VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU MINH ANH
THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU MINH ANH
THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
do tôi trực tiếp làm dưới sự hướng dẫn của TS. Đinh Thị Mai. Các số liệu, kết
quả trong Luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng trong bất
kỳ một nghiên cứu nào khác. Đây là kết quả tôi đã đạt được trong quá trình
nghiên cứu.
Tôi xin cam đoan mọi tham khảo trong Luận văn này đều được ghi rõ
nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định
viết Luận văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Lâm Đồng, tháng 8 năm 2019
Học viên
Lưu Minh Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thiện Luận văn đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ cũng
như là quan tâm, động viên từ nhiều cá nhân cũng như cơ quan, tổ chức. Luận văn
cũng được hoàn thành dựa vào việc học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên cứu
liên quan, các sách, báo chuyên ngành của nhiều tác giả ở các trường Đại học, Học
viện, các tổ chức nghiên cứu, tổ chức chính trị…Đặc biệt hơn nữa là sự giúp đỡ của
TS. Đinh Thị Mai … từ những điều kiện về vật chất cũng như về tinh thần từ gia
đình, bạn bè và các đồng nghiệp.
Cho nên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc trước nhất đến TS. Đinh Thị Mai –
người đã trực tiếp chỉ dẫn, giúp đỡ cũng như đã luôn dành nhiều thời gian, công sức
hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành Luận văn
này.
Dù vậy nhưng trong Luận văn cũng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em
kính mong Quý thầy cô trong Hội đồng phản biện cũng những ai quan tâm đến đề
tài có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Lâm Đồng, tháng 8 năm 2019
Học viên
Lưu Minh Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẠ̛N VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN TREO ............................................................................................ 8
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của án treo và thi hành án treo ................... 8
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo .................................................. 13
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LÂM ĐỒNG ....................................................................................... 25
2.1. Thực trạng tình hình tội phạm và các vấn đề có ảnh hưởng tới thi hành
án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ........................................................................ 25
2.2. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .......................... 31
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
ÁN TREO TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG ............................................................ 40
3.1. Dự báo các yếu tố tác động tới hiệu quả thi hành án treo tại tỉnh Lâm
Đồng thời gian tới ....................................................................................................... 40
3.2. Đề xuất giải pháp ................................................................................................ 43
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
HĐTP Hội đồng thẩm phán
LTHAHS Luật thi hành án hình sự
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng các bị báo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................................................... 29
Biểu đồ 2.1. So sánh tình hình áp dụng án treo giữa các năm từ năm 2014 đến
năm 2018 tại tỉnh Lâm Đồng. ......................................................................... 29
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Thi hành án treo là một trong rất nhiều hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực thi hành án hình sự. Mục tiêu của công tác này giúp đảm bảo nguyên tắc
pháp chế XHCN bởi một bản án và quyết định của tòa án chỉ có hiệu lực pháp
luật trên thực tế khi được thi hành và phài được các cơ quan, tổ chức và mọi
công dân tôn trọng.
Thi hành án treo là công cụ bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và
của nhà nước đồng thời cũng là công cụ để nhà nước khuyến khích, xây dựng
cho người bị kết án ý thức tự giác cải tạo, tu dưỡng bản thân để trở thành
người có ích cho xã hội với điều kiện quá trình đó phải được đặt dưới sự giám
sát của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật. Nhằm giúp công tác này
được thi hành một cách nghiêm chỉnh pháp luật quy định hệ thống các cơ
quan chức năng, tổ chức chính trị, xã hội phối hợp thực hiện.
Lâm Đồng là tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, vì địa bàn thuộc vùng
núi cho nên khả năng tiếp cận pháp luật của người dân là rất thấp và phụ
thuộc nhiều vào chính sách tuyên truyền của chính quyền địa phương. Tội
phạm và tệ nạn xã hội thường diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng
gần đây gây mất trật tự, an ninh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Tuy nhiên, nhờ bám sát sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước cùng chính
quyền địa phương nên các cơ quan có thẩm quyền đã triển khai toàn diện các
mặt trong công tác phòng chống tội phạm một cách hiệu quả trong đó có công
tác thi hành án treo.
1
Thống kê trong năm qua (2014-2018) toàn ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng đã ra quyết định thi hành án treo với 4331 trường hợp. Công tác
xét giảm thời gian thử thách được tiến hành một cách thường xuyên, tuân thủ
pháp luật và có những tiến bộ rõ rệt. Hoạt dộng này đã góp phần giữ vững kỷ
cương, lòng tin của người dân tỉnh Lâm Đồng đối với pháp luật cũng như ổn
định trật tự xã hội.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa hoạt động thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng không tồn tại những bất cập cũng như những hạn chế nhất
định. Thực tế cho thấy công tác thi hành án treo mới chỉ quan tâm về mặt thủ
tục ra các quyết định, vào sổ sách… mà chưa thực sự quan tâm đến quá trình
thi hành án của từng đối tượng chủ thể tham gia tố tụng.
Hoạt động theo dõi, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo còn
chưa được quan tâm đúng mức với nhiều sơ hở, thiếu sót. Tại UBND xã, thì
đa phần đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án treo chưa nắm vững các quy
định pháp luật có liên quan, chưa được đào tạo, tập huấn nghiệp vụ.
Chưa thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật
thi hành án hình sự; Công tác giám sát, giáo dục chưa mang lại hiệu quả vẫn
còn trường hợp người chấp hành án vi phạm nghĩa vụ, phạm tội mới…
Vì vậy, xuất phát từ tính cấp thiết cũng như ý nghĩa về lý luận và thực
tiễn của vấn đề thi hành án treo, tác giả chọn đề tài “Thi hành án treo từ thực
tiễn tỉnh Lâm Đồng” để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu thi hành án treo ở những
khía cạnh nhất định. Quá trình học tập và nghiên cứu về thi hành án treo
thông qua các Bản án đã có hiệu lực pháp luật và thực tiễn áp dụng thi hành
án treo tại địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đối chiếu, so sánh với Luật Thi hành án
hình sự và Bộ luật hình sự và từ các luận văn trước đây. Học viên đã trình bày
cụ thể trong luận văn của mình về cơ sở lý luận pháp về thi hành án treo đồng
thời làm rõ thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, từ đó đưa
ra các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án treo nói
chung cũng như những nhóm giải pháp cụ thể nhằm đưa ra tính tất yếu khách
quan về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứa luận văn về thi hành án treo thì
hiện nay có các tác giả như: Nguyễn Hương Ngọc viết về “Thi hành án treo từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”; Dương Bích Ngọc; Nguyễn Tiến Thanh cũng viết
về Thi hành án treo từ thực tiễn địa phương của minh. Tuy nhiên hiện nay
chưa có ai viết về vấn đề cụ thể về hi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm
Đồng. Nhằm khái quát hoạt động về thi hành án treo tại đại bàn tỉnh Lâm
Đồng nơi học viên đang sinh sống và công tác thì sau đây học viên sẽ trình
bày cụ thể trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích
3
Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận khái quát về thi hành
án treo trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về thi hành
án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, luận văn
đưa ra định hướng và một số kiến nghị hoàn thiện công tác thi hành án treo
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Xác định nội dung và làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc
điểm có liên quan tới thi hành án treo; luật áp dụng về thi hành án treo.
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật hiện hành về thi hành án
treo.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng vấn đề pháp lý về thi hành án treo qua
hoạt động áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Qua đó, đánh giá về
những thành công và hạn chế của việc thực thi pháp luật về thi hành án treo.
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về thi hành án treo
trong Bộ luật hình sự, Luật Thi hành án hình sự và các giải pháp bảo đảm áp
4
dụng đúng quy định của pháp luật về thi hành án treo này trên cả nước nói
chung và trên đại bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng của luận văn chính là hoạt động thi hành án treo của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong thi hành án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành án treo tại Lâm
Đồng trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018
Về không gian: Học viên tìm hiểu các Bản án hình sự tuyên cho các bị
cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Học viên dựa trên nền tảng lý luận của Luật hình sự và tố tụng hình sự
để chọn làm cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu cho luận văn của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
5
Thi hành án treo là đề tài mang tính cấp thiết cho nên vấn đề này được
các cơ quan tư pháp cũng như chính quyền tỉnh Lâm Đồng thực sự quan tâm.
Việc nghiên cứu và cho ra đời luận văn đem lại những đóng góp mới đó là:
Thứ nhất, tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án
treo; quan điểm của một số nhà khoa học về thi hành án và thực hiện pháp
luật thi hành án.
Thứ hai, tác giả trình bày những điểm mới tiến bộ và những vấn đề cần
hoàn thiện để nâng cao hiệu quả của Luật Thi hành án hình sự 2010 và những
điểm mới của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (Có hiệu lự pháp luật từ
01/1/2020). Luận văn tập trung phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn
quy định của pháp luật về thi hành án treo nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp
và có tính bảo vệ quyền con người theo như Hiến pháp 2013 đã đặt ra, đồng
thời cũng tăng cường tính phòng ngừa tội phạm, tính hướng thiện và để làm
cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành án treo trên thực tiễn đặt ra hiện nay.
Thứ ba, tác giả trình bày thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo
ở tỉnh Lâm Đồng giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, kết quả đạt được, yếu
kém, các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Từ đó, đưa ra các nhóm giải
pháp phù hợp với thực tiễn khách quan về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng” của học viên
bao gồm 3 chương:
6
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành án treo.
Chương 2. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại tỉnh
Lâm Đồng.
Ngoài ra, Luận văn còn có phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẠ̛N VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của án treo và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm
Án treo là một chế định ra đời từ rất sớm. Chế định án treo được Nhà
nước qui định ngay từ rất sớm và cho đến ngày nay tuy chưa có văn bản luật
nào đưa ra khái niệm về thi hành án treo, nhưng nhìn chung qua thực tiễn
nghiên cứu của các nhà khoa học đều đưa ra những khái niệm về án treo, điều
kiện được hưởng án treo.
Trong pháp luật hình sự, án treo không được coi là hình phạt và không
được nhiều nước trên thế giới áp dụng, ngược trở lại thời gian lập pháp của
Việt Nam, hiện nay các quy định về án treo đã có thay đổi và ngày càng hoàn
thiện hơn, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong thực tiễn cấp bách hiện nay trong việc
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Cho đến sau này mới có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm của
mình về án treo như quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: "Án treo
là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với
người bị phạt tù không qua ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành
hình phạt tù [10, tr.372].
8
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65
của Bộ luật hình sự về án treo thì án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội
bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Trong khi đó quan điểm thứ hai thì lại có quan điểm cho rằng án treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất
định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn
cứ và điều kiện do pháp luật hình sự quy định. [4]
Tác giả cho rằng mặc dù cách tiếp cận có khác nhau trên các cơ sở,
điều kiện đễ áp dụng án treo hay trên cơ sở xác định lỗi (ví dụ như tội tàng trữ
trái phép chất ma túy có được hưởng án treo trên thực tế, mặc dù đáp ứng
được các điều kiện của Điều 65 BLHS). Về cơ bản các quan điểm này đều
thống nhất ở một điểm chung là án treo không phải là một hình phạt mà chỉ là
một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện; áp dụng đối với
người bị phạt tù dưới 3 năm và Tòa án cân nhắc thấy sự không cần thiết phải
cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội, mà để họ tự cải tạo, lao động dưới sự giám
sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, chính quyền điạ phương trong một thời
gian nhất định để trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội thì sẽ miễn
chấp hành hình phạt tù nhưng kèm theo đó là những điều kiện nhất định mà
nếu trong thời gian thử thách họ phạm tội mới hoặc cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 2 lần trở lên thì họ phải chấp
hành toàn bộ hình phạt tù đã tuyên trước đó.
9
Tới Bộ luật hình sự 2015 vẫn kế thừa một số điểm của các bộ luật hình
sự trước đây về án treo, thêm vào đó bổ sung quy định về nghĩa vụ trong thời
gian thử thách được thực hiện theo quy định luật thi hành án hình sự.
Trên cơ sở tra cứu từ điển luật học, nghiên cứu các quan điểm của các
nhà Luật học về án treo, quy định của Bộ luật Hình sự qua các thời kỳ về áp
dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với người phạm tội, tác giả có thể rút
ra khái niệm chung nhất về án treo như sau: Án treo không phải là một loại
hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, điều
kiện đó là: Người bị phạt tù không quá ba năm bất kể về tội gì, nhân thân tốt
và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra
khỏi xã hội, Tòa án cho họ miễn chấp hành hình phạt tù và ấn định cho họ
một khoảng thời gian thử thách từ một năm đến năm năm, trong khoảng thời
gian đó nếu họ không phạm tội mới thì họ không phải chấp hành hình phạt tù
của bản án đã tuyên. Mặc dù đã có khái niệm về án treo, tuy nhiện học viên
nhận thấy khái niệm về án treo còn mang tính chất chung chung, chưa cụ thể
rõ ràng
Từ những nhận định nêu trên về án treo, tác giả mạnh dạn đưa ra nhận
xét về tính chất và bản chất của án treo như sau:
Thứ nhất: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt.
Thứ hai: Về thời gian thử thách của ngưởi được hưởng án treo, nếu
người đó phạm tội mới trong thời gian thử thách thì biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện bị xóa bỏ, người được hưởng án treo phải chấp
10
hành hình phạt tù trong bản án mà Tòa án đã cho hưởng án treo trước đó cộng
với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Thông qua khái niệm và đặc điểm có thể kết luận án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Từ hai khái niệm trên có thể rút ra
khái niệm thi hành án treo như sau: Thi hành án treo là hoạt động của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành trình tự, thủ tục cho người
phạm tội miễn chấp hành hình phạt tù với điều kiện người bị phạt tù không
quá ba năm bất kể về tội gì, nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và
xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội.
Ngoài ra, khoản 6 Điều 3 Luật thi hành án hình sự 2019 mới được ban
hành cũng đã đưa ra khái niệm thi hành án treo như sau: Thi hành án treo là
việc cơ quan, người có thẩm quyền quy định của Luật này giám sát, giáo dục
người bị kết án tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. [16]
Về cơ bản, khải niệm này đã nêu rõ các yếu tố cần thiết và tương đối dễ
hiểu. Nhưng quy định vẫn chỉ mang tính tổng quát còn về cách hiểu cụ thể
của các thuật ngữ vẫn cần được làm rõ trong các quy định chi tiết có liên quan
như người có thẩm quyền, thời gian thử thách…
1.1.2. Mục đích
Trong tâm lý học tội phạm Việt Nam cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh
cho rằng, việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện là
điều hoàn toàn khả thi.
11
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội là quá trình
nhằm làm thay đổi tư duy cũng như những nhận thức không đúng đắn của
người phạm tội, thay đổi, tác động tới các thói quen, hành động sai trái đã
hình thành ở người phạm tội. Những hành vi sai trái của người phạm tội
không phải là bản tính vốn có của họ, phần rất lớn do sự ảnh hưởng từ các yếu
tố không lành mạnh trong môi trường gia đình, xã hội, những thiếu sót trong
quản lý xã hội của các cơ quan chức năng… Những nhận thức, thói quen xấu
ở người phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc
giáo dục lại người bị kết án trong thi hành án treo.
1.1.3. Ý nghĩa
Thi hành án treo là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm đưa
một bản án, quyết định có hình phạt là án treo của Tòa án ra thi hành trên thực
tế. Đây là một công việc không hề dễ dàng và đơn giản nhằm thực thi công lý,
đem lại công bằng cho xã hội.
Cho nên ý nghĩa của hoạt động thi hành án treo được thể hiện qua
những điểm chủ yếu như sau:
- Một là, bảo đảm hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định Tòa án
được thi hành một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Từ đó giữ vững cán
cân công lý, đảm bảo công bằng xã hội cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
- Hai là, khả năng giáo dục, cải tạo người bị kết án được hưởng án treo
để họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời
12
cũng tạo mọi điều kiện để cho người được hưởng án treo được tái hòa nhập
cộng đồng, xóa đi mặc cảm và tạo động lực cho họ phát triển, giảm thiểu tình
trạng tái phạm tội sau khi chấp hành án.
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo
1.2.1. Chủ thể thi hành án treo
Thứ nhất, Tòa án nhân dân: Theo điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì năm 2013 và luật tổ chức Tòa án năm 2014
quy đinh; Tòa án là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Tòa án còn là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ thực hiện
một số hoạt động tố tụng trong giai đoạn thi hành án hình sự như ra quyết
định thi hành án (Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004), xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt tù (Điều 238).
Thứ hai, Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người
bị kết án treo được quy định Điều 19, 20, 21 luật thi hành án hình sự năm
2019: Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát,
giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản
chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định,
tước một số quyền công dân và án treo.
Quy định cụ thể của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thi hành án treo :
- Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành
trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người được
13
hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã
cho hưởng án treo theo quy định của Luật này;
- Hằng tháng nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của
người được hưởng án treo và lưu hồ sơ giám sát, giáo dục;
Có thể thấy so với quyền hạn tại Luật thi hành án hình sự 2010 thì pháp
luật hiện hành chú trọng nghĩa vụ báo cáo của UBND xã hơn và giới hạn
quyền của UBND xã bằng việc loại bỏ quyền giải quyết khiếu nại cũng như
xử phạt vi phạm trong thi hành án treo của cơ quan này.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2010 cũng như
Luật Thi hành án hình sự 2019 thì UBND cấp xã phải báo cáo công an cấp
huyện khi người đang phải thi hành án treo tại địa phương mình bỏ trốn;
Thứ ba, nghĩa vụ của người được hưởng án treo và việc lao động học
tâp của người được hưởng án treo được quy định tại Điều 87 và 88 Luật thi
hành án hình sự 2019 như sau:
Về nghĩa vụ của người được hưởng án treo
- Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định
tại khoản 1 Điều 85 của Luật này.
- Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa
vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành
14
đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý
do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
- Chấp hành quy định tại Điều 92 về vắng mặt tại nơi cư trú. Theo đó
Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính
đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai
báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại
nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư
trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị
bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận
điều trị của cơ sở y tế đó. Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư
trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn
vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy
ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý
do.
Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với
Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú
phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm
trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban
nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài
liệu có liên quan.
Để nâng cao trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật trong thời gian
thử thách, Luật THAHS 2019 rút ngắn thời gian báo cáo tình hình chấp hành
15
nghĩa vụ của người hưởng án treo từ 3 tháng trong LTHAHS 2010 xuống còn
1 tháng.
- Để đảm bảo quyền được học tập thì người được hưởng án treo được
tiếp nhận học tập tại các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và
đồng thời phải chấp hành các quy định của các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp.
- Người được hưởng án treo không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này thì được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
cư trú tạo điều kiện tìm việc làm.
1.2.2. Nguyên tắc, nội dung, biện pháp thi hành án treo
Nguyên tắc thi hành án treo
NguyêntắcthihànhánhìnhsựđượcquyđịnhtạiĐiều4Luậtthihànhánhìnhsự
2010.
Cụ thể như sau:
Dân chủ là nguyên tắc xuyên suốt quá trình đổi mới của nước ta, nhất là
trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được trở
thành một nguyên tắc hiến định. Nguyên tắc dân chủ thể hiện ở các yêu cầu
sau:
+ Xây dựng những quy định pháp luật và cơ chế thực hiện thi hành án
hình sự theo hướng bảo đảm cho các tổ chức cũng như mọi công dân tham gia
16
vào quá trình thi hành án và thực hiện quyền kiểm tra, giám sát xã hội đối với
toàn bộ hoạt động thi hành án.
+ Bảo đảm tinh công khai, minh bạch, rõ ràng trong thi hành án hình
sự. Có những giải pháp hiệu quả để những chủ thể có liên quan đến quan hệ
thi hành án được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi vi phạm
của cơ quan thi hành án, trong đó quyền khiếu nại, tố cáo hành vi trái
pháp luật của người, cơ quan có thẩm quyền thi hành án.
+ Để làm được điều đó trước hết phải quán triệt trong toàn bộ công
tác tổ chức thi hành án hình sự nói chung và công tác tổ chức thi hành án treo
nói riêng. Đặc biệt là phải quán triệt sạu rộng đến tầng lớp nhân dân, cán bộ
cấp xã làm công tác thi hành án treo, phối hợp với tổ chức mặt trận tổ quốc và
các thành viên để giám sát, giáo dục, tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân và
người thi hành án treo trên địa bàn xã, phường, thị trấn thực hiện tốt các nghĩa
vụ trong thời gian thử thách của mình.
Nhân đạo là một trong những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật Việt
Nam. Và nó biểu hiện rõ nét nhất trong pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, và
cả trong pháp luật thi hành án hình sự.
Thi hành án hình sự là hoạt động nữa hành chính, nữa tư pháp. Công
tác thi hành án treo khá phức tạp, để đạt được hiệu quả cao cần phải có sự
phới hợp rất nhiều của các cơ quan thi hành án hình sự, đồng thời cần sự tham
gia tích cực của chính quyền địa phương, của các cơ quan tổ chức nhà nước
khác, các tổ chức xã hội và của mọi công dân.
17
Do vậy, để thực sự có mối liên hệ phối hợp giữa các cơ quan cơ quan
thi hành án hình sự với các cấp chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức nhà
nước khác, các tổ chức xã hội mặt trận tổ quốc và các thành viên và mọi công
dân trong hoạt động thi hành án treo thì đây chính là một trong những nguyên
tắc quan trọng của hoạt động thi hành án hình sự nói chung và công tác thi
hành án treo nói riêng, đồng thời phải được vận dụng thực hiện nghiêm túc
trong thực tiễn hoạt động thi hành án hình sự.
Trong hoạt động thi hành án hình sự tồn tại mối quan hệ phối hợp giữa
cơ quan Thi hành án, Tòa án, Viện Kiểm sát giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Theo quy định của pháp luật, cơ quan thi hành án có nhiệm vụ tổ chức đưa
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành. Nhưng
hoạt động thi hành án chưa thể hiện được khởi động khi chưa có quyết định
của Tòa án.
Vì vậy, cần xác định rõ kết cấu cũng như bản chất quan hệ này và cụ
thể hóa bằng pháp luật nhằm tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong công
tác thi hành án.
Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo hành vi vi phạm của các cơ
quan thi hành án.
Nội dung thi hành án treo
Những căn cứ để áp dụng án treo đối với người bị phạt tù là những yêu
cầu, đòi hỏi bắt buộc do pháp luật hình sự quy định đối với người đó mà chỉ
khi nào có đầy đủ những căn cứ đó thì Tòa án mới được áp dụng án treo đối
18
với họ.Theo Điều 65 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì căn cứ
vào những điều kiện sau để Tòa án quyết định cho hay không cho bị cáo được
hưởng án treo:
(1) mức phạt tù không quá 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng và tội rất nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015;
(2) Có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự;
(3) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng,
trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS
năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa
có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng
từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 ;
(4) Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giám sát, giáo dục;
(5) Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm
tội có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho
xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ nhất, về mức hình phạt tù.
19
Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt tội
gì thì có thể được xem xét cho hưởng án treo; trường hợp người bị xét xử
trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt không quá 03 năm
tù thì cũng có thể được hưởng án treo.
Khi Tòa án tuyên mức hình phạt tù thì phải dựa trên tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, trên cơ sở tuân thủ những căn cứ để quyết
định hình phạt, đồng thời tuân theo những nguyên tắc của pháp luật hình sự
Việt Nam để áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể, tránh những
trường hợp vì có ý định từ trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên
Tòa án tuyên mức án thấp hơn thời hạn 03 năm tù giam để cho người đó được
hưởng án treo, hoặc đáng lẽ bị cáo được hưởng án treo nhưng Tòa án có ý
định từ trước là không cho hưởng án treo nên Tòa án đã tuyên mức án cao
hơn 03 năm để không cho bị cáo được hưởng án treo.
Thứ hai, về nhân thân người phạm tội.
Một người có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này thì họ chưa
từng vi phạm pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân của mình.
Người phạm tội có nhân thân tốt cho thấy khả năng tự cải tạo, giáo dục
cao. Từ đó giúp đạt được mục đích của hình phạt đó là giáo dục các thành
viên khác trong xã hội tuân thủ pháp luật, cũng như hỗ trợ cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả.
Thứ ba, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 quy định các tình tiết giảm nhẹ
20
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 thì người được
hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả” tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, theo Sổ tay
Thẩm phán, tình tiết này được hiểu là trường hợp tội phạm đã gây ra thiệt hại,
gây ra hậu quả nhưng tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) sửa chữa, bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
Tình tiết “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không
lớn” là trường hợp hành vi phạm tội chưa kịp gây ra hậu quả (thiệt hại) cho
các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ (ví dụ: người phạm tội đang dắt
chiếc xe máy lấy cắp được ra khỏi nhà thì bị bắt giữ và thu lại chiếc xe máy);
Gây thiệt hại không lớn là trường hợp hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả
(thiệt hại) cho các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ nhưng mức độ thiệt
hại không đáng kể (ví dụ: một ngày sau khi bị mất trộm, cơ quan điều tra đã
thu lại được chiếc xe máy mất cắp vẫn trong tình trạng như cũ và trả cho chủ
sở hữu).
Đối với tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là người có công với cách
mạng” gồm:
(i) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945;
(ii) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày tổng
khởi nghĩa tháng 08/1945;
21
(iii) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; (iv)
Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến; (v)
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;Bệnh (vi)
binh;
(vii) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
(viii) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt,
tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế;
(ix) Người có công giúp đỡ cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng,
con của liệt sĩ (tình tiết này trước đây theo BLHS cũ được áp
dụng theo khoản 2).
Thứ tư, người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng được hiểu như sau:
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác
định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư
trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo; Còn nơi làm việc ổn
định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp
đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ năm, thuộc trường hợp không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
22
Khi xét việc cho người bị kết án được hưởng án treo, Hội đồng xét xử
chủ yếu dựa vào 3 căn cứ mức phạt tù, nhân thân của người bị kết án và các
tình tiết giảm nhẹ, phân tích từng căn cứ và đánh giá các căn cứ đó, đồng thời
đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi
trường xã hội cụ thể của từng thời kì để có thể kết luận về khả năng tự giáo
dục, cải tạo của người bị kết án phạt tù với sự giúp đỡ của gia đình và xã hội
để từ đó xác định chính xác việc bắt người bị kết án phải chấp hành hình phạt
tù hay cho họ được hưởng án treo. Chỉ khi nào xét thấy nếu không bắt họ đi
chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không
gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mà ngược lại,
còn có tác dụng tốt cho việc cải tạo, khuyến khích người phạm tội sửa chữa
thì mới cho họ hưởng án treo. Cần tránh tình trạng cho người được hưởng án
treo một cách tuỳ tiện, thiếu căn cứ, không được nhân dân đồng tình ủng hộ
và làm giảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung của án treo.
23
Tiểu kết Chương 1
Cho đến nay, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành 03 bộ luật hình sự, đó là Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 và năm 2015.
Theo đó thì Luật Thi hành án hình sự 2010 cũng ra đời nhằm đảm bảo hiệu lực
của Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Luật Thi hành án
hình sự được ban hành là cơ sở để hoạt động thi hành án hình sự càng ngày
càng đi vào thực trong lĩnh vực thi hành án hình sự, và thể hiện cụ thể chính
sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người chấp hành án nhằm
đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Từ đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an
ninh quốc gia, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính.
Liên quan tới quy định về thi hành án treo, Luật THAHS có những quy
định bao gồm về chủ thể, nguyên tắc, điều kiện và trình tự thủ tục thi hành án
treo. Các điều luật được quy định khá chi tiết và chặt chẽ tạo tiền đề cho các
chủ thể có liên quan thực thi pháp luật trên thực tế. Chương 2 sẽ thông qua địa
bàn tỉnh Lâm Đồng cụ thể làm ví dụ điển hình phán ánh thực trạng công tác
thực thi pháp luật về thi hành án treo trên thực tế để từ đó đưa ra những nhận
xét về những thành tựu cũng như hạn chế làm tiền đề đưa ra các giải pháp
khắc phục ở chương 3 của luận văn
24
Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LÂM ĐỒNG
2.1. Thực trạng tình hình tội phạm và các vấn đề có ảnh hưởng tới
thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
2.1.1. Điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị và tình hình tội phạm tại tỉnh
Lâm Đồng
Điều kiện địa lý
Lâm Đồng giáp các tỉnh như sau:
- Phía đông giáp các tỉnh duyên hải miền trung gồm Khánh Hòa, Ninh
Thuận.
- Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai.
- Phía nam – đông nam gáp tỉnh Bình Thuận.
- Phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk.
Điều kiện kinh tế
Chủ yếu phát triển về du lịch, sản xuất cây trồng thương phẩm như hoa,
rau màu và các loại cây nông sản (huyện Đơn Dương, huyện đức Trọng
và thành phố Đà Lạt), cây ăn trái (chủ yếu phía Nam tỉnh nhu huyện Đạ
Hoai, Đạ Đeh )
Dân số toàn tỉnh đến cuối năm 2007 là 1.198.261 người (Niên giám
Thống kê năm 2007). Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 trường đại học tổng
hợp, 02 trường cao đẳng sư phạm, 01 trường trung học y tế, 01 trường trung
học kinh tế-kỹ thuật, 02 trường dạy nghề, hàng năm cung cấp hàng ngàn lao
động có tay nghề cho địa phương; Nhiều trung tâm nghiên cứu của Trung
25
ương đóng trên địa bàn như: Viện nghiên cứu hạt nhân, Trung tâm nghiên cứu
nông lâm nghiệp, Trung tâm nghiên cứu cây rau, Phân viện sinh học… góp
phần đáng kể trong việc ứng dụng nghiên cứu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
của tỉnh.
Đà Lạt - Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên với độ cao từ trung
bình từ 800-1.500m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ quanh năm. Trung
tâm du lịch Đà Lạt cách các đô thị lớn của vùng và khu vực không xa, giao
thông thuận lợi cả về đượng bộ, hàng không và có khả năng khôi phục đường
sắt Đà Lạt- Tháp Chàm. Đà Lạt – Lâm Đồng có nhiều cảnh quan thiên nhiên
kỳ thú nổi tiếng về hồ, thác nước, rừng thông, các công trình kiến trúc mang
giá trị văn hóa - nghệ thuật cao nên Đà Lạt Lâm Đồng có điều kiện để phát
triển đa dạng hóa các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng,
tham quan, vui chơi giải trí, văn hóa- thể thao, nghiên cứu khoa học, du lịch
giáo dục…
Hạ tầng du lịch Đà Lạt-Lâm Đồng ngày càng phát triển, hiện nay Lâm
Đồng có 749 cơ sở lưu trú, trong đó có 202 khách sạn từ 1-5 sao (5.791
phòng) bao gồm 21 khách sạn cao cấp từ 3-5 sao quy mô 1.807 phòng.
Tình hình tội phạm
Theo báo cáo đánh giá của Bộ Công an, công tác phòng ngừa, đấu tranh
trấn áp, truy nã các loại tội phạm năm 2018 đạt được nhiều kết quả tích cực,
các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, dư luận xã hội quan tâm đều nhanh chóng
được điều tra, làm rõ. Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự được bảo
đảm, nhất là trật tự, an toàn giao thông; phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,
26
cứu hộ; an ninh, trật tự tại các cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục, trường giáo
dưỡng được bảo đảm.
Riêng tháng 10/2018, Công an các đơn vị, địa phương trong nước đã
điều tra, khám phá 3.329 vụ, bắt 5.850 đối tượng, triệt phá 240 băng nhóm tội
phạm; bắt, vận động đầu thú 319 đối tượng truy nã; phát hiện, đấu tranh 2.117
vụ, 1.817 cá nhân, 331 tổ chức vi phạm pháp luật về môi trường; phát hiện
1.549 vụ, bắt 2.403 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ 45,25 kg heroin,
817,26 kg và 93.083 viên ma túy tổng hợp, 95,31 kg cần sa; phát hiện 22 vụ,
bắt 34 đối tượng, thu 27 khẩu súng các loại, 1.018 viên đạn, 04 quả lựu đạn,
04 công cụ hỗ trợ có liên quan đến hoạt động mua bán, tàng trữ, sử dụng trái
phép vũ khí, vật liệu nổ; phát hiện, bắt giữ 35 vụ mua bán, vận chuyển, tàng
trữ, sử dụng pháo trái phép, bắt 48 đối tượng, thu 5.771,5 kg, 250 quả pháo nổ
các loại…
Tại tỉnh Lâm Đồng tính đến đầu tháng 12/2018, Cơ quan CSĐT trong
toàn tỉnh đã khởi tố 652 vụ án hình sự về trật tự xã hội gây hậu quả làm chết
11 người, bị thương 106 người, gây thiệt hại về tài sản khoảng 74,6 tỷ đồng,
trong đó có 14 vụ trọng án. Số vụ án khởi tố so với cùng kỳ năm trước đã tăng
91 vụ. Cho đến nay, cơ quan chức năng đã điều tra làm rõ 552/652 vụ, bắt giữ
trên 1.018 đối tượng; vận động đầu thú 73 đối tượng có quyết định truy nã.
Đáng lưu ý, tội phạm về tham nhũng trong năm 2018 đã phát hiện và khởi tố
7 vụ với 8 bị can, tăng 7 vụ so với cùng kỳ năm trước. Riêng tội phạm về ma
túy, đến nay lực lượng Công an địa phương đã bắt giữ 162 vụ với 187 đối
tượng về hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; khởi tố 134 vụ với
152 bị can. Nhìn chung, tình hình tội phạm về trật tự xã hội diễn biến ngày
càng phức tạp, thủ đoạn phạm tội khá tinh vi. [1]
27
Công an các đơn vị, địa phương trong tỉnh tiếp tục thực hiện nghiêm,
hiệu quả các Điện chỉ đạo của Bộ, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác
đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm
có tổ chức liên quan đến bảo kê nhà hàng, bến bãi, cơ sở kinh doanh có điều
kiện về an ninh trật tự, đặc biệt tình hình “tín dụng đen” có dấu hiệu lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản; tội phạm xâm hại trẻ em; tội phạm sử dụng vũ khí, vật liệu
nổ gây án; tăng cường đấu tranh với tội phạm về kinh tế - chức vụ trong lĩnh
vực tín dụng; ngăn chặn hiệu quả tội phạm buôn lậu, sản xuất hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng; đấu tranh, triệt phá tội phạm sử dụng công nghệ
cao, tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường.
Qua khảo sát thực tế theo Báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh LÂm
Đồng qua các năm từ 2014 đến 2018 thì hiện nay số lượng các bị cáo được
hưởng án treo trên điạ bàn tỉnh Lâm Đồng thống kê cho thấy hàng năm số
lượng bị cáo cho hưởng án treo ngày càng tăng, vì vậy chất lượng tổ chức thi
hành án treo trên địa bàn tỉnh LÂm Đồng là một thách thức lớn đối với cơ
quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người đang chấp hành án treo
treong thời gian thử thách.
2.1.2. Thực trạng tổ chức lực lượng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng
Khảo sát số liệu thống kê qua các BẢn án có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân tỉnh Lâm Đồng từ năm 2014 đến 2018 thì số lượng số bị cáo cho
hưởng án treo cụ thể như sau:
Trong năm 2014 là 977 bị án
28
Năm 2015 là 708 bị án
Năm 2016 là 1073 bị án
Năm 2017 là 874 bị án
Năm 2018 là 679 bị án
Bảng 2.1. Số lượng các bị báo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng từ năm 2014 đến năm 2018
Tổng số bị Tổng số bị Số bị cáo được Tỷ lệ Năm cáo bị kết án cáo bị phạt tù hưởng án treo (%)
2014 1908 931 977 51,2
2015 1680 972 708 42,1
2016 2689 1616 1073 39,9
2017 1789 915 874 48,9
2018 1352 655 679 50,2
1884 1018 862 Trung bình 46,5
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
29
Biểu đồ 2.1. So sánh tình hình áp dụng án treo giữa các năm từ
năm 2014 đến năm 2018 tại tỉnh Lâm Đồng.
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
30
2.2. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
Vì số lượng các bản án, quyết định cho hưởng án treo những năm gần
đây gia tăng cho nên chính quyền địa phương tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức
nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy
định các chính sách, quy định pháp luật về thi hành án treo. Công tác thi hành
án treo tại tỉnh Lâm Đồng hiện nay đang ngày càng được quan tâm.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Luật thi hành án hình sự (Luật THAHS) được Quốc hội khóa XII thông
qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 là một bước tiến
lớn trong công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng.
Qua hơn 7 năm thi hành Luật Thi hành án hình sự bước đầu đã phát huy được
hiệu quả trong thực tiễn áp dụng.
Hiện nay, Luật Thi hành án hình sự 2019 đã được ban hành nhưng
chưa có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, Luật THAHS 2019 có những sửa đổi,
bổ sung liên quan đến việc thi hành án treo như: bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; tiêu chuẩn, trách
nhiệm, chế độ của người được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo; nghĩa vụ của người chấp hành án treo; rút ngắn thời gian thử thách đối
với ngời được hưởng án treo; việc vắng mặt tại nơi cư trú của ngời được hư-
31
ởng án treo; xử lý người được hưởng án treo vi phạm… Tuy nhiên, một số
vấn đề liên quan đến thi hành án treo trên thực tiễn còn có những bất cập sau:
Thứ nhất, về thời điểm tính thời gian thử thách của án treo
Việc tính thời gian thử thách của án treo hiện nay đợc xác định trong
một số trờng hợp là ngày tuyên án sơ thẩm(8); tuy nhiên, trên thực tế có
những trường hợp sau khi tuyên án, người được hưởng án treo không có mặt
tại địa phương nơi cư trú; do đó, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện không triệu tập người được hưởng án treo để ấn định thời gian người
đư-ợc hưởng án treo phải có mặt tại ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư
trú và ủy ban nhân dân cấp xã không tổ chức giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo(9).
Tuy nhiên, tác giả cho rằng điều này có thể dẫn đến trường hợp sau thời
điểm bản án sơ thẩm được tuyên và trước khi tính thời điểm bắt đầu chấp
hành án treo, người được hưởng án treo lại phạm một tội mới thì không bị
buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo vì đây cha phải
trong thời gian thử thách (như trước đây đã từng xảy ra)(11). Rõ ràng, đây là
sự bất cập khi xem xét thời điểm tính thời gian thử thách của án treo. Đối với
việc xác định thời điểm tính thời gian thử thách của án treo từ khi tuyên án sơ
thẩm có những hạt nhân hợp lý của nó; bởi lẽ điều này sẽ có tác dụng thiết
thực giáo dục, ngăn ngừa ngay đối với ngời bị kết án(12); đồng thời giải quyết
được trường hợp trên. Đối với trường hợp người được hưởng án treo không
có mặt tại địa phương nơi cư trú để chấp hành án treo thì có thể coi là cố ý vi
phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách và Tòa án có thể quyết định buộc
người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; trường
32
hợp có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể khởi tố tội không chấp
hành án (theo Điều 380 BLHS năm 2015).
Bên cạnh đó, việc xác định thời gian thử thách của án treo từ khi tuyên
án phúc thẩm (trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa
án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo) hoặc từ khi tuyên án giám đốc thẩm
(trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án
treo nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo)
cũng có những bất cập.
Thứ hai, rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Hiện nay, việc xem
xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo được hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTCVKSNDTC ngày 14/08/2012 của
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, nếu so sánh với
giảm thời hạn chấp hành án khác (giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; giảm
thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ) thì hiện nay chưa quy
định việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo đối với người dưới 18 tuổi.
Việc rút ngắn thời gian thử thách chưa được các cơ quan tổ chức giám
sát người được hưởng án treo trong thời gian thử thách chưa được chú trọng,
còn làm chiếu lệ. Có trường hợp tại địa phương không biết rõ người đang
chấp hành án treo đang làm gì, ở đâu, nhân thân của họ như thế nào. Chính vì
vậy công tác quản lý, giám sát, giáo dục người đang chấp hành án treo tại địa
phương còn bị buông lỏng.
33
Thứ ba, trường hợp trong thời gian thử thách, người được hưởng án
treo mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình. Theo Khoản 3 Điều 49 BLHS năm 2015 thì “đối với người
đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, thì… Tòa án có thể quyết định đa họ
vào một cơ sở điều trị bắt buộc chữa bệnh… Thời gian bắt buộc chữa bệnh
được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù”.
Như vậy, theo tinh thần của Điều luật trên thì việc áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh chỉ áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt tù và
thời gian bắt buộc chữa bệnh chỉ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt
tù. Tuy nhiên, đối với người được hưởng án treo mắc bệnh tới mức mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì việc họ thực
hiện được các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự như người bình thường là không thể (như: chấp hành nghiêm
chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ công dân, 03 tháng một lần nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp
luật…). Và nếu trong trường hợp họ đi chữa bệnh thì có được tính vào thời
gian thử thách của án treo vì thực tế họ đang không thực hiện nghĩa vụ của
mình theo Luật Thi hành án hình sự?
Vướng mắc về việc giám sát trong thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát đó chính là việc giám sát người phải thi hành án treo của các cơ quan tổ
chức có thẩm quyền khi họ thực hiện xong thời gian thử thách mà Bản án đã
tuyên hoặc được xét miễn, giảm thời gian thử thách theo quy định tại khoản 3
Điều 62 của Luật Thi hành án hình sự. Viện kiểm sát không phải là chủ thể
nhận được Giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách trong khi
34
Luật quy định Viện kiểm sát lại là chủ thể giám sát việc thi hành án hình sự
của các cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát người phải thi hành
án treo tại địa phương, tổ chức của mình. Từ đó, nhận thấy quy định trên là
bất cập trong quá trình giám sát việc thi hành án treo của Viện kiểm sát đối
với cơ quan tổ chức được giao giám sát, giáo dục người phải thi hành án treo.
Nguyên nhân của tình trạng này chính là do sự thiếu quan tâm của cơ
quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục người phải thi hành án treo tại địa
phương, cụ thể ở đây chính là trách nhiệm của UBND cấp xã được giao giám
sát giáo dục người phải thi hành án treo trên địa bàn quản lý. Chính vì sự bất
cập này mà đã xảy ra nhiều tình huống khiến cho người đã thi hành án treo đã
chấp hành xong thời gian thử thách của mình tuy nhiên họ cũng không nhận
được giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách của bản án đã
tuyên cho họ được hưởng án treo và thời gian thử thách.
Vướng mắc trong việc chuyển bản án về cho cơ quan, tổ chức được
giao giám sát giáo dục người phải thi hành án treo chính là việc chuyển án
cho UBND cấp xã nơi bị án cư trú. Đó là, khi xảy ra tình huống người đang
chấp hành thời gian thử thách phạm tội mới hoặc khi họ thực hiện hành vi tái
phạm, thì khi tiến hành điều tra hành vi phạm tội cơ quan chức năng không
thể xác định người đó đã chấp hành xong thời gian thử thách hay chưa, điều
này đặc biệt quan trọng bởi vì liên quan đến việc xác định họ phạm tội mới
hay tái phạm đối với Bản án đã tuyên trước đây và việc xác định đó làm cơ sở
để tổng hợp hình phạt hay xác định khi họ thưc hiện hành vi phạm tội mới...
để từ đó cơ quan điều tra và Viện kiểm sát xác định họ có tái phạm hay không
làm cơ sở để khởi tố vụ án được chính xác, đúng người, đúng tội.
35
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ ý thức chấp hành pháp
luật của người phải thi hành án, nhưng nguyên nhân chính vẫn là việc quy
định của Luật thi hành án hình sự chưa đầy đủ.
Các quy định của Luật Thi hành án hình sự đã quy định chức năng,
nhiệm vụ của các cá nhận, tổ chức có liên quan đến thi hành án hình sự nói
chung và tổ chức thi hành án treo nói riêng. Tuy nhiên, không quy định cơ
quan, tổ chức được giao việc thi hành án treo có quyền yêu cầu người phải thi
hành án treo có mặt làm việc mà không quy định cho cơ quan, tổ chức thi
hành án treo được quyền áp giải khi người phải chấp hành án treo khi họ cố
tình vắng mặt tại địa phương khi nhận được Giấy triệu tập; Đồng thời, Luật
còn hạn chế bất cập đó chính là không quy định quyền xử phạt hành chính của
những cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát giáo dục đối với những
người thi hành án treo cố tình vắng mặt khi đã nhận được giấy triệu tập nhưng
không đến làm việc. Điều này, thực tiễn khách quan đã xảy ra trên thực tế tuy
nhiên không có quy định của pháp luật về các biện pháp xử phạt hành chính
hay biện pháp áp giải tư pháp khác…. Khiến cho trên thực tế việc giám sát,
giáo dục người đang chấp hành án treo trên thực tế không tạo được sức răn
đe, giáo dục họ, mà nguy hiểm hơn còn tạo ra việc coi thường pháp luật,
không coi việc được hưởng án treo là biện pháp khoan hồng của pháp luật mà
chỉ càng lúc càng coi thường pháp luật, dễ tạo ra hiệu ứng lan truyền trong xã
hội nơi địa phương họ sinh sống.
Chính vì vậy pháp luật về thi hành án hình sự nói chung và pháp luật về
thi hành án treo nói riêng cần phải quy định cụ thể và chặt chẽ hơn các quyền
về xử phạt vi phạm hành chính, quyền áp giải khi người phải thi hành án treo
khi nhận được giấy triệu tập nhưng cố tình không đến làm việc, nhằm đảm
36
bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.
Thứ năm, Xuất phát nguyên nhân từ UBND cấp xã
Không mở sổ theo dõi người thi hành án treo tại địa phương, chậm ban
hành quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người thi hành
án treo, án phạt cải tạo không giam giữ, quyết định phân công không có số,
không ghi thời gian ban hành.
Để xảy ra những vi phạm trên là do Luật thi hành án hình sự đã có hiệu
lực song công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn hướng dẫn, kiểm tra cho đội
ngũ cán bộ UBND cấp xã làm công tác này chưa được quan tâm kịp thời,
thường xuyên, đúng mức nên nhiều cán bộ chưa nắm vững các quy định của
Luật; đội ngũ cán bộ làm công tác này ở cấp xã thường phải kiêm nhiệm
nhiều công việc và có sự thay đổi vị trí công tác thường xuyên.
Bên cạnh đó Chủ tịch UBND cấp xã chưa kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn
kịp thời việc thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về công tác thi hành
án phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ nên có trường hợp còn
chưa được giám sát, giáo dục chặt chẽ người chấp hành án trên địa bàn.
Ngoài ra, có trường hợp UBND cấp xã lại không tổ chức thi hành án
treo, không phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng
án treo trong thời gian thử thách. Dẫn đến có bị án trong thời gian thử thách
đã chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nơi cư trú…nhưng không có căn
37
cứ để xét đề nghị Tòa án giảm thời gian thử thách cho bị án nhằm động viện,
khuyến khích, tác động những người được hưởng án treo trên địa bàn cải tạo,
rèn luyện tốt hơn.
Một số UBND cấp xã chưa nhận thức, thấy rõ được tầm quan trọng
trong công tác THAHS nói chung và công tác quản lý theo dõi, giáo dục đối
tượng chấp hành án treo và cải tạo không giam giữ nói riêng, dẫn đến tình
trạng buông lỏng, xem nhẹ, thiếu sự quan tâm trong công tác chỉ đạo, thực
hiện nhiệm vụ của mình. Công tác chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn của các cơ
quan có liên quan đối với các UBND cấp xã và các cán bộ được phân công
làm công tác thi hành án hình sự còn chưa được thường xuyên, sâu sát.
38
Tiểu kết Chương 2
Công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn
khảo sát để thực hiện luận văn từ năm 2014 đến 2018, nhìn chung công tác thi
hành án treo tại tỉnh Lâm Đồng đã đạt được những kết quả quan trọng, các
bản án xét xử đã có hiệu lực pháp luật đưa các bị cáo được tòa án tuyên cho
hưởng án treo đều được ra quyết định thi hành án kịp thời, đúng quy định của
pháp luật và tổ chức thi hành quyết định thi hành án treo đúng thời hạn quy
định của pháp luật.
Thời gian qua trong công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng được thực hiện tương đối tốt. Công tác giáo dục người người được
hưởng án treo của UBND cấp xã, phường, thị trấn đã đem lại nhiều kết quả.
Bên cạnh đó nhiều nơi chưa quan tâm, đầu tư đúng mức đến công tác thi hành
án treo, khi kiểm tra, kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến các vi phạm là do cán bộ làm công tác thi hành án treo
và UBND các xã chưa được đào tạo, tập huấn nghiệp vụ công tác thi hành án
treo. Khi chuyển giao quyết định thi hành án treo cho UBND cấp xã cũng còn
có rất nhiều khó khăn, vướng mắc như: Trình độ dân trí còn khá thấp, không
am hiểu pháp luật, dẫn đến tình trạng bị án không thực hiện việc thi hành án.
Công chức Tư pháp xã và lực lượng Công an xã còn lúng túng trong việc thi
hành án treo, triệu tập người thi hành án để làm kiểm điểm, giáo dục họ chấp
hành án. Cán bộ lãnh đạo UBND xã còn chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh
vực thi hành án treo đối với bị án.
39
Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH ÁN TREO TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Dự báo các yếu tố tác động tới hiệu quả thi hành án treo tại
tỉnh Lâm Đồng thời gian tới
3.1.1. Công tác thực hiện pháp luật và vấn đề hoàn thiện pháp luật về
thi hành án treo
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án treo,
và việc thực hiện pháp luật thi hành án treo phải được cụ thể hóa các vấn đề,
đó là:
- Xây dựng pháp luật về thi hành án treo dựa trên cơ sở đánh giá thực
tiễn công tác thi hành án treo, hoàn thiện quy định pháp luật thi hành
án hình sự, trong đó có thi hành án treo nhằm bảo đảm các Bản án
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và
được đưa ra thi hành trên thực tế. Nhằm đảm bảo tính nghiêm minh,
tính trừng trị và tính khoan hồng của pháp luật.
- Xây dựng pháp luật nhằm làm rõ trách nhiệm của UBND xã ,
phường, thị trấn trong việc thi hành án treo và quản lý việc thi hành
án treo tại địa phương mình quản lý.
40
- Theo tinh thần của Luật thi hành án hình sự và Nghị Quyết trên để
áp dụng trên thực tế thì cơ quan thi hành án treo là ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi bị án cư trú (theo Luật cư trú), làm việc.
Thực tế công tác thi hành án treo thực tiễn từ tỉnh Lâm Đồng không mắc
sai lầm trong việc tổ chức thi hành án treo. Tuy nhiên, để phòng ngừa những
sai sót có thể mắc trong tương lai và là tài liệu tham khảo cho các hoạt động
nghiên cứu khoa học, qua tổng kết kinh nghiệm thi hành án treo trên thực tế,
tôi nhận thấy khi tổ chức thi hành án treo thường mắc những sau lầm phổ biến
sau:
Thứ nhất, xác định không đúng người phải thi hành án treo trên thực tế.
Nguyên nhân chủ yếu là do cá nhân, tổ chức được giao giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo không trực tiếp tìm hiểu nhân thân và thân nhân
của họ, thiếu khách quan, toàn diện;
Thứ hai, nhận thức không đúng hoặc không đầy đủ quy định pháp luật về
thi hành án treo. Việc này thường do người người được giao quản lý, giám
sát, giáo dục người phải thi hành án treo không nắm vững quy định pháp luật
về thi hành án.
Như vậy, để tổ chức thực hiện việc thi hành án treo trên 1 điạ bàn cụ thể
thì cần xác định đúng người phải thi hành án treo là trách nhiệm của những
người được giao quản lý giám sát, giáo dục mà chủ thể cuối cùng là UBND
cấp xã, cơ quan tổ chức tổ chức thi hành án treo.
41
3.1.2. Mối quan hệ với việc thực hiện pháp luật thi hành án nói chung
Mối quan hệ trong việc thực hiện bao gồm các cơ quan: Tòa án Viện
Kiểm sát , Công an và chính quyền địa phương và tổ chức được giao giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo.
Cần có 1 cơ chế phù hợp khi phối hợp giữa các cơ quan chức năng khi
tiến hành tổ chức thi hành án treo tại từng địa phương cụ thể nhằm đảm bảo
tính phù hợp với điều kiện khách quan của địa phương đó trong công tác thi
hành án treo trên thực tiễn. Ví dụ như việc xem xét đến điạ bàn quản lý thì bố
trí cán bộ giám sát giáo dục phù hợp, không nên quá chủ quan, duy ý chí mà
cần tính đến hiệu quả thực tiễn của công tác thi hành án treo trên địa bàn được
bố trí phân công. Từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động phối hợp của từng
điạ phương.
3.1.3. Quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án
Quyền và và lợi ích hợp pháp của người bị kết án là quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Và cần phải chú trọng các vấn đề
khi thực hiện pháp luật thi hành án treo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho người được hưởng án treo.
- Khi thực hiện pháp luật thi hành án treo, cơ quan thi hành án, các cơ
quan hữu quan, người có trách nhiệm, các tổ chức xã hội, đoàn thể, mọi công
dân (gọi chung là chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án) phải tôn trọng và
bảo đảm quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án,
42
không được có thái độ phân biệt đối xử, hạn chế quyền tự do công dân của họ
khi pháp luật không quy định.
3.2. Đề xuất giải pháp
3.2.1. Đổi mới quan điểm về án treo
Với phương châm “giáo dục – khoan hồng”, án treo không buộc người
bị kết án cách ly khỏi xã hội mà tạo điều kiện cho họ được hòa nhập cùng
cộng đồng, họ vẫn được làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương
của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, theo
dõi, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Vấn đề đổi mới quan điểm về án treo hiện nay cần được quan niệm
toàn diện trên các phương diện sau:
3.2.1.1. Đổi mới nhận thức về án treo
Cần nhấn mạnh, án treo không phải là một hình phạt, cũng không phải
là trường hợp miễn hình phạt. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba năm tù, căn
cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy
không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Tức đây là một hình thức thi
hành hình phạt tù có thời hạn nhưng không buộc người chấp hành án phải
cách ly khỏi xã hội, không phải thực hiện các lệnh buộc người chấp hành án
phải thi hành án tại các cơ sở giam giữ. Án treo chính là biện pháp miễn chấp
43
hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị
kết án phạt tù cho hưởng án treo.
3.2.1.2. Đổi mới và thay đổi quan niệm: “Hạn chế áp dụng án treo”.
Án treo là chế định thể hiện kết tinh cao nhất của tinh thần nhân đạo,
giáo dục kết hợp khoan hồng, coi người phạm tội là đối tượng cần phải “giáo
dục, cải tạo, giúp đỡ”, chứ không phải là đối tượng cần phải “trừng trị”. Do
đó, quan điểm phải hạn chế áp dụng án treo, không được lạm dụng án treo,
hoặc “chỉ áp dụng án treo theo tỉ lệ nhất định” cần được nhận thức lại và thay
đổi. Quan điểm đúng đắn là: Bất kỳ ai, khi thỏa mãn các căn cứ quy định theo
pháp luật về án treo thì đều được hưởng án treo.
Các căn cứ đó là: khoản 1 Điều 65 BLHS được cụ thể hóa theo Điều 1
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo.
Như vậy, một người khi thỏa mãn các căn cứ sau thì được quyết định
cho hưởng án treo. Bao gồm:
(1) mức phạt tù không quá 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng và tội rất nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015;
(2) Có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự;
(3) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng,
trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS
44
năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.
Từ các quy định của pháp luật về thi hành án treo đã phân tích nêu trên
thì vần đề đổi mới nhận thức về thi hành án treo cần phải được quán triệt sâu
rộng đến các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt chính là cơ quan Tòa án để
nhằm đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật cũng như tạo điều kiện cho bị
cáo được có cơ hội sửa chữa những sai phạm của mình, hòa nhập cộng đồng
nhanh chóng hơn và đặc biệt là không gây ra những hệ lụy không đáng có cho
xã hội.
3.2.1.3. Đổi mới về chế độ thi hành án treo
Hiện nay, Bộ luật thi hành án hình sự 2019 đã có hiệu lực cũng đã có
nhiều đổi mới trong công tác thi hành án treo. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa
học tác giả cũng mạnh dạn đề xuất những đổi mới cụ thể sau liên quan đến
chế độ thi hành án treo:
- Đổi mới quán triệt nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo;
- Đổi mới bổ sung các tiêu chuẩn, trách nhiệm, chế độ của người được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo;
- Bổ sung nghĩa vụ của người chấp hành án treo;
45
- Quy định việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng
án treo khi thỏa mãn các điều kiện cụ thể;
- Quy định cụ thể chế tài đối với trường hợp người chấp hành án treo
vắng mặt tại nơi cư trú và xử lý các trường hợp được hưởng án treo vi phạm
các quy định và các nghĩa vụ khác.
Luật Thi hành án hình sự (THAHS) năm 2019 đã được Quốc hội khóa
XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2020.
Có thể nói, Luật Thi hành án hình sự 2019 được sửa đổi toàn diện
nhằm cụ thể hóa việc thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các
đạo luật khác có liên quan, thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời khắc phục những vướng
mắc trong thực tiễn thi hành luật trước đây, bảo vệ quyền lợi của phạm nhân,
thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã khắc phục những bất cập, hạn
chế trong thực tiễn công tác thi hành án, thể hiện tính nhân văn sâu sắc bảo
đảm quyền lợi của phạm nhân, đảm bảo quyền con người, quyền công dân
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, cụ thể trong lĩnh vực thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ :
Thứ nhất, Thi hành án treo, cải tạo không giam giữ được quy định tại
Chương V, trong đó Mục 1 “Thi hành án treo” gồm 11 điều quy định từ Điều
84 đến Điều 94, Mục 3 “Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ” gồm 11
điều từ Điều 96 đến Điều 106. Về nội dung, Luật đã sửa đổi, bổ sung một số
46
quy định liên quan đến thi hành án treo như bổ sung nhiệm vụ của UBND cấp
xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo,
cải tạo không giam giữ, theo đó Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo có nhiệm vụ, quyền hạn lập hồ sơ, tổ chức
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ sơ cho cơ quan thi
hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật này (Điều 86); quy
định chi tiết cụ thể, nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị quân đội được giao giám
sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách (khoản 3
Điều 86). Quy định về trình tự, thủ tục, biện pháp lao động phục vụ tại cộng
đồng đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc
mất việc làm trong thời gian chấp hành án (khoản 5 Điều 101); bổ sung một
số nội dung liên quan đến việc giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay
đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ (Điều 100).
Thứ hai, Quy định người bị án treo có thể được rút hết thời gian thử
thách: Luật thi hành án hình sự năm 2010 chỉ nêu thủ tục rút ngắn thời gian
thử thách của người được hưởng án treo; về điều kiện trình tự thủ tục thời hạn
xem xét quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo được quy định tại
Thông tư liên tịch 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày
14/8/2012 hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách án treo và Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Theo
đó, người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc
Tòa án quân sự cấp khu vực rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ
các điều kiện:
47
- Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;
- Có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp
hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi
làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy
đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án;
- Được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát
giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
bằng văn bản.
- Người được hưởng án treo một năm chỉ được rút ngắn thời gian thử
thách một lần từ một tháng đến một năm. Người được hưởng án treo có
thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm
thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách
Tòa án đã tuyên.
- Điều 89, Điều 90 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã bổ sung
thêm các điều kiện, thủ tục như trên cùng với quy định thêm về việc
nếu thời gian thử thách còn lại không quá 01 tháng thì có thể được rút
ngắn hết thời gian thử thách còn lại (khoản 2 Điều 89).
48
3.2.1.4. Đổi mới hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành
án treo
Các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành án treo cũng cần được
đổi mới và hoàn thiện, bao gồm: Đổi mới và hoàn thiện quan điểm về việc
tính thời gian thử thách của án treo; xem xét rút ngắn thời gian thử thách của
án treo; quy định cụ thể về về cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người thi
hành án treo; quy định xử lý trường hợp phát hiện người được hưởng án treo
phạm tội khác trước thời điểm cho hưởng án treo; giải quyết trong trường hợp
người đang thi hành án treo chết.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án treo
Thứ nhất, khó khăn trong việc quản lý, giám sát, giáo dục của Uỷ ban
nhân dân cấp xã đối với những bị án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát, giáo
dục người phải thi hành án treo tại cấp xã theo quy định của pháp luật về thi
hành án hình sự nói chung cũng như về pháp luật về thi hành án treo nói riêng
quy định các tổ chức, cá nhân nêu trên chỉ có thẩm quyền yêu cầu người chấp
hành án treo không được thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cũng như việc
chấp hành các quy định khi đang trong thời gian thử thách theo quy định của
pháp luật về thi hành án treo, nhưng điều quan trọng ở đây chính là khi người
chấp hành án treo bỏ đi khỏi địa phương hoặc vắng mặt tại địa phương thì
việc giáo dục, quản lý này cũng không thể tiến hành.
49
Điều này cho thấy việc quản lý, giám sát, giáo dục của Uỷ ban nhân
dân cấp xã đối với những người đang phải thi hành án treo chỉ trên giấy tờ.
Do đó, cần sửa đổi, quy định bổ sung pháp luật về thi hành án hình sự theo
hướng nếu người đang chấp hành án treo đã bị làm kiểm điểm do vi phạm
các quy định của luật thi hành án hình sự mà vẫn cố tình vi phạm tiếp tục thì
Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát, giáo dục
người phải thi hành án treo đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của BLHS Và Luật thi hành án
hình sự. Cụ thể theo như Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định
trong thời gian thử thách mà người đang chấp hành án treo vi phạm các quy
định và nghĩa vụ từ 2 lần trở lên thì chuyển từ việc thi hành án treo sang án
giam nhằm tạo sức răn đe cho họ cũng như từ đó giáo dục người có ý định
phạm tội.
Thứ hai, Kiểm sát hoạt động thi hành án treo của Viện kiểm sát
Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã
quy định việc kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án và các cơ quan, tổ chức thi
hành án treo kiểm tra việc thi hành án, quy định nêu trên cho thấy trong công
tác kiểm sát thi hành án treo,Viện kiểm sát tham gia kiểm sát từ giai đoạn ban
hành quyết định thi hành án, quá trình thi hành án cho đến giai đoạn cấp giấy
chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách. Tuy nhiên Viện kiểm sát
không nhận được Giấy chứng nhận sau khi bị án chấp hành xong thời gian thử
thách, từ đó cần sớm ban hành quy định hướng dẫn của Bộ luật hình sự về thi
hành án treo, đặc biệt là điều kiện chấp hành hình phạt tù khi người cho
hưởng án treo không thực hiện đúng quy định của pháp luật.
50
3.2.3. Tăng cường năng lực của các chủ thể thi hành án treo
Ủy ban nhân dân tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện, ủy ban nhân dân cấp
xã cần tăng cường quản lý trong lĩnh vực thi hành án treo cần thực hiện tốt
các giải pháp chủ yếu như sau:
Tập huấn pháp luật về thi hành án treo để áp dụng đúng pháp luật thì
phải hiểu rõ pháp luật không chỉ đọc hiểu câu chữ mà phải hiểu tinh thần của
pháp luật, nguyên nhân, quá trình phát triển của điều luật để áp dụng đúng. Vì
thế, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng nên kết hợp với Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Lâm Đồng, Công an tỉnh Lâm Đồng cần tổ chức các lớp tập huấn, các
buổi tọa đàm trao đổi nghiệp vụ nhằm nâng trình độ chuyên môn cho cá nhân
tổ chức được giao giám sát giáo dục người phải thi hành án treo tại điạ
phương. Bởi lẽ, việc giám sát của người được giao quản lý giáo dục người
phải thi hành án treo phải đảm bảo nguyên tắc của Luật Thi hành án hình sự
phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ chuyên môn của họ. Ngược lại, nếu trình độ
chuyên môn của họ kém cỏi sẽ không thể quản lý, giám sát, giáo dục người
phải thi hành án treo trên thực tế đồng thời sẽ giảm hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương.
Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án treo.
Hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật có ý nghĩa quan trọng, qua
hoạt động này cho thấy bức tranh toàn cảnh của tình hình chấp hành án treo
trên địa bàn về số lượng người đang chấp hành án treo, về nhân thân của họ,
độ tuổi, trình độ và hoàn cảnh của người chấp hành án treo. Quá trình tổng kết
này có ý nghĩa trong công tác phòng ngừa tội phạm vì nó chỉ ra các nguyên
51
nhân, động cơ của người phạm tội để có phương án đấu tranh thích hợp về
mặt xã hội, kinh tế và chính trị.
Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật
cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống hoặc kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao
ban hành các hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác thi hành
án hình sự.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền về thi hành án treo
Tác giả đưa ra các giải pháp chủ yếu trong công tác tuyên truyền cụ thể
là:
- Trực tiếp từ công chức tư pháp xã, hòa giải viên ở cơ sở trực tiếp thực
hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật của xã, toàn thể ban ngành như Hội
phụ nữ, Hội nông dân, Mặt trận tổ quốc.. mở các đợt tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, tư vấn trực tiếp cho người hưởng án treo được nắm rõ quyền và
nghĩa vụ của họ. Để phản ánh kết quả công tác thi hành án treo cần áp dụng
đa dạng các hình thức tuyên truyền để cung cấp đầy đủ thông tin liên quan
đến công tác thi hành án treo góp phần nâng cao chất lượng công tác thi hành
án hình sự tại UBND xã.
- Nhà nước cần mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân
tham gia đông đảo vào việc đóng góp ý kiến xây dựng các dự luật quan trọng
như dự thảo Bộ luật thi hành án.
3.2.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả thi hành án
treo
52
Để đảm bảo các bản án do Tòa án tuyên được thi hành nghiêm chỉnh,
đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân phải tăng cường
kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý mọi vi phạm pháp luật thi hành án: Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp cần tăng cường công tác kiểm sát đảm bảo việc
chấp hành pháp luật của Tòa án nhân dân hai cấp,của các cơ quan,tổ chức
giám sát,giáo dục người bị kết án trên địa bàn toàn tỉnh, tập trung kiểm sát các
địa phương có số lượng người bị kết án lớn.Tập hợp các dạng vi phạm phổ
biến, kiến nghị chung đến Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh có biện pháp chỉ đạo
dứt điểm, khắc phục kịp thời các vi phạm trong công tác này.
3.2.6. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể thi hành án
treo và các đối tượng phải thi hành án treo
Mối quan hệ phối hợp trong công tác thi hành án treo cần phải đáp ứng
được những yếu tố là:
Quan hệ phối hợp giữa Tòa án nhân dân tỉnh và huyện, thị xã, thành
phố với xã phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức khác trong việc giao nhận
bản án, quyết định thi hành án, việc xem xét, theo dõi kết quả thi hành án, đề
nghị lập hồ sơ rút ngắn thời gian thử thách hay giảm thời hạn chấp hành án.
53
Tiểu kết Chương 3.
Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng số lượng các bị cáo được cho
hưởng án treo có chiều hướng gia tăng và trở thành gánh nặng cho lực lượng
tổ chức thi hành pháp luật. Để thực hiện có hiệu quả đối với việc thi hành án
treo tại điạ phương tác giả đã mạnh dạn đưa ra các nhóm giải pháp trên nhằm
đẩy mạnh việc thực hiện tốt hơn nữa về công tác thi hành án treo tại đại bàn
tỉnh Lâm Đồng nói riêng cũng như trên cả nước nói chung để cơ bản khắc
phục những yếu tố còn thiếu sót trong công tác thi hành án treo.
Qua các nhóm giải pháp mà tác giả đưa ra nêu trên thì cần có sự phối
hợp, chung tay của các cơ quan, ban ngành hữu quan để thực sự làm tốt công
tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
54
KẾT LUẬN
Thực tiễn trong công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
trong thời gian qua đã cho thấy đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn còn
nhiều thiếu sót trong công tác thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ của UBND xã trên địa bàn. Bên cạnh đó vẫn còn một số cơ quan,
ban ngành có tư tưởng “coi nhẹ” lĩnh vực thi hành án treo. Dẫn đến không
chú trọng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, hoặc chỉ thực hiện mang tính
chất đối phó, hình thức, kém hiệu quả, chưa góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác thi hành án treo để thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương. Bản
thân người được phân công thực hiện nhiệm vụ thi hành án treo chưa chủ
động nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ, nhận thức cũng như tích lũy
kinh nghiệm. Hơn nữa do UBND các xã chưa quan tâm đúng mức đến công
tác thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, chưa thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định. Công tác giám sát, giáo dục người
chấp hành án treo chưa mang lại hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng công tác
thi hành án treo. Từ thực tiễn nêu trên đòi hỏi phải có giải pháp cụ thể để nâng
cao chất lượng công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Từ nhận thức nêu trên tác giả mạnh dạn nêu trong luận văn đưa ra một
số giải pháp như việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về án treo như:
Đổi mới quan điểm về án treo; Tăng cường năng lực của các chủ thể thi hành
án treo; Nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của thi hành án treo; Tăng
cường mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể thi hành án treo và đối tượng
phi thi hành án treo;
55
Việc áp dụng một số nội dung giải pháp nêu trên về công tác thi hành
án treo tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua đã mang lại nhiều kết quả thực
tế, chứng minh các giải pháp cần phải tiếp tục được áp dụng và thực hiện
xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác thi hành án treo.
Việc tiếp tục áp dụng các giải pháp trong công tác thi hành án treo
trong những năm tới sẽ góp phần quan trọng trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ
của điạ phương.
56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phúc Ân (2018) “Lâm Đồng khởi tố 652 vụ án hình sự về trật tự xã
hội”, Báo Pháp luật Việt Nam, khoi-to-652-vu-an-hinh-su-ve-trat-tu-xa-hoi-427987.html>, (7/12/2018). 2. Bộ Chính trị (2010) Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 28/7/2010, Hà Nội. 3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội. 4. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2009) Giáo trình tư pháp Hình sự, Bộ môn Tư pháp Hình sự - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội; 5. Học viện tư pháp (2009) Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 6. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2013) Nghị Quyết số Số 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo, ban hành ngày 06 tháng 11 năm 2013, Hà Nội. 7. Lê Văn Luật (2007) Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 8. Hoàng Phê (chủ biên) (1994) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Lại Viết Quang (2019) “Án treo và những vấn đề đặt ra trong áp dụng và thi hành án treo hiện nay”, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội, chuyên đề số 1 (5-2019). 10. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, (phần chung), Nxb Thành phố Hồ ChíMinh. 11. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội. 12. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội. 13. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội. 14. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Hà Nội. 15. Quốc hội (2010) Luật thi hành án hình sự 2010, Hà Nội. 16. Quốc hội (2019) Luật thi hành án hình sự 2019, Hà Nội. 17. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Hà Nội. 18. Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2018) Báo cáo tổng kết công tác ngành TAND tỉnh Lâm Đồng từ năm 2014 đến năm 2018, Lâm Đồng. 19. Trung tâm từ điển học (2007) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 20. Trường đại học luật Hà Nội (2000) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội. 21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004) Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 22. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb từ điển bách khoa.