VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

____________

HUỲNH NGỌC BẢO

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH NGỌC BẢO

THI HÀNH ÁN TREO

TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY

Hà Nội, năm 2020

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ dạy, đóng góp ý kiến, khuyến

khích, giúp đỡ của các quý thầy cô giáo tại Học viện Khoa học Xã hội và bạn bè

cùng khoá.

Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với TS.

Lê Huỳnh Tấn Duy, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi hoàn thành

Luận văn này.

Cảm ơn gia đình, bạn vè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt

thời gian học tập và hoàn thành Luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”

là công trình nghiên cứu do bản thân tôi tự thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa

học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn

trung thực và chính xác và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình

nghiên cứu khoa học nào khác.

Tác giả luận văn

Huỳnh Ngọc Bảo

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ

THI HÀNH ÁN TREO ............................................................................................. 8

1.1. Những vấn đề lý luận về thi hành án treo ................................................... 8

1.1.1. Khái niệm thi hành án treo ........................................................................... 8

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án treo .................................................................... 11

1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án treo ...................................................................... 15

1.1.4. Yêu cầu đối với quy định của pháp luật về thi hành án treo ...................... 16

1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo ........................................... 199

1.2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt Nam

............................................................................................................................... 19

1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo .............................. 23

Tiểu Kết Chương 1 .............................................................................................. 42

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH

ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH .................................................. 44

2.1. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ........................ 44

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, chính trị và tình hình tội phạm tại tỉnh Tây

Ninh ...................................................................................................................... 44

2.1.2. Thực trạng việc ra quyết định thi hành án treo .......................................... 45

2.1.3. Thực trạng việc thi hành quyết định thi hành án treo ................................ 50

2.1.4. Thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp

xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo ................................. 52

2.1.5. Thực trạng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án

treo ........................................................................................................................ 56

2.1.6. Thực trạng việc thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách ................. 57

2.1.7. Thực trạng việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt

tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc ............................................. 58

2.1.8. Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ

chức và gia đình người được hưởng án treo ......................................................... 59

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thi hành án treo trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh ................................................................................................ 60

2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật về thi hành án treo ...................... 61

2.2.2. Nguyên nhân khác ...................................................................................... 63

2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

............................................................................................................................... 67

2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành án treo ............... 67

2.3.2. Các giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn

tỉnh Tây Ninh ............................................................................................................ 69

Tiểu Kết Chương 2 .............................................................................................. 73

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ Công an

BCA

Bộ luật Hình sự

BLHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

BLTTHS

Hội đồng xét xử

HĐXX

Hội đồng thẩm phán

HĐTP

LUẬT THAHS

Luật Thi hành án hình sự

Toà án nhân dân

TAND

Toà án nhân dân Tối cao

TANDTC

Uỷ ban nhân dân

UBND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................................... 48

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh

phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất

và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo

được các nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, cá thể hoá hình phạt đối với người

phạm tội, Bộ luật hình sự quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và

có tính phân hoá cao để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội.

Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở

thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc

sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con

người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích

đó, ngoài việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, trong một

số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần

bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong

thực tiễn đó là án treo.

Chế định án treo trong Luật hình sự nước ta ra đời từ rất sớm, sau khi BLHS

năm 1985 được ban hành thì đã có nhiều ý kiến nên bỏ chế định án treo vì biện pháp án

treo và hình phạt cải tạo không giam giữ không có gì khác nhau. Tuy nhiên, đến lần

pháp điển hoá Luật hình sự lần thứ 2 (BLHS năm 1999) thì chế định án treo không

những không bị bỏ đi mà còn được giữ lại, bổ sung và được hoàn thiện. Điều này

khẳng định chế định án treo có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác đấu

tranh và phòng ngừa tội phạm; án treo không phải là một hình phạt, mà là một biện

pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, đo đó người được hưởng án treo vẫn

làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải ngay trong môi truờng xã hội bình thường, nó

có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để trở thành công dân có

1

ích cho xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, chính quyền

địa phương. Án treo là một chế định pháp lý thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước

trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị

nhưng khoan hồng.

Tây Ninh là một tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ của Việt Nam, có vị trí quan

trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những điều kiện thuận lợi này

đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển, trình độ dân trí

ngày càng được nâng cao, đời sống nhân dân dần được cải thiện; tình hình an ninh,

chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội có những bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,

vì là tỉnh giáp biên nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để các ổ nhóm tội phạm hoạt

động dưới nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn ngày một tinh vi, xảo quyệt; các loại tội

phạm như giết người do nguyên nhân xã hội, cướp giật tài sản, trộm cắp, tội phạm

trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, tội phạm ma tuý, buôn lậu, kinh tế, chức vụ, tham

nhũng…có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh

quốc gia, an toàn xã hội.

Thực tiễn công tác thi hành án treo trong những năm vừa qua đã đạt được những

kết quả quan trọng, qua công tác thi hành án treo đã góp phần giữ vững kỷ cương, lòng

tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật cũng như sự ổn định trật tự, an toàn xã

hội trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua công tác thi hành án

treo cũng còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định. Việc thi hành án treo tuy đã được

Tòa án ra quyết định và đã được giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc

cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành án cư trú, làm việc tổ chức việc thực hiện, nhưng

nhìn chung quá trình theo dõi, giám sát, giáo dục các người chấp hành án còn chưa

được quan tâm đúng mức và còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu sót. Sự phối hợp giữa Tòa

án với các cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án treo còn chưa được chú trọng

2

dẫn đến trường hợp đối tượng phải chấp hành án đi đâu, làm gì trong thời gian dài mà

các cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục cũng không rõ, quá trình chấp hành

án ra sao chưa được báo cáo đầy đủ cho cơ quan đã ra quyết định thi hành án là Tòa án

được biết. Việc lập hồ sơ làm thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người phải chấp

hành án còn lúng túng, chưa đáp ứng được các điều kiện đặt ra. Nguyên nhân cơ bản

nhất là do cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục người bị kết án chưa thực hiện đầy

đủ quyền và trách nhiệm của mình theo Luật Thi hành án hình sự. Mặt khác, các điều

luật quy định của thi hành án treo trong Luật Thi hành án hình sự thiếu tính khả thi,

nhiều điểm chưa rõ ràng, bất cập.

Ở khía cạnh lý luận, các nghiên cứu về thi hành án treo chưa được quan tâm

nhiều, do đó vấn đề nhận thức về thi hành án treo còn chưa đầy đủ, thống nhất. Vì vậy

cũng làm ảnh hưởng đến việc thi hành án treo trên thực tế. Để góp phần nâng cao hơn

nữa nhận thức về thi hành án treo, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác thi

hành án treo, cũng như ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của vấn đề thi hành án treo, tác

giả đã lựa chọn đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” làm đề tài luận

văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng chế định

này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với

người phạm tội, là vấn đề mang tính cấp thiết, vì vậy trong những năm qua đã có một

số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh và

phương diện nhất định. Cụ thể như sau:

Hoạt động thi hành án treo được phân tích trong một số giáo trình, sách tham

khảo và các bài viết đăng trên báo và tạp chí:

- Sách chuyên khảo “Pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề

lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng chủ

biên. [29]

3

- “Tổng hợp hình phạt tù với án treo”, Đinh Văn Quế, tạp chí Tòa án nhân dân,

Tòa án nhân dân tối cao số 09/2012. [10]

- “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành hình phạt

tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ”, Lệ Hà và Phạm Tuân, tạp

chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 23/2013. [13]

- “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định án treo”, Nguyễn Thị

Minh Thu, tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 19/2011. [15]

- “Một số vấn đề về án treo”, Nguyễn Nông, tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao số 19/2012. [16]

Về đề tài khoa học và luận văn:

- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam”,

Huỳnh Văn Út [11].

- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Án treo và thi hành án treo tại Thành phố Hồ Chí

Minh”, Nguyễn Thị Hồng Hạnh [14].

- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên”,

Dương Sơn Tùng [8].

Trên cơ sở kết quả tình hình nghiên cứu khảo sát trên đây cho thấy ở nước ta đã

có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và thi hành án hình sự

nói chung, thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nói riêng. Tuy nhiên, ở góc độ

nghiên cứu những lý luận cao của án treo và thực tiễn áp dụng tại Tây Ninh thì chưa có

một công trình khoa học nào nghiên cứu. Bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết

của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp Luật

Thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo, đánh giá thực tiễn thi hành

pháp luật, đưa ra nhóm giải pháp khắc phục những quy định còn bất cập, đáp ứng vấn

đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm

hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật thi hành án hình sự về thi

hành án treo, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:

- Phân tích một số vấn đề lý luận về thi hành án treo;

- Phân tích và đánh giá quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án

treo, tìm hiểu thực trạng thi hành án treo tại tỉnh Tây Ninh;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt

Nam về thi hành án treo được ghi nhận chủ yếu trong Luật Thi hành án hình sự năm

2010, 2019 và các văn bản hướng dẫn. Trên cơ sở đó, luận văn khảo sát thực tiễn thực

hiện các quy định về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Để bảo đảm tính khoa học, luận văn này có những giới hạn về phạm vi nghiên

cứu sau đây:

- Về nội dung: tác giả tập trung phân tích và đánh giá quy định của Luật THAHS

2019, kết hợp so sánh với Luật THAHS 2010 khi cần thiết. Đối với một số vấn đề có

liên quan, tác giả còn phân tích quy định của BLTTHS 2015. Luận văn không nghiên

cứu việc thi hành các bản án cho hưởng án treo của Tòa án quân sự.

- Về không gian: tác giả tiến hành khảo sát thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn

tỉnh Tây Ninh.

5

- Về thời gian: tác giả nghiên cứu số liệu của Tòa án cũng như các các vụ việc

điển hình về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến

năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà

nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về chính sách hình sự.

Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với

khoa học pháp lý, cụ thể:

- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để nhận thức một cách khái

quát và chi tiết, cụ thể về các vấn đề lý luận và pháp lý được nghiên cứu trong luận

văn.

- Phương pháp so sánh, được sử dụng để so sánh quá trình phát triển của các

quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác

nhau và giữa Luật thi hành án hình sự năm 2010 với Luật thi hành án hình sự năm

2019.

- Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng

các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài

còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của ngành các ngành Công an, Toà án nhân dân,

Viện kiểm sát nhân dân của tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019

và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý

luận và thực tiễn xung quanh hoạt động thi hành án treo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ, nghiên cứu một cách hệ

thống và toàn diện về thi hành án treo. Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong

muốn góp phần hoàn thiện, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành án treo, phân

6

tích các quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi hành án treo và đánh

giá thực trạng áp dụng pháp luật về thi hành án treo, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ

và hiệu quả trong công tác thi hành án hình sự.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết một

số vấn đề còn thiếu sót, bất cập, đưa ra những kiến nghị mang tính khoa học góp phần

nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại tỉnh Tây Ninh, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Luận vặn là một trong những tài liệu khoa học hữu ích phục vụ cho việc giảng

dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật có liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả

nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo, ứng dụng trong quá trình xây

dựng và áp dụng pháp luật.

7. Bố cục của luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham

khảo. Phần nội dung chính của luận văn được kết cấu thành hai chương bao gồm:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về thi hành án treo

Chương 2. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

VỀ THI HÀNH ÁN TREO

1.1. Những vấn đề lý luận về thi hành án treo

1.1.1. Khái niệm thi hành án treo

Quản lý xã hội và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.

Công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này chính là pháp

luật. Trong công tác duy trì trật tự xã hội thì việc đấu tranh chống tội phạm là một hoạt

động quan trọng nhất và bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng pháp luật hình sự để trấn

áp tội phạm, đồng thời giáo dục người phạm tội. Cùng với việc quy định các hình phạt

nhằm trừng trị các hành vi phạm tội, thì luật hình sự còn có các chế định đặc thù thể

hiện tính nhân đạo nhằm cải tạo những người trót lầm lỡ mà nhất thời phạm tội. Thi

hành án treo là một trong những chế định quan trọng của Luật Thi hành án hình sự thể

hiện rõ nét tính nhân đạo này. Thi hành án treo là một chế định pháp luật ra đời rất

sớm. Hiện nay, việc thi hành án treo được quy định rất rộng rãi trong pháp luật thi hành

án hình sự của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên phụ thuộc vào điều kiện của từng

nước, cũng như yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mà chế định này có vị trí khác nhau

và được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Việc thi hành án treo tạo điều kiện cho

những người chấp hành án có bản chất tốt, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng,

có nhân thân tốt giáo dục, cải tạo tại cộng đồng để trở thành người có ích cho xã hội.

Thi hành án hình sự là hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Thi hành án

hình sự về bản chất và nội dung khác với hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng

hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự, quyết định một người

có tội hay không có tội và hình phạt áp dụng, cũng như giải quyết những vấn đề khác

có liên quan. Còn thi hành án hình sự là hoạt động tổ chức thi hành bản án, quyết định

của Toà án đã có hiệu lực pháp luật của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao thẩm

8

quyền, trách nhiệm theo một trình tự thủ tục do pháp luật thi hành án hình sự quy định,

có tính hành chính, mệnh lệnh. Thi hành án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và

luôn được Nhà nước quan tâm. Đây là một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm và phức tạp vì

nó gắn liền với vấn đề quyền con người, quyền công dân. Thi hành án hình sự góp

phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo công bằng, công lý.

Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được thi hành trên thực tế. Nhiệm vụ

của giai đoạn thi hành án hình sự nhằm giáo dục, cải tạo, giúp người chấp hành án trở

thành người có ích cho xã hội. Thi hành án có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình tố

tụng trước đó. Nếu hiệu quả của hoạt động thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt

động tố tụng trước đó sẽ trở nên vô ích.

Để làm sáng tỏ bản chất pháp lý của thi hành án treo việc nghiên cứu, làm sáng

tỏ khái niệm về thi hành án treo là một nhiệm vụ tất yếu. Muốn hình thành khái niệm

về một đối tượng thì cần xác định được những dấu hiệu và những đặc điểm riêng có

của đối tượng đó. Vì vậy, để xây dựng khái niệm thi hành án treo cần xác định những

dấu hiệu, đặc điểm, đặc trưng của thi hành án treo, đây là những dấu hiệu đặc trưng để

phân biệt thi hành án treo với hoạt động thi hành các loại hình phạt khác như thi hành

án tử hình, phạt tù, cải tạo không giam giữ... Trong khoa học pháp lý hiện nay khái

niệm án treo và thi hành án treo vẫn là một vấn đề chưa được nhiều tác giả quan tâm

nghiên cứu. Về khái niệm thi hành án treo trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm

như quan điểm của tác giả Lê Văn Cảm cho rằng: “Án treo là biện pháp miễn chấp

hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có

lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật

hình sự quy định” [12].

Theo tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành

hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba năm tù,

căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không

cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” [9, tr.372].

9

Cũng có quan điểm cho rằng: “Thi hành án treo là việc cơ quan, tổ chức, người

có thẩm quyền theo quy định của Luật Thi hành án hình sự áp dụng những biện pháp

giám sát, giáo dục có tính chất cưỡng chế đối với người bị kết án đã được Tòa án

tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo trong thời gian thử thách nhằm đảm bảo hiệu

lực của án treo” [8, tr.4]. Theo quan điểm này khái niệm về thi hành án treo được xây

dựng dựa trên các dấu hiệu đặc trưng sau: thi hành án treo là công việc (hoạt động của

các chủ thể); chủ thể của thi hành án treo là cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền; thi

hành án treo được thực hiện trên cơ sở quy định của Luật Thi hành án hình sự; nội

dung của Thi hành án treo là áp dụng những biện pháp giám sát, giáo dục có tính chất

cưỡng chế đối với người bị kết án đã được Tòa án tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án

treo trong thời gian thử thách; mục đích nhằm đảm bảo hiệu lực của án treo. Quan

điểm này đã xây dựng khái niệm về thi hành án treo tương đối hoàn thiện và đầy đủ tuy

nhiên vẫn còn thiếu đặc điểm về địa điểm thi hành án để phân biệt thi hành án treo với

thi hành một số loại án phạt khác và mục đích của thi hành án treo chưa thực sự phù

hợp. Theo tác giả mục đích của thi hành án treo phải là nhằm giáo dục người chấp hành

án trở thành người có ích cho xã hội.

Khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 có đưa ra khái niệm về thi

hành án treo như sau:

“Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật

này giám sát, giáo dục người bị kết án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử

thách” [25].

Có thể thấy khái niệm pháp lý trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi

hành án treo đã tương đối đầy đủ và hoàn thiện. Khái niệm này đã dựa trên những dấu

hiệu đặc trưng của thi hành hành án treo. Tuy nhiên, theo tác giả để đảm bảo sự hoàn

thiện về khái niệm án treo thì cần bổ sung thêm địa điểm chấp hành án nhằm phân biệt

án treo với hình phạt tù có thời hạn, tử hình và phản ánh đầy đủ bản chất của hoạt động

10

thi hành án treo. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung mục đích của hoạt động thi hành án

treo nhằm giáo dục người chấp hành án trở thành người có ích cho xã hội.

Trên cơ sở phân tích ở trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về thi hành án

treo như sau:

Thi hành án treo là tổng hợp các hoạt động do cơ quan, người có thẩm quyền

theo quy định của pháp Luật Thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người chấp hành

án trong thời gian thử thách tại cộng đồng để họ trở thành người có ích cho xã hội.

Khái niệm này đã được xây dựng dựa trên những đặc điểm đặc trưng của thi

hành án treo. Việc nghiên cứu và đưa ra một khái niệm hoàn thiện về thi hành án treo

là rất cần thiết, đảm bảo việc nhận thức đúng đắn của các chủ thể có liên quan về hoạt

động này, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này trên thực tiễn.

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án treo

Qua việc nghiên cứu về khái niệm thi hành án treo có thể rút ra những đặc điểm

đặc trưng về thi hành án treo sau đây:

- Thứ nhất, thi hành án treo là tổng hợp các hoạt động của các chủ thể có thẩm

quyền để thực hiện một bản án cho hưởng án treo trên thực tế. Từ khi bản án có hiệu

lực thi hành các chủ thể có thẩm quyền phải ra các quyết định, thực hiện các hành vi

pháp lý cụ thể theo quy định của pháp luật nhằm tổ chức thi hành và cho thi hành bản

án treo. Trước tiên để bản án treo được đưa ra thi hành, Tòa án ra quyết định thi hành

án và tống đạt quyết định thi hành án cho các chủ thể theo quy định của pháp luật để tổ

chức thi hành và thi hành án. Sau khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi

hành án hình sự phải triệu tập người chấp hành án treo có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp

xã để làm cam kết chấp hành án. Sau đó cơ quan thi hành án hình sự phải lập hồ sơ

danh sách người có nghĩa vụ chấp hành án treo sao lại và gửi về cho UBND cấp xã.

Tiếp đến UBND cấp xã sẽ lập hồ sơ và phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục

người chấp hành án treo, thực hiện các hoạt động cụ thể để xử lý những sự kiện pháp lý

phát sinh trong quá trình thi hành án. Cuối cùng khi thời gian chấp hành án treo đã hết

11

các chủ thể có thẩm quyền phải hoàn chỉnh hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành

xong thời gian thử thách cho người chấp hành án. Như vậy có thể thấy để thi hành án

treo các chủ thể phải thực hiện một chuỗi các hoạt động theo quy định của pháp luật.

Các hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với nhau và hướng đến mục đích giáo dục,

cải tạo người chấp hành án treo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đặc điểm này

đòi hỏi pháp Luật Thi hành án hình sự phải quy định đầy đủ và hoàn thiện về các hành

vi, quyết định của chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án hình sự nhằm

đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án treo, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của

người chấp hành án.

- Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động thi hành án là các cơ quan, người có

thẩm quyền. Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, là hoạt

động nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước nên hoạt động này phải được thực

hiện bởi những chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Cơ quan, người có thẩm quyền thi

hành án được Nhà nước ủy quyền, sử dụng quyền lực Nhà nước áp đặt ý chí của mình

lên người chấp hành án để buộc họ phải chịu sự quản lý, giám sát và giáo dục tại cộng

đồng, hạn chế một số quyền của họ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp

luật. Qua đó có thể thấy hoạt động thi hành án treo là hoạt động mang tính quyền lực

Nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ chung là đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm,

bảo vệ chế độ, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội chính vì thế phải do chủ thể có

thẩm quyền thực hiện. Các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án treo rất phong

phú và đa dạng bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan

được giao một số nhiệm vụ thi hành án nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành

án treo. Đặc điểm này đòi hỏi pháp luật Thi hành án hình sự phải quy định phù hợp về

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể mang quyền lực Nhà nước trong

thi hành án treo nhằm hạn chế tình trạng bộ máy các cơ quan có thẩm quyền thi hành

án treo cồng kềnh, chồng chéo mâu thuẫn trong việc thực hiện các hoạt động làm ảnh

12

hưởng đến hiệu quả thi hành án, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và uy

tín của Nhà nước.

- Thứ ba, cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động thi hành án treo là quy định của

pháp luật Thi hành án hình sự. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước ban

hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi, xử sự của các chủ thể có thẩm

quyền theo định hướng, mục đích mà Nhà nước mong muốn. Thi hành án treo là hoạt

động phải chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật cụ thể là Luật Thi hành án

hình sự, Bộ luật Hình sự, Tố tụng hình sự và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành.

Trong quá trình thi hành án treo các chủ thể có thẩm quyền chỉ được hoạt động trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật cho phép và chỉ được ra các quyết định trên

cơ sở quy định của pháp luật nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án, hạn

chế sự tùy tiện lạm quyền của các chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Bất kỳ một hành

vi vi phạm pháp luật của chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo đều

phải được phát hiện và xử lý kịp thời để đảm bảo pháp chế, đảm bảo quyền và lợi ích

của người chấp hành án. Nếu người chấp hành án và các cá nhân, cơ quan, tổ chức

khác phát hiện các chủ thể có thẩm quyền thi hành án thực hiện các hành vi hoặc ra các

quyết định vi phạm pháp luật hoặc trái pháp luật thì họ được quyền khiếu nại, tố cáo

đối với các quyết định, hành vi đó của chủ thể mang quyền lực Nhà nước.

- Thứ tư, nội dung của thi hành án treo là giám sát, giáo dục người chấp hành

án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Khác với thi hành án phạt tù,

người chấp hành án treo được hưởng chính sách nhân đạo của Nhà nước. Với phương

châm “giáo dục - khoan hồng”, người chấp hành án treo không phải cách ly khỏi xã

hội, không chịu sự quản lý giam giữ. Người chấp hành án vẫn được làm ăn, sinh sống

tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã

hội bình thường dưới sự giám sát, theo dõi, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền.

13

- Thứ năm, địa điểm thi hành án treo là tại cộng đồng (nơi cư trú của người

chấp hành án). Đây là đặc điểm của thi hành án treo giống với thi hành hình phạt cải

tạo không giam giữ nhưng khác so với thi hành án phạt tù. Điều này thể hiện tinh thần

nhân đạo của pháp luật Thi hành án hình sự khi để người chấp hành án chấp hành ngay

tại cộng đồng, được sự giáo dục và giúp đỡ của gia đình, cơ quan làm việc và cả cộng

đồng xã hội từ đó có cơ hội để hối lỗi vì hành vi do bản thân mình gây ra và có cơ hội

sửa sai, trở thành một công dân tốt cho xã hội. Đặc điểm này của thi hành án treo sẽ chi

phối đến quy định của pháp luật Thi hành án hình sự trong việc quy định các chủ thể có

thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo, cũng như vai trò của gia đình, cá nhân, cơ

quan, tổ chức tại địa phương nơi người chấp hành án treo cư trú, làm việc đảm bảo hiệu

quả của hoạt động thi hành án. Thi hành án treo còn mang tính xã hội rộng rãi khi để

cho các cơ quan, tổ chức ở địa phương theo dõi, giám sát và kiểm tra hoạt động chấp

hành án của người chấp hành án.

- Thứ sáu, thi hành án treo là hoạt động của cơ quan Nhà nước và người có

thẩm quyền nhằm giám sát, giáo dục người chấp hành án trở thành người lương thiện,

có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa đặc biệt

không phạm tội mới - đây là mục đích đầu tiên hay còn gọi là mục đích phòng ngừa

riêng của thi hành án treo. Đồng thời, thông qua việc thi hành án treo làm cho người

chấp hành án nhận thức rõ được những lỗi lầm, sai trái về hành vi phạm tội của mình

để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc biệt, việc thi hành

án treo còn có mục đích quan trọng trong việc giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,

ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Đồng thời thể

hiện bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động thi hành án hình sự.

Đối với các cá nhân khác trong xã hội, thi hành án treo có mục đích giáo dục và nâng

cao ý thức pháp luật cho họ, động viên, khuyến khích mọi người trong xã hội tích cực

tham gia vào cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

14

1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án treo

Thứ nhất, thi hành án treo thể hiện tính nghiêm khắc của pháp luật. Tội phạm là

hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội cơ bản, quan

trọng được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Mọi hành vi phạm tội đều phải

được phát hiện và xử lý nghiêm minh nhằm duy trì ổn định và trật tự xã hội. Thi hành

kịp thời, đúng đắn và có hiệu quả, án treo góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ

nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án. Thi hành án

treo nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án, chứng minh giá trị

thực tiễn của các phán quyết, đảm bảo thực hiện kết quả các giai đoạn tố tụng trước đó.

Nếu không có thi hành án thì chế tài áp dụng đối với hành vi phạm tội sẽ không đem lại

hiệu quả trên thực tế.

Thứ hai, thi hành án treo có ý nghĩa quan trọng trong việc khuyến khích, tạo

điều kiện cho người chấp hành án tự giác cải tạo, tu dưỡng bản thân để trở thành người

có ích cho xã hội. Người chấp hành án treo không bị cách ly ra khỏi cộng đồng như

hình phạt tù và tạo điều kiện cho họ tự bản thân, nhận thức lại về hành vi của mình và

cố gắng trở thành người tốt. Họ vẫn được chung sống với gia đình và xã hội như những

người khác. Tuy nhiên phải chịu sự giám sát mang tính cưỡng chế của chính quyền địa

phương. Thi hành án treo tạo điều kiện thuận lợi cho người chấp hành án nhận thức

được những lỗi lầm, sai trái về hành vi phạm tội của mình để cải tạo và giáo dục họ trở

thành người có ích cho xã hội.

Thứ ba, thi hành án treo có ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục các cá nhân

khác trong xã hội tôn trọng pháp luật, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nói chung

và tội phạm nói riêng. Đối với các cá nhân khác, thi hành án treo có mục đích giáo dục

và nâng cao ý thức pháp luật cho họ, động viên khuyến khích mọi người trong xã hội

tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Thứ tư, về mặt kinh tế, việc thi hành án treo sẽ giảm được các chi phí tốn kém

của Nhà nước so với việc quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo người chấp hành án tại các

15

cơ sở giam giữ, giảm tải áp lực cho các trại giam đang trong tình trạng quá tải nhưng

vẫn đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Đây chính là nhu cầu tất yếu của việc thi

hành án treo trên thực tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói

riêng. Đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và nước trong lĩnh vực thi

hành án hình sự.

Từ những ý nghĩa trên, ta thấy việc thi hành án treo không chỉ đơn thuần là

trừng trị người phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có ý nghĩa

thiết thực trong việc giúp những người đã từng có những hành vi sai trái có cơ hội để

làm lại cuộc đời của mình theo hướng tốt đẹp hơn, đảm bảo được tính nhân đạo và

khoan hồng của pháp luật.

1.1.4. Yêu cầu đối với quy định của pháp luật về thi hành án treo

Nghiên cứu cho thấy quy định của pháp luật về thi hành án treo phải bảo đảm

các yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc thi hành án treo phải được quy định trên cơ sở phù hợp với các

chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, cũng như

phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người,

quyền công dân. Trong giai đoạn hiện nay quyền con người của người chấp hành án

nói chung và quyền của người chấp hành án treo nói riêng là một vấn đề rất được quan

tâm. Người chấp hành án treo tuy họ đã thực hiện hành vi phạm tội và trong quá trình

chấp hành án họ bị hạn chế một số quyền công dân theo quy định của pháp luật, tuy

nhiên về bản chất họ vẫn là một con người, một công dân do đó họ có quyền bất khả

xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích

hợp pháp khác. Bảo đảm quyền con người của người chấp hành án treo là bảo đảm các

quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của họ đã được ghi nhận trong

các Công ước quốc tế. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao

quý về quyền con người đã được thế giới thừa nhận thể hiện trong các Nghị quyết của

Đảng. Trong đó Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và

16

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã

xác định: “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc

xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh

vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội” [1]. Việc ghi nhận và đảm bảo các

quyền con người của người được hưởng án treo trên thực tế là sự thể hiện rõ nét và sâu

sắc nhất của một Nhà nước tiến bộ, dân chủ, văn minh. Cho đến nay Việt Nam đã tham

gia phần lớn các Công ước quốc tế về quyền con người và cam kết thực hiện ở cả hai

phương diện lập pháp và thực tiễn. Quyền con người nói chung và quyền của người

được hưởng án treo nói riêng được Hiến pháp 2013 và pháp luật Thi hành án hình sự

ghi nhận để bảo đảm thực hiện. Theo Hiến pháp năm 2013 các quyền con người, quyền

công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, bảo đảm theo

Hiến pháp và pháp luật. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp

luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,

nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc

phạm danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Nhà nước có trách

nhiệm đảm bảo cũng như bảo vệ các quyền đó trên thực tiễn [23].

Nhằm đảm bảo sự phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về bảo

vệ quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của người được hưởng án

treo nói riêng thì pháp luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo quy định phù hợp

với tinh thần của Hiến pháp, đảm bảo nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Ngoài những quyền

đã bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong quá trình chấp hành án treo thì các

quyền không bị hạn chế cần phải được quy định đầy đủ và có cơ chế đảm bảo thực hiện

trên thực tiễn.

Thứ hai, việc thi hành án hình sự được quy định phải phù hợp với các tư tưởng

chỉ đạo, chi phối định hướng quá trình thi hành án hình sự nói chung và thi hành án

treo nói riêng. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự, đảm bảo quyền

17

con người của người chấp hành án Luật Thi hành án hình sự để xây dựng một hệ thống

các nguyên tắc cơ bản để chi phối, định hướng quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật

Thi hành án hình sự. Chính vì vậy, các quy định về thi hành án treo phải phù hợp với tư

tưởng của các nguyên tắc cơ bản và cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc nhằm đảm bảo

thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc cơ bản trong thực tiễn. Theo đó, các quy định của

Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo phải dựa trên nguyên tắc pháp chế xã hội

chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích của người

chấp hành án; nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kết hợp trừng trị với giáo dục cải tạo

trong hoạt động thi hành án, áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo; Kết hợp trừng trị và

giáo dục cải tạo trong việc thi hành án, áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ

sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm

nhân thân khác của người chấp hành án; Thi hành án đối với người chưa thành niên

chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành

người có ích cho xã hội; Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học

tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại. Trong quá trình xây dựng và áp

dụng các quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo nếu quy định nào

chưa phù hợp hoặc trái với tinh thần của nguyên tắc thì cần phải được sửa đổi. Trong

trường hợp các quy định về thi hành án treo còn thiếu các quy định cụ thể để thực hiện,

cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc thì cần được bổ sung hoàn thiện.

Thứ ba, các quy định về thi hành án treo phải phù hợp với điều kiện kinh tế,

chính trị, xã hội nhằm đảm bảo tính khả thi trên thực tế. Pháp luật được đặt ra để điều

chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng. Vì vậy,

pháp luật không thể tách rời với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội. Các quy định của

Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo chỉ có thể phát huy hiệu quả tích cực nếu

phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của Việt Nam. Pháp luật do Nhà nước

ban hành nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả từ ý chí chủ quan của các nhà lập

pháp, mà nó còn phải xuất phát từ những nhu cầu khách quan của các quan hệ xã hội

18

trong những điều kiện nhất định. Các quy định của pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc

sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội và tất nhiên, các quy

định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo cũng không nằm ngoài quy luật

này. Việc tổ chức hoạt động thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng

phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội là điều mà các quốc gia phải đảm bảo.

Các quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo phải có sự phù hợp,

tương thích nhất định với các đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nếu

không sẽ dẫn đến chủ quan, duy ý chí và không đi vào thực tiễn cuộc sống. Do đó, các

quy định của pháp luật về thi hành án treo phải phù hợp với các đặc điểm của tình hình

kinh tế, chính trị xã hội của Việt Nam nhằm đảm bảo các quyền con người, quyền công

dân cơ bản của người chấp hành án, đảm bảo tính khả thi của các quy định trên thực

tiễn.

1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo

1.2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt

Nam

Khi nghiên cứu về thi hành án treo thì việc nghiên cứu một cách khoa học, có hệ

thống về sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về thi hành

án treo là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để đối chiếu và đánh giá với

pháp luật hiện hành, đảm bảo nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách khoa học và mang

tính kế thừa.

Án treo được quy định lần đầu tiên tại Điều IV, Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch

chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13/9/1945 [3]. Sau đó

ngày 14/2/1946 Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức Toà án quân sự của Chủ tịch Chính phủ

lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được ban hành để thay thế Sắc lệnh số 33C.

Trong đó có một số thay đổi về nội dung và câu chữ, xác định rõ bản án treo không có

nghĩa là được miễn thi hành mà chỉ là tạm đình chỉ thi hành. Ngoài ra các nội dung của

hai Sắc lệnh này là tương đối giống nhau. Theo Điều 10 Sắc lệnh số 21 thì án treo được

19

xem là một biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án: Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội

nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm

đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân

không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi

như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Tòa

án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành [4]. Như vậy, án treo là một biện pháp tạm đình

chấp hành án có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những người phạm tội nhẹ, bản

chất không nguy hiểm, xét không cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, do Tòa án

có thẩm quyền áp dụng thể hiện tư tưởng khoan hồng đối với người phạm tội, thời gian

thử thách là năm năm. Vì là biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án phạt tù có điều

kiện nên các văn bản pháp luật trong giai đoạn này không đặt ra vấn đề thi hành đối với

án treo, cũng như không đặt ra yêu cầu giám sát, giáo dục người chấp hành án treo.

Tuy nhiên, với nội hàm của án treo thì quy định này đưa ra cảnh báo tội nhân nếu tiếp

tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án

cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội

gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ.

Tiếp theo tại Điều 12 của Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 thì chế định án

treo được bổ sung thêm nội dung là: đối với những kẻ phạm tội bị phạt không quá hai

năm tù trong một số trường hợp rất đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định, Tòa án

có thể châm chước cho hưởng án treo [5]. Tuy vậy Sắc lệnh này chỉ bổ sung căn cứ

cho hưởng án treo để Tòa án áp dụng chứ chưa quy định về việc thi hành án treo.

Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, án treo luôn được quy định trong

các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự. Các Pháp lệnh về trừng trị các tội phản

cách mạng, Pháp lệnh trừng trì các tội xâm phạm tại sản riêng của công dân, Pháp lệnh

trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Sắc luật 003/SL của Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam v.v… đều có quy định về chế định

án treo. Quan niệm án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện

20

được coi là một quan niệm thống nhất trong các văn bản pháp luật và trong nhận thức

chung của mọi người. Quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 là quy

định được pháp điển hóa đầu tiên của Pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù Bộ luật hình

sự có những thay đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng chế định án treo vẫn được quy định

như là một chế định truyền thống, không thể thiếu của pháp luật hình sự Việt Nam, vấn

đề áp dụng án treo luôn là vấn đề được quan tâm tương đối đặc biệt trong suốt quá

trình ra đời, phát triển.

Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 việc thi hành án treo đã được điều chỉnh

cụ thể trong luật, cụ thể: Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án treo được quy định

tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Về chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi

hành và thi hành án treo được quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988

theo đó chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án cư

trú hoặc làm việc có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc cải tạo của người được hưởng

án treo [21]. Như vậy có thể thấy quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về

thi hành án treo vẫn rất hạn chế. Những vấn đề liên quan đến trình tự thủ tục thi hành

án treo, quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án treo và các chế định khác chưa

được điều chỉnh trong luật.

Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thi hành án treo ngày 30/10/2000

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2000/NĐ – CP quy định về thi hành hình phạt

tù cho hưởng án treo [6]. Trong Nghị định này các vấn đề liên quan đến thi hành án

treo đã được hướng dẫn, quy định khá chi tiết và đầy đủ, nội dung của Nghị định bao

gồm các quy định chung, quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án

treo, trách nhiệm và quyền của cơ quan, tổ chức và gia đình trong việc giám sát, giáo

dục người chấp hành án treo. Sau khi nhận được bản án, quyết định thi hành án của

Tòa án thì các cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án phải tổ chức thi hành

án, các chủ thể này phải ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục

người bị kết án. Người trực tiếp giám sát, giáo dục phải chủ động gặp gỡ, động viên

21

người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ba tháng một lần báo cáo với thủ

trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành án, báo cáo cơ quan

tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ điều kiện được xét giảm thời gian

thử thách. Các cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để

người bị kết án cải tạo, giáo dục tốt, lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho

người bị kết án.

Tiếp đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vẫn tiếp tục kế thừa các quy định

của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về thi hành án treo. Đồng thời, Nghị định

61/2000 của Chính phủ vẫn tiếp tục điều chỉnh về hoạt động thi hành án treo trong giai

đoạn này.

Năm 2010 Luật Thi hành án hình sự ra đời đã quy định điều chỉnh tương đối

hoàn thiện về thi hành án treo, tạo cơ sở pháp lý cho việc thi hành loại án này trên thực

tế, đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội

phạm. Luật Thi hành án hình sự năm 2010 bao gồm 15 chương, 182 điều đã được

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua

ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2011. Luật Thi

hành án hình sự được ban hành đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực thi

hành án hình sự, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với

người chấp hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc

gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành

chính, góp phần đảm bảo quyền công dân. Sau khi Luật Thi hành án hình sự có hiệu

lực thi hành, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn của Cơ

quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã trong cả nước đã

tổ chức nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy

định. Uỷ ban nhân dân cấp xã đã thực hiện cơ bản đúng những nhiệm vụ, quyền hạn

của mình theo quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo.

22

Cho đến nay, năm 2019 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa XIV đã thông qua Luật Thi hành án hình sự năm 2019 vào kỳ họp thứ 7 ngày 14

tháng 6 năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2020. Theo đó, Luật Thi hành

án hình sự 2019 kế thừa và bổ sung thêm quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ

chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết

định về hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế,

trục xuất, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc

làm công việc nhất định, án treo, biện pháp tư pháp; quyền, nghĩa vụ của người chấp

hành án hình sự, biện pháp tư pháp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan trong thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng

trong công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng.

Như vậy, theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định của pháp luật về

thi hành án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện. Từ chỗ ghi nhận án treo là

biện pháp tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có điều kiện nên không điều chỉnh về

thủ tục thi hành đến việc quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nghĩa vụ

của người chấp hành án cũng như các vấn đề pháp lý khác phát sinh trong hoạt động

thi hành án treo nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, nâng cao

hiệu quả hoạt động thi hành án treo trên thực tiễn.

1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo

1.2.2.1. Quy định về việc ra quyết định thi hành án treo

- Về điều kiện để bản án treo được đưa ra thi hành

Theo quy định của pháp luật, để đảm bảo quyền lợi cho người bị buộc tội thì

bản án treo là một trong số những bản án sẽ được đưa ra thi hành ngay mặc dù có thể bị

kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 thì bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực nếu có kháng cáo, kháng nghị sẽ được

xét xử lại theo trình tự phúc thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm

theo hướng không cho bị cáo hưởng án treo hoặc hủy án sơ thẩm. Vì vậy, Nghị quyết

23

số 02/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn “đối với bị cáo bị phạt tù nhưng được hưởng án treo

và khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà thời gian thử thách vẫn còn, thì Tòa án phải

ra quyết định thi hành án” [27]. Như vậy mặc dù Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 quy định bản án treo được thi hành ngay nhưng căn cứ vào hướng dẫn tại

Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP thì bản án treo được đưa ra thi hành khi hội đủ các

điều kiện sau: Một là, bản án treo đã có hiệu lực pháp luật; Hai là, khi bản án treo có

hiệu lực pháp luật khi thời gian thử thách vẫn còn. Điều này là do thời điểm tính thời

gian thử thách tính từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bản án treo; Ba là, phải có quyết

định thi hành án treo của người có thẩm quyền. Như vậy, để thi hành bản án treo thì

phải có quyết định thi hành án của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án treo

Theo quy định tại Điều 21 và Điều 84 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì

thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự thuộc về Tòa án. Luật Thi hành án hình

sự không xác định cụ thể là Tòa án nào và người nào có thẩm quyền ra quyết định thi

hành án treo. Để xác định được vấn đề này phải căn cứ vào Điều 364 Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015. Theo Điều 364 thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm

quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra

quyết định thi hành án. Tòa án khác cùng cấp bao gồm Tòa án cùng cấp huyện (Tòa án

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; Tòa án quân sự khu vực) hoặc

Tòa án cùng cấp tỉnh (Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án

quân sự quân khu và tương đương).

Mục 2 phần I của Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP quy định việc ủy thác cho

Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện khi thuộc một trong

những trường hợp sau đây:

Sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho

cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an cùng cấp thông báo

bằng văn bản cho Tòa án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ

24

thể; Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên

địa bàn hành chính khác.

Trường hợp Tòa án được ủy thác đã ra quyết định thi hành án và được cơ quan

Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại địa bàn hành chính khác

thì trả lại hồ sơ ủy thác thi hành án cho Tòa án đã ủy thác và giải quyết như sau:

Trường hợp Tòa án được ủy thác biết được địa chỉ của người bị kết án ở địa bàn hành

chính khác thì thông báo cho Tòa án đã ủy thác để Tòa án đã uỷ thác thực hiện việc ủy

thác cho Tòa án nơi người bị kết án đang cư trú; Trường hợp Tòa án được ủy thác

không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ủy

thác biết để Tòa án đã ủy thác thực hiện việc ra quyết định thi hành án và yêu cầu cơ

quan Công an ra quyết định truy nã người bị kết án.

Trường hợp Tòa án được ủy thác thi hành án thấy việc ủy thác là không đúng thì

phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án đã ủy thác biết. Tòa án đã ủy

thác phải kiểm tra lại việc ủy thác; nếu việc từ chối ủy thác là có căn cứ thì Chánh án

Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định hủy quyết định ủy thác không có căn cứ trước

khi ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác ra quyết định thi hành án.

Nếu việc từ chối ủy thác là không có căn cứ thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm yêu

cầu Tòa án được ủy thác ra quyết định thi hành án. Trường hợp có tranh chấp giữa Tòa

án ủy thác và Tòa án được ủy thác thi hành án cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương thì Chánh án Tòa án cấp tỉnh quyết định. Trường hợp

có tranh chấp giữa Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác thi hành án cùng cấp huyện

nhưng khác tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cùng cấp tỉnh thì Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao quyết định.

- Về thời hạn ra quyết định thi hành án treo

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo hiệu quả của hoạt động

thi hành án hình sự, đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, tại Điều 364

BLTTHS năm 2015 đã quy định thời hạn để ra quyết định thi hành án treo như sau:

25

Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ

thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm,

quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của

Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết

định thi hành án.

Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành án

phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người đó

phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để thi hành án.

Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa

án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh

nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.

- Nội dung của quyết định thi hành án treo

Nhằm đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng, tại Điều 84 Luật Thi

hành án hình sự 2019 quy định, quyết định thi hành án treo phải đảm bảo đầy đủ các

nội dung sau đây: quyết định thi hành án treo phải ghi rõ họ, tên, chức vụ người ra

quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành; họ,

tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; mức hình phạt tù

và thời gian thử thách của người được hưởng án treo; hình phạt bổ sung; trừ hình phạt

bổ sung là hình phạt tiền; hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách

theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Ủy ban nhân dân cấp xã được

giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Tòa án

phải gửi quyết định đó cho cá nhân, cơ quan sau đây: Người được hưởng án treo và

người đại diện trong trường hợp người được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi; Viện

kiểm sát cùng cấp; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi UBND cấp xã

được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; UBND cấp xã được giao giám

26

sát, giáo dục người được hưởng án treo; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi

hành án có trụ sở. Việc quy định thời gian cụ thể và các chủ thể được gửi quyết định để

đảm bảo việc ra quyết định thi hành án treo diễn ra đúng theo thủ tục, tránh tình trạng

trì hoãn, kéo dài thời gian gửi quyết định.

Qua phân tích ở trên có thể nhận thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và

Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã điều chỉnh chi tiết, đầy đủ về các vấn đề liên

quan đến việc ra quyết định thi hành án treo, đảm bảo cho việc ra quyết định thi hành

án treo nhanh chóng, đúng pháp luật.

1.2.2.2. Quy định về thi hành quyết định thi hành án treo

Sau khi có quyết định thi hành án tiếp theo là đến việc tổ chức triển khai và thực

hiện quyết định thi hành án. Theo quy định tại Điều 85 Luật Thi hành án hình sự năm

2019 trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án

treo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải triệu tập người được hưởng

án treo, người đại diện trong trường hợp người được hưởng án treo là dưới 18 tuổi đến

trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú nơi người đó làm việc để cam kết

việc chấp hành án. Người được hưởng án treo, người đại diện của người được hưởng

án treo phải có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở

ngại khách quan. Trường hợp người được hưởng án treo không có mặt theo giấy triệu

tập hoặc không cam kết thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập biên

bản vi phạm nghĩa vụ.

Khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp

huyện lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục

người được hưởng án treo. Hồ sơ bao gồm các nội dung sau đây: Bản án, quyết định

của Toà án có hiệu lực pháp luật; Quyết định thi hành án treo; Cam kết của người được

hưởng án treo. Đối với người được hưởng án treo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại diện; Tài liệu khác

có liên quan đến việc thi hành án.

27

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, Ủy ban

nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo phải

lập hồ sơ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Hồ sơ bao gồm các nội dung

sau đây: Bản sao các tài liệu quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật Thi hành án hình sự;

Bản nhận xét của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục về việc chấp hành nghĩa

vụ của người được hưởng án treo; Bản tự nhận xét của người được hưởng án treo về

việc thực hiện nghĩa vụ chấp hành pháp luật, trường hợp người được hưởng án treo bị

kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 Luật THAHS 2019 thì phải có bản kiểm điểm và

biên bản cuộc họp kiểm điểm; Trường hợp người được hưởng án treo được rút ngắn

thời gian thử thách thì phải có quyết định của Toà án; Tài liệu khác có liên quan đến

việc thi hành án.

Trước khi hết thời gian thử thách 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao

giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ thi hành án cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an

cấp huyện. Vào ngày cuối cùng của thời gian thử thách, Cơ quan thi hành án hình sự

Công an cấp huyện phải cấp giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách. Giấy

chứng nhận phải gửi cho người được hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao

giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra

quyết định thi hành án có trụ sở.

Qua quy định trên có thể thấy Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định

rõ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tổ chức thi hành và thi hành

án treo.

1.2.2.3. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã được

giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo

Án treo không phải là hình phạt nhưng xét về bản chất của án treo cũng chính là

biện pháp nhằm thực hiện, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự của hình phạt tù có thời hạn

đối với người được hưởng án treo. Vì thế, tiêu chí “tự giác chấp hành án” được coi là

điều kiện cốt lõi để xác định mục đích, kết quả của hình phạt tù cho hưởng án treo có

28

được thực hiện trên thực tế hay không. Đồng thời phải nghiêm chỉnh tuân theo các

nguyên tắc trong thi hành án hình sự. Do đó, để đạt được các mục đích nói trên trong

thực tế đòi hỏi việc tổ chức, quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của

UBND cấp xã phải được thực hiện khoa học và tuân thủ theo các quy định của Luật

THAHS năm 2019. UBND cấp xã là cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án

treo tại địa phương mình quản lý. Do đó, quá trình cải tạo của người được hưởng án

treo có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào quá trình tổ chức thi hành án và việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người được

hưởng án treo trong thời gian thử thách.

Vì vậy, để thực hiện được những mục đích trên trong công tác thi hành án treo,

UBND cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cần

thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Luật THAHS

năm 2019 (khoản 1 Điều 86) và Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của

Chính phủ “Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” (Điều 7) [6]. Cụ

thể như sau:

Lập hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ

sơ cho cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật THAHS. Sau

khi cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện tiếp nhận Quyết định thi hành án thì

phải lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục

người được hưởng án treo các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật;

Quyết định thi hành án treo; Cam kết của người được hưởng án treo. Trên cơ sở đó,

trong thời hạn 07 kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, UBND cấp xã được

giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo phải lập hồ sơ và tiến hành các hoạt

động tiếp theo để giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử

thách theo quy định. Như vậy, so với Luật THAHS năm 2010 chỉ có cơ quan thi hành

án Công an cấp huyện phải lập hồ sơ thi hành án và UBND cấp xã tiếp nhận hồ sơ thì

Luật THAHS năm 2019 đã giao trách nhiệm trực tiếp lập hồ sơ đối với người được

29

hưởng án treo cho UBND cấp xã thay vì chỉ tiếp nhận hồ sơ từ cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp huyện như trước kia để UBND cấp xã có trách nhiệm cao hơn để

việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tốt hơn.

Yêu cầu người được hưởng án treo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện

pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Với vai trò là

cơ quan trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo theo quy định của Luật

THAHS năm 2019, UBND cấp xã trong quá trình giám sát, giáo dục người được

hưởng án treo có quyền cầu người được hưởng án treo phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ

của mình theo quy định của Luật THAHS năm 2019 (Điều 87). Bên cạnh đó, qua quá

trình theo dõi quá trình chấp hành án nếu người được hưởng án treo có dấu hiệu vi

phạm pháp luật thì UBND cấp xã phải có các biện pháp giáo dục, phòng ngừa thích

hợp tác động lên người được hưởng án treo để hạn chế nguy cơ vi phạm pháp luật của

họ.

Biểu dương người được hưởng án treo có nhiều tiến bộ hoặc lập công. UBND

cấp xã trong quá trình giám sát, giáo dục người được hưởng án treo nếu thấy họ có

nhiều tiến bộ hoặc lập công thì phải tiến hành biểu dương để ghi nhận thành tích cũng

như khích lệ tinh thần của người được hưởng án treo. Qua việc thực hiện nhiệm vụ

này, sẽ khuyến khích những người thi hành án treo khác nâng cao tinh thần tự giác và

cố gắng tự cải tạo trong quá trình chấp hành án của mình tại địa phương.

Giải quyết cho người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy

định của Luật này và pháp luật về cư trú. Khi người được hưởng án treo có công việc

phải thực hiện ở địa phương khác thì khi nhận được yêu cầu của họ, UBND cấp xã có

trách nhiệm xem xét quyết định cho phép người được hưởng án treo vắng mặt ở nơi cư

trú để đảm bảo họ có điều kiện hoàn thành công việc.

Phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi

người được hưởng án treo làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Người được hưởng án treo không bị hạn chế quyền làm việc và học tập theo chính sách

30

khoan hồng của nhà nước. Vì vậy, họ được tạo điều kiện có việc làm và học tập như

công dân bình thường. Để hoạt động giám sát, giáo dục đạt được hiệu quả và giảm tải

công việc cho người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục, UBND cấp xã phải

thường xuyên phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, gia đình, cơ quan và tổ chức

nơi người được hưởng án treo làm việc và học tập để nắm bắt được quá trình chấp hành

án của họ, từ đó có được những nhận xét, đánh giá khách quan về việc thực hiện nghĩa

vụ của người được hưởng án treo trong thời gian thử thách tại địa phương. Bên cạnh

đó, gia đình người được hưởng án treo cũng phải có trách nhiệm phối hợp với UBND

cấp xã và người được phân công trực tiếp trong việc giám sát, giáo dục người được

hưởng án treo.

Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Toà án

cùng cấp xem xét, quyết định việc rút ngắn thời gian thử thách. Đây là một trong

những điểm mới, tiến bộ của Luật THAHS năm 2019, nếu trước kia Luật THAHS năm

2010 chúng ta chỉ có thủ tục rút ngắn thời gian thử thách thì nay người được hưởng án

treo được đề nghị xem xét rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ điều kiện theo quy

định, bởi lẽ trong quá trình chấp hành án, người được hưởng án treo có biểu hiện tốt

trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực học tập, lao động, sữa chữa lỗi

lầm, giúp đỡ cho xã hội hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được

cơ quan có thẩm quyền khen thưởng. UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục

người được hưởng án treo có trách nhiệm làm văn bản đề nghị gửi cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Toà án cùng cấp xem xét, quyết định việc rút

ngắn thời gian thử thách theo quy định. Đây là nhiệm vụ quan trọng thể hiện vai trò

giám sát, giáo dục của UBND cấp xã đối với người được hưởng án treo. Nếu người

được hưởng án treo có ý thức cải tạo tốt, có nhiều tiến bộ nhưng UBND cấp xã không

biết, từ đó không thực hiện nhiệm vụ này thì quyền lợi của người được hưởng án treo

không được đảm bảo, vai trò giám sát, giáo dục của UBND cấp xã không được thể hiện

trong thực tế.

31

Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ

tục đề nghị Toà án có thẩm quyền quyết định buộc người được hưởng án treo vi phạm

nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định

của Luật THAHS. Nghĩa vụ của người được hưởng án treo đã được quy định rõ và phải

chấp hành nghiêm chỉnh, để đảm bảo việc giám sát, giáo dục đối với người được

hưởng án treo chặt chẽ hơn, tăng tính nghiêm minh trong quá trình thi hành án, khắc

phục những hạn chế trong quản lý đối tượng chấp hành án tại địa phương thì trường

hợp người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc đã bị kiểm điểm nhưng

sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bẳng văn bản mà vẫn cố ý

vi phạm thì sau khi nhận được đề xuất của Công an cấp xã, UBND cấp xã được giao

giám sát, giáo dục người được hưởng án treo báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công

an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Toà án có thẩm quyền quyết định buộc

người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã

cho hưởng án treo theo quy định của Luật THAHS nhằm đảm bảo tính răn đe và cho

thấy sự giám sát chặt chẽ của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được

hưởng án treo.

Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện khi người được hưởng

án treo bỏ trốn. Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin

phép và được sự đồng ý của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp

không đồng ý thì UBND cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được

hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến

tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của UBND cấp xã hoặc

Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm

pháp luật, UBND cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho UBND

cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan. Nếu người được

hưởng án treo không có mặt theo yêu cầu của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo

dục mà không có lý do chính đáng hoặc đi khỏi nơi cư trú mà không được sự đồng ý

32

của UBND cấp xã thì UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục sẽ lập văn bản gửi

báo cáo để cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành xử lý vi phạm đối

với người được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

Hàng tháng nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người được

hưởng án treo và lưu hồ sơ giám sát, giáo dục. UBND cấp xã sẽ làm bản nhận xét,

đánh giá quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo ở địa phương để hàng

tháng nắm bắt được quá trình chấp hành án của họ và tiếp tục hoạt động giám sát, giáo

dục của mình. Như vậy, tại điểm h, Điều 63 Luật THAHS năm 2010 chỉ quy định

UBND cấp xã nhận xét bằng văn bản và lưu hồ sơ theo dõi về quá trình chấp hành án

của người được hưởng án treo khi người đó chuyển đi nơi khác, thì nay Luật THAHS

năm 2019 đã quy định chặt chẽ hơn và hàng tháng người được hưởng án treo phải báo

cáo bằng văn bản với UBND cấp xã về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình, để đảm

bảo rằng họ vẫn luôn tự giác và chấp hành đúng quy định của pháp luật trong thời gian

chịu sự giám sát, giáo dục của UBND cấp xã, tránh trường hợp người được hưởng án

treo đi khỏi nơi cư trú một thời gian mà UBND cấp xã không biết. Từ đó UBND cấp xã

hàng tháng sẽ có nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người được

hưởng án treo và lưu vào hồ sơ giám sát, giáo dục.

Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền về kết quả thi hành án.

Định kỳ theo quy định hoặc đột xuất theo yêu cầu, UBND cấp xã được giao giám sát,

giáo dục có trách nhiệm thống kê, báo cáo kết quả thi hành án treo tại địa phương cho

cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền.

Ngoài ra, trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo không phải là

cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ,

công nhân quốc phòng, công nhân công an thì UBND cấp xã còn có trách nhiệm tạo

điều kiện, hỗ trợ cho người được hưởng án treo tìm việc làm. Đây là hoạt động quan

trong nhằm giúp người được hưởng án treo tạo ra thu nhập để ổn định cuộc sống. Việc

giúp người được hưởng án treo có việc làm trong thời gian thử thách cũng sẽ hạn chế

33

được tình trạng tái phạm của người được hưởng án treo, qua đó giảm bớt áp lực trong

việc giám sát, quản lý và giáo dục người được hưởng án treo của UBND cấp xã.

Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng, UBND cấp xã trong quá trình giám

sát, giáo dục người được hưởng án treo phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác nhau,

các nhiệm vụ này không tách rời mà có mối liên hệ mật thiết với nhau và pháp luật

không phân định nhiệm vụ, quyền hạn nào nhằm mục đích giám sát, nhiệm vụ, quyền

hạn nào nhằm mục đích giáo dục mà quy định chung. UBND cấp xã thực hiện việc

giám sát, giáo dục người được hưởng án treo một cách gián tiếp thông qua hoạt động

của người được UBND cấp xã ra quyết định phân công trực tiếp giám sát, giáo dục.

1.2.2.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo

Trong thời gian chấp hành án, người được hưởng án treo được đảm bảo các

quyền và phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

- Về quyền của người được hưởng án treo

Theo các quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP; Điều 84,

Điều 88 Luật THAHS 2019 thì:

Người được hưởng án treo được nhận quyết định thi hành án. Quyết định thi

hành án là cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động thi hành án hình sự, ảnh hưởng trực

tiếp đến quyền và lợi ích của người chấp hành án. Vì vậy, người chấp hành án treo nói

riêng và các loại án khác nói chung phải được nhận quyết định thi hành án. Bên cạnh

đó việc được nhận quyết định thi hành án treo sẽ đảm bảo cho người chấp hành án thực

hiện việc có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự để thực hiện thủ tục chấp hành án.

Quyết định thi hành án phải được giao cho người chấp hành án trong thời hạn luật

định.

Người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân quốc phòng, công nhân công an, người

lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo

đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ khác phù hợp với

34

công việc mà mình đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo

quy định của pháp luật. Đây là một quy định thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm

bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án nhằm hướng đến mục đích giúp họ

trở thành người có ích cho xã hội.

Người được hưởng án treo được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp

tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó. Quy định này

cũng là cơ sở pháp lý quan trọng thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền

lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án khi họ tham gia việc học tập, học nghề tại các

cơ sở đào tạo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo được Uỷ ban nhân dân cấp

xã tạo điều kiện để người đó tìm việc làm. Đây cũng là một quy định thể hiện tư tưởng

nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án nhằm

hướng đến mục đích giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Việc có việc làm sẽ

giúp cho người chấp hành án đảm bảo được cuộc sống và hạn chế tái phạm.

Người được hưởng án treo thuộc đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi theo quy

định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, người đang hưởng chế độ

bảo hiểm xã hội thì vẫn được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp

luật. Đây là một quy định thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền lợi ích

hợp pháp cho người chấp hành án nhằm hướng đến mục đích giúp họ trở thành người

có ích cho xã hội. Quy định này có sự khác biệt so với người chấp hành án phạt tù. Nếu

người chấp hành án phạt tù sẽ bị đình chỉ hưởng chế độ, chính sách khi bản án phạt tù

có hiệu lực và sẽ chỉ được khôi phục lại chế độ khi đã chấp hành xong hình phạt.

Ngoài ra, người được hưởng án treo được quyền khiếu nại (Điều 176 Luật

THAHS 2019), tố cáo (Điều 190 Luật THAHS 2019) theo quy định của pháp luật. Đây

là một quyền chính trị quan trọng của người chấp hành án. Trong quá trình chấp hành

án nếu các cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các quyết định, hành vi trái pháp

luật hoặc vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được

35

hưởng án treo thì họ được quyền khiếu nại, tố cáo. Việc tiếp nhận và giải quyết khiếu

nại, tố cáo của người chấp hành án được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án

hình sự. Đây cũng chính là quy định quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người

chấp hành án, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, những quy định về quyền lợi của người được hưởng án treo có một

số quy định đề ra chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ việc thực hiện không có bất kỳ

cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo cho quy định đó được thực hiện.

- Về nghĩa vụ của người được hưởng án treo

Tại Điều 87 Luật THAHS năm 2019 quy định về những nghĩa vụ mà người

được hưởng án treo phải thực hiện trong quá trình chấp hành án. Cụ thể là:

Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định của Luật

THAHS năm 2019 về việc thi hành quyết định án treo; Thực hiện nghiêm chỉnh cam

kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú,

làm việc, học tập; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt

bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận; Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân

dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp

huyện nơi cư trú, nơi làm việc; Chấp hành quy định về việc vắng mặt tại nơi cư trú,

thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc; Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân

cấp xã được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;

Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,

giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy

định tại khoản 1, Điều 92 của Luật THAHS thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được

hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Các nghĩa vụ

này được quy định nhằm đảm bảo mục tiêu giám sát, giáo dục của các cơ quan, người

có thẩm quyền đối với người chấp hành án treo.

36

Việc Luật Thi hành án hình sự 2019 và các văn bản hướng dẫn quy định rõ

quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo sẽ đảm bảo chọ họ thực hiện và bảo

vệ các quyền của mình trong quá trình chấp hành án. Tuy nhiên, quy định trong Luật

Thi hành án hình sự vẫn còn hạn chế như trong quy định về quyền của người chấp

hành án treo một số quy định ở trên chỉ mang tính chất chung chung, khẩu hiệu, bởi vì

việc đảm bảo thực hiện các quyền này không có bất kỳ cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo

cho quy định đó được thực hiện. Chẳng hạn như người được hưởng án treo được Ủy

ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện tìm việc làm nhưng trên thực tế quy định này rất khó

thực hiện bởi không có cơ chế nào ràng buộc về tính bắt buộc của quy định này.

1.2.2.5. Quy định về điều kiện và thủ tục rút ngắn thời gian thử thách

- Điều kiện để được rút ngắn thời gian thử thách:

Đây là quy định mới của Luật THAHS năm 2019 so với Luật THAHS năm

2010, Điều 89 Luật THAHS năm 2019 quy định rõ điều kiện để rút ngắn thời gian thử

thách bao gồm: Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách; Trong thời gian

thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa

vụ theo quy định tại điều 87 của LTHAHS về nghĩa vụ của người được hưởng án treo;

tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ

an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.

Người được hưởng án treo chỉ được xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm 01

lần, mỗi lần từ 01 tháng đến 01 năm. Trường hợp thời gian thử thách còn lại không quá

01 tháng thì có thể được rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Người được hưởng án

treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế đã

chấp hành ba phần tư thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo và có

đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tòa án có thể rút ngắn hết thời gian

thử thách còn lại.

37

Trường hợp người được hưởng án treo đã được rút ngắn thời gian thử thách

nhưng sau đó vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 87 của Luật THAHS và bị Tòa án

quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo

thì thời gian thử thách đã được rút ngắn không được tính để trừ vào thời gian chấp

hành án phạt tù.

Việc cho người được hưởng án treo rút ngắn thời gian thử thách có thể được

xem là phần thưởng cho những nỗ lực của họ trong quá trình thi hành án treo. Việc rút

ngắn thời gian thử thách thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nhà nước, cũng như khuyến

khích người chấp hành án tích cực giáo dục cải tạo.

- Trình tự, thủ tục rút ngắn thời gian thử thách:

So với Luật THAHS năm 2010, Điều 90 Luật THAHS 2019 quy định bổ sung

thêm trách nhiệm của UBND cấp xã như sau: Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám

sát, giáo dục người được hưởng án treo có trách nhiệm rà soát người đủ điều kiện theo

quy định tại khoản 1 Điều 89 của Luật này, báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công

an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu kèm theo tài liệu có liên quan

để đề nghị xét rút ngắn thời gian thử thách.

Khoản 2, Điều 90 bổ sung thêm quy định cụ thể về thời hạn đề nghị rút ngắn gởi

đến Toà án và Viện kiểm sát: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo,

cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập hồ sơ và có văn bản đề nghị rút

ngắn thời gian thử thách đối với người có đủ điều kiện gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát

cùng cấp. Trường hợp xét thấy không đủ điều kiện lập hồ sơ rút ngắn thời gian thử

thách, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản thông báo cho Ủy

ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Khoản 3, Điều 90 bổ sung thêm chi tiết về Hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử

thách bao gồm: (a) Đơn đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án

treo; (b) Bản sao bản án. Đối với trường hợp xét rút ngắn thời gian thử thách từ lần thứ

hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án treo; (c) Văn bản

38

đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,

giáo dục người được hưởng án treo; (d) Trường hợp người được hưởng án treo được

khen thưởng hoặc lập công thì hồ sơ phải có quyết định khen thưởng hoặc giấy xác

nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người được hưởng án treo lập công; trường

hợp bị bệnh hiểm nghèo thì phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp

quân khu trở lên về tình trạng bệnh của họ; (đ) Trường hợp người được hưởng án treo

đã được rút ngắn thời gian thử thách thì phải có bản sao quyết định rút ngắn thời gian

thử thách.

Khoản 4, Điều 90 thay đổi quy định cụ thể về thời hạn thành lập Hội đồng và tổ

chức phiên họp xét rút ngắn như sau: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ

sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi

người được hưởng án treo cư trú hoặc làm việc thành lập Hội đồng và tổ chức phiên

họp để xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Thành phần Hội đồng gồm 03

Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp

được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung (so với Luật THAHS năm 2010 là 15

ngày).

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc chấp nhận

toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án

treo, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp,

Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan đề nghị rút ngắn thời gian thử thách, Tòa án

đã ra quyết định cho hưởng án treo, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định cho hưởng án

treo có trụ sở

Như vậy, Luật Thi hành án hình sự đã quy định rõ ràng về việc người được

hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách và trình tự, thủ tục, thẩm

quyền đề nghị, thẩm quyền quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Đảm

39

bảo cho quá trình thi hành án treo diễn ra đúng đắn và thống nhất các quy định của

pháp luật về rút ngắn thời gian thử thách.

1.2.2.6. Quy định về giải quyết trường hợp người chấp hành án treo vắng mặt

tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc

Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được hưởng án treo, trong quá trình chấp

hành án người được hưởng án treo có thể thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc. Bên cạnh

đó đế đảm bảo việc quản lý, giám sát giáo dục người được hưởng án treo trong trường

hợp họ thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy

định cụ thể hơn so với Luật THAHS năm 2010 vấn đề này như sau:

Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính

đáng và phải xin phép theo quy định, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định

của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày

và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian

thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và

phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.

Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và

được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp

không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã

nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban

nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được

hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú,

lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm

theo tài liệu có liên quan.

Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc

nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật THAHS. Người được hưởng

án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.

40

Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định về rõ việc kiểm điểm và

xử lý vi phạm đối với người được hưởng án treo đồng thời cũng quy định về trách

nhiệm của cơ quan, tổ chức và gia đình người được hưởng án treo.

1.2.2.7. Quy định về trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và gia

đình đối với người được hưởng án treo

Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án treo thì không thể thiếu sự tham

gia của cơ quan, tổ chức có liên quan và gia đình người được hưởng án treo. Vì vậy,

Điều 94 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về trách nhiệm giám sát, giáo

dục của cơ quan tổ chức có liên quan và gia đình của người được hưởng án treo là có

trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người

được hưởng án treo.

Đồng thời, gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp trong

việc giám sát, giáo dục và thông báo kết quả chấp hành án của người được hưởng án

treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; phải có

mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo theo yêu cầu của Ủy ban nhân

dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục.

Mặc dù vai trò của gia đình trong quá trình thi hành án treo là vô cùng to lớn bởi

vì gia đình là nơi gần gũi nhất và tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên đối với người được

hưởng án treo nhưng lại không có quy định chế tài cụ thể để đảm bảo việc gia đình

thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nước giao cho với tư cách là nơi gần gũi nhất

đối với người được hưởng án treo, đảm bảo cho quá trình thi hành án treo thực hiện

đúng với nội dung và mục đích mà Nhà nước ta đã đề ra: dù không cách ly người được

hưởng án treo khỏi xã hội nhưng vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục người phạm

tội với những hành vi sai trái trước đó nhờ vào sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ

chức ở địa phương cùng với sự giúp đỡ của chính gia đình người được hưởng án treo.

41

Tiểu Kết Chương 1

Trong Chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến Thi

hành án treo và rút ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi

hành án treo, cụ thể như sau:

Luận văn đã làm sáng tỏ khái niệm khoa học về thi hành án treo. Theo đó: Thi

hành án treo là tổng hợp các hoạt động do cơ quan, người có thẩm quyền theo quy

định của pháp Luật Thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người chấp hành án trong

thời gian thử thách tại cộng đồng để họ trở thành người có ích cho xã hội.

- Qua việc nghiên cứu về khái niệm thi hành án treo, luận văn đã rút ra những

đặc điểm đặc trưng về thi hành án treo đó là: Thi hành án treo là tổng hợp các hoạt

động của các chủ thể có thẩm quyền để thực hiện bản án treo trên thực tế; chủ thể thực

hiện hoạt động thi hành án là các cơ quan, người có thẩm quyền; cơ sở pháp lý để thực

hiện hoạt động thi hành án treo là quy định của pháp Luật Thi hành án hình sự; nội

dung của thi hành án treo là giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt tù được hưởng

án treo trong thời gian thử thách; địa điểm thi hành án treo là tại cộng đồng (nơi cư trú

của người chấp hành án); thi hành án treo nhằm giám sát, giáo dục người chấp hành án

trở thành người có ích cho xã hội.

- Việc thi hành án treo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ đơn thuần là

trừng trị người phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có ý nghĩa

thiết thực trong việc giúp những người đã từng có những hành vi sai trái có cơ hội để

làm lại cuộc đời của mình theo hướng tốt đẹp hơn, đảm bảo được tính nhân đạo và

khoan hồng của pháp luật.

- Việc quy định về thi hành án treo trong Luật Thi hành án hình sự phải trên cơ

sở sau đây: phải phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người mà

Việt Nam là thành viên, cũng như phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm

42

2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Việc thi hành án hình sự được quy

định phải phù hợp với các tư tưởng chỉ đạo, chi phối định hướng quá trình thi hành án

hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng; Các quy định về thi hành án treo phải

phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhằm đảm bảo tính khả thi trên thực tế.

Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thi hành án treo là tiền đề

quan trọng để nghiên cứu các quy định của Luật Thi hành án hình sự và đánh giá thực

trạng áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt

động thi hành án treo.

Thứ hai, bên cạnh nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án

treo. Luận văn cũng phân tích và đánh giá về quy định của Luật Thi hành án hình sự

năm 2019 về thi hành án treo bao gồm: Việc ra quyết định thi hành án treo; Thi hành

quyết định thi hành án treo; Việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; Quyền

và nghĩa vụ của người được hưởng án treo; Rút ngắn thời gian thử thách; Thủ tục rút

ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo; Giải quyết việc người chấp

hành án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc; Vai trò của cơ quan, tổ chức có liên quan

và gia đình người được hưởng án treo.

Việc phân tích, đánh giá quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi

hành án treo là cơ sở để tác giả đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật

trên thực tiễn. Trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt

động thi hành án treo ở Chương 2.

43

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TREO

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và phân tích quy định của Luật Thi

2.1. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

hành án hình sự năm 2019 về thi hành án treo ở Chương 1, tác giả tiến hành khảo sát

việc áp dụng các quy định của Luật Thi hành hành án hình sự về thi hành án treo trong

thực tiễn. Trong đó tác giả chỉ ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập

trên thực tiễn, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp

dụng pháp luật về thi hành án treo của các chủ thể có thẩm quyền.

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, chính trị và tình hình tội phạm tại tỉnh Tây

Ninh

Tây Ninh có vị trí địa lý:

 Phía Đông giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước;

 Phía Đông Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh;

 Phía Nam giáp tỉnh Long An;

 Phía Tây và phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia.

Điều kiện kinh tế, chính trị, tình hình tội phạm tại tỉnh Tây Ninh

Tây Ninh nối cao nguyên Nam Trung bộ với đồng bằng sông Cửu Long, vừa

mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng.

Nằm ở vị trí cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh của Vương

quốc Campuchia. Tây Ninh là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam, có hệ thông giao thông đặc sắc với đường biên giới dài 240km với 03 cửa

khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát và Tân Nam cùng các cửa khẩu quốc gia Chàng Riệc,

Kà Tum, Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch. Được xem là một trong những cửa

ngõ giao lưu quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan… đồng thời

44

là tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dân số tính

đến cuối năm 2018 là 1.133.400 người (niên giám Thống kê năm 2018).

Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và những công

trình nhân tạo hoành tráng, có bề dày lịch sử cách mạng Việt Nam nên có điều kiện để

phát triển đa dạng các loại hình du lịch và tâm linh như: Núi Bà Đen, Vườn Quốc gia

Lò Gò - Xa Mát, Hồ Dầu Tiếng, Toà thánh Cao đài Tây Ninh, Trung ương Cục miền

Nam, Khu địa đạo An Thới - Trảng Bàng… những điều kiện thuận lợi này đã góp phần

thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển, đời sống nhân dân dần được cải

thiện; tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội có những bước chuyển

biến tích cực.

Tuy nhiên, vì là tỉnh giáp biên giới nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để các ổ

nhóm tội phạm hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn ngày càng đa

dạng, tinh vi và phức tạp. Trong đó, tội phạm giết người chủ yếu xuất phát từ những

mâu thuẫn trong sử dụng rượu bia, mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, ngoại tình.., Tội

phạm kinh tế và tham nhũng tiếp tục xảy ra nhiều trong lĩnh vực tài chính, ngân

hàng… Bên cạnh đó, xuất hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lĩnh vực viễn

thông, tin học, mạng internet, gia tăng thiệt hại lớn đến tài sản của công dân, tiềm ẩn

nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội.

Qua khảo sát thực tế theo Báo cáo của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh qua các

năm từ năm 2015 đến năm 2019 thì hiện nay số lượng bị cáo được hưởng án treo trên

địa bàn tỉnh Tây Ninh thống kê cho thấy hàng năm số lượng bị cáo cho hưởng án treo

không đồng đều và tương đối tăng, vì vậy chất lượng tổ chức thi hành án treo trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh thời gian tới sẽ là một thách thức đối với cơ quan, tổ chức được giao

giám sát, giáo dục người đang chấp hành án treo trong thời gian thử thách.

2.1.2. Thực trạng việc ra quyết định thi hành án treo

Việc ra quyết định thi hành án treo là hoạt động mở đầu cho quá trình thi hành

45

án, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Nhìn chung

trên thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật

Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập như

sau:

- Có trường hợp Toà án lạm dụng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt các

bị cáo dưới khung hình phạt và giảm tới mức đủ điều kiện để cho các bị cáo được

hưởng án treo. [26]

- Một số vụ án bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ”, trong đó, hậu quả làm chết người, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo,

nhưng vẫn được Toà án cho hưởng án treo hoặc phạt tiền là không đáp ứng được yêu

cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này tại địa phương. [26]

- Một số bản án không thể hiện rõ tên Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám

sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách và không tuyên bị cáo bị áp dụng hình

phạt tù theo khoản 5 Điều 65 BLHS nếu vi phạm nghĩa vụ thi hành án. [26]

Theo báo cáo công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2019

của Bộ Công an, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động

phức tạp, tác động đến an ninh, phát triển kinh tế toàn cầu, đặt ra nhiều thách thức đối

với nước ta. Các thế lực thù địch, phản động gia tăng hoạt động chống phá trên các lĩnh

vực; áp lực gia tăng tội phạm ngày càng lớn... đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho

công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Công tác đấu tranh trấn áp tội

phạm đạt nhiều kết quả tích cực, kiềm chế và đẩy lùi tội phạm liên quan đến tín dụng

đen, làm giảm nhiều loại tội phạm nghiêm trọng, khẩn trương điều tra làm rõ các vụ án

gây bức xúc dư luận. [17]

Tính đến năm 2019, tỉnh Tây Ninh đã chủ động nắm chắc các diễn biến tình

hình chính trị, đảm bảo ổn định an ninh khu vực biên giới; đảm bảo an ninh trong tôn

giáo và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh… Lực lượng Công an tỉnh Tây Ninh đã

chủ động phòng ngừa, tấn công, trấn áp quyết liệt các loại tội phạm. Tỷ lệ điều tra

46

khám phá án chung đạt trên 82%, án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt

94,8%. Triệt xóa 64 băng nhóm tội phạm có tổ chức; chủ động mở 09 đợt cao điểm tấn

công trấn áp các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, trong đó có tội phạm tín dụng đen,

cờ bạc, ma tuý, khai thác cát, sỏi, đảm bảo trật tự an toàn giao thông... Bên cạnh đó,

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma tuý, tội phạm về trật tự quản lý kinh tế,

chức vụ, tham nhũng, môi trường được triển khai quyết liệt, đạt nhiều kết quả. Đặc

biệt, phát hiện, bắt giữ nhiều đường dây vận chuyển ma tuý từ Campuchia qua biên

giới tỉnh Tây Ninh về Việt Nam tiêu thụ [7]. Công an các đơn vị, địa phương trong

toàn tỉnh đã tập trung làm tốt công tác phòng ngừa nghiệp vụ gắn với phòng ngừa xã

hội; xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng địa bàn, từng khu dân cư, hỗ

trợ đắc lực cho đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; giữ vững ổn định an ninh

chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Trong thời gian qua Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã áp dụng án treo khá phổ

biến, điều này thể hiện sự thay đổi nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật của

các chủ thể có thẩm quyền. Khảo sát số liệu thống kê của Toà án nhân dân tỉnh Tây

Ninh từ năm 2015 – 2019 thì số lượng, tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo thể hiện cụ thể

qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.1 Số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Tây

Ninh từ năm 2015 đến năm 2019

Tổng số vụ án Tổng số bị cáo bị Số bị cáo được Tỉ lệ Năm hình sự đã xét xử xét xử hưởng án treo (%)

2015 1271 2397 6,8 164

2016 1192 1852 6,2 114

2017 1049 1351 9,9 134

2018 1376 2462 0,3 08

2019 1321 2625 11,2 295

47

Trung bình 1242 2137 143 6,8

(Nguồn: Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh)

Nhìn vào bảng thống kê số liệu, tỉ lệ bị cáo được hưởng án treo so với tổng số bị

cáo đã xét xử trên toàn tỉnh Tây Ninh có thể thấy rằng:

So với tổng số bị cáo đã bị xét xử trong mỗi năm, số lượng bị cáo được hưởng

án treo tăng giảm không đồng đều, cụ thể như sau:

- Năm 2015, số bị cáo bị đưa ra xét xử là 2397 bị cáo, số bị cáo được hưởng án

treo là 164 bị cáo, chiếm 6,8 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử.

- Năm 2016, số bị cáo bị đưa ra xét xử là 1852 bị cáo, số bị cáo được hưởng án

treo là 114 bị cáo, chiểm 6,2 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy so với năm

2015, số bị cáo bị đưa ra xét xử giảm 545 bị cáo, số bị cáo được hưởng án treo cũng

giảm, cụ thể là giảm 50 bị cáo.

- Năm 2017, số bị cáo được đưa ra xét xử là 1351 bị cáo, số bị cáo được hưởng

án treo là 134 bị cáo, chiếm 9,9 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy, so với năm

2016, số bị cáo bị đưa ra xét xử giảm 501 bị cáo, nhưng số bị cáo được hưởng án treo

có chiều hướng gia tăng, cụ thể là tăng 20 bị cáo.

- Năm 2018, số bị cáo được đưa ra xét xử là 2462 bị cáo, số lượng bị cáo được

hưởng án treo là 08 bị cáo, chiếm 0,3 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Nhìn chung,

trong năm 2018, số bị cáo được đưa ra xét xử tăng cao đáng kể, tuy nhiên số bị cáo

được hưởng án treo giảm mạnh, một con số thấp hơn hẳn những năm về trước rất

nhiều. Phải chăng tình hình tội phạm năm này ngày càng diễn biến phức tạp và mang

tính chất nghiêm trọng hơn nên số lượng tội phạm được hưởng án treo ngày càng hạn

chế.

- Năm 2019, số bị cáo được đưa ra xét xử là 2625 bị cáo, số lượng bị cáo được

hưởng án treo là 295 bị cáo, chiếm 11,2 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy,

tình hình tội phạm năm 2019 có chiều hướng gia tăng hơn nữa, thể hiện ở chỗ số lượng

48

bị cáo được đưa ra xét xử tăng cao nhất trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm

2019. Tuy nhiên số lượng bị cáo được hưởng án treo cũng gia tăng, điều này thể hiện

quan điểm, tư tưởng cũng như sự thay đổi nhận thức về áp dụng pháp luật của chủ thể

có thẩm quyền về áp dụng án treo.

Số liệu trên cho ta thấy thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

trong những năm trở lại đây, đặc biệt là giai đoạn 2015-2019 diễn ra không đồng đều,

có chiều hướng tăng chậm so với tổng số bị cáo được đưa ra xét xử, điều này thể hiện

tính chất nguy hiểm của tội phạm trên phạm vi toàn tỉnh ngày một nghiêm trọng.

Từ thực tế nêu trên, có thể thấy việc áp dụng án treo là chưa hiệu quả, có thể

chưa được sự ủng hộ đồng tình của dư luận xã hội nên việc áp dụng biện pháp này có

phần hạn chế hơn. Vì vậy, cần có sự phối hợp của các ngành chức năng có liên quan,

đặc biệt là công tác thống kê tội phạm và khoa học xét xử. Việc áp dụng án treo phù

hợp hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Theo tác giả, việc áp dụng án treo phù hợp và

đúng pháp luật, một mặt sẽ khuyến khích người phạm tội thấy được sự khoan hồng của

Nhà nước mà tích cực tự cải tạo mình, giáo dục người phạm tội so với việc cải tạo,

giáo dục họ trong trại giam. Mặt khác, việc áp dụng án treo không phù hợp sẽ đem lại

tác động xấu đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, không đạt

được mục đích và ý nghĩa của hình phạt.

Có thể thấy rằng, UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay đang quản

lý, giám sát và giáo dục với số lượng không nhiều người được hưởng án treo theo

quyết định của Toà án. Việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của UBND

cấp xã trong thời gian qua cũng đã phần nào tạo điều kiện cho người được hưởng án

treo làm việc, sinh sống và học tập ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự

trực tiếp giám sát, giáo dục của người được phân công, của cơ quan, tổ chức có liên

quan và cả gia đình người được hưởng án treo.

49

2.1.3. Thực trạng việc thi hành quyết định thi hành án treo

Việc áp dụng án treo khi xét thấy không thật sự cần thiết phải cách ly bị cáo

bằng một bản án với hình phạt tù thì Tòa án nên lựa chọn chế định án treo để có thể

giảm bớt áp lực về ngân sách Nhà nước.

Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp huyện có vai trò quan trọng

trong việc thi hành quyết định thi hành án treo. Các cơ quan này có mối quan hệ mật

thiết với quá trình thi hành án treo tại địa phương, giúp cho công tác thi hành án nói

chung và thi hành án treo nói riêng diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi

tiếp nhận bản án, quyết định thi hành án treo và các tài liệu liên quan do Tòa án chuyển

giao, Cơ quan thi hành án hình sự Cấp huyện, triệu tập người được hưởng án treo đến

trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục, để cam kết chấp

hành án, lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã. Kể từ ngày triệu

tập người được hưởng án treo, UBND cấp xã lập hồ sơ tổ chức thực hiện công tác quản

lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Nhìn chung trong thời gian qua việc

thi hành quyết định thi hành án treo được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong hoạt động thi hành

quyết định thi hành án treo.

Một là, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trong một số trường hợp

không triệu tập được người được hưởng án treo trong thời hạn theo luật định. Người

được hưởng án treo không chịu có mặt theo giấy triệu tập. Khi cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp huyện bàn giao hồ sơ thi hành án treo về UBND cấp xã thì không

tiến hành bàn giao người phải thi hành án (khoản 1, khoản 2, Điều 85 Luật THAHS

2019), vì vậy có một số người được hưởng án treo không có mặt tại UBND xã được

giao giám sát, giáo dục theo quy định và UBND xã cung không biết họ ở đâu, làm gì

[28].

Hai là, việc triệu tập người được hưởng án treo và người đại diện trong trường

hợp người được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi gặp khó khăn trên thực tiễn khi

50

Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định biện pháp cưỡng chế mang tính

nghiêm khắc để đảm bảo sự có mặt của người được hưởng án treo hoặc người đại diện

theo giấy triệu tập, có thể thấy đây là một hạn chế lớn cho quá trình thi hành án nói

chung và thi hành án treo nói riêng.

Trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về việc phải có mặt của

người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo nếu người đó là người dưới 18

tuổi, nhưng thực tiễn một số địa phương các cơ quan thi hành án lại không triệu tập

người đại diện của người được hưởng án treo nên hoạt động lập hồ sơ thi hành án

không đúng theo quy định của pháp luật. Từ đó dẫn đến việc hủy bỏ và phải thực hiện

lại các thủ tục thi hành án làm cho việc thi hành án bị chậm trễ, ảnh hưởng đến chất

lượng thi hành án. Ngoài ra, có trường hợp người được hưởng án treo có nhược điểm

về thể chất hoặc tâm thần nhưng Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định về

việc phải có người đại diện của người được hưởng án treo dẫn đến thực tiễn áp dụng

gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người được hưởng án

treo, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục người được hưởng án treo. Đồng thời, việc

luật chỉ quy định triệu tập người đại diện của người được hưởng án treo nhưng lại

không quy định cụ thể những quyền mà họ có cũng như những nghĩa vụ mà họ phải

thực hiện. Hơn thế nữa, không có bất cứ quy định mang tính pháp lý, ràng buộc nào đối

với người đại diện của người được hưởng án treo nếu người này có hành vi cố tình

không có mặt tại buổi triệu tập của Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp

huyện hoặc trong buổi kiểm điểm người chấp hành án. Điều này có thể ảnh hưởng đến

hoạt động thi hành án hình sự, thậm chí là không thể thực hiện được. [28]

2.1.4. Thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp

xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo

Trong quá trình tổ chức thi hành án treo thời gian qua, việc chấp hành quy định

về thủ tục, giám sát và giáo dục người được hưởng án treo tại các địa phương cơ bản

được bảo đảm. Phần lớn UBND cấp xã sau khi tiếp nhận hồ sơ thi hành án từ cơ quan

51

Công an cấp huyện đã lập hồ sơ và tiến hành phân công người trực tiếp giám sát, giáo

dục người được hưởng án treo theo quy định, định kỳ theo quy định nhận xét bằng văn

bản về quá trình chấp hành án của họ. Qua quá trình giám sát và giáo dục, một số

UBND cấp xã cũng đã làm tốt công tác lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem

xét việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo chấp hành tốt

nghĩa vụ thi hành án. Một số địa phương đã tổ chức các biện pháp giáo dục, phòng

ngừa phạm tội mới, thông qua việc thường xuyên gặp gỡ các đối tượng nhằm kịp thời

phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể nói, Ủy ban nhân dân cấp

xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục cùng với Cơ quan thi hành án hình sự thuộc

Công an cấp huyện là các mắt xích quan trọng nhất trong quá trình hiện thực hóa các

quy định pháp luật về thi hành án treo trong thực tế và giám sát, giáo dục được người

được hưởng án treo một cách sâu sát trong quá trình họ chấp hành án treo.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và những kết quả đã đạt được trong

thời gian qua thì công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của Ủy ban

nhân dân cấp xã còn nhiều thiếu sót, tồn tại. Một số UBND cấp xã đã không thực hiện

tốt những nhiệm vụ cũng như sử dụng hiệu quả và hợp lý những quyền hạn mà pháp

luật quy định [28]. Vẫn còn một số Ủy ban nhân dân chưa thực sự quan tâm thực hiện

nghiêm chỉnh trình tự, thủ tục thi hành án treo từ đó làm ảnh hưởng việc thi hành án.

Vì vậy, đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả của việc giáo dục, răn đe và phòng ngừa

tội phạm trong thi hành án hình sự. Các vi phạm này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, sau khi tiếp nhận hồ sơ thi hành án treo từ cơ quan thi hành án hình sự

Công an cấp huyện, một số UBND cấp xã chưa triển khai ngay việc tổ chức giám sát,

giáo dục người được hưởng án treo mà để một thời gian dài sau đó mới thực hiện. Có

những trường hợp sau khi tiếp nhận hồ sơ đã để mặc đó, không có hoạt động gì, chỉ

đến khi hết thời gian thử thách thì mới làm các thủ tục để hợp lý hoá hồ sơ đề nghị cấp

giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách cho người được hưởng án treo.

Những sai phạm này đã vi phạm quy định tại Điều 19, Điều 86 Luật THAHS năm 2019

52

về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong thi hành án hình sự nói chung và thi

hành án treo nói riêng.

UBND cấp xã chưa xây dựng được kế hoạch giám sát, giáo dục cụ thể đối với

người thi hành án treo tại địa phương; chưa có biện pháp phối hợp với gia đình cũng

như các tổ chức khác để giám sát, giáo dục có hiệu quả người được hưởng án treo (Hồ

sơ thi hành án treo Nguyễn Văn Hào, phạm tội Trộm cắp tài sản, thời gian thử thách từ

ngày 20/5/2016 đến ngày 19/01/2018); chưa yêu cầu người được hưởng án treo thực

hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và cũng không có biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi

họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Việc không thường xuyên giám sát, giáo dục dẫn

đến tình trạng UBND cấp xã không nắm được quá trình tự cải tạo của người được

hưởng án treo. Vì vậy, việc kiểm điểm hay biểu dương khen thưởng thưởng không

được tiến hành trên thực tế. Điều này cũng làm cho người được hưởng án treo không

có thái độ nghiêm túc trong quá trình chấp hành án tại địa phương.

Thứ hai, việc mở sổ sách theo dõi thi hành án và việc ghi chép cập nhật, quản lý

người được hưởng án treo ở một số UBND cấp xã chưa nghiêm túc, còn nhiều thiếu sót

như không ghi đầy đủ các cột mục, ghi sai thông tin. Nhiều đơn vị vẫn còn sử dụng

mẫu cũ hoặc sổ tự chế để theo dõi chưa đúng theo mẫu quy định tại Thông tư

63/2011/TT-BCA ngày 07/09/2011 của Bộ Công an về quy định các loại biểu mẫu, sổ

sách công tác THAHS [2].

Ở một số UBND cấp xã, hồ sơ quản lý còn lộn xộn, không tách riêng tài liệu của

từng người được hưởng án treo, hồ sơ không có bìa, không đánh số bút lục, không có

bảng kê tài liệu…(hồ sơ thi hành án treo Nguyễn Văn Điều, phạm tội Sản xuất, tàng

trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thời gian thử thách từ ngày 22/4/2015 đến ngày

22/4/2017).

Thứ ba, trong quá trình chấp hành án treo, người được hưởng án treo tự ý bỏ đi

khỏi nơi cư trú, hoặc có xin phép chính quyền địa phương vắng mặt tại địa phương

nhưng sau đó không trở về nữa, về phía gia đình và chính quyền địa phương cũng

53

không biết người được hưởng án treo đang làm gì, ở đâu, do đó hồ sơ thi hành án treo

do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý không thể tiếp tục thi hành được.

Có một số trường hợp người chấp hành án đã hết thời gian thử thách nhưng vẫn

triệu tập để làm bản tự nhận xét.

Thứ tư, việc phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án

treo nếu không phù hợp và người đó không nắm rõ những quy định về pháp luật về thi

hành án nói riêng và pháp luật hình sự nói chung có thể gây phương hại đến quyền và

lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo đồng thời làm cho mục đích ban đầu

của việc thi hành án treo không được đảm bảo. Một số trường hợp khi phân công người

trực tiếp giám sát, giáo dục, UBND cấp xã không ra quyết định phân công hoặc chậm

ra quyết định phân công (hồ sơ thi hành án treo Trần Hữu Thọ, phạm tội Đánh bạc,

thời gian thử thách từ ngày 01/6/2015 đến ngày 01/6/2018); không lập hoặc chậm

chuyển hồ sơ cho người hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú, từ chối lập hồ sơ đề

nghị xem xét rút ngắn thời gian thử thách;... Ngoài ra, sự quản lý lỏng lẽo, chỉ mang

tính hình thức của bản thân cán bộ được phân công quản lý, giám sát người chấp hành

án nói riêng và Ủy ban nhân dân có thẩm quyền nói chung đã khiến cho việc quản lý

không đạt được hiệu quả như mong muốn của các nhà làm luật. Từ đó khiến cho tình

trạng người được hưởng treo thường xuyên vắng mặt, đi khỏi nơi cư trú mà không có

sự cho phép và không có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã. Chính vì sự

quản lý lỏng lẽo đó khiến việc pháp luật có quy định cho Ủy ban nhân dân cấp xã có

thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chỉ là quyền mang tính chất hình thức chứ

không phải là quyền thực chất.

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân cấp xã cơ bản chưa chủ động trong việc đào tạo

nghề, giới thiệu việc làm cho người được hưởng án treo trong trường hợp người được

hưởng án treo không có công ăn việc làm. Trường hợp không có công việc ổn định

cũng có thể là nguyên nhân khiến cho người chấp hành phạm tội hoặc tái phạm tội, khó

khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã cần chủ

54

động hơn trong việc đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho người được hưởng án treo để

họ có thể kiếm thêm thu nhập, vượt qua mặc cảm và dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ năm, việc bàn giao hồ sơ thi hành án cho Cơ quan thi hành án Công an cấp

huyện để cấp giấy chứng nhận cho những trường hợp người được hưởng án treo đã

chấp hành xong thời gian thử thách ở một số UBND cấp xã còn chậm, thời gian chấp

hành án đã hết từ lâu nhưng vẫn chưa bàn giao hồ sơ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích của người được hưởng án treo. Có trường hợp cấp giấy chứng nhận đã chấp hành

xong thời gian thử thách cho người được hưởng án treo chậm hơn một năm.

Tóm lại, mặc dù có những hạn chế nhất định trong quá trình thi hành án nhưng

không thể phủ nhận được những vai trò, tác động to lớn của Ủy ban nhân dân cấp xã

được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát người được hưởng án treo. Để Ủy ban nhân dân

cấp xã có thể hoàn thành một cách hoàn toàn và triệt để những nhiệm vụ mà mình được

giao trong quá trình thi hành án hình sự trong lĩnh vực án treo thì không thể không

nhắc đến vai trò tham mưu của Công an cấp xã. Trên thực tế, Công an cấp xã vừa tham

mưu, vừa có thể được phân công trực tiếp tổ chức giám sát, giáo dục người được

hưởng án treo tại địa phương. Mặc dù có khá nhiều hạn chế về lực lượng, phương tiện,

điều kiện, công việc áp lực,… nhưng lực lượng Công an cấp xã cũng đã thường xuyên,

nhanh chóng nắm bắt tình hình chấp hành án treo, chấp hành pháp luật, thái độ, tình

trạng sinh hoạt và làm việc của người được hưởng án treo. Để từ đó có thể tạo được

những điều kiện tốt nhất để người được hưởng án treo có thể nhanh chóng hòa nhập

với cộng đồng, tránh tình trạng tái phạm và có ý thức phấn đấu vươn lên góp phần

nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án treo. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những

trường hợp chưa thực hiện tốt trách nhiệm tham mưu, kịp thời đề xuất những giải pháp

quản lý giáo dục người chấp hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc có trường hợp

Ủy ban nhân dân cấp xã phó mặc cho Công an xã.

2.1.5. Thực trạng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án

treo

55

Thứ nhất, về phía người được hưởng án treo

Nhìn chung, trong quá trình tổ chức thi hành án treo, người được hưởng án treo

đã tự giác chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ cũng như cam kết của mình trong việc

tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư

trú, làm việc; tích cực trong việc tham gia lao động, học tập, có đủ điều kiện để được

xem xét rút ngắn thời gian thử xách theo quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều lý

do khách quan và chủ quan dẫn đến vẫn còn tồn tại khá nhiều trường hợp như sau:

Người được hưởng án treo cố ý nhiều lần vi phạm nghĩa vụ chấp hành án quy

định tại Điều 87 Luật THAHS năm 2019 (trước đây là Điều 64 Luật THAHS năm

2010), đã được Ủy ban nhân dân cấp xã, người được phân công giám sát giáo dục,

nhắc nhở nhưng người được hưởng án treo vẫn tiếp tục không chấp hành nghĩa vụ thi

hành án như: Chống đối cán bộ giám sát giáo dục, không viết, không nộp bản tự nhận

xét, không có mặt ở cuộc họp kiểm điểm tại cộng đồng dân cư nơi người được hưởng

án treo cư trú, không chấp hành các quy định của địa phương nơi cư trú…

Người được hưởng án treo chưa tự giác, tích cực lao động, không chủ động học

nghề hay tìm kiếm việc làm. Mặt khác, các cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án

treo đang làm việc thường không thiện chí đối với người đang chấp hành án treo nên có

nhiều trường hợp đã cắt hợp đồng, buộc thôi việc khi bị kết án hoặc không nhận người

đang được hưởng án treo vào làm việc gây khó khăn trong việc đảm bảo quyền lợi

cũng như giáo dục người được hưởng án treo.

Thứ hai, về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm các

quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo.

Các cơ quan có thẩm quyền về cơ bản đã thực hiện tốt các quy định của pháp

luật trong việc đảm bảo các quyền, lợi ích cho người được hưởng án treo trong thời

gian thử thách. Các cơ quan có thẩm quyền đã chủ động, sáng tạo trong việc giới thiệu

việc làm cho người được hưởng án treo, lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách

cho người được hưởng án treo khi họ đủ điều kiện luật định.

56

Việc làm thủ tục giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi

cư trú còn nhiều lúng túng và chưa đảm bảo thời hạn luật định.

Việc tạo điều kiện cho người được hưởng án treo tìm việc làm còn chưa khả thi.

Bên cạnh đó còn có bất cập về căn cứ pháp luật cũng như chưa có sự thống nhất

về nhận thức áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan pháp luật khi

thực hiện nhiệm vụ.

2.1.6. Thực trạng việc thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách

Việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo trong thời

gian qua đã được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo

kịp thời quyền lợi của người chấp hành án, cũng như góp phần khuyến khích động viên

người chấp hành án tích cực học tập, lao động, lập công để được hưởng chính sách

nhân đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, việc lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách

cho người được hưởng án treo còn chậm hoặc chưa đúng luật định, hàng năm số người

được hưởng án treo được rút ngắn thời gian thử thách còn ít, có một số trường hợp do

không nắm được quá trình tự cải tạo của họ nên việc xem xét rút ngắn thời gian thử

thách không được tiến hành thường xuyên, có địa phương trong nhiều năm liền không

có trường hợp nào được rút ngắn thời gian thử thách nên chưa khuyến khích và động

viên người được hưởng án treo tích cực cải tạo cũng như nêu gương cho những người

khác.

Bên cạnh đó, trên thực tế vẫn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp

dụng các quy định của pháp luật về thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người được

hưởng án treo, cụ thể:

Đối với Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện: một số trường hợp đề

nghị rút ngắn thời gian thử thách không đúng quy định như chưa chấp hành đủ thời

gian thử thách, người chấp hành án chưa chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ cam kết

trong thời gian chấp hành án, người được hưởng án treo chưa chấp hành xong hình

57

phạt bổ sung; một số trường hợp đề nghị rút ngắn thời gian thử thách vượt quá thời hạn

pháp luật quy định.

Đối với Tòa án: một số trường hợp Tòa án rút quá thời gian thử thách (thời gian

thử thách được rút ngắn vượt quá thời gian thử thách); có trường hợp thời gian thử

thách được rút ngắn còn dài hơn thời gian thử thách còn lại; có trường hợp thành phần

tham gia rút ngắn thời gian thử thách của án treo không đúng quy định của pháp luật.

2.1.7. Thực trạng việc giải quyết trường hợp người chấp hành án treo vắng mặt

tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc

Để tạo điều kiện cho người chấp hành án treo giáo dục, cải tạo để trở thành

người có ích cho xã hội, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định chặt chẽ về

việc giải quyết trường hợp người chấp hành án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc.

Điều này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc thực hiện vấn đề này trên thực tiễn

nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người chấp hành án. Trong những năm qua

các chủ thể có thẩm quyền đã thực hiện tốt việc thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc cho

người chấp hành án. Hồ sơ giải quyết được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, sự phối

hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động này chặt chẽ, nhịp nhàng đảm

bảo hiệu quả của hoạt động này trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh việc giải quyết cho

người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc vẫn còn những hạn chế,

vướng mắc nhất định. Chẳng hạn: một số trường hợp người được hưởng án treo muốn

thay đổi nơi cư trú đã thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo

dục nhưng các chủ thể này chậm thông báo, đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự công

an cấp huyện để làm hồ sơ, thủ tục thay đổi. Đối với người được hưởng án treo, khi

Toà án ra quyết định thi hành án và chuyển kèm theo bản án đến Cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp huyện để thi hành nhưng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp

huyện không thể thực hiện việc triệu tập người được hưởng án treo đến làm các thủ tục

cần thiết theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật THAHS năm 2019, vì người được

hưởng án treo không có mặt tại địa phương, chính quyền địa phương cũng như gia đình

58

không biết người được hưởng án treo đi đâu, làm gì. Đây là một trong những vướng

mắc, gây lúng tung cho các cơ quan chức năng trong quá trình thi hành Luật THAHS

hiện nay, dẫn đến bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án không được thi hành

trong thực tế, pháp chế bị xâm hại và làm cho hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp

luật bị giảm sút.

2.1.8. Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ

chức và gia đình người được hưởng án treo

Như chúng ta đã biết, vai trò của cơ quan, tổ chức và gia đình là không thể phủ

nhận được trong quá trình giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc phối hợp

giữa gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người đó đang làm việc thể hiện tư duy pháp lý

độc đáo của các nhà làm luật. Sở dĩ nói như vậy là vì giám sát và giáo dục người được

hưởng án treo thôi là chưa đủ mà còn phải quan tâm, phối hợp với những người thân,

cơ quan và tổ chức có liên hệ mật thiết với người được hưởng án treo để từ đó có thể

có sự gắn kết và dễ dàng trao đổi tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người được

hưởng án treo. Đó chính là một trong những tiền đề quan trọng để người được hưởng

án treo có thể tái hoà nhập với cộng đồng và giảm thiểu nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên,

đây cũng chỉ là những quy định rất khó thực hiện vì việc UBND cấp xã phối hợp với

gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người được hưởng án treo làm việc dường như là

không có, nếu có cũng chỉ là mang tính chất hình thức mà không có thực chất.

Bên cạnh đó, vẫn tồn tại rất nhiều trường hợp người được hưởng án treo chịu

những tác động xấu, tiêu cực ngay từ phía gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người đó

làm việc nhưng không có sự quan tâm cần thiết của Ủy ban nhân dân cấp xã, người

được phân công trực tiếp giám sát, theo dõi, giáo dục. Nhiều trường hợp, cả Ủy ban

nhân dân cấp xã, người được trực tiếp phân công quản lý, gia đình, cơ quan và tổ chức

nơi người đó làm việc đều không quan tâm trong quá trình giám sát, theo dõi khiến cho

người được hưởng án treo dễ rơi vào tình trạng tái phạm.

59

Ngoài những hạn chế đã phân tích ở trên, trong thời gian qua trên thực tiễn còn

xảy ra những sự kiện pháp lý liên quan đến hoạt động thi hành án treo nhưng chưa có

quy định điều chỉnh của pháp luật dẫn đến thực tiễn áp dụng gặp lúng túng, vướng

mắc.

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thi hành án treo trên

địa bàn tỉnh Tây Ninh

Trong thời gian qua, quá trình thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo

nói riêng diễn ra khá hiệu quả, theo đúng trình tự, thủ tục luật định và đang đi đúng với

những mục đích và yêu cầu mà Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những

thực trạng, hạn chế vẫn còn tồn tại trong quá trình thi hành án treo. Theo quan điểm

của tác giả, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp

luật về thi hành án treo như đã phân tích ở trên bao gồm các nguyên nhân sau đây:

2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật về thi hành án treo

Như đã phân tích lồng ghép trong nội dung về quy định của Luật Thi hành án

hình sự và thực trạng áp dụng quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án

treo. Chất lượng công tác thi hành án treo tại địa phương có hiệu quả hay không phụ

thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt động của người được phân công trực tiếp giám sát, giáo

dục người được hưởng án treo. Nếu họ nắm bắt được quá trình thi hành án của người

được hưởng án treo và tham mưu cho UBND cấp xã có kế hoạch giám sát, giáo dục

hiệu quả thì chất lượng công tác thi hành án treo được nâng cao. Trong thời gian qua,

việc phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo ở một số

địa phương trên địa bàn tỉnh cũng đã mang lại nhiều kết quả nhất định. Một số người

được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục đã theo dõi, nhắc nhở và giúp đỡ người

được hưởng án treo trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, tích cực tham gia lao

động sản xuất. Tuy nhiên, một số quy định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019

60

về thi hành án treo còn chưa rõ ràng cụ thể hoặc chưa đầy đủ, dẫn đến thực tiễn áp

dụng còn gặp nhiều lúng túng, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thi hành án cụ

thể:

Thứ nhất, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về ra quyết định thi hành án

treo.

Việc ra quyết định thi hành án treo hiện nay nằm rải rác ở nhiều văn bản khác

nhau, chưa có quy định thống nhất dẫn đến khó khăn trong thực tiễn ra quyết định,

cũng như gây khó khăn cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giám sát hoạt

động ra quyết định thi hành án treo. Hơn nữa một số văn bản hướng dẫn cho BLTTHS

năm 2003 hoặc Luật THAHS năm 2010 nên về nguyên tắc đã hết hiệu lực thi hành.

Thứ hai, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về người đại diện của người

được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi.

Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định về việc phải có người đại

diện của người được hưởng án treo trong trường hợp người được hưởng án treo có

nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng

của người được hưởng án treo, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục người được hưởng

án treo. Mặt khác, luật chỉ quy định triệu tập người đại diện của người được hưởng án

treo nhưng lại không quy định cụ thể những quyền mà họ có cũng như những nghĩa vụ

mà họ phải thực hiện. Điều này làm cho quy định về sự có mặt của người đại diện hợp

pháp mang tính hình thức và chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của người đại

diện hợp pháp trong việc giáo dục, cải tạo người chấp hành án treo.

Thứ ba, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về bảo đảm cơ sở vật chất phục

vụ hoạt động thi hành án hình sự

Pháp luật thi hành án hình sự chưa quy định chế độ phụ cấp, đãi ngộ đối với

những người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Hiện nay, theo Điều 171 Luật THAHS năm 2019 khi quy định về “Bảo đảm cơ sở vật

chất phục vụ hoạt động thi hành án hình sự” thì căn cứ yêu cầu công tác thi hành án

61

hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ sở vật

chất của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm đất

đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao thông,

thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất, kỹ thuật khác; ưu tiên

bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đặc biệt

khó khăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong khi đó,

UBND cấp xã theo quy định của Luật THAHS năm 2019 là cơ quan được giao một số

nhiệm vụ thi hành án hình sự, trực tiếp tổ chức công tác thi hành án treo và cải tạo

không giam giữ trực tiếp tại địa phương nhưng lại không được bảo đảm cơ sở vật chất

phục vụ hoạt động thi hành án hình sự của mình. Vì vậy, người được phân công trực

tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cũng không có chế độ bồi dưỡng,

phụ cấp tương xứng nên thiếu tâm huyết trong việc thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, hoạt

động giám sát, giáo dục của người được phân công trực tiếp làm nhiệm vụ này chỉ

mang tính hình thức, không phát huy được hiệu quả trên thực tế.

Thứ tư, Luật Thi hành án hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có

quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể của người được phân công trực tiếp

giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Điều này dẫn đến việc giám sát, giáo dục

mang tính hình thức, không hiệu quả. Luật cũng chưa quy định về trách nhiệm pháp lý

đối với người được phân công trực tiếp quản lý, giám sát giáo dục người được hưởng

án treo cũng như về phía Ủy ban nhân dân cấp xã trong trường hợp người thi hành án

treo vi phạm nghĩa vụ thi hành án. Bên cạnh đó, Luật cũng chưa quy định rõ về phụ

cấp, chế độ đãi ngộ, chính sách, quyền lợi cụ thể đối với đội ngũ cán bộ làm công tác

quản lý, theo dõi, tham mưu và được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người

được hưởng án treo nên chưa khuyến khích họ tích cực nhiệt tình trong công việc.

2.2.2. Các nguyên nhân khác

Hiện nay, nhiệm vụ và quyền hạn của người được phân công trực tiếp giám sát,

giáo dục người được hưởng án treo được quy định tại Điều 9 Nghị định số

62

61/2000/NĐ-CP quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhưng qua thực

tiễn tại UBND cấp xã trong thời gian qua, đa số các UBND cấp xã; lực lượng công an

cấp xã và ngay cả lực lượng công an chuyên nghiệp làm việc tại cơ quan thi hành án

hình sự Công an cấp huyện đều cho rằng nghị định trên đã không còn hiệu lực áp dụng

khi Luật THAHS năm 2019 được ban hành, do đó các quy định tại Nghị định trên

không còn được áp dụng trên thực tế. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của người

được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tại Nghị định

trên sẽ không tạo ra sự thống nhất và hiệu quả cao trong việc áp dụng pháp luật so với

việc quy định trong Luật THAHS năm 2019.

Tại một số huyện có địa bàn hành chính rộng như huyện Tân Châu, Tân Biên,

Châu Thành, số lượng người chấp hành án treo đến năm 2019 tương đối tăng, do đó

lực lượng Công an cấp xã gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt tình hình chấp hành

án của người được hưởng án treo. Vì vậy, công tác tham mưu của lực lượng công an xã

còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động giám sát, giáo

dục người được hưởng án treo của UBND cấp xã.

Một số quy định của Luật Thi hành án hình sự quy định về quyền của người

được hưởng án treo chỉ mang tính chất chung chung, khẩu hiệu bởi vì việc đảm bảo

thực hiện các quyền này không có bất kỳ cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo cho quy định

đó được thực hiện. Chẳng hạn như người được hưởng án treo được Ủy ban nhân dân

cấp xã tạo điều kiện tìm việc làm nhưng trên thực tế quy định này rất khó thực hiện bởi

không có cơ chế nào ràng buộc về tính bắt buộc của quy định này.

Đối với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và gia đình người được hưởng án

treo, luật thi hành án hình sự cũng chưa quy định một biện pháp nào mang tính ràng

buộc pháp lý cụ thể để đảm bảo cho cơ quan, tổ chức và gia đình phía người được

hưởng án treo thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình theo luật định. Từ đó dẫn

đến việc làm ảnh hưởng tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả đã đề ra với mục

đích thi hành án treo.

63

- Về phía người có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo.

Nhìn chung người có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo đã phát huy

tốt tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng đắn, đầy đủ quy định của pháp Luật Thi hành

án hình sự, đảm bảo tốt hiệu quả thi hành án. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận người có

thẩm quyền chưa làm hết tinh thần trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế dẫn đến không thực hiện đúng đắn, kịp

thời việc tổ chức thi hành và thi hành án treo, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp

của người chấp hành án. Đặc biệt là các cán bộ trong Ủy ban nhân dân cấp xã được

phân công thường kiêm nhiệm việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong

khi khối lượng công việc nhiều, lại không được đào tạo chuyên sâu về công tác thi

hành án hình sự nói chung và thi hành án án treo nói riêng nên không thể tránh khỏi

những vi phạm sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, việc giám sát, giáo

dục người được hưởng án treo đòi hỏi người được phân công làm nhiệm vụ này phải có

những kiến thức, kỹ năng nhất định về nghiệp vụ công tác thi hành án treo. Theo quy

định tại khoản 2, Điều 170 Luật THAHS năm 2019 thì “Người làm công tác thi hành

án hình sự phải được đào tạo, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng pháp luật

phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao” [25], thực tế những người được phân

công giám sát, giáo dục người được hưởng án treo chưa được quan tâm, đầu tư tập

huấn nghiệp vụ về thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng. Việc

phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục hiện nay chỉ tồn tại trên hồ sơ khi người

được phân công này không có hoạt động giám sát, giáo dục nào trên thực tế vì họ

không biết công việc cụ thể phải làm gì và làm như thế nào, có chăng chỉ là theo dõi

xem người được hưởng án treo hiện nay có hay vắng mặt ở địa phương hay không để

báo cáo UBND cấp xã khi có yêu cầu hoặc khi có kiểm tra, kiểm sát. Việc người trực

tiếp giám sát, giáo dục buông lỏng hoạt động giám sát, giáo dục người được hưởng án

treo đã dẫn đến tình trạng người được hưởng án treo không tự giác chấp hành nghĩa vụ

thi hành án, coi thường pháp luật, trật tự kỷ cương nên có một số trường hợp lại tiếp

64

tục phạm tội, phải xử lý theo quy định của pháp luật. Cuối cùng, giao nhiệm vụ giám

sát, giáo dục cho cán bộ trong Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không có bồi dưỡng

pháp luật phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

- Về phía người được hưởng án treo.

Nhiều người ý thức chấp hành pháp luật còn thấp, trình độ văn hóa, trình độ

nhận thức còn hạn chế nên không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết. Thực tiễn

cho thấy có một số người được hưởng án treo không hiểu rõ bản chất của hoạt động

chấp hành án nên họ có tâm lý coi án treo không phải là bị kết án hoặc biết bản thân

đang phải chấp hành án treo nhưng có thái độ chống đối, bất cần, coi thường pháp luật,

coi thường người giám sát, giáo dục hoặc cố ý trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ

chấp hành án, dẫn đến tình trạng chấp hành án mang tính hình thức, không có giá trị,

hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, không có giá trị cải tạo đối với người chấp hành án.

- Về công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát trong quá trình thi hành án treo.

Các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án

hình sự và chính quyền địa phương còn thiếu sự quan tâm đúng mực, chưa làm hết

trách nhiệm và thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với nhau để đạt hiệu quả trong thi

hành án treo. Đặc biệt là sự phối hợp của Ủy ban nhân dân cấp xã với người được phân

công nhiệm vụ giám sát, giáo dục và với cơ quan, tổ chức và gia đình người được

hưởng án có phần lỏng lẽo, rời rạc và chỉ mang tính luật định, không thực chất.

- Về điều kiện cơ sở vật chất.

Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thi hành án treo còn

chưa được trang bị đồng bộ, hiệu quả, còn nhiều hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ

thông tin trong hoạt động quản lý hồ sơ, sổ sách về thi hành án treo còn chưa được

quan tâm, đầu tư đúng mức.

- Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

65

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao trình độ, nhận thức

pháp luật và ý thức pháp luật liên quan đến thi hành án treo chưa được quan tâm và

chưa được thực hiện một cách liên tục. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng chưa có những

chương trình, hoạt động xã hội để giúp thay đổi những định kiến của cộng đồng, xã hội

đối với người đã và đang chấp hành án treo.

Nhìn chung, trong những năm gần đây, xu hướng tuyên phạt án treo có chiều

hướng tăng lên nên vấn đề đặt ra là cần phải bảo đảm cho quản lý và giám sát, giáo dục

các đối tượng có thể được diễn ra một cách hiệu quả, đúng với mục đích ban đầu đề ra.

Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy được những hạn chế trong quá trình thi hành án treo.

Chính vì vậy, đã phần nào làm giảm đi tính răn đe, giáo dục của biện pháp này. Từ

thực trạng này, cần phải có các giải pháp, biện pháp thích hợp nhằm tuyên truyền, phổ

biến pháp luật một cách có hiệu quả nhằm loại bỏ những định kiến của xã hội đối với

người chấp hành án treo, đảm bảo cho việc thi hành án treo được diễn ra có hiệu quả

trên thực tế.

2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây

Ninh

2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành án treo

Thứ nhất, hoàn thiện quy định về việc ra quyết định thi hành án treo

Việc ra quyết định thi hành án treo hiện nay nằm rải rác ở nhiều văn bản khác

nhau như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự và văn bản dưới luật

hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao dẫn đến khó khăn trong

thực tiễn ra quyết định. Vì vậy, tác giả kiến nghị cần bổ sung quy định cụ thể về việc ra

quyết định thi hành án treo nói riêng và các loại án nói chung chi tiết, cụ thể trong

Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Luật Thi hành án năm 2019 chưa quy định cụ thể về trường hợp Ủy thác ra

quyết định thi hành án. Vấn đề này được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và

được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP nhưng trong Nghị quyết số

66

02/2007/NQ-HĐTP cũng chưa quy định rõ hồ sơ ủy thác thi hành án treo gửi cho Tòa

án khác cùng cấp bao gồm các tài liệu, giấy tờ gì dẫn đến việc áp dụng không thống

nhất trên thực tế. Ủy thác thi hành án là một nội dung quan trọng nhưng mới chỉ được

hướng dẫn trong Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP.

Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 84 Luật THAHS năm 2019 theo hướng như

sau: quy định cụ thể Chánh án Tòa án đã xét xử sở thẩm ra quyết định thi hành án

hoặc Ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Đồng thời quy định

cụ thể trường hợp nào thì phải ủy thác, quy định cụ thể về hồ sơ ủy thác thi hành án

bao gồm những tài liệu, giấy tờ gì để đảm bảo thống nhất, thuận lợi trong thực tiễn áp

dụng.

Thứ hai, hoàn thiện quy định về người đại diện của người được hưởng án treo

là người dưới 18 tuổi.

Luật THAHS năm 2019 cần bổ sung quy định về việc phải có người đại diện

hợp pháp của người được hưởng án treo trong trường hợp người được hưởng án treo có

nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần để đảm bảo quyền lợi của người được hưởng án

treo, đảm bảo chất lượng giáo dục của người được hưởng án treo.

Trường hợp người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo cố ý không

có mặt tại buổi triệu tập của Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp huyện thì

các cơ quan này được quyền dẫn giải họ để đảm bảo việc thi hành án.

Luật THAHS năm 2019 cần nghiên cứu để bổ sung một Điều luật quy định cụ

thể quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là

người dưới 18 tuổi và người có nhược điểm và thể chất, tâm thần nhằm đảm quyền lợi

cho người chấp hành án, cũng như để người đại diện có thể thực hiện tốt vai trò, trách

nhiệm của mình. Cụ thể: “Người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là

người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần phải ký xác định

vào các biên bản cam kết hoặc các biên bản liên quan như bản tự nhận xét hàng

tháng..”. Điều này làm cho quy định về người đại diện hợp pháp mang tính thực chất

67

và góp phần phát huy vai trò, trách nhiệm của người đại diện hợp pháp trong việc giáo

dục, cải tạo người được hưởng án treo.

Thứ ba, Luật THAHS năm 2019 đã giao cho UBND cấp xã trực tiếp giám sát,

giáo dục người chấp hành án treo nhưng ngân sách chi cho công tác thi hành án treo

của UBND cấp xã chưa được cấp; chưa có chế độ, định mức để chi bồi dưỡng cho cán

bộ làm công tác này, nhất là lực lượng Công an xã và những người được giao trực tiếp

giám sát, giáo dục bị án trong khi đó tiền lương, tiền công của cán bộ xã rất thấp nên

chưa góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án treo tại địa phương. Vì vậy, để

công tác thi hành án treo ở UBND cấp xã đi vào khuôn khổ và thực chất, góp phần tích

cực vào việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của

công tác thi hành án treo thiết nghĩ cần sửa đổi, bổ sung Điều 171 Luật THAHS năm

2019 theo hướng như sau:

“Căn cứ yêu cầu công tác thi hành án hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện

kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất của cơ quan quản lý thi hành án

hình sự, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành

án hình sự bao gồm đất đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ,

phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất,

kỹ thuật khác; ưu tiên bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa,

miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc gia, trật tự, an

toàn xã hội”.

Thứ tư, Luật THAHS năm 2019 cần bổ sung Điều luật quy định nhằm tăng

cường lực lượng cơ sở, đặc biệt là Công an chính quy được đưa về xã để bổ sung vào

lực lượng thi hành án nói chung của các thiết chế thi hành án hình sự hiện nay, nhằm

xây dựng mạng lưới các tổ chức thiết chế nhà nước và phi nhà nước trong tổ chức thi

hành án hình sự. Nên xem án treo không chỉ phụ thuốc vào thiết chế nhà nước mà cần

huy động các thiết chế xã hội và phi xã hội

68

2.3.2. Các giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh

- Về yếu tố con người trong công tác thi hành án treo.

Đối với Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự: Cần không ngừng

nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các

cán bộ làm công tác thi hành án treo. Bố trí một số cán bộ chuyên trách làm công tác

thi hành án treo. Việc phân công một cán bộ chuyên trách như vậy để việc kiểm tra,

giám sát, thực hiện các các hoạt động thi hành án treo không bị trì trệ, đảm bảo thống

nhất, hiệu quả vì lý do chồng chéo, kiêm nhiệm trong nhiệm vụ của các cán bộ trong

các cơ quan trên. Ngoài ra, việc phân công một cán bộ chuyên trách như vậy sẽ đảm

bảo được sự theo sát trong công tác kiểm tra, giám sát và từ đó cán bộ được phân công

có thể kịp thời tham mưu, đưa ra những kiến nghị cho các cơ quan có thẩm quyền để ra

các quyết định và tiến hành các thủ tục theo quy định, theo dõi sát quá trình tổ chức thi

hành án đối với người bị kết án treo. Theo quan điểm của tác giả, cần có quy định một

số phụ cấp cần thiết cho cán bộ được phân công phụ trách công tác thi hành án treo.

Đồng thời, quyền lợi phải đi kèm với nghĩa vụ nên cần phải quy định những trách

nhiệm cá nhân phù hợp để đảm bảo tinh thần trách nhiệm của cán bộ được phân công.

Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã: Đây được xem là cơ quan có vai trò quan

trọng trong quá trình thi hành án treo vì đây là cơ quan trực tiếp nhận quyết định thi

hành án treo và giám sát việc thi hành án treo tại chính quyền địa phương của mình.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như đã phân tích

ở trên. Vì vậy để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giám sát, giáo dục người

được hưởng án treo của UBND cấp xã trong thời gian tới, để sự quản lý, giám sát, giáo

dục người bị kết án đạt kết quả, đòi hỏi phải đề cao trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã và người được phân công trực tiếp quản lý, giám sát, giáo dục người chấp

hành án. Với vai trò quan trọng của Ủy ban nhân dân cấp xã nên cần phải quy định

trách nhiệm ràng buộc đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để đảm bảo cho quá

69

trình thi hành án treo được thực hiện đúng quy định của pháp luật và được giám sát kỹ

lưỡng.

Bên cạnh đó, người được phân công giám sát, giáo dục người được hưởng án

treo theo pháp luật THAHS cần phải quy định những tiêu chuẩn cụ thể đối với người

này, họ phải là những người sống gần với người được hưởng án treo, có trình độ nhận

thức và am hiểu pháp luật nhất định để thực hiện nhiệm vụ khi được phân công, bởi lẽ

người trực tiếp giám sát, giáo dục là người trực tiếp giúp cho người được hưởng án treo

hoà nhập với cộng động, nhận thức được những chuẩn mực của hành vi trong cuộc

sống và những giá trị đạo đức của cộng đồng, họ phải thường xuyên gặp gỡ, hướng dẫn

những chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người chấp hành án để họ

biết được những hành vi trước đây là sai trái, vi phạm pháp luật để không lặp lại. Hơn

nữa, Ủy ban nhân dân cấp xã và người được phân công giám sát, giáo dục cần tích cực

giúp người chấp hành án tìm việc làm ổn định thích hợp, động viên họ tham gia vào

các phong trào đoàn thể tại địa phương nơi mình sinh sống tránh để họ có nhiều thời

gian rảnh rỗi dễ phát sinh các hành vi tiêu cực.

- Về cơ chế phối hợp: Cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và đồng bộ giữa

các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương, gia đình, tổ chức đoàn thể, quần

chúng nhân dân trong việc thi hành án treo nhằm đảm bảo hiệu quả trong suốt quá trình

thi hành án từ chuẩn bị thi hành, thi hành và cả quá trình sau khi chấp hành xong án

treo. Cụ thể các cơ quan này cần ngồi lại với nhau để xây dựng quy chế phối hợp liên

ngành giữa Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, các

Ủy ban nhân dân cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện, giữa Ủy ban nhân

dân cấp xã với gia đình người chấp hành án treo và các đoàn thể ở địa phương.

- Cần nâng cao nhận thức pháp luật cho người được hưởng án treo. Các chủ

thể có thẩm quyền cần trang bị cho người chấp hành án biết được thời gian thử thách là

gì? Nghĩa vụ và quyền lợi của họ trong thời gian thử thách và đặc biệt lưu ý họ về hậu

quả nếu phạm tội trong thời gian thử thách. Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc

70

giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cũng cần đảm bảo các quyền lợi hợp pháp

của họ trong thời gian thử thách.

- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân về án treo. Các cơ quan có

thẩm quyền cần thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho

quần chúng nhân dân trong đó có việc tuyên truyền, phổ biến Luật Thi hành án hình sự

về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật. Triển khai các văn bản pháp luật bằng nhiều hình thức,

giới thiệu văn bản luật theo hướng tăng cường trao đổi, đối thoại, giải đáp những thắc

mắc từ phía người được tuyên truyền nhằm nâng cao tính chủ động tìm hiểu và tiếp cận

kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân.

Tóm lại, để nâng cao hiệu quả áp dụng án treo, tăng cường công tác giám sát,

giáo dục người được hưởng án treo, cán bộ giám sát của Ủy ban nhân dân các phường,

xã, thị trấn cần được tổ chức tập huấn, phổ biến Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về

thi hành án treo. Ủy ban nhân dân thực hiện việc giám sát, giáo dục người cho hưởng

án treo có trách nhiệm nhắc nhở và tạo điều kiện cho họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và

quyền của mình, quan tâm tạo công ăn việc làm phù hợp cho họ, giúp họ hòa nhập với

cuộc sống xã hội, không tái phạm.

71

Tiểu kết Chương 2

Trong phạm vi nghiên cứu trong Chương 2 tác giả tiến hành khảo sát việc áp

dụng các quy định của Luật Thi hành hành án hình sự về thi hành án treo trong thực

tiễn địa bàn tỉnh Tây Ninh. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy nhìn chung

việc thi hành án treo trong thực tiễn được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo, đảm bảo hiệu quả

hoạt động thi hành án treo và góp phần vào thành công của công tác đấu tranh phòng

ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thi hành án

treo cũng gặp phải những hạn chế, vướng mắc từ khâu ra quyết định thi hành án treo

đến việc thi hành quyết định thi hành án treo, cũng như việc giám sát, giáo dục và đảm

bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người được hưởng án treo.

Trên cở sở phát hiện những hạn chế, tồn tại trong hoạt động thi hành án treo

trong thời gian qua. Luận văn đã chỉ ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế

bất cập trên thực tiễn, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn

áp dụng pháp luật về thi hành án treo của các chủ thể có thẩm quyền. Đây là một trong

những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi

hành án treo tại địa phương. Trên cở sở hoàn thiện yếu tố này sẽ giúp cho người được

hưởng án treo tại địa phương tái hòa nhập cộng đồng tốt hơn và thực sự trở thành một

công dân có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, việc người được phân công làm tốt công tác

giám sát, giáo dục của mình cũng sẽ giúp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người được

hưởng án treo cư trú hoàn thành công tác thi hành án treo tại địa phương. Qua đó, góp

phần thực hiện có hiệu quả chính sách nhân đạo trong việc áp dụng pháp luật hình sự

của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

72

PHẦN KẾT LUẬN

Thực hiện đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”, qua nghiên

cứu những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời khảo sát, đánh giá thực tiễn áp

dụng pháp luật về thi hành án hình sự, luận văn phân tích, đánh giá hiệu quả công tác

thi hành án treo trong những năm gần đây, nêu ra những bất cập, hạn chế và xác định

các nguyên nhân. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy

định của pháp luật về công tác thi hành án hình sự nói chung và nâng cao hiệu quả

trong công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của Uỷ ban nhân dân cấp

xã nói riêng. Qua đó có thể kết luận chung như sau:

Thứ nhất, thi hành án treo là một bộ phận của thi hành án hình sự, có vai trò

quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; thể hiện chính sách nhân

đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.

Thứ hai, thi hành án treo là hoạt động hành chính tư pháp có tính chất xã hội,

tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc với nhiều chủ thể tham gia. Trình tự, thủ tục thi hành

án treo cũng tương đối phức tạp, với nhiều công đoạn khác nhau. Mỗi chủ thể tham gia

thi hành án treo có quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ khác nhau song đều có mục

đích chung là giám sát, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ, tạo điều kiện để người bị kết án cải

tạo tốt trong môi trường cuộc sống bình thường, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Thứ ba, hoạt động thi hành án treo có đạt được hiệu quả hay không phụ thuộc

rất lớn vào vai trò giám sát, giáo dục của Uỷ ban nhân dân cấp xã và người được phân

công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Do đó, Luật Thi hành án

hình sự hiện nay phải quy định cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này

cũng như chế độ họ được hưởng khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong công tác thi

hành án treo.

73

Tác giả mong muốn và hi vọng với những kiến nghị mà luận văn đã nêu ra sẽ

giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các nhà làm luật nghiên cứu sửa đổi, bổ

sung quy định của Luật Thi hành án hình sự về tổ chức thi hành án treo; giúp cho Uỷ

ban nhân dân cấp xã, cán bộ làm công tác giám sát, giáo dục người chấp hành án treo ở

các địa phương khắc phục được những khó khăn, vướng mắc thực hiện có hiệu quả

nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Việt Nam.

Với những kiến thức còn hạn chế của tác giả, kết quả của Luận văn khó có thể

tránh khỏi những thiếu sót,với tinh thần thực sự cầu thị, tác giả rất mong nhận được sự

bình luận, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp để bản thân

được hiểu biết thêm và có cơ hội để hoàn thiện tốt hơn những trang viết còn khiếm

khuyết này./.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành

ngày 24/05/2005, Hà Nội,

2. Bộ Công an (2011) Thông tư quy định các loại biểu mẫu, sổ sách về công tác thi hành

án hình sự, ban hành ngày 07/9/2011, Hà Nội.

3. Chính phủ (2014) Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2000 quy định

việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Hà Nội.

4. Công Nhung (2019), “Kiểm tra công tác tại Công an tỉnh Tây Ninh”,

,

(07/11/2019).

5. Dương Sơn Tùng (2017) Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

6. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, (phần chung),

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Đinh Văn Quế (2012) “Tổng hợp hình phạt tù với án treo”, Tạp chí Tòa án nhân

dân, số 09/2012.

8. Huỳnh Văn Út (2013) Án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ

Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

9. Lê Văn Cảm (2019) Giáo trình tư pháp Hình sự, Bộ môn Tư pháp Hình sự-Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Lệ Hà – Phạm Tuân (2013) “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm

sát thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ”,

Tạp chí Kiểm sát, số 23/2013.

11. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2004) Án treo và thi hành án treo tại Thành phố Hồ Chí

Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Thị Minh Thu (2011) “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện quy

định án treo”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2011.

13. Nguyễn Nông (2012) “Một số vấn đề về án treo”, Tạp chí Kiểm sát, số 19/2012.

14. Phương Thuỷ (2019) “Đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm hình sự”,

pham-hinh-su-551851/>, (04/7/2019).

15. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.

16. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.

17. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành

ngày 26/11/2013, Hà Nội.

18. Quốc hội (2010) Luật thi hành án hình sự 2010, ban hành ngày 17/06/2010, Hà Nội.

19. Quốc hội (2019) Luật thi hành án hình sự 2019, ban hành ngày 14/06/2019, Hà Nội.

20. Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh (2019) Báo cáo tổng kết công tác ngành TAND tỉnh

Tây Ninh từ năm 2015 đến năm 2019, Tây Ninh.

21. Toà án nhân dân Tối cao (2007) Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn thi

hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của toà

án” của Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 02/10/2007, Hà Nội.

22. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh (2019) Báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm

sát từ năm 2015 đến năm 2019, Tây Ninh.

23. Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng (2006) Pháp Luật Thi hành án hình sự

Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.