợi nhuận cao và có sẵn nguồn tài chính nội bộ cao
thì không có nhu cầu với nguồn tài chính bên ngoài. Lintner (1956) thì cho rằng các
công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức mục tiêu dài hạn có liên hệ với lợi nhuận, nhưng trong
ngắn hạn, họ thường giữ cổ tức ở mức ổn định và tránh sự thay đổi lớn, đặc biệt là
cắt giảm cổ tức. Tỷ lệ chi trả cổ tức quá khứ nên được giữ ổn định. Các công ty với
tỷ lệ chi trả cổ tức cao trong quá khứ thì sẽ cần nhiều nguồn tài trợ bên ngoài cho
8
các dự án có lợi nhuận hơn các công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức thấp. Tỷ lệ chi trả cổ
tức trong quá khứ càng cao thì càng cần có nguồn tài chính mạnh và do đó cần một
nguồn tài trợ lớn từ bên ngoài. Vì vậy, có thể kiểm chứng dự đoán rằng có một mối
liên hệ tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đầu tư, và mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ
chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính.
Kết hợp lý thuyết trật tự phân hạng với mô hình cổ tức của Lintner
(1956) có thể dự đoán tổng quát tác động của tỷ lệ chi trả cổ tức lên đòn bẩy tài
chính và đầu tư. Tuy nhiên sự kết hợp này không thể đưa đến dự đoán về mối quan
hệ giữa đòn bẩy tài chính với tỷ lệ chi trả cổ tức hoặc đầu tư. Adedeji (1998) nhấn
mạnh rằng mối quan hệ bản chất phụ thuộc vào việc công ty phản ứng như thế nào
với tình trạng cạn kiệt tài chính. Nếu các công ty đáp ứng với tình trạng thiếu hụt tài
chính bằng cách vay mượn để trả cổ tức và tài trợ cho cơ hội đầu tư thì tỷ lệ chi trả
cổ tức dài hạn và đầu tư có một ảnh hưởng tích cực đến đòn bẩy tài chính. Ngược
lại, nếu các công ty đáp ứng với tình trạng thiếu hụt bằng cách cắt giảm hoặc trì
hoãn đầu tư, trong khi vay nợ để trả cổ tức trong ngắn hạn vì không muốn cắt giảm
cổ tức, do đó đòn bẩy tài chính có thể có một mối quan hệ tích cực với tỷ lệ chi trả
cổ tức, và một mối quan hệ tiêu cực với đầu tư, trong dài hạn. Nhưng nếu theo thời
gian, thu nhập vẫn còn thiếu, hoặc có sự thay đổi trong cơ hội phát triển, các doanh
nghiệp được dự kiến sẽ điều chỉnh tỷ lệ chi trả cổ tức của họ phù hợp với cấp độ
mới của họ về thu nhập và cơ hội phát triển. Đây là logic đằng sau dự đoán của lý
thuyết trật tự phân hạng có một sự tương tác tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức dài
hạn và đầu tư.
Theo Adedeji (1998) lý thuyết trật tự phân hạng cho rằng chính cơ cấu tổ
chức nội bộ đã tạo động lực cho công ty sử dụng các nguồn tài chính bên ngoài, trái
ngược với một số lý thuyết khác đã bỏ qua những tác động của các yếu tố cơ chế
khác nhau trong việc khuyến khích hoặc không khuyến khích việc sử dụng nợ. Ở
đây không chỉ là chi phí phát hành, thông tin bất cân xứng hoặc mối quan tâm về
việc các cổ phiếu mới phát hành bị đánh giá thấp có thể làm cho các công ty không
9
muốn phát hành cổ phiếu bên ngoài, mà sự quan tâm về quyền kiểm soát và thu
nhập trên mỗi cổ phiếu có thể làm công ty e ngại với vốn chủ sở hữu bên ngoài.
Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp có thể vi phạm giả thuyết
của lý thuyết trật tự phân hạng. Ví dụ, các công ty thích sử dụng khoản vay ngân
hàng trước khi sử dụng nguồn tài chính nội bộ, hay phát hành cổ phần mới trước khi
phát hành nợ. Những vi phạm này ảnh hưởng đến kết quả thực nghiệm. Viswanath
(1993) cho thấy đối với các công ty bị đánh giá thấp các nhà quản lý cho rằng sẽ tốt
hơn khi phát hành cổ phiếu. Ông giải thích rằng tất cả các thông báo về việc phát
hành cổ phần sẽ không được thị trường giải thích như là dấu hiệu của công ty định
giá quá cao. Ví dụ, công ty đã vay nợ nhiều, và sẽ lâm vào tình trạng kiệt quệ tài
chính nếu vay nợ thêm, lúc đó công ty này sẽ phát hành cổ phần thường. Trong
trường hợp này, công bố phát hành cổ phần sẽ không hoàn toàn là tin tức xấu. Hoặc
đối với các công ty công nghệ cao tăng trưởng nhanh cũng có thể phát hành cổ phần
thường vì hầu hết tài sản của các công ty này là tài sản vô hình, và việc phá sản hay
kiệt quệ tài chính đặc biệt tốn kém. Điều này đòi hỏi phương thức tài trợ bảo thủ.
Cách duy nhất để tăng trưởng nhanh mà vẫn giữ được một tỷ lệ nợ bảo thủ là phát
hành cổ phần thường. Nếu các nhà đầu tư thấy được các lý do này của việc phát
hành cổ phần thường thì sẽ không diễn dịch thông tin phát hành cổ phần thường như
là một thông tin bất lợi. Tương tự như vậy, một số nghiên cứu trước đây đề xuất
rằng nếu các công ty có ít hoặc không có tấm chắn thuế, họ có thể thích sử dụng nợ
trước các nguồn tài chính nội bộ để tận dụng được tấm chắn thuế của nợ và tối ưu
hóa chi phí sử dụng vốn. Ngoài những ngoại lệ như trên, thông tin bất cân xứng có
thể giải thích sự vượt trội của tài trợ nợ so với phát hành cổ phần thường trên thực
tế. Phát hành nợ thì thường xuyên trong khi phát hành cổ phần thường thì hiếm hơn.
Đa số tài trợ từ bên ngoài là do nợ, ngay cả ở Mỹ là nơi thị trường cổ phần thường
có thông tin hiệu quả cao. Phát hành cổ phần thường còn khó hơn ở những quốc gia
có thị trường chứng khoán kém phát triển hơn.
Vì vậy, mức độ khuyến khích cho các công ty sử dụng nợ ở các cơ chế
khác nhau là một yếu tố quan trọng bởi vì nó có thể thay đổi lý thuyết trật tự phân
10
hạng và ảnh hưởng đến mối quan hệ thực tế giữa đầu tư và đòn bẩy tài chính. Một
số những yếu tố cơ chế có thể khuyến khích các công ty sử dụng nợ trước khi sử
dụng vốn nội bộ là mức lãi suất, mối quan hệ giữa chủ nợ (hoặc ngân hàng) và các
công ty, khả năng can thiệp của Chính phủ nếu có một cuộc khủng hoảng tài chính.
Sự tương tác được dự đoán bởi lý thuyết trật tự phân hạng đã được
nghiên cứu ở Anh và Mỹ. Mặc dù có một số bằng chứng trái ngược nhau về mối
quan hệ giữa đầu tư và đòn bẩy tài chính, lý thuyết trật tự phân hạng vẫn được chấp
nhận trong sự giải thích cho mối quan hệ giữa chi trả cổ tức với đầu tư và đòn bẩy
tài chính.
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trƣớc đây:
Dựa trên lý thuyết trật tự phân hạng và các nghiên cứu thực nghiệm
trước đây đã chứng minh rằng giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính
có mối quan hệ với nhau. Tóm lại có ít nhất hai giả định của lý thuyết trật tự phân
hạng.
(1) Các nguồn tài chính nội bộ được ưu tiên dành cho đầu tư trước khi trả cổ tức.
Do đó đầu tư được dự đoán có một tác động tiêu cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức.
(2) Đầu tư sẽ bị bỏ qua hoặc trì hoãn khi các nguồn tài chính nội bộ được sử dụng
để trả cổ tức. Cho thấy rằng tỷ lệ chi trả cổ tức có ảnh hưởng tiêu cực lên đầu tư.
Nghiên cứu của Adedeji (1998) đã kiểm chứng những giả định này và
kết quả nghiên cứu của ông đã ủng hộ cho các giả định trên rằng ở đó có một mối
quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đầu tư.
Adedeji (1998) thực hiện một mẫu nghiên cứu trên 224 công ty tại Anh
trong giai đoạn 1993-1996 đã ủng hộ cho dự đoán này. Kết quả nghiên cứu cũng
chứng minh rằng tỷ lệ chi trả cổ tức có một mối liên hệ tiêu cực lẫn nhau với cơ hội
đầu tư trong khi lại có một mối liên hệ tích cực qua lại với đòn bẩy tài chính. Tuy
nhiên, ông cũng khẳng định rằng không có ý nghĩa thống kê giữa đầu tư và đòn bẩy
tài chính. Trong khi đầu tư có ảnh hưởng tích cực đối với đòn bẩy tài chính, đòn bẩy
tài chính có ảnh hưởng không đáng kể tới đầu tư (không có ý nghĩa thống kê). Kết
11
quả đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến đầu tư của Adedeji (1998) thì không
phù hợp với nghiên cứu của Baskin’s (1989) tại Mỹ. Adedeji giải thích sự không
phù hợp là do sự khác biệt lớn về thể chế giữa Anh và Mỹ. Việt Nam có một thể chế
khác biệt so với Anh,Mỹ. Động cơ của nghiên cứu này cho rằng có thể kết quả thực
nghiệm tại Việt Nam có thể khác biệt so với kết quả tại Anh,Mỹ. Tại Việt Nam, hệ
thống thuế thu nhập bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân
là một yếu tố quan trọng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư. Trong khi đó,
chính phủ kết hợp với hệ thống ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ các khoản vay với lãi suất thấp. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại các
công ty phải chịu là 25%, và chi phí lãi vay sẽ được tính vào chi phí hợp lý khi tính
thuế thu nhập doanh nghiệp cộng với các chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư
của chính phủ cho một ngành một số lĩnh vực kinh doanh. Vì vậy kết quả nghiên
cứu tại Việt Nam có thể sẽ khác so với các nghiên cứu trước đây.
Theo nghiên cứu của Ching (2009) được thực hiện tại Đài Loan với mẫu
nghiên cứu gồm 626 công ty niêm yết trong thời gian từ năm 2002-2007 nghiên cứu
về tác động lẫn nhau giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, cơ hội đầu tư và đòn bẩy tài chính.
Nghiên cứu của Ching (2009) dựa trên nghiên cứu của Adedeji (1998) tuy nhiên lại
khác biệt so với nghiên cứu của Adedeji (1998) về cả biến kiểm soát và phương
pháp. Ching sử dụng phương pháp bình phương bé nhất hai bước (TSLS) với biến
kiểm soát là các yếu tố quyết định đến cấu trúc vốn của Titman (1988). Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và
đầu tư tại các công ty Đài Loan trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2002-2007.
Ngoài ra bài nghiên cứu còn cho thấy tồn tại mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ chi trả
cổ tức và đòn bẩy tài chính trong cùng thời gian. Trong nghiên cứu của Ching
không phát hiện tác động qua lại giữ đầu tư và đòn bẩy tài chính (không có ý nghĩa
thống kê), bài nghiên cứu kết luận đầu tư không có tác động lên biến đòn bẩy tài
chính (không có ý nghĩa thống kê) và ngược lại biến đòn bẩy tài chính cũng không
có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đầu tư. Một kết luận khác cho thấy rằng
lợi nhuận có ảnh hưởng tiêu cực lên đòn bẩy tài chính điều này ủng hộ lý thuyết trật
12
tự phân hạng cho rằng các công ty có nhiều lợi nhuận sẽ vay nợ ít hơn vì có sẵn
nguồn tài chính nội bộ.
Trong bài nghiên cứu này tác giả nghiên cứu mối quan hệ tương tác lẫn
nhau giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, cơ hội đầu tư và đòn bẩy tài chính với mẫu gồm 129
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn
2008-2012. Nghiên cứu này xây dựng dựa trên nghiên cứu của Ching Liang Chang,
Kainan University,Taiwan (2009) “Dividend payout ratio, investment opportunities,
and the Pecking Order Theory: Evidence from Taiwan”, phương pháp nghiên cứu
và biến kiểm soát trong phương trình đầu tư (INV) dựa trên nghiên cứu của Adedeji
(1998) “Does the pecking order hypothesis explain the dividend payout ratios of
firms in the UK”. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng các biến kiểm soát tác động
lên đòn bẩy tài chính (FL) là các yếu tố quyết định cơ cấu vốn được đề xuất bởi
Titman and Wessels (TW) (1988) “The determinants of capital structure choice” và
các biến kiểm soát trong phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) dựa trên nghiên cứu
của Abor (2006) “Determinants of dividend payout ratios in Ghana”. Các tham số
thì được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất ba bước trên hệ phương
trình đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể so sánh với các nghiên cứu trước đây
nghiên cứu về lý thuyết trật tự phân hạng không thực hiện phương pháp bình
phương bé nhất ba bước này và so sánh với nghiên cứu của Ching (2009) tại Đài
Loan.
3.Các giả thuyết, phƣơng pháp nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu:
3.1 Các giả thuyết:
Dựa vào lý thuyết trật tự phân hạng và mô hình chi trả cổ tức của Lintner
(1956) và tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây về tác động của lẫn nhau của tỷ lệ
chi trả cổ tức, cơ hội đầu tư, đòn bẩy tài chính trong nghiên cứu tại Mỹ của Baskin
(1989), của Allen (1993) tại Úc, và nghiên cứu của Adedeji (1998) tại Anh, từ đó
kết luận rằng tồn tại một mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, cơ
hội đầu tư, đòn bẩy tài chính.
13
Để nghiên cứu mối liên hệ qua lại này tác giả sử dụng hệ phương trình
đồng thời gồm 3 phương trình sau phù hợp với nghiên cứu của Adedeji (1998) và
nghiên cứu của Ching (2009):
DIV = f(FL,INV,CRTDIV) (1)
FL = f(DIV,INV,CRTFL) (2)
INV = f(DIV,FL,CRTINV) (3)
Giả thuyết 1: Trong phương trình (1), phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) bao
gồm biến đòn bẩy tài chính (FL), đầu tư (INV) và biến kiểm soát (CRTDIV). Kỳ
vọng rằng đòn bẩy tài chính có tác động tích cực tới tỷ lệ chi trả cổ tức. Để kiểm tra
kỳ vọng này bài nghiên cứu tiến hành kiểm định giả thuyết 1: Đòn bẩy tài chính là
một chỉ báo cho tỷ lệ chi trả cổ tức. Tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng cao, thì tỷ lệ chi trả
cổ tức được kỳ vọng càng cao điều này phù hợp với lý thuyết trật tự phân hạng.
Giả thuyết 2: Bài nghiên cứu này đưa ra giả thuyết rằng các công ty sử dụng nguồn
tài chính nội bộ để chi trả cổ tức và thực hiện các dự án đầu tư. Chi trả cổ tức được
ưu tiên hơn đầu tư vì các công ty không muốn cắt giảm cổ tức. Chi trả cổ tức cao sẽ
làm hạn chế đầu tư. Điều này dẫn đến giả thuyết 2: Tỷ lệ đầu tư cao sẽ làm giảm sự
sẵn có của nguồn tài chính nội bộ. Do đó chi phí đầu tư sẽ có tác động tiêu cực đến
tỷ lệ chi trả cổ tức.
Giả thuyết 3: Trong phương trình (2), phương trình đòn bẩy tài chính (FL), bao
gồm biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV), đầu tư (INV), và các biến kiểm soát (CRTFL).
Nguồn tài chính nội bộ không đáp ứng được tỷ lệ chi trả cổ tức cao nên các công ty
phải huy động nguồn tài chính từ bên ngoài. Theo lý thuyết trật tự phân hạng, nợ
được yêu thích hơn vốn cổ phần. Do đó có thể kỳ vọng một mối quan hệ tích cực
giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính. Điều này dẫn đến giả thuyết 3: Tỷ lệ
14
chi trả cổ tức có ảnh hưởng tích cực đối với đòn bẩy tài chính điều này phù hợp với
lý thuyết trật tự phân hạng.
Giả thuyết 4: Đối với mối quan hệ giữa chi phí đầu tư (INV) và đòn bẩy tài chính
(FL), Adedeji (1998) quan sát thấy rằng không có ý nghĩa thống kê trong sự tương
tác giữa đầu tư (INV) và đòn bẩy tài chính (FL) ở Anh. Ngược lại, Baskin (1989)
quan sát thấy rằng có một sự tương tác tích cực giữa đòn bẩy tài chính (FL) và đầu
tư (INV) tại Mỹ. Tuy nhiên theo dự đoán của lý thuyết trật tự phân hạng, đầu tư
được dự kiến là có tác động tích cực lên đòn bẩy tài chính. Do đó biến đầu tư (INV)
được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực lên biến đòn bẩy tài chính (FL).
Giả thuyết 5: Trong phương trình (3), phương trình đầu tư (INV) bao gồm tỷ lệ trả
cổ tức (DIV), đòn bẩy tài chính (FL), và các biến kiếm soát (CRTINV). Mức độ chi
trả cổ tức được kỳ vọng tác động tiêu cực đầu tư. Điều này dẫn đến giả thuyết 5: Tỷ
lệ chi trả cổ tức càng cao sẽ dẫn đến mức đầu tư thấp vì không có đủ tài chính nội
bộ dành cho đầu tư.
Giả thuyết 6: Theo nghiên cứu của Baskin (1989) đòn bẩy tài chính (FL) thì có tác
động tích cực lên biến đầu tư (INV). Trong khi nghiên cứu của Adedeji (1998)
chứng minh mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính (FL) và đầu tư (INV) không có ý
nghĩa thống kê. Do đó đòn bẩy tài chính (FL) có thể có tác động tích cực lên đầu tư
(INV) hoặc không có ý nghĩa thống kê.
15
3.2 .Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu được thu thập từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán từ năm
2008-2012 và được công bố trên trang web của các công ty niêm yết hoặc từ trang
web của sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh hoặc từ trang web
Vietstock (trang Vietstock.vn), các thông báo công bố chi trả cổ tức của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán TPHCM HOSE trong giai đoạn 2008 – 2012
được công bố trên trang web của sở giao dịch chứng khoán TPHCM HOSE hoặc từ
trang web của Vietstock. Mẫu nghiên cứu không bao gồm ngân hàng, công ty bảo
hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính và các quỹ đầu tư do khác biệt đặc
trưng so với các công ty khác, các công ty phải có sẵn dữ liệu cho các biến từ năm
2008-2012 và đủ dữ liệu từ năm 2006-2012 để tính biến SIGOI (đo bằng độ lệch
chuẩn của phần trăm thay đổi lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh).
Dựa vào các tiêu chí lựa chọn, mẫu nghiên cứu cuối cùng gồm 129 công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2008-2012. Các công ty
trong mẫu nghiên cứu gồm : Sản xuất và chế biến thực phẩm (19 công ty), Sản xuất
phân phối điện khí đốt tự nhiên ( 2 công ty), bất động sản (9 công ty), hóa chất dược
phẩm (8 công ty), Kim loại và các sản phẩm từ khoáng phi kim loại (11 công ty),
Bán buôn (10 công ty), xây dựng (9 công ty) và các ngành khác như viễn thông, sản
phẩm giấy và in ấn , nội thất và các sản phẩm liên quan…(61 công ty). Do hạn chế
về dữ liệu nên tác giả chọn mẫu nghiên cứu gồm 129 công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Hose giai đoạn 2008-2012, tuy nhiên theo phân tích ngành
trong tổng thể các công ty niêm yết trong thị trường chứng khoán TP HCM và trong
mẫu nghiên cứu thì thể hiện mẫu nghiên cứu vẫn mang tính đại diện cho toàn thị
trường chứng khoán TP HCM.
16
Hình 3.1 : So sánh phân bổ ngành giữa mẫu nghiên cứu và tổng thể
17
3.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
Mối tương quan giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và đầu tư thì
được kiểm định bằng phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) trong
Eview (phiên bản 6.0) cho hệ phương trình đồng thời. Theo Greene ( 1993) đã đề
nghị rằng phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) sẽ thích hợp hơn so
với phương pháp bình phương bé nhất (OLS) cho việc kiểm định tác động của các
biến nội sinh trong hệ phương trình đồng thời.
Trái ngược với Baskin (1989) khi sử dụng phương pháp bình phương bé
nhất (OLS) và Ching (2009) với phương pháp bình phương bé nhất hai bước
(TSLS) ở đây tác giả sử dụng phương pháp bình phương bé nhất ba bước (3SLS) để
kiểm định sự tương tác qua lại giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và đầu tư
tại Việt Nam. Lý do tác giả thực hiện nghiên cứu này là muốn so sánh kết quả tại
Việt Nam với các nghiên cứu trước đây không sử dụng phương pháp bình phương
bé nhất ba bước (3SLS) và với kết quả nghiên cứu của Adedeji (1998).
Tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và đầu tư tương quan với nhau, bài
nghiên cứu này phát triển một hệ phương trình đồng thời được xác định bởi phương
trình 1-3.
DIV = f(FL,INV,CRTDIV) (1)
FL = f(DIV,INV,CRTFL) (2)
INV = f(DIV,FL,CRTINV) (3)
Trong phương trình (1) DIV, các biến kiểm soát được xây dựng dựa trên
nghiên cứu của Absor (2006) “Determinants of dividend payouts ratios in Ghana”,
vector CRTDIV là biến kiểm soát bao gồm các biến: biến lợi nhuận (OI/TA), biến
đo lường tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm (SALE), biến đo lường sự thay đổi
trong lợi nhuận kế toán trước thuế hàng năm (RISK), biến tỷ lệ thuế thu nhập doanh
nghiệp (TAX), biến dòng tiền (CASH), biến tỷ lệ giá thị trường trên giá trị sổ sách
(PB) và biến phần trăm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông tổ chức trong công ty (INSH).
Lợi nhuận từ lâu được xem là yếu tố thể hiện khả năng chi trả cổ tức của
công ty. Nhiều nghiên cứu kết luận lợi nhuận trong quá khứ và hiện tại là yếu tố ảnh
18
hưởng trọng yếu đến khả năng chi trả cổ tức của công ty. Theo nghiên cứu
Theobald (1978) đã tìm thấy bằng chứng lợi nhuận có ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ
chi trả cổ tức ở Anh và có nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây chứng minh
rằng các công ty có nhiều lợi nhuận thì có tỷ lệ chi trả cổ tức cao hơn các công ty có
ít lợi nhuận. Vì vậy lợi nhuận (OI/TA) được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực lên tỷ
lệ chi trả cổ tức.
Tỷ lệ biến động trong lợi nhuận cũng ảnh hưởng đến chính sách cổ tức
của công ty. Công ty có thu nhập ổn định qua các năm thường có thể dự đoán được
nguồn thu nhập trong tương lai. Do đó một công ty có nguồn thu nhập ổn định sẽ trả
cổ tức cao hơn so với công ty có nguồn thu nhập biến động nhiều. Biến rủi ro
(RISK) được đo lường bằng sự thay đổi trong lợi nhuận kế toán trước thuế chia cho
tổng tài sản được kỳ vọng sẽ có tác động tiêu cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức
Tính thanh khoản hoặc trạng thái dòng tiền trong công ty cũng là một
yếu tố quyết định quan trọng đến tỷ lệ chi trả cổ tức. Các công ty có trạng thái dòng
tiền dư thừa thì sẵn sàng chi trả cổ tức hơn so với công ty có trạng thái dòng tiền
thiếu hụt. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng cho thấy thanh toán cổ tức
phụ thuộc nhiều vào dòng tiền, vì dòng tiền phản ánh khả năng chi trả cổ tức của
công ty, và vì nguồn lợi nhuận hiện tại bị ảnh hưởng nhiều bởi các chuẩn mực kế
toán nên đôi khi các công ty trong kỳ có lợi nhuận nhưng nguồn tiền thì lại thiếu hụt
(do lợi nhuận công ty được ghi nhận theo nguyên tắc dồn tích, các nghiệp vụ kinh tế
được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch không quan tâm đến thời điểm thực
tế thu hoặc chi tiền). Nhìn chung tỷ lệ chi trả cổ tức và dòng tiền nên có một mối
liên hệ tích cực. Jensen (1986) giải thích mối quan hệ tích cực này dựa trên lý
thuyết chi phí đại diện do xung đột giữa nhà quản lý và cổ đông. Chính chi phí đại
diện làm cho các cổ đông thích cổ tức hơn là lợi nhuận giữ lại tại công ty nếu công
ty có dòng tiền dư thừa vì các cổ đông lo ngại các nhà quản lý có thể dùng dòng tiền
dư thừa để đầu tư dàn trải thiếu hiệu quả hay chi tiêu vượt quá quyền hạn của mình
gây thiệt hại cho cổ đông. Do dó khi dòng tiền thuần trong kỳ (CASH) tăng lên
được kỳ vọng sẽ gia tăng tỷ lệ chi trả cổ tức.
19
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết chi phí đại diện để giải thích các
yếu tố liên quan đến cổ tức. Chi phí đại diện sẽ tăng khi các nhà quản lý chỉ quan
tâm đến các lợi ích của mình mà không quan tâm đến quyền lợi của cổ đông. Trong
các doanh nghiệp các quyết định tỷ lệ chi trả cổ tức được xây dựng để tối thiểu hóa
chi phí vốn, chi phí đại diện, chi phí thuế thu nhập cho các cổ đông. Một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các chi phí này là phần sở hữu của các cổ
đông tổ chức. Ngày càng có nhiều nghiên cứu lập luận rằng các cổ đông tổ chức
giúp công ty giải quyết các vấn đề về chi phí đại diện bằng cách tăng cường giám
sát hoạt động của các nhà quản lý. Các cổ đông tổ chức là các nhà hoạch định chính
sách chuyên nghiệp trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty và giám sát
các nhà quản lý. Kết quả là, các cổ đông tổ chức có ảnh hưởng đến chi phí đại diện
và cuối cùng là ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của công ty. Tương tự theo kết
luận của các nghiên cứu trước đây dưới hệ thống thuế tại Mỹ khi mà thu nhập từ cổ
tức được miễn thuế thì các nhà đầu tư tổ chức có khuynh hướng thích nhận cổ tức
hơn là sự gia tăng giá trị của cổ phần. Điều này cũng tương tự đối với các cổ đông
tổ chức. Các cổ đông tổ chức cũng thích công ty trả cổ tức nhiều hơn là giữ lại lợi
nhuận. Lý thuyết về thuế cho rằng dưới tác động của các mức thuế suất khác nhau
thì tỷ lệ chi trả cổ tức được dự đoán rằng có mối liên hệ tích cực với tỷ lệ các cổ
đông tổ chức trong công ty vì các tổ chức thích nhận cổ tức hơn là sự gia tăng vốn
cổ phần do mức thuế suất thấp hơn. Do đó kỳ vọng biến phần trăm tỷ lệ sở hữu của
các cổ đông tổ chức trong công ty (INSH) sẽ có một ảnh hưởng tích cực lên tỷ lệ chi
trả cổ tức. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TAX) được kỳ vọng sẽ có tác động tiêu
cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức vì khi công ty phải đóng thuế thu nhập nhiều hơn sẽ làm
giảm phần lợi nhuận phân phối để chi trả cổ tức.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu trước đây nhận thấy rằng có một mối
liên hệ trực tiếp giữa tốc độ tăng trưởng doanh thu và nhu cầu tài chính của các
công ty: các công ty tăng trưởng nhanh thường có nhu cầu huy động nguồn tài
chính từ bên ngoài cao vì nhu cầu vốn lưu động thường sẽ vượt quá sự gia tăng
dòng tiền từ việc tiêu thụ sản phẩm mới. Theo Jensen (1986) cho thấy các công ty
20
tăng trưởng nhanh sẽ sử dụng phần lớn lợi nhuận để tài trợ cho các dự án và để
tránh phụ thuộc vào tài chính bên ngoài với chi phí cao nên thường chi trả cổ tức
thấp, còn các công ty cơ hội tăng trưởng thấp, lượng tiền mặt nhiều thường chi trả
cổ tức cao để giảm chi phí đại diện. Tương tự các công ty thiết lập tỷ lệ chi trả cổ
tức thấp hơn khi dự đoán doanh thu sẽ tăng trưởng nhanh trong thời gian tới. Do đó
tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm (SALE) được kỳ vọng có tác động tiêu cực
lên tỷ lệ chi trả cổ tức. D'Souza (1999) kết luận rằng có một mối quan hệ tiêu cực
giữa tỷ lệ giá trị thị trường chia cho giá trị sổ sách (PB) và tỷ lệ chi trả cổ tức. Vì
vậy theo nghiên cứu của D’Souza kỳ vọng biến PB sẽ có tác động tiêu cực lên biến
tỷ lệ chi trả cổ tức.
Trong phương trình (2) FL có rất nhiều biến kiểm soát, các biến này
được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Titman and Wessels (1988), nghiên cứu về
các yếu tố quyết định đến cấu trúc vốn. Trong vector CRTFL gồm biến lợi nhuận
(OI/TA), biến chỉ số biến động lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh
(SIGOI), quy mô công ty (LNS), tính độc đáo (CS/S), cơ hội phát triển (CE/TA),
biến tấm chắn thuế từ những tài khoản vốn khác không phải nợ (DEP/ TA) và biến
cơ cấu tài sản (IGP/TA).
A.Lợi nhuận (Profitability) : Theo Myers (1984) trích dẫn bằng chứng từ Donaldson
(1961) cho thấy rằng các công ty thích huy động vốn đầu tiên từ lợi nhuận giữ lại,
thứ hai từ các khoản vay, và cuối cùng từ phát hành cổ phiếu mới. Điều này có thể
là do các chi phí phát hành. Theo nghiên cứu của Myers và Majluf (1984) việc phát
sinh chi phí phát hành có thể do thông tin bất đối xứng, hoặc có thể do chi phí giao
dịch. Ngoài ra, các công ty có lợi nhuận không thích phát hành cổ phần mới nhằm
tránh việc pha loãng quyền sở hữu. Vì vậy trong cả hai trường hợp, lợi nhuận của
công ty và thu nhập giữ lại là yếu tố quyết định quan trọng đến cấu trúc vốn hiện
tại. Điều này có nghĩa là các công ty có nhiều lợi nhuận sẽ có tỷ lệ vay nợ thấp.
Nghiên cứu của Titman và Wessels (1988) cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch (-)
giữa đòn bẩy tài chính và lợi nhuận. Tác giả sử dụng tỷ lệ lợi nhuận kế toán trước
thuế trên tổng tài sản (OI /TA) để đo lường chỉ số lợi nhuận.
21
B.Sự biến động của lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (Earning
volatility): Một số nghiên cứu cho rằng tỷ lệ nợ tối ưu của một công ty tỉ lệ nghịch
với sự biến động của lợi nhuận. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa biến động của lợi
nhuận và đòn bẩy tài chính được tìm thấy là không có ý nghĩa thống kê trong
nghiên cứu của Bradley, Jarrell và Kim (1984). Tác giả đo lường bằng độ lệch
chuẩn của phần trăm thay đổi trong lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh
doanh (SIGOI).
C.Quy mô công ty (Size): Quy mô công ty (LNS) được dự kiến sẽ có một ảnh
hưởng tích cực lên đòn bẩy tài chính (FL), vì các doanh nghiệp lớn có thể tiếp cận
dễ dàng với các thị trường vốn để vay nợ Baskin (1989). Nên có lập luận cho rằng
các công ty lớn nên có tỷ lệ đòn bẩy cao. Bên cạnh đó chi phí phát hành nợ và vốn
cổ phần cũng liên quan đến quy mô công ty. Đặc biệt, các công ty nhỏ phải tốn chi
phí nhiều hơn so với các công ty lớn để phát hành cổ phiếu mới cũng như phát hành
nợ dài hạn. Tác giả sử dụng logarit tự nhiên của doanh thu (LNS) để đo lường quy
mô doanh nghiệp.
D.Tính độc đáo (Uniqueness): Chi phí phá sản của một công ty có thể gây ra đối với
khách hàng, người lao động, và các nhà cung cấp có liên quan đến cơ cấu vốn của
công ty. Các công ty sản xuất sản phẩm có tính độc đáo cao thường có đòn bẩy tài
chính thấp, vì nếu công ty bị phá sản thì khách hàng, người lao động, và các nhà
cung cấp rất khó để tìm sản phẩm, công việc, và người mua thay thế. Vì vậy, tính
độc đáo sẽ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Tác giả sử dụng tỷ lệ giá vốn
hàng bán trên tổng doanh thu thuần để đo lường tính độc đáo (CS/S).
E. Tăng trưởng (Growth): Ở các công ty có chủ sở hữu chiếm đa số vốn đầu tư (trên
51%) và có quyền quyết định trong các chính sách đầu tư có xu hướng đầu tư dàn
trải (gồm cả các dự án có NPV âm) để chiếm đoạt tài sản của trái chủ. Theo
Myers(1984), nếu một công ty có đòn bẩy tài chính cao thì các cổ đông của công ty
có khuynh hướng không đầu tư nhiều vào các dự án NPV dương bởi vì lợi nhuận từ
các khoản đầu tư này sẽ có lợi cho các trái chủ hơn là cho các cổ đông. Những chi
phí như vậy rất đáng kể, và nếu như vậy các công ty tăng trưởng cao với nhiều dự
22
án sinh lời thường dựa vào vốn chủ sở hữu nhiều hơn nợ vay. Do vậy, đòn bẩy tài
chính có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với cơ hội tăng trưởng. Mặt khác, Myers (1977)
lưu ý rằng vấn đề chi phí đại diện này có thể được giảm đi nếu công ty phát hành
các khoản nợ ngắn hạn chứ không phải là nợ dài hạn. Quan điểm này cho rằng tỷ lệ
nợ ngắn hạn có thể ảnh hưởng tích cực đến tốc độ tăng trưởng nếu các công ty đang
phát triển thay thế khoản vay dài hạn bằng các khoản vay ngắn hạn. Jensen và
Meckling (1976) cũng tranh luận rằng chi phí đại diện sẽ giảm nếu công ty phát
hành một món nợ có thể chuyển đổi. Do đó tỷ lệ nợ chuyển đổi nên có một mối
quan hệ tích cực đến cơ hội phát triển. Tuy nhiên, như ghi nhận của Titman (1988),
mặc dù cơ hội phát triển là tài sản vốn có thể gia tăng giá trị cho một công ty nhưng
không thể đưa vào báo cáo tài chính và xem như đây là một khoản thu nhập. Như
vậy, dự kiến sẽ tồn tại một mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ đòn bẩy tài chính và cơ
hội phát triển. Các chỉ số thể hiện tốc độ tăng trưởng của công ty được xem xét là
chi phí vốn chia cho tổng tài sản (CE/TA).
F. Tấm chắn thuế từ các tài khoản vốn khác không phải nợ (non-debt tax shields):
DeAngelo và Masulis (1980) đã xây dựng một mô hình để chứng minh tác dụng của
tấm chắn thuế của những tài khoản vốn khác không phải nợ lên tỷ lệ nợ tối ưu. Họ
cho rằng sự tồn tại của tấm chắn thuế của những tài khoản vốn khác không phải nợ
(ví dụ, chi phí khấu hao, các khoản phụ cấp cạn kiệt - tại một số nước khoản phụ
cấp này liên quan đến việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
như dầu, gas, than đá phần chi phí được thể hiện trong hợp đồng giữa bên thuê và
bên cho thuê tài nguyên và được tính là chi phí hợp lý khi tính thuế, và các khoản
tín dụng thuế đầu tư – là khoản giảm thuế bởi chính phủ các nước để khuyến khích
đầu tư trong nền kinh tế, được tính bằng phần trăm của chi phí vốn đầu tư) làm
giảm lợi ích từ thuế của các tài khoản nợ. Do đó, tấm chắn thuế của các tài khoản
vốn khác không phải nợ có tác động tiêu cực lên mức nợ tối ưu của một công ty.
Các công ty với tấm chắn thuế từ các tài khoản vốn khác không phải nợ lớn thường
có tỷ lệ nợ tương đối ít trong cơ cấu vốn của họ. Tác giả sử dụng giá trị khấu hao
23
chia cho tổng tài sản (DEP/TA) để đo lường tấm chắn thuế của các tài khoản vốn
khác không phải nợ.
G. Cơ cấu tài sản (Asset structure): Hầu hết các lý thuyết cấu trúc vốn cho rằng các
tài sản thuộc sở hữu của một công ty, một cách nào đó có ảnh hưởng đến sự lựa
chọn cấu trúc vốn. Myers và Majluf (1984) lập luận rằng các công ty càng sở hữu
nhiều tài sản có thể đảm bảo cho các khoản vay (các tài sản có giá trị lớn) càng có
xu hướng phát hành nhiều nợ hơn. Vì khi phát hành các khoản nợ bảo đảm, các
doanh nghiệp sẽ gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu của họ bằng cách chiếm đoạt tài sản
của các trái chủ hiện tại của các khoản nợ không bảo đảm. Có thể có nhiều chi phí
liên quan phát hành chứng khoán để huy động vốn trong thị trường tồn tại bất cân
xứng thông tin, khi mà những nhà quản lý của công ty có nhiều thông tin hơn so với
cổ đông bên ngoài. Phát hành trái phiếu có bảo đảm bằng tài sản có thể tránh những
chi phí này gồm chi phí đại diện và chi phí khủng hoảng tài chính. Vì lý do này, các
công ty có tài sản có thể được sử dụng như tài sản đảm bảo được dự kiến sẽ phát
hành nợ nhiều hơn để tận dụng cơ hội này. Ngoài ra, Jensen và Meckling (1976) và
Myers (1977) chỉ ra rằng các cổ đông của các công ty có sử dụng đòn bẩy tài chính
có động cơ chiếm đoạt tài sản từ các trái chủ, và do đó tồn tại mối quan hệ tích cực
giữa tỷ lệ nợ và giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Mặt khác, có một số nhà
nghiên cứu cho rằng tồn tại mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa nợ và giá trị tài sản đảm
bảo. Vì các nhà quản lý có xu hướng chi tiêu nhiều hơn mức lợi ích của mình, do đó
có thể tạo ra mối quan hệ ngược chiều giữa tài sản đảm bảo và vay nợ. Khi công ty
có tỷ lệ vay nợ cao hơn sẽ làm giảm xu hướng này vì gia tăng nguy cơ phá sản và
các nhà quản lý phải chịu sự giám sát chặt chẽ của các trái chủ. Do đó, đôi khi các
công ty có giá trị tài sản thấp lại có xu hướng phát hành nợ hơn để hạn chế chi tiêu
của các nhà quản lý. Tuy nhiên đối với các công ty có ít tài sản đảm bảo thì chi phí
đại diện sẽ cao hơn vì việc theo dõi các chi tiêu như vậy sẽ khó khăn hơn. Tác giả
sử dụng tỷ lệ hàng tồn kho cộng với giá trị tài sản cố định hữu hình và tổng thiết bị
trên tổng tài sản (IGP/TA) là chỉ số của giá trị tài sản đảm bảo.
24
Nhiều biến kiểm soát được bao gồm trong phương trình (2). Myers
(1984) lập luận rằng các công ty có ít lợi nhuận khi gặp các cơ hội đầu tư có NPV
dương sẽ sẵn lòng sử dụng nguồn tài chính bên ngoài nếu dòng tiền hiện tại kém.
Kỳ vọng lợi nhuận (OI/TA) là có tác động tiêu cực lên đòn bẩy tài chính. Có thể
mong đợi rằng biến động thu nhập (SIGOI) tỉ lệ nghịch với đòn bẩy tài chính. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu của Bradley, Jarrell, và Kim (1984) mối quan hệ giữa biến
SIGOI và đòn bẩy tài chính được tìm thấy là không có ý nghĩa thống kê. Quy mô
công ty (LNS) được kỳ vọng là có ảnh hưởng tích cực đến đòn bẩy tài chính. Tính
độc đáo (CS/S) được kỳ vọng có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính.
Titman và Wessels (1988) đề nghị rằng cơ hội phát triển (CE/TA) kỳ vọng sẽ có tác
động tiêu cực đến đòn bẩy tài chính. Có thể mong đợi tấm chắn thuế của những
khoản vốn khác không phải nợ (DEP/TA) có tác động tiêu cực đến đòn bẩy tài
chính dựa trên những lập luận của DeAngelo và Masulis (1980). Jensen và
Meckling (1976) và Myers (1977) lập luận rằng cơ cấu tài sản (IGP/TA) có ảnh
hưởng tích cực đến đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, một số nghiên cứu trước đây lập
luận rằng các công ty có giá trị tài sản thế chấp tài sản thấp (các tài sản có giá trị) có
xu hướng phát hành nợ hơn để hạn chế chi tiêu của các nhà quản lý.
Trong phương trình (3) vector CRTINV gồm các biến kiểm soát như
biến lợi nhuận (OI/TA), biến tốc độ tăng trưởng doanh thu (SALE), quy mô công ty
(LNS), biến giá trị thị trường chia cho giá trị sổ sách (PB). Cả Baskin (1989) và
Allen (1993) đều chứng minh rằng quy mô công ty (LNS) có tác động tiêu cực lên
đầu tư, nhưng nghiên cứu của hai ông thì có kết quả khác nhau đối với tác động của
biến lợi nhuận (OI/TA). Baskin (1989) đã tìm ra lợi nhuận (OI/TA) có tác động
dương tại Mỹ, nhưng Allen tìm thấy rằng biến (OI/TA) không có ý nghĩa thống kê
tại Úc. Theo Baskin (1989) biến PB có tác động tích cực lên đầu tư. Biến tốc độ
tăng trưởng doanh thu hàng năm (SALE) được đưa vào biến kiểm soát để kiểm định
tác động của sự tăng trưởng doanh thu lên đầu tư. Fama (1974) kết luận tốc độ tăng
trưởng doanh thu có ảnh hưởng tích cực lên đầu tư ở Mỹ. Vì vậy, biến (SALE) được
kỳ vọng có một tác động tích cực lên biến đầu tư trong phương trình 3
25
DIV= α0 + α1FL + α2INV + α3OI/TA + α4RISK + α5CASH + α6TAX +
Từ các phân tích trên ta có hệ phương trình sau:
FL = β0 + β1DIV+ β2INV+ β3OI/TA+ β4SIGOI+ β5LNS+ β6CS/S+ β7CE/TA+
β8 DEP/TA+ β9IGP/TA + z (5)
INV= γ0 + γ1DIV + γ2FL+ γ3OI/TA+ γ4SALE+ γ5LNS + γ6 PB + ν (6)
α7 INSH + α8SALE+ α9 PB + ε (4)
Các ký hiệu sau đây được sử dụng để xác định các biến trong mô hình thực nghiệm:
DIV = tỷ lệ chi trả cổ tức, được tính bằng cổ tức mỗi cổ phần chia cho thu nhập trên
mỗi cổ phần.
FL = đòn bẩy tài chính, được đo bằng tổng nợ chia cho tổng tài sản;
INV = Đầu tư , được đo bằng (tổng tài sản vào cuối năm 2012 - tổng tài sản vào đầu
năm 2008) chia cho tổng tài sản vào đầu năm 2008;
CRTDIV, CRTFL, và CRTINV là các biến kiểm soát mà có thể có ảnh hưởng đến
tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính, đầu tư. Các biến được định nghĩa như sau:
OI/TA = chỉ số về lợi nhuận, được đo bằng tỷ lệ lợi nhuận kế toán trước thuế chia
cho tổng tài sản;
SIGOI = chỉ số biến động lợi nhuận, được đo bằng độ lệch chuẩn của phần trăm
biến động trong lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh; tính trong khoản
thời gian 7 năm từ năm 2006 đến 2012;
LNS = quy mô công ty, đo bằng logarit tự nhiên của doanh thu;
CS/S = chỉ số cho tính độc đáo, được đo bằng giá vốn hàng bán chia cho tổng doanh
thu thuần.
CE/TA = chỉ báo cho sự phát triển, được đo bằng chi phí vốn chia cho tổng tài sản;
DEP/TA = chỉ số cho tấm chắn thuế từ các tài khoản vốn khác không phải từ nợ,
được đo bằng khấu hao chia cho tổng tài sản;
IGP/TA = chỉ số về cơ cấu tài sản, đo bằng tỷ lệ của tổng hàng tồn kho cộng với
tổng giá trị nhà máy và thiết bị chia cho tổng tài sản.
26
CASH= thể hiện dòng tiền của công ty, đo bằng tổng tài sản ngắn hạn trừ cho nợ
ngắn hạn chia cho nợ ngắn hạn trong kỳ.
TAX= tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp, được đo lường bằng thuế thu nhập doanh
nghiệp chia cho lợi nhuận kế toán trước thuế.
INSH= Tỷ lệ phần trăm cổ đông tổ chức sở hữu cổ phiếu của công ty.
SALE= tốc độ tăng trưởng doanh thu thuần, đo lường bằng doanh thu thuần cuối
năm trừ cho doanh thu thuần đầu năm chia cho doanh thu thuần đầu năm.
RISK = rủi ro, được đo bằng chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế năm sau trừ cho
lợi nhuận trước thuế năm trước đó chia cho tổng tài sản.
PB (Price to book ratio)= giá thị trường chia cho giá trị sổ sách
Theobald (1978) tranh luận rằng phương pháp nghiên cứu dựa trên bộ dữ
liệu chéo thì phù hợp hơn cho việc kiểm tra mối liên hệ dài hạn giữa các biến. Phù
hợp với tranh luận này bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên dữ
liệu chéo (crossectional test). Trong bài nghiên cứu, mỗi biến ngoại sinh trong
phương trình 4-6 được thể hiện bằng giá trị trung bình 5 năm của nó từ 2008-2012,
ngoại trừ biến biến động của lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh
(SIGOI) được đo lường bằng độ lệch chuẩn của phần trăm thay đổi trong lợi nhuận
hoạt động trong 7 năm 2006-2012. Nguyên nhân chính để sử dụng giá trị trung bình
là một số nghiên cứu trước đây cho rằng các giá trị trung bình ước tính tốt hơn so
với giá trị đơn lẻ cho việc kiểm định lý thuyết liên quan đến mối quan hệ dài hạn
của công ty, nếu muốn tránh những ảnh hưởng do những biến đổi trong ngắn hạn
gây ra. (nghiên cứu của Titman và Wessels, 1988, tại Mỹ)
Tuy nhiên biến nội sinh DIV và FL thì được thể hiện bằng giá trị riêng lẻ
trong từng năm, năm 2008 (DIV08 và FL08), năm 2009 (DIV09 và FL09), năm
2010 (DIV10 và FL10), năm 2011 (DIV11 và FL11), năm 2012 (DIV12 và FL12)
và giá trị trung bình của nó trong 5 năm 2008-2012 (AVDIV và AVFL). Biến đầu
tư thì được thể hiện bằng một giá trị duy nhất trong 5 năm từ năm 2008-2012, được
đo lường bằng giá trị tài sản cuối năm 2012 trừ đi giá trị tài sản đầu năm 2008 sau
đó chia cho giá trị tài sản đầu năm 2008. Biến đầu tư được sử dụng trong bài nghiên
27
cứu này tương tự với nghiên cứu của Baskin (1989) và Allen (1993) được xác định
bằng tỷ lệ của tổng tài sản cuối giai đoạn nghiên cứu so với giá trị tổng tài sản đầu
giai đoạn nghiên cứu. Một biến khác có thể được sử dụng để do lường mức độ đầu
tư là tổng chi tiêu trong đầu tư cho các tài sản mới. Baskin (1989) tranh luận rằng
việc sử dụng cách đo lường mức độ đầu tư bằng tổng chi tiêu cho các tài sản mới thì
sẽ không chính xác vì đã bỏ qua đầu tư trong vốn hoạt động. Baskin (1989) đề nghị
rằng đo lường đầu tư dựa trên tổng tài sản thì thích hợp hơn bởi vì nó bao gồm cả
đầu tư trong tài sản cố định và vốn hoạt động. Sử dụng giá trị hàng năm của tỷ lệ
chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính bên cạnh giá trị đầu tư trong thời kỳ 5 năm phù
hợp với cách tiếp cận của Baskin (1989) và Allen (1993).
Mục đích của bài nghiên cứu này là để đánh giá tính hiệu lực của hai giả
định của lý thuyết trật tự phân hạng về mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn
bẩy tài chính và đầu tư.
+ Giả định 1: tỷ lệ chi trả cổ tức lớn trong một khoảng thời gian sẽ làm giảm
nguồn vốn sẵn có dùng cho đầu tư trong giai đoạn tiếp theo và gia tăng tỷ lệ vay nợ
trong giai đoạn đó.
+ Giả định 2 : chi phí đầu tư lớn trong một giai đoạn sẽ đặt áp lực giảm tỷ lệ
chi trả cổ tức và gia tăng nhu cầu vay nợ bên ngoài trong giai đoạn đó.
Để thực hiện nghiên cứu này biến DIV12 sẽ được hồi quy trên biến trễ
FL08, INV và các biến kiểm soát trong phương trình (4), biến FL12 được hồi quy
trên biến trễ DIV08, INV và các kiểm soát trong phương trình (5), INV được hồi
quy trên biến trễ DIV08, FL08 và các biến kiểm soát trong phương trình (6). Nếu
các giả định này được ủng hộ, biến đầu tư (INV) nên có ảnh hưởng tiêu cực lên biến
tỷ lệ chi trả cổ tức trong năm 2012 (DIV12) trong phương trình (4), và tỷ lệ chi trả
cổ tức trong năm 2008 (DIV08) nên có một ảnh hưởng tiêu cực lên đầu tư (INV)
trong phương trình (6). Phù hợp với các nghiên cứu trước đây tỷ lệ chi trả cổ tức
(DIV08) và đầu tư (INV) nên có ảnh hưởng tích cực trên đòn bẩy tài chính (FL12)
trong phương trình (5).
28
Sau khi sử dụng biến DIV08 và biến FL08 trong ước lượng của hệ
phương trình 4-6, biến DIV08 và FL08 được thay thế bởi DIV09 và FL09 và
phương trình được ước lượng lại. Sau đó, biến DIV10, DIV11 và biến FL10, FL11
lần lượt được thay thế cho các biến DIV09 và FL09. Cuối cùng, giá trị trung bình
trong 5 năm của DIV và FL (AVDIV và AVFL) thì được sử dụng để ước lượng
phương trình, kết quả ta được 5 ước lượng cùng nhau. Điều này được thực hiện để
giảm thiểu tác động của đa cộng tuyến trong nghiên cứu, do ảnh hưởng của tỷ lệ chi
trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và đầu tư của các năm trước lên tỷ lệ chi trả cổ tức năm
2012 (DIV12) và đòn bẩy tài chính năm 2012 (FL12). Tổng hợp từ các phân tích
trên đây và từ 6 giả thuyết tác giả tổng hợp thành 2 bảng sau.
29
Bảng 3.1: Tóm tắt tác động của các biến nội sinh trong hệ phƣơng trình
Phương trình (4) : DIV = f(FL,INV,CRTDIV)
Phương trình 4 (DIV) FL INV
+ DIV -
Phương trình (5) : FL = f(DIV,INV,CRTFL)
DIV Phương trình 5 (FL) INV
+ FL +
Phương trình (6) : INV = f(DIV,FL,CRTINV)
Phương trình 6 (INV) DIV FL
INV - +/NA
Bảng 3.2: Tóm tắt tác động của các biến ngoại sinh trong hệ phƣơng trình
Phƣơng trình (4) Phƣơng trình (5) Phƣơng trình (6) Biến DIV FL INV
Tích cực (+) Tích cực (+) OI/TA Tiêu cực (-)
SIGOI
LNS Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tiêu cực (-)
CS/S Tiêu cực (-)
CE/TA Tiêu cực (-)
DEP/TA Tiêu cực (-)
IGP/TA Tích cực (+)
RISK Tiêu cực (-)
TAX Tiêu cực (-)
CASH Tích cực (+)
INSH Tích cực (+)
PB Tích cực (+) Tiêu cực (-)
SALE Tích cực (+) Tiêu cực (-)
30
4.Kết quả nghiên cứu:
4.1 Phƣơng pháp bình phƣơng bé nhất ba bƣớc (3SLS):
Bảng 4.1 tóm tắt các chỉ tiêu thống kê mô tả của các biến, tỷ lệ chi trả cổ
tức trung bình (DIV) là khoảng 45,8%, chỉ ra rằng trung bình khoảng 45,8% thu
nhập trên mỗi cổ phần được các công ty trong mẫu dùng để trả cổ tức. Đòn bẩy tài
chính (FL) có trung bình bằng 46,5%. Điều này có nghĩa là trung bình khoảng
46,5% tổng tài sản của các công ty được tài trợ bằng nợ. Biến đầu tư (INV) tương tự
với nghiên cứu của Baskin (1989) và Allen (1993) được xác định bằng giá trị tài sản
của cuối giai đoạn nghiên cứu (năm 2012) trừ đi giá trị tài sản đầu giai đoạn nghiên
cứu (năm 2008) chia cho tổng giá trị tài sản đầu giai đoạn nghiên cứu (năm 2008)
do đó giá trị trung bình của đầu tư (INV) là 0,86. Điều này cho thấy trung bình các
doanh nghiệp có giá trị tài sản tăng trưởng khoảng 86% trong giai đoạn nghiên cứu
từ 2008-2012. Các đo lường lợi nhuận (OI/TA) có giá trị trung bình là 8,8%. Tấm
chắn thuế từ các tài khoản khác không phải nợ (DEP/TA) trung bình là khoảng
2,9%. Giá trị trung bình của cơ cấu tài sản (IGP/TA) là khoảng 42,5%, biến TAX có
trung bình là 18,5% điều này có ý nghĩa trung bình các công ty chi tiêu khoản
18,5% lợi nhuận để nộp thuế. Cuối cùng giá trị trung bình của tốc độ tăng trưởng
doanh thu (SALE) là 19,8% có nghĩa trung bình các công ty trong mẫu nghiên cứu
có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu hàng năm là 19,8%.
Bảng 4.2 và bảng 4.3 là ma trận hệ số tương quan của các biến trong mô
hình. Mối tương quan của các biến ngoại sinh thì nhìn chung là thấp, cũng như dự
đoán các biến nội sinh – gồm biến tỷ lệ chi trả cổ tức DIV, biến đầu tư INV, biến
đòn bẩy tài chính FL có mối tương quan cao với các giá trị của nó ở các năm trước.
31
Bảng 4.1: Tóm tắt các chỉ tiêu thống kê mô tả của các biến
Variable Mean Std.Dev Minimum Maximum
DIV08 DIV09 DIV10 DIV11 DIV12 AVDIV FL08 FL09 FL10 FL11 FL12 AVFL INV OI/TA SIGOI LNS CS/S CE/TA DEP/TA IGP/TA RISK TAX CASH INSH PB SALE 0.574 0.526 0.378 0.364 1.017 0.339 0.222 0.209 0.204 0.215 0.210 0.198 1.036 0.076 7.758 1.190 0.147 0.047 0.022 0.188 0.028 0.124 1.568 0.221 0.734 0.241 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.000 0.031 0.073 0.065 0.095 0.104 0.088 -0.401 -0.043 0.142 11.071 0.100 -0.062 0.001 0.025 -0.117 0.000 -0.574 0.000 0.372 -0.200 5.195 4.425 2.095 1.318 10.373 2.339 0.856 0.864 0.865 0.875 0.870 0.862 8.271 0.324 56.603 17.568 1.161 0.171 0.126 0.899 0.140 0.894 8.457 0.800 6.218 2.112 0.518 0.437 0.501 0.415 0.451 0.458 0.438 0.466 0.459 0.486 0.490 0.465 0.860 0.088 3.651 13.592 0.792 0.045 0.029 0.425 0.006 0.185 1.211 0.336 1.117 0.198
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0)
32
FL09
FL10
FL11
FL12
AVFL
DIV08
DIV09
DIV10
DIV11
DIV12 AVDIV
INV
FL08 FL09 FL10 FL11 FL12 AVFL DIV08 DIV09 DIV10 DIV11 DIV12 AVDIV INV OI SIGOI LNS CS/S CE/TA DEP/TA IGP/TA RISK TAX SALE PB CASH INSH
FL08 1 0.8844* 0.8202* 0.7728* 0.7195* 0.6801* -0.0319 0.0183 -0.0921 -0.0932 -0.0457 -0.0837 0.0024 -0.4196* 0.1348 0.2663* 0.1866* -0.1666 -0.0425 0.2445* -0.1426 0.1533 0.0535 -0.0017 -0.6191* 0.0648
1 0.9401* 0.8620* 0.8224* 0.7111* -0.0153 0.044 -0.101 -0.1504 -0.0804 -0.104 0.0756 -0.4879* 0.1357 0.3265* 0.2868* -0.2588* -0.0891 0.2581* -0.1940* 0.1202 0.0957 -0.0126 -0.6773* 0.026
1 0.9101* 0.8669* 0.7304* 0.0108 0.0516 -0.0502 -0.1543 -0.0361 -0.0604 0.1079 -0.4757* 0.1265 0.3169* 0.2967* -0.2580* -0.1044 0.2317* -0.1860* 0.067 0.0717 -0.0403 -0.6724* 0.047
1 0.9501* 0.7502* 0.0113 0.0745 -0.0291 -0.1489 0.0056 -0.022 0.1659 -0.5452* 0.1688 0.2807* 0.2911* -0.3715* -0.1558 0.2236* -0.2785* 0.0495 0.1342 -0.0342 -0.6341* -0.0069
1 0.7210* 0.0204 0.0746 -0.0457 -0.1531 0.0216 -0.011 0.2564* -0.5237* 0.1603 0.2866* 0.3244* -0.3709* -0.2157* 0.1711 -0.2968* 0.0464 0.1597 -0.0009 -0.6389* -0.0008
1 0.0135 0.0971 -0.0861 -0.0575 0.041 0.015 0.0464 -0.3724* 0.0336 0.2081* 0.1972* -0.2435* -0.1802* 0.1403 -0.1607 0.0221 0.0019 -0.0893 -0.5159* 0.0153
1 0.6453* 0.1065 0.2713* -0.0162 0.6155* -0.0992 -0.0568 0.0636 -0.0837 0.0729 -0.1612 -0.0623 0.0543 -0.1598 -0.1315 -0.0724 -0.0833 0.0011 0.0157
1 0.1149 0.1736* 0.2056* 0.7158* -0.1555 -0.0947 0.0892 -0.0578 0.0611 -0.1641 0.017 0.0466 -0.1546 -0.0572 -0.088 -0.1809* -0.0361 0.0004
1 -0.1209 1 -0.0029 0.2588* -0.0327 -0.1418 -0.024 0.3187* -0.1922* 0.0562 -0.2022* 0.4032* -0.1799* -0.1103 0.3287* -0.05 0.6382* 0.6178* -0.0583 -0.1412
1 0.2045* -0.0773 0.2656* -0.0917 -0.032 0.0064 -0.1613 0.0116 -0.1968* 0.0226 0.0219 -0.0924 -0.0473 0.0263 -0.0437 0.1318 -0.0288
1 0.6730* 0.0233 0.0318 -0.0658 0.1367 0.048 -0.0825 0.0125 0.0429 0.0144 -0.1145 -0.0458 -0.0304 0.0183 -0.0669
0.001 0.0774 -0.098 -0.1822* -0.1076 -0.1425 0.0684 -0.0269
Bảng 4.2: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến nội sinh
1 0.1118 0.4631* -0.1059 0.2188* -0.2271* -0.0739 -0.0998 0.0243 -0.0047 0.0216 0.1209 -0.1483 -0.1226 -0.0649 0.1458 0.0561 (Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Stata 11.1)
33
LNS
CS/S
SIGOI
CE/TA DEP/TA
IGP/TA
RISK
TAX
SALE
PB
CASH
INSH
OI SIGOI LNS CS/S CE/TA DEP/TA IGP/TA RISK TAX SALE PB CASH INSH
OI 1 -0.2592* 0.1202 -0.4184* 0.7358* 0.1588 -0.0787 0.7606* -0.1257 0.1123 0.4973* 0.3903* 0.1461
1 1 -0.024 0.2049* 0.1214 0.172 -0.2887* 0.1153 0.0455 0.0644 0.1135 -0.1791* 0.3005* -0.034 0.0025 0.1473 0.1329 0.2808* -0.0403 -0.1925* -0.0546 0.0777 0.0607
1 1 -0.4200* 0.1192 -0.0681 0.0982 -0.0449 -0.3596* 0.6592* -0.0037 0.0593 -0.2316* 0.2268* -0.4453* 0.4550* 0.1508 -0.2183* 0.0486 -0.0653
1 1 0.0305 -0.055 -0.0549 0.1607 0.0133 -0.1032 0.4074* -0.2688* 0.2575* 0.1924* 0.1918*
1 0.1008 -0.0317 -0.001 0.1048
1 0.6189* -0.0669 -0.1653
1 0.0438 0.0666
1 0.0589
1
Bảng 4.3: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến ngoại sinh
1 0.4581* 0.2371* -0.0356 -0.049 -0.0322 0.0808 0.2472*
* Thể hiện mức ý nghĩa 5%, Bảng 4.2,4.3 được ước lượng từ phần mềm stata 11.1. Ngoại trừ biến DIV08-DIV12 , FL08-
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Stata 11.1)
FL12 được thể hiện bằng giá trị qua từng năm, biến SIGOI được tính bằng độ lệch chuẩn của phần trăm thay đổi lợi nhuận
thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong 7 năm từ 2006-2012 và INV được đo lường bằng (tổng tài sản cuối năm 2012-
tổng tài sản đầu năm 2008)/tổng tài sản đầu năm 2008. Tất cả các biến còn lại điều được thể hiện bằng giá trị trung bình trong
5 năm từ năm 2008-2012.
34
Chi tiết hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất 3 bước qua các
năm từ 2008 đến 2012 bằng phần mềm Eview 6.0 kết quả tổng hợp được thể hiện
trong bảng 4.4 tới bảng 4.8, bảng 4.9 trình bày tóm tắt kết quả ước lượng các tham
số từ việc chạy hồi quy bằng phương pháp bình phương bé nhất 3 bước (3SLS) cho
hệ phương trình đồng thời (4) - (6). Để tổng hợp ra kết quả trong bảng 4.9, tác giả
tổng hợp theo nguyên tắc sau các ước lượng trong phương trình AVDIV và AVFL
được cho là quan trọng hơn so với ước lượng thu được trong phương trình DIV12
và FL12, điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Ví dụ, 1 biến có ý nghĩa
thống kê trong ước lượng phương trình với AVDIV (AVDIV là biến phụ thuộc) thì
biến đó sẽ được báo cáo trong bảng 4.9 là có ý nghĩa thống kê ngay cả khi biến đó
không có ý nghĩa thống kê trong tất cả các ước lượng của các phương trình với biến
DIV12 (biến DIV12 là biến phụ thuộc). Nhưng nếu một biến chỉ có ý nghĩa thống
kê hai trong bốn ước lượng với DIV12 là biến phụ thuộc nhưng không có ý nghĩa
thống kê trong ước lượng khi biến AVDIV là biến phụ thuộc, thì biến đó sẽ được
báo cáo trong bảng 4.9 là không có ý nghĩa thống kê. Nếu một biến có ý nghĩa
thống kê từ ba trong bốn ước lượng khi biến DIV12 là biến phụ thuộc, nó sẽ được
báo cáo là có ý nghĩa thống kê ngay cả khi biến đó không có ý nghĩa thống kê trong
ước lượng với biến AVDIV là biến phụ thuộc. Các nguyên tắc tương tự sẽ được áp
dụng cho các biến FL12, AVFL và biến INV và các biến kiểm soát trong phương
trình 4-6.
Bảng 4.4 là kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời thể hiện tác động
qua lại giữa biến tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính năm 2008 với biến
đòn bẩy tài chính FL08 và tỷ lệ chi trả cổ tức DIV08. Kết quả hồi quy cho thấy
trong phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức, biến đòn bẩy tài chính, biến
đầu tư và lợi nhuận đều không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến tỷ lệ chi
trả cổ tức. Trong phương trình (5) phương trình đòn bẩy tài chính, nghiên cứu kết
luận đầu tư có tác động tích cực lên tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại mức ý nghĩa 1%, tuy
nhiên tỷ lệ chi trả cổ tức lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đòn
bẩy tài chính, riêng lợi nhuận có tác động tiêu cực lên tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại
35
mức ý nghĩa 1%. Phương trình (6) phương trình đầu tư, nghiên cứu kết luận tỷ lệ
chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên đầu tư tại mức ý nghĩa 10%, tuy nhiên biến
đòn bẩy tài chính và lợi nhuận lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến
đầu tư.
36
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy năm 2008 với biến đòn bẩy tài chính FL08 và tỷ lệ
chi trả cổ tức DIV08
DIV12 FL12 INV
Biến Lý thuyết Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm 0.138 (0.929)
+ DIV08 - Thực nghiệm -0.062 (0.748) -0.132 (0.322)
+ FL08 +/Na Thực nghiệm -1.269 (0.184) -0.846 (0.086) * -0.628 (0.354)
+ - INV
1.065 (0.711) -0.080 (0.791) 2.819 (0.603)
-0.344 (0.831)
+ OI/TA - +
SIGOI -
0.153 (0.030)**
LNS + -
CS/S -
CE/TA -
DEP/TA -
0.065 (0.005)*** -0.981 (0.001)*** 0.001 (0.311) 0.043 (0.002)*** 0.058 (0.592) -1.334 (0.021)** -1.797 (0.032)** 0.276 (0.002)***
IGP/TA +
- RISK
- TAX
CASH +
INSH +
-
PB +
-2.703 (0.771) -0.986 (0.320) 0.028 (0.894) -0.287 (0.584) -0.078 (0.798) 0.082 (0.922)
0.373 (0.017)** 1.833 (0.000)***
SALE - +
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0)
37
Bảng 4.5 là kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời thể hiện tác
động qua lại lẫn nhau giữa biến tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính năm
2009 với biến đòn bẩy tài chính FL09 và tỷ lệ chi trả cổ tức DIV09. Kết quả hồi quy
cho thấy trong phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức, biến đòn bẩy tài
chính, biến đầu tư và lợi nhuận đều không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên
biến tỷ lệ chi trả cổ tức. Trong phương trình (5) phương trình đòn bẩy tài chính,
nghiên cứu kết luận đầu tư có tác động tích cực lên tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại mức ý
nghĩa 1%, tuy nhiên tỷ lệ chi trả cổ tức lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động
lên biến đòn bẩy tài chính, lợi nhuận có tác động tiêu cực lên tỷ lệ đòn bẩy tài chính
tại mức ý nghĩa 1%. Phương trình (6) phương trình đầu tư, nghiên cứu kết luận tỷ lệ
chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên đầu tư tại mức ý nghĩa 5%, tuy nhiên đòn bẩy
tài chính và lợi nhuận lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đầu tư.
38
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy năm 2009 với biến đòn bẩy tài chính FL09 và
tỷ lệ chi trả cổ tức DIV09
DIV12 FL12 INV
Biến Lý thuyết Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm -1.139 (0.448)
DIV09 + - Thực nghiệm -0.127 (0.440) -0.019 (0.885)
FL09 + +/Na Thực nghiệm -0.658 (0.636) -2.285 (0.022)** -0.485 (0.645)
INV + -
3.199 (0.210) -0.288 (0.409) 6.313 (0.212)
0.113 (0.963)
OI/TA + - +
SIGOI -
0.166 (0.138)
LNS + -
CS/S -
CE/TA -
DEP/TA -
0.071 (0.004)*** -1.192 (0.000)*** 0.0009 (0.581) 0.044 (0.000)*** 0.056 (0.569) -0.910 (0.053)** -1.604 (0.019)** 0.233 (0.002)***
IGP/TA +
RISK -
TAX -
CASH +
INSH +
-
PB +
-4.919 (0.554) -0.971 (0.292) 0.135 (0.471) -0.400 (0.465) -0.095 (0.744) 0.404 (0.642)
0.037 (0.891) 2.162 (0.000)***
SALE - +
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0)
39
Bảng 4.6 là kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời thể hiện tác
động qua lại lẫn nhau giữa biến tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính năm
2010 với biến đòn bẩy tài chính FL10 và tỷ lệ chi trả cổ tức DIV10. Kết quả hồi quy
cho thấy trong phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức, biến đòn bẩy tài
chính có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại mức ý nghĩa 10%, tuy
nhiên biến đầu tư không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến tỷ lệ chi trả cổ
tức, ngoài ra lợi nhuận cũng có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại mức
ý nghĩa 10%. Trong phương trình (5) phương trình đòn bẩy tài chính, nghiên cứu
kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và lợi nhuận đều không có ý nghĩa thống kê
trong tác động lên biến đòn bẩy tài chính. Phương trình (6) phương trình đầu tư,
nghiên cứu kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên đầu tư tại mức ý
nghĩa 10%, tuy nhiên đòn bẩy tài chính và lợi nhuận lại không có ý nghĩa thống kê
trong tác động lên biến đầu tư.
40
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy năm 2010 với biến đòn bẩy tài chính FL10 và tỷ lệ
chi trả cổ tức DIV10:
DIV12 FL12 INV
Biến Lý thuyết Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm -2.105 (0.221)
DIV10 + - Thực nghiệm 2.137 (0.209) -1.938 (0.125)
FL10 + +/Na Thực nghiệm -0.407 (0.733) -1.344 (0.074) * 0.008 (0.991)
INV - +
4.768 (0.104)* -0.311 (0.415) 8.802 (0.095)*
0.724 (0.670)
OI/TA + - +
SIGOI -
0.079 (0.321)
LNS + -
CS/S -
CE/TA -
DEP/TA -
0.161 (0.206) 1.315 (0.487) 0.002 (0.720) -0.053 (0.576) -0.117 (0.773) -8.042 (0.097)* 2.759 (0.390) 0.368 (0.248)
IGP/TA +
RISK -
TAX -
CASH +
INSH +
PB + -
-10.699 (0.210) -0.856 (0.330) 0.308 (0.142) -0.749 (0.226) -0.150 (0.590) 0.655 (0.473)
0.363 (0.014)** 1.965 (0.000)***
SALE + -
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0)
41
Bảng 4.7 là kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời thể hiện tác
động qua lại lẫn nhau giữa biến tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính năm
2011 với biến đòn bẩy tài chính FL11 và tỷ lệ chi trả cổ tức DIV11. Kết quả hồi quy
cho thấy trong phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức, biến đòn bẩy tài
chính có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại mức ý nghĩa 10%, tuy
nhiên biến đầu tư không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đòn bẩy tài
chính, ngoài ra lợi nhuận cũng có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại
mức ý nghĩa 10%. Trong phương trình (5) phương trình đòn bẩy tài chính, nghiên
cứu kết luận đầu tư có tác động tích cực lên tỷ lên đòn bẩy tài chính tại mức ý nghĩa
10%, tuy nhiên tỷ lệ chi trả cổ tức và lợi nhuận đều không có ý nghĩa thống kê trong
tác động lên biến đòn bẩy tài chính. Phương trình (6) phương trình đầu tư, nghiên
cứu kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức, đòn bẩy tài chính và lợi nhuận đều lại không có ý
nghĩa thống kê trong tác động lên biến đầu tư.
42
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy năm 2011 với biến đòn bẩy tài chính FL11 và tỷ lệ
chi trả cổ tức DIV11
DIV12 FL12 INV
Biến Lý thuyết Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm -1.503 (0.236)
DIV11 + - Thực nghiệm 0.031 (0.893) -0.276 (0.264)
FL11 + +/Na Thực nghiệm -2.015 (0.016)** 0.149 (0.796) 0.607 (0.390)
INV - +
3.668 (0.065)* -0.218 (0.501) 7.816 (0.073)*
1.656 (0.407)
OI/TA + - +
SIGOI -
0.117 (0.089)*
LNS + -
CS/S -
CE/TA -
DEP/TA -
0.057 (0.058)* -0.724 (0.207) -0.002 (0.439) 0.043 (0.005)*** 0.017 (0.892) -1.364 (0.078)* -2.186 (0.021)** 0.272 (0.007)***
IGP/TA +
RISK -
TAX -
CASH +
INSH +
-
PB +
-4.757 (0.479) -0.831 (0.314) 0.146 (0.283) -0.461 (0.378) -0.169 (0.528) 0.111 (0.884)
0.367 (0.016)*** 1.853 (0.000)***
SALE - +
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0).
43
Bảng 4.8 là kết quả hồi quy của hệ phương trình đồng thời thể hiện tác
động qua lại lẫn nhau giữa biến tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính với
biến đòn bẩy tài chính trung bình AVFL và tỷ lệ chi trả cổ tức trung bình AVDIV.
Kết quả hồi quy cho thấy trong phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức,
biến đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại mức ý
nghĩa 5%, biến đầu tư có tác động tiêu cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức tại mức ý
nghĩa 1% tương tự lợi nhuận cũng có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức
tại mức ý nghĩa 5%. Trong phương trình (5) phương trình đòn bẩy tài chính, nghiên
cứu kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và lợi nhuận đều không có ý nghĩa thống kê
trong tác động lên biến đòn bẩy tài chính. Phương trình (6) phương trình đầu tư,
nghiên cứu kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên biến đầu tư tại mức
ý nghĩa 10%, đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lên đầu tư tại mức ý nghĩa 10%
và lợi nhuận có tác động tích cực lên biến đầu tư tại mức ý nghĩa 5%.
44
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy với biến đòn bẩy tài chính AVFL và tỷ lệ chi trả cổ tức AVDIV
AVDIV AVFL INV
Biến Lý thuyết Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm -0.575 (0.303)
- AVDIV + Thực nghiệm 0.093 (0.699) -0.376 (0.132)
+/Na AVFL + Thực nghiệm -1.183 (0.098)* -0.947 (0.080)* 1.362 (0.081)*
INV - +
OI/TA + - + 2.027 (0.038)** -0.509 (0.000)*** 3.054 (0.025)** 2.642 (0.060)**
SIGOI -
LNS + - 0.066 (0.222)
CS/S -
CE/TA -
DEP/TA -
IGP/TA + -0.006 (0.837) -0.431 (0.396) -0.002 (0.258) 0.049 (0.009)*** -0.079 (0.595) -1.317 (0.190) -2.313 (0.030)** 0.277 (0.021)**
RISK -
TAX -
CASH +
INSH +
-
PB +
SALE - + -2.334 (0.310) -0.410 (0.160) 0.066 (0.207) -0.102 (0.565) 0.084 (0.404) 1.050 (0.001)*** 0.287 (0.059)* 1.911 (0.000)***
(Nguồn: Tác giả ước lượng từ phần mềm Eview 6.0)
45
Tổng hợp kết quả hồi quy và các năm từ năm 2008-2012 và kết quả hồi
quy từ mô hình với biến tỷ lệ chi trả cổ tức trung bình AVDIV và tỷ lệ đòn bẩy tài
chính trung bình AVFL ta có kết quả tổng hợp trong bảng 4.9. Cột 1 của Bảng 4.9
thể hiện kết quả của phương trình (4) phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV). Biến
đòn bẩy tài chính (FL) có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) kết
luận này phù hợp với giả thuyết 1. Đầu tư (INV) có ảnh hưởng tiêu cực lên tỷ lệ chi
trả cổ tức (DIV). Kết quả này ủng hộ cho giả thuyết 2. Đa số các biến kiểm soát
trong phương trình tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) không có ý nghĩa thống kê ngoại trừ
biến lợi nhuận (OI/TA) và biến tốc độ tăng trưởng doanh thu qua các năm (SALE).
Biến lợi nhuận (OI/TA) có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) điều
này chỉ ra rằng thực tế các công ty có càng nhiều lợi nhuận thì tỷ lệ chi trả cổ tức
càng cao. Lợi nhuận của công ty được xem là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến
tỷ lệ chi trả cổ tức. Kết quả này ủng hộ cho giả thuyết về mối liên hệ tích cực giữa
lợi nhuận và tỷ lệ chi trả cổ tức và cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm trước đây. Tuy nhiên trái ngược với kỳ vọng đối với biến tốc độ tăng trưởng
doanh thu qua các năm (SALE) kết quả nghiên cứu kết luận biến này có tác động
tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV).
46
Bảng 4.9: Tóm tắt kết quả hồi quy của hệ phƣơng trình đồng thời:
DIV12/AVDIV (Phương trình 4) FL12/AVFL (Phương trình 5) INV (Phương trình 6)
Na Na Na Na Tích cực (+) Na Tích cực (+) Na Tích cực (+) Tiêu cực (-) Na Tích cực (+) Na Tích cực (+) Na Na Na Tích cực (+) Na Na Tiêu cực (-) Na Tiêu cực (-) Na Tiêu cực (-) Na Na Na Tiêu cực (-) Tích cực (+)
Tích cực (+) Na Na Na Na Na Tích cực (+) Na Na Tích cực (+) Na Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tích cực (+) Na Tích cực (+) Tích cực (+) Biến phụ thuộc DIV08 FL08 INV DIV09 FL09 INV DIV10 FL10 INV DIV11 FL11 INV AVDIV AVFL INV Biến kiểm soát OI/TA SIGOI LNS CS/S CE/TA DEP/TA IGP/TA RISK TAX CASH INSH PB SALE
47
Ghi chú:
Na có nghĩa là không có ý nghĩa thống kê trong mô hình. Số trong dấu ngoặc là giá
trị p (p-value),*** mức ý nghĩa thống kê 1%,** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý
nghĩa thống kê 10%, ước lượng sử dụng phương pháp bình phương bé nhất 3 bước
thực hiện trên phần mềm Eview 6.0.
Trong phương trình (5) đòn bẩy tài chính (FL), tác động của biến tỷ lệ
chi trả cổ tức (DIV) lên biến đòn bẩy tài chính (FL) không có ý nghĩa thống kê điều
này không phù hợp với giả thuyết 3. Kết quả này và giả thuyết 1 được chấp nhận ở
phương trình 4, khi tỷ lệ đòn bẩy tài chính (FL) có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả
cổ tức (DIV) nên có thể kết luận rằng tại Việt Nam tỷ lệ chi trả cổ tức không tác
động lên đòn bẩy tài chính (không có ý nghĩa thống kê), nhưng đòn bẩy tài chính lại
có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức có nghĩa khi đòn bẩy tài chính càng cao
thì tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ càng cao. Biến đầu tư (INV) cho thấy rằng nó có một tác
động tích cực lên đòn bẩy tài chính điều này phù hợp với giả thuyết 4. Hầu hết các
biến kiểm soát có ý nghĩa ngoại trừ biến đo lường biến động của lợi nhuận thuần từ
hoạt động sản xuất kinh doanh (SIGOI), biến lợi nhuận (OI/TA) và biến tính độc
đáo (CS/S). Biến tấm chắn thuế từ các tài khoản vốn khác không phải nợ (DEP/TA)
có tác động tiêu cực đến đòn bẩy tài chính điều này phù hợp với lý thuyết và kỳ
vọng vì khi công ty có tỷ lệ tấm chắn thuế từ các tài khoản vốn khác không phải nợ
cao thì có xu hướng vay nợ ít hơn. Quy mô của công ty (LNS) là một yếu tố quyết
định quan trọng và có ảnh hưởng tích cực đến đòn bẩy tài chính, kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của McConnelln (1989). Biến tăng trưởng (CE/TA) có ảnh
hưởng tiêu cực lên đòn bẩy tài chính (FL), điều này phù hợp lý thuyết và với nghiên
cứu của Titman và Wessels (1988). Mối quan hệ tích cực giữa các cơ cấu tài sản
(IGP/TA) và đòn bẩy tài chính phù hợp với kỳ vọng và hỗ trợ cho lập luận của
Myers (1977).
Trong phương trình (6) đầu tư (INV), tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu
cực lên biến đầu tư, điều này ủng hộ giả thuyết 5. Kết quả này và kết quả từ phương
trình (4) khi biến đầu tư (INV) có tác động tiêu cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV)
48
vậy tại Việt Nam có thể kết luận có một mối quan hệ tiêu cực lẫn nhau giữa biến tỷ
lệ chi trả cổ tức (DIV) và đầu tư (INV) điều này phù hợp với các giả định của lý
thuyết trật tự phân hạng, có nghĩa là khi tỷ lệ chi trả cổ tức càng cao thì đầu tư sẽ
càng thấp và ngược lại. Ngoài ra, biến đòn bẩy tài chính (FL) có ảnh hưởng tích cực
đến biến đầu tư (INV) điều này ủng hộ cho giả thuyết 6. Bằng chứng này và bằng
chứng trong phương trình (5) đầu tư (INV) tác động tích cực lên đòn bẩy tài chính
(FL) và kết luận trong phương trình này ta có thể kết luận tại Việt Nam biến đòn
bẩy tài chính (FL) và biến đầu tư (INV) có tác động tích cực lẫn nhau, có nghĩa là tỷ
lệ đầu tư càng cao thì tỷ lệ đòn bẩy tài chính sẽ càng cao và ngược lại. Toàn bộ các
biến kiểm soát trong phương trình điều có ý nghĩa, ngoài trừ quy mô công ty (LNS)
là không có ý nghĩa thống kê. Biến lợi nhuận (OI/TA) có tác động tích cực lên biến
đầu tư điều này phù hợp với lý thuyết khi công ty có càng nhiều lợi nhuận sẽ có
nguồn tài chính dồi dào để đầu tư và kết quả là đầu tư sẽ tăng. Biến giá trị thị trường
trên giá trị sổ sách (PB) và biến tốc độ tăng trưởng doanh thu (SALE) có tác động
tích cực đến đầu tư như kỳ vọng.
49
Tổng hợp kết quả từ 3 phương trình trên sau khi hồi quy bằng phương pháp
bình phương bé nhất ba bước (3SLS) và kết hợp với 6 giả thuyết ta có bảng tổng
hợp sau:
Bảng 4.10: Tóm tắt kết quả nghiên cứu của biến nội sinh so với các giả thuyết
Giả thuyết Thực nghiệm
Phương trình 1 (DIV) FL INV FL INV
DIV + - + -
Giả thuyết Thực nghiệm
Phương trình 2 (FL) DIV INV DIV INV
FL + + Na +
Giả thuyết Thực nghiệm
Phương trình 3 (INV) DIV FL DIV FL
- +/Na - + INV
Ghi chú : NA là không có ý nghĩa thống kê
Từ bảng tổng hợp trên ta rút ra kết luận về mối quan hệ giữa các biến:
- Tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) và đầu tư (INV) có mối quan hệ tiêu cực lẫn nhau.
Có nghĩa khi đầu tư tăng thì tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ giảm và ngược lại.
- Đầu tư (INV) và đòn bẩy tài chính (FL) có tác động tích cực lẫn nhau. Điều
này chỉ ra rằng khi đầu tư càng cao thì tỷ lệ đòn bẩy tài chính sẽ càng cao và
ngược lại.
- Đòn bẩy tài chính (FL) có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV).
Điều này chỉ ra rằng khi tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng cao thì tỷ lệ chi trả cổ
tức sẽ càng cao. Tuy nhiên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) không có ý nghĩa thống
kê trong tác động lên đòn bẩy tài chính (FL).
50
Bảng 4.11: Tóm tắt kết quả nghiên cứu của biến ngoại sinh so với lý thuyết
Phương trình (5) – FL/AVFL Phương trình (6) - INV
Thực nghiệm Biến
OI/TA Na Phương trình (4) – DIV/AVDIV Lý thuyết Tích cực (+) Thực nghiệm Tích cực (+) Lý thuyết Tích cực (+) Thực nghiệm Tích cực (+)
SIGOI Na
LNS Na Tích cực (+) Tiêu cực (-)
CS/S Na
CE/TA
DEP/TA
IGP/TA Lý thuyết Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+)
RISK Na
TAX Na
CASH Na
INSH Na
PB Na
SALE Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tích cực (+) Tiêu cực (-) Tiêu cực (-) Tích cực (+) Tích cực (+) Tích cực (+) Tích cực (+) Tích cực (+)
Kết quả nói trên được so sánh với các nghiên cứu trước đây của Baskin
(1989), Adedeji (1998) và Ching (2009). Baskin (1989), Adedeji (1998) và Ching
(2009) đã nghiên cứu dự đoán của lý thuyết trật tự phân hạng và kết luận có một sự
tương tác tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức dài hạn và đầu tư bằng phương pháp bình
phương bé nhất bé nhất (OLS), bình phương bé nhất ba bước (3SLS) và bình
phương bé nhất hai bước (TSLS). Kết quả so sánh được trình bày trong bảng 4.12.
51
kết quả của nghiên cứu này có một số khác biệt so với nghiên cứu của Baskin
(1989), Adedeji (1998) và Ching (2009) như sau.
Đối với các biến tác động lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV), phương
trình (1) Baskin (1989) quan sát thấy rằng đầu tư không có ảnh hưởng lên tỷ lệ chi
trả cổ tức (không có ý nghĩa thống kê), trong khi kết quả của nghiên cứu này cho
thấy đầu tư (INV) có ảnh hưởng tiêu cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) và điều này
phù hợp với nghiên cứu Adedeji (1998), Ching (2009). Cả Baskin (1989) và
Adedeji (1998) quan sát thấy rằng không có mối quan hệ giữa lợi nhuận và tỷ lệ chi
trả cổ tức (không có ý nghĩa thống kê), trong khi kết quả của nghiên cứu này cho
thấy rằng có mối quan hệ tích cực giữa lợi nhuận và tỷ lệ chi trả cổ tức điều này phù
hợp với nghiên cứu của Ching (2009). Tương tự trong các nghiên cứu trước đây của
Baskin (1989), Adedeji (1998), Ching (2009) nghiên cứu tác động của tỷ lệ đòn bẩy
tài chính (FL) lên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) cả 3 nghiên cứu trước đây đều kết luận
rằng tỷ lệ đòn bẩy tài chính (FL) có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV)
phù hợp với kết quả nghiên cứu trong bài nghiên cứu này.
Đối với tác động lên biến đòn bẩy tài chính (FL), Cả Baskin (1989) và
Adedeji (1998) đều kết luận rằng biến đầu tư (INV) có tác động tích cực lên biến
đòn bẩy tài chính (FL) phù hợp với kết quả trong nghiên cứu này về mối quan hệ
tích cực giữa đầu tư (INV) và đòn bẩy tài chính (FL) .Tuy nhiên kết quả tại nghiên
cứu này lại khác với kết quả của Ching (2009) tại Đài Loan vì trong nghiên cứu của
Ching (2009) cho thấy rằng không có mối quan hệ giữa đầu tư và đòn bẩy tài chính
(không có ý nghĩa thống kê). Kết quả trong bài nghiên cứu này phù hợp với kết quả
nghiên cứu trong nghiên cứu của Adedeji (1998) kết luận rằng lợi nhuận không ảnh
hưởng đến đòn bẩy tài chính (không có ý nghĩa thống kê), nhưng kết quả trong
nghiên cứu này thì không phù hợp với kết quả trong nghiên cứu của Baskin (1989),
Ching (2009) khi cả hai ông kết luận rằng lợi nhuận có tác động tiêu cực lên tỷ lệ
đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu này lại khác biệt so với các nghiên
cứu trước đây trong tác động của biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) lên đòn bẩy tài
chính (FL), trong khi các kết quả nghiên cứu của Baskin (1989), Adedeji (1998) và
52
Ching (2009) đều kết luận là tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) có tác động tích cực lên tỷ lệ
đòn bẩy tài chính (FL) thì kết quả trong nghiên cứu này tác động của biến tỷ lệ chi
trả cổ tức (DIV) lên biến tỷ lệ đòn bẩy tài chính (FL) lại không có ý nghĩa thống kê.
Kết hợp với nhận xét trong phương trình (1), cả 3 nghiên cứu trước điều kết luận
rằng biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) và đòn bẩy tài chính (FL) có mối quan hệ tích
cực lẫn nhau trong khi kết luận trong bài nghiên cứu này là biến tỷ lệ đòn bẩy tài
chính (FL) có tác động tích cực lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) nhưng biến tỷ lệ
chi trả cổ tức (DIV) lại không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến tỷ lệ đòn
bẩy tài chính (FL).
Đối với tác động lên biến đầu tư (INV), trái ngược với nghiên cứu của
Adedji (1998) và Ching (2009) lập luận rằng đòn bẩy tài chính không ảnh hưởng
đến đầu tư, tuy nhiên kết quả trong nghiên cứu này đưa ra cùng kết luận với nghiên
cứu của Baskin (1989). Trong nghiên cứu Baskin (1989) kết luận rằng đòn bẩy tài
chính có tác động tích cực đến đầu tư phù hợp với kết quả nghiên cứu trong bài
nghiên cứu này. Từ kết quả này và kết quả trong phương trình tỷ lệ đòn bẩy tài
chính cho thấy giữa đầu tư và đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lẫn nhau, kết
quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Baskin (1989). Về tác động của lợi
nhuận lên đầu tư thì kết quả nghiên cứu trong bài nghiên cứu này kết luận tồn tại
mối quan hệ tích cực giữa lợi nhuận và đầu tư, kết quả này trái ngược với kết quả
trong nghiên cứu Adedeji (1998) tuy nhiên kết quả này lại phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Baskin (1989) và Ching (2009). Trong phương trình (3) đầu tư bài
nghiên cứu này kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên đầu tư. Kết hợp
với kết quả trong phương trình (1) kết luận trong bài nghiên cứu này phù hợp với
kết quả nghiên cứu cả 3 nghiên cứu trước đây của Baskin (1989), Adedeji (1998),
Ching (2009) về mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đầu tư, cả 4 nghiên cứu đều
kết luận rằng giữa tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV) và đầu tư (INV) có mối quan hệ tiêu
cực lẫn nhau và điều này phù hợp với lý thuyết trật tự phân hạng.
53
Bảng 4.12 : Tổng hợp so sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu trƣớc đây :
Tác động lên biến (DIV) Tác động lên biến (FL) Tác động lên biến (INV)
Biến
Baskin (1989) Adedeji (1998) Ching (2009) TG (2013) Baskin (1989) Adedeji (1998) Ching (2009) TG (2013) Baskin (1989) Adedeji (1998) Ching (2009) TG (2013)
DIV FL INV Na + Zero Na + - Na + - Na + - + Na + + Na + + Na Zero Zero Na + - + Na - Zero Na - Zero Na - + Na
- Zero + Zero + + + + Zero Zero -
Profitability Zero Ghi chú - Zero là không có ý nghĩa thống kê, Na không thực hiện nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu trong bài được so sánh với 3 nghiên cứu trước đây gồm:
- Ching Liang Chang, 2009“Dividend Payout Ratio, Investment opportunities, and the Pecking Order Theory: Evidence from
Taiwan”.
- Adedeji, A. 1998. “Does the Pecking Order Hypothesis Explain the Dividend Payout Ratios of Firms in the UK.”
-Baskin, J. B. 1989. “An Empirical Investigation of the Pecking Order Hypothesis.
54
4.2 Nghiên cứu mở rộng: Phƣơng pháp bình phƣơng bé nhất (OLS):
Mở rộng mô hình nghiên cứu tác động lẫn nhau giữa tỷ lệ chi trả cổ tức,
đầu tư và đòn bẩy tài chính và dựa trên nghiên cứu của Ching (2009), tác giả tiến
hành hồi quy hệ phương trình đồng thời theo phương pháp bình phương bé nhất
(OLS), dựa trên bộ dữ liệu bảng. Trong nghiên cứu của Ching (2009) biến kiểm
soát gồm các yếu tố tác động lên cấu trúc vốn của Titman and Wessels (TW) (1988)
“The determinants of capital structure choice”. Hệ phương trình đồng thời được xây
DIV= λ0 +λ1FL+λ2INV +λ3OI/TA +λ5SIGOI +λ6LNS+λ7 CE/TA+ δ (7)
FL = μ0 + μ1DIV+ μ 2INV+ μ 3OI/TA+ μ 4SIGOI+ μ 5LNS+ μ 6CS/S+
μ7 CE/TA+ μ 8 DEP/TA+ μ 9IGP/TA + ω (8)
INV= φ0 + φ1DIV + φ2FL+ φ3OI/TA+ φ4SIGOI+ φ5LNS + T (9) Các biến độc lập và các biến phụ thuộc trong hệ phương trình từ 7-9 được
dựng như sau :
đo lường tương tự như trong phương pháp nghiên cứu bằng phương pháp bình
phương bé nhất 3 bước (3SLS) ở trên. Các biến kiểm soát trong phương trình (8)
tương tự như các biến kiểm soát trong phương trình (5) bằng phương pháp 3SLS ở
trên. Riêng các biến kiểm soát trong phương trình (7), theo nghiên cứu của Lintner
1956 chứng minh rằng sự biến động của lợi nhuận có tác động tiêu cực đến tỷ lệ chi
trả cổ tức có nghĩa là các công ty sẽ chi trả cổ tức thấp khi lợi nhuận biến động
nhiều. Do đó kỳ vọng giữa SIGOI và DIV sẽ có tác động tiêu cực. Theo nghiên cứu
của Chang (1990) cho rằng quy mô công ty (LNS) có tác động tích cực lên tỷ lệ chi
trả cổ tức chỉ ra rằng các công ty lớn hơn sẽ chi trả cổ tức nhiều hơn. Kỳ vọng có
một mối quan hệ tiêu cực giữa biến phát triển (CE/TA) và tỷ lệ chi trả cổ tức (DIV),
vì các công ty có chi phí đầu tư cao sẽ giảm tỷ lệ chi trả cổ tức, biến lợi nhuận
(OI/TA) được dự đoán có tác động tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức có nghĩa các
công ty có nhiều lợi nhuận sẽ chi trả cổ tức cao hơn. Tương tự các biến kiểm soát
trong phương trình (9) INV đối với biến LNS và biến OI/TA tương tự như trong
phương trình (6) ở trên, được kỳ vọng có tác động tích cực lên đầu tư, biến biến
động thu nhập SIGOI được kỳ vọng có tác động tiêu cực lên tỷ lệ đầu tư vì khi công
55
ty có thu nhập biến động nhiều sẽ hạn chế đầu tư. Tác giả hồi quy trên phần mềm
Eview 6.0 kết quả thống kê mô tả và kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng
4.13 và bảng 4.14.
Bảng 4.13: Kết quả thống kê mô tả của hệ phương trình hồi quy bằng phương pháp
bình phương bé nhất OLS
Trung Bình Độ lệch chuẩn
0.6165 0.2125 1.0329 0.0963 7.7341 1.2369 0.2040 0.0940 0.0248 0.2095 Giá trị nhỏ nhất 0.0000 0.0300 -0.4006 -0.6500 0.1420 10.7400 0.0300 -0.6400 0.0009 0.0000 Giá trị lớn nhất 10.370 0.870 8.271 0.610 56.603 18.040 3.910 0.470 0.208 0.950 Biến DIV FL INV OI/TA SIGOI LNS CS/S CE/TA DEP/TA IGP/TA 0.4575 0.4677 0.8599 0.0878 3.6505 13.5916 0.7919 0.0449 0.0290 0.4242
Kết quả hồi quy được tóm tắt trong bảng 4.14, và kết quả hồi quy bằng
phương pháp OLS này được so sánh với kết quả nghiên cứu của Ching (2009) theo
phương pháp bình phương bé nhất hai bước (TSLS), bảng kết quả so sánh được
trình bày trong bảng 4.16. Trong phương trình DIV, nghiên cứu kết luận rằng biến
đòn bẩy tài chính, đầu tư, lợi nhuận không có tác động lên biến tỷ lệ chi trả cổ tức
(không có ý nghĩa thống kê). Kết quả này thì không phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Ching (2009) khi Ching (2009) kết luận đòn bẩy tài chính và lợi nhuận có tác
động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức và đầu tư có tác động tiêu cực lên tỷ lệ chi trả
cổ tức. Trong phương trình FL, biến tỷ lệ chi trả cổ tức không có ý nghĩa thống kê
trong tác động lên biến đòn bẩy tài chính, kết quả nghiên cứu này trái ngược với kết
quả nghiên cứu của Ching (2009), khi trong nghiên cứu Ching (2009) kết luận rằng
tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tích cực lên đòn bẩy tài chính, bài nghiên cứu kết
luận biến đầu tư có tác động tích cực lên biến đòn bẩy tài chính, kết quả này cũng
trái ngược với nghiên cứu của Ching (2009) khi Ching kết luận rằng đầu tư không
có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đòn bẩy tài chính, nghiên cứu này kết
luận biến lợi nhuận có tác động tiêu cực lên biến đòn bẩy tài chính, điều này phù
56
hợp với kết luận trong nghiên cứu của Ching (2009). Trong phương trình INV, biến
tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên biến đầu tư, lợi nhuận có tác động tích
cực lên đầu tư. Kết quả nghiên cứu trong phương trình INV phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Ching (2009). Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này kết luận biến đòn
bẩy tài chính có tác động tích cực lên biến đầu tư, kết luận này trái ngược với kết
quả nghiên cứu của Ching (2009) trong nghiên cứu của Ching (2009) kết luận đòn
bẩy tài chính không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến đầu tư.
Bảng 4.14 : Kết quả nghiên cứu của hệ phương trình bằng phương pháp OLS
Phương trình (7) DIV Phương trình (9) INV
Biến Lý thuyết Phương trình (8) FL Lý thuyết Lý thuyết
Constant Na Na Na Thực nghiệm 0.382 (0.167)
+ DIV - Thực nghiệm -0.264 (0.000)*** -0.010 (0.319)
+ FL +/Na Thực nghiệm -2.181 (0.000)*** -0.097 (0.110)* 0.846 (0.000)***
+ - INV
+ OI/TA - +
- SIGOI - -
+ LNS + + -0.087 (0.534) -0.035 (0.160) 0.244 (0.494) -0.002 (0.467) 0.012 (0.578) 2.477 (0.000)*** -0.015 (0.001)*** 0.186 (0.000)***
CS/S -
CE/TA - - -0.720 (0.025)**
DEP/TA -
IGP/TA + 0.024 (0.000)*** -1.006 (0.000)*** 0.001 (0.026)** 0.053 (0.000)*** 0.013 (0.704) 0.051 (0.558) -1.707 (0.000)*** 0.251 (0.000)***
57
Bảng 4.15: So sánh kết quả nghiên cứu với giả thuyết trong phương pháp OLS Giả thuyết Phương pháp OLS
Phương trình 7 (DIV) FL INV FL INV
DIV + - Na Na
Giả thuyết Phương pháp OLS
Phương trình 8 (FL) DIV INV DIV INV
FL + + Na +
Giả thuyết Phương pháp OLS
Phương trình 9 (INV) DIV FL DIV FL
INV - +/Na - +
Bảng 4.16: So sánh kết quả nghiên cứu bằng phương pháp OLS với kết quả nghiên
cứu của Ching (2009)
Biến Tác động lên biến Tác động lên biến Tác động lên biến
DIV FL INV
Ching TG-OLS Ching TG-OLS Ching TG-OLS
(2009) (2013) (2009) (2013) (2009) (2013)
DIV Na + Zero - -
FL Na Zero + Na Na Zero +
INV Zero - Zero + Na Na
Lợi nhuận Zero + - - + +
* Zero là không có ý nghĩa thống kê, Na không thực hiện nghiên cứu.
58
Tổng hợp kết quả nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu của Adedeji (1998)
bình phương bé nhất 3 bước và phương pháp bình phương bé nhất OLS. Tác giả
tổng hợp thành bảng sau:
Bảng 4.17: Tổng hợp kết quả nghiên cứu bằng hai phương pháp nghiên cứu: Phương Pháp 3SLS Phương Pháp OLS
Phương trình 1 (DIV) FL INV FL INV
DIV + - Na Na
Phương Pháp 3SLS Phương Pháp OLS
Phương trình 2 (FL) DIV INV DIV INV
FL Na + Na +
Phương Pháp 3SLS Phương Pháp OLS
Phương trình 3 (INV) DIV FL DIV FL
- + - + INV
Kết quả nghiên cứu ở cả hai phương pháp nhìn chung là phù hợp với
nhau và phù hợp với lý thuyết trật tự phân hạng. Cả hai phương pháp đều đưa đến
cùng kết luận về mối tương quan tích cực qua lại giữa biến đầu tư và đòn bẩy tài
chính, cũng như tác động của biến tỷ lệ chi trả cổ tức lên biến đầu tư, cả hai phương
pháp đều kết luận tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lên biến đầu tư. Thêm vào
đó kết quả nghiên cứu trong mô hình sử dụng phương pháp bình phương bé nhất 3
bước kết luận rằng giữa đầu tư và tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tíêu cực lẫn nhau,
đồng thời đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức.
59
5.KẾT LUẬN: Bài nghiên cứu này kết luận rằng lý thuyết trật tự phân hạng chỉ giải
thích được một phần về thực trạng của thị trường chứng khoán tại Việt Nam, do đặc
điểm riêng đặc trưng của thị trường chứng khoán tại Việt Nam nên kết luận trong
bài nghiên cứu có sự khác biệt so với các nghiên cứu trước đây, bài nghiên cứu kết
luận đầu tư và tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tiêu cực lẫn nhau trong giai đoạn
2008-2012 điều này phù hợp với giả định của lý thuyết trật tự phân hạng. Nghiên
cứu cũng kết luận rằng ở Việt Nam tồn tại mối quan hệ tích cực lẫn nhau giữa đầu
tư và tỷ lệ đòn bẩy tài chính, có nghĩa là khi đầu tư càng cao thì tỷ lệ đòn bẩy tài
chính càng cao và ngược lại, điều này cho thấy các công ty phản ứng với tình trạng
thiếu hụt tài chính bằng cách đi vay để đáp ứng nhu cầu gia tăng đầu tư. Đòn bẩy tài
chính thì có tác động tích cực lên tỷ lệ chi trả cổ tức, có nghĩa là khi đòn bẩy tài
chính càng cao thì tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ càng cao, trong khi tỷ lệ chi trả cổ tức
không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên đòn bẩy tài chính. Trong nghiên cứu
mở rộng bằng phương pháp OLS kết quả đa số ủng hộ cho kết quả nghiên cứu trên.
Phù hợp với các nghiên cứu trước đây, bài nghiên cứu này kết luận tại
Việt Nam tồn tại một mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và đầu tư. Tuy
nhiên khác biệt so với các nghiên cứu trước đây trong mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả
cổ tức và đòn bẩy tài chính, trong khi các nghiên cứu trước đây điều kết luận rằng tỷ
lệ chi trả cổ tức và đòn bẩy tài chính có tác động tích cực lẫn nhau nhưng trong bài
nghiên cứu này thì tỷ lệ chi trả cổ tức không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên
đòn bẩy tài chính, trong khi đòn bẩy tài chính thì có tác động tích cực lên tỷ lệ chi
trả cổ tức. Phần còn lại của kết quả nghiên cứu thì tương tự với các bằng chứng
trước đây. Trong nghiên cứu này cũng thêm vào các nghiên cứu trước bằng cách sử
dụng hệ phương trình đồng thời bằng phương pháp bình phương bé nhất ba bước để
kiểm định mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư, đòn bẩy tài chính. Cũng như
trong phần nghiên cứu mở rộng bài nghiên cứu bổ sung thêm cho các nghiên cứu tại
Việt Nam về mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức, đầu tư và đòn bẩy tài chính bằng
cách hồi quy hệ phương trình theo phương pháp bình phương bé nhất (OLS).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Việt:
1. Phan Thị Bích Nguyệt, 2011.Tác động của thuế thu nhập đến cấu trúc vốn
các công ty cổ phần Việt Nam, tạp chí Kinh Tế Phát Triển, số 247.
2. Trần Hùng Sơn, 2012. Đặc điểm doanh nghiệp và tốc độ điều chỉnh cấu trúc
vốn mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết tại Việt
Nam, tạp chí Phát Triển Khoa Học và Công Nghệ, tập 14, số Q3-2011.
3. Trần Ngọc Thơ và cộng sự, 2007. Tài chính doanh nghiệp hiện đại. TPHCM:
nhà xuất bảng thống kê.
Danh mục tài liệu tiếng Anh
1. Abel Fumey, 2013. “Dividend payout ratio in Ghana: Does pecking order
theory hold good ?”, Journal of Emerging Issue in Economics, Finance and
Banking (JEIEFB), Vol.2, No.2
2. Adedeji, A. (1998). “Does the Pecking Order Hypothesis Explain the
Dividend Payout Ratios of Firms in UK”. Journal of Business Finance &
Accounting 25, no. 9: 1127-1155.
3. Allen, 1993 , “The Pecking Order Hypothesis: Australian Evidence”, Applied
Financial Economics, Vol. 3, pp . 101 -12.
4. Ang, J.S.and M. Jung ,1993. “An Alternate Test of Myers ' Pecking Order
Theory of Capital Structure: The Case of South Korean Firms”, Pacific -
Basin Finance Journal, Vol.1, pp.31- 46.
5. Baskin, 1989. “An Empirical Investigation of the Pecking Order
Hypothesis.” Financial Management 18, no. 1: 26–35.
6. Bradley, M., G.A Jarrell and E.H. Kim, 1984. “On the Existence of an
Optimal Capital Structure: Theory and Evidence.” Journal of Finance, Vol
39, no. 3: 857-878.
7. Ching Liang Chang, 2009. “Dividend Payout Ratio, Investment
opportunities, and the Pecking Order Theory: Evidence from Taiwan”, The
Business Review, Cambridge, Vol. 13, Num. 1, Summer ,2009.
8. D’Souza, 1999. “Agency cost, market risk, investment opportunities and
dividend policy – an international perspective”, Managerial Finance, Vol 25
9. DeAngelo,H. and R.Masulis,1980. “Optimal capital structure under
corporate and personal taxation”, Journal of Financial Economic 8.
10. Donalson, 1961. “ Corporate debt capacity: A study of corporate debt policy
and the determinant of corporate debt capacity”, Boston, Division of
research, Harvard Graduate School of Business Administration.
11. Greene, 1961.“Economic Analysis”. 5th edition.
12. Jesen, 1986. “Agency costs of free cash flow, corporate finance, and
takeovers”, American Economic Review, Vol.76, pp.323-9.
13. Lintner, 1956. “ Distribution of incomes of corporation among dividends,
retained earning and taxes”, American Economic Review (May), pp 97-113.
14. Lummer and McConnell, 1989, “Further evidence on bank lending process
and the capital market response to bank loan agreement”, Journal of
Financial 40, 1031-51.
15. Mohammed Amidu and Joshua Abor, 2006.“Determinant of dividend
payout ratios in Ghana”. The Journal of Risk Financ Vol. 7 No.2, pp.136-
145.
16. Myers, 1977. “Determinant of corporate borrowing”, Journal of Financial
Economics (November), pp.147-76.
17. Myers, Stewart C. và Majluf, Nicholas S., 1984. "Corporate financing and
investment decisions when firms have information that investors do not
have". Journal of Financial Economics 13, page : 187–221.
18. Shyam-Sunder, L., and S.C. Myers, 1999. “Testing Static Trad e-Off against
Pecking Order Models of Capital Structure.” Journal of Financial
Economics 51, no. 2: 219–244.
19. Theobald, 1978. “Intertemporal dividend models – An Empiricial Analysis
Using Recent UK Data”, Journal of business Finance and Accounting,
Vol.5 No.1 (spring), pp.123-32.
20. Titman, S., and R.Wessels, 1988. “The Determinants of Capital Structure
Choice.” Journal of Finance 43, no. 1: 1-19.
21. Viswanath, 1993. “Strategic consideration, the pecking order Hypothesis and
market reaction to equity financing”, Journal of Financial and Quantitative
Analysis, Vol.28, No.2 (June), pp 213-14.