HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỐC CƯỜNG

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2020

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỐC CƯỜNG

THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ

Mã số: 8 38 01 04

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Minh Chất

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Quốc Cường

MỤC LỤC

Mở đầu Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ Trang 1 8

DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

1.1. Nhận thức về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự 8

1.2. Khái niệm, vai trò, đặc điểm, quy trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong 17

bản án, quyết định hình sự

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 29

quyết định hình sự

Chương 2 THỰC TRANG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG 38

BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

2.1. Tình hình có liên quan đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 38

quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

2.2. Thực trạng tổ chức thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết 45

định hình sự trên địa bàn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh

2.3. Nhận xét, đánh giá 59

Chương 3 DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI 69

HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT

ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH

BẮC NINH

3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản 69

án, quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 72

quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ

89

KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

CHV: Chấp hành viên

NVDS: Nghĩa vụ dân sự

THADS: Thi hành án dân sự

THNVDS: Thi hành nghĩa vụ dân sự

TTHS: Tố tụng hình sự

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng Tên bảng

Bảng 2.1: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án của Chi cục thi

hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự của Chi cục thi hành án dân sự

huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019

Bảng 2.3: Thống kế số bản án, quyết định hình sự đã tiếp nhận của Chi

cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015 - 2019

Bảng 2.4: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án thuộc nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi

hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019

Bảng 2.5: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ

giai đoạn 2015-2019

Bảng 2.6: Kết quả phối hợp với Trại giam trong thi hành thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi hành

án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019

Bảng 2.7: Tổ chức, biên chế của Chi cục thi hành án dân sự huyện

Quế Võ giai đến hết tháng 12/2019

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân đòi hỏi Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật

và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy

quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để khẳng định yêu cầu này, Điều 106

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:

"Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ

quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải

nghiêm chỉnh chấp hành" [31]. Vấn đề cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng

và hoạt động của các cơ quan Tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ

quan và cán bộ Tư pháp, trong đó có cơ quan THADS được coi là một trong

những nội dung quan trọng trong cải cách thể chế và phương thức hoạt động

của Nhà nước.

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là một nội

dung quan trọng của THADS. Hoạt động này mang tính quyền lực nhà nước

nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.

Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản

và thi hành các quyết định dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị

kết án. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án

hình sự, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự có mối quan hệ hữu cơ

với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự không đạt được thì hoạt động của

các cơ quan tiến hành tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở

nên vô nghĩa.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của THNVDS trong bản án, quyết định

hình sự, trong những năm vừa qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc

Ninh đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp với các lực lượng tổ

chức THNVDS trong bản án, quyết định hình sự và đã đạt được những kết

quả quan trọng, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của công tác thi hành

2

án dân sự trên địa bàn huyện nói chung; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo

dài đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số việc thi hành án có ảnh hưởng

đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương cũng đã

được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo và tổ chức thi hành hiệu quả.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh

Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu

của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Số lượng việc,

đặc biệt là lượng tiền tồn đọng qua các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định

về hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tổ chức thi hành dứt

điểm. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan

như: Về chủ quan: Một số CHV, cán bộ làm công tác thi hành án còn hạn chế

về chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa tận tụy với

công việc. Về khách quan: Ý thức chấp hành pháp luật của người dân trên địa

bàn huyện còn chưa cao; nhiều vụ việc người phải thi hành án cố tình chây ỳ,

trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ thi hành án; một số cấp ủy, chính quyền

địa phương chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc phối hợp

giải quyết việc THADS theo quy định của pháp luật; công tác phối hợp thi

hành án của một số cơ quan hữu quan theo qui định của pháp luật còn chưa

chặt chẽ và đồng bộ; cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật THADS chưa được

hoàn thiện, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về THADS chưa đầy đủ,

chưa được sửa đổi, bổ sung đồng bộ; cơ chế áp dụng pháp luật thi hành án hiện

nay chưa thực sự hợp lý, làm giảm hiệụ quả của công tác THADS. Thực tế đó,

đòi hỏi cần phải có những giải pháp tổng thể khắc phục những hạn chế nêu trên

nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự của Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đảm bảo cho các bản án, quyết định

của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.

Xuất phát từ lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn huyện Quế Võ, tỉnh

Bắc Ninh" để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học.

3

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự trên các sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án

nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học

v.v...). Tuy nhiên, các công trình, bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung

mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập

đang tồn tại trong thực tiễn.

Trong các giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học, Học viện cũng chỉ

đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản về vấn đề này ở các công trình sau:

- GS.TSKH Lê Cảm: "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố

tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004 [10];

- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân

sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010 [16];

- Yến Minh: "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất

cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ

Tư pháp ngày 13/08/2013 [25].

- Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận

văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001 [43];

- Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân

sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, 2003 [41];

- Kim Sơn Trúc: "Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực

tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học

Quốc gia Hà Nội 2015 [39].

- Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang: "Hoàn thiện cơ chế xác

định điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp

chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 1 (2018) [42].

- Tống Duy Lượng, "Những vấn đề đặt ra trong công tác thi hành án

dân sự, kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 23 năm 2018 [24].

- Đoàn Thị Phượng, "Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và

4

bài học kinh nghiệm”, Tạp chí dân chủ, pháp luật số 3 năm 2019 [27].

Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng chưa có công

trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống

về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án và các giải pháp

nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án dưới

cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Bổ sung góp phần hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời

gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết

các nhiệm vụ sau:

- Phân tích, làm rõ lý luận THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

của cơ quan thi hành án dân sự.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nêu ra ưu điểm kết quả đã đạt

được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiết sót và nguyên nhân của hạn chế,

thiếu sót trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện

Quế Võ, tỉnh bắc Ninh.

- Dự báo tình hình có liên quan và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu

quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ,

tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh

5

Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu, khảo sát hoạt động thi

hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản

án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Về chủ thể: Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Về thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2019.

- Về không gian: huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác

- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, chính sách THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

của tòa án và các Nghị quyết và Chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của

Nhà nước về pháp luật hình sự và pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự của tòa án.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp nghiên cứu

cụ thể sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả luận văn đã nghiên cứu, phân

tích, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình khoa học của

các nhà khoa học nghiên cứu về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

của tòa án. Kết quả nghiên cứu tài liệu được tác giả trình bày ở phần nhận thức

chung về hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án;

- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Từ các báo cáo tổng kết công

tác năm của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm

2015 đến hết năm 2019, học viên đã thống kê, phân tích các số liệu có liên

quan đến tình hình, đặc điểm các bản án và quyết định hình sự của Tòa án và

kết quả thi hành bản án và quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh

6

Bắc Ninh. Kết quả phân tích, thống kê số liệu đã được tác giả sử dụng để làm

rõ những nội dung về thực trạng hành bản án và quyết định hình sự trên địa

bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ở Chương 2.

- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ những báo cáo kết quả THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để

so sánh, phân tích, đánh giá các kết quả đã đạt được trong công tác này.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Trên cơ sở khảo sát thực trạng

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh

Bắc Ninh làm rõ, tác giả đã lựa chọn, nghiên cứu những vụ việc điển hình để

đưa vào làm ví dụ minh chứng trong luận văn. Qua nghiên cứu, làm rõ tình

hình, đặc điểm và chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến những hạn

chế trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế

Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Đề tài nghiên cứu, tổng kết thực tiễn

các mặt hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, phân tích, đánh giá và đưa ra những

nhận xét về những kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân của

hạn chế, thiếu sót để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp trao đổi với các nhà khoa học, các

đồng chí lãnh đạo, cán bộ chấp hành viên có kinh nghiệm trong THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh;

tiến hành xin ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ

thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các nội dung trong luận văn để tác giả tiếp thu,

chỉnh sửa và hoàn thiện luận văn.

6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học

Bổ sung, hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự. Những giải pháp là cơ sở cho việc nghiên cứu, tổng kết trong lực lượng thi

hành án nói chung, là tài liệu nghiên cứu học tập, tham khảo trong các cơ sở

7

đào tạo tư pháp nói riêng. Những kết quả nghiên cứu của luận văn đã đạt được

sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về khoa học luật tố tụng hình sự, là

tài liệu tham khảo hữu ích cho những cán bộ nghiên cứu về khoa học luật tố

tụng hình sự và khoa học tư pháp.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Xác định những nguyên nhân hạn chế, thiếu sót và đưa ra các giải góp phần

nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, nội dung kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và

phần phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 03 chương:

Chương 1: Nhận thức về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự.

Chương 2: Tình hình liên quan và thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ

TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

1.1. NHẬN THỨC VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN,

QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

Bản án, quyết định hình sự là quyết định bằng văn bản của Tòa án nhân

danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử một vụ án hình sự cụ

thể. Trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án các NVDS phát sinh từ

quyết định hình phạt tiền; quyết định tịch thu tài sản; quyết định truy thu tiền,

tài sản thu lời bất chính; quyết định về án phí quyết định trả lại tài sản, sửa

chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, cấp dưỡng (gọi chung là

các quyết định dân sự trong bản án). Do vậy, để làm rõ NVDS trong bản án,

quyết định hình sự, trước tiên cần làm rõ về hình phạt tiền, tịch thu tài sản và

các quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự:

1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền và tịch thu tài sản

1.1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền

- Khái niệm:

Theo Điều 30 BLHS, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định: “Hình phạt

là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong

Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân

thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người ,

pháp nhân thương mại đó” [36].

Mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ trở

thành người có ích cho xã hội đồng thời còn nhằm mục đích đấu tranh phòng

ngừa và chống tội phạm.

Mặc dù được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, song vẫn chưa

có một khái niệm pháp lý chính thức nào về hình phạt tiền trong các văn bản

pháp luật hình sự và cho đến nay hình phạt tiền mới chỉ được ghi nhận trong

9

các giáo trình, sách báo pháp lý chuyên ngành. Có thể kể đến một số quan

điểm sau:

- Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc

hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa

án quyết định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án

buộc phải trả một số tiền tùy theo mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây

ra, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến

động của giá cả.

- Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo

không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một

khoản tiền nhất định.

- Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất

định sung công quỹ nhà nước.

Các khái niệm trên mặc dù đã cố gắng chỉ ra các dấu hiệu pháp lý đặc

trưng của hình phạt tiền nhưng còn dài dòng, chưa phù hợp với một khái niệm

mang tính chất pháp lý. Khái niệm "Phạt tiền là hình phạt tước của người

phạm tội một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước" sử dụng thuật

ngữ pháp lý "người phạm tội" để chỉ đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền là

chưa hợp lý vì chỉ những người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tiền

mới bị tước một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Do vậy, sẽ là

chính xác hơn nếu sử dụng thuật ngữ "người bị kết án" thay cho thuật ngữ

"người phạm tội".

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Phạt tiền là hình phạt được qui định

trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhằm tước đi của người bị kết án một khoản

tiền nhất định sung công quỹ nhà nước.

- Căn cứ áp dụng hình phạt tiền:

Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, hình phạt tiền có thể được áp dụng

là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Trong tổng số 318 Điều luật qui

định về tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung

10

2017, số điều luật qui định hình phạt tiền là hình phạt chính có 114/318 chiếm

tỷ lệ 35,8%.

Tại Khoản 1 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định

các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘1. Hình phạt chính

bao gồm: Phạt tiền” [36]

Khoản 1 Điều 35 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định căn

cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt chính như sau:

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp

sau đây:

a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ

luật này quy định;

b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh

tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội

phạm khác do Bộ luật này qui định.

...

4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy

định tại Điều 77 của Bộ luật này [34].

Điều 77 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định quy định:

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ

sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

2. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ

nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của của

pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng

không được thấp hơn 50.000.000 đồng [36].

Như vậy, phạt tiền được qui định là hình phạt chính cho các nhóm tội

phạm sau:

+ Nhóm tội phạm có tính chất vụ lợi, như: Tội buôn lậu; tội vận chuyển

trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm; tội đầu cơ; tội trốn thuế; tội lừa dối khách hàng...

11

+ Nhóm tội phạm dùng tiền làm phương tiện phạm tội, như: Tội đánh

bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc...

+ Nhóm tội phạm khác: đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp

trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt

chính đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích của hình phạt,

như: Tội gây rối trật tự công cộng; tội hành nghề mê tín dị đoan; tội truyền bá

văn hóa phẩm đồi trụy; tội vi phạm qui chế về khu vực biên giới; tội chứa

chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; tội vi phạm quy

định về xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép...

+ Pháp nhân thương mại phạm tội.

Ngoài ra để quyết định áp dụng phạt tiền là hình phạt chính thì phải

căn cứ theo qui định chung tại Điều 50 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017:

1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào qui định của Bộ luật

này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành

vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và

tăng nặng trách nhiệm hình sự

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại

khoản 1 Điều này, Toà án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi

hành của người phạm tội [36].

Một điều kiện không thể bỏ qua khi quyết định áp dụng phạt tiền là hình

phạt chính là điều kiện kinh tế của người phạm tội phải có khả năng thực hiện

nộp một khoản tiền nhất định theo hình thức một lần hay nhiều lần trong thời

hạn do Tòa án quyết định.

Phạt tiền còn được áp dụng là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình

phạt Việt Nam. Tại Khoản 2 Điều 35 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017 qui định căn cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung như sau: “2.

Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về

tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này qui đinh” [36].

12

Khoản 2 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các

hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘2. Hình phạt bổ sung bao

gồm: Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính” [36]

Trong tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật qui

định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung có 126/318 chiếm tỷ lệ 39,6%. Phạt

tiền được qui định là hình phạt bổ sung cho các nhóm tội phạm sau:

+ Nhóm tội phạm về tham nhũng, như: Tội tham ô; tội nhận hối lộ; tội lạm

dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn

trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ...

+ Nhóm tội phạm về ma túy, như: Tội trồng cây thuốc phiện, cây cooca,

cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tội sản xuất trái phép

chất ma túy; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất

ma túy...

+ Nhóm tội phạm khác: Đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp

trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ

sung đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích trừng trị người

phạm tội và mục đích phòng chống tội phạm, như: tội mua bán người; tội mua

bán người dưới 16 tuổi; tội đánh tráo người dưới 01 tuổi; tội chiếm đoạt người

dưới 16 tuổi; tội vu khống và một số tội phạm về xâm phạm sở hữu...

+ Pháp nhân thương mại phạm tội.

Để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Tòa án còn căn cứ vào qui

định chung tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điểm khác biệt so với trường hợp áp dụng phạt tiền là hình phạt chính

thì khi áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung, điều kiện kinh tế của người

phạm tội không phải là điều kiện bắt buộc để áp dụng.

1.1.1.2. Khái niệm hình phạt tịch thu tài sản và căn cứ áp dụng hình

phạt tịch thu tài sản

- Khái niệm:

Theo quy định tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

13

“Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của

người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước” [36].

Tịch thu tài sản là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc về mặt kinh

tế. So sánh với các hình phạt chính không tước quyền tự do và cả với một

số hình phạt bổ sung khác thì hình phạt tịch thu tài sản còn nghiêm khắc

hơn rất nhiều.

Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể hiện ở chỗ người bị kết án có

thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của họ để nộp vào

ngân sách Nhà nước, nhằm mục đích triệt để thu hồi các tài sản của người bị

kết án do thu lợi bất chính mà có, đồng thời triệt tiêu cơ sở kinh tế của họ

nhằm ngăn ngừa họ có thể sử dụng các tài sản đó vào hoạt động phạm tội, gây

nguy hại cho xã hội, thông qua đó giáo dục người bị kết án ý thức tôn trọng

pháp luật, không phạm tội mới và răn đe những người có nguy cơ phạm tội

trong xã hội, thực hiện phòng ngừa chung trong xã hội. Như vậy, chức năng

cơ bản của loại hình phạt này là chức năng phòng ngừa tội phạm.

- Căn cứ áp dụng hình phạt tịch thu tài sản:

Theo qui định tại điểm đ Khoản 2 Điều 32 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017 thì tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung nên chỉ được áp dụng

cùng các hình phạt chính chứ không được áp dụng một cách độc lập. Trong

tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật có qui định

hình phạt tịch thu tài sản là 47/318 chiếm tỷ lệ 14,7%.

Tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi , bổ sung năm 2017 qui định điều

kiện áp dụng hình phạt tịch thu tài sản như sau:

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội

phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma

tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này qui định. Khi

tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ

có điều kiện sinh sống [36].

14

Như vậy, với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng không bị áp dụng

hình phạt tịch thu tài sản. Ngoài ra, để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta

thì trong trường hợp người bị kết án bị tịch thu toàn bộ tài sản, các cơ quan tố

tụng trong quá trình thực hiện vẫn phải để cho người bị kết án và gia đình họ

có điều kiện sinh sống.

Các tội có thể bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản là các tội thuộc nhóm

tội xâm phạm an ninh quốc gia theo như qui định của Điều 122 BLHS năm

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế; các tội về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công

cộng, trật tự công cộng; các tội về chức vụ.

Tài sản bị tịch thu phải thuộc sở hữu của người bị kết án hoặc tài sản do

người phạm tội có được do thu lời bất chính.

1.1.2. Khái niệm, căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,

quyết định hình sự

1.1.2.1. Khái niệm

Trong các bản án hình sự của Tòa án, bên cạnh các quyết định về hình

phạt tù, hình phạt tiền, tịch thu tài sản còn có các quyết định dân sự khác.

Quyết định dân sự trong các bản án hình sự như quyết định về án phí; các

quyết định dân sự thuộc phần các biện pháp tư pháp qui định trong chương

VII của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như: quyết định tịch

thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47); quyết định trả lại

tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; quyết định buộc công khai xin

lỗi (Điều 48).

Như vậy có thể hiểu: Quyết định dân sự trong bản án hình sự là các

phán quyết pháp lý mang tính quyền lực do Tòa án có thẩm quyền ban hành

nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức

hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm

pháp luật.

1.1.2.2. Căn cứ áp dụng

15

Cơ sở pháp lý để thực hiện vấn đề này là Bộ luật TTHS. Điều 30 Bộ luật

TTHS năm 2015 quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như

sau: Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng

với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết

vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh

hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để

giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Các hoạt động của cơ quan Nhà nước nói chung và của các cơ quan tiến

hành tố tụng nói riêng đều cần một khoản chi phí nhất định. Chính vì vậy,

Nhà nước buộc người bị kết án phải chịu một khoản chi phí là án phí để bù

đắp các chi phí tiến hành TTHS.

Người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm nếu có lỗi và làm

phát sinh các thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng và danh dự, nhân phẩm

của người khác nên ngoài trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm về

dân sự. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh, giải quyết trách nhiệm

hình sự cũng phải chứng minh, giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh do

hành vi phạm tội và đó là các căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,

quyết định hình sự như quyết định: trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường

thiệt hại, công khai xin lỗi.

1.1.3. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Hình phạt phạt tiền và tịch thu tài sản dù với vai trò là hình phạt chính

hoặc bổ sung do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định hình sự thì đều

dẫn đến một hậu quả là tước bỏ của người bị kết án một phần hoặc toàn bộ tài

sản, tiền nên về bản chất dưới góc độ pháp luật dân sự thì đó lại là các nghĩa

vụ dân sự phát sinh từ các quyết định hình sự trong bản án, quyết định hình sự

và ngoài ra còn nhiều nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định dân sự khác

mà tòa án quyết định buộc người bị kết án phải chịu.

Các quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự

như trên sau khi được Tòa án quyết định áp dụng thì phát sinh các nghĩa vụ

16

dân sự trong bản án, quyết định hình sự mà người bị kết án phải thi hành.

Do đó, có thể đưa ra khái niệm nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự như sau:

Nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là các nghĩa vụ phát

sinh từ các quyết định về hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và các

quyết định dân sự khác do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định hình sự

đối với người bị kết án và người bị kết án phải chấp hành.

Các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định về hình phạt tiền, tịch

thu tài sản, quyết định án phí trong bản án, quyết định hình sự là các hình phạt

thể hiện tính tuyệt đối quyền lực Nhà nước, người bị kết án sẽ bị Tòa án quyết

định áp dụng mà không có bất cứ sự thỏa thuận nào trong quá trình tố tụng.

Sau khi các quyết định này có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án phải thi

hành và người được thi hành là Nhà nước, tiền và tài sản thu được sẽ sung

quỹ Nhà nước.

Các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định về trả lại tài sản, sửa

chữa hoặc bồi thường thiệt hại, công khai xin lỗi tuy mang tính quyền lực Nhà

nước nhưng không phải tuyệt đối vì trong quá trình tố tụng các cơ quan tố

tụng có thể cho các bên thỏa thuận giải quyết trừ các trường hợp thiệt hại vật

chất là yếu tố thuộc cấu thành của tội phạm. Đến giai đoạn thi hành các nghĩa

vụ này các bên vẫn tiếp tục có quyền thỏa thuận thi hành cho dù không được

thỏa thuận ở giai đoạn tố tụng.

1.2. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, QUY TRÌNH THI HÀNH

NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

1.2.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự

1.2.1.1. Khái niệm thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự

Để làm sáng tỏ khái niệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

của tòa án, trước hết cần làm rõ khái niệm thi hành án.

17

Theo từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, "Thi hành" là "đem

cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [1]. Theo Đại Từ điển

tiếng Việt, thi hành là "thực hiện điều đã chính thức quyết định" [45]. Như

vậy, thi hành bản án và quyết định hình sự có thể được hiểu là đem bản án và

quyết định hình sự của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế

cho có hiệu quả. Bản án, quyết định hình sự của Tòa án được hiểu là văn bản

pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các

vấn đề trong vụ án hình sự.

Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án nói

chung trong đó có khái niệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của

tòa án, còn có nhiều ý kiến khác nhau.

Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư và ThS. Nguyễn Công Bình

cho rằng: “thi hành án là một giai đoạn tố tụng”.

Quan điểm thứ hai của PGS.TS Võ Khánh Vinh và TS. Đinh Trung

Tụng cho rằng “thi hành án là một giai đoạn mang tính hành chính - tư

pháp”. Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng.

Các quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý và đều dựa trên những luận

cứ khoa học nhất định nhưng về vấn đề này tác giả thấy quan điểm thứ hai

hợp lý hơn, bởi những lý do sau đây:

Thứ nhất, cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định của

Tòa án, các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chỉ yếu là cơ quan tư

pháp (theo nghĩa rộng).

Thứ hai, thi hành án có mối quan hệ mật thiết và đan xen với các giai

đoạn tố tụng hình sự trước đó. Tuy nhiên, thi hành án lại mang tính độc lập

tương đối, bởi đây là hoạt động mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất

cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.

Các cơ quan, tổ chức và các công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình

có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để việc thi hành án được tiến

hành hiệu quả.

18

Thứ ba, thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ

mật thiết với nhau. Nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một

cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể sẽ được nhân dân ủng hộ,

đồng tình thì việc thi hành sẽ được thực hiện thuận lợi, nhanh chóng và

hiệu quả. Việc thi hành án được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả sẽ tác

động tích cực đối với các hoạt động tố tụng được tiến hành trước đó như

hoạt động xét xử của Tòa án, giúp củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan

xét xử. Ngược lại, nếu một bản án, quyết định của Tòa án tuyên không

khách quan, toàn diện, thiếu công bằng và tính khả thi thì việc tổ chức thi

hành án sẽ bị cản trở, gặp nhiều khó khăn thậm trí bế tắc kéo dài, làm giảm

lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước.

Thứ tư, bản chất của hoạt động thi hành án là hoạt động chấp hành

phán quyết của Tòa án với các hình thức, biện pháp khác nhau nhằm buộc

người có nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện nghĩa

vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là đảm bảo cho các phán

quyết ghi trong bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trong thực

tiễn chứ không phải là ra văn bản pháp luật hay quyết định có tính chất

điều hành – nét đặc trưng của hoạt động hành chính.

Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau:

Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ

quan Nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do

pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết

định khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm

bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân,

tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Thi hành án đối với bản án, quyết định hình sự của Tòa án gồm hai phần:

Phần thứ nhất là thi hành án hình sự được quy định tại Luật thi hành án

hình sự năm 2019 (gồm: Thi hành án phạt tù; Thi hành án tử hình; Thi hành

án treo; Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ; Thi hành án phạt cấm cư

19

trú; Thi hành án phạt quản chế; Thi hành án phạt trục xuất; Thi hành án phạt

tước một số quyền công dân; Thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc

chữa bệnh; Thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Thi

hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng).

Phần thứ hai là THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Toà án là một

trong những nội dung quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Theo

quy định tại Điều 1, khoản 1 Điều 2 và Mục 1 Chương V, Luật THADS năm

2008 sủa đổi bổ sung năm 2014 thì những vụ việc phải thi hành án trong bản

án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan Thi hành án dân sự

bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất

chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và phần quyết định dân sự trong bản

án, quyết định hình sự gồm các việc như thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi

thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh sự, nhân phẩm; bồi thường

thiệt hại về tài sản…

Điều này có nghĩa các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật mới được đem thi hành theo qui định tại Điều 1, Khoản 1 Điều 2 và

Mục 1 Chương V, Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (trừ một

số trường hợp mặc dù chưa có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn được thi hành ngay

theo qui định tại khoản 2 Điều 2 của Luật THADS năm 2008). Cụ thể:

Thứ nhất, những bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật. Đó là bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án,

quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái

thẩm của Tòa án.

Thứ hai, những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật

nhưng được thi hành ngay. Đó là bản án, quyết định hình sự của Tòa án cấp

sơ thẩm về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất

20

tinh thần của công dân; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Theo qui định, những bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu

lực pháp luật được đưa ra thi hành phải được thực hiện qua một trình tự,

thủ tục, tổ chức thi hành theo quy định của Luật thi hành án dân sự và các

văn bản hướng dẫn thi hành. Đó là việc Thủ trưởng cơ quan thi hành án

dân sự nơi tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án trong thời hạn năm ngày làm

việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định (chủ động ra quyết định thi

hành án đối với quyết định về: hình phạt tiền; tịch thu tài sản; tịch thu vật,

tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính;

nộp án phí) hoặc nhận được đơn yêu cầu thi hành án của người được thi

hành án (ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án đối với

quyết định về: công khai xin lỗi; sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; hoàn

trả tài sản; cấp dưỡng; bồi thường thiệt hại và tính mạng, sức khoẻ; bồi

thường thiệt hại về tài sản) theo qui định tại Điều 36 Luật thi hành án dân

sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động

hành chính - tư pháp của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên tiến

hành theo trình tự thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án của Tòa án

được thực hiện trên thực tế, buộc người bị kết án phải thực hiện quyết định về

hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác (bằng

tài sản hay phi tài sản) nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

1.2.1.2. Vai trò của thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự

- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự giúp củng

cố kết quả xét xử và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án góp phần đảm

bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là giai đoạn

21

tiếp theo của quá trình xử lý các vụ án hình sự, nhằm thi hành bản án, quyết

định của Tòa án. Do vậy, việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trong thực tiễn và góp phần

củng cố kết quả xét xử và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những phán

quyết mà Tòa án đưa ra thuộc NVDS trong các bản án, quyết định hình sự là

sự thể hiện ý chí của Nhà nước trong giải quyết các vụ án hình sự. Vì vậy, khi

bản án được thi hành là đảm bảo hiệu lực pháp luật, hiệu lực pháp lý của Nhà

nước, củng cố kết quả xét xử của Tòa án nhân dân các cấp góp phần đảm bảo

pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, có thể thấy tính chất đa dạng, phức tạp của các vụ án hình

sự, trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, trình độ,

năng lực của một bộ phận cán bộ chưa cao. Do vậy, có thể dẫn tời những sai

xót trong quá trình xét xử. Vì vậy, quá trình THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm thực tiễn những phán quyết của

Tòa án, phản ánh trung thực nhất chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình

giải quyết vụ án. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án nhân dân tối cao

tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm đưa ra phương hướng xét xử chung, thống

nhất trong toàn ngành.

- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự giúp răn

đe, phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật góp phần quan trọng trong

công tác bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động

mang tính quyền lực, cưỡng chế và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc thực thi có hiệu quả

NVDS trong bản án, quyết định hình sự sẽ giúp vụ án hình sự được giải quyết

triệt để, tính nghiêm minh của pháp luật được thực thi, các quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân được đảm bảo sẽ có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng

ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, có thể thấy THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự là công cụ quan trọng để Nhà nước duy trì

22

trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, là cơ sở để đảm

bảo công bằng, công lý xã hội, tạo điều kiện để thực hiện mục tiêu phát triển

kinh tế, xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Thông qua hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của cán bộ và người dân.

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự không chỉ là

hoạt động nghiệp vụ của cơ quan THADS, mà đó là trách nhiệm của cấp ủy

Đảng, chính quyền địa phương, các ngành, các cấp, các cơ quan có liên quan

và của cả hệ thống chính trị. Quá trình tiến hành các hoạt động thi hành án sẽ

giúp nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ các cơ quan tham gia phối hợp thi

hành án. Đồng thời, trong quá trình thi hành án, bên cạnh việc tiến hành các

biện pháp thi hành án, cơ quan thi hành án còn tiến hành các hoạt động tuyền

truyền, vận động người phải thi hành án và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, nhờ vậy sẽ nâng cao nhận thức và ý thức

chấp hành pháp luật của các tâng lớp nhân dân.

1.2.1.3. Đặc điểm thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự

Xuất phát từ đặc điểm NVDS trong bản án, quyết định hình sự mà

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cũng có những đặc điểm như sau:

- Thi hành nghĩa vụ trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động hành

chính - tư pháp.

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động

tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng), đó là hoạt động nhằm thi hành NVDS trong

bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời gồm các hoạt động bổ trợ tư pháp.

Điều này thể hiện rõ trong việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của

Tòa án nhằm đảm bảo cho việc xét xử, cũng như đảm bảo cho việc thi hành

án sau này, mặc dù chưa có kết quả xét xử của Tòa án. Cơ sở của hoạt động

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là các bản án, quyết định của Tòa

án được đưa ra thi hành. Mục đích của hoạt động THNVDS trong bản án,

23

quyết định hình sự là đảm bảo cho phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật được thực hiện trong thực tiễn. Và theo quy định của Luật THADS 2008,

sửa đổi bổ sung năm 2014 đã quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát trong

phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân thủ

pháp luật về thi hành án của cơ quan THADS… Như vậy, có thể khẳng định,

hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động tư pháp.

Bản chất của hoạt động thi hành án là hoạt động chấp hành nhưng là

chấp hành phán quyết của Tòa án với các cách thức và biện pháp khác nhau

nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa

án phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

- Hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

mang tính tài sản.

Do bản chất của quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản, chính vì

thế mà quá trình THNVDS trong bản án, quyết định hình sự mang tính tài

sản nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể, tức là khôi phục lại những lợi ích vật chất trước đó của người được

thi hành án. Do đó, trong quá trình tiến hành phải thực hiện theo các trình

tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong Luật THADS và các văn bản pháp

luật có liên quan giống như những thủ tục tố tụng trước đó đều liên quan

đến quyền công dân.

- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt

động mang tính quyền lực Nhà nước.

Hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nhằm đảm bảo

cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trong thực tiễn và cơ

quan THADS được áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp

luật. Các chủ thể tham gia phải tôn trong bản án, quyết định của Tòa án nhân

danh Nhà nước, có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ

của mình để bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản,

quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân. Cơ

24

quan THADS được thực biện các biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy

định của pháp luật để THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự mang tính

định đoạt.

Xuất phát từ quyền định đoạt của các chủ thể trong Luật dân sự, các chủ

thể được phép sử dụng quyền của mình theo nhiều cách thức khác nhau để

bảo vệ lợi ích của mình. Chủ thể có quyền yêu cầu chủ thể khác thực hiện

hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng

lợi ích, ở đây là việc người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thực

hiện thi hành án (thi hành án theo yêu cầu). Quyền lợi của người được thi

hành án chỉ có thể được thực hiện khi cơ quan thi hành án thực hiện một hoặc

nhiều hoạt động tích cực như ra quyết định thi hành án, quyết định kê biên tài

sản…Người được thi hành án trong thời gian do pháp luật quy định có yêu

cầu cơ quan thi hành án buộc người phải thi hành án bảo vệ quyền lợi của

mình theo quyết định có hiệu lực của Tòa án và trách nhiệm của cơ quan thi

hành án là phải đưa ra quyết định thi hành án.

- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự mang tính

thỏa thuận.

Pháp luật công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người được thi hành án

và người phải thi hành án về việc chấp hành phán quyết của Tòa án trong bản

án, nếu sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Chỉ khi

các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về phương thức thi hành án

và người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện mới

bị cưỡng chế thi hành án. Người phải thi hành án có quyền yêu cầu về việc thi

hành án khác với nội dung bản án, quyết định đã tuyên và được người được

thi hành án chấp nhận thì việc thi hành án được thực hiện theo yêu cầu đó.

1.2.2. Quy trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là một nội

25

dung của thi hành án dân sự. Vì vậy, quy trình THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự được thực hiện theo Quy trình thi hành án dân sự, ban hành kèm

theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng 02 năm 2017 của Tổng

cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, theo đó, việc thi hành án dân sự nói

chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực hiện

theo các bước như sau:

- Tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án

Tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án là hoạt động của cơ quan thi hành

án tiến hành các thủ tục tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án của Tòa án.

Việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án do Thẩm tra viên hoặc Thư ký chịu

trách nhiệm chính. Văn thư, công chức phụ trách bộ phận một cửa có trách

nhiệm phối hợp thực hiện.

Khi tiếp nhận trực tiếp (từ bộ phận một cửa), cán bộ tiếp nhận tiến hành

viết Phiếu nhận đơn hoặc hướng dẫn cho người yêu cầu, lập biên bản ghi nhận

yêu cầu thi hành án trong trường hợp người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng

lời nói.

Trường hợp tiếp nhận trực tuyến thì thực hiện những công việc quy định

tại Quy trình hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án. Trường hợp tiếp nhận qua

đường bưu điện thì Văn thư tiếp nhận, vào Sổ công văn đến rồi chuyển ngay

cho Thẩm tra viên hoặc Thư ký được phân công.

Sai khi tiếp nhận, Thẩm tra viên hoặc Thư ký tiến hành vào Sổ nhận yêu

cầu thi hành án, Sổ nhận bản án, quyết định.

- Ra quyết định thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết

định thi hành án và phân công CHV tổ chức thi hành đối với phần nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự đối với các quyết định sau:

+ Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí

Tòa án;

26

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các

khoản thu khác cho Nhà nước;

+ Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết

định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.

Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án khi

có yêu cầu thi hành án nếu không thuộc các trường hợp trên. Thời hạn ra

quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được yêu cầu thi hành án.

- Gửi quyết định về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự

Quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Quyết định cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân

xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi tổ

chức cưỡng chế thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thực

hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.

- Thông báo về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có

liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có

quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung

của văn bản đó.

Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ

ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài

sản, trốn tránh việc thi hành án.

Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức sau đây:

+ Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy

định của pháp luật;

+ Niêm yết công khai;

+ Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

27

- Xác minh điều kiện thi hành án:

+ Trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, CHV phải tiến hành

xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã

áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi

hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu CHV tiến hành xác

minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện

pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.

+ Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án

hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án,

CHV phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng

biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.

Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng

tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến

hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.

- Cưỡng chế thi hành án

+ Hết thời hạn 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được

hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án có

điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng

chế. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ

hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì CHV có quyền áp dụng ngay

các biện pháp cưỡng chế thi hành án.

+ Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06

giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và

các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.

- Thanh toán tiền thi hành án

Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền để

người thi hành án giao nhà là chỗ ở duy nhất có thể thuê nhà trong thời hạn 01

năm, được thanh toán theo thứ tự sau đây:

28

+ Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ

cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính

mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần;

+ Án phí;

+ Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.

Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi

hành án được thực hiện như sau:

+ Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định tại khoản 1

Điều này. Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được

thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được

thi hành án;

+ Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì

thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời

điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những

người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời

điểm thanh toán.

+ Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

+ Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản

mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể

được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí

về thi hành án.

- Kết thúc thi hành án

Việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp sau đây:

+ Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình;

+ Có quyết định đình chỉ thi hành án;

+ Có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.

Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xác nhận kết

quả thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu

29

cầu của đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp giấy xác nhận

kết quả thi hành án.

1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THI HÀNH THI HÀNH

NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

1.3.1. Các văn bản pháp luật quy định về thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự

Khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

qui định:

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp

sau đây:

a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ

luật này quy định;

b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh

tế,môi trường, trật tự công cộng,an toàn công cộng và một số tội

phạm khác do Bộ luật này qui định”.

...

4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy

định tại Điều 77 của Bộ luật này [36].

Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định về tịch

thu tài sản:

Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu

của người bị kết án để nộp vào nhân sách nhà nước.

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội

phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma tuý,

tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này qui định.

Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình

họ có điều kiện sinh sống [36].

Điều 47 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định về tịch thu vật,

30

tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm:

1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu huỷ

được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ

ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái

phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản

lý hợp pháp.

3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong

việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì

có thể bị tịch thu [36].

Điều 48 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định người phạm

tội phải trả lại vật hoặc tiền bạc đã chiếm đoạt được cho chủ sở hữu hoặc

người quản lý hợp pháp.

Theo qui định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 135 của Bộ luật TTHS năm

2015 qui định về chi phí tố tụng như sau:

“1. Chi phí trong tố tụng hình sự gồm án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng.

2. Án phí gồm án phí sơ thẩm, phúc thẩm hình sự, án phí sơ thẩm, phúc

thẩm dân sự trong bản án hình sự” [35].

Điều 28 Bộ luật TTHS năm 2015 qui định về bảo đảm hiệu lực của bản

án, quyết định của Tòa án như sau:

1. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được

cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu

quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

2.Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan,

tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực

hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành

31

bản án, quyết định của Toà án [35].

Điều 30 Bộ luật TTHS năm 2015 qui định một nguyên tắc cơ bản là vấn

đề dân sự được giải quyết đồng thời với trách nhiệm hình sự trong cùng vụ án

hình sự. Theo đó, khi giải quyết vụ án hình sự mà tội phạm xâm hại đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… của cá nhân, tổ chức thì ngoài

việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng hình phạt đối với người phạm

tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt

hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại theo qui định của

pháp luật.

Theo quy định tại Điều 1, khoản 1 Điều 2 và Mục 1 Chương V, luật Thi

hành án dân sự năm 2008 sủa đổi bổ sung năm 2014 thì những vụ việc phải

thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan

Thi hành án dân sự bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài

sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và phần quyết định dân

sự trong bản án, quyết định hình sự gồm các việc như thi hành nghĩa vụ cấp

dưỡng; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh sự, nhân phẩm; bồi

thường thiệt hại về tài sản…

Khoản 1 Điều 36 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui

định về ra quyết định thi hành án cho những quyết định trên của Tòa án:

1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi

hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:

a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;

b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;

c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;

d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ

nhà nước;

đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án,

quyết định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết

32

định thi hành án.

Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao

trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi

hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành [32].

Điều 61 Luật THADS năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 qui định về

điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà

nước (thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành án: án phí, tiền phạt, truy thu,

tịch thu sung công). Điều 66, Điều 71 quy định áp dụng các biện pháp đảm

bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với những trường hợp người bị kết án

có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.

Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án

dân sự [19].

Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-

TANDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án

đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước [7].

Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng 02 năm 2017 của

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự ban hàng Quy trình thi hành

án dân sự [44].

1.3.2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động THADS nói chung, thi hành nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng có vai trò hết sức quan

trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự. Công tác lãnh

đạo, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp được quân tâm thực hiện kịp thời, khoa học

sẽ giúp cho việc thực hiện Quy trình thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo

đảm thi hành án được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, đồng thời không để

xảy ra sai phạm trong quá trình THADS nói chung, thi hành nghĩa vụ dân sự

33

trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Nội dung công tác lãnh đạo, chỉ

đạo thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự gồm:

Lãnh đạo về công tác tổ chức, chính trị, tư tưởng: Đây là việc Lãnh đạo

cơ quan THADS các cấp tiến hành quy hoạch, đào tạo, bỗi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ, sử dụng cán bộ của đơn vị đúng với năng lực, sở trường của

cán bộ; thường xuyên quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Quốc hội, Quy

định của pháp luật, Quyết định của Bộ trưởng, của Tổng cục trưởng về thực

hiện các nhiệm vụ THADS nói chung và THNVDS trong bản án, quyết định

hình sự nói riêng. Kịp thời khen thưởng, động viên những đơn vị, cá nhân

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những

hành động vi phạm pháp luật của cán bộ.

Lãnh đạo, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ: Căn cứ vào nhiệm vụ được

giao về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, lãnh đạo cơ quan THADS

các cấp cần chỉ đạo Thẩm tra viên và Thư ký thực hiện tốt việc tiếp nhận bản

án, quyết định, đảm bảo việc ra quyết định thi hành án được tiến hành đúng

trình tự, thủ tục và thời gian theo quy định. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra,

hướng dẫn, đặc biệt là đối với những vụ việc phức tạp, số tiền phải thi hành

án lớn, người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, khiến vụ việc tồn

đọng quá lâu. Kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của các CHV

để có biện pháp tháo gỡ hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền giải quyết kịp

thời... Bên cạnh đó, cần quan tâm công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm

việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự, để đánh giá

những kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế, khó khăn, vướng mắc và đề xuất biện

pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần bảo đảm an

ninh, trật tự, an toàn xã hội.

1.3.3. Trình độ, năng lực của đội ngũ chấp hành viên và cơ sở vật

chất, trang thiết bị phục vụ thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự

34

Trong quá trình thi hành án nói chung, THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng CHV là chủ thể trực tiếp trong việc tiến hành các biện

pháp, trình tự, thủ tục thi hành án. Trình độ, năng lực, trách nhiệm của CHV

có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả, tiến độ thi hành án nói

Trình độ, năng lực, trách nhiệm của CHV được thể hiện ngay từ việc tiếp nhận bản án, quyết định

được phân công, gửi thông báo, xác minh điều kiện thi hành án. Tiến hành các biện pháp đảm bảo thi hành

án, phối hợp với các cơ quan, các ngành, các cấp có liên quan để thi hành án... giúp việc thi hành án đúng

pháp luật, đảm bảo thi hành án nhanh chóng, hiệu quả, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Việc lựa chọn, phân công CHV thụ lý thi hành án phù hợp với trình độ, năng lực sẽ giúp các CHV

nhanh chóng thi hành án hiệu quả. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm của CHV cũng ảnh hưởng rất lớn đến

hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định dân sự. Do vậy, lãnh đạo cơ quan thi hành án cần lựa chọn, phân

công CHV hợp lý, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra hướng dẫn nhằm nâng cao tình thần trách

nhiệm của CHV, đặc biệt là trong quá trình thi hành các bản án phức tạp, kéo dài, số tiền cần thi hành án lớn

để đảm bảo chất lượng, hiệu quả thi hành án.

Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở, vật chất, trang thiết bị phục vụ được đảm bảo sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho việc phân loại, xác minh điều kiện thi hành án, tiến hành các biện pháp đảm bảo thi hành án

được nhanh chóng, chính xác, giúp cho quá trình THNVDS trong bản án, quyết định dân sự được nhanh

chóng, hiệu quả.

chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.

1.3.4. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thi hành án và các cơ quan có

liên quan trong thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết hình sự của

Tòa án nói riêng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành,

nhiều cấp và phải có sự phối hợp của các cơ quan có liên quan. Trong hoạt động

thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, để

đảm bảo thi hành án hiệu quả, cơ quan thi hành án dân sự các cấp thường tổ

chức mối quan hệ phối hợp với các lực lượng các ngành, các cấp, gồm:

- Phối hợp với chính quyền các cấp

Chính quyền các cấp, đặc biệt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện là cơ

quan chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án

dân sự trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn,

phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa

phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp

35

huyện. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với

Ủy ban nhân dân các cấp để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, đồng thời, phối hợp

với các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể trong tiến hành thi hành án dân sự

nói chung và thi hành án nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói

riêng. Cần tăng cường phối hợp với cấp, các ngành trong tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục về pháp luật thi hành án dân sự; tích cực phối hợp trong cưỡng

chế thi hành án, trong xét, miễn giảm thi hành án.

Đồng thời, phối hợp với chính quyền các cấp để củng cố, xây dựng lực

lượng, tham mưu, đề xuất lãnh đạo chính quyền các cấp quan tâm tạo điều kiện,

tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác, đầu tư cơ sở vật chất, có

chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự.

- Phối hợp với lực lượng Công an nhân dân

Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự nói riêng là hoạt động tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của Nhà

nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong nhiều trường hợp, đương sự không

tự nguyện thực hiện quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, buộc cơ

quan thi hành án phải tiến hành cưỡng chế. Để đảm bảo việc cưỡng chế được

diễn ra thuận lợi, an toàn, hiệu quả, cơ quan thi hành án dân sự cần phải phối

hợp với lực lượng Công an nhân dân các cấp, đặc biệt là lực lượng Công an

cơ sở để tăng cường lực lượng, phương tiện, biện pháp tuyên truyền, vận

động quần chúng nhân dân chấp hành, cũng như đảm bảo an toàn cho lực

lượng tham gia cưỡng chế.

Bên cạnh đó, cơ quan thi hành án tổ chức tốt quan hệ phối hợp với các

Trại Tạm giam, Trại giam nơi người phải thi hành án chấp hành hình phạt tù

để thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của người

phải thi hành án nộp để thi hành án.

- Phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp

Cơ quan thi hành án dân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án

nhân dân các cấp trong cưỡng chế thi hành án; rà soát án tuyên không rõ, có

36

sai sót, khó thi hành; lập hồ sơ xét miễn giảm tiền thi hành án. Đồng thời, cần

chú trong phối hợp với Tòa án các cấp hỗ trợ thi hành án trong quá trình xét

xử các vụ án hình sự, có hình thức, biện pháp động viên các bị cáo nộp tiền

phạt, án phí sau khi tòa tuyên án, giúp cho việc THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự được diễn ra thuận lợi, hiệu quả.

- Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân

Trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò là cơ quan

giám sát hoạt động thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án các cấp cần chủ

động thực hiện quan hệ phối hợp với Viện kiểm sát các cấp để hoạt động thi

hành án dân sự được thực hiện hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Đồng

thời, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề

nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm tiền thi hành án theo quy

định của pháp luật, đảm bảo cho việc thi hành án dân sự được hiệu quả, không

để vụ việc kéo dài, phức tạp.

37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong hoạt động tư pháp, việc đảm bảo hiệu lực các bản án, quyết định của

Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan, là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ

hoạt động thi hành án nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hính sự nói

riêng. Do vậy, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động của cơ

quan Nhà nước để đưa các phán quyết về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự trong các bản án đã có hiệu lực pháp luật được tôn trọng và thực

hiện trên thức tế nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần giữ vững kỷ cương, tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã làm

rõ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền, tịch thu tài sản; quyết định dân sự

trong bản án, quyết định hình sự, trên cơ sở đó phân tích, làm rõ khái niệm, đặc

điểm của NVDS trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án. Từ việc phân tích,

làm rõ khái niệm thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích làm rõ khái niệm, bản

chất của THNVDS trong bản án, quyết định hình sự; Đồng thời, đi sâu phân tích

một số nội dung cơ bản như: Vai trò, đặc điểm, cơ sở pháp lý của THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự; quy trình, biện pháp và quan hệ phối hợp trong

hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

Kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả

đánh giá đúng thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục

Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ở Chương 2 của luận văn.

Chương 2

38

THỰC TRANG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN

ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ,

TỈNH BẮC NINH

2.1. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THI HÀNH

NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Quế Võ

Huyện Quế Võ nằm ở phía Đông tỉnh Bắc Ninh, thuộc vùng đồng bằng

châu thổ sông Hồng, trung tâm huyện lỵ cách trung tâm thành phố Bắc Ninh

10km về phí Bắc, cách thủ đô Hà Nội 40km về phía Tây Nam. Phía Bắc tiếp

giáp với huyện Yên Dũng và huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; phía Nam giáp

huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; phía Đông giáp thành phố Chí Linh, tỉnh Hải

Dương và phía Tây giáp huyện Tiên Du và thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc

Ninh. Diện tích của huyện Quế Võ là 155.112km2 , có 21 đơn vị hành chính

cấp xã gồm 20 xã và 01 thị trấn; dân số 49.107 hộ với 170.668 nhân khẩu, dân

số huyện Quế Võ là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động, với chất

lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao động

hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá -

xã hội của huyện.

Với vị trí nằm ở cửa ngõ thành phố Bắc Ninh, ba mặt của huyện được

bao bọc bởi hai con sông lớn đó là sông Đuống và sông Cầu, huyện Quế Võ

còn nằm tiếp giáp với quốc lộ 1B và có đường quốc lộ 18 chạy qua, đây chính

là một lợi thế lớn về giao thông đường thuỷ và đường bộ để Quế Võ phát triển

về kinh tế, xã hội, đồng thời Quế võ là một huyện có vị trí quan trọng về an

ninh quốc phòng của tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm qua, tận dũng những

lợi thế đó, huyện Quế Võ đã xác định phát triển các ngành công nghiệp theo

hướng công nghệ cao, sản phẩm đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường quốc

tế, nhất là công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho các ngành công nghiệp chủ lực tạo

39

ra giá trị gia tăng cao trên cơ sở lấy doanh nghiệp lớn là hạt nhân, doanh

nghiệp vừa và nhỏ là các vệ tinh cung ứng, tập trung vào ngành điện tử, viễn

thông, cơ điện tử, hóa dược...; gắn với sự phát triển công nghiệp của vùng thủ

đô Hà Nội và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các hành lang kinh tế Nam

Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Côn Minh - Lào Cai -

Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; bảo đảm khai thác được lợi thế của huyện

và gắn kết chặt chẽ các mối liên kết vùng, liên kết tuyến để thúc đẩy sự phát

triển công nghiệp trên địa bàn huyện. Các khu công nghiệp trên địa bàn huyện

Quế Võ ngày càng phát triển, với 03 khu công nghiệp tập trung đã thu hút

phần lớn người lao động trên địa bàn và các vùng phụ cận vào làm việc, điều

này đã góp phần thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển nhanh, tăng trưởng

GDP của huyện trong những năm gần đây luôn đạt trên 10%, giúp cho thu

nhập và đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình

quân đầu người năm 2018 đạt 4.129 USD/năm.15

Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên từ đó

đã tạo điều kiện cho các lĩnh vực khác có nhiều sự thay đổi tích cực như văn

hóa, giáo dục, y tế… đặc biệt là về nhận thức của nhân dân trong việc chấp

hành chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngày một nâng

cao, góp phần quan trọng trong việc tổ chức thi hành án dân sự nói chung và

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Mặt khác, kinh tế xã hội

phát triển đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để cấp ủy, chính quyền các cấp

quan tâm hơn đối với công tác thi hành án dân sự, qua đó đã tạo nhiều điều

kiện cho Chi cục THADS huyện Quế Võ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về kinh tế, xã hội,

nhiều vấn đề xã hội phức tạp đã nảy sinh trong quá trính đẩy mạnh thu hút

đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Trong những năm qua, khi

nhiều khu công nghiệp được đầu tư xây dựng đã thu hút hàng vạn lao động

trong và ngoài tỉnh tập trung về các khu công nghiệp của huyện để tìm kiếm

việc làm, lao động và sinh sống đã tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự

40

trên địa bàn huyện, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật diễn biến phức

tạp, đặc biệt là các tội phạm về ma tuý, mại dâm, đánh bạc, cố ý gây thương

tích, tội phạm liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”… Theo báo cáo kết quả

công tác năm của Công an huyện, trung bình mỗi năm Công an huyện phát

hiện, bắt giữ, trên 100 vụ phạm pháp hình sự, trong đó, tỷ lệ điều tra làm rõ

luôn đạt trên 80%, trong đó chủ yếu là tội phạm về ma túy, đánh bạc, tội

phạm liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”[15]… Thực tế đó đã làm cho số

lượng việc và tiền phải thi hành án dân sự hàng năm luôn tăng cao, nhiều vụ

việc khó khăn, phức tạp. Nhiều vụ việc có nhiều đối tượng tham gia, có hộ

khẩu thường trú ở nhiều địa phương khác nhau đã tạo ra áp lực rất lớn cho các

CHV của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ trong việc thực thi nhiệm

vụ, ảnh hưởng đến chất lượng thi hành án nói chung và THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng.

2.1.2. Tình hình, kết quả thi hành án dân sự trong giai đoạn 2015 –

2019 của Chi cục Thi hàn án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

Kết quả khảo sát công tác THADS của Chi cục THADS huyện Quế Võ

cho thấy trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019 đơn vị phải thi hành án án

4.819 việc và 168.451.052.000 [Bảng 2.1 - Phụ lục], cụ thể:

- Về việc:

Năm 2015, tổng số việc phải thi hành án là 789 việc;

Năm 2016, tổng số việc phải thi hành án là 991 việc, tăng 202 việc so

với năm 2015;

Năm 2017, tổng số việc phải thi hành án là 1.044 việc, tăng 53 việc so

với năm 2016;

Năm 2018, tổng số việc phải thi hành án là 1.116 việc, tăng 72 việc so

với năm 2017;

Năm 2019, tổng số việc phải thi hành án là 879 việc, giảm 237 việc so

với năm 2018;

Như vậy, số việc phải thi hành án trong 5 năm (từ năm 2015 đến hết năm

41

2019) của Chi cục THADS huyện Quế Võ tăng giảm không đều qua các năm.

Trung bình mỗi năm phải thi hành án 964 việc, cao nhất là năm 2018 với

1.116 việc, thấp nhất là năm 2015 với 789 việc. Tuy nhiên, có thể thấy số

lượng việc phải thi hành là khá lớn, nhiều việc phải thi hành trong các bản án

có tính chất phức tạp.

- Về tiền:

Năm 2015, tổng số tiền phải thi hành án là 30.397.697.000 đồng;

Năm 2016, tổng số tiền phải thi hành án là 21.888.750.000 đồng;

Năm 2017, tổng số tiền phải thi hành án là 27.512.278.000 đồng;

Năm 2018, tổng số tiền phải thi hành án là 28.937.000.000 đồng;

Năm 2019, tổng số tiền phải thi hành án là 59.715.327.000 đồng, gấp

gần 2 lần so với số tiền phải thi hành án năm 2015.

Như vậy, số tiền Chi cục THADS huyện Quế Võ phải thi hành án đang

có chiều hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm

phải thi hành án số tiền là 33.690.210.400 đồng, trong đó, năm phải thi hành

án ít nhất là năm 2016 với số tiền 21.888.750.000 đồng; năm phải thi hành án

nhiều nhất là năm 2019 với số tiền là 59.715.327.000 đồng. Điều này cho thấy

trong thời gian gần đây, số việc phải thi hành án tăng dần từ năm 2015 đến

năm 2018 (nhưng năm 2019 giảm), tuy nhiên, số tiền phải thi hành án tăng

cao. Điều này cho thấy công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an

ninh, trật tự của các lực lượng chức năng phát huy tốt hiệu quả, khiến các vụ

án được phát hiện, điều tra, tuy tố, xét xử giảm, dẫn đến số việc phải thi hành

án giảm, tuy nhiên, nhiều vụ việc có tính chất nghiêm trọng, đặc biệt là các vụ

án xâm phạm sở hữu, liên quan đến “tín dụng đen”, tội phạm đánh bạc trên

mạng diễn biến phức tạp… dẫn đến số lượng tiền phải thi hành án tăng cao.

Đây cũng chính là những vụ việc mà điều kiện thi hành án chưa được đảm

bảo hoặc chưa có dẫn đến rất nhiều khó khăn cho công tác THADS của Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.

Về kết quả THADS, trong số 4.819 việc và 168.451.052.000 đồng phải

42

thi hành, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã xác minh có 4.190 việc (chiếm

86,3%) và 87.656.864.000 đồng (chiếm 52,0%) có điều kiện thi hành án.

Trong số vụ việc và tiền có điều kiện thi hành, đơn vị đã thi hành 3.904 việc

(chiếm 93,2%) và số tiền 51.828.472.000 đồng (chiếm 59,2%) [Bảng 2.2 -

Phụ lục]. Như vậy, có thể thấy Chi cục THADS huyện Quế Võ đã rất nỗ lực,

cố gắng khắc phục khó khăn, triển khai tích cực, đồng bộ nhiều biện pháp để

thi hành có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án.

2.1.3. Tình hình, đặc điểm về việc và tiền thuộc nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự phải thi hành án

Kết quả khảo sát cho thấy, trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019, Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã tiếp nhận 813 bản án hình sự

của Tòa án, trung bình mỗi năm tiếp nhận 162 bản án, năm tiếp nhận ít nhất là

năm 2015 với 122 bản án, năm tiếp nhận nhiều nhất là năm 2018 với 231 bản

án; trong đó bản án hình sự về tội phạm ma túy là 360 bản án (chiếm 44,3%),

các bản án về tội phạm khác là 453 bản án (chiếm 55,7%) [Bảng 2.3 – Phụ

lục]. Như vậy có thể thấy, tổng số bản án hình sự đã tiếp nhận của Chi cục

Thi hành án hình sự huyện Quế Võ là khá lớn và có sự gia tăng qua các năm;

số bản án hình sự về tội phạm ma túy chiếm tỷ lệ lớn (chiếm 44,3%), cho thấy

tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn khá phức tạp, do khó khăn về kinh tế,

việc làm, các đối tượng ham chơi, lười lao động muốn kiếm tiền nhanh đã

thực hiện tội phạm ma túy. Đây là điểm điểm nổi bật của các bản án ở cấp

huyện, khác so với cơ cấu các bản án hình sự của Cục THADS tỉnh Bắc Ninh.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, hầu hết các đối tượng này không có nghề

nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, sống phụ

thuộc nên không có tài sản để thi hành án dẫn đến chưa có điều kiện thi hành

án, gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác THNVDS trong các bản án.

Trong 813 bản án hình sự Chi cục THADS huyện Quế Võ đã tiếp nhận,

tổng số việc và tiền phải thi hành án thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình

sự là 1.843 việc (38,2%) và 47.626.620.000 đồng (chiếm 28,3%); trung bình mỗi

43

năm phải thi hành án 369 việc và 9.525.324.000 đồng [Bảng 2.4 - Phụ lục].

- Về diễn biến số việc và tiền phải thi hành án:

+ Về việc: số việc phải thi hành án thuộc nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự tăng giảm không đều qua các năm, trong đó năm có số

việc phải thi hành án nhiều nhất là năm 2018 với 456 việc, năm có số việc

phải thi hành án ít nhất là năm 2017 với 329 việc.

+ Về tiền: số tiền phải thi hành tăng dần qua qua các năm và đang tăng

rất nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2019 số tiền phải thi

hành án là 28.721.075.000 đồng, chiếm 60,3% tổng số tiền phải thi hành án

trong 5 năm và gấp 12,3 lần số tiền phải thi hành án năm 2015.

Như vậy, có thể thấy về số việc không có biến động lớn, nhưng số tiền

phải thi hành án tăng dần qua các năm và có xu hướng tăng mạnh trong thời

gian gần đây. Nguyên nhân của tình trạng này là do tính chất hành vi phạm tội

của các đối tượng trong các vụ án ngày càng phức tạp, nguy hiểm hơn, đặc

biệt là các vụ án xâm phạm sở hữu hoặc các vụ đánh bạc trên mạng internet

dẫn đến số tiền thuộc nghĩa vụ dẫn sự trong các bản án, quyết định hình sự là

rất lớn. Điển hình như trong Bản án số 316/2018/HSST ngày 02/11/2018 của

Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh tuyên án đối với bị cáo

Trần Duy Công sinh năm 1992, Hộ khẩu thường trú tại xã Phượng Mao,

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh về tội Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc, trong đó

phần nghĩa vụ dân sự phải thi hành án gồm: 200.000 đồng tiền án phí;

20.000.000 đồng tiền phạt sung công quỹ Nhà nước và 11.016.157.700 đồng

thu lời bất chính từ việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc.

- Về số việc và tiền thuộc nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình

sự phải thi hành án theo các tội danh:

Kết quả khảo sát cho thấy, từ năm 2015 đến hết năm 2019, trên địa bàn

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có 565 việc (chiếm 30,7%) và 1.745.534.000

đồng (chiếm 3,7%) thuộc các bản án hình sự về các tội phạm ma túy, còn lại

là các bản án về các tội phạm hình sự khác [Bảng 2.5- Phụ lục]. Điều này cho

44

thấy, các bản án phạm tội về ma túy chiếm tỷ lệ lớn (360 bản án, chiếm

44,3%) nhưng số tiền phải thi hành án là khá ít, chỉ chiếm 3,7% tổng số tiền

phải thi hành án trong 5 năm. Đối với các bản án về các tội phạm hình sự

khác có số tiền phải thi hành án lớn, chủ yếu là các bản án về các tội phạm

xâm phạm sở hữu hoặc các tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Kết quả

nghiên cứu các bản án cho thấy, đa phần những người phải thi hành án phần

nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án các cấp đối với

các tội danh nêu trên đều có nhân thân không tốt, thường là các đối tượng từ

nhỏ đã sống phụ thuộc vào bố mẹ, không có công ăn việc làm, ham chơi, lười

lao động nên không có tài sản để thi hành án, gây ra rất nhiều khó khăn cho

việc thi hành án, dẫn đến nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài. Điển hình như vụ bị

án Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú tại Thôn Thất

Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, bị Tòa án nhân dân

huyện Quế Võ tuyên án về Tội mua bán trái phép chất ma túy và phải thi hành

nghĩa vụ dân sự trong bản án gồm: 200.000 đồng tiền án phí; 5.000.000 đồng

tiền phạt và 200.000 đồng tiền tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tuy nhiên,

đây là đối tượng không có nghề nghiệp, không có tài sản, bị nghiện ma túy, từ

nhỏ sống phụ thuộc, mẹ đã già yếu không có điều kiện để nộp tiền thi hành án

thay, dẫn đến chưa có điều kiện để thi hành án.

- Về điều kiện thi hành án của số việc và tiền:

Kết quả khảo sát tại Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho

thấy điều kiện thi hành án đối với phần NVDS trong bản án, quyết định hình

sự như sau:

Về việc: Trong 1.843 việc phải thi hành án, có 1.412 việc (chiếm 76,6%)

có điều kiện thi hành án, tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ số việc có điều kiện thi hành

án dân sự nói chung (với 86,3%) [Bảng 2.4 - Phụ lục].

Về tiền: Trong tổng số 47.626.620.000 đồng phải thi hành án, có

17.456.971.000 đồng có điều kiện thi hành án (chiếm 36,7%) [Phụ lục 2.4], tỷ

lệ này thấp hơn khá nhiều so với tỉ lệ của số tiền phải thi hành án dân sự nói

45

chung (tỉ lệ có điều kiện THADS về tiền là 52,0%).

Như vậy, tỉ lệ về việc và tiền có điều kiện thi hành án thuộc phần dân sự

trong các bản án, quyết định hình sự là khá thấp, đặc biệt là về số tiền có điều

kiện thi hành rất thấp (chỉ chiếm 36,7%). Điều này cho thấy, việc THNVDS

trong các bản án, quyết định hình sự gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, đòi

hỏi các CHV của Chi cục THADS huyện Quế Võ phải rất nỗ lực, sử dụng

đồng bộ nhiều biện pháp, tích cực phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp

để thi hành có hiệu quả nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

của Tòa án.

2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ

TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

2.2.1. Tổ chức, biên chế của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế

Võ, tỉnh Bắc Ninh

Chi cục THADS huyện Quế Võ là cơ quan Trung ương đóng tại địa

phương, trực thuộc Cục THADS tỉnh Bắc Ninh, có trụ sở riêng tại địa bàn thị

trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Tính đến hết tháng 12/2019, tổ

chức, biên chế của Chi cục THADS huyện Quế Võ có 11 cán bộ, trong đó có

09 cán bộ biên chế chính thứcvà 02 hợp đồng lao động theo Nghị định

68/NĐ-CP của Chính phủ [Bảng 2.7 - Phụ lục]. Nghiên cứu tình hình cán bộ

của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy:

Về chức danh: Chức danh lãnh đạo của Chi cục có 01 đồng chí Chi cục

trưởng và 02 đồng chí Phó Chi cục trưởng; Chức danh chuyên môn của Chi

cục có 04 đồng chí CHV (chiếm 36,4%); 01 đồng chí thẩm tra viên (chiếm

9,1%) và 02 đồng chí Thư ký thi hành án (18,2%) [Bảng 2.7 - Phụ lục];

Về trình độ chuyên môn: có 10/11 đồng chí (chiếm 90,9%) có trình độ

Đại học [Bảng 2.7 - Phụ lục].

Chi cục THADS huyện Quế Võ thành lập Chi bộ cơ quan vào năm

2010, là Chi bộ trực thuộc huyện uỷ Quế Võ, Chi bộ hiện có 09 đồng chí

46

đảng viên, trong số đảng viên của Chi bộ có 01 đồng chí có trình độ Cao cấp

lý luận chính trị, 01 đồng chí có trình độ Trung cấp lý luận chính trị.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công chức cơ quan THADS huyện Quế

Võ, tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đáp ứng yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ và có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, số lượng cán bộ của đơn vị còn thiếu, cả

Chi cục hiện chỉ có 4 CHV, một số cán bộ trình độ, chuyên môn còn hạn

chế, chưa thực sự quyết liệt trong việc đôn đốc, kê biên, xử lý tài sản để thi

hành án dẫn đến một số vụ việc kéo dài, hiệu quả thi hành án chưa cao.

Một số CHV và cán bộ làm công tác thi hành án chưa nêu cao tinh thần,

trách nhiệm, còn tâm lý e ngại, chưa quyết tâm trong công tác, đặc biệt là

trong các vụ việc khó khăn, phức tạp, chưa vận dụng linh hoạt các biện

pháp thi hành án.

Về cơ sở vật chất phục vụ công tác THADS: Trong những năm qua,

được sự quan tâm về vật chất, tinh thần của Cục THADS tỉnh Bắc Ninh và

Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Quế Võ đến nay Chi cục THADS huyện

Quế Võ đã có được trụ sở làm việc khang trang, trang thiết bị làm việc được

trang cấp về cơ bản đáp ưng được nhu cầu làm việc của tập thể cán bộ, công

chức đơn vị. Tuy nhiên, vẫn thiếu một số trang thiết bị hiện đại để phục vụ

yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ

quan tư pháp và đảm bảo tính uy nghiêm, sức mạnh của cơ quan thi hành án,

đồng thời chế độ chính sách với cán bộ làm công tác thi hành án và CHV

còn thấp, khiến đội ngũ cán bộ chưa yên tâm công tác, trách nhiệm trong

công tác chưa cao.

2.2.2. Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ

Trên cơ sở đặc điểm tình hình địa phương, xác định rõ nhiệm vụ chính

trị trung tâm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, được sự chỉ

đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban

47

nhân dân huyện và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan ban ngành, những

năm qua công tác THADS của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ

tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng để

bảo đảm an ninh, trật tự và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương, tạo được niềm tin của nhân dân. Hoạt động này đã góp phần bảo vệ

quyền lợi, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân góp phần giữ vững kỷ

cương phép nước, luật pháp được thực thi nghiêm chỉnh và làm tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.

Kết quả khảo sát thực tiễn công tác thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản

án, quyết định hình sự cho thấy, trong 5 năm qua, Chi cục THADS huyện

Quế Võ đã thi hành xong 1.359 việc/1.412 việc có điều kiện thi hành (chiếm

96,3%) và về tiền đã thi hành 13.564.875.000 đồng/17.456.971.000 đồng có

điều kiện thi hành (77,7%) [Bảng 2.5 - Phụ lục]. Để có được kết quả như

vậy, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã bám sát nhiệm vụ chính trị của cấp

ủy Đảng, chính quyền địa phương, các chỉ tiêu công tác của lãnh đạo cấp

trên, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, động viên cán bộ của đơn vị chủ

động thực hiện hiệu quả các biện pháp thi hành án cũng như quy trình thi

hành án dân sự, cụ thể là:

- Việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án

Kết quả khảo sát cho thấy, trong những năm qua việc tiếp nhận yêu cầu

thi hành án, bản án của Tòa án được các Thẩm tra viên hoặc Thư ký của Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thực hiện theo đúng trình tự, thủ

tục theo quy định của pháp luật. Trong 05 năm từ năm 2015 đến hết năm

2019, Chi cụ THADS huyện Quế Võ Phải thi hành 4.819 việc, trong đó có

1.843 việc về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự, trung

bình mỗi năm Chi cục phải tiếp nhận và thi hành gần 1.000 việc về thi hành

án dân sự (trong đó có 369 việc về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự) mặc dù hiện nay Chi cục chỉ có 01 Thẩm tra viên và 02

thư ký, nhưng việc tiếp nhận các yêu cầu thi hành án cũng như các bản án,

48

quyết định của Tòa án nói chung, các việc về nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự nói riêng đã được các Thẩm tra viên và Thú ký tiếp nhận

theo đúng trình tự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Khi tiếp nhận trực tiếp các yêu cầu thi hành án, bản án và quyết định của

Tòa án cán bộ tiếp nhận đã tiến hành viết Phiếu nhận đơn hoặc hướng dẫn cho

người yêu cầu, lập biên bản ghi nhận yêu cầu thi hành án trong trường hợp

người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói.

Bên cạnh đó, trường hợp tiếp nhận trực tuyến, cán bộ tiếp nhận đã thực

hiện những công việc theo quy định tại Quy trình hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi

hành án dân sự. Trường hợp tiếp nhận qua đường bưu điện thì Văn thư tiếp

nhận, vào Sổ công văn đến rồi chuyển ngay cho Thẩm tra viên hoặc Thư ký

được phân công.

Sau khi tiếp nhận các yêu cầu thi hành án, bản án và quyết định của Tóa

án, Thẩm tra viên hoặc Thư ký đã tiến hành vào Sổ nhận yêu cầu thi hành án,

Sổ nhận bản án, quyết định của Tòa án để báo cáo lãnh đạo đơn vị ra quyết

định thi hành án đảm bảo thời gian quy định.

- Ra quyết định và thông báo quyết định thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự

Để đảm bảo việc thi hành án dân sự nói chung, thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự nói riêng đảm bảo đúng thời gian quy định

và đạt hiệu quả cao, trong thời gian qua, lãnh đạo Chi cục THADS huyện quế

võ đã tích cực quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nghị quyết

37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án

nhân dân và công tác thi hành án năm 2013 đối với chỉ tiêu về “Ra quyết định

thi hành án đúng thời hạn quy định đối với 100% các bản án, quyết định dân

sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật”.

Chi Cục Trưởng Chi cục THADS huyện Quế Võ theo thẩm quyền đã

thực hiện ra quyết định thi hành án và phân công CHV tổ chức thi hành đối

49

với với các bản án nói chung và thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng đảm bảo đúng thời gian quy đinh (không quá 05 ngày

làm việc). Nhiều vụ việc sau khi được tiếp nhận đã được phân loại và ra

quyết định thi hành án nhanh chóng, trước thời hạn quy định. Điển hình như

việc ngày 10/10/2017 Chi cục THADS huyện Quế Võ tiếp nhận Quyết định

ủy thác thi hành án của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đối với

Nguyễn Thị Liễu, sinh năm 1979, trú tại Thôn Can Vũ, xã Việt Hùng, huyện

Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

theo Bản án số 38/2014/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Bản án

số 160/2015/HSST của Tòa án nhân dân tối cao Tòa phúc thẩm tại Hà Nội

với trách nhiệm dân sự phải thi hành án là 523.685.000 đồng. Đến ngày

12/10/2017 Chi cục Trưởng Chi cục THADS huyện Quế Võ đã ra Quyết

định Thi hành án theo yêu cầu và phân công CHV Nguyễn Quốc Cường thụ

lý thi hành án.

Sau khi ra quyết định thi hành án, để đảm bảo việc thi hành án được

nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy định của pháp luật Chi cục THADS

huyện Quế Võ đã gửi Quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện

kiểm sát nhân dân của huyện để giám sát quá trình tổ chức thi hành án. Đồng

thời, đã thông báo Quyết định thi hành án đến người bị thi hành án thông qua

Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và gửi đến các cơ quan có liên quan

trong trường hợp tiến hành cưỡng chế thi hành án.

- Xác minh điều kiện thi hành án

Kết quả khảo sát thực tiễn hoạt động THADS nói chung, thi hành nghĩa

vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng của Chi cục THADS

huyện Quế Võ, cho thấy, trong những năm qua, đơn vị đã quán triệt và thực

hiện có hiệu quả nội dung của Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012

của Quốc hội về Chỉ tiêu “bảo đảm chính xác, đúng pháp luật trong việc xác

minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi

hành”. Phần thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

50

đều đã được các CHV được giao thu lý tiến hành các biện pháp xác minh

nhanh chóng, chính xác, đúng trình tự, thủ tục, tạo tiền đề cở sở cho việc thi

hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án được nhanh chóng, chính xác, đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật.

Kết quả khảo sát từ năm 2015 đến hết năm 2019, các CHV của Chi cục

THADS huyện Quế Võ cho thấy, trong 1.843 việc phải thi hành án, các

CHV đã tiến hành các biện pháp xác minh điều kiện thi hành án, trong đó có

1.412 việc có điều kiện thi hành án (chiếm 76,6%); về tiền, trong

47.626.620.000 đồng phải thi hành án, có 17.456.971.000 đồng có điều kiện

thi hành án (chiếm 36,7%) [Bảng 2.5 - Phụ lục]. Như vậy, về việc phải thi

hành đối với phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, thì tỉ lệ việc có

điều kiện thi hành án thấp hơn so với các việc phải thi hành án dân sự nói

chung (là 86,3%); về tiền thì tỉ lệ số tiền có điều kiện thi hành khá thấp.

Nguyên nhân của tình trạng này là do phần dân sự trong bản án, quyết định

hình sự chủ yếu là các bản án về ma túy, xâm phạm sở hữu, đánh bạc…

(riêng các việc trong bản án về ma túy chiếm 30,7%), các bị án đa phần là

các đối tượng không có nghề nghiệp, nghiện ma túy, sống phụ thuộc vào gia

đình, ham chơi, gia đình điều kiện kinh tế khó khăn… và đang phải chấp

hành án phạt tù, do vậy, chưa có điều kiện để thi hành án, gây ra rất nhiều

khó khăn cho công tác thi hành án.

Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, các CHV của Chi cục

THADS đã tích cực phối hợp với các lực lượng chức năng, các cấp các ngành,

đăc biệt là chính quyền cơ sở để xác minh chính xác điều kiện thi hành án.

Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân

phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành

xác minh. Biên bản xác minh đã thể hiện đầy đủ kết quả xác minh như thu

thập, tài sản của người phải thi hành án và của người thân, vợ, chồng, bố mẹ

để làm căn cứ kết luận về điều kiện thi hành án. Điển hình như trong vụ án

đánh bạc trên mạng do Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

51

xét xử, trong Bản án số 316/HSST ngày 02/11/2018, người phải thi hành án là

Trần Duy Công, sinh năm 1992, phần nghĩa vụ dân sự trong bản án phải thi

hành gồm 200.000 đồng án phí, 20.000.000 đồng tiền phạt sung công quỹ

Nhà nước và 11.016.157.700 đồng truy thu số tiền bất chính từ việc tổ chức

đánh bác và dàng vào việc đánh bạc. Sau khi nhận được quyết định ủy thác

THADS số 114/QĐ-CCTHADS ngày 27/5/2019, Chi cục THADS huyện Quế

Võ đã ra quyết định thi hành án và phân công CHV thụ lý, CHV sau khi thụ

lý đã nhanh chóng xác minh điều kiện thi hành án của Trần Duy Công. Để

xác minh chính xác điều kiện thi hành án, CHV đã xuống thôn Mão Chinh, xã

Phượng Mao, huyện Quế Võ làm việc với Phó Chủ tịch xã, Cán bộ Tư pháp,

Kiểm sát viên, Cán bộ Địa chính, Trưởng thôn để xác minh điều kiện thi hành

án của bị án. Kết quả: Trần Duy Công đang chấp hành hình phạt tù, ở nhà một

mình vợ đang nuôi 03 con nhỏ, không có việc làm ổn định; bố, mẹ Trần Duy

Công không có việc làm ổn định, sinh sống chủ yếu dựa vào làm ruộng và thợ

xây; về tài sản, vợ chồng Công không có tài sản gì để đảm bảo thi hành án, vợ

chồng Công đang phải đi ở nhờ nhà anh trai, trong nhà chỉ có một số đồ dùng

phục vụ cuộc sống hàng ngày. Kết thúc xác minh điều kiện thi hành án của

Trần Duy Công, CHV đã lập biên bản theo đúng thủ tục, phản ánh đầy đủ kết

quả xác minh trong nội dung biên bản.

- Cưỡng chế thi hành án

Việc cường chế thi hành án dân sự nói chung và thi hành nghĩa vụ dân

sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực hiện sau khi hết thời

hạn 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông

báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi

hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.

Kết quả khảo sát thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy, việc cưỡng chế thi

hành án đối với thi hành phần nghĩa vụ dân sự được tiến hành không nhiều.

52

Bởi, số tiền có điều kiện thi hành án khá thấp (chỉ chiếm 36,7%), một số việc

phải cưỡng chế thi hành án đối quyền sử dụng đất, trong quá trình cưỡng chế,

các CHV phối hợp với Công an huyện để tuyên truyền, vận động, nhờ công tác

tuyên truyền, vận động tốt người phải thi hành án đã tự nguyện thi hành án.

Điển hình như việc cưỡng chế để kê biên quyền sử dụng đất của Bà Lê Thị

Ánh và Ông Trần Văn Bính, trú tại Thôn Bất Phí, xã Nhân Hòa, huyện Quế

Võ, tỉnh Bắc Ninh tháng 4/2015 để thi hành nghĩa vụ dân sự trong vụ án hình

sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau khi được Công an huyện

Quế Võ cùng chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động, 02 đối tượng đã

tự nguyện chấp hành thi hành án.

- Xét miễn, giảm thi hành án

Trong những năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

đã chú trọng, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân huyện lập hồ sơ và đề

nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm án với số tiền

136.250.000 đồng cho những người phải thi hành án. Đây là số tiền khá nhỏ

trong tổng số tiền phải thi hành án (chỉ chiếm 0,8%), mặc dù các CHV của

Chi cục đã rất nỗ lực, tích cực phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan.

Nguyên nhân của tình trạng này là do những bất cập trong quy định của Luật

THADS 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, cụ thể: Tại Điều 61 quy định thời

gian để được xét miễn, giảm thi hành án quá lâu, là 5 năm và 10 năm tùy theo

số tiền còn phải thi hành án. Người phải thi hành án phải nộp được 1/50 trên

tổng số tiền còn phải thi hành án (đối với các khoàn tiền phải thi hành án lớn

như tiền truy thu, thu hồi lên đến hàng tỷ đồng, thậm trí hàng chục tỷ đồng thì

việc người phải thi hành án nộp được số tiền 1/50 số tiền phải thi hành án là

điều rất khó khăn. Điều này dẫn đến việc thi hành án tồn đọng, kéo dài, thậm

trí không thực hiện được. Ví dụ như trong vụ Trần Duy Công, phần nghĩa vụ

dân sự trong bản án phải thi hành gồm 200.000 đồng án phí, 20.000.000 đồng

53

tiền phạt sung công quỹ Nhà nước và 11.016.157.700 đồng truy thu số tiền

bất chính từ việc tổ chức đánh bác và dàng vào việc đánh bạc. Đây là số tiền

phải thi hành án rất lớn trong khi người phải thi hành án và người thân không

có tài sản để đảm bảo thi hành án, gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình thi

hành án, không biết đến khi nào mới thi hành xong.

- Thanh toán tiền thi hành án và kết thúc thi hành án

Nghiên cứu kết quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định

hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy, trong 05 năm qua, Chi

cục đã thi hành án xong 13.564.875.000 đồng (chiếm 77,7%) trong tổng số

tiền có điều kiện thi hành.

Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và đã được Chi

cục THADS huyện Quế Võ thanh toán theo thứ tự đúng quy định của Luật

THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Đối với việc kết thúc thi hành án đã được các CHV thực hiện theo đúng

quy định của pháp luật. Đối với những trường hợp đương nhiên kết thúc thi

hành án như: Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình; Có

quyết định đình chỉ thi hành án; Có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.

Chấp hành viên đã tiến hành các thủ tục kết thúc thi hành án. Trường hợp

đương sự yêu cầu xác nhận kết quả thi hành án. Các CHV đã báo cáo Thủ

trưởng đơn vị cấp giấy xác nhận kết quả thi hành án theo đúng quy định.

2.2.3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp với các lực

lượng liên quan trong thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,

quyết định hình sự

2.2.3.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo

Trong những năm qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác lãnh

đạo, chỉ đạo trong THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng đã được lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh

Bắc Ninh quan tâm thực hiện thường xuyên, đảm bảo cho công tác THADS

54

được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, hoàn thành tốt các chỉ

tiêu nhiệm vụ được.

Lãnh đạo Chi cục thường xuyên quán triệt nội dung của Nghị quyết

37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về Chỉ tiêu “Ra quyết định thi

hành án đúng thời hạn đối với 100% bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu

lực theo đúng quy định của pháp luật” và Chỉ tiêu về “bảo đảm chính xác,

đúng pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành

và chưa có điều kiện thi hành”; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27 tháng

11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng,

chống tội phạm và Nghị quyết 111/2015/ QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công

tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án

năm 2016 và các năm tiếp theo.

Quán triệt thực hiện nghiêm Chỉ thị 19/CT-TU ngày 19/4/2012 của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác

THADS trên địa bàn tỉnh.

Phổ biến đến toàn thể cán bộ, công chức, CHV trong đơn vị thực hiện

nghiêm túc các quy định của Luật THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014,

Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và các Thông

tư, văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến công tác thi hành án. Đồng

thời, quán triệt các văn bản chỉ đạo của Tổng cục, Cục và ý kiến chỉ đạo của

các động chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới dự và chỉ đạo Hội nghị triển khai

công tác thi hành án dân sự hàng năm.

Hàng năm, trên cơ sở nhiệm vụ được cấp trên giao, Chi cục THADS

huyện Quế Võ đã ban hành các Quyết định về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ

THNVDS cho các CHV thuộc Chi cục và xây dựng kế hoạch công tác

THNVDS hàng năm để trình lãnh đạo các cấp phê duyệt và tổ chức thực hiện.

55

Để đảm bảo đủ số lượng, trình độ, năng lực của cán bộ, công chức, CHV

thực thuộc Chi cục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, lãnh đạo Chi cục

THADS huyện Quế Võ đã quan tâm đến công tác đánh giá cán bộ, công chức

theo quy định cũng như việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động luân

chuyển cán bộ theo yêu cầu, nhiệm vụ của các cấp lãnh đạo.

Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự, lãnh đạo Chi cục đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

các nội dung của quy trình THADS, đặc biệt quan tâm chỉ đạo đối với những

vụ việc phức tạp, khó khăn vướng mắc để nghe các CHV báo cáo về tình hình

triển khai thi hành án, kết quả, những khó khăn vưỡng mắc cụ thể để hướng

dẫn, tháo gỡ hoặc báo cáo xin ý kiến chỉ đạo cấp trên đồng thời kịp thời phát

hiện, chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém, đẩy nhanh tiến độ thi hành án,

nhằm hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác được giao.

Nhờ vậy, trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019, tỷ lệ THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã đạt được

nhiều kết quả quan trọng (kết quả thi hành án về việc đạt 96,3%, về tiền đạt

77,7%). Đồng thời, các vi phạm trong THNVDS chiếm tỉ lệ nhỏ, trong 5 năm

chỉ có 01 CHV vi phạm bị kỷ luật khiển trách.

Tuy nhiên, trong một số vụ việc cụ thể, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa

được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là đối với những vụ việc khó khăn,

phức tạp dẫn đến chưa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của CHV

khiến việc thi hành án tồn động kéo dài.

2.2.3.2. Quan hệ phối hợp với các lực lượng liên quan trong thi hành

thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

- Phối hợp với chính quyền các cấp

Kết quả khảo sát cho thấy, trong những năm qua, Chi cục THADS huyện

Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã bám sát sự chỉ đạo của lãnh đạo cấp ủy của Huyện

ủy và Ủy ban nhân dân huyện Quế Võ để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan

tâm thào gỡ khó khăn vướng mắc cho công tác THADS nói chung và thi hành

56

NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Chi cục THADS huyện QUế

Võ đã tích cực phối hợp với chính quyền các cấp trong tổ chức thi hành NVDS

như: phối hợp trong xác minh điều điều kiện thi hành án, trong tổ chức cưỡng

chế thi hành án… Đồng thời, phối hợp với chính quyền các cấp, các ngành, các

cơ quan đoàn thể trong trong huyện để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về

pháp luật thi hành án dân sự… để nhân dân hiểu và tự giác thực hiện.

Bên cạnh đó, nhờ thực hiện tốt quan hệ phối hợp với chính quyền các cấp

nên Chi cục THADS huyện Quế Võ đã được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất với

trụ sở làm việc khang trang, với đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác; đội ngũ

cán bộ của Chi cục cũng được củng cố và hoàn thiện các chức danh theo quy

định; nhiều vấn đề khó khăn trong THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng được tháo gỡ kịp thời.

- Phối hợp với lực lượng Công an nhân dân

Trong những năm qua, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ đã quán

triệt cán bộ của đơn vị tích cực thực hiện Quy chế phối hợp liên ngành số

14/2014/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2014 của Bộ

Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao. Đồng thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã chủ trì phối hợp với Tòa

án nhân dân huyện Quế Võ, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ và Công

an huyện Quế Võ ký kết Quy chế phối hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-

VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở

các Quy chế đã ký kết Chi cục THADS huyện Quế Võ đã phối hợp tốt với

Công an huyện và Công an các xã, thị trấn của huyện trong xây dựng kế

hoạch và triển khai bảo vệ cưỡng chế thi hành án thành công nhiều vụ việc

phức tạp, có đông lực lượng tham gia. Điển hình như vụ Ông Nguyễn Đức

Huấn trú tại Thôn Mao Lại – xã Phượng Mao – huyện Quế Võ – tỉnh Bắc

Ninh phải kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành

nghĩa vụ dân sự trong bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

57

Buổi cưỡng chế đã huy động 70 cán bộ các đơn vị liên quan tham gia và đã

được tiến hành thành công, đạt hiệu quả cao và mang tính giáo dục sâu sắc.

Bên cạnh đó, Chi cục THADS huyện Quế Võ còn tổ chức tốt quan hệ

phối hợp với các Trại Tạm giam, Trại giam nơi người phải thi hành án chấp

hành hình phạt tù để thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án,

thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án. Trong 5 năm qua,

Chi cục đã phối hợp với các Trại giam, Trại Tạm giam để thi hành 1.115 việc

và 32.091.201.000 đồng, kết quả đã thi hành xong 845 việc (chiếm 78,5%) và

3.716.490.000 đồng (chiếm 11,6%) [Bảng 2.6 - Phụ lục].

- Phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp

Kết quả khảo sát cho thấy, trong quá trình tiến hành thi hành NVDS

trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh,

các CHV của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã tích cực phối hợp với Tòa án

thực hiện tốt việc vận động, giải thích các đối tượng phải thi hành án tự

nguyện nộp tiền phạt, án phí và các khoản bồi thường, khắc phục hậu quả.

Nhờ vậy, hàng năm có hàng trăm đối tượng trong các vụ án hình sự trong quá

trình xét xử đã tự nguyện nộp các khoản tiền phạt, án phí ngay tại Tòa.

Đồng thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng đã tích cực phối hợp

với Tòa án nhân dân các cấp để đề nghị xét miễn giảm thi hành án cho những

người phải thi hành án. Trong 5 năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã

phối hợp với Tòa án các cấp để làm thủ tục đề nghị Tòa án quyết định miễn,

giảm thi hành án cho hơn 100 đối tượng, với số tiền được miễn, giảm là

136.250.000 đồng [Bảng 2.5 – Phụ lục].

- Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân

Trong những năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

đã quan tâm chỉ đạo cán bộ của đơn vị thực hiện có hiệu quả các nội dung của

Quy chế phối hợp liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-

VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân

tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời, Chi cục THADS huyện

58

Quế Võ đã chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, Viện Kiểm

sát nhân dân huyện Quế Võ và Công an huyện Quế Võ ký kết Quy chế phối

hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong phối

hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ trong công tác thi hành án dân

sự nói chung và thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án.

Nhờ vậy, số việc và số tiền phải thi hành án thuộc phần dân sự trong bản án,

quyết định hình sự được tiến hành thi hành theo đúng quy trình từ khâu tiếp

nhận, phân loại, ra quyết định chính xác, đúng hạn đến các hoạt động xét

miễn giảm tiền thi hành án, tiến hành cưỡng chế thi hành án... Trong số 1.843

việc phải thi hành phần NVDS trong bản án, quyết định hình sự đều đã

được phân loại, ra quyết định đúng thời hạn 100%, việc xác minh điều kiện

thi hành án cũng được thực hiện đúng trình tự, thủ tục, kịp thời… đồng

thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng đã phối hợp với Viện kiểm sát

nhân dân huyện làm hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm số tiền thi hành án là

136.250.000 đồng. Nhờ thực hiện tốt quan hệ phối hợp với Viện kiểm sát

nhân dân huyện nên công tác THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản

án, quyết định hình sự được thực hiện hiệu quả, đúng trình tự, thủ tục pháp

luật, trong 5 năm chỉ có 01 CHV có vi phạm và khổng để xảy ra các vụ

việc phải bồi thường nhà nước.

2.3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

2.3.1. Ưu điểm

Nghiên cứu thực tiễn THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa

bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy có

những ưu điểm sau đây:

Thứ nhất, sau khi BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có

hiệu lực thi hành cũng đã tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, thông suốt hơn cho

các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các hình phạt tiền, tịch thu tài sản và

các quyết định dân sự khác. Ngoài ra, Luật THADS năm 2008 được sửa đổi,

bổ sung năm 2014, hệ thống tổ chức THADS được thành lập phù hợp với yêu

59

cầu của thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động THADS. Trên cơ sở hệ

thống văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung và việc tổ chức hệ thống

THADS theo ngành dọc trực thuộc Bộ Tư pháp nói chung, Chi cục THADS

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã được kiện toàn, vị thế Chi cục THADS ngày

càng được nâng lên; hoạt động của Chi cục THADS đã khẳng định được tính

độc lập, ổn định và hiệu quả của THADS nói chung và THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng đạt hiệu quả ngày càng cao.

Thứ hai, Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời đối với công tác thi hành

NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Lãnh đạo Chi cục đã thường xuyên

quán triệt các văn bản pháp luật cũng như các Chỉ thị, ý kiến của lãnh đạo cấp

trên về công tác THADS đến cán bộ, công chức của đơn vị; thường xuyên

kiểm tra, đôn đốc việc thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự từ

khâu tiếp nhận bản án, yêu cầu thi hành án đến việc phân loại, ra quyết định

đúng thời hạn, phân công nhiệm vụ phù hợp trình độ chuyên môn của CHV

đến việc tiến hành thi hành án… Kịp thời nắm bắt và phối hợp với các cấp,

các ngành để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự. Nhờ vậy, nhiều việc phức tạp được giải

quyết không để tồn đọng, kéo dài.

Thứ ba, Trong quá trình thụ lý và tiến hành thi hành NVDS trong bản án,

quyết định hình sự, đa phần các chấp hành viên đã nêu cao tinh thần, trách

nhiệm, thực hiện bài bản, đúng quy trình thi hành án, tích cực phối hợp với

các ngành, các cấp để tiến hành thi hành án đảm bảo hiệu quả, đúng trình tự,

thục tục của pháp luật. Nhờ vậy, tỷ lệ phân loại án có điều kiện thi hành án

đạt tỷ lệ cao, tỷ lệ về việc và tiền phải thi hành thuộc NVDS trong bản án,

quyết định hình sự luôn đạt trên 95%, đứng đầu toàn tỉnh về thực hiện các chỉ

tiêu được giao.

Thứ tư, Trong công tác THADS nói chung và thi hành NVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc

60

Ninh đã quan tâm củng cố quan hệ phối hợp với các ngành, các cấp có liên

quan. Các cán bộ công chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã phối hợp

chặt chẽ với Viện Kiểm sát, Tòa án và Công an huyện cũng như Chính quyền

các cấp và lực lượng Công an cơ sở trong tiếp nhận bản án, yêu cầu thi hành

án, xác minh điều kiện thi hành thi hành án, xét miễn, giảm tiền thi hành án,

tổ chức cưỡng chế thi hành án, tuyên truyền vận động các đối tượng tự

nguyện thi hành án tại Tòa án…. Bên cạnh, thực hiện nội dung Quy chế phối

hợp liên ngành của Bộ Tư Pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân

dân tối cao và Bộ Công an, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã chủ trì phối

hợp với Tòa án nhân dân huyện, Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Công an

huyện Quế Võ để xây dựng Quy chế phối hợp trong THADS trên địa bàn.

2.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm nói trên, THNVDS trong bản án, quyết định

hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh còn một số hạn

chế như sau:

Thứ nhất, hầu hết cán bộ, công chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ

đã nhận thức đúng đắn vai trò của công tác THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự, nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong quá trình thụ lý. Tuy nhiên,

vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa nhận thực rõ tầm quan trọng của công

tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trong công tác bảo đảm an

ninh, trật tự. Dẫn đến chưa chủ động trong công tác nghiên cứu nắm vững các

quy định của pháp luật về quy trình, biệp pháp đảm bảo thi hành án, trong quá

trình thụ lý án chưa chủ động áp dụng vào thực tiễn dẫn đến chất lượng thi

hành án chưa cao. Còn tâm lý e ngại các vụ việc phức tạp, chưa quyết liệt giải

quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài.

Thứ hai, lượng việc tồn đọng và số lượng tiền tồn đọng chưa thi hành

được của các việc về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự còn nhiều.

Có những việc tồn đọng trong thời gian dài và đến nay vẫn chưa có phương

án giải quyết dứt điểm, gặp rất nhiều khó khăn do người phải thi hành án chưa

61

có điều kiện thi hành án, trong khi số tiền phải thi hành án rất lớn và các quy

định của pháp luật còn nhiều bất cập, vường mắc.

Thứ ba, trong quá trình tổ chức THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự vẫn còn nhiều việc có điều kiện thi hành nhưng chậm được thi hành dứt

điểm, để tình trạng tồn đọng kéo dài.

Thứ tư, vẫn còn tình trạng chấp hành viên, cán bộ làm công tác

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự vi phạm trình tự, thủ tục thi hành

án phải xử lý kỷ luật.

Thứ năm, trong thực hiện quan hệ phối hợp với các cấp, các ngành và

các lực lượng liên quan tuy đã được Chi cục THADS huyện Quế Võ quan tâm

củng cố nhưng có những thời điểm, trong một số việc cụ thể vẫn chưa được

quan tâm thực hiện tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác thi hành án, thiếu

đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Mặc dù Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung

năm 2014 đã có một chương qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ

quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự, tuy nhiên công tác THADS

nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực

hiện với sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, nhưng pháp luật hiện hành

chưa qui định rõ trách nhiệm của các ngành phải tham gia hoặc hỗ trợ hoạt

động thi hành án, đặc biệt là trách nhiệm của Tòa án. Do vậy, nhiều vụ việc

khó thi hành vì thiếu sự phối hợp của cơ quan, tổ chức hữu quan.

Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành

nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự chưa được quan tâm thực

hiện. Thực tiễn công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ không

đồng bộ, thiếu sự phối hợp do chưa nhận thức được mục đích của công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Các hình thức, phương tiện và

phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật dường như chỉ tập

trung cho việc trang bị các quy định về hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà

ít chú ý đến tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong bản

62

án, quyết định hình sự. Vì vậy các phương tiện truyền thông đại chúng ít mở

chuyên mục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự và nếu có thì lại thiếu tính nhất quán, liên tục và hệ

thống cho nên chưa nâng cao được trình độ nhận thức pháp luật của người

dân nói chung và của người bị kết án nói riêng; chưa kết hợp được ý thức

pháp luật xã hội chủ nghĩa với giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa về

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục

THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh vẫn còn những hạn chế, thiết sót nhất định. Qua nghiên cứu có thể thấy những

hạn chế, thiếu sót đó xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

- Nguyên nhân khách quan:

2.3.3. Nguyên nhân

+ Một là, trong những năm qua, mặc dù huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đời sống

của nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn

huyện vẫn còn thấp, một bộ phận dân cư sống trên địa bàn chủ yếu làm nông

nghiệp, kinh tế khó khăn, trình độ nhận thức thấp, lao động tự do bươn trải

kiếm sống nên rời khỏi địa phương ngày càng nhiều, dễ bị lôi kéo thực hiện

các hành vi phạm tội, chủ yếu thực hiện hành vi phạm tội ma túy, cờ bạc, lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Trong những đối tượng này, có nhiều đối tượng đã có

tiền án, tiền sự, vào tù ra tội, lười lao động, không có nghề nghiệp… nên

không có tài sản dẫn đến việc thi hành án gặp rất nhiều khó khăn, nhiều vụ

việc bị tồn đọng kéo dài.

+ Hai là, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là địa bàn tập trung nhiều khu

công nghiệp của tỉnh, số lượng các Công ty, nhà máy tiếp tục được đầu tư

tăng mạnh tại các cụm, khu công nghiệp, vì vậy số lượng công nhân tập trung

về địa bàn lao động ngày càng đông kéo theo những phức tạp về tình hình an

ninh, trật tự, các vụ việc vi phạm pháp luật hình sự có chiều hướng gia tăng

và tính chất, mức độ phức tạp ngày càng cao. Điều này, làm cho số việc phải

thụ lý, thi hành án hàng năm tăng cao. Bên cạnh đó, trong những năm qua các

63

vụ việc về hình sự có tính chất rất phức tạp, số lượng tiền phải thi hành án

lớn, tuy nhiên, người phải thi hành án đang phải chấp hành hình phạt tù, trước

đây, không có nghề nghiệp, không có tài sản để thi hành án, người thân và gia

đình cũng rất khó khăn không có điều kiện để nộp thay, được xác định chưa

có điều kiện thi hành án. Điều này dẫn đến rất nhiều khó khăn trong quá trình

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, kéo theo việc thi hành án tồn

đọng kéo dài.

+ Ba là, hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập

Trước hết là sự thiếu rõ ràng và chưa thể hiện sự nghiêm khắc triệt để

của các Điều luật trong pháp luật hình sự, đặc biệt là một số Điều luật liên

quan đến hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Chẳng hạn với qui định mức tối thiểu

của hình phạt là một triệu đồng là quá thấp, người bị kết án có thể nộp tiền

phạt làm nhiều lần dẫn đến chầy ỳ. Hay như với qui định tại Điều 40 và Điều

46 của BLHS 2015 sửa đổi năm 2017 trong thực tiễn xét xử khó phân biệt

được nguồn gốc tài sản là bất hợp pháp hay hợp pháp và thường có tranh chấp

về sở hữu nên Tòa án rất hạn chế áp dụng hình phạt tịch thu tài sản. Ngay cả

trong trường hợp người bị kết án có điều kiện nhưng cố tình không thi hành

hình phạt tiền, tịch thu tài sản thì trong thực tế cũng rất khó truy cứu trách

nhiệm hình sự họ về “Tội không chấp hành án” theo qui định tại Điều 380 của

BLHS 2015 sửa đổi năm 2017.

Bên cạnh đó, là các qui định pháp luật về thi hành án mặc dù những năm

gần đây Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách, pháp luật mới có

liên quan đến THNVDS trong bản án, quyết định hình sự. Tuy nhiên, các qui

định pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự chưa được hoàn

thiện còn nhiều bất cập. Đơn cử tại điểm c khoản 1 Điều 48 Luật THADS

năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui định điều kiện hoãn thi hành án đối

với khoản nộp ngân sách của người bị kết án trong đó có những người bị kết

án. Một trong những căn cứ để hoãn thì cơ quan thi hành án phải xác minh họ

không có tài sản và tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày

64

14/10/2013 qui định là việc xác minh phải được thực hiện cách nhau không

quá một năm trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù.

Qui định như vậy là rất bất cập và không cần thiết vì người bị kết án đang

trong thời gian chấp hành hình phạt tù thì hầu như không có tài sản phát sinh

do đó việc phải liên tục xác minh về tài sản của họ là không cần thiết gây lãng

phí về thời gian, tiền của và không hiệu quả, nặng về thủ tục hành chính. Nên

chăng đối với những trường hợp này thì chỉ cần xác minh một lần và hoãn

THNVDS cho đến khi họ chấp hành xong hình phạt tù.

Bốn là, các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác

THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói rieng còn

hạn chế.

Thực tiễn công tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự tại Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho thấy, cơ sở vật chất phục vụ

công tác thi hành án mặc dù những năm gần đây đã được Nhà nước chú trọng

quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu công việc vì theo báo cáo

kết quả công tác THADS trên địa bàn huyện Quế Võ thì lượng việc và tiền

phải thi hành án năm sau luôn có xu hướng cao hơn năm trước và gia tăng các

vụ việc phức tạp. Tình trạng án tồn đọng kéo dài, tính chất ngày càng phức

tạp, chưa có biện pháp giải quyết có hiệu quả.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Một là, biên chế số lượng CHV còn thiếu, trình độ chuyên môn, ý

thức, trách nhiệm của một số CHV còn hạn chế.

Hiện nay, tổng biên chế quân số của Chi cục THADS huyện Quế Võ,

tỉnh Bắc Ninh gồm 11 cán bộ, trong đó, chỉ có 04 CHV, 01 Thẩm tra viên và

02 Thư ký. Trong những năm qua số lượng cán bộ giảm dần qua các năm, do

vậy số lượng cán bộ làm công tác THADS nói chung, số lượng CHV trực tiếp

thụ lý nói riêng còn thiếu, trong khi khối lượng công việc lại rất lớn. Bên cạnh

đó, một số CHV và cán bộ làm công tác thi hành án trình độ chuyên môn còn

hạn chế, trong quá trình làm nhiệm vụ còn chưa nêu cao tinh thần trách

65

nhiệm, thiếu kiên quyết, chưa chủ động, quyết liệt trong tiến hành các biện

pháp thi hành án dẫn đến một số vụ việc còn chậm hoặc tồn đọng kéo dài, đặc

biệt là những vụ việc phức tạp.

+ Hai là, trong quá trình tiến hành THNVDS trong bản án, quyết định

hình sự chưa quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người bị thi

hành án và gia đình người phải thi hành án để đôn đốc, động viên, giáo dục

thuyết phục họ và gia đình thực hiện trách nhiệm của người phải thi hành án.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự chưa khơi dậy được phong trào quần chúng tham

gia THNVDS trong bản án, quyết định hình sự; chưa chỉ ra được vai trò của

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự đối với tình hình an ninh trật tự

cho nên không ít quần chúng còn mơ hồ, mất cảnh giác thậm chí còn tiếp tay

cho một số phần tử chống đối, chây ỳ, trốn tránh thi hành án. Vì vậy, đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự sẽ có tác dụng thiết thực nâng cao ý thức pháp luật

của nhân dân nói chung và ý thức trong việc chấp hành pháp luật về

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.

+ Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo của lãnh đạo Chi cục

THADS huyện Quế Võ trong chỉ đạo, điều hành tổ chức THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự có lúc, có nơi còn bị động, chưa sâu sát, kịp thời.

Trong một số vụ việc cụ thể, chưa quan tâm đến việc lựa chọn, phân công cán

bộ có đủ trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác tiếp nhận, thụ lý các vụ

việc phức tạp. Trong quá trình tiến hành thi hành án chưa quan tâm chỉ đạo,

đôn đốc, kiểm tra, hướng kịp thời CHV và cán bộ của đơn vị tiến hành các

biện pháp thi hành án dẫn đến một số vụ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc

không được tháo gỡ, làm cho việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

bị tồn đọng kéo dài. Đồng thời, chưa quan tâm làm tốt công tác tổng kết, rút

kinh nghiệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đặc biệt là đối với

những vụ việc khó khăn, phức tạp, tồn đọng kéo dài.

66

+ Bốn là, quy chế phối hợp với các cấp, các ngành trong THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự chưa rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan

có liên quan. Lãnh đạo các đơn vị phối hợp trong một số vụ việc chưa thống

nhất về quan điểm xử lý, chưa đôn đốc, chỉ đạo cán bộ của đơn vị mình tích

cực thực hiện với các đơn vị có liên quan trong THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự. Việc phối hợp trong cưỡng chế thi hành án một số đơn vị cử cán

bộ tham gia còn chiếu lệ. Trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, điều tra

viên của cơ quan điều tra chỉ chú trọng việc truy tìm chứng cứ và các hoạt

điều tra như hỏi cung, lấy lời khai…mà chưa chú trọng đến việc xác minh,

thu hồi các tài sản do phạm tội mà có hoặc việc cất giấu, tẩu tán tang vật hoặc

tài sản do phạm tội mà có cũng như xác định các tài sản khác của đối tượng

để đảm bảo thi hành án. Trong quá trình xét xử của Tòa án, một số vụ việc án

tuyên không rõ, không sát với thực tiễn (trong các vụ án ma túy, đánh bạc,

trộm cắp đối tượng thường không có nghề nghiệp, ham chơi, sống phụ thuộc

nên không có tài sản để thi hành hình phạt bổ sung mà Tòa đã tuyên)… đồng

thời, chưa tích cực trong phối hợp đề xét miễn, giảm tiền thi hành án.

67

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong Chương 2, luận văn đã khảo sát, làm rõ tình hình, đặc điểm có liên

quan đến THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh như: Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã

hội, tình hình kết quả công tác THADS của Chi cục THADS huyện Quế Võ;

tình hình, đặc điểm về số lượng việc và tiền thuộc NVDS trong bản án, quyết

định hình sự trên địa bàn huyện từ năm 2015 đến hết năm 2019. Luận văn đã

đi sâu phân tích đánh giá thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, như: Khảo sát tình

hình biên chế cán bộ làm công tác thi hành án của Chi cục, việc thực hiện quy

trình thi hành án, kết quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, công tác

lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp trong tổ chức THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ và những vấn

đề liên quan, luận văn đã chỉ rõ kết quả đạt được của THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự với nhiều ưu điểm đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào

việc nâng cao hiệu quả công tác THADS.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ thời gian qua vẫn còn

bộc lộ những tồn tại, hạn chế, khó khăn vướng mắc nhất định. Những hạn chế,

khó khăn, vướng mắc đó xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ

quan khác nhau, nhưng cần phải được nghiên cứu và khắc phục từng bước

trong thời gian tới. Luận văn đã tập trung phân tích các nguyên nhân cơ bản đã

tác động và làm giảm hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của

Chi cục THADS huyện Quế Võ. Đây là cơ sở để luận văn đưa ra giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi

cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới ở Chương 3.

68

Chương 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH

NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢNÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA

CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ

3.1. DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THI HÀNH NGHĨA VỤ

DÂN SỰ TRONG BẢNÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ

3.1.1. Dự báo tình hình về việc và tiền phải thi hành án thuộc nghĩa

Trong những năm tới huyện Quế Võ sẽ tiếp tục được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh quan

tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội với nhiều công trình cơ sở hạ tầng lớn được đầu tư, các dự án khu Công

nghiệp tiếp tục được thu hút và mở rộng…nhằm phát huy tốt đa điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý cũng như

các thế mạnh của huyện. Điều này sẽ thúc đẩy kinh tế của huyện Quế võ tăng trưởng cao (GDP luôn tăng trên

10%/năm), đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa trên địa bàn huyện, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của nhân dân. Tuy nhiên, trước những tác động của nhiều yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường, với

những khó khăn, yếu kém trong công tác quản lý sẽ làm nảy sinh ra những yếu tố tác động tới tình hình an

ninh, trật tự tại địa bàn huyện Quế Võ. Tình hình hoạt động của các loại tội phạm nói chung đang có chiều

hướng gia tăng cả về số vụ, số đối tượng cũng như tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn, nhiều loại

tội phạm mới xuất hiện, thành phần đối tượng đa dạng, với những phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi,

gây ảnh hưởng lớn tới tình hình trật tự an toàn xã hội.

vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự

Điều này sẽ làm cho công tác THADS nói chung và THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng sẽ tiếp tục đặt ra những nhiệm vụ nặng nề

hơn cho Chi cục THADS huyện Quế Võ.

Trong thời gian tới, trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tình hình

tội phạm diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm ma túy, tội phạm xâm phạm

sở hữu, tội phạm đánh bạc và tổ chức đánh bạc… Điều này sẽ làm cho số

lượng việc và tiền phải thi hành án thuộc phần trách nhiệm dân sự trong các

bản án, quyết định hình sự sẽ tăng theo số vụ phạm tội được phát hiện, điều

tra, xét xử.

69

Về số lượng việc phải thi hành án thuộc NVDS trong các bản án, quyết

định hình sự có thể tăng ít, thậm chí có năm sẽ không tăng hoặc giảm nhẹ, bởi

công tác đấu trang phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng sẽ tiếp

tục được củng cố, tăng cường, số vụ phạm pháp hình sự sẽ được kiềm chế.

Tuy nhiên, số việc có điều kiện thi hành án tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ

có điều kiện thi hành án của các công tác THADS nói chung.

Về số lượng tiền phải thi hành án thuộc NVDS trong bản án, quyết định

hình sự sẽ tiếp tục có sự gia tăng nhanh. Bởi, các vụ việc sẽ ngàng càng phức

tạp hơn, các đối tượng phạm tội, đặc biệt là trong các vụ án xâm phạm sở hữu

như lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản hoặc các

tội phạm liên quan đến đánh bạc và tổ chức đánh bạc trên không gian mạng sẽ

gây ra những hậu quả nặng nề hơn, do số lượng tài sản chiếm đoạt lớn hoặc

số lượng tiền, tài sản liên quan đến hoạt động phạm tội là rất lớn. Tuy nhiên,

số tiền có điều kiện thi hành án sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp, số tiền chưa có

điều kiện thi hành án chiếm tỷ lệ cao.

Về người phải thi hành án: Sẽ tiếp tục đa đạng về độ tuổi, giới tính, trình

độ, thành phần… nhưng chủ yếu sẽ vẫn là các đối tượng phạm tội ma túy, đa

phần các đối tượng này đang phải chấp hành hình phạt tù, trước khi phạm tội

ham chơi, lười lao động, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn

định, sống phụ thuộc, không có tài sản để thi hành án và thân nhân cũng

không có tài sản để thi hành án.

3.1.2. Các yếu tố tác động đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản

án, quyết định hình sự

Từ những nội dung dự báo trên cho thấy hoạt động THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ trong thời gian tới

gặp phải một số khó khăn nhất định như: Chỉ tiêu, nhiệm vụ về việc và tiền

thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình sự được giao hàng năm sẽ tiếp tục

70

tăng, đặc biệt là số lượng tiền phải thi hành án sẽ là rất lớn, trong khi đó, số

lượng việc và tiền thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình sự có điều kiện

thi hành án sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho công

tác thi hành án, khiến cho nhiều vụ việc sẽ bị tồn đọng, kéo dài.

Bên cạnh những khó khăn nói trên, hoạt động THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng có những thuận

lợi đó là:

Trong thời gian tới, công tác THADS nói chung, thi hành NVDS trong

bản án, quyết định hình sự nói riêng sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm nhiều

lớn của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cũng như lãnh đạo các cấp của

Bộ Tư pháp. Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, lãnh đạo Bộ Tư pháp, cơ

quan thi hành án dân sự các cấp sẽ tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn

đốc sát sao hơn tới các mặt công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng. Đồng thời, tập trung tháo gỡ những khó khăn

vướng mắc và tạo những điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án các cấp

trong công tác thi hành án dân sự nói chung.

Trình độ năng lực của cán bộ làm công tác thi hành án và CHV của Chi

cục THADS huyện Quế Võ ngày càng được nâng cao, các chức danh sẽ ngày

càng được quan tâm củng cố, hoàn thiện, kinh nghiệm trong THADS nói

chung và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng sẽ được tích

lũy ngày một nhiều hơn…

Hệ thống văn bản qui định về công tác THADS nói chung, đặc biệt là

các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, tạo hành

lang pháp lý vững chắc nhằm nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của cơ

quan THADS sẽ được nâng cao, đồng thời các biện pháp hỗ trợ thi hành án

dân sự sẽ được tăng cường với nhiều chế tài nghiêm khắc hơn.

Cơ sở vật chất, những trang thiết bị phục vụ công tác THADS nói

chung, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sử của Chi cục

THADS huyện Quế Võ sẽ tiếp tục quan tâm trang bị ngày một đầy đủ và tốt

71

hơn... Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các mặt công tác

THADS sẽ được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh trong thời gian tới... Đó chính

là những điều kiện thuận lợi cho công tác THADS nói chung, hoạt động

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế

Võ trong thời gian tới đạt hiệu quả hơn…

3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN

SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH

ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ

3.2.1. Chú trọng tổng kết thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong

bản án, quyết định hình sự; tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật có

liên quan đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự nói riêng là nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ an ninh, trật tự, đảm bảo

pháp chế xã hội chủ nghĩa; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng

rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang

xây dựng. Tuy nhiên, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhận thức còn

nhiều vấn đề chưa thống nhất về thuật ngữ, nội dung, bản chất dẫn đến cách

hiểu, vận dụng khác nhau trong thực tiễn, hạn chế đến hiệu quả công tác.

Chính vì vậy, để hoàn thiện và cụ thể hóa những quy định, hướng dẫn về

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, trước hết phải tăng cường chất

lượng, hiệu quả việc tổng kết, rút kinh nghiệm THNVDS.

Đồng thời, trước yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần của Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp

dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội

phạm” [20], sẽ đặt ra những nhiệm vụ nặng nề hơn cho hoạt động THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự mà trước hết là nhiệm vụ hoàn thiện thể chế,

tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động này. Trước yêu cầu đó, trong

điều kiện của nước ta hiện nay, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có

72

liên quan cần phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp. Công tác lập pháp của

Quốc hội trong thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Quá trình xây

dựng một số luật, pháp lệnh chưa thực sự bám sát nhu cầu cuộc sống, dẫn đến

việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ

thống pháp luật, từ đó làm cho hoạt động THADS nói chung và hoạt động

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng gặp rất nhiều khó khăn,

vướng mắc trong thực tiễn tiến hành.

Kết quả nghiên cứu thực tiễn THNVDS trên địa bàn huyện Quế Võ,

tỉnh Bắc Ninh cho thấy những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật

nói chung, Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản

hướng dẫn thi hành nói riêng đã dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong

quá trình THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, làm cho nhiều vụ việc

tồn đọng, kéo dài, chưa tìm ra hướng giải quyết. Bên cạnh đó, chức trách,

nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS và trách nhiệm của các cơ quan có

liên quan chưa được quy định cụ thể, rõ ràng cũng đã gây khó khăn cho CHV

và cơ quan thi hành án, ảnh hưởng đến chất lượng công tác THADS nói

chung và hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.

Do vậy, thời gian tới để nâng cao chất lượng công tác THADS nói

chung và hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, cần

chú trọng công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, làm cơ sở để tiếp tục sửa đổi, bổ

sung các quy định của pháp luật, cụ thể:

- Thứ nhất, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần tăng cường phối hợp,

trao đổi thông tin với các Cục THADS tỉnh Bắc Ninh, các Viện, Trung tâm

nghiên cứu khoa học và các đơn vị liên quan tiến hành tổng kết công tác

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

Việc tổng kết có thể dưới các hình thức báo cáo thực tế, hội thảo khoa

học, viết sách, các đề tài nghiên cứu khoa học, thực hiện các luận văn thạc

sĩ, luận án tiến sĩ… để nghiên cứu rút ra những bài học kinh nghiệm, những

thành công cũng như tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong THNVDS

73

trong bản án, quyết định hình sự. Cần đặc biệt chú trọng phân tích, làm rõ

những khó khăn, vướng mắc trong THNVDS trong các vụ việc tồn đọng kéo

dài, những vụ việc phức tạp để trao đổi và đề xuất các biện pháp khắc phục,

qua đó tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần phục

vụ có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.

- Thứ nhất, sửa đổi một số quy định về hình phạt trong BLHS.

Mặc dù BLHS 2015 sửa đổi năm 2017 đã có những ưu việt nhất định,

trong đó có định hướng bảo vệ quyền con người, giảm khả năng áp dụng hình

phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không mang tính giam giữ.

Việc xây dựng BLHS 2015 sửa đổi 2017 đều hướng tới mục đích tăng phạm vi

áp dụng các hình phạt về vật chất, giảm phạm vi áp dụng các hình phạt tù. Tuy

nhiên để đảm bảo tính khả thi của các hình phạt về vật chất thì theo quan điểm

của tác giả luận văn cũng có một số kiến nghị để hoàn thiện như sau:

+ Đối với hình phạt tiền thì cần phân hóa rạch ròi mức tối thiểu và tối đa

của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và hình phạt bổ sung; cần qui

định rõ thời hạn nộp tiền phạt để hạn chế tình trạng người bị kết án chây ỳ

trong thực hiện thi hành án, gây khó khăn cho quá trình thi hành án.

+ Kiến nghị các nhà làm luật trong quá trình soạn thảo cũng nên phân

biệt hai trường hợp không có điều kiện thi hành và trường hợp có điều kiện

nhưng cố tình không thi hành các hình phạt về vật chất. Đối với trường hợp

người bị kết án không có điều kiện thi hành thì cũng nên áp dụng chính sách

nhân đạo của pháp luật mà hoãn hay miễn, giảm thi hành đối với họ. Đối với

trường hợp người bị kết án có điều kiện nhưng cố tình không thi hành thì phải

qui định rõ ràng và áp dụng hình thức lao động bắt buộc hoặc phải áp dụng

các chế tài nghiêm khác khắc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội

không chấp hành án” đối với họ.

- Thứ ba, sửa đổi quy định của Luật THADS 2008 sửa đổi năm 2014 để

nâng cao vị trí, vai tró, trách nhiệm của cơ quan THADS và quy định rõ chức

trách, nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan.

74

Để khắc phục tồn tại, bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật về

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự thì cần sớm xây dựng Bộ luật thi

hành án. Quán triệt và thể chế hóa chủ trương "sớm xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà

nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp" [16] và để "kiện toàn các tổ

chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết

định của Tòa án, của tổ chức trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh... Chuẩn bị điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý tập trung

thống nhất công tác thi hành án" [17], cũng như các Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị liên quan đến công tác thi hành án; thực hiện việc đổi mới tổ chức,

hoạt động của cơ quan thi hành án, tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Việc giao cho một cơ quan chức năng giúp Chính phủ quản lý tập trung,

thống nhất công tác thi hành án là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu

sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ, hợp lý và có hiệu quả. Hoạt

động thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống nhất

trong quản lý, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan thi hành

án và các cơ quan hữu quan, hạn chế hiệu quả của mỗi lĩnh vực thi hành án,

nhất là làm cho việc khắc phục án tồn đọng trong thi hành các nghĩa vụ dân

sự trong bản án, quyết định hình sự bị kéo dài. Việc ban hành Bộ luật thi hành

án trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh là hết

sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành án trong

tình hình hiện nay. Đối với lĩnh vực THADS, Bộ luật này phải coi bảo đảm

hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản chỉ đạo

toàn bộ nội dung của nó; tạo ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả

giữa cơ quan thi hành án với Cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, chính

quyền địa phương trong việc tổ chức thi hành án; qui định rõ và mở rộng

quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thi hành án, chấp hành viên; qui định rõ

75

trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, tổ chức, công dân trong việc thực hiện

các yêu cầu của chấp hành viên trong quá trình thi hành án; xã hội hóa một số

hoạt động THADS; kế thừa, phát triển pháp luật về THADS của nước ta,

đồng thời có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của thế giới để nâng cao hiệu

quả hoạt động của cơ quan thi hành án, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

- Thứ tư, Sửa đổi các qui định pháp luật về miễn, giảm thi hành các hình

phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết

định hình sự.

Việc qui định miễn, giảm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản và

các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự đối với người bị

kết án thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước. Các qui định về miễn,

giảm chấp hành các hình phạt được qui định trong các văn bản pháp luật như:

BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ

sung năm 2014; Thông tư số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC

ngày 15/9/2015 của liên Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính – Tòa án nhân dân tối cao –

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi

hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước và Nghị định số

125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ qui định người phải thi hành

nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được ít nhất

bằng 1/50 khoản phải thi hành thì được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành.

Song, theo phản ánh từ các cơ quan thi hành án, bên cạnh trường hợp người bị

kết án có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ

của mình, thì nhiều đối tượng đang chấp hành hình phạt tù chung thân, có hồ

sơ thi hành án đã lâu năm nhưng không có tài sản để thực hiện dẫn đến tốn

kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước như: Người bị kết án không có

tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán

chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo qui định của pháp luật

không được xử lý để thi hành án. Người không có thu nhập hoặc mức thu

nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người bị kết án và gia đình họ,

76

các trường hợp bị thiên tai, lũ lụt mà người bị kết án không còn tài sản; không

xác định được địa chỉ, nơi sinh sống hoặc tài sản của người bị kết án cũng

nằm trong diện được xem xét miễn giảm thi hành án. Chính vì vậy, nên bổ

sung trường hợp không xác định được địa chỉ, tài sản của người bị kết án thì

có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại.

- Thứ năm, bổ sung quy định để tiến tới xã hội hóa công tác thi hành án

dân sự nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.

Ngoài ra cũng cần xây dựng các qui định pháp luật để thí điểm, nhân

rộng, tiến tới thực hiện xã hội hóa trên phạm vi cả nước công tác thi hành án

theo chủ trương của Đảng, bước đầu có thể xã hội hóa việc tống đạt các văn

bản, giấy tờ THADS và xác minh tài sản của người bị kết án... nhằm tạo điều

kiện cho các cơ quan thi hành án tập trung vào những công việc thi hành án

chủ yếu, giảm gánh nặng cho các cơ quan này do tình trạng quá tải về công

việc, đồng thời nâng cao tính chất xã hội, làm cho thi hành án trở thành mối

quan tâm chung của xã hội, là trách nhiệm của xã hội.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi

dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đối ngũ chấp hành viên và cán bộ

làm công tác thi hành án dân sự

Hiệu quả công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào công tác cán bộ, vấn đề tổ

chức, biên chế, phân công hợp lý và chất lượng đội ngũ CHV, và cán bộ làm

công tác thi hành án của cơ quan THADS các cấp.

Qua khảo sát thực tiễn hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định

hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua cho

thấy: Biên chế, tổ chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ còn ít so với lượng

việc yêu cầu phải giải quyết, chất lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm

công tác của một bộ phận cán bộ còn hạn chế, trách nhiệm của một số CHV

77

chưa cao, chưa quyết liệt trong giải quyết các vụ việc, còn tư tưởng e ngại đối

với các vụ việc phức tạp. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả

THADS nói chung, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói

riêng. Do vậy, thời gian tới Chi cục THADS huyện Quế Võ cần chú trọng điều

chỉnh, sắp xếp lực lượng hợp lý, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ, năng lực và trách nhiệm của CHV và cán bộ làm công tác thi hành án của

đơn vị, cụ thể là:

Một là, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ cần có những nghiên

cứu về việc sử dụng nguồn lực cán bộ cho hợp lý, đảm bảo đủ số lượng đáp

ứng yêu cầu công tác. Đồng thời, cũng cần có những tính toán khoa học để

tiết kiệm nguồn lực cán bộ như cải tiến phương pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ

cương, lề lối làm việc nhanh chóng, hiệu quả, tăng hiệu suất công việc.

Lãnh đạo đơn vị cần nghiên cứu ban hành các quy chế, quy định về quy

trình, lề lối, tác phong làm việc đảm bảo hiệu quả, nhanh chóng, tạo điều kiện

thuận lợi trong công tác cũng như tôn trọng và phát huy vai trò, trách nhiệm

của mọi công dân trong công tác THADS nói chung và hoạt động THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, đồng thời khổng để tình trạng

nhũng nhiễu và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định Luật Công

chức và Chuẩn mực đạo đức của CHV đã ban hành.

Hai là, cần rà soát, xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ở các cấp học,

hệ học phù hợp với trình độ, năng lực của CHV và cán bộ làm công tác thi

hành án của Chi cục. Cần tăng cường cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng tại các

cơ sở đào tạo về tư pháp hành sự. Cần tăng cường cử cán bộ làm công tác thi

hành án và CHV tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về THADS

hoặc liên kết để mở các lớp tập huấn. Trong nội dung tập huấn, ngoài những

kiến thức về pháp luật hình sự, TTHS, cần đi sâu về nghiệp vụ THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự như trình tự, nội dung, phương pháp thi

hành... nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và phổ biến những kinh nghiệm

hay cũng như các bài học thất bại của các địa phương, đơn vị để cùng nhau

78

học hỏi, rút kinh nghiệm.

Ba là, cần chú trọng quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

CHV của đơn vị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác THADS trong tình hình

mới. Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Bắc Ninh đề xuất lãnh đạo Cục

THADS tỉnh Bắc Ninh quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ, lãnh

đạo cũng như các chức danh tư pháp đảm bảo đủ về số lượng, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo công tác THADS của huyện. Đặc

biệt là cần đề xuất lãnh đạo Cục THADS tỉnh kiện toàn vị trí Chi cục trưởng,

sớm quyết định bổ nhiệm lại đối với đồng chí Chi cục trưởng để đồng chí yên

tâm tư tưởng công tác, lãnh đạo chỉ đạo công tác THADS sát sao hơn.

Cần làm tốt công tác quy hoạch những cán bộ có phẩm chất, năng

lực, được đào tạo bài bản về nghiệp vụ THADS để bồi dưỡng và bổ nhiệm

chức danh CHV, Thư ký, Thẩm tra viên nhằm xây dựng đội ngũ làm công

tác thi hành án dân sự đủ về số lượng, đảm bảo trình độ, chuyên môn

nghiệp vụ và kinh nghiệm để thụ lý và thi hành án án các vụ việc phức

tạp trong tình hình mới.

Thứ tư, ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án theo hướng

chuyên môn hóa.

Do đặc điểm của công tác thi hành án, đội ngũ cán bộ nói chung luôn có

sự thuyên chuyển, dẫn đến sự xáo trộn về mặt cán bộ. Số cán bộ theo dõi thi

hành án có kinh nghiệm bị điều đi làm việc khác, số cán bộ mới không tránh

khỏi những lúng túng về mặt thủ tục, trình tự thi hành án, thậm chí có những

sai sót, sơ hở đáng tiếc trong quá trình thi hành án. Vì vậy, để tạo điều kiện

cho cán bộ làm công tác THADS có điều kiện tích lũy kinh nghiệm, hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao, thì ngoài việc đầu tư cho cho công tác đào tạo,

nâng cao trình độ chuyên môn, thì việc bố trí, ổn định cán bộ làm công tác

này là một yêu cầu hết sức cần thiết. Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế

Võ cần tính toán khoa học, hạn chế việc luân chuyển các CHV, Thẩm tra viên

để nhằm ổn định tư tưởng, bồi dưỡng được những cán bộ làm công tác thi

79

hành án giầu kinh nghiệm và có trách nhiệm cao trong công tác.

3.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo; thường xuyên tiến

hành kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự

trong bản án, quyết định hình sự

Quá trình nghiên cứu khảo sát thực tiễn công tác THADS nói chung và

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng của Chi cục THADS

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho thấy ở thời điểm nào, trong vụ việc nào

lãnh đạo đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác tiếp nhận bản án,

yêu cầu thi hành án, quan tâm chỉ đạo chặt chẽ việc phân loại án, ra quyết

định thi hành án nhanh chóng, chỉ đạo xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức

các biện pháp thi hành án ... thì việc THNVDS trong bản án, quyết định hình

sự được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả cao, đặc biệt là đối với

những vụ việc phức tạp, tồn đọng nhiều năm. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu

quả hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, lãnh đạo Chi cục

cần quan tâm thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn

các mặt công tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự tại đơn vị mình,

cụ thể là:

Thứ nhất, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cần

đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của hoạt động THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự, đảm bảo pháp chế xã

hội chủ nghĩa. Cần quán triệt cho cán bộ làm công tác thi hành án của đơn vị

mình nắm vững nội dung các quy định của Hiến pháp 2013, Luật hình sự,

Luật TTHS, Luật THADS, hiểu rõ về hình phạt, trình tự, thủ tục TTHS, chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phân công, phân cấp tiến hành các hoạt động

THNVDS của đơn vị mình được phân công. Lãnh đạo Chi cục cần phân công

những CHV có kinh nghiệm và tinh thần, trách nhiệm cao thụ lý thi hành án

các vụ việc phức tạp, số lượng việc và tiền phải thi hành án lớn, nhiều người

phải thi hành án và các đương sự có liên quan.

Thứ hai, trên cơ sở các vụ việc, vụ án đã phân công cho CHV thụ lý,

80

lãnh đạo Chi cục cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở CHV thực

hiện công tác xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp đảm bảo

thi hành án theo đúng tiến độ và đảm bảo đầy đủ các khâu theo trình tự, thủ

tục của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, chỉ đạo,

quán triệt các CHV nêu cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn để tiến hành các

biện pháp thi hành án hiệu quả. Đồng thời, cần làm tốt công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, có chế độ chính sách đối với các cán bộ trực tiếp làm công

tác thi hành án để động viên, khuyến khích số cán bộ này tích cực thực hiện

đầy đủ và có trách nhiệm các hoạt động thi hành án, tránh được những sai

phạm, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức của CHV.

Thứ ba, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ cần thường xuyên tiến

hành kiểm tra, đôn đốc việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đặc

biệt là đối với những vụ việc phức tạp, số tiền phải thi hành án lớn bằng nhiều

hình thức khác nhau như: Kiểm tra định kỳ, đột xuất, kiểm tra theo chuyên

đề... Việc tiến hành công tác kiểm tra phải thực hiện theo đúng quy trình, việc

đánh giá phải dựa trên những cơ sở khoa học, đảm bảo tránh đưa ra đánh giá

chủ quan, phiến diện. Quá trình kiểm tra, đôn đốc cần coi trọng cùng với các

CHV và cán bộ làm công tác thi hành án tìm ra khó khăn, vướng mắc trong

quá trình tiến hành thi hành án để kịp thời nắm bắt, tổng hợp và đề xuất, kiến

nghị các cấp, các ngành và các cơ quan thi hành án cấp trên có biện pháp tháo

gỡ, không để vụ việc tồn đọng, kéo dài. Đồng thời, kết hợp tăng cường hướng

dẫn các CHV, Thư ký và Thẩm tra viên còn lúng túng trong quá trình tiến

hành các biện pháp thi hành án, giúp cho cán bộ của đơn vị áp dụng đúng, đủ

các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.

Thứ tư, công tác kiểm tra phải dựa trên cơ sở những tiêu chí đánh giá rõ

ràng về công tác THADS nói chung cũng như hoạt động THNVDS trong bản

án, quyết định hình sự nói riêng đã được xây dựng để tìm ra những cán bộ,

CHV làm tốt, trách nhiệm cao trong công tác. Từ đó, có hình thức động viên,

khích lệ và có hình thức khen thưởng kịp thời, những cá nhân nào chưa làm tốt,

81

tiến độ kéo dài, để xảy ra khiếu nại, vi phạm quy định của pháp luật hoặc chuẩn

mức của CHV, cần làm rõ nguyên nhân, khó khăn, vướng mắc để có biện pháp

xử lý phù hợp. Cần đưa nội dung công tác này vào tiêu chí phân loại, bình xét

thi đua hàng quý, hàng năm cá nhân để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của

các cá nhân trong công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng.

3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự nói

chung và thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS nói

chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động truyền đạt,

giải thích rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, lứa tuổi để mọi người biết các qui

định của pháp luật về thi hành án, vận động họ tuân thủ pháp luật về thi hành

án với tính cách như là một đòi hỏi tất yếu của mỗi công dân trong xã hội văn

minh. Vì vậy, phải coi biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

nói chung và pháp luật về thi hành án nói riêng là biện pháp cơ bản thường

xuyên, có ý nghĩa quyết định trong công tác THADS nói chung, THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.

Thực tiễn cho thấy, phần lớn người phải thi hành án do thiếu hiểu biết

pháp luật nhất là các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được quy

định trong Luật THADS nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong THADS nói

chung và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Thậm chí, có

người vì sợ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân mà cung cấp những thông tin

thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho cơ quan thi hành án và CHV

trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, thậm trí chây ỳ không thực

hiện thi hành án hoặc gây khó khăn cho việc thi hành án. Vì vậy, công tác

tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là rất cần thiết, thời gian tới Chi cục

THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cần quan tâm tuyên truyền, giáo dục,

phổ biến kiến thức pháp luật THADS cho nhân dân trên địa bàn, tập trung vào

những vấn đề sau:

82

Tuyên tuyển, phổ biến các quy điịnh của pháp luật hình sự, TTHS liên quan đến hình phạt và trình tự

TTHS;

Tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật THADS và các quy định liên quan đến THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự.

Giáo dục về ý thức, tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của

những người bị kết án.

Hướng dẫn thói quen ứng xử tích cực theo pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết

định hình sự.

- Về hình thức, biện pháp thực hiện:

- Về nội dung:

Việc xác định đúng nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cho từng loại đối tượng là yếu tố

có ý nghĩa quyết định cho việc đạt tới mục đích của giáo dục pháp luật. Tuy

nhiên, nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật không thể tự thân

đi vào nhận thức, tình cảm của người được giáo dục, mà phải qua các kênh

truyền tải thông tin, qua các cách thức và biện pháp tác động nhất định, phù

hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng giáo dục. Để nâng cao hiệu quả

tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cán bộ của Chi cục THADS huyện Quế Võ

cần phải thực hiện các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

sau đây:

Phổ biến, nói chuyện về thi hành án tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã

hội, địa bàn dân cư và các trường học, trong đó phải đặc biệt chú ý các địa

bàn có nhiều người bị kết án và phải thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và

các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự.

Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin cổ động, các cuộc thi

tìm hiểu pháp luật về thi hành án. Đưa các văn bản pháp luật về THNVDS

trong bản án, quyết định hình sự vào tủ sách pháp luật theo chương trình của

Bộ Tư pháp.

Tuyên truyền pháp luật về thi hành án qua các phương tiện truyền thông

đại chúng. Các báo chí, đài phát thanh, truyền hình nên có chuyên mục pháp

luật về về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

83

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS nói

chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng nếu thực hiện

đúng theo các yêu cầu về mục đích, nội dung nói trên, thì chắc chắn đối tượng

được tác động, giáo dục sẽ có sự nhận thức đúng đắn về công tác thi hành án

dân sự và sẽ thực hiện tốt hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.

3.2.5. Xây dựng quy chế phối hợp; tăng cường thực hiện quan hệ

phối hợp với các cơ quan có liên quan trong hoạt động thi hành nghĩa vụ

dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Thực tiễn THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện

Quế Võ cho thấy đây là hoạt động rất khó khăn do người phải thi hành án là

những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, đang thi hành hình phạt tù, không có

tài sản để thi hành án. Thậm chí nhiều trường hợp người bị kết án trốn tránh,

chây ỳ THNVDS mặc dù cơ quan THADS đã áp dụng nhiều phương pháp

nhưng vẫn không thi hành được. Nhưng khi cơ quan THADS phối hợp với

các cơ quan có liên quan khác như: Công an huyện, Trại Giam, Tòa án, Viện

kiểm sát… thì việc thi hành án diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn. Có thể thấy,

trong hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự thì sự phối hợp

của các cơ quan liên quan đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, thực

tiễn tiến hành quan hệ phối hợp giữa Chi cục THADS huyện Quế Võ với các

ngành, các cấp và các cơ quan có liên quan thời gian qua có lúc, có nơi, trong

một số vụ việc cụ thể còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa đáp

ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy, thời gian tới, Chi cục THADS huyện Quế

Võ cần chủ trì xây dựng quy phối hợp và tăng cường thực hiện quan hệ phối

hợp với các cấp, các ngành trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự,

tập trung vào những nội dung sau:

Một là, Chi Cục THADS huyện Quế Võ rà soát, hoàn thiện các quy chế

phối hợp đã xây dựng với các cơ quan có liên quan như Tòa án nhân dân,

Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Công an huyện, các Trại Giam... Trong Quy

84

chế phối hợp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan đơn vị

trong việc thực hiện các khâu, các hoạt động của THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự như: Kê biên, phong tỏa tài sản, cưỡng chế thi hành án, xét

miễn, giảm thi hành án... đặc biệt trong giải quyết các vụ việc khó khăn, phức

tạp, án tồn đọng. Bên cạnh đó, cần xây dựng riêng Quy chế phối hợp với Tòa

án để làm rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi lực lượng, giúp cho quá trình thực

hiện phối hợp được hiệu quả hơn.

Hai là, nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp với các lực lượng liên

quan như phối hợp với ngành Công an trong thi hành án với những đối tượng

đang thi hành hình phạt tù tại các Trại Giam, phối hợp trong kê biên, phong tỏa

tài sản, cưỡng chế thi hành án. Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân trong việc

phân loại vụ việc có điều kiện và chưa có điều kiện thi hành án, làm các thủ tục

xét miễn, giàm thi hành án đảm bảo chính xác, khách quan, đúng trình tự, thủ

tục theo quy định. Phối hợp tốt hơn với Tòa án trong các vụ việc mà nội dung

bản án tuyên không rõ ràng, không phù hợp với thực tế; phối hợp trong việc

tuyên truyền, vận động các đối tượng tự nguyện thi hành án trong quá trình xét

xử tại Tòa và tích cực phối hợp trong xét miễn, giảm thi hành án.

Ba là, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp trong

THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cần trao đổi, thống nhất với các

lực lượng có liên quan xây dựng các quy chế ràng buộc trách nhiệm đồng thời

cũng cần quy định rõ hình thức khen thưởng đối với những cá nhân, đơn vị

thực hiện tốt và phê bình, kỷ luật đối với những đơn vị, cá nhân thiếu trách

nhiệm trong công tác. Lãnh đạo các đơn vị tham gia phối hợp phải nhận thức

được tầm quan trọng của công tác phối hợp và tăng cường giáo dục nhận

thức, tinh thần trách nhiệm trong công tác phối hợp của cán bộ đơn vị mình.

Lãnh đạo các đơn vị có liên quan cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc

nhở các cá nhân, đơn vị có nhận thức không đúng và thiếu trách nhiệm trong

thực hiện mối quan hệ phối hợp trong công tác THADS nói chung, thi hành

NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, kịp thời phát hiện, khắc

phục những hiện tượng cục bộ, đề cao vai trò cá nhân hoặc đơn vị mình trong

85

thực hiện quan hệ phối hợp. Yêu cầu cán bộ tham gia phối hợp phải báo cáo

kết quả trao đổi thông tin giữa các lực lượng theo các quy chế, kế hoạch đề ra

trong công tác thi hành án.

Hàng năm, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần tiến hành sơ kết, tổng kết

đánh giá việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong công tác

THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói

riêng, để đánh giá những thuận lợi, khó khăn, những kết quả đã đạt được,

những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực hiện phối hợp và đề ra phương

hướng, nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp trong thời gian tới.

3.2.6. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, có chế độ

chính sách phù hợp cho cán bộ làm công tác thi hành án và chấp hành viên

Việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc là

rất cần thiết không chỉ đối với riêng Chi cục THADS huyện Quế Võ mà với

nhiều đơn vị trong ngành THADS. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ

thuật và phương tiện hoạt động thi hành án sẽ giúp đảm bảo sự uy nghiêm

và hiệu quả thi hành án, nhất là khi áp dụng thi hành án bằng biện pháp

cưỡng chế. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, với vị trí, vai trò của Chi cục

THADS huyện Quế Võ, đơn vị được giao chỉ tiêu về việc và tiền phải thi

hành án khá lớn thì việc có cơ sở vật chất đầy đủ, trang thiết bị và phương

tiện hiện đại là vấn đề hết sức cấp bách. Bởi đây cũng được coi là một trong

những điều kiện sẽ đảm bảo tốt cho công tác THADS, đồng thời phù hợp với

tinh thần cải cách tư pháp, theo hướng đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ

ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư

pháp do Quốc hội phân bổ và giao cho các cơ quan tư pháp địa phương quản

lý và sử dụng; từng bước trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương

tiện làm việc; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các

cơ quan tư pháp...

Để góp phần mang lại hiệu quả công việc và đảm bảo chất lượng, góp

phần đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra

86

theo định hướng như trên, đặc biệt là tạo những điều kiện để CHV và cán bộ

làm công tác thi hành án yên tâm công tác, nêu cao tinh thần, trách nhiệm,

quyết liệt trong thi hành án, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần đề xuất, kiến

nghị lãnh đạo các cấp cần quan tâm giải quyết những vấn đề như sau:

Căn cứ vào nguồn ngân sách phân bổ hàng năm của Trung ương tăng

cường nguồn kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất, dụng cụ hỗ trợ, trang thiết bị

làm việc cho tất cả các đơn vị THADS để phục vụ công tác của ngành Tư

Pháp, tạo điều kiện về vật chất cho công tác THADS, thông qua việc xây

dựng đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho ngành Tư pháp trình

các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tiếp tục chỉnh trang, hoàn thiện trụ sở

của cơ quan thi hành án và bố trí phòng làm việc, công tác phù hợp với số

lượng biên chế của từng đơn vị. Đồng thời, quan tâm đầu tư, trang bị các

trang thiết bị cho Thư ký, Thẩm tra viên và CHV.

Cục THADS tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng quan tâm bổ sung kinh phí và

có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ làm công tác thi hành án và CHV trực

tiếp tiến hành thi hành án. Căn cứ vào các quy định, lãnh đạo Chi cục THADS

huyện Quế Võ cần phổ biến, quán triệt để cán bộ làm công tác thi hành án và

CHV nắm được quy định về mức chi, cơ chế quản lý, kiểm tra, sử dụng nguồn

kinh phí phục vụ công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự nói riêng. Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ thỏa đáng cho cán

bộ trực tiếp tiến hành thụ lý và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.

Trong những trường hợp vụ việc phải thi hành án nghiêm trọng, phức tạp, khi

các CHV tiến hành các biện pháp thi hành án hiệu quả, đảm bảo thời gian quy

định, không để tồn đọng, cần có chế độ khen thưởng đột xuất bằng vật chất và

tinh thần nhằm khuyến khích, động viên, nâng cao trách nhiệm của cán bộ,

nhân viên làm công tác thi hành án nói chung cũng như cán bộ, chấp hành

viên THADS.

87

KẾT LUẬN

Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự có vai trò quan

trọng. Nó đảm bảo cho bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên chế của Nhà nước xã

hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử phạm tội, ngoài việc

tước đi quyền tự do của những phần tử này thì Nhà nước còn tước đi của những

phần tử này về vật chất. Việc nghiên cứu hoạt động THNVDS trong bản án,

quyết định hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ nâng

cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật

nói riêng về sự cần thiết phải thực hiện đúng, đầy đủ, chặt chẽ các qui định

của pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, góp phần nâng

cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp

lý tham gia vào hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đồng

thời tạo cơ sở pháp lý cho người bị kết án được tự bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn trong Luận văn đã hệ

thống những văn bản pháp quy của Nhà nước về NVDS trong bản án, quyết

định hình sự và những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động THNVDS trong

bản án, quyết định hình sự. Đồng thời, luận văn đi sâu phân tích, làm rõ tình

hình, kết quả THADS, tinh hình về việc và tiền thuộc NVDS trong bản án,

quyết định hình sự và thực trạng hoạt động THNVDS trong bản án, quyết

định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015

đến hết năm 2019.

Từ việc khái quát, tổng kết, đánh giá một cách khách quan, khoa học,

toàn diện, luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên

nhân của hạn chế, thiếu sót của THNVDS trong bản án, quyết định hình sự

của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sơ dự báo những

vấn đề liên quan, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao

88

hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.

Tuy vậy, do khả năng có hạn của tác giả, chắc chắn không thể tránh

được những thiếu sót của luận văn, học viên rất mong nhận được sự góp ý và

nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình của các nhà khoa học,

các nhà nghiên cứu và tất cả mọi người để luận văn được hoàn thiện hơn.

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2009), Từ điển Hán - Việt, Nxb Thông tin, Hà Nội.

2. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số

02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 hướng dẫn thi hành các qui định về giảm thời hạn chấp hành

án phạt tù đối với phạm nhân, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2009), Tài liệu hội thảo quản lý thi hành án các mô hình và kinh nghiệm quốc tế, Tổ chức ngày 28 - 29/5/2009,

Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (2009), Tài liệu hội thảo hệ thống quản lý THADS và hình sự ở Trung Quốc, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2013), Quy chế phối hợp

liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân

dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2015), Thông tư liên tịch số

12/2015/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với

khoản thu nộp ngân sách nhà nước, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện - kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên

tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2016 hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành

90

án dân sự, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-

TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi

hành án dân, Hà Nội

10. Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004.

11. Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Chi cục THADS huyện Quế Võ (2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác thi hành án dân sự năm 2015, 2016, 2017, 2018,

2019.

13. Chi cục THADS tỉnh Bắc Ninh (2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác thi hành án dân sự năm 2015, 2016, 2017, 2018,

2019.

14. Chi cục THADS huyện Quế Võ - Tòa án nhân dân huyện Quế Võ - Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ - Công an huyện

Quế Võ (2016), Quy chế phối hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong công tác thi hành án

dân sự.

15. Công an huyện Quế Võ(2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.

16. Nguyễn Ngọc Chí (2010), "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học),

số 26, 2010.

17. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2008 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của

91

Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.

18. Chính phủ (2013), Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 qui định chi tiết và Hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ Tục

thi hành án dân sự, Hà Nội.

19. Chính phủ (2015), Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, Hà Nội.

23. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học quốc gia, Hà

Nội.

24. Tống Duy Lượng, "Những vấn đề đặt ra trong công tác thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 23

năm 2018.

25. Yến Minh, Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất cập, đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi

hành án dân sự - Bộ Tư pháp ngày 13/08/2013.

92

26. Lê Quỳnh Nga (2013), Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà

Nội 2013.

27. Đoàn Thị Phượng, "Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và bài học kinh nghiệm”, Tạp chí dân chủ, pháp luật số 3

năm 2019.

28. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

29. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (2012), Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác

của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013, Hà Nội.

31. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

32. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

33. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

34. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

36. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

37. Quốc hội (2019), Luật thi hành án hình sự 2019, Hà Nội.

38. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2012), Chỉ thị 19/CT-TU ngày 19/4/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh về tăng cường sự lãnh

đạo đối với công tác THADS trên địa bàn tỉnh, Bắc Ninh.

93

39. Kim Sơn Trúc (2015), Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt,

giảm thời hạn chấp hành hình phạt, Hà Nội.

41. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

42. Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang: "Hoàn thiện cơ chế xác định điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh

nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 1 (2018).

43. Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội.

44. Tổng cục THADS (2017), Quy trình thi hành án dân sự, ban hành kèm theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng

02 năm 2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Hà Nội.

45. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

BẢNG 2.1: TÌNH HÌNH VỀ VIỆC VÀ VỀ TIỀN PHẢI THI HÀNH ÁN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

94

HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

Năm

VỀ VIỆC (việc)

VỀ VIỆC (việc)

VỀ TIỀN (nghìn đồng) VỀ TIỀN (đồng)

Chia theo bản án, quyết định

Chia theo bản án, quyết định

Năm

Tổng

Tổng

Dân sự

Hình sự

Khác

Dân sự

Hình sự

Khác

2015

789

137

344

308

30.397.697

7.667.926

2.327.638

20.402.133

2016

991

148

370

473

21.888.750

11.662.917

2.956.582

7.269.251

2017

1.044

190

329

525

27.512.278

15.667.984

7.075.711

4.768.583

2018

1.116

195

456

465

28.937.000

11.843.657

6.545.614

10.547.729

2019

879

187

344

348

59.715.327

20.402.776

28.721.075

10.591.476

857 168.451.052 67.245.260 47.626.620 53.579.172 Tổng 4.819 1.843 2.119

17,8 100 39,9 28,3 31,8 100 38,2 44,0

Tỉ lệ (%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

BẢNG 2.2: KẾT QUẢ THI HÀNH ÁN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

95

Kết quả

Kết quả

Điều kiện thi hành

Điều kiện thi hành

Tổng

Tổng

Chưa

Chưa

Đình chỉ

Đang thi hành

Thi hành xong

Thi hành xong

Đình chỉ

Đang thi hành

2015

789

687

102

645

30.397.697

15.392.588 15.005.109

10.260.935

1.363.129

3.768.524

31

11

2016

991

878

113

827

21.888.750

18.127.915

3.760.835

8.121.725

683.235

9.322.955

41

10

2017

1.044

897

147

846

27.512.278

17.390.863 10.121.415

10.245.452

3.263.406

3.882.005

32

19

2018

1.116

996

150

918

28.937.000

13.482.785 15.454.215

8.254.171

1.590.652

3.637.962

60

18

2019

879

732

147

668

59.715.327

23.262.713 36.452.614

14.946.189

942.923

7.373.601

55

9

Tổng

4.819 4.190 659

3.904

67

219

168.451.052

87.656.864 80.794.188

51.828.472

7.843.345

27.985.047

Tỉ lệ

100

86,3

13,7

93,2

1,6

5,2

100

52,0

48,0

59,2

8,9

31,9

(%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

96

BẢNG 2.3: THỐNG KẾ SỐ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ TIẾP NHẬN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

Bản án

Quyết định hình sự

Năm

Phân loại

Tổng

Tổng

Tăng (+)/Giảm(-)

Tăng(+)/ Giảm(-)

Ma túy

Khác

2015

122

+8

58

0

64

0

2016

133

+11

102

0

31

0

2017

144

+11

58

0

86

0

2018

231

+87

134

0

97

0

2019

183

-48

101

0

82

0

- 453 360

Tổng

0 - 813

100 - 44.3 55.7 0 -

Tỉ lệ (%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

97

BẢNG 2.4: TÌNH HÌNH VIỆC VÀ TIỀN VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ PHẢI THI HÀNH ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

VỀ VIỆC (việc)

VỀ TIỀN (nghìn đồng)

Phân loại theo bản án

Phân loại theo bản án

Năm

Tổng

Tổng

Ma túy

Khác

Ma túy

Khác

2015

2016

344 38 2.327.638 137.211 2.190.427 306

2017

370 85 2.956.582 397.410 2.559.172 285

2018

329 137 7.075.711 452.943 6.622.768 192

2019

456 184 6.545.614 426.352 6.119.262 272

344 121 28.721.075 331.618 28.389.457 223

1.278 565 47.626.620 1.745.534 45.881.086

30,7 69,3 3,7 96,3 100 100

Tổng 1.843 Tỉ lệ (%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

98

BẢNG 2.5: KẾT QUẢ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

VỀ VIỆC (việc)

VỀ TIỀN (nghìn đồng)

Kết quả

Kết quả

Điều kiện thi hành

Năm

Điều kiện thi hành

Tổng

Tổng

Chưa

Chưa

Thi hành xong Đình chỉ

Đình chỉ

Miễn, giảm

Đang thi hành án

Đang thi hành án

2015

344

262

Thi hành xong 256

82

2.327.638

962.266

665.426

8.450

2

1.365.372

96.582

4

2016

191.808

370

283

275

87

2.956.582

1.5532.58

1.263.791

43.263

3

1.403.324

12.282

5

2017

233.922

93

329

236

223

12

7.075.711

4.910.503

4.811.439

92.075

2.165.208

6.988

1

2018

0

456

366

90

355

6.545.614

2.547.770

7

3.997.844

2.4184.16 100.355 11.998

4

2019

17.001

344

265

79

250

78.817

3

28.721.075 7.483.174 21.237.901 4.405.803

8.400

12

2.990.154

27

26

47.626.620 17.456.971 30.169.649 13.564.875 322.960 136.250 3.432.885

19,7

96,3

76,6

23,4

100

1,9

1,8

100

36,7

63,3

77,7

1,9

0,8

Tổng 1.843 1.412 431 1.359 Tỉ lệ (%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

99

BẢNG 2.6: KẾT QUẢ PHỐI HỢP VỚI TRẠI GIAM, TRẠI TAM GIAM ĐỂ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

VỀ VIỆC (việc)

VỀ TIỀN (nghìn đồng)

Năm

Phải thi hành

Kết quả

Kết quả

Phải thi hành

2015

178

1.136.285

167

541.899

2016

206

1.489.241

141

871.870

2017

202

1.662.976

133

394.319

2018

299

4.153.119

234

1.078.049

2019

230

23.649.580

170

830.353

Tổng

1.115 32.091.201 3.716.490 845

100 100 11,6 75,8

Tỉ lệ (%)

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

BẢNG 2.7: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC, BIÊN CHẾ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ

ĐẾN THÁNG 12/2019

CHỨC DANH

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO

LÃNH ĐẠO

ĐẢNG VIÊN

TỔNG QUÂN SỐ

Thẩm tra viên

Thư ký

Sau ĐH

Đại Học

Trung cấp

Chấp hành viên

11

03

04

01

02

10

01

09

0

Tỉ lệ %

27,3

36,4

9,1

18,2

90,9

9,1

81,8

0

Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh