HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỐC CƯỜNG
THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỐC CƯỜNG
THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
Mã số: 8 38 01 04
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Minh Chất
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Quốc Cường
MỤC LỤC
Mở đầu Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ Trang 1 8
DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự 8
1.2. Khái niệm, vai trò, đặc điểm, quy trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong 17
bản án, quyết định hình sự
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 29
quyết định hình sự
Chương 2 THỰC TRANG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG 38
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
2.1. Tình hình có liên quan đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 38
quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết 45
định hình sự trên địa bàn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh
2.3. Nhận xét, đánh giá 59
Chương 3 DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI 69
HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH
BẮC NINH
3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản 69
án, quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, 72
quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
89
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CHV: Chấp hành viên
NVDS: Nghĩa vụ dân sự
THADS: Thi hành án dân sự
THNVDS: Thi hành nghĩa vụ dân sự
TTHS: Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng
Bảng 2.1: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.3: Thống kế số bản án, quyết định hình sự đã tiếp nhận của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015 - 2019
Bảng 2.4: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án thuộc nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.5: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.6: Kết quả phối hợp với Trại giam trong thi hành thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.7: Tổ chức, biên chế của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Quế Võ giai đến hết tháng 12/2019
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân đòi hỏi Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để khẳng định yêu cầu này, Điều 106
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
"Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành" [31]. Vấn đề cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của các cơ quan Tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ
quan và cán bộ Tư pháp, trong đó có cơ quan THADS được coi là một trong
những nội dung quan trọng trong cải cách thể chế và phương thức hoạt động
của Nhà nước.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là một nội
dung quan trọng của THADS. Hoạt động này mang tính quyền lực nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản
và thi hành các quyết định dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị
kết án. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án
hình sự, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự có mối quan hệ hữu cơ
với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự không đạt được thì hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở
nên vô nghĩa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự, trong những năm vừa qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp với các lực lượng tổ
chức THNVDS trong bản án, quyết định hình sự và đã đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của công tác thi hành
2
án dân sự trên địa bàn huyện nói chung; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo
dài đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số việc thi hành án có ảnh hưởng
đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương cũng đã
được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo và tổ chức thi hành hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Số lượng việc,
đặc biệt là lượng tiền tồn đọng qua các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định
về hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tổ chức thi hành dứt
điểm. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan
như: Về chủ quan: Một số CHV, cán bộ làm công tác thi hành án còn hạn chế
về chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa tận tụy với
công việc. Về khách quan: Ý thức chấp hành pháp luật của người dân trên địa
bàn huyện còn chưa cao; nhiều vụ việc người phải thi hành án cố tình chây ỳ,
trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ thi hành án; một số cấp ủy, chính quyền
địa phương chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc phối hợp
giải quyết việc THADS theo quy định của pháp luật; công tác phối hợp thi
hành án của một số cơ quan hữu quan theo qui định của pháp luật còn chưa
chặt chẽ và đồng bộ; cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật THADS chưa được
hoàn thiện, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về THADS chưa đầy đủ,
chưa được sửa đổi, bổ sung đồng bộ; cơ chế áp dụng pháp luật thi hành án hiện
nay chưa thực sự hợp lý, làm giảm hiệụ quả của công tác THADS. Thực tế đó,
đòi hỏi cần phải có những giải pháp tổng thể khắc phục những hạn chế nêu trên
nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự của Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đảm bảo cho các bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
Xuất phát từ lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh" để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên các sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án
nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học
v.v...). Tuy nhiên, các công trình, bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung
mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập
đang tồn tại trong thực tiễn.
Trong các giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học, Học viện cũng chỉ
đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản về vấn đề này ở các công trình sau:
- GS.TSKH Lê Cảm: "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố
tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004 [10];
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010 [16];
- Yến Minh: "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất
cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ
Tư pháp ngày 13/08/2013 [25].
- Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001 [43];
- Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003 [41];
- Kim Sơn Trúc: "Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực
tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội 2015 [39].
- Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang: "Hoàn thiện cơ chế xác
định điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 1 (2018) [42].
- Tống Duy Lượng, "Những vấn đề đặt ra trong công tác thi hành án
dân sự, kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 23 năm 2018 [24].
- Đoàn Thị Phượng, "Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và
4
bài học kinh nghiệm”, Tạp chí dân chủ, pháp luật số 3 năm 2019 [27].
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống
về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án và các giải pháp
nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án dưới
cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bổ sung góp phần hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ lý luận THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của cơ quan thi hành án dân sự.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nêu ra ưu điểm kết quả đã đạt
được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiết sót và nguyên nhân của hạn chế,
thiếu sót trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện
Quế Võ, tỉnh bắc Ninh.
- Dự báo tình hình có liên quan và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
5
Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu, khảo sát hoạt động thi
hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản
án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Về chủ thể: Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2019.
- Về không gian: huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, chính sách THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của tòa án và các Nghị quyết và Chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước về pháp luật hình sự và pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự của tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả luận văn đã nghiên cứu, phân
tích, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình khoa học của
các nhà khoa học nghiên cứu về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của tòa án. Kết quả nghiên cứu tài liệu được tác giả trình bày ở phần nhận thức
chung về hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án;
- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Từ các báo cáo tổng kết công
tác năm của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm
2015 đến hết năm 2019, học viên đã thống kê, phân tích các số liệu có liên
quan đến tình hình, đặc điểm các bản án và quyết định hình sự của Tòa án và
kết quả thi hành bản án và quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
6
Bắc Ninh. Kết quả phân tích, thống kê số liệu đã được tác giả sử dụng để làm
rõ những nội dung về thực trạng hành bản án và quyết định hình sự trên địa
bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ở Chương 2.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ những báo cáo kết quả THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để
so sánh, phân tích, đánh giá các kết quả đã đạt được trong công tác này.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Trên cơ sở khảo sát thực trạng
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh làm rõ, tác giả đã lựa chọn, nghiên cứu những vụ việc điển hình để
đưa vào làm ví dụ minh chứng trong luận văn. Qua nghiên cứu, làm rõ tình
hình, đặc điểm và chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến những hạn
chế trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Đề tài nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
các mặt hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, phân tích, đánh giá và đưa ra những
nhận xét về những kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân của
hạn chế, thiếu sót để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp trao đổi với các nhà khoa học, các
đồng chí lãnh đạo, cán bộ chấp hành viên có kinh nghiệm trong THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh;
tiến hành xin ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ
thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các nội dung trong luận văn để tác giả tiếp thu,
chỉnh sửa và hoàn thiện luận văn.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Bổ sung, hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự. Những giải pháp là cơ sở cho việc nghiên cứu, tổng kết trong lực lượng thi
hành án nói chung, là tài liệu nghiên cứu học tập, tham khảo trong các cơ sở
7
đào tạo tư pháp nói riêng. Những kết quả nghiên cứu của luận văn đã đạt được
sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về khoa học luật tố tụng hình sự, là
tài liệu tham khảo hữu ích cho những cán bộ nghiên cứu về khoa học luật tố
tụng hình sự và khoa học tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Xác định những nguyên nhân hạn chế, thiếu sót và đưa ra các giải góp phần
nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Nhận thức về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự.
Chương 2: Tình hình liên quan và thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ
TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.1. NHẬN THỨC VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
Bản án, quyết định hình sự là quyết định bằng văn bản của Tòa án nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử một vụ án hình sự cụ
thể. Trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án các NVDS phát sinh từ
quyết định hình phạt tiền; quyết định tịch thu tài sản; quyết định truy thu tiền,
tài sản thu lời bất chính; quyết định về án phí quyết định trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, cấp dưỡng (gọi chung là
các quyết định dân sự trong bản án). Do vậy, để làm rõ NVDS trong bản án,
quyết định hình sự, trước tiên cần làm rõ về hình phạt tiền, tịch thu tài sản và
các quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự:
1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền và tịch thu tài sản
1.1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền
- Khái niệm:
Theo Điều 30 BLHS, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định: “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong
Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người ,
pháp nhân thương mại đó” [36].
Mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội đồng thời còn nhằm mục đích đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.
Mặc dù được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, song vẫn chưa
có một khái niệm pháp lý chính thức nào về hình phạt tiền trong các văn bản
pháp luật hình sự và cho đến nay hình phạt tiền mới chỉ được ghi nhận trong
9
các giáo trình, sách báo pháp lý chuyên ngành. Có thể kể đến một số quan
điểm sau:
- Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa
án quyết định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án
buộc phải trả một số tiền tùy theo mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến
động của giá cả.
- Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo
không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một
khoản tiền nhất định.
- Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất
định sung công quỹ nhà nước.
Các khái niệm trên mặc dù đã cố gắng chỉ ra các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của hình phạt tiền nhưng còn dài dòng, chưa phù hợp với một khái niệm
mang tính chất pháp lý. Khái niệm "Phạt tiền là hình phạt tước của người
phạm tội một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước" sử dụng thuật
ngữ pháp lý "người phạm tội" để chỉ đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền là
chưa hợp lý vì chỉ những người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tiền
mới bị tước một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Do vậy, sẽ là
chính xác hơn nếu sử dụng thuật ngữ "người bị kết án" thay cho thuật ngữ
"người phạm tội".
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Phạt tiền là hình phạt được qui định
trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhằm tước đi của người bị kết án một khoản
tiền nhất định sung công quỹ nhà nước.
- Căn cứ áp dụng hình phạt tiền:
Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, hình phạt tiền có thể được áp dụng
là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Trong tổng số 318 Điều luật qui
định về tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung
10
2017, số điều luật qui định hình phạt tiền là hình phạt chính có 114/318 chiếm
tỷ lệ 35,8%.
Tại Khoản 1 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định
các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘1. Hình phạt chính
bao gồm: Phạt tiền” [36]
Khoản 1 Điều 35 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định căn
cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt chính như sau:
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp
sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ
luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội
phạm khác do Bộ luật này qui định.
...
4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy
định tại Điều 77 của Bộ luật này [34].
Điều 77 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định quy định:
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ
sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
2. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của của
pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng
không được thấp hơn 50.000.000 đồng [36].
Như vậy, phạt tiền được qui định là hình phạt chính cho các nhóm tội
phạm sau:
+ Nhóm tội phạm có tính chất vụ lợi, như: Tội buôn lậu; tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm; tội đầu cơ; tội trốn thuế; tội lừa dối khách hàng...
11
+ Nhóm tội phạm dùng tiền làm phương tiện phạm tội, như: Tội đánh
bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc...
+ Nhóm tội phạm khác: đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp
trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt
chính đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích của hình phạt,
như: Tội gây rối trật tự công cộng; tội hành nghề mê tín dị đoan; tội truyền bá
văn hóa phẩm đồi trụy; tội vi phạm qui chế về khu vực biên giới; tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; tội vi phạm quy
định về xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép...
+ Pháp nhân thương mại phạm tội.
Ngoài ra để quyết định áp dụng phạt tiền là hình phạt chính thì phải
căn cứ theo qui định chung tại Điều 50 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017:
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào qui định của Bộ luật
này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều này, Toà án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi
hành của người phạm tội [36].
Một điều kiện không thể bỏ qua khi quyết định áp dụng phạt tiền là hình
phạt chính là điều kiện kinh tế của người phạm tội phải có khả năng thực hiện
nộp một khoản tiền nhất định theo hình thức một lần hay nhiều lần trong thời
hạn do Tòa án quyết định.
Phạt tiền còn được áp dụng là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình
phạt Việt Nam. Tại Khoản 2 Điều 35 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 qui định căn cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung như sau: “2.
Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về
tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này qui đinh” [36].
12
Khoản 2 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các
hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘2. Hình phạt bổ sung bao
gồm: Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính” [36]
Trong tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật qui
định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung có 126/318 chiếm tỷ lệ 39,6%. Phạt
tiền được qui định là hình phạt bổ sung cho các nhóm tội phạm sau:
+ Nhóm tội phạm về tham nhũng, như: Tội tham ô; tội nhận hối lộ; tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ...
+ Nhóm tội phạm về ma túy, như: Tội trồng cây thuốc phiện, cây cooca,
cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tội sản xuất trái phép
chất ma túy; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy...
+ Nhóm tội phạm khác: Đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp
trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ
sung đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích trừng trị người
phạm tội và mục đích phòng chống tội phạm, như: tội mua bán người; tội mua
bán người dưới 16 tuổi; tội đánh tráo người dưới 01 tuổi; tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi; tội vu khống và một số tội phạm về xâm phạm sở hữu...
+ Pháp nhân thương mại phạm tội.
Để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Tòa án còn căn cứ vào qui
định chung tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Điểm khác biệt so với trường hợp áp dụng phạt tiền là hình phạt chính
thì khi áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung, điều kiện kinh tế của người
phạm tội không phải là điều kiện bắt buộc để áp dụng.
1.1.1.2. Khái niệm hình phạt tịch thu tài sản và căn cứ áp dụng hình
phạt tịch thu tài sản
- Khái niệm:
Theo quy định tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
13
“Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của
người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước” [36].
Tịch thu tài sản là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc về mặt kinh
tế. So sánh với các hình phạt chính không tước quyền tự do và cả với một
số hình phạt bổ sung khác thì hình phạt tịch thu tài sản còn nghiêm khắc
hơn rất nhiều.
Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể hiện ở chỗ người bị kết án có
thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của họ để nộp vào
ngân sách Nhà nước, nhằm mục đích triệt để thu hồi các tài sản của người bị
kết án do thu lợi bất chính mà có, đồng thời triệt tiêu cơ sở kinh tế của họ
nhằm ngăn ngừa họ có thể sử dụng các tài sản đó vào hoạt động phạm tội, gây
nguy hại cho xã hội, thông qua đó giáo dục người bị kết án ý thức tôn trọng
pháp luật, không phạm tội mới và răn đe những người có nguy cơ phạm tội
trong xã hội, thực hiện phòng ngừa chung trong xã hội. Như vậy, chức năng
cơ bản của loại hình phạt này là chức năng phòng ngừa tội phạm.
- Căn cứ áp dụng hình phạt tịch thu tài sản:
Theo qui định tại điểm đ Khoản 2 Điều 32 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 thì tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung nên chỉ được áp dụng
cùng các hình phạt chính chứ không được áp dụng một cách độc lập. Trong
tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật có qui định
hình phạt tịch thu tài sản là 47/318 chiếm tỷ lệ 14,7%.
Tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi , bổ sung năm 2017 qui định điều
kiện áp dụng hình phạt tịch thu tài sản như sau:
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma
tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này qui định. Khi
tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ
có điều kiện sinh sống [36].
14
Như vậy, với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng không bị áp dụng
hình phạt tịch thu tài sản. Ngoài ra, để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta
thì trong trường hợp người bị kết án bị tịch thu toàn bộ tài sản, các cơ quan tố
tụng trong quá trình thực hiện vẫn phải để cho người bị kết án và gia đình họ
có điều kiện sinh sống.
Các tội có thể bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản là các tội thuộc nhóm
tội xâm phạm an ninh quốc gia theo như qui định của Điều 122 BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế; các tội về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng; các tội về chức vụ.
Tài sản bị tịch thu phải thuộc sở hữu của người bị kết án hoặc tài sản do
người phạm tội có được do thu lời bất chính.
1.1.2. Khái niệm, căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự
1.1.2.1. Khái niệm
Trong các bản án hình sự của Tòa án, bên cạnh các quyết định về hình
phạt tù, hình phạt tiền, tịch thu tài sản còn có các quyết định dân sự khác.
Quyết định dân sự trong các bản án hình sự như quyết định về án phí; các
quyết định dân sự thuộc phần các biện pháp tư pháp qui định trong chương
VII của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như: quyết định tịch
thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47); quyết định trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; quyết định buộc công khai xin
lỗi (Điều 48).
Như vậy có thể hiểu: Quyết định dân sự trong bản án hình sự là các
phán quyết pháp lý mang tính quyền lực do Tòa án có thẩm quyền ban hành
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức
hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm
pháp luật.
1.1.2.2. Căn cứ áp dụng
15
Cơ sở pháp lý để thực hiện vấn đề này là Bộ luật TTHS. Điều 30 Bộ luật
TTHS năm 2015 quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như
sau: Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng
với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết
vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Các hoạt động của cơ quan Nhà nước nói chung và của các cơ quan tiến
hành tố tụng nói riêng đều cần một khoản chi phí nhất định. Chính vì vậy,
Nhà nước buộc người bị kết án phải chịu một khoản chi phí là án phí để bù
đắp các chi phí tiến hành TTHS.
Người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm nếu có lỗi và làm
phát sinh các thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng và danh dự, nhân phẩm
của người khác nên ngoài trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm về
dân sự. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh, giải quyết trách nhiệm
hình sự cũng phải chứng minh, giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh do
hành vi phạm tội và đó là các căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự như quyết định: trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại, công khai xin lỗi.
1.1.3. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Hình phạt phạt tiền và tịch thu tài sản dù với vai trò là hình phạt chính
hoặc bổ sung do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định hình sự thì đều
dẫn đến một hậu quả là tước bỏ của người bị kết án một phần hoặc toàn bộ tài
sản, tiền nên về bản chất dưới góc độ pháp luật dân sự thì đó lại là các nghĩa
vụ dân sự phát sinh từ các quyết định hình sự trong bản án, quyết định hình sự
và ngoài ra còn nhiều nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định dân sự khác
mà tòa án quyết định buộc người bị kết án phải chịu.
Các quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự
như trên sau khi được Tòa án quyết định áp dụng thì phát sinh các nghĩa vụ
16
dân sự trong bản án, quyết định hình sự mà người bị kết án phải thi hành.
Do đó, có thể đưa ra khái niệm nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự như sau:
Nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là các nghĩa vụ phát
sinh từ các quyết định về hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và các
quyết định dân sự khác do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định hình sự
đối với người bị kết án và người bị kết án phải chấp hành.
Các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định về hình phạt tiền, tịch
thu tài sản, quyết định án phí trong bản án, quyết định hình sự là các hình phạt
thể hiện tính tuyệt đối quyền lực Nhà nước, người bị kết án sẽ bị Tòa án quyết
định áp dụng mà không có bất cứ sự thỏa thuận nào trong quá trình tố tụng.
Sau khi các quyết định này có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án phải thi
hành và người được thi hành là Nhà nước, tiền và tài sản thu được sẽ sung
quỹ Nhà nước.
Các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định về trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại, công khai xin lỗi tuy mang tính quyền lực Nhà
nước nhưng không phải tuyệt đối vì trong quá trình tố tụng các cơ quan tố
tụng có thể cho các bên thỏa thuận giải quyết trừ các trường hợp thiệt hại vật
chất là yếu tố thuộc cấu thành của tội phạm. Đến giai đoạn thi hành các nghĩa
vụ này các bên vẫn tiếp tục có quyền thỏa thuận thi hành cho dù không được
thỏa thuận ở giai đoạn tố tụng.
1.2. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, QUY TRÌNH THI HÀNH
NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự
1.2.1.1. Khái niệm thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự
Để làm sáng tỏ khái niệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của tòa án, trước hết cần làm rõ khái niệm thi hành án.
17
Theo từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, "Thi hành" là "đem
cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [1]. Theo Đại Từ điển
tiếng Việt, thi hành là "thực hiện điều đã chính thức quyết định" [45]. Như
vậy, thi hành bản án và quyết định hình sự có thể được hiểu là đem bản án và
quyết định hình sự của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế
cho có hiệu quả. Bản án, quyết định hình sự của Tòa án được hiểu là văn bản
pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các
vấn đề trong vụ án hình sự.
Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án nói
chung trong đó có khái niệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của
tòa án, còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư và ThS. Nguyễn Công Bình
cho rằng: “thi hành án là một giai đoạn tố tụng”.
Quan điểm thứ hai của PGS.TS Võ Khánh Vinh và TS. Đinh Trung
Tụng cho rằng “thi hành án là một giai đoạn mang tính hành chính - tư
pháp”. Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng.
Các quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý và đều dựa trên những luận
cứ khoa học nhất định nhưng về vấn đề này tác giả thấy quan điểm thứ hai
hợp lý hơn, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định của
Tòa án, các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chỉ yếu là cơ quan tư
pháp (theo nghĩa rộng).
Thứ hai, thi hành án có mối quan hệ mật thiết và đan xen với các giai
đoạn tố tụng hình sự trước đó. Tuy nhiên, thi hành án lại mang tính độc lập
tương đối, bởi đây là hoạt động mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất
cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Các cơ quan, tổ chức và các công dân trong phạm vi trách nhiệm của mình
có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để việc thi hành án được tiến
hành hiệu quả.
18
Thứ ba, thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một
cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể sẽ được nhân dân ủng hộ,
đồng tình thì việc thi hành sẽ được thực hiện thuận lợi, nhanh chóng và
hiệu quả. Việc thi hành án được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả sẽ tác
động tích cực đối với các hoạt động tố tụng được tiến hành trước đó như
hoạt động xét xử của Tòa án, giúp củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan
xét xử. Ngược lại, nếu một bản án, quyết định của Tòa án tuyên không
khách quan, toàn diện, thiếu công bằng và tính khả thi thì việc tổ chức thi
hành án sẽ bị cản trở, gặp nhiều khó khăn thậm trí bế tắc kéo dài, làm giảm
lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước.
Thứ tư, bản chất của hoạt động thi hành án là hoạt động chấp hành
phán quyết của Tòa án với các hình thức, biện pháp khác nhau nhằm buộc
người có nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện nghĩa
vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là đảm bảo cho các phán
quyết ghi trong bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trong thực
tiễn chứ không phải là ra văn bản pháp luật hay quyết định có tính chất
điều hành – nét đặc trưng của hoạt động hành chính.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau:
Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ
quan Nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết
định khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thi hành án đối với bản án, quyết định hình sự của Tòa án gồm hai phần:
Phần thứ nhất là thi hành án hình sự được quy định tại Luật thi hành án
hình sự năm 2019 (gồm: Thi hành án phạt tù; Thi hành án tử hình; Thi hành
án treo; Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ; Thi hành án phạt cấm cư
19
trú; Thi hành án phạt quản chế; Thi hành án phạt trục xuất; Thi hành án phạt
tước một số quyền công dân; Thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh; Thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Thi
hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng).
Phần thứ hai là THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Toà án là một
trong những nội dung quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Theo
quy định tại Điều 1, khoản 1 Điều 2 và Mục 1 Chương V, Luật THADS năm
2008 sủa đổi bổ sung năm 2014 thì những vụ việc phải thi hành án trong bản
án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan Thi hành án dân sự
bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và phần quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự gồm các việc như thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh sự, nhân phẩm; bồi thường
thiệt hại về tài sản…
Điều này có nghĩa các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật mới được đem thi hành theo qui định tại Điều 1, Khoản 1 Điều 2 và
Mục 1 Chương V, Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (trừ một
số trường hợp mặc dù chưa có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn được thi hành ngay
theo qui định tại khoản 2 Điều 2 của Luật THADS năm 2008). Cụ thể:
Thứ nhất, những bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Đó là bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm của Tòa án.
Thứ hai, những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay. Đó là bản án, quyết định hình sự của Tòa án cấp
sơ thẩm về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất
20
tinh thần của công dân; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo qui định, những bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu
lực pháp luật được đưa ra thi hành phải được thực hiện qua một trình tự,
thủ tục, tổ chức thi hành theo quy định của Luật thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Đó là việc Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự nơi tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án trong thời hạn năm ngày làm
việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định (chủ động ra quyết định thi
hành án đối với quyết định về: hình phạt tiền; tịch thu tài sản; tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính;
nộp án phí) hoặc nhận được đơn yêu cầu thi hành án của người được thi
hành án (ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án đối với
quyết định về: công khai xin lỗi; sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; hoàn
trả tài sản; cấp dưỡng; bồi thường thiệt hại và tính mạng, sức khoẻ; bồi
thường thiệt hại về tài sản) theo qui định tại Điều 36 Luật thi hành án dân
sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động
hành chính - tư pháp của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên tiến
hành theo trình tự thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án của Tòa án
được thực hiện trên thực tế, buộc người bị kết án phải thực hiện quyết định về
hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác (bằng
tài sản hay phi tài sản) nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.2.1.2. Vai trò của thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự
- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự giúp củng
cố kết quả xét xử và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án góp phần đảm
bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là giai đoạn
21
tiếp theo của quá trình xử lý các vụ án hình sự, nhằm thi hành bản án, quyết
định của Tòa án. Do vậy, việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trong thực tiễn và góp phần
củng cố kết quả xét xử và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những phán
quyết mà Tòa án đưa ra thuộc NVDS trong các bản án, quyết định hình sự là
sự thể hiện ý chí của Nhà nước trong giải quyết các vụ án hình sự. Vì vậy, khi
bản án được thi hành là đảm bảo hiệu lực pháp luật, hiệu lực pháp lý của Nhà
nước, củng cố kết quả xét xử của Tòa án nhân dân các cấp góp phần đảm bảo
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, có thể thấy tính chất đa dạng, phức tạp của các vụ án hình
sự, trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, trình độ,
năng lực của một bộ phận cán bộ chưa cao. Do vậy, có thể dẫn tời những sai
xót trong quá trình xét xử. Vì vậy, quá trình THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm thực tiễn những phán quyết của
Tòa án, phản ánh trung thực nhất chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án nhân dân tối cao
tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm đưa ra phương hướng xét xử chung, thống
nhất trong toàn ngành.
- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự giúp răn
đe, phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật góp phần quan trọng trong
công tác bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động
mang tính quyền lực, cưỡng chế và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc thực thi có hiệu quả
NVDS trong bản án, quyết định hình sự sẽ giúp vụ án hình sự được giải quyết
triệt để, tính nghiêm minh của pháp luật được thực thi, các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân được đảm bảo sẽ có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng
ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, có thể thấy THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự là công cụ quan trọng để Nhà nước duy trì
22
trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, là cơ sở để đảm
bảo công bằng, công lý xã hội, tạo điều kiện để thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế, xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Thông qua hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của cán bộ và người dân.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự không chỉ là
hoạt động nghiệp vụ của cơ quan THADS, mà đó là trách nhiệm của cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, các ngành, các cấp, các cơ quan có liên quan
và của cả hệ thống chính trị. Quá trình tiến hành các hoạt động thi hành án sẽ
giúp nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ các cơ quan tham gia phối hợp thi
hành án. Đồng thời, trong quá trình thi hành án, bên cạnh việc tiến hành các
biện pháp thi hành án, cơ quan thi hành án còn tiến hành các hoạt động tuyền
truyền, vận động người phải thi hành án và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, nhờ vậy sẽ nâng cao nhận thức và ý thức
chấp hành pháp luật của các tâng lớp nhân dân.
1.2.1.3. Đặc điểm thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự
Xuất phát từ đặc điểm NVDS trong bản án, quyết định hình sự mà
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cũng có những đặc điểm như sau:
- Thi hành nghĩa vụ trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động hành
chính - tư pháp.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động
tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng), đó là hoạt động nhằm thi hành NVDS trong
bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời gồm các hoạt động bổ trợ tư pháp.
Điều này thể hiện rõ trong việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của
Tòa án nhằm đảm bảo cho việc xét xử, cũng như đảm bảo cho việc thi hành
án sau này, mặc dù chưa có kết quả xét xử của Tòa án. Cơ sở của hoạt động
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là các bản án, quyết định của Tòa
án được đưa ra thi hành. Mục đích của hoạt động THNVDS trong bản án,
23
quyết định hình sự là đảm bảo cho phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được thực hiện trong thực tiễn. Và theo quy định của Luật THADS 2008,
sửa đổi bổ sung năm 2014 đã quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân thủ
pháp luật về thi hành án của cơ quan THADS… Như vậy, có thể khẳng định,
hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động tư pháp.
Bản chất của hoạt động thi hành án là hoạt động chấp hành nhưng là
chấp hành phán quyết của Tòa án với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
- Hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
mang tính tài sản.
Do bản chất của quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản, chính vì
thế mà quá trình THNVDS trong bản án, quyết định hình sự mang tính tài
sản nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, tức là khôi phục lại những lợi ích vật chất trước đó của người được
thi hành án. Do đó, trong quá trình tiến hành phải thực hiện theo các trình
tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong Luật THADS và các văn bản pháp
luật có liên quan giống như những thủ tục tố tụng trước đó đều liên quan
đến quyền công dân.
- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là hoạt
động mang tính quyền lực Nhà nước.
Hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nhằm đảm bảo
cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trong thực tiễn và cơ
quan THADS được áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp
luật. Các chủ thể tham gia phải tôn trong bản án, quyết định của Tòa án nhân
danh Nhà nước, có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ
của mình để bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân. Cơ
24
quan THADS được thực biện các biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy
định của pháp luật để THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự mang tính
định đoạt.
Xuất phát từ quyền định đoạt của các chủ thể trong Luật dân sự, các chủ
thể được phép sử dụng quyền của mình theo nhiều cách thức khác nhau để
bảo vệ lợi ích của mình. Chủ thể có quyền yêu cầu chủ thể khác thực hiện
hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng
lợi ích, ở đây là việc người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thực
hiện thi hành án (thi hành án theo yêu cầu). Quyền lợi của người được thi
hành án chỉ có thể được thực hiện khi cơ quan thi hành án thực hiện một hoặc
nhiều hoạt động tích cực như ra quyết định thi hành án, quyết định kê biên tài
sản…Người được thi hành án trong thời gian do pháp luật quy định có yêu
cầu cơ quan thi hành án buộc người phải thi hành án bảo vệ quyền lợi của
mình theo quyết định có hiệu lực của Tòa án và trách nhiệm của cơ quan thi
hành án là phải đưa ra quyết định thi hành án.
- Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự mang tính
thỏa thuận.
Pháp luật công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người được thi hành án
và người phải thi hành án về việc chấp hành phán quyết của Tòa án trong bản
án, nếu sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Chỉ khi
các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về phương thức thi hành án
và người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện mới
bị cưỡng chế thi hành án. Người phải thi hành án có quyền yêu cầu về việc thi
hành án khác với nội dung bản án, quyết định đã tuyên và được người được
thi hành án chấp nhận thì việc thi hành án được thực hiện theo yêu cầu đó.
1.2.2. Quy trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là một nội
25
dung của thi hành án dân sự. Vì vậy, quy trình THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự được thực hiện theo Quy trình thi hành án dân sự, ban hành kèm
theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng 02 năm 2017 của Tổng
cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, theo đó, việc thi hành án dân sự nói
chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực hiện
theo các bước như sau:
- Tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án
Tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án là hoạt động của cơ quan thi hành
án tiến hành các thủ tục tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án của Tòa án.
Việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án do Thẩm tra viên hoặc Thư ký chịu
trách nhiệm chính. Văn thư, công chức phụ trách bộ phận một cửa có trách
nhiệm phối hợp thực hiện.
Khi tiếp nhận trực tiếp (từ bộ phận một cửa), cán bộ tiếp nhận tiến hành
viết Phiếu nhận đơn hoặc hướng dẫn cho người yêu cầu, lập biên bản ghi nhận
yêu cầu thi hành án trong trường hợp người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng
lời nói.
Trường hợp tiếp nhận trực tuyến thì thực hiện những công việc quy định
tại Quy trình hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án. Trường hợp tiếp nhận qua
đường bưu điện thì Văn thư tiếp nhận, vào Sổ công văn đến rồi chuyển ngay
cho Thẩm tra viên hoặc Thư ký được phân công.
Sai khi tiếp nhận, Thẩm tra viên hoặc Thư ký tiến hành vào Sổ nhận yêu
cầu thi hành án, Sổ nhận bản án, quyết định.
- Ra quyết định thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết
định thi hành án và phân công CHV tổ chức thi hành đối với phần nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự đối với các quyết định sau:
+ Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí
Tòa án;
26
+ Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các
khoản thu khác cho Nhà nước;
+ Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết
định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án khi
có yêu cầu thi hành án nếu không thuộc các trường hợp trên. Thời hạn ra
quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được yêu cầu thi hành án.
- Gửi quyết định về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự
Quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Quyết định cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi tổ
chức cưỡng chế thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thực
hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.
- Thông báo về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có
liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung
của văn bản đó.
Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài
sản, trốn tránh việc thi hành án.
Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức sau đây:
+ Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy
định của pháp luật;
+ Niêm yết công khai;
+ Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
27
- Xác minh điều kiện thi hành án:
+ Trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, CHV phải tiến hành
xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã
áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu CHV tiến hành xác
minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện
pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
+ Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án
hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án,
CHV phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng
tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến
hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
- Cưỡng chế thi hành án
+ Hết thời hạn 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng
chế. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ
hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì CHV có quyền áp dụng ngay
các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
+ Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06
giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và
các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
- Thanh toán tiền thi hành án
Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền để
người thi hành án giao nhà là chỗ ở duy nhất có thể thuê nhà trong thời hạn 01
năm, được thanh toán theo thứ tự sau đây:
28
+ Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ
cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần;
+ Án phí;
+ Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.
Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi
hành án được thực hiện như sau:
+ Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định tại khoản 1
Điều này. Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được
thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được
thi hành án;
+ Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì
thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời
điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những
người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời
điểm thanh toán.
+ Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.
+ Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản
mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể
được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí
về thi hành án.
- Kết thúc thi hành án
Việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp sau đây:
+ Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình;
+ Có quyết định đình chỉ thi hành án;
+ Có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.
Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xác nhận kết
quả thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu
29
cầu của đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp giấy xác nhận
kết quả thi hành án.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THI HÀNH THI HÀNH
NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.3.1. Các văn bản pháp luật quy định về thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự
Khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
qui định:
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp
sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ
luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế,môi trường, trật tự công cộng,an toàn công cộng và một số tội
phạm khác do Bộ luật này qui định”.
...
4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy
định tại Điều 77 của Bộ luật này [36].
Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định về tịch
thu tài sản:
Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu
của người bị kết án để nộp vào nhân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma tuý,
tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này qui định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình
họ có điều kiện sinh sống [36].
Điều 47 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định về tịch thu vật,
30
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm:
1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu huỷ
được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ
ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái
phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp.
3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong
việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì
có thể bị tịch thu [36].
Điều 48 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định người phạm
tội phải trả lại vật hoặc tiền bạc đã chiếm đoạt được cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp.
Theo qui định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 135 của Bộ luật TTHS năm
2015 qui định về chi phí tố tụng như sau:
“1. Chi phí trong tố tụng hình sự gồm án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng.
2. Án phí gồm án phí sơ thẩm, phúc thẩm hình sự, án phí sơ thẩm, phúc
thẩm dân sự trong bản án hình sự” [35].
Điều 28 Bộ luật TTHS năm 2015 qui định về bảo đảm hiệu lực của bản
án, quyết định của Tòa án như sau:
1. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được
cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
2.Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan,
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực
hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành
31
bản án, quyết định của Toà án [35].
Điều 30 Bộ luật TTHS năm 2015 qui định một nguyên tắc cơ bản là vấn
đề dân sự được giải quyết đồng thời với trách nhiệm hình sự trong cùng vụ án
hình sự. Theo đó, khi giải quyết vụ án hình sự mà tội phạm xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… của cá nhân, tổ chức thì ngoài
việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt
hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại theo qui định của
pháp luật.
Theo quy định tại Điều 1, khoản 1 Điều 2 và Mục 1 Chương V, luật Thi
hành án dân sự năm 2008 sủa đổi bổ sung năm 2014 thì những vụ việc phải
thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan
Thi hành án dân sự bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và phần quyết định dân
sự trong bản án, quyết định hình sự gồm các việc như thi hành nghĩa vụ cấp
dưỡng; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh sự, nhân phẩm; bồi
thường thiệt hại về tài sản…
Khoản 1 Điều 36 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui
định về ra quyết định thi hành án cho những quyết định trên của Tòa án:
1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi
hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:
a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;
b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;
d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ
nhà nước;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án,
quyết định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết
32
định thi hành án.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao
trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi
hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành [32].
Điều 61 Luật THADS năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 qui định về
điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà
nước (thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành án: án phí, tiền phạt, truy thu,
tịch thu sung công). Điều 66, Điều 71 quy định áp dụng các biện pháp đảm
bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với những trường hợp người bị kết án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án
dân sự [19].
Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-
TANDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước [7].
Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng 02 năm 2017 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự ban hàng Quy trình thi hành
án dân sự [44].
1.3.2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động THADS nói chung, thi hành nghĩa
vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng có vai trò hết sức quan
trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự. Công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp được quân tâm thực hiện kịp thời, khoa học
sẽ giúp cho việc thực hiện Quy trình thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, đồng thời không để
xảy ra sai phạm trong quá trình THADS nói chung, thi hành nghĩa vụ dân sự
33
trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Nội dung công tác lãnh đạo, chỉ
đạo thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự gồm:
Lãnh đạo về công tác tổ chức, chính trị, tư tưởng: Đây là việc Lãnh đạo
cơ quan THADS các cấp tiến hành quy hoạch, đào tạo, bỗi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, sử dụng cán bộ của đơn vị đúng với năng lực, sở trường của
cán bộ; thường xuyên quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Quốc hội, Quy
định của pháp luật, Quyết định của Bộ trưởng, của Tổng cục trưởng về thực
hiện các nhiệm vụ THADS nói chung và THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự nói riêng. Kịp thời khen thưởng, động viên những đơn vị, cá nhân
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những
hành động vi phạm pháp luật của cán bộ.
Lãnh đạo, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ: Căn cứ vào nhiệm vụ được
giao về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, lãnh đạo cơ quan THADS
các cấp cần chỉ đạo Thẩm tra viên và Thư ký thực hiện tốt việc tiếp nhận bản
án, quyết định, đảm bảo việc ra quyết định thi hành án được tiến hành đúng
trình tự, thủ tục và thời gian theo quy định. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra,
hướng dẫn, đặc biệt là đối với những vụ việc phức tạp, số tiền phải thi hành
án lớn, người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, khiến vụ việc tồn
đọng quá lâu. Kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của các CHV
để có biện pháp tháo gỡ hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền giải quyết kịp
thời... Bên cạnh đó, cần quan tâm công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự, để đánh giá
những kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế, khó khăn, vướng mắc và đề xuất biện
pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội.
1.3.3. Trình độ, năng lực của đội ngũ chấp hành viên và cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự
34
Trong quá trình thi hành án nói chung, THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng CHV là chủ thể trực tiếp trong việc tiến hành các biện
pháp, trình tự, thủ tục thi hành án. Trình độ, năng lực, trách nhiệm của CHV
có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả, tiến độ thi hành án nói
Trình độ, năng lực, trách nhiệm của CHV được thể hiện ngay từ việc tiếp nhận bản án, quyết định
được phân công, gửi thông báo, xác minh điều kiện thi hành án. Tiến hành các biện pháp đảm bảo thi hành
án, phối hợp với các cơ quan, các ngành, các cấp có liên quan để thi hành án... giúp việc thi hành án đúng
pháp luật, đảm bảo thi hành án nhanh chóng, hiệu quả, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Việc lựa chọn, phân công CHV thụ lý thi hành án phù hợp với trình độ, năng lực sẽ giúp các CHV
nhanh chóng thi hành án hiệu quả. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm của CHV cũng ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định dân sự. Do vậy, lãnh đạo cơ quan thi hành án cần lựa chọn, phân
công CHV hợp lý, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra hướng dẫn nhằm nâng cao tình thần trách
nhiệm của CHV, đặc biệt là trong quá trình thi hành các bản án phức tạp, kéo dài, số tiền cần thi hành án lớn
để đảm bảo chất lượng, hiệu quả thi hành án.
Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở, vật chất, trang thiết bị phục vụ được đảm bảo sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân loại, xác minh điều kiện thi hành án, tiến hành các biện pháp đảm bảo thi hành án
được nhanh chóng, chính xác, giúp cho quá trình THNVDS trong bản án, quyết định dân sự được nhanh
chóng, hiệu quả.
chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.
1.3.4. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thi hành án và các cơ quan có
liên quan trong thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết hình sự của
Tòa án nói riêng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành,
nhiều cấp và phải có sự phối hợp của các cơ quan có liên quan. Trong hoạt động
thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, để
đảm bảo thi hành án hiệu quả, cơ quan thi hành án dân sự các cấp thường tổ
chức mối quan hệ phối hợp với các lực lượng các ngành, các cấp, gồm:
- Phối hợp với chính quyền các cấp
Chính quyền các cấp, đặc biệt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện là cơ
quan chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án
dân sự trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn,
phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp
35
huyện. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với
Ủy ban nhân dân các cấp để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, đồng thời, phối hợp
với các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể trong tiến hành thi hành án dân sự
nói chung và thi hành án nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói
riêng. Cần tăng cường phối hợp với cấp, các ngành trong tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục về pháp luật thi hành án dân sự; tích cực phối hợp trong cưỡng
chế thi hành án, trong xét, miễn giảm thi hành án.
Đồng thời, phối hợp với chính quyền các cấp để củng cố, xây dựng lực
lượng, tham mưu, đề xuất lãnh đạo chính quyền các cấp quan tâm tạo điều kiện,
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác, đầu tư cơ sở vật chất, có
chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự.
- Phối hợp với lực lượng Công an nhân dân
Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự nói riêng là hoạt động tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của Nhà
nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong nhiều trường hợp, đương sự không
tự nguyện thực hiện quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, buộc cơ
quan thi hành án phải tiến hành cưỡng chế. Để đảm bảo việc cưỡng chế được
diễn ra thuận lợi, an toàn, hiệu quả, cơ quan thi hành án dân sự cần phải phối
hợp với lực lượng Công an nhân dân các cấp, đặc biệt là lực lượng Công an
cơ sở để tăng cường lực lượng, phương tiện, biện pháp tuyên truyền, vận
động quần chúng nhân dân chấp hành, cũng như đảm bảo an toàn cho lực
lượng tham gia cưỡng chế.
Bên cạnh đó, cơ quan thi hành án tổ chức tốt quan hệ phối hợp với các
Trại Tạm giam, Trại giam nơi người phải thi hành án chấp hành hình phạt tù
để thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của người
phải thi hành án nộp để thi hành án.
- Phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp
Cơ quan thi hành án dân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án
nhân dân các cấp trong cưỡng chế thi hành án; rà soát án tuyên không rõ, có
36
sai sót, khó thi hành; lập hồ sơ xét miễn giảm tiền thi hành án. Đồng thời, cần
chú trong phối hợp với Tòa án các cấp hỗ trợ thi hành án trong quá trình xét
xử các vụ án hình sự, có hình thức, biện pháp động viên các bị cáo nộp tiền
phạt, án phí sau khi tòa tuyên án, giúp cho việc THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự được diễn ra thuận lợi, hiệu quả.
- Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân
Trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò là cơ quan
giám sát hoạt động thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án các cấp cần chủ
động thực hiện quan hệ phối hợp với Viện kiểm sát các cấp để hoạt động thi
hành án dân sự được thực hiện hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Đồng
thời, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề
nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm tiền thi hành án theo quy
định của pháp luật, đảm bảo cho việc thi hành án dân sự được hiệu quả, không
để vụ việc kéo dài, phức tạp.
37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong hoạt động tư pháp, việc đảm bảo hiệu lực các bản án, quyết định của
Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan, là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ
hoạt động thi hành án nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hính sự nói
riêng. Do vậy, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động của cơ
quan Nhà nước để đưa các phán quyết về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự trong các bản án đã có hiệu lực pháp luật được tôn trọng và thực
hiện trên thức tế nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần giữ vững kỷ cương, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã làm
rõ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền, tịch thu tài sản; quyết định dân sự
trong bản án, quyết định hình sự, trên cơ sở đó phân tích, làm rõ khái niệm, đặc
điểm của NVDS trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án. Từ việc phân tích,
làm rõ khái niệm thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích làm rõ khái niệm, bản
chất của THNVDS trong bản án, quyết định hình sự; Đồng thời, đi sâu phân tích
một số nội dung cơ bản như: Vai trò, đặc điểm, cơ sở pháp lý của THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự; quy trình, biện pháp và quan hệ phối hợp trong
hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
Kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả
đánh giá đúng thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ở Chương 2 của luận văn.
Chương 2
38
THỰC TRANG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN
ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ,
TỈNH BẮC NINH
2.1. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THI HÀNH
NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Quế Võ
Huyện Quế Võ nằm ở phía Đông tỉnh Bắc Ninh, thuộc vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng, trung tâm huyện lỵ cách trung tâm thành phố Bắc Ninh
10km về phí Bắc, cách thủ đô Hà Nội 40km về phía Tây Nam. Phía Bắc tiếp
giáp với huyện Yên Dũng và huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; phía Nam giáp
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; phía Đông giáp thành phố Chí Linh, tỉnh Hải
Dương và phía Tây giáp huyện Tiên Du và thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
Ninh. Diện tích của huyện Quế Võ là 155.112km2 , có 21 đơn vị hành chính
cấp xã gồm 20 xã và 01 thị trấn; dân số 49.107 hộ với 170.668 nhân khẩu, dân
số huyện Quế Võ là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động, với chất
lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao động
hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá -
xã hội của huyện.
Với vị trí nằm ở cửa ngõ thành phố Bắc Ninh, ba mặt của huyện được
bao bọc bởi hai con sông lớn đó là sông Đuống và sông Cầu, huyện Quế Võ
còn nằm tiếp giáp với quốc lộ 1B và có đường quốc lộ 18 chạy qua, đây chính
là một lợi thế lớn về giao thông đường thuỷ và đường bộ để Quế Võ phát triển
về kinh tế, xã hội, đồng thời Quế võ là một huyện có vị trí quan trọng về an
ninh quốc phòng của tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm qua, tận dũng những
lợi thế đó, huyện Quế Võ đã xác định phát triển các ngành công nghiệp theo
hướng công nghệ cao, sản phẩm đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường quốc
tế, nhất là công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho các ngành công nghiệp chủ lực tạo
39
ra giá trị gia tăng cao trên cơ sở lấy doanh nghiệp lớn là hạt nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ là các vệ tinh cung ứng, tập trung vào ngành điện tử, viễn
thông, cơ điện tử, hóa dược...; gắn với sự phát triển công nghiệp của vùng thủ
đô Hà Nội và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các hành lang kinh tế Nam
Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Côn Minh - Lào Cai -
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; bảo đảm khai thác được lợi thế của huyện
và gắn kết chặt chẽ các mối liên kết vùng, liên kết tuyến để thúc đẩy sự phát
triển công nghiệp trên địa bàn huyện. Các khu công nghiệp trên địa bàn huyện
Quế Võ ngày càng phát triển, với 03 khu công nghiệp tập trung đã thu hút
phần lớn người lao động trên địa bàn và các vùng phụ cận vào làm việc, điều
này đã góp phần thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển nhanh, tăng trưởng
GDP của huyện trong những năm gần đây luôn đạt trên 10%, giúp cho thu
nhập và đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2018 đạt 4.129 USD/năm.15
Kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên từ đó
đã tạo điều kiện cho các lĩnh vực khác có nhiều sự thay đổi tích cực như văn
hóa, giáo dục, y tế… đặc biệt là về nhận thức của nhân dân trong việc chấp
hành chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngày một nâng
cao, góp phần quan trọng trong việc tổ chức thi hành án dân sự nói chung và
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Mặt khác, kinh tế xã hội
phát triển đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để cấp ủy, chính quyền các cấp
quan tâm hơn đối với công tác thi hành án dân sự, qua đó đã tạo nhiều điều
kiện cho Chi cục THADS huyện Quế Võ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về kinh tế, xã hội,
nhiều vấn đề xã hội phức tạp đã nảy sinh trong quá trính đẩy mạnh thu hút
đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Trong những năm qua, khi
nhiều khu công nghiệp được đầu tư xây dựng đã thu hút hàng vạn lao động
trong và ngoài tỉnh tập trung về các khu công nghiệp của huyện để tìm kiếm
việc làm, lao động và sinh sống đã tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự
40
trên địa bàn huyện, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật diễn biến phức
tạp, đặc biệt là các tội phạm về ma tuý, mại dâm, đánh bạc, cố ý gây thương
tích, tội phạm liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”… Theo báo cáo kết quả
công tác năm của Công an huyện, trung bình mỗi năm Công an huyện phát
hiện, bắt giữ, trên 100 vụ phạm pháp hình sự, trong đó, tỷ lệ điều tra làm rõ
luôn đạt trên 80%, trong đó chủ yếu là tội phạm về ma túy, đánh bạc, tội
phạm liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”[15]… Thực tế đó đã làm cho số
lượng việc và tiền phải thi hành án dân sự hàng năm luôn tăng cao, nhiều vụ
việc khó khăn, phức tạp. Nhiều vụ việc có nhiều đối tượng tham gia, có hộ
khẩu thường trú ở nhiều địa phương khác nhau đã tạo ra áp lực rất lớn cho các
CHV của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ trong việc thực thi nhiệm
vụ, ảnh hưởng đến chất lượng thi hành án nói chung và THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng.
2.1.2. Tình hình, kết quả thi hành án dân sự trong giai đoạn 2015 –
2019 của Chi cục Thi hàn án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
Kết quả khảo sát công tác THADS của Chi cục THADS huyện Quế Võ
cho thấy trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019 đơn vị phải thi hành án án
4.819 việc và 168.451.052.000 [Bảng 2.1 - Phụ lục], cụ thể:
- Về việc:
Năm 2015, tổng số việc phải thi hành án là 789 việc;
Năm 2016, tổng số việc phải thi hành án là 991 việc, tăng 202 việc so
với năm 2015;
Năm 2017, tổng số việc phải thi hành án là 1.044 việc, tăng 53 việc so
với năm 2016;
Năm 2018, tổng số việc phải thi hành án là 1.116 việc, tăng 72 việc so
với năm 2017;
Năm 2019, tổng số việc phải thi hành án là 879 việc, giảm 237 việc so
với năm 2018;
Như vậy, số việc phải thi hành án trong 5 năm (từ năm 2015 đến hết năm
41
2019) của Chi cục THADS huyện Quế Võ tăng giảm không đều qua các năm.
Trung bình mỗi năm phải thi hành án 964 việc, cao nhất là năm 2018 với
1.116 việc, thấp nhất là năm 2015 với 789 việc. Tuy nhiên, có thể thấy số
lượng việc phải thi hành là khá lớn, nhiều việc phải thi hành trong các bản án
có tính chất phức tạp.
- Về tiền:
Năm 2015, tổng số tiền phải thi hành án là 30.397.697.000 đồng;
Năm 2016, tổng số tiền phải thi hành án là 21.888.750.000 đồng;
Năm 2017, tổng số tiền phải thi hành án là 27.512.278.000 đồng;
Năm 2018, tổng số tiền phải thi hành án là 28.937.000.000 đồng;
Năm 2019, tổng số tiền phải thi hành án là 59.715.327.000 đồng, gấp
gần 2 lần so với số tiền phải thi hành án năm 2015.
Như vậy, số tiền Chi cục THADS huyện Quế Võ phải thi hành án đang
có chiều hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm
phải thi hành án số tiền là 33.690.210.400 đồng, trong đó, năm phải thi hành
án ít nhất là năm 2016 với số tiền 21.888.750.000 đồng; năm phải thi hành án
nhiều nhất là năm 2019 với số tiền là 59.715.327.000 đồng. Điều này cho thấy
trong thời gian gần đây, số việc phải thi hành án tăng dần từ năm 2015 đến
năm 2018 (nhưng năm 2019 giảm), tuy nhiên, số tiền phải thi hành án tăng
cao. Điều này cho thấy công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an
ninh, trật tự của các lực lượng chức năng phát huy tốt hiệu quả, khiến các vụ
án được phát hiện, điều tra, tuy tố, xét xử giảm, dẫn đến số việc phải thi hành
án giảm, tuy nhiên, nhiều vụ việc có tính chất nghiêm trọng, đặc biệt là các vụ
án xâm phạm sở hữu, liên quan đến “tín dụng đen”, tội phạm đánh bạc trên
mạng diễn biến phức tạp… dẫn đến số lượng tiền phải thi hành án tăng cao.
Đây cũng chính là những vụ việc mà điều kiện thi hành án chưa được đảm
bảo hoặc chưa có dẫn đến rất nhiều khó khăn cho công tác THADS của Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua.
Về kết quả THADS, trong số 4.819 việc và 168.451.052.000 đồng phải
42
thi hành, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã xác minh có 4.190 việc (chiếm
86,3%) và 87.656.864.000 đồng (chiếm 52,0%) có điều kiện thi hành án.
Trong số vụ việc và tiền có điều kiện thi hành, đơn vị đã thi hành 3.904 việc
(chiếm 93,2%) và số tiền 51.828.472.000 đồng (chiếm 59,2%) [Bảng 2.2 -
Phụ lục]. Như vậy, có thể thấy Chi cục THADS huyện Quế Võ đã rất nỗ lực,
cố gắng khắc phục khó khăn, triển khai tích cực, đồng bộ nhiều biện pháp để
thi hành có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án.
2.1.3. Tình hình, đặc điểm về việc và tiền thuộc nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự phải thi hành án
Kết quả khảo sát cho thấy, trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019, Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã tiếp nhận 813 bản án hình sự
của Tòa án, trung bình mỗi năm tiếp nhận 162 bản án, năm tiếp nhận ít nhất là
năm 2015 với 122 bản án, năm tiếp nhận nhiều nhất là năm 2018 với 231 bản
án; trong đó bản án hình sự về tội phạm ma túy là 360 bản án (chiếm 44,3%),
các bản án về tội phạm khác là 453 bản án (chiếm 55,7%) [Bảng 2.3 – Phụ
lục]. Như vậy có thể thấy, tổng số bản án hình sự đã tiếp nhận của Chi cục
Thi hành án hình sự huyện Quế Võ là khá lớn và có sự gia tăng qua các năm;
số bản án hình sự về tội phạm ma túy chiếm tỷ lệ lớn (chiếm 44,3%), cho thấy
tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn khá phức tạp, do khó khăn về kinh tế,
việc làm, các đối tượng ham chơi, lười lao động muốn kiếm tiền nhanh đã
thực hiện tội phạm ma túy. Đây là điểm điểm nổi bật của các bản án ở cấp
huyện, khác so với cơ cấu các bản án hình sự của Cục THADS tỉnh Bắc Ninh.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, hầu hết các đối tượng này không có nghề
nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, sống phụ
thuộc nên không có tài sản để thi hành án dẫn đến chưa có điều kiện thi hành
án, gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác THNVDS trong các bản án.
Trong 813 bản án hình sự Chi cục THADS huyện Quế Võ đã tiếp nhận,
tổng số việc và tiền phải thi hành án thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình
sự là 1.843 việc (38,2%) và 47.626.620.000 đồng (chiếm 28,3%); trung bình mỗi
43
năm phải thi hành án 369 việc và 9.525.324.000 đồng [Bảng 2.4 - Phụ lục].
- Về diễn biến số việc và tiền phải thi hành án:
+ Về việc: số việc phải thi hành án thuộc nghĩa vụ dân sự trong bản án,
quyết định hình sự tăng giảm không đều qua các năm, trong đó năm có số
việc phải thi hành án nhiều nhất là năm 2018 với 456 việc, năm có số việc
phải thi hành án ít nhất là năm 2017 với 329 việc.
+ Về tiền: số tiền phải thi hành tăng dần qua qua các năm và đang tăng
rất nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2019 số tiền phải thi
hành án là 28.721.075.000 đồng, chiếm 60,3% tổng số tiền phải thi hành án
trong 5 năm và gấp 12,3 lần số tiền phải thi hành án năm 2015.
Như vậy, có thể thấy về số việc không có biến động lớn, nhưng số tiền
phải thi hành án tăng dần qua các năm và có xu hướng tăng mạnh trong thời
gian gần đây. Nguyên nhân của tình trạng này là do tính chất hành vi phạm tội
của các đối tượng trong các vụ án ngày càng phức tạp, nguy hiểm hơn, đặc
biệt là các vụ án xâm phạm sở hữu hoặc các vụ đánh bạc trên mạng internet
dẫn đến số tiền thuộc nghĩa vụ dẫn sự trong các bản án, quyết định hình sự là
rất lớn. Điển hình như trong Bản án số 316/2018/HSST ngày 02/11/2018 của
Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh tuyên án đối với bị cáo
Trần Duy Công sinh năm 1992, Hộ khẩu thường trú tại xã Phượng Mao,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh về tội Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc, trong đó
phần nghĩa vụ dân sự phải thi hành án gồm: 200.000 đồng tiền án phí;
20.000.000 đồng tiền phạt sung công quỹ Nhà nước và 11.016.157.700 đồng
thu lời bất chính từ việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc.
- Về số việc và tiền thuộc nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình
sự phải thi hành án theo các tội danh:
Kết quả khảo sát cho thấy, từ năm 2015 đến hết năm 2019, trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có 565 việc (chiếm 30,7%) và 1.745.534.000
đồng (chiếm 3,7%) thuộc các bản án hình sự về các tội phạm ma túy, còn lại
là các bản án về các tội phạm hình sự khác [Bảng 2.5- Phụ lục]. Điều này cho
44
thấy, các bản án phạm tội về ma túy chiếm tỷ lệ lớn (360 bản án, chiếm
44,3%) nhưng số tiền phải thi hành án là khá ít, chỉ chiếm 3,7% tổng số tiền
phải thi hành án trong 5 năm. Đối với các bản án về các tội phạm hình sự
khác có số tiền phải thi hành án lớn, chủ yếu là các bản án về các tội phạm
xâm phạm sở hữu hoặc các tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Kết quả
nghiên cứu các bản án cho thấy, đa phần những người phải thi hành án phần
nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án các cấp đối với
các tội danh nêu trên đều có nhân thân không tốt, thường là các đối tượng từ
nhỏ đã sống phụ thuộc vào bố mẹ, không có công ăn việc làm, ham chơi, lười
lao động nên không có tài sản để thi hành án, gây ra rất nhiều khó khăn cho
việc thi hành án, dẫn đến nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài. Điển hình như vụ bị
án Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú tại Thôn Thất
Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, bị Tòa án nhân dân
huyện Quế Võ tuyên án về Tội mua bán trái phép chất ma túy và phải thi hành
nghĩa vụ dân sự trong bản án gồm: 200.000 đồng tiền án phí; 5.000.000 đồng
tiền phạt và 200.000 đồng tiền tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tuy nhiên,
đây là đối tượng không có nghề nghiệp, không có tài sản, bị nghiện ma túy, từ
nhỏ sống phụ thuộc, mẹ đã già yếu không có điều kiện để nộp tiền thi hành án
thay, dẫn đến chưa có điều kiện để thi hành án.
- Về điều kiện thi hành án của số việc và tiền:
Kết quả khảo sát tại Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho
thấy điều kiện thi hành án đối với phần NVDS trong bản án, quyết định hình
sự như sau:
Về việc: Trong 1.843 việc phải thi hành án, có 1.412 việc (chiếm 76,6%)
có điều kiện thi hành án, tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ số việc có điều kiện thi hành
án dân sự nói chung (với 86,3%) [Bảng 2.4 - Phụ lục].
Về tiền: Trong tổng số 47.626.620.000 đồng phải thi hành án, có
17.456.971.000 đồng có điều kiện thi hành án (chiếm 36,7%) [Phụ lục 2.4], tỷ
lệ này thấp hơn khá nhiều so với tỉ lệ của số tiền phải thi hành án dân sự nói
45
chung (tỉ lệ có điều kiện THADS về tiền là 52,0%).
Như vậy, tỉ lệ về việc và tiền có điều kiện thi hành án thuộc phần dân sự
trong các bản án, quyết định hình sự là khá thấp, đặc biệt là về số tiền có điều
kiện thi hành rất thấp (chỉ chiếm 36,7%). Điều này cho thấy, việc THNVDS
trong các bản án, quyết định hình sự gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, đòi
hỏi các CHV của Chi cục THADS huyện Quế Võ phải rất nỗ lực, sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp, tích cực phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp
để thi hành có hiệu quả nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
của Tòa án.
2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ
TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
2.2.1. Tổ chức, biên chế của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh
Chi cục THADS huyện Quế Võ là cơ quan Trung ương đóng tại địa
phương, trực thuộc Cục THADS tỉnh Bắc Ninh, có trụ sở riêng tại địa bàn thị
trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Tính đến hết tháng 12/2019, tổ
chức, biên chế của Chi cục THADS huyện Quế Võ có 11 cán bộ, trong đó có
09 cán bộ biên chế chính thứcvà 02 hợp đồng lao động theo Nghị định
68/NĐ-CP của Chính phủ [Bảng 2.7 - Phụ lục]. Nghiên cứu tình hình cán bộ
của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy:
Về chức danh: Chức danh lãnh đạo của Chi cục có 01 đồng chí Chi cục
trưởng và 02 đồng chí Phó Chi cục trưởng; Chức danh chuyên môn của Chi
cục có 04 đồng chí CHV (chiếm 36,4%); 01 đồng chí thẩm tra viên (chiếm
9,1%) và 02 đồng chí Thư ký thi hành án (18,2%) [Bảng 2.7 - Phụ lục];
Về trình độ chuyên môn: có 10/11 đồng chí (chiếm 90,9%) có trình độ
Đại học [Bảng 2.7 - Phụ lục].
Chi cục THADS huyện Quế Võ thành lập Chi bộ cơ quan vào năm
2010, là Chi bộ trực thuộc huyện uỷ Quế Võ, Chi bộ hiện có 09 đồng chí
46
đảng viên, trong số đảng viên của Chi bộ có 01 đồng chí có trình độ Cao cấp
lý luận chính trị, 01 đồng chí có trình độ Trung cấp lý luận chính trị.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công chức cơ quan THADS huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đáp ứng yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, số lượng cán bộ của đơn vị còn thiếu, cả
Chi cục hiện chỉ có 4 CHV, một số cán bộ trình độ, chuyên môn còn hạn
chế, chưa thực sự quyết liệt trong việc đôn đốc, kê biên, xử lý tài sản để thi
hành án dẫn đến một số vụ việc kéo dài, hiệu quả thi hành án chưa cao.
Một số CHV và cán bộ làm công tác thi hành án chưa nêu cao tinh thần,
trách nhiệm, còn tâm lý e ngại, chưa quyết tâm trong công tác, đặc biệt là
trong các vụ việc khó khăn, phức tạp, chưa vận dụng linh hoạt các biện
pháp thi hành án.
Về cơ sở vật chất phục vụ công tác THADS: Trong những năm qua,
được sự quan tâm về vật chất, tinh thần của Cục THADS tỉnh Bắc Ninh và
Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Quế Võ đến nay Chi cục THADS huyện
Quế Võ đã có được trụ sở làm việc khang trang, trang thiết bị làm việc được
trang cấp về cơ bản đáp ưng được nhu cầu làm việc của tập thể cán bộ, công
chức đơn vị. Tuy nhiên, vẫn thiếu một số trang thiết bị hiện đại để phục vụ
yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan tư pháp và đảm bảo tính uy nghiêm, sức mạnh của cơ quan thi hành án,
đồng thời chế độ chính sách với cán bộ làm công tác thi hành án và CHV
còn thấp, khiến đội ngũ cán bộ chưa yên tâm công tác, trách nhiệm trong
công tác chưa cao.
2.2.2. Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ
Trên cơ sở đặc điểm tình hình địa phương, xác định rõ nhiệm vụ chính
trị trung tâm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, được sự chỉ
đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
47
nhân dân huyện và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan ban ngành, những
năm qua công tác THADS của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ
tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng để
bảo đảm an ninh, trật tự và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, tạo được niềm tin của nhân dân. Hoạt động này đã góp phần bảo vệ
quyền lợi, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân góp phần giữ vững kỷ
cương phép nước, luật pháp được thực thi nghiêm chỉnh và làm tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.
Kết quả khảo sát thực tiễn công tác thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản
án, quyết định hình sự cho thấy, trong 5 năm qua, Chi cục THADS huyện
Quế Võ đã thi hành xong 1.359 việc/1.412 việc có điều kiện thi hành (chiếm
96,3%) và về tiền đã thi hành 13.564.875.000 đồng/17.456.971.000 đồng có
điều kiện thi hành (77,7%) [Bảng 2.5 - Phụ lục]. Để có được kết quả như
vậy, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã bám sát nhiệm vụ chính trị của cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương, các chỉ tiêu công tác của lãnh đạo cấp
trên, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, động viên cán bộ của đơn vị chủ
động thực hiện hiệu quả các biện pháp thi hành án cũng như quy trình thi
hành án dân sự, cụ thể là:
- Việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án
Kết quả khảo sát cho thấy, trong những năm qua việc tiếp nhận yêu cầu
thi hành án, bản án của Tòa án được các Thẩm tra viên hoặc Thư ký của Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thực hiện theo đúng trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật. Trong 05 năm từ năm 2015 đến hết năm
2019, Chi cụ THADS huyện Quế Võ Phải thi hành 4.819 việc, trong đó có
1.843 việc về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự, trung
bình mỗi năm Chi cục phải tiếp nhận và thi hành gần 1.000 việc về thi hành
án dân sự (trong đó có 369 việc về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
quyết định hình sự) mặc dù hiện nay Chi cục chỉ có 01 Thẩm tra viên và 02
thư ký, nhưng việc tiếp nhận các yêu cầu thi hành án cũng như các bản án,
48
quyết định của Tòa án nói chung, các việc về nghĩa vụ dân sự trong bản án,
quyết định hình sự nói riêng đã được các Thẩm tra viên và Thú ký tiếp nhận
theo đúng trình tự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Khi tiếp nhận trực tiếp các yêu cầu thi hành án, bản án và quyết định của
Tòa án cán bộ tiếp nhận đã tiến hành viết Phiếu nhận đơn hoặc hướng dẫn cho
người yêu cầu, lập biên bản ghi nhận yêu cầu thi hành án trong trường hợp
người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói.
Bên cạnh đó, trường hợp tiếp nhận trực tuyến, cán bộ tiếp nhận đã thực
hiện những công việc theo quy định tại Quy trình hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi
hành án dân sự. Trường hợp tiếp nhận qua đường bưu điện thì Văn thư tiếp
nhận, vào Sổ công văn đến rồi chuyển ngay cho Thẩm tra viên hoặc Thư ký
được phân công.
Sau khi tiếp nhận các yêu cầu thi hành án, bản án và quyết định của Tóa
án, Thẩm tra viên hoặc Thư ký đã tiến hành vào Sổ nhận yêu cầu thi hành án,
Sổ nhận bản án, quyết định của Tòa án để báo cáo lãnh đạo đơn vị ra quyết
định thi hành án đảm bảo thời gian quy định.
- Ra quyết định và thông báo quyết định thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự
Để đảm bảo việc thi hành án dân sự nói chung, thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự nói riêng đảm bảo đúng thời gian quy định
và đạt hiệu quả cao, trong thời gian qua, lãnh đạo Chi cục THADS huyện quế
võ đã tích cực quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nghị quyết
37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án
nhân dân và công tác thi hành án năm 2013 đối với chỉ tiêu về “Ra quyết định
thi hành án đúng thời hạn quy định đối với 100% các bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật”.
Chi Cục Trưởng Chi cục THADS huyện Quế Võ theo thẩm quyền đã
thực hiện ra quyết định thi hành án và phân công CHV tổ chức thi hành đối
49
với với các bản án nói chung và thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng đảm bảo đúng thời gian quy đinh (không quá 05 ngày
làm việc). Nhiều vụ việc sau khi được tiếp nhận đã được phân loại và ra
quyết định thi hành án nhanh chóng, trước thời hạn quy định. Điển hình như
việc ngày 10/10/2017 Chi cục THADS huyện Quế Võ tiếp nhận Quyết định
ủy thác thi hành án của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh đối với
Nguyễn Thị Liễu, sinh năm 1979, trú tại Thôn Can Vũ, xã Việt Hùng, huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo Bản án số 38/2014/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Bản án
số 160/2015/HSST của Tòa án nhân dân tối cao Tòa phúc thẩm tại Hà Nội
với trách nhiệm dân sự phải thi hành án là 523.685.000 đồng. Đến ngày
12/10/2017 Chi cục Trưởng Chi cục THADS huyện Quế Võ đã ra Quyết
định Thi hành án theo yêu cầu và phân công CHV Nguyễn Quốc Cường thụ
lý thi hành án.
Sau khi ra quyết định thi hành án, để đảm bảo việc thi hành án được
nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy định của pháp luật Chi cục THADS
huyện Quế Võ đã gửi Quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện
kiểm sát nhân dân của huyện để giám sát quá trình tổ chức thi hành án. Đồng
thời, đã thông báo Quyết định thi hành án đến người bị thi hành án thông qua
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và gửi đến các cơ quan có liên quan
trong trường hợp tiến hành cưỡng chế thi hành án.
- Xác minh điều kiện thi hành án
Kết quả khảo sát thực tiễn hoạt động THADS nói chung, thi hành nghĩa
vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng của Chi cục THADS
huyện Quế Võ, cho thấy, trong những năm qua, đơn vị đã quán triệt và thực
hiện có hiệu quả nội dung của Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012
của Quốc hội về Chỉ tiêu “bảo đảm chính xác, đúng pháp luật trong việc xác
minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi
hành”. Phần thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
50
đều đã được các CHV được giao thu lý tiến hành các biện pháp xác minh
nhanh chóng, chính xác, đúng trình tự, thủ tục, tạo tiền đề cở sở cho việc thi
hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án được nhanh chóng, chính xác, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật.
Kết quả khảo sát từ năm 2015 đến hết năm 2019, các CHV của Chi cục
THADS huyện Quế Võ cho thấy, trong 1.843 việc phải thi hành án, các
CHV đã tiến hành các biện pháp xác minh điều kiện thi hành án, trong đó có
1.412 việc có điều kiện thi hành án (chiếm 76,6%); về tiền, trong
47.626.620.000 đồng phải thi hành án, có 17.456.971.000 đồng có điều kiện
thi hành án (chiếm 36,7%) [Bảng 2.5 - Phụ lục]. Như vậy, về việc phải thi
hành đối với phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, thì tỉ lệ việc có
điều kiện thi hành án thấp hơn so với các việc phải thi hành án dân sự nói
chung (là 86,3%); về tiền thì tỉ lệ số tiền có điều kiện thi hành khá thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do phần dân sự trong bản án, quyết định
hình sự chủ yếu là các bản án về ma túy, xâm phạm sở hữu, đánh bạc…
(riêng các việc trong bản án về ma túy chiếm 30,7%), các bị án đa phần là
các đối tượng không có nghề nghiệp, nghiện ma túy, sống phụ thuộc vào gia
đình, ham chơi, gia đình điều kiện kinh tế khó khăn… và đang phải chấp
hành án phạt tù, do vậy, chưa có điều kiện để thi hành án, gây ra rất nhiều
khó khăn cho công tác thi hành án.
Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, các CHV của Chi cục
THADS đã tích cực phối hợp với các lực lượng chức năng, các cấp các ngành,
đăc biệt là chính quyền cơ sở để xác minh chính xác điều kiện thi hành án.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân
phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành
xác minh. Biên bản xác minh đã thể hiện đầy đủ kết quả xác minh như thu
thập, tài sản của người phải thi hành án và của người thân, vợ, chồng, bố mẹ
để làm căn cứ kết luận về điều kiện thi hành án. Điển hình như trong vụ án
đánh bạc trên mạng do Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
51
xét xử, trong Bản án số 316/HSST ngày 02/11/2018, người phải thi hành án là
Trần Duy Công, sinh năm 1992, phần nghĩa vụ dân sự trong bản án phải thi
hành gồm 200.000 đồng án phí, 20.000.000 đồng tiền phạt sung công quỹ
Nhà nước và 11.016.157.700 đồng truy thu số tiền bất chính từ việc tổ chức
đánh bác và dàng vào việc đánh bạc. Sau khi nhận được quyết định ủy thác
THADS số 114/QĐ-CCTHADS ngày 27/5/2019, Chi cục THADS huyện Quế
Võ đã ra quyết định thi hành án và phân công CHV thụ lý, CHV sau khi thụ
lý đã nhanh chóng xác minh điều kiện thi hành án của Trần Duy Công. Để
xác minh chính xác điều kiện thi hành án, CHV đã xuống thôn Mão Chinh, xã
Phượng Mao, huyện Quế Võ làm việc với Phó Chủ tịch xã, Cán bộ Tư pháp,
Kiểm sát viên, Cán bộ Địa chính, Trưởng thôn để xác minh điều kiện thi hành
án của bị án. Kết quả: Trần Duy Công đang chấp hành hình phạt tù, ở nhà một
mình vợ đang nuôi 03 con nhỏ, không có việc làm ổn định; bố, mẹ Trần Duy
Công không có việc làm ổn định, sinh sống chủ yếu dựa vào làm ruộng và thợ
xây; về tài sản, vợ chồng Công không có tài sản gì để đảm bảo thi hành án, vợ
chồng Công đang phải đi ở nhờ nhà anh trai, trong nhà chỉ có một số đồ dùng
phục vụ cuộc sống hàng ngày. Kết thúc xác minh điều kiện thi hành án của
Trần Duy Công, CHV đã lập biên bản theo đúng thủ tục, phản ánh đầy đủ kết
quả xác minh trong nội dung biên bản.
- Cưỡng chế thi hành án
Việc cường chế thi hành án dân sự nói chung và thi hành nghĩa vụ dân
sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực hiện sau khi hết thời
hạn 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông
báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Kết quả khảo sát thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy, việc cưỡng chế thi
hành án đối với thi hành phần nghĩa vụ dân sự được tiến hành không nhiều.
52
Bởi, số tiền có điều kiện thi hành án khá thấp (chỉ chiếm 36,7%), một số việc
phải cưỡng chế thi hành án đối quyền sử dụng đất, trong quá trình cưỡng chế,
các CHV phối hợp với Công an huyện để tuyên truyền, vận động, nhờ công tác
tuyên truyền, vận động tốt người phải thi hành án đã tự nguyện thi hành án.
Điển hình như việc cưỡng chế để kê biên quyền sử dụng đất của Bà Lê Thị
Ánh và Ông Trần Văn Bính, trú tại Thôn Bất Phí, xã Nhân Hòa, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh tháng 4/2015 để thi hành nghĩa vụ dân sự trong vụ án hình
sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau khi được Công an huyện
Quế Võ cùng chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động, 02 đối tượng đã
tự nguyện chấp hành thi hành án.
- Xét miễn, giảm thi hành án
Trong những năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
đã chú trọng, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân huyện lập hồ sơ và đề
nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm án với số tiền
136.250.000 đồng cho những người phải thi hành án. Đây là số tiền khá nhỏ
trong tổng số tiền phải thi hành án (chỉ chiếm 0,8%), mặc dù các CHV của
Chi cục đã rất nỗ lực, tích cực phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan.
Nguyên nhân của tình trạng này là do những bất cập trong quy định của Luật
THADS 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, cụ thể: Tại Điều 61 quy định thời
gian để được xét miễn, giảm thi hành án quá lâu, là 5 năm và 10 năm tùy theo
số tiền còn phải thi hành án. Người phải thi hành án phải nộp được 1/50 trên
tổng số tiền còn phải thi hành án (đối với các khoàn tiền phải thi hành án lớn
như tiền truy thu, thu hồi lên đến hàng tỷ đồng, thậm trí hàng chục tỷ đồng thì
việc người phải thi hành án nộp được số tiền 1/50 số tiền phải thi hành án là
điều rất khó khăn. Điều này dẫn đến việc thi hành án tồn đọng, kéo dài, thậm
trí không thực hiện được. Ví dụ như trong vụ Trần Duy Công, phần nghĩa vụ
dân sự trong bản án phải thi hành gồm 200.000 đồng án phí, 20.000.000 đồng
53
tiền phạt sung công quỹ Nhà nước và 11.016.157.700 đồng truy thu số tiền
bất chính từ việc tổ chức đánh bác và dàng vào việc đánh bạc. Đây là số tiền
phải thi hành án rất lớn trong khi người phải thi hành án và người thân không
có tài sản để đảm bảo thi hành án, gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình thi
hành án, không biết đến khi nào mới thi hành xong.
- Thanh toán tiền thi hành án và kết thúc thi hành án
Nghiên cứu kết quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định
hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cho thấy, trong 05 năm qua, Chi
cục đã thi hành án xong 13.564.875.000 đồng (chiếm 77,7%) trong tổng số
tiền có điều kiện thi hành.
Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và đã được Chi
cục THADS huyện Quế Võ thanh toán theo thứ tự đúng quy định của Luật
THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Đối với việc kết thúc thi hành án đã được các CHV thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật. Đối với những trường hợp đương nhiên kết thúc thi
hành án như: Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình; Có
quyết định đình chỉ thi hành án; Có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.
Chấp hành viên đã tiến hành các thủ tục kết thúc thi hành án. Trường hợp
đương sự yêu cầu xác nhận kết quả thi hành án. Các CHV đã báo cáo Thủ
trưởng đơn vị cấp giấy xác nhận kết quả thi hành án theo đúng quy định.
2.2.3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp với các lực
lượng liên quan trong thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
quyết định hình sự
2.2.3.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Trong những năm qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác lãnh
đạo, chỉ đạo trong THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng đã được lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh quan tâm thực hiện thường xuyên, đảm bảo cho công tác THADS
54
được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả, hoàn thành tốt các chỉ
tiêu nhiệm vụ được.
Lãnh đạo Chi cục thường xuyên quán triệt nội dung của Nghị quyết
37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về Chỉ tiêu “Ra quyết định thi
hành án đúng thời hạn đối với 100% bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu
lực theo đúng quy định của pháp luật” và Chỉ tiêu về “bảo đảm chính xác,
đúng pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành
và chưa có điều kiện thi hành”; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27 tháng
11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm và Nghị quyết 111/2015/ QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015
của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công
tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án
năm 2016 và các năm tiếp theo.
Quán triệt thực hiện nghiêm Chỉ thị 19/CT-TU ngày 19/4/2012 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác
THADS trên địa bàn tỉnh.
Phổ biến đến toàn thể cán bộ, công chức, CHV trong đơn vị thực hiện
nghiêm túc các quy định của Luật THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014,
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và các Thông
tư, văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến công tác thi hành án. Đồng
thời, quán triệt các văn bản chỉ đạo của Tổng cục, Cục và ý kiến chỉ đạo của
các động chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới dự và chỉ đạo Hội nghị triển khai
công tác thi hành án dân sự hàng năm.
Hàng năm, trên cơ sở nhiệm vụ được cấp trên giao, Chi cục THADS
huyện Quế Võ đã ban hành các Quyết định về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ
THNVDS cho các CHV thuộc Chi cục và xây dựng kế hoạch công tác
THNVDS hàng năm để trình lãnh đạo các cấp phê duyệt và tổ chức thực hiện.
55
Để đảm bảo đủ số lượng, trình độ, năng lực của cán bộ, công chức, CHV
thực thuộc Chi cục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, lãnh đạo Chi cục
THADS huyện Quế Võ đã quan tâm đến công tác đánh giá cán bộ, công chức
theo quy định cũng như việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động luân
chuyển cán bộ theo yêu cầu, nhiệm vụ của các cấp lãnh đạo.
Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự, lãnh đạo Chi cục đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các nội dung của quy trình THADS, đặc biệt quan tâm chỉ đạo đối với những
vụ việc phức tạp, khó khăn vướng mắc để nghe các CHV báo cáo về tình hình
triển khai thi hành án, kết quả, những khó khăn vưỡng mắc cụ thể để hướng
dẫn, tháo gỡ hoặc báo cáo xin ý kiến chỉ đạo cấp trên đồng thời kịp thời phát
hiện, chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém, đẩy nhanh tiến độ thi hành án,
nhằm hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác được giao.
Nhờ vậy, trong giai đoạn 2015 đến hết năm 2019, tỷ lệ THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng (kết quả thi hành án về việc đạt 96,3%, về tiền đạt
77,7%). Đồng thời, các vi phạm trong THNVDS chiếm tỉ lệ nhỏ, trong 5 năm
chỉ có 01 CHV vi phạm bị kỷ luật khiển trách.
Tuy nhiên, trong một số vụ việc cụ thể, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa
được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là đối với những vụ việc khó khăn,
phức tạp dẫn đến chưa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của CHV
khiến việc thi hành án tồn động kéo dài.
2.2.3.2. Quan hệ phối hợp với các lực lượng liên quan trong thi hành
thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
- Phối hợp với chính quyền các cấp
Kết quả khảo sát cho thấy, trong những năm qua, Chi cục THADS huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã bám sát sự chỉ đạo của lãnh đạo cấp ủy của Huyện
ủy và Ủy ban nhân dân huyện Quế Võ để tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan
tâm thào gỡ khó khăn vướng mắc cho công tác THADS nói chung và thi hành
56
NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Chi cục THADS huyện QUế
Võ đã tích cực phối hợp với chính quyền các cấp trong tổ chức thi hành NVDS
như: phối hợp trong xác minh điều điều kiện thi hành án, trong tổ chức cưỡng
chế thi hành án… Đồng thời, phối hợp với chính quyền các cấp, các ngành, các
cơ quan đoàn thể trong trong huyện để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về
pháp luật thi hành án dân sự… để nhân dân hiểu và tự giác thực hiện.
Bên cạnh đó, nhờ thực hiện tốt quan hệ phối hợp với chính quyền các cấp
nên Chi cục THADS huyện Quế Võ đã được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất với
trụ sở làm việc khang trang, với đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác; đội ngũ
cán bộ của Chi cục cũng được củng cố và hoàn thiện các chức danh theo quy
định; nhiều vấn đề khó khăn trong THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng được tháo gỡ kịp thời.
- Phối hợp với lực lượng Công an nhân dân
Trong những năm qua, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ đã quán
triệt cán bộ của đơn vị tích cực thực hiện Quy chế phối hợp liên ngành số
14/2014/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2014 của Bộ
Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao. Đồng thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã chủ trì phối hợp với Tòa
án nhân dân huyện Quế Võ, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ và Công
an huyện Quế Võ ký kết Quy chế phối hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-
VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở
các Quy chế đã ký kết Chi cục THADS huyện Quế Võ đã phối hợp tốt với
Công an huyện và Công an các xã, thị trấn của huyện trong xây dựng kế
hoạch và triển khai bảo vệ cưỡng chế thi hành án thành công nhiều vụ việc
phức tạp, có đông lực lượng tham gia. Điển hình như vụ Ông Nguyễn Đức
Huấn trú tại Thôn Mao Lại – xã Phượng Mao – huyện Quế Võ – tỉnh Bắc
Ninh phải kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành
nghĩa vụ dân sự trong bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
57
Buổi cưỡng chế đã huy động 70 cán bộ các đơn vị liên quan tham gia và đã
được tiến hành thành công, đạt hiệu quả cao và mang tính giáo dục sâu sắc.
Bên cạnh đó, Chi cục THADS huyện Quế Võ còn tổ chức tốt quan hệ
phối hợp với các Trại Tạm giam, Trại giam nơi người phải thi hành án chấp
hành hình phạt tù để thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án,
thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án. Trong 5 năm qua,
Chi cục đã phối hợp với các Trại giam, Trại Tạm giam để thi hành 1.115 việc
và 32.091.201.000 đồng, kết quả đã thi hành xong 845 việc (chiếm 78,5%) và
3.716.490.000 đồng (chiếm 11,6%) [Bảng 2.6 - Phụ lục].
- Phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp
Kết quả khảo sát cho thấy, trong quá trình tiến hành thi hành NVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh,
các CHV của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã tích cực phối hợp với Tòa án
thực hiện tốt việc vận động, giải thích các đối tượng phải thi hành án tự
nguyện nộp tiền phạt, án phí và các khoản bồi thường, khắc phục hậu quả.
Nhờ vậy, hàng năm có hàng trăm đối tượng trong các vụ án hình sự trong quá
trình xét xử đã tự nguyện nộp các khoản tiền phạt, án phí ngay tại Tòa.
Đồng thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng đã tích cực phối hợp
với Tòa án nhân dân các cấp để đề nghị xét miễn giảm thi hành án cho những
người phải thi hành án. Trong 5 năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã
phối hợp với Tòa án các cấp để làm thủ tục đề nghị Tòa án quyết định miễn,
giảm thi hành án cho hơn 100 đối tượng, với số tiền được miễn, giảm là
136.250.000 đồng [Bảng 2.5 – Phụ lục].
- Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân
Trong những năm qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
đã quan tâm chỉ đạo cán bộ của đơn vị thực hiện có hiệu quả các nội dung của
Quy chế phối hợp liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời, Chi cục THADS huyện
58
Quế Võ đã chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, Viện Kiểm
sát nhân dân huyện Quế Võ và Công an huyện Quế Võ ký kết Quy chế phối
hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ trong công tác thi hành án dân
sự nói chung và thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án.
Nhờ vậy, số việc và số tiền phải thi hành án thuộc phần dân sự trong bản án,
quyết định hình sự được tiến hành thi hành theo đúng quy trình từ khâu tiếp
nhận, phân loại, ra quyết định chính xác, đúng hạn đến các hoạt động xét
miễn giảm tiền thi hành án, tiến hành cưỡng chế thi hành án... Trong số 1.843
việc phải thi hành phần NVDS trong bản án, quyết định hình sự đều đã
được phân loại, ra quyết định đúng thời hạn 100%, việc xác minh điều kiện
thi hành án cũng được thực hiện đúng trình tự, thủ tục, kịp thời… đồng
thời, Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng đã phối hợp với Viện kiểm sát
nhân dân huyện làm hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm số tiền thi hành án là
136.250.000 đồng. Nhờ thực hiện tốt quan hệ phối hợp với Viện kiểm sát
nhân dân huyện nên công tác THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản
án, quyết định hình sự được thực hiện hiệu quả, đúng trình tự, thủ tục pháp
luật, trong 5 năm chỉ có 01 CHV có vi phạm và khổng để xảy ra các vụ
việc phải bồi thường nhà nước.
2.3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
2.3.1. Ưu điểm
Nghiên cứu thực tiễn THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa
bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy có
những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, sau khi BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có
hiệu lực thi hành cũng đã tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, thông suốt hơn cho
các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các hình phạt tiền, tịch thu tài sản và
các quyết định dân sự khác. Ngoài ra, Luật THADS năm 2008 được sửa đổi,
bổ sung năm 2014, hệ thống tổ chức THADS được thành lập phù hợp với yêu
59
cầu của thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động THADS. Trên cơ sở hệ
thống văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung và việc tổ chức hệ thống
THADS theo ngành dọc trực thuộc Bộ Tư pháp nói chung, Chi cục THADS
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã được kiện toàn, vị thế Chi cục THADS ngày
càng được nâng lên; hoạt động của Chi cục THADS đã khẳng định được tính
độc lập, ổn định và hiệu quả của THADS nói chung và THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng đạt hiệu quả ngày càng cao.
Thứ hai, Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời đối với công tác thi hành
NVDS trong bản án, quyết định hình sự. Lãnh đạo Chi cục đã thường xuyên
quán triệt các văn bản pháp luật cũng như các Chỉ thị, ý kiến của lãnh đạo cấp
trên về công tác THADS đến cán bộ, công chức của đơn vị; thường xuyên
kiểm tra, đôn đốc việc thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự từ
khâu tiếp nhận bản án, yêu cầu thi hành án đến việc phân loại, ra quyết định
đúng thời hạn, phân công nhiệm vụ phù hợp trình độ chuyên môn của CHV
đến việc tiến hành thi hành án… Kịp thời nắm bắt và phối hợp với các cấp,
các ngành để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự. Nhờ vậy, nhiều việc phức tạp được giải
quyết không để tồn đọng, kéo dài.
Thứ ba, Trong quá trình thụ lý và tiến hành thi hành NVDS trong bản án,
quyết định hình sự, đa phần các chấp hành viên đã nêu cao tinh thần, trách
nhiệm, thực hiện bài bản, đúng quy trình thi hành án, tích cực phối hợp với
các ngành, các cấp để tiến hành thi hành án đảm bảo hiệu quả, đúng trình tự,
thục tục của pháp luật. Nhờ vậy, tỷ lệ phân loại án có điều kiện thi hành án
đạt tỷ lệ cao, tỷ lệ về việc và tiền phải thi hành thuộc NVDS trong bản án,
quyết định hình sự luôn đạt trên 95%, đứng đầu toàn tỉnh về thực hiện các chỉ
tiêu được giao.
Thứ tư, Trong công tác THADS nói chung và thi hành NVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
60
Ninh đã quan tâm củng cố quan hệ phối hợp với các ngành, các cấp có liên
quan. Các cán bộ công chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ đã phối hợp
chặt chẽ với Viện Kiểm sát, Tòa án và Công an huyện cũng như Chính quyền
các cấp và lực lượng Công an cơ sở trong tiếp nhận bản án, yêu cầu thi hành
án, xác minh điều kiện thi hành thi hành án, xét miễn, giảm tiền thi hành án,
tổ chức cưỡng chế thi hành án, tuyên truyền vận động các đối tượng tự
nguyện thi hành án tại Tòa án…. Bên cạnh, thực hiện nội dung Quy chế phối
hợp liên ngành của Bộ Tư Pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao và Bộ Công an, Chi cục THADS huyện Quế Võ đã chủ trì phối
hợp với Tòa án nhân dân huyện, Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Công an
huyện Quế Võ để xây dựng Quy chế phối hợp trong THADS trên địa bàn.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh còn một số hạn
chế như sau:
Thứ nhất, hầu hết cán bộ, công chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ
đã nhận thức đúng đắn vai trò của công tác THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự, nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong quá trình thụ lý. Tuy nhiên,
vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa nhận thực rõ tầm quan trọng của công
tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trong công tác bảo đảm an
ninh, trật tự. Dẫn đến chưa chủ động trong công tác nghiên cứu nắm vững các
quy định của pháp luật về quy trình, biệp pháp đảm bảo thi hành án, trong quá
trình thụ lý án chưa chủ động áp dụng vào thực tiễn dẫn đến chất lượng thi
hành án chưa cao. Còn tâm lý e ngại các vụ việc phức tạp, chưa quyết liệt giải
quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài.
Thứ hai, lượng việc tồn đọng và số lượng tiền tồn đọng chưa thi hành
được của các việc về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự còn nhiều.
Có những việc tồn đọng trong thời gian dài và đến nay vẫn chưa có phương
án giải quyết dứt điểm, gặp rất nhiều khó khăn do người phải thi hành án chưa
61
có điều kiện thi hành án, trong khi số tiền phải thi hành án rất lớn và các quy
định của pháp luật còn nhiều bất cập, vường mắc.
Thứ ba, trong quá trình tổ chức THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự vẫn còn nhiều việc có điều kiện thi hành nhưng chậm được thi hành dứt
điểm, để tình trạng tồn đọng kéo dài.
Thứ tư, vẫn còn tình trạng chấp hành viên, cán bộ làm công tác
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự vi phạm trình tự, thủ tục thi hành
án phải xử lý kỷ luật.
Thứ năm, trong thực hiện quan hệ phối hợp với các cấp, các ngành và
các lực lượng liên quan tuy đã được Chi cục THADS huyện Quế Võ quan tâm
củng cố nhưng có những thời điểm, trong một số việc cụ thể vẫn chưa được
quan tâm thực hiện tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác thi hành án, thiếu
đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Mặc dù Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung
năm 2014 đã có một chương qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự, tuy nhiên công tác THADS
nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng được thực
hiện với sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, nhưng pháp luật hiện hành
chưa qui định rõ trách nhiệm của các ngành phải tham gia hoặc hỗ trợ hoạt
động thi hành án, đặc biệt là trách nhiệm của Tòa án. Do vậy, nhiều vụ việc
khó thi hành vì thiếu sự phối hợp của cơ quan, tổ chức hữu quan.
Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự chưa được quan tâm thực
hiện. Thực tiễn công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ không
đồng bộ, thiếu sự phối hợp do chưa nhận thức được mục đích của công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Các hình thức, phương tiện và
phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật dường như chỉ tập
trung cho việc trang bị các quy định về hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà
ít chú ý đến tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong bản
62
án, quyết định hình sự. Vì vậy các phương tiện truyền thông đại chúng ít mở
chuyên mục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự và nếu có thì lại thiếu tính nhất quán, liên tục và hệ
thống cho nên chưa nâng cao được trình độ nhận thức pháp luật của người
dân nói chung và của người bị kết án nói riêng; chưa kết hợp được ý thức
pháp luật xã hội chủ nghĩa với giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa về
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục
THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh vẫn còn những hạn chế, thiết sót nhất định. Qua nghiên cứu có thể thấy những
hạn chế, thiếu sót đó xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
- Nguyên nhân khách quan:
2.3.3. Nguyên nhân
+ Một là, trong những năm qua, mặc dù huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đời sống
của nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn
huyện vẫn còn thấp, một bộ phận dân cư sống trên địa bàn chủ yếu làm nông
nghiệp, kinh tế khó khăn, trình độ nhận thức thấp, lao động tự do bươn trải
kiếm sống nên rời khỏi địa phương ngày càng nhiều, dễ bị lôi kéo thực hiện
các hành vi phạm tội, chủ yếu thực hiện hành vi phạm tội ma túy, cờ bạc, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Trong những đối tượng này, có nhiều đối tượng đã có
tiền án, tiền sự, vào tù ra tội, lười lao động, không có nghề nghiệp… nên
không có tài sản dẫn đến việc thi hành án gặp rất nhiều khó khăn, nhiều vụ
việc bị tồn đọng kéo dài.
+ Hai là, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là địa bàn tập trung nhiều khu
công nghiệp của tỉnh, số lượng các Công ty, nhà máy tiếp tục được đầu tư
tăng mạnh tại các cụm, khu công nghiệp, vì vậy số lượng công nhân tập trung
về địa bàn lao động ngày càng đông kéo theo những phức tạp về tình hình an
ninh, trật tự, các vụ việc vi phạm pháp luật hình sự có chiều hướng gia tăng
và tính chất, mức độ phức tạp ngày càng cao. Điều này, làm cho số việc phải
thụ lý, thi hành án hàng năm tăng cao. Bên cạnh đó, trong những năm qua các
63
vụ việc về hình sự có tính chất rất phức tạp, số lượng tiền phải thi hành án
lớn, tuy nhiên, người phải thi hành án đang phải chấp hành hình phạt tù, trước
đây, không có nghề nghiệp, không có tài sản để thi hành án, người thân và gia
đình cũng rất khó khăn không có điều kiện để nộp thay, được xác định chưa
có điều kiện thi hành án. Điều này dẫn đến rất nhiều khó khăn trong quá trình
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, kéo theo việc thi hành án tồn
đọng kéo dài.
+ Ba là, hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập
Trước hết là sự thiếu rõ ràng và chưa thể hiện sự nghiêm khắc triệt để
của các Điều luật trong pháp luật hình sự, đặc biệt là một số Điều luật liên
quan đến hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Chẳng hạn với qui định mức tối thiểu
của hình phạt là một triệu đồng là quá thấp, người bị kết án có thể nộp tiền
phạt làm nhiều lần dẫn đến chầy ỳ. Hay như với qui định tại Điều 40 và Điều
46 của BLHS 2015 sửa đổi năm 2017 trong thực tiễn xét xử khó phân biệt
được nguồn gốc tài sản là bất hợp pháp hay hợp pháp và thường có tranh chấp
về sở hữu nên Tòa án rất hạn chế áp dụng hình phạt tịch thu tài sản. Ngay cả
trong trường hợp người bị kết án có điều kiện nhưng cố tình không thi hành
hình phạt tiền, tịch thu tài sản thì trong thực tế cũng rất khó truy cứu trách
nhiệm hình sự họ về “Tội không chấp hành án” theo qui định tại Điều 380 của
BLHS 2015 sửa đổi năm 2017.
Bên cạnh đó, là các qui định pháp luật về thi hành án mặc dù những năm
gần đây Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách, pháp luật mới có
liên quan đến THNVDS trong bản án, quyết định hình sự. Tuy nhiên, các qui
định pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự chưa được hoàn
thiện còn nhiều bất cập. Đơn cử tại điểm c khoản 1 Điều 48 Luật THADS
năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui định điều kiện hoãn thi hành án đối
với khoản nộp ngân sách của người bị kết án trong đó có những người bị kết
án. Một trong những căn cứ để hoãn thì cơ quan thi hành án phải xác minh họ
không có tài sản và tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày
64
14/10/2013 qui định là việc xác minh phải được thực hiện cách nhau không
quá một năm trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù.
Qui định như vậy là rất bất cập và không cần thiết vì người bị kết án đang
trong thời gian chấp hành hình phạt tù thì hầu như không có tài sản phát sinh
do đó việc phải liên tục xác minh về tài sản của họ là không cần thiết gây lãng
phí về thời gian, tiền của và không hiệu quả, nặng về thủ tục hành chính. Nên
chăng đối với những trường hợp này thì chỉ cần xác minh một lần và hoãn
THNVDS cho đến khi họ chấp hành xong hình phạt tù.
Bốn là, các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác
THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói rieng còn
hạn chế.
Thực tiễn công tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự tại Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho thấy, cơ sở vật chất phục vụ
công tác thi hành án mặc dù những năm gần đây đã được Nhà nước chú trọng
quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu công việc vì theo báo cáo
kết quả công tác THADS trên địa bàn huyện Quế Võ thì lượng việc và tiền
phải thi hành án năm sau luôn có xu hướng cao hơn năm trước và gia tăng các
vụ việc phức tạp. Tình trạng án tồn đọng kéo dài, tính chất ngày càng phức
tạp, chưa có biện pháp giải quyết có hiệu quả.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Một là, biên chế số lượng CHV còn thiếu, trình độ chuyên môn, ý
thức, trách nhiệm của một số CHV còn hạn chế.
Hiện nay, tổng biên chế quân số của Chi cục THADS huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh gồm 11 cán bộ, trong đó, chỉ có 04 CHV, 01 Thẩm tra viên và
02 Thư ký. Trong những năm qua số lượng cán bộ giảm dần qua các năm, do
vậy số lượng cán bộ làm công tác THADS nói chung, số lượng CHV trực tiếp
thụ lý nói riêng còn thiếu, trong khi khối lượng công việc lại rất lớn. Bên cạnh
đó, một số CHV và cán bộ làm công tác thi hành án trình độ chuyên môn còn
hạn chế, trong quá trình làm nhiệm vụ còn chưa nêu cao tinh thần trách
65
nhiệm, thiếu kiên quyết, chưa chủ động, quyết liệt trong tiến hành các biện
pháp thi hành án dẫn đến một số vụ việc còn chậm hoặc tồn đọng kéo dài, đặc
biệt là những vụ việc phức tạp.
+ Hai là, trong quá trình tiến hành THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự chưa quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người bị thi
hành án và gia đình người phải thi hành án để đôn đốc, động viên, giáo dục
thuyết phục họ và gia đình thực hiện trách nhiệm của người phải thi hành án.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự chưa khơi dậy được phong trào quần chúng tham
gia THNVDS trong bản án, quyết định hình sự; chưa chỉ ra được vai trò của
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự đối với tình hình an ninh trật tự
cho nên không ít quần chúng còn mơ hồ, mất cảnh giác thậm chí còn tiếp tay
cho một số phần tử chống đối, chây ỳ, trốn tránh thi hành án. Vì vậy, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự sẽ có tác dụng thiết thực nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân nói chung và ý thức trong việc chấp hành pháp luật về
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.
+ Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo của lãnh đạo Chi cục
THADS huyện Quế Võ trong chỉ đạo, điều hành tổ chức THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự có lúc, có nơi còn bị động, chưa sâu sát, kịp thời.
Trong một số vụ việc cụ thể, chưa quan tâm đến việc lựa chọn, phân công cán
bộ có đủ trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác tiếp nhận, thụ lý các vụ
việc phức tạp. Trong quá trình tiến hành thi hành án chưa quan tâm chỉ đạo,
đôn đốc, kiểm tra, hướng kịp thời CHV và cán bộ của đơn vị tiến hành các
biện pháp thi hành án dẫn đến một số vụ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc
không được tháo gỡ, làm cho việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
bị tồn đọng kéo dài. Đồng thời, chưa quan tâm làm tốt công tác tổng kết, rút
kinh nghiệm THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đặc biệt là đối với
những vụ việc khó khăn, phức tạp, tồn đọng kéo dài.
66
+ Bốn là, quy chế phối hợp với các cấp, các ngành trong THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự chưa rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan
có liên quan. Lãnh đạo các đơn vị phối hợp trong một số vụ việc chưa thống
nhất về quan điểm xử lý, chưa đôn đốc, chỉ đạo cán bộ của đơn vị mình tích
cực thực hiện với các đơn vị có liên quan trong THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự. Việc phối hợp trong cưỡng chế thi hành án một số đơn vị cử cán
bộ tham gia còn chiếu lệ. Trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, điều tra
viên của cơ quan điều tra chỉ chú trọng việc truy tìm chứng cứ và các hoạt
điều tra như hỏi cung, lấy lời khai…mà chưa chú trọng đến việc xác minh,
thu hồi các tài sản do phạm tội mà có hoặc việc cất giấu, tẩu tán tang vật hoặc
tài sản do phạm tội mà có cũng như xác định các tài sản khác của đối tượng
để đảm bảo thi hành án. Trong quá trình xét xử của Tòa án, một số vụ việc án
tuyên không rõ, không sát với thực tiễn (trong các vụ án ma túy, đánh bạc,
trộm cắp đối tượng thường không có nghề nghiệp, ham chơi, sống phụ thuộc
nên không có tài sản để thi hành hình phạt bổ sung mà Tòa đã tuyên)… đồng
thời, chưa tích cực trong phối hợp đề xét miễn, giảm tiền thi hành án.
67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong Chương 2, luận văn đã khảo sát, làm rõ tình hình, đặc điểm có liên
quan đến THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh như: Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã
hội, tình hình kết quả công tác THADS của Chi cục THADS huyện Quế Võ;
tình hình, đặc điểm về số lượng việc và tiền thuộc NVDS trong bản án, quyết
định hình sự trên địa bàn huyện từ năm 2015 đến hết năm 2019. Luận văn đã
đi sâu phân tích đánh giá thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, như: Khảo sát tình
hình biên chế cán bộ làm công tác thi hành án của Chi cục, việc thực hiện quy
trình thi hành án, kết quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp trong tổ chức THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ và những vấn
đề liên quan, luận văn đã chỉ rõ kết quả đạt được của THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự với nhiều ưu điểm đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào
việc nâng cao hiệu quả công tác THADS.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ thời gian qua vẫn còn
bộc lộ những tồn tại, hạn chế, khó khăn vướng mắc nhất định. Những hạn chế,
khó khăn, vướng mắc đó xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau, nhưng cần phải được nghiên cứu và khắc phục từng bước
trong thời gian tới. Luận văn đã tập trung phân tích các nguyên nhân cơ bản đã
tác động và làm giảm hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của
Chi cục THADS huyện Quế Võ. Đây là cơ sở để luận văn đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới ở Chương 3.
68
Chương 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢNÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ
3.1. DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THI HÀNH NGHĨA VỤ
DÂN SỰ TRONG BẢNÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ
3.1.1. Dự báo tình hình về việc và tiền phải thi hành án thuộc nghĩa
Trong những năm tới huyện Quế Võ sẽ tiếp tục được Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh quan
tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội với nhiều công trình cơ sở hạ tầng lớn được đầu tư, các dự án khu Công
nghiệp tiếp tục được thu hút và mở rộng…nhằm phát huy tốt đa điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý cũng như
các thế mạnh của huyện. Điều này sẽ thúc đẩy kinh tế của huyện Quế võ tăng trưởng cao (GDP luôn tăng trên
10%/năm), đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa trên địa bàn huyện, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Tuy nhiên, trước những tác động của nhiều yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường, với
những khó khăn, yếu kém trong công tác quản lý sẽ làm nảy sinh ra những yếu tố tác động tới tình hình an
ninh, trật tự tại địa bàn huyện Quế Võ. Tình hình hoạt động của các loại tội phạm nói chung đang có chiều
hướng gia tăng cả về số vụ, số đối tượng cũng như tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn, nhiều loại
tội phạm mới xuất hiện, thành phần đối tượng đa dạng, với những phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi,
gây ảnh hưởng lớn tới tình hình trật tự an toàn xã hội.
vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự
Điều này sẽ làm cho công tác THADS nói chung và THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng sẽ tiếp tục đặt ra những nhiệm vụ nặng nề
hơn cho Chi cục THADS huyện Quế Võ.
Trong thời gian tới, trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tình hình
tội phạm diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm ma túy, tội phạm xâm phạm
sở hữu, tội phạm đánh bạc và tổ chức đánh bạc… Điều này sẽ làm cho số
lượng việc và tiền phải thi hành án thuộc phần trách nhiệm dân sự trong các
bản án, quyết định hình sự sẽ tăng theo số vụ phạm tội được phát hiện, điều
tra, xét xử.
69
Về số lượng việc phải thi hành án thuộc NVDS trong các bản án, quyết
định hình sự có thể tăng ít, thậm chí có năm sẽ không tăng hoặc giảm nhẹ, bởi
công tác đấu trang phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng sẽ tiếp
tục được củng cố, tăng cường, số vụ phạm pháp hình sự sẽ được kiềm chế.
Tuy nhiên, số việc có điều kiện thi hành án tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ
có điều kiện thi hành án của các công tác THADS nói chung.
Về số lượng tiền phải thi hành án thuộc NVDS trong bản án, quyết định
hình sự sẽ tiếp tục có sự gia tăng nhanh. Bởi, các vụ việc sẽ ngàng càng phức
tạp hơn, các đối tượng phạm tội, đặc biệt là trong các vụ án xâm phạm sở hữu
như lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản hoặc các
tội phạm liên quan đến đánh bạc và tổ chức đánh bạc trên không gian mạng sẽ
gây ra những hậu quả nặng nề hơn, do số lượng tài sản chiếm đoạt lớn hoặc
số lượng tiền, tài sản liên quan đến hoạt động phạm tội là rất lớn. Tuy nhiên,
số tiền có điều kiện thi hành án sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp, số tiền chưa có
điều kiện thi hành án chiếm tỷ lệ cao.
Về người phải thi hành án: Sẽ tiếp tục đa đạng về độ tuổi, giới tính, trình
độ, thành phần… nhưng chủ yếu sẽ vẫn là các đối tượng phạm tội ma túy, đa
phần các đối tượng này đang phải chấp hành hình phạt tù, trước khi phạm tội
ham chơi, lười lao động, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn
định, sống phụ thuộc, không có tài sản để thi hành án và thân nhân cũng
không có tài sản để thi hành án.
3.1.2. Các yếu tố tác động đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản
án, quyết định hình sự
Từ những nội dung dự báo trên cho thấy hoạt động THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ trong thời gian tới
gặp phải một số khó khăn nhất định như: Chỉ tiêu, nhiệm vụ về việc và tiền
thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình sự được giao hàng năm sẽ tiếp tục
70
tăng, đặc biệt là số lượng tiền phải thi hành án sẽ là rất lớn, trong khi đó, số
lượng việc và tiền thuộc NVDS trong bản án, quyết định hình sự có điều kiện
thi hành án sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho công
tác thi hành án, khiến cho nhiều vụ việc sẽ bị tồn đọng, kéo dài.
Bên cạnh những khó khăn nói trên, hoạt động THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ cũng có những thuận
lợi đó là:
Trong thời gian tới, công tác THADS nói chung, thi hành NVDS trong
bản án, quyết định hình sự nói riêng sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm nhiều
lớn của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cũng như lãnh đạo các cấp của
Bộ Tư pháp. Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, lãnh đạo Bộ Tư pháp, cơ
quan thi hành án dân sự các cấp sẽ tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn
đốc sát sao hơn tới các mặt công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng. Đồng thời, tập trung tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc và tạo những điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án các cấp
trong công tác thi hành án dân sự nói chung.
Trình độ năng lực của cán bộ làm công tác thi hành án và CHV của Chi
cục THADS huyện Quế Võ ngày càng được nâng cao, các chức danh sẽ ngày
càng được quan tâm củng cố, hoàn thiện, kinh nghiệm trong THADS nói
chung và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng sẽ được tích
lũy ngày một nhiều hơn…
Hệ thống văn bản qui định về công tác THADS nói chung, đặc biệt là
các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, tạo hành
lang pháp lý vững chắc nhằm nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của cơ
quan THADS sẽ được nâng cao, đồng thời các biện pháp hỗ trợ thi hành án
dân sự sẽ được tăng cường với nhiều chế tài nghiêm khắc hơn.
Cơ sở vật chất, những trang thiết bị phục vụ công tác THADS nói
chung, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sử của Chi cục
THADS huyện Quế Võ sẽ tiếp tục quan tâm trang bị ngày một đầy đủ và tốt
71
hơn... Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các mặt công tác
THADS sẽ được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh trong thời gian tới... Đó chính
là những điều kiện thuận lợi cho công tác THADS nói chung, hoạt động
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế
Võ trong thời gian tới đạt hiệu quả hơn…
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN
SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ
3.2.1. Chú trọng tổng kết thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự; tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật có
liên quan đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Thi hành án dân sự nói chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự nói riêng là nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ an ninh, trật tự, đảm bảo
pháp chế xã hội chủ nghĩa; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng
rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng. Tuy nhiên, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhận thức còn
nhiều vấn đề chưa thống nhất về thuật ngữ, nội dung, bản chất dẫn đến cách
hiểu, vận dụng khác nhau trong thực tiễn, hạn chế đến hiệu quả công tác.
Chính vì vậy, để hoàn thiện và cụ thể hóa những quy định, hướng dẫn về
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, trước hết phải tăng cường chất
lượng, hiệu quả việc tổng kết, rút kinh nghiệm THNVDS.
Đồng thời, trước yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần của Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội
phạm” [20], sẽ đặt ra những nhiệm vụ nặng nề hơn cho hoạt động THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự mà trước hết là nhiệm vụ hoàn thiện thể chế,
tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động này. Trước yêu cầu đó, trong
điều kiện của nước ta hiện nay, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có
72
liên quan cần phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp. Công tác lập pháp của
Quốc hội trong thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Quá trình xây
dựng một số luật, pháp lệnh chưa thực sự bám sát nhu cầu cuộc sống, dẫn đến
việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ
thống pháp luật, từ đó làm cho hoạt động THADS nói chung và hoạt động
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng gặp rất nhiều khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn tiến hành.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn THNVDS trên địa bàn huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh cho thấy những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật
nói chung, Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành nói riêng đã dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, làm cho nhiều vụ việc
tồn đọng, kéo dài, chưa tìm ra hướng giải quyết. Bên cạnh đó, chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS và trách nhiệm của các cơ quan có
liên quan chưa được quy định cụ thể, rõ ràng cũng đã gây khó khăn cho CHV
và cơ quan thi hành án, ảnh hưởng đến chất lượng công tác THADS nói
chung và hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.
Do vậy, thời gian tới để nâng cao chất lượng công tác THADS nói
chung và hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, cần
chú trọng công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, làm cơ sở để tiếp tục sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật, cụ thể:
- Thứ nhất, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần tăng cường phối hợp,
trao đổi thông tin với các Cục THADS tỉnh Bắc Ninh, các Viện, Trung tâm
nghiên cứu khoa học và các đơn vị liên quan tiến hành tổng kết công tác
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
Việc tổng kết có thể dưới các hình thức báo cáo thực tế, hội thảo khoa
học, viết sách, các đề tài nghiên cứu khoa học, thực hiện các luận văn thạc
sĩ, luận án tiến sĩ… để nghiên cứu rút ra những bài học kinh nghiệm, những
thành công cũng như tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong THNVDS
73
trong bản án, quyết định hình sự. Cần đặc biệt chú trọng phân tích, làm rõ
những khó khăn, vướng mắc trong THNVDS trong các vụ việc tồn đọng kéo
dài, những vụ việc phức tạp để trao đổi và đề xuất các biện pháp khắc phục,
qua đó tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần phục
vụ có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Thứ nhất, sửa đổi một số quy định về hình phạt trong BLHS.
Mặc dù BLHS 2015 sửa đổi năm 2017 đã có những ưu việt nhất định,
trong đó có định hướng bảo vệ quyền con người, giảm khả năng áp dụng hình
phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không mang tính giam giữ.
Việc xây dựng BLHS 2015 sửa đổi 2017 đều hướng tới mục đích tăng phạm vi
áp dụng các hình phạt về vật chất, giảm phạm vi áp dụng các hình phạt tù. Tuy
nhiên để đảm bảo tính khả thi của các hình phạt về vật chất thì theo quan điểm
của tác giả luận văn cũng có một số kiến nghị để hoàn thiện như sau:
+ Đối với hình phạt tiền thì cần phân hóa rạch ròi mức tối thiểu và tối đa
của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính và hình phạt bổ sung; cần qui
định rõ thời hạn nộp tiền phạt để hạn chế tình trạng người bị kết án chây ỳ
trong thực hiện thi hành án, gây khó khăn cho quá trình thi hành án.
+ Kiến nghị các nhà làm luật trong quá trình soạn thảo cũng nên phân
biệt hai trường hợp không có điều kiện thi hành và trường hợp có điều kiện
nhưng cố tình không thi hành các hình phạt về vật chất. Đối với trường hợp
người bị kết án không có điều kiện thi hành thì cũng nên áp dụng chính sách
nhân đạo của pháp luật mà hoãn hay miễn, giảm thi hành đối với họ. Đối với
trường hợp người bị kết án có điều kiện nhưng cố tình không thi hành thì phải
qui định rõ ràng và áp dụng hình thức lao động bắt buộc hoặc phải áp dụng
các chế tài nghiêm khác khắc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội
không chấp hành án” đối với họ.
- Thứ ba, sửa đổi quy định của Luật THADS 2008 sửa đổi năm 2014 để
nâng cao vị trí, vai tró, trách nhiệm của cơ quan THADS và quy định rõ chức
trách, nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan.
74
Để khắc phục tồn tại, bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật về
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự thì cần sớm xây dựng Bộ luật thi
hành án. Quán triệt và thể chế hóa chủ trương "sớm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà
nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp" [16] và để "kiện toàn các tổ
chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết
định của Tòa án, của tổ chức trọng tài và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh... Chuẩn bị điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan quản lý tập trung
thống nhất công tác thi hành án" [17], cũng như các Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị liên quan đến công tác thi hành án; thực hiện việc đổi mới tổ chức,
hoạt động của cơ quan thi hành án, tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Việc giao cho một cơ quan chức năng giúp Chính phủ quản lý tập trung,
thống nhất công tác thi hành án là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu
sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ, hợp lý và có hiệu quả. Hoạt
động thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống nhất
trong quản lý, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan thi hành
án và các cơ quan hữu quan, hạn chế hiệu quả của mỗi lĩnh vực thi hành án,
nhất là làm cho việc khắc phục án tồn đọng trong thi hành các nghĩa vụ dân
sự trong bản án, quyết định hình sự bị kéo dài. Việc ban hành Bộ luật thi hành
án trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh là hết
sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành án trong
tình hình hiện nay. Đối với lĩnh vực THADS, Bộ luật này phải coi bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản chỉ đạo
toàn bộ nội dung của nó; tạo ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả
giữa cơ quan thi hành án với Cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, chính
quyền địa phương trong việc tổ chức thi hành án; qui định rõ và mở rộng
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thi hành án, chấp hành viên; qui định rõ
75
trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, tổ chức, công dân trong việc thực hiện
các yêu cầu của chấp hành viên trong quá trình thi hành án; xã hội hóa một số
hoạt động THADS; kế thừa, phát triển pháp luật về THADS của nước ta,
đồng thời có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của thế giới để nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ quan thi hành án, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Thứ tư, Sửa đổi các qui định pháp luật về miễn, giảm thi hành các hình
phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết
định hình sự.
Việc qui định miễn, giảm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản và
các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự đối với người bị
kết án thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước. Các qui định về miễn,
giảm chấp hành các hình phạt được qui định trong các văn bản pháp luật như:
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ
sung năm 2014; Thông tư số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC
ngày 15/9/2015 của liên Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính – Tòa án nhân dân tối cao –
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi
hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước và Nghị định số
125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ qui định người phải thi hành
nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được ít nhất
bằng 1/50 khoản phải thi hành thì được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành.
Song, theo phản ánh từ các cơ quan thi hành án, bên cạnh trường hợp người bị
kết án có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ
của mình, thì nhiều đối tượng đang chấp hành hình phạt tù chung thân, có hồ
sơ thi hành án đã lâu năm nhưng không có tài sản để thực hiện dẫn đến tốn
kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước như: Người bị kết án không có
tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán
chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo qui định của pháp luật
không được xử lý để thi hành án. Người không có thu nhập hoặc mức thu
nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người bị kết án và gia đình họ,
76
các trường hợp bị thiên tai, lũ lụt mà người bị kết án không còn tài sản; không
xác định được địa chỉ, nơi sinh sống hoặc tài sản của người bị kết án cũng
nằm trong diện được xem xét miễn giảm thi hành án. Chính vì vậy, nên bổ
sung trường hợp không xác định được địa chỉ, tài sản của người bị kết án thì
có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại.
- Thứ năm, bổ sung quy định để tiến tới xã hội hóa công tác thi hành án
dân sự nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.
Ngoài ra cũng cần xây dựng các qui định pháp luật để thí điểm, nhân
rộng, tiến tới thực hiện xã hội hóa trên phạm vi cả nước công tác thi hành án
theo chủ trương của Đảng, bước đầu có thể xã hội hóa việc tống đạt các văn
bản, giấy tờ THADS và xác minh tài sản của người bị kết án... nhằm tạo điều
kiện cho các cơ quan thi hành án tập trung vào những công việc thi hành án
chủ yếu, giảm gánh nặng cho các cơ quan này do tình trạng quá tải về công
việc, đồng thời nâng cao tính chất xã hội, làm cho thi hành án trở thành mối
quan tâm chung của xã hội, là trách nhiệm của xã hội.
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đối ngũ chấp hành viên và cán bộ
làm công tác thi hành án dân sự
Hiệu quả công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào công tác cán bộ, vấn đề tổ
chức, biên chế, phân công hợp lý và chất lượng đội ngũ CHV, và cán bộ làm
công tác thi hành án của cơ quan THADS các cấp.
Qua khảo sát thực tiễn hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua cho
thấy: Biên chế, tổ chức của Chi cục THADS huyện Quế Võ còn ít so với lượng
việc yêu cầu phải giải quyết, chất lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
công tác của một bộ phận cán bộ còn hạn chế, trách nhiệm của một số CHV
77
chưa cao, chưa quyết liệt trong giải quyết các vụ việc, còn tư tưởng e ngại đối
với các vụ việc phức tạp. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
THADS nói chung, hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói
riêng. Do vậy, thời gian tới Chi cục THADS huyện Quế Võ cần chú trọng điều
chỉnh, sắp xếp lực lượng hợp lý, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, năng lực và trách nhiệm của CHV và cán bộ làm công tác thi hành án của
đơn vị, cụ thể là:
Một là, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ cần có những nghiên
cứu về việc sử dụng nguồn lực cán bộ cho hợp lý, đảm bảo đủ số lượng đáp
ứng yêu cầu công tác. Đồng thời, cũng cần có những tính toán khoa học để
tiết kiệm nguồn lực cán bộ như cải tiến phương pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, lề lối làm việc nhanh chóng, hiệu quả, tăng hiệu suất công việc.
Lãnh đạo đơn vị cần nghiên cứu ban hành các quy chế, quy định về quy
trình, lề lối, tác phong làm việc đảm bảo hiệu quả, nhanh chóng, tạo điều kiện
thuận lợi trong công tác cũng như tôn trọng và phát huy vai trò, trách nhiệm
của mọi công dân trong công tác THADS nói chung và hoạt động THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, đồng thời khổng để tình trạng
nhũng nhiễu và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định Luật Công
chức và Chuẩn mực đạo đức của CHV đã ban hành.
Hai là, cần rà soát, xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ở các cấp học,
hệ học phù hợp với trình độ, năng lực của CHV và cán bộ làm công tác thi
hành án của Chi cục. Cần tăng cường cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng tại các
cơ sở đào tạo về tư pháp hành sự. Cần tăng cường cử cán bộ làm công tác thi
hành án và CHV tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về THADS
hoặc liên kết để mở các lớp tập huấn. Trong nội dung tập huấn, ngoài những
kiến thức về pháp luật hình sự, TTHS, cần đi sâu về nghiệp vụ THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự như trình tự, nội dung, phương pháp thi
hành... nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và phổ biến những kinh nghiệm
hay cũng như các bài học thất bại của các địa phương, đơn vị để cùng nhau
78
học hỏi, rút kinh nghiệm.
Ba là, cần chú trọng quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
CHV của đơn vị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác THADS trong tình hình
mới. Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Bắc Ninh đề xuất lãnh đạo Cục
THADS tỉnh Bắc Ninh quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ, lãnh
đạo cũng như các chức danh tư pháp đảm bảo đủ về số lượng, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo công tác THADS của huyện. Đặc
biệt là cần đề xuất lãnh đạo Cục THADS tỉnh kiện toàn vị trí Chi cục trưởng,
sớm quyết định bổ nhiệm lại đối với đồng chí Chi cục trưởng để đồng chí yên
tâm tư tưởng công tác, lãnh đạo chỉ đạo công tác THADS sát sao hơn.
Cần làm tốt công tác quy hoạch những cán bộ có phẩm chất, năng
lực, được đào tạo bài bản về nghiệp vụ THADS để bồi dưỡng và bổ nhiệm
chức danh CHV, Thư ký, Thẩm tra viên nhằm xây dựng đội ngũ làm công
tác thi hành án dân sự đủ về số lượng, đảm bảo trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm để thụ lý và thi hành án án các vụ việc phức
tạp trong tình hình mới.
Thứ tư, ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án theo hướng
chuyên môn hóa.
Do đặc điểm của công tác thi hành án, đội ngũ cán bộ nói chung luôn có
sự thuyên chuyển, dẫn đến sự xáo trộn về mặt cán bộ. Số cán bộ theo dõi thi
hành án có kinh nghiệm bị điều đi làm việc khác, số cán bộ mới không tránh
khỏi những lúng túng về mặt thủ tục, trình tự thi hành án, thậm chí có những
sai sót, sơ hở đáng tiếc trong quá trình thi hành án. Vì vậy, để tạo điều kiện
cho cán bộ làm công tác THADS có điều kiện tích lũy kinh nghiệm, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, thì ngoài việc đầu tư cho cho công tác đào tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn, thì việc bố trí, ổn định cán bộ làm công tác
này là một yêu cầu hết sức cần thiết. Lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế
Võ cần tính toán khoa học, hạn chế việc luân chuyển các CHV, Thẩm tra viên
để nhằm ổn định tư tưởng, bồi dưỡng được những cán bộ làm công tác thi
79
hành án giầu kinh nghiệm và có trách nhiệm cao trong công tác.
3.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo; thường xuyên tiến
hành kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự
Quá trình nghiên cứu khảo sát thực tiễn công tác THADS nói chung và
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng của Chi cục THADS
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cho thấy ở thời điểm nào, trong vụ việc nào
lãnh đạo đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác tiếp nhận bản án,
yêu cầu thi hành án, quan tâm chỉ đạo chặt chẽ việc phân loại án, ra quyết
định thi hành án nhanh chóng, chỉ đạo xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức
các biện pháp thi hành án ... thì việc THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả cao, đặc biệt là đối với
những vụ việc phức tạp, tồn đọng nhiều năm. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu
quả hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, lãnh đạo Chi cục
cần quan tâm thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn
các mặt công tác THNVDS trong bản án, quyết định hình sự tại đơn vị mình,
cụ thể là:
Thứ nhất, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cần
đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của hoạt động THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự, đảm bảo pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Cần quán triệt cho cán bộ làm công tác thi hành án của đơn vị
mình nắm vững nội dung các quy định của Hiến pháp 2013, Luật hình sự,
Luật TTHS, Luật THADS, hiểu rõ về hình phạt, trình tự, thủ tục TTHS, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phân công, phân cấp tiến hành các hoạt động
THNVDS của đơn vị mình được phân công. Lãnh đạo Chi cục cần phân công
những CHV có kinh nghiệm và tinh thần, trách nhiệm cao thụ lý thi hành án
các vụ việc phức tạp, số lượng việc và tiền phải thi hành án lớn, nhiều người
phải thi hành án và các đương sự có liên quan.
Thứ hai, trên cơ sở các vụ việc, vụ án đã phân công cho CHV thụ lý,
80
lãnh đạo Chi cục cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở CHV thực
hiện công tác xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp đảm bảo
thi hành án theo đúng tiến độ và đảm bảo đầy đủ các khâu theo trình tự, thủ
tục của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, chỉ đạo,
quán triệt các CHV nêu cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn để tiến hành các
biện pháp thi hành án hiệu quả. Đồng thời, cần làm tốt công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, có chế độ chính sách đối với các cán bộ trực tiếp làm công
tác thi hành án để động viên, khuyến khích số cán bộ này tích cực thực hiện
đầy đủ và có trách nhiệm các hoạt động thi hành án, tránh được những sai
phạm, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức của CHV.
Thứ ba, lãnh đạo Chi cục THADS huyện Quế Võ cần thường xuyên tiến
hành kiểm tra, đôn đốc việc THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đặc
biệt là đối với những vụ việc phức tạp, số tiền phải thi hành án lớn bằng nhiều
hình thức khác nhau như: Kiểm tra định kỳ, đột xuất, kiểm tra theo chuyên
đề... Việc tiến hành công tác kiểm tra phải thực hiện theo đúng quy trình, việc
đánh giá phải dựa trên những cơ sở khoa học, đảm bảo tránh đưa ra đánh giá
chủ quan, phiến diện. Quá trình kiểm tra, đôn đốc cần coi trọng cùng với các
CHV và cán bộ làm công tác thi hành án tìm ra khó khăn, vướng mắc trong
quá trình tiến hành thi hành án để kịp thời nắm bắt, tổng hợp và đề xuất, kiến
nghị các cấp, các ngành và các cơ quan thi hành án cấp trên có biện pháp tháo
gỡ, không để vụ việc tồn đọng, kéo dài. Đồng thời, kết hợp tăng cường hướng
dẫn các CHV, Thư ký và Thẩm tra viên còn lúng túng trong quá trình tiến
hành các biện pháp thi hành án, giúp cho cán bộ của đơn vị áp dụng đúng, đủ
các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Thứ tư, công tác kiểm tra phải dựa trên cơ sở những tiêu chí đánh giá rõ
ràng về công tác THADS nói chung cũng như hoạt động THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự nói riêng đã được xây dựng để tìm ra những cán bộ,
CHV làm tốt, trách nhiệm cao trong công tác. Từ đó, có hình thức động viên,
khích lệ và có hình thức khen thưởng kịp thời, những cá nhân nào chưa làm tốt,
81
tiến độ kéo dài, để xảy ra khiếu nại, vi phạm quy định của pháp luật hoặc chuẩn
mức của CHV, cần làm rõ nguyên nhân, khó khăn, vướng mắc để có biện pháp
xử lý phù hợp. Cần đưa nội dung công tác này vào tiêu chí phân loại, bình xét
thi đua hàng quý, hàng năm cá nhân để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các cá nhân trong công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự nói
chung và thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS nói
chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự là hoạt động truyền đạt,
giải thích rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, lứa tuổi để mọi người biết các qui
định của pháp luật về thi hành án, vận động họ tuân thủ pháp luật về thi hành
án với tính cách như là một đòi hỏi tất yếu của mỗi công dân trong xã hội văn
minh. Vì vậy, phải coi biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
nói chung và pháp luật về thi hành án nói riêng là biện pháp cơ bản thường
xuyên, có ý nghĩa quyết định trong công tác THADS nói chung, THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự nói riêng.
Thực tiễn cho thấy, phần lớn người phải thi hành án do thiếu hiểu biết
pháp luật nhất là các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được quy
định trong Luật THADS nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong THADS nói
chung và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng. Thậm chí, có
người vì sợ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân mà cung cấp những thông tin
thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho cơ quan thi hành án và CHV
trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, thậm trí chây ỳ không thực
hiện thi hành án hoặc gây khó khăn cho việc thi hành án. Vì vậy, công tác
tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là rất cần thiết, thời gian tới Chi cục
THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cần quan tâm tuyên truyền, giáo dục,
phổ biến kiến thức pháp luật THADS cho nhân dân trên địa bàn, tập trung vào
những vấn đề sau:
82
Tuyên tuyển, phổ biến các quy điịnh của pháp luật hình sự, TTHS liên quan đến hình phạt và trình tự
TTHS;
Tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật THADS và các quy định liên quan đến THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự.
Giáo dục về ý thức, tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của
những người bị kết án.
Hướng dẫn thói quen ứng xử tích cực theo pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự.
- Về hình thức, biện pháp thực hiện:
- Về nội dung:
Việc xác định đúng nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cho từng loại đối tượng là yếu tố
có ý nghĩa quyết định cho việc đạt tới mục đích của giáo dục pháp luật. Tuy
nhiên, nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật không thể tự thân
đi vào nhận thức, tình cảm của người được giáo dục, mà phải qua các kênh
truyền tải thông tin, qua các cách thức và biện pháp tác động nhất định, phù
hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng giáo dục. Để nâng cao hiệu quả
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cán bộ của Chi cục THADS huyện Quế Võ
cần phải thực hiện các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
sau đây:
Phổ biến, nói chuyện về thi hành án tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, địa bàn dân cư và các trường học, trong đó phải đặc biệt chú ý các địa
bàn có nhiều người bị kết án và phải thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và
các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự.
Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin cổ động, các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật về thi hành án. Đưa các văn bản pháp luật về THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự vào tủ sách pháp luật theo chương trình của
Bộ Tư pháp.
Tuyên truyền pháp luật về thi hành án qua các phương tiện truyền thông
đại chúng. Các báo chí, đài phát thanh, truyền hình nên có chuyên mục pháp
luật về về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
83
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS nói
chung, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng nếu thực hiện
đúng theo các yêu cầu về mục đích, nội dung nói trên, thì chắc chắn đối tượng
được tác động, giáo dục sẽ có sự nhận thức đúng đắn về công tác thi hành án
dân sự và sẽ thực hiện tốt hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.
3.2.5. Xây dựng quy chế phối hợp; tăng cường thực hiện quan hệ
phối hợp với các cơ quan có liên quan trong hoạt động thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Thực tiễn THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện
Quế Võ cho thấy đây là hoạt động rất khó khăn do người phải thi hành án là
những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, đang thi hành hình phạt tù, không có
tài sản để thi hành án. Thậm chí nhiều trường hợp người bị kết án trốn tránh,
chây ỳ THNVDS mặc dù cơ quan THADS đã áp dụng nhiều phương pháp
nhưng vẫn không thi hành được. Nhưng khi cơ quan THADS phối hợp với
các cơ quan có liên quan khác như: Công an huyện, Trại Giam, Tòa án, Viện
kiểm sát… thì việc thi hành án diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn. Có thể thấy,
trong hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự thì sự phối hợp
của các cơ quan liên quan đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, thực
tiễn tiến hành quan hệ phối hợp giữa Chi cục THADS huyện Quế Võ với các
ngành, các cấp và các cơ quan có liên quan thời gian qua có lúc, có nơi, trong
một số vụ việc cụ thể còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy, thời gian tới, Chi cục THADS huyện Quế
Võ cần chủ trì xây dựng quy phối hợp và tăng cường thực hiện quan hệ phối
hợp với các cấp, các ngành trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự,
tập trung vào những nội dung sau:
Một là, Chi Cục THADS huyện Quế Võ rà soát, hoàn thiện các quy chế
phối hợp đã xây dựng với các cơ quan có liên quan như Tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân huyện, Công an huyện, các Trại Giam... Trong Quy
84
chế phối hợp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan đơn vị
trong việc thực hiện các khâu, các hoạt động của THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự như: Kê biên, phong tỏa tài sản, cưỡng chế thi hành án, xét
miễn, giảm thi hành án... đặc biệt trong giải quyết các vụ việc khó khăn, phức
tạp, án tồn đọng. Bên cạnh đó, cần xây dựng riêng Quy chế phối hợp với Tòa
án để làm rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi lực lượng, giúp cho quá trình thực
hiện phối hợp được hiệu quả hơn.
Hai là, nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp với các lực lượng liên
quan như phối hợp với ngành Công an trong thi hành án với những đối tượng
đang thi hành hình phạt tù tại các Trại Giam, phối hợp trong kê biên, phong tỏa
tài sản, cưỡng chế thi hành án. Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân trong việc
phân loại vụ việc có điều kiện và chưa có điều kiện thi hành án, làm các thủ tục
xét miễn, giàm thi hành án đảm bảo chính xác, khách quan, đúng trình tự, thủ
tục theo quy định. Phối hợp tốt hơn với Tòa án trong các vụ việc mà nội dung
bản án tuyên không rõ ràng, không phù hợp với thực tế; phối hợp trong việc
tuyên truyền, vận động các đối tượng tự nguyện thi hành án trong quá trình xét
xử tại Tòa và tích cực phối hợp trong xét miễn, giảm thi hành án.
Ba là, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp trong
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự cần trao đổi, thống nhất với các
lực lượng có liên quan xây dựng các quy chế ràng buộc trách nhiệm đồng thời
cũng cần quy định rõ hình thức khen thưởng đối với những cá nhân, đơn vị
thực hiện tốt và phê bình, kỷ luật đối với những đơn vị, cá nhân thiếu trách
nhiệm trong công tác. Lãnh đạo các đơn vị tham gia phối hợp phải nhận thức
được tầm quan trọng của công tác phối hợp và tăng cường giáo dục nhận
thức, tinh thần trách nhiệm trong công tác phối hợp của cán bộ đơn vị mình.
Lãnh đạo các đơn vị có liên quan cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc
nhở các cá nhân, đơn vị có nhận thức không đúng và thiếu trách nhiệm trong
thực hiện mối quan hệ phối hợp trong công tác THADS nói chung, thi hành
NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói riêng, kịp thời phát hiện, khắc
phục những hiện tượng cục bộ, đề cao vai trò cá nhân hoặc đơn vị mình trong
85
thực hiện quan hệ phối hợp. Yêu cầu cán bộ tham gia phối hợp phải báo cáo
kết quả trao đổi thông tin giữa các lực lượng theo các quy chế, kế hoạch đề ra
trong công tác thi hành án.
Hàng năm, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần tiến hành sơ kết, tổng kết
đánh giá việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong công tác
THADS nói chung, thi hành NVDS trong bản án, quyết định hình sự nói
riêng, để đánh giá những thuận lợi, khó khăn, những kết quả đã đạt được,
những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực hiện phối hợp và đề ra phương
hướng, nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp trong thời gian tới.
3.2.6. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, có chế độ
chính sách phù hợp cho cán bộ làm công tác thi hành án và chấp hành viên
Việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc là
rất cần thiết không chỉ đối với riêng Chi cục THADS huyện Quế Võ mà với
nhiều đơn vị trong ngành THADS. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật và phương tiện hoạt động thi hành án sẽ giúp đảm bảo sự uy nghiêm
và hiệu quả thi hành án, nhất là khi áp dụng thi hành án bằng biện pháp
cưỡng chế. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, với vị trí, vai trò của Chi cục
THADS huyện Quế Võ, đơn vị được giao chỉ tiêu về việc và tiền phải thi
hành án khá lớn thì việc có cơ sở vật chất đầy đủ, trang thiết bị và phương
tiện hiện đại là vấn đề hết sức cấp bách. Bởi đây cũng được coi là một trong
những điều kiện sẽ đảm bảo tốt cho công tác THADS, đồng thời phù hợp với
tinh thần cải cách tư pháp, theo hướng đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ
ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư
pháp do Quốc hội phân bổ và giao cho các cơ quan tư pháp địa phương quản
lý và sử dụng; từng bước trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện làm việc; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các
cơ quan tư pháp...
Để góp phần mang lại hiệu quả công việc và đảm bảo chất lượng, góp
phần đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra
86
theo định hướng như trên, đặc biệt là tạo những điều kiện để CHV và cán bộ
làm công tác thi hành án yên tâm công tác, nêu cao tinh thần, trách nhiệm,
quyết liệt trong thi hành án, Chi cục THADS huyện Quế Võ cần đề xuất, kiến
nghị lãnh đạo các cấp cần quan tâm giải quyết những vấn đề như sau:
Căn cứ vào nguồn ngân sách phân bổ hàng năm của Trung ương tăng
cường nguồn kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất, dụng cụ hỗ trợ, trang thiết bị
làm việc cho tất cả các đơn vị THADS để phục vụ công tác của ngành Tư
Pháp, tạo điều kiện về vật chất cho công tác THADS, thông qua việc xây
dựng đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho ngành Tư pháp trình
các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tiếp tục chỉnh trang, hoàn thiện trụ sở
của cơ quan thi hành án và bố trí phòng làm việc, công tác phù hợp với số
lượng biên chế của từng đơn vị. Đồng thời, quan tâm đầu tư, trang bị các
trang thiết bị cho Thư ký, Thẩm tra viên và CHV.
Cục THADS tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng quan tâm bổ sung kinh phí và
có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ làm công tác thi hành án và CHV trực
tiếp tiến hành thi hành án. Căn cứ vào các quy định, lãnh đạo Chi cục THADS
huyện Quế Võ cần phổ biến, quán triệt để cán bộ làm công tác thi hành án và
CHV nắm được quy định về mức chi, cơ chế quản lý, kiểm tra, sử dụng nguồn
kinh phí phục vụ công tác THADS nói chung, THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự nói riêng. Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ thỏa đáng cho cán
bộ trực tiếp tiến hành thụ lý và THNVDS trong bản án, quyết định hình sự.
Trong những trường hợp vụ việc phải thi hành án nghiêm trọng, phức tạp, khi
các CHV tiến hành các biện pháp thi hành án hiệu quả, đảm bảo thời gian quy
định, không để tồn đọng, cần có chế độ khen thưởng đột xuất bằng vật chất và
tinh thần nhằm khuyến khích, động viên, nâng cao trách nhiệm của cán bộ,
nhân viên làm công tác thi hành án nói chung cũng như cán bộ, chấp hành
viên THADS.
87
KẾT LUẬN
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự có vai trò quan
trọng. Nó đảm bảo cho bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên chế của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử phạm tội, ngoài việc
tước đi quyền tự do của những phần tử này thì Nhà nước còn tước đi của những
phần tử này về vật chất. Việc nghiên cứu hoạt động THNVDS trong bản án,
quyết định hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ nâng
cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật
nói riêng về sự cần thiết phải thực hiện đúng, đầy đủ, chặt chẽ các qui định
của pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp
lý tham gia vào hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý cho người bị kết án được tự bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn trong Luận văn đã hệ
thống những văn bản pháp quy của Nhà nước về NVDS trong bản án, quyết
định hình sự và những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự. Đồng thời, luận văn đi sâu phân tích, làm rõ tình
hình, kết quả THADS, tinh hình về việc và tiền thuộc NVDS trong bản án,
quyết định hình sự và thực trạng hoạt động THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015
đến hết năm 2019.
Từ việc khái quát, tổng kết, đánh giá một cách khách quan, khoa học,
toàn diện, luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên
nhân của hạn chế, thiếu sót của THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sơ dự báo những
vấn đề liên quan, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
88
hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
Tuy vậy, do khả năng có hạn của tác giả, chắc chắn không thể tránh
được những thiếu sót của luận văn, học viên rất mong nhận được sự góp ý và
nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình của các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu và tất cả mọi người để luận văn được hoàn thiện hơn.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2009), Từ điển Hán - Việt, Nxb Thông tin, Hà Nội.
2. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số
02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 hướng dẫn thi hành các qui định về giảm thời hạn chấp hành
án phạt tù đối với phạm nhân, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2009), Tài liệu hội thảo quản lý thi hành án các mô hình và kinh nghiệm quốc tế, Tổ chức ngày 28 - 29/5/2009,
Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2009), Tài liệu hội thảo hệ thống quản lý THADS và hình sự ở Trung Quốc, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2013), Quy chế phối hợp
liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2015), Thông tư liên tịch số
12/2015/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với
khoản thu nộp ngân sách nhà nước, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện - kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên
tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2016 hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành
90
án dân sự, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi
hành án dân, Hà Nội
10. Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004.
11. Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Chi cục THADS huyện Quế Võ (2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác thi hành án dân sự năm 2015, 2016, 2017, 2018,
2019.
13. Chi cục THADS tỉnh Bắc Ninh (2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác thi hành án dân sự năm 2015, 2016, 2017, 2018,
2019.
14. Chi cục THADS huyện Quế Võ - Tòa án nhân dân huyện Quế Võ - Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ - Công an huyện
Quế Võ (2016), Quy chế phối hợp số 219/2016/QCLN/CCTHADS-VKS-TA-CA ngày 22/4/2016 trong công tác thi hành án
dân sự.
15. Công an huyện Quế Võ(2015-2019), Báo cáo kêt quả công tác năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
16. Nguyễn Ngọc Chí (2010), "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học),
số 26, 2010.
17. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2008 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
91
Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
18. Chính phủ (2013), Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 qui định chi tiết và Hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ Tục
thi hành án dân sự, Hà Nội.
19. Chính phủ (2015), Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, Hà Nội.
23. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
24. Tống Duy Lượng, "Những vấn đề đặt ra trong công tác thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 23
năm 2018.
25. Yến Minh, Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất cập, đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi
hành án dân sự - Bộ Tư pháp ngày 13/08/2013.
92
26. Lê Quỳnh Nga (2013), Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội 2013.
27. Đoàn Thị Phượng, "Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và bài học kinh nghiệm”, Tạp chí dân chủ, pháp luật số 3
năm 2019.
28. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2012), Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác
của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013, Hà Nội.
31. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
32. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
33. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
36. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
37. Quốc hội (2019), Luật thi hành án hình sự 2019, Hà Nội.
38. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2012), Chỉ thị 19/CT-TU ngày 19/4/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh về tăng cường sự lãnh
đạo đối với công tác THADS trên địa bàn tỉnh, Bắc Ninh.
93
39. Kim Sơn Trúc (2015), Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt, Hà Nội.
41. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
42. Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang: "Hoàn thiện cơ chế xác định điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh
nghiệm quốc tế”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 1 (2018).
43. Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
44. Tổng cục THADS (2017), Quy trình thi hành án dân sự, ban hành kèm theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22 tháng
02 năm 2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Hà Nội.
45. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
46. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
BẢNG 2.1: TÌNH HÌNH VỀ VIỆC VÀ VỀ TIỀN PHẢI THI HÀNH ÁN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
94
HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
Năm
VỀ VIỆC (việc)
VỀ VIỆC (việc)
VỀ TIỀN (nghìn đồng) VỀ TIỀN (đồng)
Chia theo bản án, quyết định
Chia theo bản án, quyết định
Năm
Tổng
Tổng
Dân sự
Hình sự
Khác
Dân sự
Hình sự
Khác
2015
789
137
344
308
30.397.697
7.667.926
2.327.638
20.402.133
2016
991
148
370
473
21.888.750
11.662.917
2.956.582
7.269.251
2017
1.044
190
329
525
27.512.278
15.667.984
7.075.711
4.768.583
2018
1.116
195
456
465
28.937.000
11.843.657
6.545.614
10.547.729
2019
879
187
344
348
59.715.327
20.402.776
28.721.075
10.591.476
857 168.451.052 67.245.260 47.626.620 53.579.172 Tổng 4.819 1.843 2.119
17,8 100 39,9 28,3 31,8 100 38,2 44,0
Tỉ lệ (%)
Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
BẢNG 2.2: KẾT QUẢ THI HÀNH ÁN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
95
Kết quả
Kết quả
Điều kiện thi hành
Điều kiện thi hành
Tổng
Tổng
Có
Chưa
Có
Chưa
Đình chỉ
Đang thi hành
Thi hành xong
Thi hành xong
Đình chỉ
Đang thi hành
2015
789
687
102
645
30.397.697
15.392.588 15.005.109
10.260.935
1.363.129
3.768.524
31
11
2016
991
878
113
827
21.888.750
18.127.915
3.760.835
8.121.725
683.235
9.322.955
41
10
2017
1.044
897
147
846
27.512.278
17.390.863 10.121.415
10.245.452
3.263.406
3.882.005
32
19
2018
1.116
996
150
918
28.937.000
13.482.785 15.454.215
8.254.171
1.590.652
3.637.962
60
18
2019
879
732
147
668
59.715.327
23.262.713 36.452.614
14.946.189
942.923
7.373.601
55
9
Tổng
4.819 4.190 659
3.904
67
219
168.451.052
87.656.864 80.794.188
51.828.472
7.843.345
27.985.047
Tỉ lệ
100
86,3
13,7
93,2
1,6
5,2
100
52,0
48,0
59,2
8,9
31,9
(%)
Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
96
BẢNG 2.3: THỐNG KẾ SỐ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ TIẾP NHẬN CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
Bản án
Quyết định hình sự
Năm
Phân loại
Tổng
Tổng
Tăng (+)/Giảm(-)
Tăng(+)/ Giảm(-)
Ma túy
Khác
2015
122
+8
58
0
64
0
2016
133
+11
102
0
31
0
2017
144
+11
58
0
86
0
2018
231
+87
134
0
97
0
2019
183
-48
101
0
82
0
- 453 360
Tổng
0 - 813
100 - 44.3 55.7 0 -
Tỉ lệ (%)
Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
97
BẢNG 2.4: TÌNH HÌNH VIỆC VÀ TIỀN VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ PHẢI THI HÀNH ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
VỀ VIỆC (việc)
VỀ TIỀN (nghìn đồng)
Phân loại theo bản án
Phân loại theo bản án
Năm
Tổng
Tổng
Ma túy
Khác
Ma túy
Khác
2015
2016
344 38 2.327.638 137.211 2.190.427 306
2017
370 85 2.956.582 397.410 2.559.172 285
2018
329 137 7.075.711 452.943 6.622.768 192
2019
456 184 6.545.614 426.352 6.119.262 272
344 121 28.721.075 331.618 28.389.457 223
1.278 565 47.626.620 1.745.534 45.881.086
30,7 69,3 3,7 96,3 100 100
Tổng 1.843 Tỉ lệ (%)
Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
98
BẢNG 2.5: KẾT QUẢ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
VỀ VIỆC (việc)
VỀ TIỀN (nghìn đồng)
Kết quả
Kết quả
Điều kiện thi hành
Năm
Điều kiện thi hành
Tổng
Tổng
Có
Chưa
Có
Chưa
Thi hành xong Đình chỉ
Đình chỉ
Miễn, giảm
Đang thi hành án
Đang thi hành án
2015
344
262
Thi hành xong 256
82
2.327.638
962.266
665.426
8.450
2
1.365.372
96.582
4
2016
191.808
370
283
275
87
2.956.582
1.5532.58
1.263.791
43.263
3
1.403.324
12.282
5
2017
233.922
93
329
236
223
12
7.075.711
4.910.503
4.811.439
92.075
2.165.208
6.988
1
2018
0
456
366
90
355
6.545.614
2.547.770
7
3.997.844
2.4184.16 100.355 11.998
4
2019
17.001
344
265
79
250
78.817
3
28.721.075 7.483.174 21.237.901 4.405.803
8.400
12
2.990.154
27
26
47.626.620 17.456.971 30.169.649 13.564.875 322.960 136.250 3.432.885
19,7
96,3
76,6
23,4
100
1,9
1,8
100
36,7
63,3
77,7
1,9
0,8
Tổng 1.843 1.412 431 1.359 Tỉ lệ (%)
Nguồn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
99
BẢNG 2.6: KẾT QUẢ PHỐI HỢP VỚI TRẠI GIAM, TRẠI TAM GIAM ĐỂ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN QUẾ VÕ GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
VỀ VIỆC (việc)
VỀ TIỀN (nghìn đồng)
Năm
Phải thi hành
Kết quả
Kết quả
Phải thi hành
2015
178
1.136.285
167
541.899
2016
206
1.489.241
141
871.870
2017
202
1.662.976
133
394.319
2018
299
4.153.119
234
1.078.049
2019
230
23.649.580
170
830.353
Tổng
1.115 32.091.201 3.716.490 845
100 100 11,6 75,8