VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
____________
HUỲNH NGỌC BẢO
THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH NGỌC BẢO
THI HÀNH ÁN TREO
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY
Hà Nội, năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ dạy, đóng góp ý kiến, khuyến
khích, giúp đỡ của các quý thầy cô giáo tại Học viện Khoa học Xã hội và bạn bè
cùng khoá.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với TS.
Lê Huỳnh Tấn Duy, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi hoàn thành
Luận văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn vè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và hoàn thành Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”
là công trình nghiên cứu do bản thân tôi tự thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực và chính xác và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Huỳnh Ngọc Bảo
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THI HÀNH ÁN TREO ............................................................................................. 8
1.1. Những vấn đề lý luận về thi hành án treo ................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thi hành án treo ........................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án treo .................................................................... 11
1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án treo ...................................................................... 15
1.1.4. Yêu cầu đối với quy định của pháp luật về thi hành án treo ...................... 16
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo ........................................... 199
1.2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt Nam
............................................................................................................................... 19
1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo .............................. 23
Tiểu Kết Chương 1 .............................................................................................. 42
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH .................................................. 44
2.1. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ........................ 44
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, chính trị và tình hình tội phạm tại tỉnh Tây
Ninh ...................................................................................................................... 44
2.1.2. Thực trạng việc ra quyết định thi hành án treo .......................................... 45
2.1.3. Thực trạng việc thi hành quyết định thi hành án treo ................................ 50
2.1.4. Thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo ................................. 52
2.1.5. Thực trạng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án
treo ........................................................................................................................ 56
2.1.6. Thực trạng việc thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách ................. 57
2.1.7. Thực trạng việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt
tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc ............................................. 58
2.1.8. Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ
chức và gia đình người được hưởng án treo ......................................................... 59
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh ................................................................................................ 60
2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật về thi hành án treo ...................... 61
2.2.2. Nguyên nhân khác ...................................................................................... 63
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
............................................................................................................................... 67
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành án treo ............... 67
2.3.2. Các giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh ............................................................................................................ 69
Tiểu Kết Chương 2 .............................................................................................. 73
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ Công an
BCA
Bộ luật Hình sự
BLHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
BLTTHS
Hội đồng xét xử
HĐXX
Hội đồng thẩm phán
HĐTP
LUẬT THAHS
Luật Thi hành án hình sự
Toà án nhân dân
TAND
Toà án nhân dân Tối cao
TANDTC
Uỷ ban nhân dân
UBND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................................... 48
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh
phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo
được các nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, cá thể hoá hình phạt đối với người
phạm tội, Bộ luật hình sự quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và
có tính phân hoá cao để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội.
Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con
người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích
đó, ngoài việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, trong một
số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần
bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong
thực tiễn đó là án treo.
Chế định án treo trong Luật hình sự nước ta ra đời từ rất sớm, sau khi BLHS
năm 1985 được ban hành thì đã có nhiều ý kiến nên bỏ chế định án treo vì biện pháp án
treo và hình phạt cải tạo không giam giữ không có gì khác nhau. Tuy nhiên, đến lần
pháp điển hoá Luật hình sự lần thứ 2 (BLHS năm 1999) thì chế định án treo không
những không bị bỏ đi mà còn được giữ lại, bổ sung và được hoàn thiện. Điều này
khẳng định chế định án treo có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm; án treo không phải là một hình phạt, mà là một biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, đo đó người được hưởng án treo vẫn
làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải ngay trong môi truờng xã hội bình thường, nó
có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để trở thành công dân có
1
ích cho xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, chính quyền
địa phương. Án treo là một chế định pháp lý thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước
trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị
nhưng khoan hồng.
Tây Ninh là một tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ của Việt Nam, có vị trí quan
trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những điều kiện thuận lợi này
đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển, trình độ dân trí
ngày càng được nâng cao, đời sống nhân dân dần được cải thiện; tình hình an ninh,
chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội có những bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
vì là tỉnh giáp biên nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để các ổ nhóm tội phạm hoạt
động dưới nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn ngày một tinh vi, xảo quyệt; các loại tội
phạm như giết người do nguyên nhân xã hội, cướp giật tài sản, trộm cắp, tội phạm
trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, tội phạm ma tuý, buôn lậu, kinh tế, chức vụ, tham
nhũng…có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, an toàn xã hội.
Thực tiễn công tác thi hành án treo trong những năm vừa qua đã đạt được những
kết quả quan trọng, qua công tác thi hành án treo đã góp phần giữ vững kỷ cương, lòng
tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật cũng như sự ổn định trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua công tác thi hành án
treo cũng còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định. Việc thi hành án treo tuy đã được
Tòa án ra quyết định và đã được giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành án cư trú, làm việc tổ chức việc thực hiện, nhưng
nhìn chung quá trình theo dõi, giám sát, giáo dục các người chấp hành án còn chưa
được quan tâm đúng mức và còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu sót. Sự phối hợp giữa Tòa
án với các cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án treo còn chưa được chú trọng
2
dẫn đến trường hợp đối tượng phải chấp hành án đi đâu, làm gì trong thời gian dài mà
các cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục cũng không rõ, quá trình chấp hành
án ra sao chưa được báo cáo đầy đủ cho cơ quan đã ra quyết định thi hành án là Tòa án
được biết. Việc lập hồ sơ làm thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người phải chấp
hành án còn lúng túng, chưa đáp ứng được các điều kiện đặt ra. Nguyên nhân cơ bản
nhất là do cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục người bị kết án chưa thực hiện đầy
đủ quyền và trách nhiệm của mình theo Luật Thi hành án hình sự. Mặt khác, các điều
luật quy định của thi hành án treo trong Luật Thi hành án hình sự thiếu tính khả thi,
nhiều điểm chưa rõ ràng, bất cập.
Ở khía cạnh lý luận, các nghiên cứu về thi hành án treo chưa được quan tâm
nhiều, do đó vấn đề nhận thức về thi hành án treo còn chưa đầy đủ, thống nhất. Vì vậy
cũng làm ảnh hưởng đến việc thi hành án treo trên thực tế. Để góp phần nâng cao hơn
nữa nhận thức về thi hành án treo, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác thi
hành án treo, cũng như ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của vấn đề thi hành án treo, tác
giả đã lựa chọn đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” làm đề tài luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng chế định
này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với
người phạm tội, là vấn đề mang tính cấp thiết, vì vậy trong những năm qua đã có một
số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh và
phương diện nhất định. Cụ thể như sau:
Hoạt động thi hành án treo được phân tích trong một số giáo trình, sách tham
khảo và các bài viết đăng trên báo và tạp chí:
- Sách chuyên khảo “Pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề
lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng chủ
biên. [29]
3
- “Tổng hợp hình phạt tù với án treo”, Đinh Văn Quế, tạp chí Tòa án nhân dân,
Tòa án nhân dân tối cao số 09/2012. [10]
- “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ”, Lệ Hà và Phạm Tuân, tạp
chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 23/2013. [13]
- “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định án treo”, Nguyễn Thị
Minh Thu, tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 19/2011. [15]
- “Một số vấn đề về án treo”, Nguyễn Nông, tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 19/2012. [16]
Về đề tài khoa học và luận văn:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam”,
Huỳnh Văn Út [11].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Án treo và thi hành án treo tại Thành phố Hồ Chí
Minh”, Nguyễn Thị Hồng Hạnh [14].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên”,
Dương Sơn Tùng [8].
Trên cơ sở kết quả tình hình nghiên cứu khảo sát trên đây cho thấy ở nước ta đã
có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và thi hành án hình sự
nói chung, thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nói riêng. Tuy nhiên, ở góc độ
nghiên cứu những lý luận cao của án treo và thực tiễn áp dụng tại Tây Ninh thì chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu. Bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết
của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp Luật
Thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo, đánh giá thực tiễn thi hành
pháp luật, đưa ra nhóm giải pháp khắc phục những quy định còn bất cập, đáp ứng vấn
đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật thi hành án hình sự về thi
hành án treo, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về thi hành án treo;
- Phân tích và đánh giá quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án
treo, tìm hiểu thực trạng thi hành án treo tại tỉnh Tây Ninh;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật thi hành án hình sự Việt
Nam về thi hành án treo được ghi nhận chủ yếu trong Luật Thi hành án hình sự năm
2010, 2019 và các văn bản hướng dẫn. Trên cơ sở đó, luận văn khảo sát thực tiễn thực
hiện các quy định về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để bảo đảm tính khoa học, luận văn này có những giới hạn về phạm vi nghiên
cứu sau đây:
- Về nội dung: tác giả tập trung phân tích và đánh giá quy định của Luật THAHS
2019, kết hợp so sánh với Luật THAHS 2010 khi cần thiết. Đối với một số vấn đề có
liên quan, tác giả còn phân tích quy định của BLTTHS 2015. Luận văn không nghiên
cứu việc thi hành các bản án cho hưởng án treo của Tòa án quân sự.
- Về không gian: tác giả tiến hành khảo sát thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh.
5
- Về thời gian: tác giả nghiên cứu số liệu của Tòa án cũng như các các vụ việc
điển hình về thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về chính sách hình sự.
Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với
khoa học pháp lý, cụ thể:
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để nhận thức một cách khái
quát và chi tiết, cụ thể về các vấn đề lý luận và pháp lý được nghiên cứu trong luận
văn.
- Phương pháp so sánh, được sử dụng để so sánh quá trình phát triển của các
quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau và giữa Luật thi hành án hình sự năm 2010 với Luật thi hành án hình sự năm
2019.
- Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài
còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của ngành các ngành Công an, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân của tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý
luận và thực tiễn xung quanh hoạt động thi hành án treo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ, nghiên cứu một cách hệ
thống và toàn diện về thi hành án treo. Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong
muốn góp phần hoàn thiện, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành án treo, phân
6
tích các quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi hành án treo và đánh
giá thực trạng áp dụng pháp luật về thi hành án treo, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ
và hiệu quả trong công tác thi hành án hình sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết một
số vấn đề còn thiếu sót, bất cập, đưa ra những kiến nghị mang tính khoa học góp phần
nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại tỉnh Tây Ninh, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Luận vặn là một trong những tài liệu khoa học hữu ích phục vụ cho việc giảng
dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật có liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả
nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo, ứng dụng trong quá trình xây
dựng và áp dụng pháp luật.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Phần nội dung chính của luận văn được kết cấu thành hai chương bao gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về thi hành án treo
Chương 2. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Những vấn đề lý luận về thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm thi hành án treo
Quản lý xã hội và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.
Công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này chính là pháp
luật. Trong công tác duy trì trật tự xã hội thì việc đấu tranh chống tội phạm là một hoạt
động quan trọng nhất và bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng pháp luật hình sự để trấn
áp tội phạm, đồng thời giáo dục người phạm tội. Cùng với việc quy định các hình phạt
nhằm trừng trị các hành vi phạm tội, thì luật hình sự còn có các chế định đặc thù thể
hiện tính nhân đạo nhằm cải tạo những người trót lầm lỡ mà nhất thời phạm tội. Thi
hành án treo là một trong những chế định quan trọng của Luật Thi hành án hình sự thể
hiện rõ nét tính nhân đạo này. Thi hành án treo là một chế định pháp luật ra đời rất
sớm. Hiện nay, việc thi hành án treo được quy định rất rộng rãi trong pháp luật thi hành
án hình sự của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên phụ thuộc vào điều kiện của từng
nước, cũng như yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mà chế định này có vị trí khác nhau
và được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Việc thi hành án treo tạo điều kiện cho
những người chấp hành án có bản chất tốt, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng,
có nhân thân tốt giáo dục, cải tạo tại cộng đồng để trở thành người có ích cho xã hội.
Thi hành án hình sự là hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Thi hành án
hình sự về bản chất và nội dung khác với hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng
hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự, quyết định một người
có tội hay không có tội và hình phạt áp dụng, cũng như giải quyết những vấn đề khác
có liên quan. Còn thi hành án hình sự là hoạt động tổ chức thi hành bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao thẩm
8
quyền, trách nhiệm theo một trình tự thủ tục do pháp luật thi hành án hình sự quy định,
có tính hành chính, mệnh lệnh. Thi hành án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
luôn được Nhà nước quan tâm. Đây là một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm và phức tạp vì
nó gắn liền với vấn đề quyền con người, quyền công dân. Thi hành án hình sự góp
phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo công bằng, công lý.
Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được thi hành trên thực tế. Nhiệm vụ
của giai đoạn thi hành án hình sự nhằm giáo dục, cải tạo, giúp người chấp hành án trở
thành người có ích cho xã hội. Thi hành án có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình tố
tụng trước đó. Nếu hiệu quả của hoạt động thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt
động tố tụng trước đó sẽ trở nên vô ích.
Để làm sáng tỏ bản chất pháp lý của thi hành án treo việc nghiên cứu, làm sáng
tỏ khái niệm về thi hành án treo là một nhiệm vụ tất yếu. Muốn hình thành khái niệm
về một đối tượng thì cần xác định được những dấu hiệu và những đặc điểm riêng có
của đối tượng đó. Vì vậy, để xây dựng khái niệm thi hành án treo cần xác định những
dấu hiệu, đặc điểm, đặc trưng của thi hành án treo, đây là những dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt thi hành án treo với hoạt động thi hành các loại hình phạt khác như thi hành
án tử hình, phạt tù, cải tạo không giam giữ... Trong khoa học pháp lý hiện nay khái
niệm án treo và thi hành án treo vẫn là một vấn đề chưa được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu. Về khái niệm thi hành án treo trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm
như quan điểm của tác giả Lê Văn Cảm cho rằng: “Án treo là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật
hình sự quy định” [12].
Theo tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba năm tù,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không
cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” [9, tr.372].
9
Cũng có quan điểm cho rằng: “Thi hành án treo là việc cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền theo quy định của Luật Thi hành án hình sự áp dụng những biện pháp
giám sát, giáo dục có tính chất cưỡng chế đối với người bị kết án đã được Tòa án
tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo trong thời gian thử thách nhằm đảm bảo hiệu
lực của án treo” [8, tr.4]. Theo quan điểm này khái niệm về thi hành án treo được xây
dựng dựa trên các dấu hiệu đặc trưng sau: thi hành án treo là công việc (hoạt động của
các chủ thể); chủ thể của thi hành án treo là cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền; thi
hành án treo được thực hiện trên cơ sở quy định của Luật Thi hành án hình sự; nội
dung của Thi hành án treo là áp dụng những biện pháp giám sát, giáo dục có tính chất
cưỡng chế đối với người bị kết án đã được Tòa án tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án
treo trong thời gian thử thách; mục đích nhằm đảm bảo hiệu lực của án treo. Quan
điểm này đã xây dựng khái niệm về thi hành án treo tương đối hoàn thiện và đầy đủ tuy
nhiên vẫn còn thiếu đặc điểm về địa điểm thi hành án để phân biệt thi hành án treo với
thi hành một số loại án phạt khác và mục đích của thi hành án treo chưa thực sự phù
hợp. Theo tác giả mục đích của thi hành án treo phải là nhằm giáo dục người chấp hành
án trở thành người có ích cho xã hội.
Khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 có đưa ra khái niệm về thi
hành án treo như sau:
“Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật
này giám sát, giáo dục người bị kết án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử
thách” [25].
Có thể thấy khái niệm pháp lý trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi
hành án treo đã tương đối đầy đủ và hoàn thiện. Khái niệm này đã dựa trên những dấu
hiệu đặc trưng của thi hành hành án treo. Tuy nhiên, theo tác giả để đảm bảo sự hoàn
thiện về khái niệm án treo thì cần bổ sung thêm địa điểm chấp hành án nhằm phân biệt
án treo với hình phạt tù có thời hạn, tử hình và phản ánh đầy đủ bản chất của hoạt động
10
thi hành án treo. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung mục đích của hoạt động thi hành án
treo nhằm giáo dục người chấp hành án trở thành người có ích cho xã hội.
Trên cơ sở phân tích ở trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về thi hành án
treo như sau:
Thi hành án treo là tổng hợp các hoạt động do cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp Luật Thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người chấp hành
án trong thời gian thử thách tại cộng đồng để họ trở thành người có ích cho xã hội.
Khái niệm này đã được xây dựng dựa trên những đặc điểm đặc trưng của thi
hành án treo. Việc nghiên cứu và đưa ra một khái niệm hoàn thiện về thi hành án treo
là rất cần thiết, đảm bảo việc nhận thức đúng đắn của các chủ thể có liên quan về hoạt
động này, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này trên thực tiễn.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án treo
Qua việc nghiên cứu về khái niệm thi hành án treo có thể rút ra những đặc điểm
đặc trưng về thi hành án treo sau đây:
- Thứ nhất, thi hành án treo là tổng hợp các hoạt động của các chủ thể có thẩm
quyền để thực hiện một bản án cho hưởng án treo trên thực tế. Từ khi bản án có hiệu
lực thi hành các chủ thể có thẩm quyền phải ra các quyết định, thực hiện các hành vi
pháp lý cụ thể theo quy định của pháp luật nhằm tổ chức thi hành và cho thi hành bản
án treo. Trước tiên để bản án treo được đưa ra thi hành, Tòa án ra quyết định thi hành
án và tống đạt quyết định thi hành án cho các chủ thể theo quy định của pháp luật để tổ
chức thi hành và thi hành án. Sau khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi
hành án hình sự phải triệu tập người chấp hành án treo có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp
xã để làm cam kết chấp hành án. Sau đó cơ quan thi hành án hình sự phải lập hồ sơ
danh sách người có nghĩa vụ chấp hành án treo sao lại và gửi về cho UBND cấp xã.
Tiếp đến UBND cấp xã sẽ lập hồ sơ và phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục
người chấp hành án treo, thực hiện các hoạt động cụ thể để xử lý những sự kiện pháp lý
phát sinh trong quá trình thi hành án. Cuối cùng khi thời gian chấp hành án treo đã hết
11
các chủ thể có thẩm quyền phải hoàn chỉnh hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành
xong thời gian thử thách cho người chấp hành án. Như vậy có thể thấy để thi hành án
treo các chủ thể phải thực hiện một chuỗi các hoạt động theo quy định của pháp luật.
Các hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với nhau và hướng đến mục đích giáo dục,
cải tạo người chấp hành án treo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đặc điểm này
đòi hỏi pháp Luật Thi hành án hình sự phải quy định đầy đủ và hoàn thiện về các hành
vi, quyết định của chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án hình sự nhằm
đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án treo, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của
người chấp hành án.
- Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động thi hành án là các cơ quan, người có
thẩm quyền. Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, là hoạt
động nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước nên hoạt động này phải được thực
hiện bởi những chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Cơ quan, người có thẩm quyền thi
hành án được Nhà nước ủy quyền, sử dụng quyền lực Nhà nước áp đặt ý chí của mình
lên người chấp hành án để buộc họ phải chịu sự quản lý, giám sát và giáo dục tại cộng
đồng, hạn chế một số quyền của họ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp
luật. Qua đó có thể thấy hoạt động thi hành án treo là hoạt động mang tính quyền lực
Nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ chung là đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm,
bảo vệ chế độ, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội chính vì thế phải do chủ thể có
thẩm quyền thực hiện. Các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án treo rất phong
phú và đa dạng bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan
được giao một số nhiệm vụ thi hành án nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành
án treo. Đặc điểm này đòi hỏi pháp luật Thi hành án hình sự phải quy định phù hợp về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể mang quyền lực Nhà nước trong
thi hành án treo nhằm hạn chế tình trạng bộ máy các cơ quan có thẩm quyền thi hành
án treo cồng kềnh, chồng chéo mâu thuẫn trong việc thực hiện các hoạt động làm ảnh
12
hưởng đến hiệu quả thi hành án, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và uy
tín của Nhà nước.
- Thứ ba, cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động thi hành án treo là quy định của
pháp luật Thi hành án hình sự. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước ban
hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi, xử sự của các chủ thể có thẩm
quyền theo định hướng, mục đích mà Nhà nước mong muốn. Thi hành án treo là hoạt
động phải chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật cụ thể là Luật Thi hành án
hình sự, Bộ luật Hình sự, Tố tụng hình sự và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong quá trình thi hành án treo các chủ thể có thẩm quyền chỉ được hoạt động trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật cho phép và chỉ được ra các quyết định trên
cơ sở quy định của pháp luật nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án, hạn
chế sự tùy tiện lạm quyền của các chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Bất kỳ một hành
vi vi phạm pháp luật của chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo đều
phải được phát hiện và xử lý kịp thời để đảm bảo pháp chế, đảm bảo quyền và lợi ích
của người chấp hành án. Nếu người chấp hành án và các cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác phát hiện các chủ thể có thẩm quyền thi hành án thực hiện các hành vi hoặc ra các
quyết định vi phạm pháp luật hoặc trái pháp luật thì họ được quyền khiếu nại, tố cáo
đối với các quyết định, hành vi đó của chủ thể mang quyền lực Nhà nước.
- Thứ tư, nội dung của thi hành án treo là giám sát, giáo dục người chấp hành
án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Khác với thi hành án phạt tù,
người chấp hành án treo được hưởng chính sách nhân đạo của Nhà nước. Với phương
châm “giáo dục - khoan hồng”, người chấp hành án treo không phải cách ly khỏi xã
hội, không chịu sự quản lý giam giữ. Người chấp hành án vẫn được làm ăn, sinh sống
tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã
hội bình thường dưới sự giám sát, theo dõi, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền.
13
- Thứ năm, địa điểm thi hành án treo là tại cộng đồng (nơi cư trú của người
chấp hành án). Đây là đặc điểm của thi hành án treo giống với thi hành hình phạt cải
tạo không giam giữ nhưng khác so với thi hành án phạt tù. Điều này thể hiện tinh thần
nhân đạo của pháp luật Thi hành án hình sự khi để người chấp hành án chấp hành ngay
tại cộng đồng, được sự giáo dục và giúp đỡ của gia đình, cơ quan làm việc và cả cộng
đồng xã hội từ đó có cơ hội để hối lỗi vì hành vi do bản thân mình gây ra và có cơ hội
sửa sai, trở thành một công dân tốt cho xã hội. Đặc điểm này của thi hành án treo sẽ chi
phối đến quy định của pháp luật Thi hành án hình sự trong việc quy định các chủ thể có
thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo, cũng như vai trò của gia đình, cá nhân, cơ
quan, tổ chức tại địa phương nơi người chấp hành án treo cư trú, làm việc đảm bảo hiệu
quả của hoạt động thi hành án. Thi hành án treo còn mang tính xã hội rộng rãi khi để
cho các cơ quan, tổ chức ở địa phương theo dõi, giám sát và kiểm tra hoạt động chấp
hành án của người chấp hành án.
- Thứ sáu, thi hành án treo là hoạt động của cơ quan Nhà nước và người có
thẩm quyền nhằm giám sát, giáo dục người chấp hành án trở thành người lương thiện,
có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa đặc biệt
không phạm tội mới - đây là mục đích đầu tiên hay còn gọi là mục đích phòng ngừa
riêng của thi hành án treo. Đồng thời, thông qua việc thi hành án treo làm cho người
chấp hành án nhận thức rõ được những lỗi lầm, sai trái về hành vi phạm tội của mình
để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc biệt, việc thi hành
án treo còn có mục đích quan trọng trong việc giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng. Đồng thời thể
hiện bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động thi hành án hình sự.
Đối với các cá nhân khác trong xã hội, thi hành án treo có mục đích giáo dục và nâng
cao ý thức pháp luật cho họ, động viên, khuyến khích mọi người trong xã hội tích cực
tham gia vào cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
14
1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án treo
Thứ nhất, thi hành án treo thể hiện tính nghiêm khắc của pháp luật. Tội phạm là
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội cơ bản, quan
trọng được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện và xử lý nghiêm minh nhằm duy trì ổn định và trật tự xã hội. Thi hành
kịp thời, đúng đắn và có hiệu quả, án treo góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án. Thi hành án
treo nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án, chứng minh giá trị
thực tiễn của các phán quyết, đảm bảo thực hiện kết quả các giai đoạn tố tụng trước đó.
Nếu không có thi hành án thì chế tài áp dụng đối với hành vi phạm tội sẽ không đem lại
hiệu quả trên thực tế.
Thứ hai, thi hành án treo có ý nghĩa quan trọng trong việc khuyến khích, tạo
điều kiện cho người chấp hành án tự giác cải tạo, tu dưỡng bản thân để trở thành người
có ích cho xã hội. Người chấp hành án treo không bị cách ly ra khỏi cộng đồng như
hình phạt tù và tạo điều kiện cho họ tự bản thân, nhận thức lại về hành vi của mình và
cố gắng trở thành người tốt. Họ vẫn được chung sống với gia đình và xã hội như những
người khác. Tuy nhiên phải chịu sự giám sát mang tính cưỡng chế của chính quyền địa
phương. Thi hành án treo tạo điều kiện thuận lợi cho người chấp hành án nhận thức
được những lỗi lầm, sai trái về hành vi phạm tội của mình để cải tạo và giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội.
Thứ ba, thi hành án treo có ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục các cá nhân
khác trong xã hội tôn trọng pháp luật, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nói chung
và tội phạm nói riêng. Đối với các cá nhân khác, thi hành án treo có mục đích giáo dục
và nâng cao ý thức pháp luật cho họ, động viên khuyến khích mọi người trong xã hội
tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, về mặt kinh tế, việc thi hành án treo sẽ giảm được các chi phí tốn kém
của Nhà nước so với việc quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo người chấp hành án tại các
15
cơ sở giam giữ, giảm tải áp lực cho các trại giam đang trong tình trạng quá tải nhưng
vẫn đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Đây chính là nhu cầu tất yếu của việc thi
hành án treo trên thực tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng. Đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự.
Từ những ý nghĩa trên, ta thấy việc thi hành án treo không chỉ đơn thuần là
trừng trị người phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có ý nghĩa
thiết thực trong việc giúp những người đã từng có những hành vi sai trái có cơ hội để
làm lại cuộc đời của mình theo hướng tốt đẹp hơn, đảm bảo được tính nhân đạo và
khoan hồng của pháp luật.
1.1.4. Yêu cầu đối với quy định của pháp luật về thi hành án treo
Nghiên cứu cho thấy quy định của pháp luật về thi hành án treo phải bảo đảm
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc thi hành án treo phải được quy định trên cơ sở phù hợp với các
chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, cũng như
phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Trong giai đoạn hiện nay quyền con người của người chấp hành án
nói chung và quyền của người chấp hành án treo nói riêng là một vấn đề rất được quan
tâm. Người chấp hành án treo tuy họ đã thực hiện hành vi phạm tội và trong quá trình
chấp hành án họ bị hạn chế một số quyền công dân theo quy định của pháp luật, tuy
nhiên về bản chất họ vẫn là một con người, một công dân do đó họ có quyền bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác. Bảo đảm quyền con người của người chấp hành án treo là bảo đảm các
quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của họ đã được ghi nhận trong
các Công ước quốc tế. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao
quý về quyền con người đã được thế giới thừa nhận thể hiện trong các Nghị quyết của
Đảng. Trong đó Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và
16
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã
xác định: “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc
xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh
vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội” [1]. Việc ghi nhận và đảm bảo các
quyền con người của người được hưởng án treo trên thực tế là sự thể hiện rõ nét và sâu
sắc nhất của một Nhà nước tiến bộ, dân chủ, văn minh. Cho đến nay Việt Nam đã tham
gia phần lớn các Công ước quốc tế về quyền con người và cam kết thực hiện ở cả hai
phương diện lập pháp và thực tiễn. Quyền con người nói chung và quyền của người
được hưởng án treo nói riêng được Hiến pháp 2013 và pháp luật Thi hành án hình sự
ghi nhận để bảo đảm thực hiện. Theo Hiến pháp năm 2013 các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Nhà nước có trách
nhiệm đảm bảo cũng như bảo vệ các quyền đó trên thực tiễn [23].
Nhằm đảm bảo sự phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về bảo
vệ quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của người được hưởng án
treo nói riêng thì pháp luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo quy định phù hợp
với tinh thần của Hiến pháp, đảm bảo nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Ngoài những quyền
đã bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong quá trình chấp hành án treo thì các
quyền không bị hạn chế cần phải được quy định đầy đủ và có cơ chế đảm bảo thực hiện
trên thực tiễn.
Thứ hai, việc thi hành án hình sự được quy định phải phù hợp với các tư tưởng
chỉ đạo, chi phối định hướng quá trình thi hành án hình sự nói chung và thi hành án
treo nói riêng. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự, đảm bảo quyền
17
con người của người chấp hành án Luật Thi hành án hình sự để xây dựng một hệ thống
các nguyên tắc cơ bản để chi phối, định hướng quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật
Thi hành án hình sự. Chính vì vậy, các quy định về thi hành án treo phải phù hợp với tư
tưởng của các nguyên tắc cơ bản và cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc cơ bản trong thực tiễn. Theo đó, các quy định của
Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo phải dựa trên nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích của người
chấp hành án; nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kết hợp trừng trị với giáo dục cải tạo
trong hoạt động thi hành án, áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo; Kết hợp trừng trị và
giáo dục cải tạo trong việc thi hành án, áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ
sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm
nhân thân khác của người chấp hành án; Thi hành án đối với người chưa thành niên
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
người có ích cho xã hội; Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học
tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại. Trong quá trình xây dựng và áp
dụng các quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo nếu quy định nào
chưa phù hợp hoặc trái với tinh thần của nguyên tắc thì cần phải được sửa đổi. Trong
trường hợp các quy định về thi hành án treo còn thiếu các quy định cụ thể để thực hiện,
cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc thì cần được bổ sung hoàn thiện.
Thứ ba, các quy định về thi hành án treo phải phù hợp với điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội nhằm đảm bảo tính khả thi trên thực tế. Pháp luật được đặt ra để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng. Vì vậy,
pháp luật không thể tách rời với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội. Các quy định của
Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo chỉ có thể phát huy hiệu quả tích cực nếu
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của Việt Nam. Pháp luật do Nhà nước
ban hành nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả từ ý chí chủ quan của các nhà lập
pháp, mà nó còn phải xuất phát từ những nhu cầu khách quan của các quan hệ xã hội
18
trong những điều kiện nhất định. Các quy định của pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc
sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội và tất nhiên, các quy
định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo cũng không nằm ngoài quy luật
này. Việc tổ chức hoạt động thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội là điều mà các quốc gia phải đảm bảo.
Các quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo phải có sự phù hợp,
tương thích nhất định với các đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nếu
không sẽ dẫn đến chủ quan, duy ý chí và không đi vào thực tiễn cuộc sống. Do đó, các
quy định của pháp luật về thi hành án treo phải phù hợp với các đặc điểm của tình hình
kinh tế, chính trị xã hội của Việt Nam nhằm đảm bảo các quyền con người, quyền công
dân cơ bản của người chấp hành án, đảm bảo tính khả thi của các quy định trên thực
tiễn.
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo
1.2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về thi hành án treo trong pháp luật Việt
Nam
Khi nghiên cứu về thi hành án treo thì việc nghiên cứu một cách khoa học, có hệ
thống về sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về thi hành
án treo là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để đối chiếu và đánh giá với
pháp luật hiện hành, đảm bảo nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách khoa học và mang
tính kế thừa.
Án treo được quy định lần đầu tiên tại Điều IV, Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch
chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13/9/1945 [3]. Sau đó
ngày 14/2/1946 Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức Toà án quân sự của Chủ tịch Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được ban hành để thay thế Sắc lệnh số 33C.
Trong đó có một số thay đổi về nội dung và câu chữ, xác định rõ bản án treo không có
nghĩa là được miễn thi hành mà chỉ là tạm đình chỉ thi hành. Ngoài ra các nội dung của
hai Sắc lệnh này là tương đối giống nhau. Theo Điều 10 Sắc lệnh số 21 thì án treo được
19
xem là một biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án: Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội
nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm
đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân
không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi
như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Tòa
án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành [4]. Như vậy, án treo là một biện pháp tạm đình
chấp hành án có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những người phạm tội nhẹ, bản
chất không nguy hiểm, xét không cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, do Tòa án
có thẩm quyền áp dụng thể hiện tư tưởng khoan hồng đối với người phạm tội, thời gian
thử thách là năm năm. Vì là biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án phạt tù có điều
kiện nên các văn bản pháp luật trong giai đoạn này không đặt ra vấn đề thi hành đối với
án treo, cũng như không đặt ra yêu cầu giám sát, giáo dục người chấp hành án treo.
Tuy nhiên, với nội hàm của án treo thì quy định này đưa ra cảnh báo tội nhân nếu tiếp
tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án
cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội
gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ.
Tiếp theo tại Điều 12 của Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 thì chế định án
treo được bổ sung thêm nội dung là: đối với những kẻ phạm tội bị phạt không quá hai
năm tù trong một số trường hợp rất đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định, Tòa án
có thể châm chước cho hưởng án treo [5]. Tuy vậy Sắc lệnh này chỉ bổ sung căn cứ
cho hưởng án treo để Tòa án áp dụng chứ chưa quy định về việc thi hành án treo.
Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, án treo luôn được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự. Các Pháp lệnh về trừng trị các tội phản
cách mạng, Pháp lệnh trừng trì các tội xâm phạm tại sản riêng của công dân, Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Sắc luật 003/SL của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam v.v… đều có quy định về chế định
án treo. Quan niệm án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện
20
được coi là một quan niệm thống nhất trong các văn bản pháp luật và trong nhận thức
chung của mọi người. Quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 là quy
định được pháp điển hóa đầu tiên của Pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù Bộ luật hình
sự có những thay đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng chế định án treo vẫn được quy định
như là một chế định truyền thống, không thể thiếu của pháp luật hình sự Việt Nam, vấn
đề áp dụng án treo luôn là vấn đề được quan tâm tương đối đặc biệt trong suốt quá
trình ra đời, phát triển.
Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 việc thi hành án treo đã được điều chỉnh
cụ thể trong luật, cụ thể: Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án treo được quy định
tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Về chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi
hành và thi hành án treo được quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
theo đó chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án cư
trú hoặc làm việc có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc cải tạo của người được hưởng
án treo [21]. Như vậy có thể thấy quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về
thi hành án treo vẫn rất hạn chế. Những vấn đề liên quan đến trình tự thủ tục thi hành
án treo, quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án treo và các chế định khác chưa
được điều chỉnh trong luật.
Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thi hành án treo ngày 30/10/2000
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2000/NĐ – CP quy định về thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo [6]. Trong Nghị định này các vấn đề liên quan đến thi hành án
treo đã được hướng dẫn, quy định khá chi tiết và đầy đủ, nội dung của Nghị định bao
gồm các quy định chung, quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án
treo, trách nhiệm và quyền của cơ quan, tổ chức và gia đình trong việc giám sát, giáo
dục người chấp hành án treo. Sau khi nhận được bản án, quyết định thi hành án của
Tòa án thì các cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án phải tổ chức thi hành
án, các chủ thể này phải ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục
người bị kết án. Người trực tiếp giám sát, giáo dục phải chủ động gặp gỡ, động viên
21
người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ba tháng một lần báo cáo với thủ
trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành án, báo cáo cơ quan
tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ điều kiện được xét giảm thời gian
thử thách. Các cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để
người bị kết án cải tạo, giáo dục tốt, lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho
người bị kết án.
Tiếp đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vẫn tiếp tục kế thừa các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về thi hành án treo. Đồng thời, Nghị định
61/2000 của Chính phủ vẫn tiếp tục điều chỉnh về hoạt động thi hành án treo trong giai
đoạn này.
Năm 2010 Luật Thi hành án hình sự ra đời đã quy định điều chỉnh tương đối
hoàn thiện về thi hành án treo, tạo cơ sở pháp lý cho việc thi hành loại án này trên thực
tế, đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Luật Thi hành án hình sự năm 2010 bao gồm 15 chương, 182 điều đã được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2011. Luật Thi
hành án hình sự được ban hành đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực thi
hành án hình sự, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với
người chấp hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành
chính, góp phần đảm bảo quyền công dân. Sau khi Luật Thi hành án hình sự có hiệu
lực thi hành, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và hướng dẫn của Cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã trong cả nước đã
tổ chức nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy
định. Uỷ ban nhân dân cấp xã đã thực hiện cơ bản đúng những nhiệm vụ, quyền hạn
của mình theo quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án treo.
22
Cho đến nay, năm 2019 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIV đã thông qua Luật Thi hành án hình sự năm 2019 vào kỳ họp thứ 7 ngày 14
tháng 6 năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2020. Theo đó, Luật Thi hành
án hình sự 2019 kế thừa và bổ sung thêm quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết
định về hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế,
trục xuất, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định, án treo, biện pháp tư pháp; quyền, nghĩa vụ của người chấp
hành án hình sự, biện pháp tư pháp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
trong công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng.
Như vậy, theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định của pháp luật về
thi hành án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện. Từ chỗ ghi nhận án treo là
biện pháp tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có điều kiện nên không điều chỉnh về
thủ tục thi hành đến việc quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nghĩa vụ
của người chấp hành án cũng như các vấn đề pháp lý khác phát sinh trong hoạt động
thi hành án treo nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, nâng cao
hiệu quả hoạt động thi hành án treo trên thực tiễn.
1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo
1.2.2.1. Quy định về việc ra quyết định thi hành án treo
- Về điều kiện để bản án treo được đưa ra thi hành
Theo quy định của pháp luật, để đảm bảo quyền lợi cho người bị buộc tội thì
bản án treo là một trong số những bản án sẽ được đưa ra thi hành ngay mặc dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 thì bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực nếu có kháng cáo, kháng nghị sẽ được
xét xử lại theo trình tự phúc thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm
theo hướng không cho bị cáo hưởng án treo hoặc hủy án sơ thẩm. Vì vậy, Nghị quyết
23
số 02/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn “đối với bị cáo bị phạt tù nhưng được hưởng án treo
và khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà thời gian thử thách vẫn còn, thì Tòa án phải
ra quyết định thi hành án” [27]. Như vậy mặc dù Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định bản án treo được thi hành ngay nhưng căn cứ vào hướng dẫn tại
Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP thì bản án treo được đưa ra thi hành khi hội đủ các
điều kiện sau: Một là, bản án treo đã có hiệu lực pháp luật; Hai là, khi bản án treo có
hiệu lực pháp luật khi thời gian thử thách vẫn còn. Điều này là do thời điểm tính thời
gian thử thách tính từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bản án treo; Ba là, phải có quyết
định thi hành án treo của người có thẩm quyền. Như vậy, để thi hành bản án treo thì
phải có quyết định thi hành án của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án treo
Theo quy định tại Điều 21 và Điều 84 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì
thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự thuộc về Tòa án. Luật Thi hành án hình
sự không xác định cụ thể là Tòa án nào và người nào có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án treo. Để xác định được vấn đề này phải căn cứ vào Điều 364 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015. Theo Điều 364 thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm
quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra
quyết định thi hành án. Tòa án khác cùng cấp bao gồm Tòa án cùng cấp huyện (Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; Tòa án quân sự khu vực) hoặc
Tòa án cùng cấp tỉnh (Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án
quân sự quân khu và tương đương).
Mục 2 phần I của Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP quy định việc ủy thác cho
Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện khi thuộc một trong
những trường hợp sau đây:
Sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho
cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an cùng cấp thông báo
bằng văn bản cho Tòa án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ
24
thể; Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên
địa bàn hành chính khác.
Trường hợp Tòa án được ủy thác đã ra quyết định thi hành án và được cơ quan
Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại địa bàn hành chính khác
thì trả lại hồ sơ ủy thác thi hành án cho Tòa án đã ủy thác và giải quyết như sau:
Trường hợp Tòa án được ủy thác biết được địa chỉ của người bị kết án ở địa bàn hành
chính khác thì thông báo cho Tòa án đã ủy thác để Tòa án đã uỷ thác thực hiện việc ủy
thác cho Tòa án nơi người bị kết án đang cư trú; Trường hợp Tòa án được ủy thác
không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ủy
thác biết để Tòa án đã ủy thác thực hiện việc ra quyết định thi hành án và yêu cầu cơ
quan Công an ra quyết định truy nã người bị kết án.
Trường hợp Tòa án được ủy thác thi hành án thấy việc ủy thác là không đúng thì
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án đã ủy thác biết. Tòa án đã ủy
thác phải kiểm tra lại việc ủy thác; nếu việc từ chối ủy thác là có căn cứ thì Chánh án
Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định hủy quyết định ủy thác không có căn cứ trước
khi ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác ra quyết định thi hành án.
Nếu việc từ chối ủy thác là không có căn cứ thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm yêu
cầu Tòa án được ủy thác ra quyết định thi hành án. Trường hợp có tranh chấp giữa Tòa
án ủy thác và Tòa án được ủy thác thi hành án cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thì Chánh án Tòa án cấp tỉnh quyết định. Trường hợp
có tranh chấp giữa Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác thi hành án cùng cấp huyện
nhưng khác tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cùng cấp tỉnh thì Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao quyết định.
- Về thời hạn ra quyết định thi hành án treo
Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo hiệu quả của hoạt động
thi hành án hình sự, đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, tại Điều 364
BLTTHS năm 2015 đã quy định thời hạn để ra quyết định thi hành án treo như sau:
25
Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết
định thi hành án.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành án
phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người đó
phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để thi hành án.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa
án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.
- Nội dung của quyết định thi hành án treo
Nhằm đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng, tại Điều 84 Luật Thi
hành án hình sự 2019 quy định, quyết định thi hành án treo phải đảm bảo đầy đủ các
nội dung sau đây: quyết định thi hành án treo phải ghi rõ họ, tên, chức vụ người ra
quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành; họ,
tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; mức hình phạt tù
và thời gian thử thách của người được hưởng án treo; hình phạt bổ sung; trừ hình phạt
bổ sung là hình phạt tiền; hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách
theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Ủy ban nhân dân cấp xã được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Tòa án
phải gửi quyết định đó cho cá nhân, cơ quan sau đây: Người được hưởng án treo và
người đại diện trong trường hợp người được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi; Viện
kiểm sát cùng cấp; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi UBND cấp xã
được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; UBND cấp xã được giao giám
26
sát, giáo dục người được hưởng án treo; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi
hành án có trụ sở. Việc quy định thời gian cụ thể và các chủ thể được gửi quyết định để
đảm bảo việc ra quyết định thi hành án treo diễn ra đúng theo thủ tục, tránh tình trạng
trì hoãn, kéo dài thời gian gửi quyết định.
Qua phân tích ở trên có thể nhận thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã điều chỉnh chi tiết, đầy đủ về các vấn đề liên
quan đến việc ra quyết định thi hành án treo, đảm bảo cho việc ra quyết định thi hành
án treo nhanh chóng, đúng pháp luật.
1.2.2.2. Quy định về thi hành quyết định thi hành án treo
Sau khi có quyết định thi hành án tiếp theo là đến việc tổ chức triển khai và thực
hiện quyết định thi hành án. Theo quy định tại Điều 85 Luật Thi hành án hình sự năm
2019 trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án
treo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải triệu tập người được hưởng
án treo, người đại diện trong trường hợp người được hưởng án treo là dưới 18 tuổi đến
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú nơi người đó làm việc để cam kết
việc chấp hành án. Người được hưởng án treo, người đại diện của người được hưởng
án treo phải có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan. Trường hợp người được hưởng án treo không có mặt theo giấy triệu
tập hoặc không cam kết thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập biên
bản vi phạm nghĩa vụ.
Khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo. Hồ sơ bao gồm các nội dung sau đây: Bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật; Quyết định thi hành án treo; Cam kết của người được
hưởng án treo. Đối với người được hưởng án treo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại diện; Tài liệu khác
có liên quan đến việc thi hành án.
27
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, Ủy ban
nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo phải
lập hồ sơ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Hồ sơ bao gồm các nội dung
sau đây: Bản sao các tài liệu quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật Thi hành án hình sự;
Bản nhận xét của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục về việc chấp hành nghĩa
vụ của người được hưởng án treo; Bản tự nhận xét của người được hưởng án treo về
việc thực hiện nghĩa vụ chấp hành pháp luật, trường hợp người được hưởng án treo bị
kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 Luật THAHS 2019 thì phải có bản kiểm điểm và
biên bản cuộc họp kiểm điểm; Trường hợp người được hưởng án treo được rút ngắn
thời gian thử thách thì phải có quyết định của Toà án; Tài liệu khác có liên quan đến
việc thi hành án.
Trước khi hết thời gian thử thách 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao
giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ thi hành án cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện. Vào ngày cuối cùng của thời gian thử thách, Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện phải cấp giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách. Giấy
chứng nhận phải gửi cho người được hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao
giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra
quyết định thi hành án có trụ sở.
Qua quy định trên có thể thấy Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định
rõ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tổ chức thi hành và thi hành
án treo.
1.2.2.3. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo
Án treo không phải là hình phạt nhưng xét về bản chất của án treo cũng chính là
biện pháp nhằm thực hiện, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự của hình phạt tù có thời hạn
đối với người được hưởng án treo. Vì thế, tiêu chí “tự giác chấp hành án” được coi là
điều kiện cốt lõi để xác định mục đích, kết quả của hình phạt tù cho hưởng án treo có
28
được thực hiện trên thực tế hay không. Đồng thời phải nghiêm chỉnh tuân theo các
nguyên tắc trong thi hành án hình sự. Do đó, để đạt được các mục đích nói trên trong
thực tế đòi hỏi việc tổ chức, quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của
UBND cấp xã phải được thực hiện khoa học và tuân thủ theo các quy định của Luật
THAHS năm 2019. UBND cấp xã là cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án
treo tại địa phương mình quản lý. Do đó, quá trình cải tạo của người được hưởng án
treo có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào quá trình tổ chức thi hành án và việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo trong thời gian thử thách.
Vì vậy, để thực hiện được những mục đích trên trong công tác thi hành án treo,
UBND cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cần
thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Luật THAHS
năm 2019 (khoản 1 Điều 86) và Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của
Chính phủ “Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” (Điều 7) [6]. Cụ
thể như sau:
Lập hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ
sơ cho cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật THAHS. Sau
khi cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện tiếp nhận Quyết định thi hành án thì
phải lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật;
Quyết định thi hành án treo; Cam kết của người được hưởng án treo. Trên cơ sở đó,
trong thời hạn 07 kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, UBND cấp xã được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo phải lập hồ sơ và tiến hành các hoạt
động tiếp theo để giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử
thách theo quy định. Như vậy, so với Luật THAHS năm 2010 chỉ có cơ quan thi hành
án Công an cấp huyện phải lập hồ sơ thi hành án và UBND cấp xã tiếp nhận hồ sơ thì
Luật THAHS năm 2019 đã giao trách nhiệm trực tiếp lập hồ sơ đối với người được
29
hưởng án treo cho UBND cấp xã thay vì chỉ tiếp nhận hồ sơ từ cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện như trước kia để UBND cấp xã có trách nhiệm cao hơn để
việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tốt hơn.
Yêu cầu người được hưởng án treo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện
pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Với vai trò là
cơ quan trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo theo quy định của Luật
THAHS năm 2019, UBND cấp xã trong quá trình giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo có quyền cầu người được hưởng án treo phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của mình theo quy định của Luật THAHS năm 2019 (Điều 87). Bên cạnh đó, qua quá
trình theo dõi quá trình chấp hành án nếu người được hưởng án treo có dấu hiệu vi
phạm pháp luật thì UBND cấp xã phải có các biện pháp giáo dục, phòng ngừa thích
hợp tác động lên người được hưởng án treo để hạn chế nguy cơ vi phạm pháp luật của
họ.
Biểu dương người được hưởng án treo có nhiều tiến bộ hoặc lập công. UBND
cấp xã trong quá trình giám sát, giáo dục người được hưởng án treo nếu thấy họ có
nhiều tiến bộ hoặc lập công thì phải tiến hành biểu dương để ghi nhận thành tích cũng
như khích lệ tinh thần của người được hưởng án treo. Qua việc thực hiện nhiệm vụ
này, sẽ khuyến khích những người thi hành án treo khác nâng cao tinh thần tự giác và
cố gắng tự cải tạo trong quá trình chấp hành án của mình tại địa phương.
Giải quyết cho người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy
định của Luật này và pháp luật về cư trú. Khi người được hưởng án treo có công việc
phải thực hiện ở địa phương khác thì khi nhận được yêu cầu của họ, UBND cấp xã có
trách nhiệm xem xét quyết định cho phép người được hưởng án treo vắng mặt ở nơi cư
trú để đảm bảo họ có điều kiện hoàn thành công việc.
Phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi
người được hưởng án treo làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Người được hưởng án treo không bị hạn chế quyền làm việc và học tập theo chính sách
30
khoan hồng của nhà nước. Vì vậy, họ được tạo điều kiện có việc làm và học tập như
công dân bình thường. Để hoạt động giám sát, giáo dục đạt được hiệu quả và giảm tải
công việc cho người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục, UBND cấp xã phải
thường xuyên phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, gia đình, cơ quan và tổ chức
nơi người được hưởng án treo làm việc và học tập để nắm bắt được quá trình chấp hành
án của họ, từ đó có được những nhận xét, đánh giá khách quan về việc thực hiện nghĩa
vụ của người được hưởng án treo trong thời gian thử thách tại địa phương. Bên cạnh
đó, gia đình người được hưởng án treo cũng phải có trách nhiệm phối hợp với UBND
cấp xã và người được phân công trực tiếp trong việc giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo.
Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Toà án
cùng cấp xem xét, quyết định việc rút ngắn thời gian thử thách. Đây là một trong
những điểm mới, tiến bộ của Luật THAHS năm 2019, nếu trước kia Luật THAHS năm
2010 chúng ta chỉ có thủ tục rút ngắn thời gian thử thách thì nay người được hưởng án
treo được đề nghị xem xét rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ điều kiện theo quy
định, bởi lẽ trong quá trình chấp hành án, người được hưởng án treo có biểu hiện tốt
trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực học tập, lao động, sữa chữa lỗi
lầm, giúp đỡ cho xã hội hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được
cơ quan có thẩm quyền khen thưởng. UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo có trách nhiệm làm văn bản đề nghị gửi cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Toà án cùng cấp xem xét, quyết định việc rút
ngắn thời gian thử thách theo quy định. Đây là nhiệm vụ quan trọng thể hiện vai trò
giám sát, giáo dục của UBND cấp xã đối với người được hưởng án treo. Nếu người
được hưởng án treo có ý thức cải tạo tốt, có nhiều tiến bộ nhưng UBND cấp xã không
biết, từ đó không thực hiện nhiệm vụ này thì quyền lợi của người được hưởng án treo
không được đảm bảo, vai trò giám sát, giáo dục của UBND cấp xã không được thể hiện
trong thực tế.
31
Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ
tục đề nghị Toà án có thẩm quyền quyết định buộc người được hưởng án treo vi phạm
nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định
của Luật THAHS. Nghĩa vụ của người được hưởng án treo đã được quy định rõ và phải
chấp hành nghiêm chỉnh, để đảm bảo việc giám sát, giáo dục đối với người được
hưởng án treo chặt chẽ hơn, tăng tính nghiêm minh trong quá trình thi hành án, khắc
phục những hạn chế trong quản lý đối tượng chấp hành án tại địa phương thì trường
hợp người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc đã bị kiểm điểm nhưng
sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bẳng văn bản mà vẫn cố ý
vi phạm thì sau khi nhận được đề xuất của Công an cấp xã, UBND cấp xã được giao
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Toà án có thẩm quyền quyết định buộc
người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã
cho hưởng án treo theo quy định của Luật THAHS nhằm đảm bảo tính răn đe và cho
thấy sự giám sát chặt chẽ của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo.
Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện khi người được hưởng
án treo bỏ trốn. Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin
phép và được sự đồng ý của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp
không đồng ý thì UBND cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được
hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến
tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của UBND cấp xã hoặc
Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm
pháp luật, UBND cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho UBND
cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan. Nếu người được
hưởng án treo không có mặt theo yêu cầu của UBND cấp xã được giao giám sát, giáo
dục mà không có lý do chính đáng hoặc đi khỏi nơi cư trú mà không được sự đồng ý
32
của UBND cấp xã thì UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục sẽ lập văn bản gửi
báo cáo để cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành xử lý vi phạm đối
với người được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.
Hàng tháng nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người được
hưởng án treo và lưu hồ sơ giám sát, giáo dục. UBND cấp xã sẽ làm bản nhận xét,
đánh giá quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo ở địa phương để hàng
tháng nắm bắt được quá trình chấp hành án của họ và tiếp tục hoạt động giám sát, giáo
dục của mình. Như vậy, tại điểm h, Điều 63 Luật THAHS năm 2010 chỉ quy định
UBND cấp xã nhận xét bằng văn bản và lưu hồ sơ theo dõi về quá trình chấp hành án
của người được hưởng án treo khi người đó chuyển đi nơi khác, thì nay Luật THAHS
năm 2019 đã quy định chặt chẽ hơn và hàng tháng người được hưởng án treo phải báo
cáo bằng văn bản với UBND cấp xã về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình, để đảm
bảo rằng họ vẫn luôn tự giác và chấp hành đúng quy định của pháp luật trong thời gian
chịu sự giám sát, giáo dục của UBND cấp xã, tránh trường hợp người được hưởng án
treo đi khỏi nơi cư trú một thời gian mà UBND cấp xã không biết. Từ đó UBND cấp xã
hàng tháng sẽ có nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người được
hưởng án treo và lưu vào hồ sơ giám sát, giáo dục.
Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền về kết quả thi hành án.
Định kỳ theo quy định hoặc đột xuất theo yêu cầu, UBND cấp xã được giao giám sát,
giáo dục có trách nhiệm thống kê, báo cáo kết quả thi hành án treo tại địa phương cho
cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền.
Ngoài ra, trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo không phải là
cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ,
công nhân quốc phòng, công nhân công an thì UBND cấp xã còn có trách nhiệm tạo
điều kiện, hỗ trợ cho người được hưởng án treo tìm việc làm. Đây là hoạt động quan
trong nhằm giúp người được hưởng án treo tạo ra thu nhập để ổn định cuộc sống. Việc
giúp người được hưởng án treo có việc làm trong thời gian thử thách cũng sẽ hạn chế
33
được tình trạng tái phạm của người được hưởng án treo, qua đó giảm bớt áp lực trong
việc giám sát, quản lý và giáo dục người được hưởng án treo của UBND cấp xã.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng, UBND cấp xã trong quá trình giám
sát, giáo dục người được hưởng án treo phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác nhau,
các nhiệm vụ này không tách rời mà có mối liên hệ mật thiết với nhau và pháp luật
không phân định nhiệm vụ, quyền hạn nào nhằm mục đích giám sát, nhiệm vụ, quyền
hạn nào nhằm mục đích giáo dục mà quy định chung. UBND cấp xã thực hiện việc
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo một cách gián tiếp thông qua hoạt động
của người được UBND cấp xã ra quyết định phân công trực tiếp giám sát, giáo dục.
1.2.2.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo
Trong thời gian chấp hành án, người được hưởng án treo được đảm bảo các
quyền và phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
- Về quyền của người được hưởng án treo
Theo các quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP; Điều 84,
Điều 88 Luật THAHS 2019 thì:
Người được hưởng án treo được nhận quyết định thi hành án. Quyết định thi
hành án là cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động thi hành án hình sự, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người chấp hành án. Vì vậy, người chấp hành án treo nói
riêng và các loại án khác nói chung phải được nhận quyết định thi hành án. Bên cạnh
đó việc được nhận quyết định thi hành án treo sẽ đảm bảo cho người chấp hành án thực
hiện việc có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự để thực hiện thủ tục chấp hành án.
Quyết định thi hành án phải được giao cho người chấp hành án trong thời hạn luật
định.
Người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân quốc phòng, công nhân công an, người
lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo
đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ khác phù hợp với
34
công việc mà mình đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo
quy định của pháp luật. Đây là một quy định thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm
bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án nhằm hướng đến mục đích giúp họ
trở thành người có ích cho xã hội.
Người được hưởng án treo được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó. Quy định này
cũng là cơ sở pháp lý quan trọng thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền
lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án khi họ tham gia việc học tập, học nghề tại các
cơ sở đào tạo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo được Uỷ ban nhân dân cấp
xã tạo điều kiện để người đó tìm việc làm. Đây cũng là một quy định thể hiện tư tưởng
nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người chấp hành án nhằm
hướng đến mục đích giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Việc có việc làm sẽ
giúp cho người chấp hành án đảm bảo được cuộc sống và hạn chế tái phạm.
Người được hưởng án treo thuộc đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi theo quy
định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, người đang hưởng chế độ
bảo hiểm xã hội thì vẫn được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp
luật. Đây là một quy định thể hiện tư tưởng nhân đạo, tiến bộ, đảm bảo quyền lợi ích
hợp pháp cho người chấp hành án nhằm hướng đến mục đích giúp họ trở thành người
có ích cho xã hội. Quy định này có sự khác biệt so với người chấp hành án phạt tù. Nếu
người chấp hành án phạt tù sẽ bị đình chỉ hưởng chế độ, chính sách khi bản án phạt tù
có hiệu lực và sẽ chỉ được khôi phục lại chế độ khi đã chấp hành xong hình phạt.
Ngoài ra, người được hưởng án treo được quyền khiếu nại (Điều 176 Luật
THAHS 2019), tố cáo (Điều 190 Luật THAHS 2019) theo quy định của pháp luật. Đây
là một quyền chính trị quan trọng của người chấp hành án. Trong quá trình chấp hành
án nếu các cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các quyết định, hành vi trái pháp
luật hoặc vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được
35
hưởng án treo thì họ được quyền khiếu nại, tố cáo. Việc tiếp nhận và giải quyết khiếu
nại, tố cáo của người chấp hành án được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự. Đây cũng chính là quy định quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người
chấp hành án, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, những quy định về quyền lợi của người được hưởng án treo có một
số quy định đề ra chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ việc thực hiện không có bất kỳ
cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo cho quy định đó được thực hiện.
- Về nghĩa vụ của người được hưởng án treo
Tại Điều 87 Luật THAHS năm 2019 quy định về những nghĩa vụ mà người
được hưởng án treo phải thực hiện trong quá trình chấp hành án. Cụ thể là:
Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định của Luật
THAHS năm 2019 về việc thi hành quyết định án treo; Thực hiện nghiêm chỉnh cam
kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú,
làm việc, học tập; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt
bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận; Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân
dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi cư trú, nơi làm việc; Chấp hành quy định về việc vắng mặt tại nơi cư trú,
thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc; Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân
cấp xã được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;
Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,
giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy
định tại khoản 1, Điều 92 của Luật THAHS thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được
hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Các nghĩa vụ
này được quy định nhằm đảm bảo mục tiêu giám sát, giáo dục của các cơ quan, người
có thẩm quyền đối với người chấp hành án treo.
36
Việc Luật Thi hành án hình sự 2019 và các văn bản hướng dẫn quy định rõ
quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo sẽ đảm bảo chọ họ thực hiện và bảo
vệ các quyền của mình trong quá trình chấp hành án. Tuy nhiên, quy định trong Luật
Thi hành án hình sự vẫn còn hạn chế như trong quy định về quyền của người chấp
hành án treo một số quy định ở trên chỉ mang tính chất chung chung, khẩu hiệu, bởi vì
việc đảm bảo thực hiện các quyền này không có bất kỳ cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo
cho quy định đó được thực hiện. Chẳng hạn như người được hưởng án treo được Ủy
ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện tìm việc làm nhưng trên thực tế quy định này rất khó
thực hiện bởi không có cơ chế nào ràng buộc về tính bắt buộc của quy định này.
1.2.2.5. Quy định về điều kiện và thủ tục rút ngắn thời gian thử thách
- Điều kiện để được rút ngắn thời gian thử thách:
Đây là quy định mới của Luật THAHS năm 2019 so với Luật THAHS năm
2010, Điều 89 Luật THAHS năm 2019 quy định rõ điều kiện để rút ngắn thời gian thử
thách bao gồm: Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách; Trong thời gian
thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa
vụ theo quy định tại điều 87 của LTHAHS về nghĩa vụ của người được hưởng án treo;
tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ
an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
Người được hưởng án treo chỉ được xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm 01
lần, mỗi lần từ 01 tháng đến 01 năm. Trường hợp thời gian thử thách còn lại không quá
01 tháng thì có thể được rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Người được hưởng án
treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế đã
chấp hành ba phần tư thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo và có
đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tòa án có thể rút ngắn hết thời gian
thử thách còn lại.
37
Trường hợp người được hưởng án treo đã được rút ngắn thời gian thử thách
nhưng sau đó vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 87 của Luật THAHS và bị Tòa án
quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo
thì thời gian thử thách đã được rút ngắn không được tính để trừ vào thời gian chấp
hành án phạt tù.
Việc cho người được hưởng án treo rút ngắn thời gian thử thách có thể được
xem là phần thưởng cho những nỗ lực của họ trong quá trình thi hành án treo. Việc rút
ngắn thời gian thử thách thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nhà nước, cũng như khuyến
khích người chấp hành án tích cực giáo dục cải tạo.
- Trình tự, thủ tục rút ngắn thời gian thử thách:
So với Luật THAHS năm 2010, Điều 90 Luật THAHS 2019 quy định bổ sung
thêm trách nhiệm của UBND cấp xã như sau: Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám
sát, giáo dục người được hưởng án treo có trách nhiệm rà soát người đủ điều kiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 89 của Luật này, báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu kèm theo tài liệu có liên quan
để đề nghị xét rút ngắn thời gian thử thách.
Khoản 2, Điều 90 bổ sung thêm quy định cụ thể về thời hạn đề nghị rút ngắn gởi
đến Toà án và Viện kiểm sát: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo,
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập hồ sơ và có văn bản đề nghị rút
ngắn thời gian thử thách đối với người có đủ điều kiện gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát
cùng cấp. Trường hợp xét thấy không đủ điều kiện lập hồ sơ rút ngắn thời gian thử
thách, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản thông báo cho Ủy
ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
Khoản 3, Điều 90 bổ sung thêm chi tiết về Hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử
thách bao gồm: (a) Đơn đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án
treo; (b) Bản sao bản án. Đối với trường hợp xét rút ngắn thời gian thử thách từ lần thứ
hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án treo; (c) Văn bản
38
đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo; (d) Trường hợp người được hưởng án treo được
khen thưởng hoặc lập công thì hồ sơ phải có quyết định khen thưởng hoặc giấy xác
nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người được hưởng án treo lập công; trường
hợp bị bệnh hiểm nghèo thì phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp
quân khu trở lên về tình trạng bệnh của họ; (đ) Trường hợp người được hưởng án treo
đã được rút ngắn thời gian thử thách thì phải có bản sao quyết định rút ngắn thời gian
thử thách.
Khoản 4, Điều 90 thay đổi quy định cụ thể về thời hạn thành lập Hội đồng và tổ
chức phiên họp xét rút ngắn như sau: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
người được hưởng án treo cư trú hoặc làm việc thành lập Hội đồng và tổ chức phiên
họp để xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Thành phần Hội đồng gồm 03
Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.
Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp
được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung (so với Luật THAHS năm 2010 là 15
ngày).
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc chấp nhận
toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án
treo, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan đề nghị rút ngắn thời gian thử thách, Tòa án
đã ra quyết định cho hưởng án treo, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định cho hưởng án
treo có trụ sở
Như vậy, Luật Thi hành án hình sự đã quy định rõ ràng về việc người được
hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách và trình tự, thủ tục, thẩm
quyền đề nghị, thẩm quyền quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Đảm
39
bảo cho quá trình thi hành án treo diễn ra đúng đắn và thống nhất các quy định của
pháp luật về rút ngắn thời gian thử thách.
1.2.2.6. Quy định về giải quyết trường hợp người chấp hành án treo vắng mặt
tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc
Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được hưởng án treo, trong quá trình chấp
hành án người được hưởng án treo có thể thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc. Bên cạnh
đó đế đảm bảo việc quản lý, giám sát giáo dục người được hưởng án treo trong trường
hợp họ thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy
định cụ thể hơn so với Luật THAHS năm 2010 vấn đề này như sau:
Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính
đáng và phải xin phép theo quy định, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định
của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày
và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian
thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và
phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và
được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp
không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã
nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được
hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú,
lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm
theo tài liệu có liên quan.
Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc
nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật THAHS. Người được hưởng
án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.
40
Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định về rõ việc kiểm điểm và
xử lý vi phạm đối với người được hưởng án treo đồng thời cũng quy định về trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức và gia đình người được hưởng án treo.
1.2.2.7. Quy định về trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và gia
đình đối với người được hưởng án treo
Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động thi hành án treo thì không thể thiếu sự tham
gia của cơ quan, tổ chức có liên quan và gia đình người được hưởng án treo. Vì vậy,
Điều 94 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về trách nhiệm giám sát, giáo
dục của cơ quan tổ chức có liên quan và gia đình của người được hưởng án treo là có
trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo.
Đồng thời, gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp trong
việc giám sát, giáo dục và thông báo kết quả chấp hành án của người được hưởng án
treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; phải có
mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo theo yêu cầu của Ủy ban nhân
dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục.
Mặc dù vai trò của gia đình trong quá trình thi hành án treo là vô cùng to lớn bởi
vì gia đình là nơi gần gũi nhất và tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên đối với người được
hưởng án treo nhưng lại không có quy định chế tài cụ thể để đảm bảo việc gia đình
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nước giao cho với tư cách là nơi gần gũi nhất
đối với người được hưởng án treo, đảm bảo cho quá trình thi hành án treo thực hiện
đúng với nội dung và mục đích mà Nhà nước ta đã đề ra: dù không cách ly người được
hưởng án treo khỏi xã hội nhưng vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục người phạm
tội với những hành vi sai trái trước đó nhờ vào sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ
chức ở địa phương cùng với sự giúp đỡ của chính gia đình người được hưởng án treo.
41
Tiểu Kết Chương 1
Trong Chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến Thi
hành án treo và rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi
hành án treo, cụ thể như sau:
Luận văn đã làm sáng tỏ khái niệm khoa học về thi hành án treo. Theo đó: Thi
hành án treo là tổng hợp các hoạt động do cơ quan, người có thẩm quyền theo quy
định của pháp Luật Thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người chấp hành án trong
thời gian thử thách tại cộng đồng để họ trở thành người có ích cho xã hội.
- Qua việc nghiên cứu về khái niệm thi hành án treo, luận văn đã rút ra những
đặc điểm đặc trưng về thi hành án treo đó là: Thi hành án treo là tổng hợp các hoạt
động của các chủ thể có thẩm quyền để thực hiện bản án treo trên thực tế; chủ thể thực
hiện hoạt động thi hành án là các cơ quan, người có thẩm quyền; cơ sở pháp lý để thực
hiện hoạt động thi hành án treo là quy định của pháp Luật Thi hành án hình sự; nội
dung của thi hành án treo là giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt tù được hưởng
án treo trong thời gian thử thách; địa điểm thi hành án treo là tại cộng đồng (nơi cư trú
của người chấp hành án); thi hành án treo nhằm giám sát, giáo dục người chấp hành án
trở thành người có ích cho xã hội.
- Việc thi hành án treo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ đơn thuần là
trừng trị người phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có ý nghĩa
thiết thực trong việc giúp những người đã từng có những hành vi sai trái có cơ hội để
làm lại cuộc đời của mình theo hướng tốt đẹp hơn, đảm bảo được tính nhân đạo và
khoan hồng của pháp luật.
- Việc quy định về thi hành án treo trong Luật Thi hành án hình sự phải trên cơ
sở sau đây: phải phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam là thành viên, cũng như phù hợp với tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm
42
2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Việc thi hành án hình sự được quy
định phải phù hợp với các tư tưởng chỉ đạo, chi phối định hướng quá trình thi hành án
hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng; Các quy định về thi hành án treo phải
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhằm đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thi hành án treo là tiền đề
quan trọng để nghiên cứu các quy định của Luật Thi hành án hình sự và đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt
động thi hành án treo.
Thứ hai, bên cạnh nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án
treo. Luận văn cũng phân tích và đánh giá về quy định của Luật Thi hành án hình sự
năm 2019 về thi hành án treo bao gồm: Việc ra quyết định thi hành án treo; Thi hành
quyết định thi hành án treo; Việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; Quyền
và nghĩa vụ của người được hưởng án treo; Rút ngắn thời gian thử thách; Thủ tục rút
ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo; Giải quyết việc người chấp
hành án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc; Vai trò của cơ quan, tổ chức có liên quan
và gia đình người được hưởng án treo.
Việc phân tích, đánh giá quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về thi
hành án treo là cơ sở để tác giả đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
trên thực tiễn. Trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động thi hành án treo ở Chương 2.
43
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TREO
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và phân tích quy định của Luật Thi
2.1. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
hành án hình sự năm 2019 về thi hành án treo ở Chương 1, tác giả tiến hành khảo sát
việc áp dụng các quy định của Luật Thi hành hành án hình sự về thi hành án treo trong
thực tiễn. Trong đó tác giả chỉ ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập
trên thực tiễn, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp
dụng pháp luật về thi hành án treo của các chủ thể có thẩm quyền.
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, chính trị và tình hình tội phạm tại tỉnh Tây
Ninh
Tây Ninh có vị trí địa lý:
Phía Đông giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước;
Phía Đông Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh;
Phía Nam giáp tỉnh Long An;
Phía Tây và phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia.
Điều kiện kinh tế, chính trị, tình hình tội phạm tại tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh nối cao nguyên Nam Trung bộ với đồng bằng sông Cửu Long, vừa
mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng.
Nằm ở vị trí cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh của Vương
quốc Campuchia. Tây Ninh là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, có hệ thông giao thông đặc sắc với đường biên giới dài 240km với 03 cửa
khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát và Tân Nam cùng các cửa khẩu quốc gia Chàng Riệc,
Kà Tum, Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch. Được xem là một trong những cửa
ngõ giao lưu quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan… đồng thời
44
là tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dân số tính
đến cuối năm 2018 là 1.133.400 người (niên giám Thống kê năm 2018).
Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và những công
trình nhân tạo hoành tráng, có bề dày lịch sử cách mạng Việt Nam nên có điều kiện để
phát triển đa dạng các loại hình du lịch và tâm linh như: Núi Bà Đen, Vườn Quốc gia
Lò Gò - Xa Mát, Hồ Dầu Tiếng, Toà thánh Cao đài Tây Ninh, Trung ương Cục miền
Nam, Khu địa đạo An Thới - Trảng Bàng… những điều kiện thuận lợi này đã góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển, đời sống nhân dân dần được cải
thiện; tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội có những bước chuyển
biến tích cực.
Tuy nhiên, vì là tỉnh giáp biên giới nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để các ổ
nhóm tội phạm hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn ngày càng đa
dạng, tinh vi và phức tạp. Trong đó, tội phạm giết người chủ yếu xuất phát từ những
mâu thuẫn trong sử dụng rượu bia, mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, ngoại tình.., Tội
phạm kinh tế và tham nhũng tiếp tục xảy ra nhiều trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng… Bên cạnh đó, xuất hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lĩnh vực viễn
thông, tin học, mạng internet, gia tăng thiệt hại lớn đến tài sản của công dân, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội.
Qua khảo sát thực tế theo Báo cáo của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh qua các
năm từ năm 2015 đến năm 2019 thì hiện nay số lượng bị cáo được hưởng án treo trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh thống kê cho thấy hàng năm số lượng bị cáo cho hưởng án treo
không đồng đều và tương đối tăng, vì vậy chất lượng tổ chức thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh thời gian tới sẽ là một thách thức đối với cơ quan, tổ chức được giao
giám sát, giáo dục người đang chấp hành án treo trong thời gian thử thách.
2.1.2. Thực trạng việc ra quyết định thi hành án treo
Việc ra quyết định thi hành án treo là hoạt động mở đầu cho quá trình thi hành
45
án, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Nhìn chung
trên thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập như
sau:
- Có trường hợp Toà án lạm dụng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt các
bị cáo dưới khung hình phạt và giảm tới mức đủ điều kiện để cho các bị cáo được
hưởng án treo. [26]
- Một số vụ án bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”, trong đó, hậu quả làm chết người, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo,
nhưng vẫn được Toà án cho hưởng án treo hoặc phạt tiền là không đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này tại địa phương. [26]
- Một số bản án không thể hiện rõ tên Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám
sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách và không tuyên bị cáo bị áp dụng hình
phạt tù theo khoản 5 Điều 65 BLHS nếu vi phạm nghĩa vụ thi hành án. [26]
Theo báo cáo công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2019
của Bộ Công an, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động
phức tạp, tác động đến an ninh, phát triển kinh tế toàn cầu, đặt ra nhiều thách thức đối
với nước ta. Các thế lực thù địch, phản động gia tăng hoạt động chống phá trên các lĩnh
vực; áp lực gia tăng tội phạm ngày càng lớn... đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho
công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Công tác đấu tranh trấn áp tội
phạm đạt nhiều kết quả tích cực, kiềm chế và đẩy lùi tội phạm liên quan đến tín dụng
đen, làm giảm nhiều loại tội phạm nghiêm trọng, khẩn trương điều tra làm rõ các vụ án
gây bức xúc dư luận. [17]
Tính đến năm 2019, tỉnh Tây Ninh đã chủ động nắm chắc các diễn biến tình
hình chính trị, đảm bảo ổn định an ninh khu vực biên giới; đảm bảo an ninh trong tôn
giáo và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh… Lực lượng Công an tỉnh Tây Ninh đã
chủ động phòng ngừa, tấn công, trấn áp quyết liệt các loại tội phạm. Tỷ lệ điều tra
46
khám phá án chung đạt trên 82%, án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt
94,8%. Triệt xóa 64 băng nhóm tội phạm có tổ chức; chủ động mở 09 đợt cao điểm tấn
công trấn áp các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, trong đó có tội phạm tín dụng đen,
cờ bạc, ma tuý, khai thác cát, sỏi, đảm bảo trật tự an toàn giao thông... Bên cạnh đó,
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma tuý, tội phạm về trật tự quản lý kinh tế,
chức vụ, tham nhũng, môi trường được triển khai quyết liệt, đạt nhiều kết quả. Đặc
biệt, phát hiện, bắt giữ nhiều đường dây vận chuyển ma tuý từ Campuchia qua biên
giới tỉnh Tây Ninh về Việt Nam tiêu thụ [7]. Công an các đơn vị, địa phương trong
toàn tỉnh đã tập trung làm tốt công tác phòng ngừa nghiệp vụ gắn với phòng ngừa xã
hội; xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng địa bàn, từng khu dân cư, hỗ
trợ đắc lực cho đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; giữ vững ổn định an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trong thời gian qua Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã áp dụng án treo khá phổ
biến, điều này thể hiện sự thay đổi nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật của
các chủ thể có thẩm quyền. Khảo sát số liệu thống kê của Toà án nhân dân tỉnh Tây
Ninh từ năm 2015 – 2019 thì số lượng, tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo thể hiện cụ thể
qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1 Số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh từ năm 2015 đến năm 2019
Tổng số vụ án Tổng số bị cáo bị Số bị cáo được Tỉ lệ Năm hình sự đã xét xử xét xử hưởng án treo (%)
2015 1271 2397 6,8 164
2016 1192 1852 6,2 114
2017 1049 1351 9,9 134
2018 1376 2462 0,3 08
2019 1321 2625 11,2 295
47
Trung bình 1242 2137 143 6,8
(Nguồn: Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh)
Nhìn vào bảng thống kê số liệu, tỉ lệ bị cáo được hưởng án treo so với tổng số bị
cáo đã xét xử trên toàn tỉnh Tây Ninh có thể thấy rằng:
So với tổng số bị cáo đã bị xét xử trong mỗi năm, số lượng bị cáo được hưởng
án treo tăng giảm không đồng đều, cụ thể như sau:
- Năm 2015, số bị cáo bị đưa ra xét xử là 2397 bị cáo, số bị cáo được hưởng án
treo là 164 bị cáo, chiếm 6,8 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử.
- Năm 2016, số bị cáo bị đưa ra xét xử là 1852 bị cáo, số bị cáo được hưởng án
treo là 114 bị cáo, chiểm 6,2 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy so với năm
2015, số bị cáo bị đưa ra xét xử giảm 545 bị cáo, số bị cáo được hưởng án treo cũng
giảm, cụ thể là giảm 50 bị cáo.
- Năm 2017, số bị cáo được đưa ra xét xử là 1351 bị cáo, số bị cáo được hưởng
án treo là 134 bị cáo, chiếm 9,9 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy, so với năm
2016, số bị cáo bị đưa ra xét xử giảm 501 bị cáo, nhưng số bị cáo được hưởng án treo
có chiều hướng gia tăng, cụ thể là tăng 20 bị cáo.
- Năm 2018, số bị cáo được đưa ra xét xử là 2462 bị cáo, số lượng bị cáo được
hưởng án treo là 08 bị cáo, chiếm 0,3 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Nhìn chung,
trong năm 2018, số bị cáo được đưa ra xét xử tăng cao đáng kể, tuy nhiên số bị cáo
được hưởng án treo giảm mạnh, một con số thấp hơn hẳn những năm về trước rất
nhiều. Phải chăng tình hình tội phạm năm này ngày càng diễn biến phức tạp và mang
tính chất nghiêm trọng hơn nên số lượng tội phạm được hưởng án treo ngày càng hạn
chế.
- Năm 2019, số bị cáo được đưa ra xét xử là 2625 bị cáo, số lượng bị cáo được
hưởng án treo là 295 bị cáo, chiếm 11,2 % tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Như vậy,
tình hình tội phạm năm 2019 có chiều hướng gia tăng hơn nữa, thể hiện ở chỗ số lượng
48
bị cáo được đưa ra xét xử tăng cao nhất trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm
2019. Tuy nhiên số lượng bị cáo được hưởng án treo cũng gia tăng, điều này thể hiện
quan điểm, tư tưởng cũng như sự thay đổi nhận thức về áp dụng pháp luật của chủ thể
có thẩm quyền về áp dụng án treo.
Số liệu trên cho ta thấy thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
trong những năm trở lại đây, đặc biệt là giai đoạn 2015-2019 diễn ra không đồng đều,
có chiều hướng tăng chậm so với tổng số bị cáo được đưa ra xét xử, điều này thể hiện
tính chất nguy hiểm của tội phạm trên phạm vi toàn tỉnh ngày một nghiêm trọng.
Từ thực tế nêu trên, có thể thấy việc áp dụng án treo là chưa hiệu quả, có thể
chưa được sự ủng hộ đồng tình của dư luận xã hội nên việc áp dụng biện pháp này có
phần hạn chế hơn. Vì vậy, cần có sự phối hợp của các ngành chức năng có liên quan,
đặc biệt là công tác thống kê tội phạm và khoa học xét xử. Việc áp dụng án treo phù
hợp hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Theo tác giả, việc áp dụng án treo phù hợp và
đúng pháp luật, một mặt sẽ khuyến khích người phạm tội thấy được sự khoan hồng của
Nhà nước mà tích cực tự cải tạo mình, giáo dục người phạm tội so với việc cải tạo,
giáo dục họ trong trại giam. Mặt khác, việc áp dụng án treo không phù hợp sẽ đem lại
tác động xấu đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, không đạt
được mục đích và ý nghĩa của hình phạt.
Có thể thấy rằng, UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay đang quản
lý, giám sát và giáo dục với số lượng không nhiều người được hưởng án treo theo
quyết định của Toà án. Việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của UBND
cấp xã trong thời gian qua cũng đã phần nào tạo điều kiện cho người được hưởng án
treo làm việc, sinh sống và học tập ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự
trực tiếp giám sát, giáo dục của người được phân công, của cơ quan, tổ chức có liên
quan và cả gia đình người được hưởng án treo.
49
2.1.3. Thực trạng việc thi hành quyết định thi hành án treo
Việc áp dụng án treo khi xét thấy không thật sự cần thiết phải cách ly bị cáo
bằng một bản án với hình phạt tù thì Tòa án nên lựa chọn chế định án treo để có thể
giảm bớt áp lực về ngân sách Nhà nước.
Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp huyện có vai trò quan trọng
trong việc thi hành quyết định thi hành án treo. Các cơ quan này có mối quan hệ mật
thiết với quá trình thi hành án treo tại địa phương, giúp cho công tác thi hành án nói
chung và thi hành án treo nói riêng diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi
tiếp nhận bản án, quyết định thi hành án treo và các tài liệu liên quan do Tòa án chuyển
giao, Cơ quan thi hành án hình sự Cấp huyện, triệu tập người được hưởng án treo đến
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục, để cam kết chấp
hành án, lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã. Kể từ ngày triệu
tập người được hưởng án treo, UBND cấp xã lập hồ sơ tổ chức thực hiện công tác quản
lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Nhìn chung trong thời gian qua việc
thi hành quyết định thi hành án treo được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong hoạt động thi hành
quyết định thi hành án treo.
Một là, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trong một số trường hợp
không triệu tập được người được hưởng án treo trong thời hạn theo luật định. Người
được hưởng án treo không chịu có mặt theo giấy triệu tập. Khi cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện bàn giao hồ sơ thi hành án treo về UBND cấp xã thì không
tiến hành bàn giao người phải thi hành án (khoản 1, khoản 2, Điều 85 Luật THAHS
2019), vì vậy có một số người được hưởng án treo không có mặt tại UBND xã được
giao giám sát, giáo dục theo quy định và UBND xã cung không biết họ ở đâu, làm gì
[28].
Hai là, việc triệu tập người được hưởng án treo và người đại diện trong trường
hợp người được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi gặp khó khăn trên thực tiễn khi
50
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định biện pháp cưỡng chế mang tính
nghiêm khắc để đảm bảo sự có mặt của người được hưởng án treo hoặc người đại diện
theo giấy triệu tập, có thể thấy đây là một hạn chế lớn cho quá trình thi hành án nói
chung và thi hành án treo nói riêng.
Trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về việc phải có mặt của
người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo nếu người đó là người dưới 18
tuổi, nhưng thực tiễn một số địa phương các cơ quan thi hành án lại không triệu tập
người đại diện của người được hưởng án treo nên hoạt động lập hồ sơ thi hành án
không đúng theo quy định của pháp luật. Từ đó dẫn đến việc hủy bỏ và phải thực hiện
lại các thủ tục thi hành án làm cho việc thi hành án bị chậm trễ, ảnh hưởng đến chất
lượng thi hành án. Ngoài ra, có trường hợp người được hưởng án treo có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần nhưng Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định về
việc phải có người đại diện của người được hưởng án treo dẫn đến thực tiễn áp dụng
gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người được hưởng án
treo, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục người được hưởng án treo. Đồng thời, việc
luật chỉ quy định triệu tập người đại diện của người được hưởng án treo nhưng lại
không quy định cụ thể những quyền mà họ có cũng như những nghĩa vụ mà họ phải
thực hiện. Hơn thế nữa, không có bất cứ quy định mang tính pháp lý, ràng buộc nào đối
với người đại diện của người được hưởng án treo nếu người này có hành vi cố tình
không có mặt tại buổi triệu tập của Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp
huyện hoặc trong buổi kiểm điểm người chấp hành án. Điều này có thể ảnh hưởng đến
hoạt động thi hành án hình sự, thậm chí là không thể thực hiện được. [28]
2.1.4. Thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo
Trong quá trình tổ chức thi hành án treo thời gian qua, việc chấp hành quy định
về thủ tục, giám sát và giáo dục người được hưởng án treo tại các địa phương cơ bản
được bảo đảm. Phần lớn UBND cấp xã sau khi tiếp nhận hồ sơ thi hành án từ cơ quan
51
Công an cấp huyện đã lập hồ sơ và tiến hành phân công người trực tiếp giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo theo quy định, định kỳ theo quy định nhận xét bằng văn
bản về quá trình chấp hành án của họ. Qua quá trình giám sát và giáo dục, một số
UBND cấp xã cũng đã làm tốt công tác lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem
xét việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo chấp hành tốt
nghĩa vụ thi hành án. Một số địa phương đã tổ chức các biện pháp giáo dục, phòng
ngừa phạm tội mới, thông qua việc thường xuyên gặp gỡ các đối tượng nhằm kịp thời
phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể nói, Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục cùng với Cơ quan thi hành án hình sự thuộc
Công an cấp huyện là các mắt xích quan trọng nhất trong quá trình hiện thực hóa các
quy định pháp luật về thi hành án treo trong thực tế và giám sát, giáo dục được người
được hưởng án treo một cách sâu sát trong quá trình họ chấp hành án treo.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và những kết quả đã đạt được trong
thời gian qua thì công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của Ủy ban
nhân dân cấp xã còn nhiều thiếu sót, tồn tại. Một số UBND cấp xã đã không thực hiện
tốt những nhiệm vụ cũng như sử dụng hiệu quả và hợp lý những quyền hạn mà pháp
luật quy định [28]. Vẫn còn một số Ủy ban nhân dân chưa thực sự quan tâm thực hiện
nghiêm chỉnh trình tự, thủ tục thi hành án treo từ đó làm ảnh hưởng việc thi hành án.
Vì vậy, đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả của việc giáo dục, răn đe và phòng ngừa
tội phạm trong thi hành án hình sự. Các vi phạm này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, sau khi tiếp nhận hồ sơ thi hành án treo từ cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện, một số UBND cấp xã chưa triển khai ngay việc tổ chức giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo mà để một thời gian dài sau đó mới thực hiện. Có
những trường hợp sau khi tiếp nhận hồ sơ đã để mặc đó, không có hoạt động gì, chỉ
đến khi hết thời gian thử thách thì mới làm các thủ tục để hợp lý hoá hồ sơ đề nghị cấp
giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách cho người được hưởng án treo.
Những sai phạm này đã vi phạm quy định tại Điều 19, Điều 86 Luật THAHS năm 2019
52
về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong thi hành án hình sự nói chung và thi
hành án treo nói riêng.
UBND cấp xã chưa xây dựng được kế hoạch giám sát, giáo dục cụ thể đối với
người thi hành án treo tại địa phương; chưa có biện pháp phối hợp với gia đình cũng
như các tổ chức khác để giám sát, giáo dục có hiệu quả người được hưởng án treo (Hồ
sơ thi hành án treo Nguyễn Văn Hào, phạm tội Trộm cắp tài sản, thời gian thử thách từ
ngày 20/5/2016 đến ngày 19/01/2018); chưa yêu cầu người được hưởng án treo thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và cũng không có biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi
họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Việc không thường xuyên giám sát, giáo dục dẫn
đến tình trạng UBND cấp xã không nắm được quá trình tự cải tạo của người được
hưởng án treo. Vì vậy, việc kiểm điểm hay biểu dương khen thưởng thưởng không
được tiến hành trên thực tế. Điều này cũng làm cho người được hưởng án treo không
có thái độ nghiêm túc trong quá trình chấp hành án tại địa phương.
Thứ hai, việc mở sổ sách theo dõi thi hành án và việc ghi chép cập nhật, quản lý
người được hưởng án treo ở một số UBND cấp xã chưa nghiêm túc, còn nhiều thiếu sót
như không ghi đầy đủ các cột mục, ghi sai thông tin. Nhiều đơn vị vẫn còn sử dụng
mẫu cũ hoặc sổ tự chế để theo dõi chưa đúng theo mẫu quy định tại Thông tư
63/2011/TT-BCA ngày 07/09/2011 của Bộ Công an về quy định các loại biểu mẫu, sổ
sách công tác THAHS [2].
Ở một số UBND cấp xã, hồ sơ quản lý còn lộn xộn, không tách riêng tài liệu của
từng người được hưởng án treo, hồ sơ không có bìa, không đánh số bút lục, không có
bảng kê tài liệu…(hồ sơ thi hành án treo Nguyễn Văn Điều, phạm tội Sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, thời gian thử thách từ ngày 22/4/2015 đến ngày
22/4/2017).
Thứ ba, trong quá trình chấp hành án treo, người được hưởng án treo tự ý bỏ đi
khỏi nơi cư trú, hoặc có xin phép chính quyền địa phương vắng mặt tại địa phương
nhưng sau đó không trở về nữa, về phía gia đình và chính quyền địa phương cũng
53
không biết người được hưởng án treo đang làm gì, ở đâu, do đó hồ sơ thi hành án treo
do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý không thể tiếp tục thi hành được.
Có một số trường hợp người chấp hành án đã hết thời gian thử thách nhưng vẫn
triệu tập để làm bản tự nhận xét.
Thứ tư, việc phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo nếu không phù hợp và người đó không nắm rõ những quy định về pháp luật về thi
hành án nói riêng và pháp luật hình sự nói chung có thể gây phương hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo đồng thời làm cho mục đích ban đầu
của việc thi hành án treo không được đảm bảo. Một số trường hợp khi phân công người
trực tiếp giám sát, giáo dục, UBND cấp xã không ra quyết định phân công hoặc chậm
ra quyết định phân công (hồ sơ thi hành án treo Trần Hữu Thọ, phạm tội Đánh bạc,
thời gian thử thách từ ngày 01/6/2015 đến ngày 01/6/2018); không lập hoặc chậm
chuyển hồ sơ cho người hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú, từ chối lập hồ sơ đề
nghị xem xét rút ngắn thời gian thử thách;... Ngoài ra, sự quản lý lỏng lẽo, chỉ mang
tính hình thức của bản thân cán bộ được phân công quản lý, giám sát người chấp hành
án nói riêng và Ủy ban nhân dân có thẩm quyền nói chung đã khiến cho việc quản lý
không đạt được hiệu quả như mong muốn của các nhà làm luật. Từ đó khiến cho tình
trạng người được hưởng treo thường xuyên vắng mặt, đi khỏi nơi cư trú mà không có
sự cho phép và không có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã. Chính vì sự
quản lý lỏng lẽo đó khiến việc pháp luật có quy định cho Ủy ban nhân dân cấp xã có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chỉ là quyền mang tính chất hình thức chứ
không phải là quyền thực chất.
Ngoài ra, Ủy ban nhân dân cấp xã cơ bản chưa chủ động trong việc đào tạo
nghề, giới thiệu việc làm cho người được hưởng án treo trong trường hợp người được
hưởng án treo không có công ăn việc làm. Trường hợp không có công việc ổn định
cũng có thể là nguyên nhân khiến cho người chấp hành phạm tội hoặc tái phạm tội, khó
khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã cần chủ
54
động hơn trong việc đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho người được hưởng án treo để
họ có thể kiếm thêm thu nhập, vượt qua mặc cảm và dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ năm, việc bàn giao hồ sơ thi hành án cho Cơ quan thi hành án Công an cấp
huyện để cấp giấy chứng nhận cho những trường hợp người được hưởng án treo đã
chấp hành xong thời gian thử thách ở một số UBND cấp xã còn chậm, thời gian chấp
hành án đã hết từ lâu nhưng vẫn chưa bàn giao hồ sơ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của người được hưởng án treo. Có trường hợp cấp giấy chứng nhận đã chấp hành
xong thời gian thử thách cho người được hưởng án treo chậm hơn một năm.
Tóm lại, mặc dù có những hạn chế nhất định trong quá trình thi hành án nhưng
không thể phủ nhận được những vai trò, tác động to lớn của Ủy ban nhân dân cấp xã
được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát người được hưởng án treo. Để Ủy ban nhân dân
cấp xã có thể hoàn thành một cách hoàn toàn và triệt để những nhiệm vụ mà mình được
giao trong quá trình thi hành án hình sự trong lĩnh vực án treo thì không thể không
nhắc đến vai trò tham mưu của Công an cấp xã. Trên thực tế, Công an cấp xã vừa tham
mưu, vừa có thể được phân công trực tiếp tổ chức giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo tại địa phương. Mặc dù có khá nhiều hạn chế về lực lượng, phương tiện,
điều kiện, công việc áp lực,… nhưng lực lượng Công an cấp xã cũng đã thường xuyên,
nhanh chóng nắm bắt tình hình chấp hành án treo, chấp hành pháp luật, thái độ, tình
trạng sinh hoạt và làm việc của người được hưởng án treo. Để từ đó có thể tạo được
những điều kiện tốt nhất để người được hưởng án treo có thể nhanh chóng hòa nhập
với cộng đồng, tránh tình trạng tái phạm và có ý thức phấn đấu vươn lên góp phần
nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án treo. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những
trường hợp chưa thực hiện tốt trách nhiệm tham mưu, kịp thời đề xuất những giải pháp
quản lý giáo dục người chấp hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc có trường hợp
Ủy ban nhân dân cấp xã phó mặc cho Công an xã.
2.1.5. Thực trạng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án
treo
55
Thứ nhất, về phía người được hưởng án treo
Nhìn chung, trong quá trình tổ chức thi hành án treo, người được hưởng án treo
đã tự giác chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ cũng như cam kết của mình trong việc
tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư
trú, làm việc; tích cực trong việc tham gia lao động, học tập, có đủ điều kiện để được
xem xét rút ngắn thời gian thử xách theo quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều lý
do khách quan và chủ quan dẫn đến vẫn còn tồn tại khá nhiều trường hợp như sau:
Người được hưởng án treo cố ý nhiều lần vi phạm nghĩa vụ chấp hành án quy
định tại Điều 87 Luật THAHS năm 2019 (trước đây là Điều 64 Luật THAHS năm
2010), đã được Ủy ban nhân dân cấp xã, người được phân công giám sát giáo dục,
nhắc nhở nhưng người được hưởng án treo vẫn tiếp tục không chấp hành nghĩa vụ thi
hành án như: Chống đối cán bộ giám sát giáo dục, không viết, không nộp bản tự nhận
xét, không có mặt ở cuộc họp kiểm điểm tại cộng đồng dân cư nơi người được hưởng
án treo cư trú, không chấp hành các quy định của địa phương nơi cư trú…
Người được hưởng án treo chưa tự giác, tích cực lao động, không chủ động học
nghề hay tìm kiếm việc làm. Mặt khác, các cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án
treo đang làm việc thường không thiện chí đối với người đang chấp hành án treo nên có
nhiều trường hợp đã cắt hợp đồng, buộc thôi việc khi bị kết án hoặc không nhận người
đang được hưởng án treo vào làm việc gây khó khăn trong việc đảm bảo quyền lợi
cũng như giáo dục người được hưởng án treo.
Thứ hai, về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo.
Các cơ quan có thẩm quyền về cơ bản đã thực hiện tốt các quy định của pháp
luật trong việc đảm bảo các quyền, lợi ích cho người được hưởng án treo trong thời
gian thử thách. Các cơ quan có thẩm quyền đã chủ động, sáng tạo trong việc giới thiệu
việc làm cho người được hưởng án treo, lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
cho người được hưởng án treo khi họ đủ điều kiện luật định.
56
Việc làm thủ tục giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi
cư trú còn nhiều lúng túng và chưa đảm bảo thời hạn luật định.
Việc tạo điều kiện cho người được hưởng án treo tìm việc làm còn chưa khả thi.
Bên cạnh đó còn có bất cập về căn cứ pháp luật cũng như chưa có sự thống nhất
về nhận thức áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan pháp luật khi
thực hiện nhiệm vụ.
2.1.6. Thực trạng việc thực hiện thủ tục rút ngắn thời gian thử thách
Việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo trong thời
gian qua đã được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo
kịp thời quyền lợi của người chấp hành án, cũng như góp phần khuyến khích động viên
người chấp hành án tích cực học tập, lao động, lập công để được hưởng chính sách
nhân đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, việc lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách
cho người được hưởng án treo còn chậm hoặc chưa đúng luật định, hàng năm số người
được hưởng án treo được rút ngắn thời gian thử thách còn ít, có một số trường hợp do
không nắm được quá trình tự cải tạo của họ nên việc xem xét rút ngắn thời gian thử
thách không được tiến hành thường xuyên, có địa phương trong nhiều năm liền không
có trường hợp nào được rút ngắn thời gian thử thách nên chưa khuyến khích và động
viên người được hưởng án treo tích cực cải tạo cũng như nêu gương cho những người
khác.
Bên cạnh đó, trên thực tế vẫn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp
dụng các quy định của pháp luật về thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người được
hưởng án treo, cụ thể:
Đối với Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện: một số trường hợp đề
nghị rút ngắn thời gian thử thách không đúng quy định như chưa chấp hành đủ thời
gian thử thách, người chấp hành án chưa chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ cam kết
trong thời gian chấp hành án, người được hưởng án treo chưa chấp hành xong hình
57
phạt bổ sung; một số trường hợp đề nghị rút ngắn thời gian thử thách vượt quá thời hạn
pháp luật quy định.
Đối với Tòa án: một số trường hợp Tòa án rút quá thời gian thử thách (thời gian
thử thách được rút ngắn vượt quá thời gian thử thách); có trường hợp thời gian thử
thách được rút ngắn còn dài hơn thời gian thử thách còn lại; có trường hợp thành phần
tham gia rút ngắn thời gian thử thách của án treo không đúng quy định của pháp luật.
2.1.7. Thực trạng việc giải quyết trường hợp người chấp hành án treo vắng mặt
tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc
Để tạo điều kiện cho người chấp hành án treo giáo dục, cải tạo để trở thành
người có ích cho xã hội, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định chặt chẽ về
việc giải quyết trường hợp người chấp hành án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc.
Điều này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc thực hiện vấn đề này trên thực tiễn
nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người chấp hành án. Trong những năm qua
các chủ thể có thẩm quyền đã thực hiện tốt việc thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc cho
người chấp hành án. Hồ sơ giải quyết được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, sự phối
hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động này chặt chẽ, nhịp nhàng đảm
bảo hiệu quả của hoạt động này trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh việc giải quyết cho
người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc vẫn còn những hạn chế,
vướng mắc nhất định. Chẳng hạn: một số trường hợp người được hưởng án treo muốn
thay đổi nơi cư trú đã thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo
dục nhưng các chủ thể này chậm thông báo, đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự công
an cấp huyện để làm hồ sơ, thủ tục thay đổi. Đối với người được hưởng án treo, khi
Toà án ra quyết định thi hành án và chuyển kèm theo bản án đến Cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện để thi hành nhưng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện không thể thực hiện việc triệu tập người được hưởng án treo đến làm các thủ tục
cần thiết theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật THAHS năm 2019, vì người được
hưởng án treo không có mặt tại địa phương, chính quyền địa phương cũng như gia đình
58
không biết người được hưởng án treo đi đâu, làm gì. Đây là một trong những vướng
mắc, gây lúng tung cho các cơ quan chức năng trong quá trình thi hành Luật THAHS
hiện nay, dẫn đến bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án không được thi hành
trong thực tế, pháp chế bị xâm hại và làm cho hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp
luật bị giảm sút.
2.1.8. Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ
chức và gia đình người được hưởng án treo
Như chúng ta đã biết, vai trò của cơ quan, tổ chức và gia đình là không thể phủ
nhận được trong quá trình giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc phối hợp
giữa gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người đó đang làm việc thể hiện tư duy pháp lý
độc đáo của các nhà làm luật. Sở dĩ nói như vậy là vì giám sát và giáo dục người được
hưởng án treo thôi là chưa đủ mà còn phải quan tâm, phối hợp với những người thân,
cơ quan và tổ chức có liên hệ mật thiết với người được hưởng án treo để từ đó có thể
có sự gắn kết và dễ dàng trao đổi tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người được
hưởng án treo. Đó chính là một trong những tiền đề quan trọng để người được hưởng
án treo có thể tái hoà nhập với cộng đồng và giảm thiểu nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên,
đây cũng chỉ là những quy định rất khó thực hiện vì việc UBND cấp xã phối hợp với
gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người được hưởng án treo làm việc dường như là
không có, nếu có cũng chỉ là mang tính chất hình thức mà không có thực chất.
Bên cạnh đó, vẫn tồn tại rất nhiều trường hợp người được hưởng án treo chịu
những tác động xấu, tiêu cực ngay từ phía gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người đó
làm việc nhưng không có sự quan tâm cần thiết của Ủy ban nhân dân cấp xã, người
được phân công trực tiếp giám sát, theo dõi, giáo dục. Nhiều trường hợp, cả Ủy ban
nhân dân cấp xã, người được trực tiếp phân công quản lý, gia đình, cơ quan và tổ chức
nơi người đó làm việc đều không quan tâm trong quá trình giám sát, theo dõi khiến cho
người được hưởng án treo dễ rơi vào tình trạng tái phạm.
59
Ngoài những hạn chế đã phân tích ở trên, trong thời gian qua trên thực tiễn còn
xảy ra những sự kiện pháp lý liên quan đến hoạt động thi hành án treo nhưng chưa có
quy định điều chỉnh của pháp luật dẫn đến thực tiễn áp dụng gặp lúng túng, vướng
mắc.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thi hành án treo trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh
Trong thời gian qua, quá trình thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo
nói riêng diễn ra khá hiệu quả, theo đúng trình tự, thủ tục luật định và đang đi đúng với
những mục đích và yêu cầu mà Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những
thực trạng, hạn chế vẫn còn tồn tại trong quá trình thi hành án treo. Theo quan điểm
của tác giả, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp
luật về thi hành án treo như đã phân tích ở trên bao gồm các nguyên nhân sau đây:
2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật về thi hành án treo
Như đã phân tích lồng ghép trong nội dung về quy định của Luật Thi hành án
hình sự và thực trạng áp dụng quy định của Luật Thi hành án hình sự về thi hành án
treo. Chất lượng công tác thi hành án treo tại địa phương có hiệu quả hay không phụ
thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt động của người được phân công trực tiếp giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo. Nếu họ nắm bắt được quá trình thi hành án của người
được hưởng án treo và tham mưu cho UBND cấp xã có kế hoạch giám sát, giáo dục
hiệu quả thì chất lượng công tác thi hành án treo được nâng cao. Trong thời gian qua,
việc phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo ở một số
địa phương trên địa bàn tỉnh cũng đã mang lại nhiều kết quả nhất định. Một số người
được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục đã theo dõi, nhắc nhở và giúp đỡ người
được hưởng án treo trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, tích cực tham gia lao
động sản xuất. Tuy nhiên, một số quy định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019
60
về thi hành án treo còn chưa rõ ràng cụ thể hoặc chưa đầy đủ, dẫn đến thực tiễn áp
dụng còn gặp nhiều lúng túng, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thi hành án cụ
thể:
Thứ nhất, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về ra quyết định thi hành án
treo.
Việc ra quyết định thi hành án treo hiện nay nằm rải rác ở nhiều văn bản khác
nhau, chưa có quy định thống nhất dẫn đến khó khăn trong thực tiễn ra quyết định,
cũng như gây khó khăn cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giám sát hoạt
động ra quyết định thi hành án treo. Hơn nữa một số văn bản hướng dẫn cho BLTTHS
năm 2003 hoặc Luật THAHS năm 2010 nên về nguyên tắc đã hết hiệu lực thi hành.
Thứ hai, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về người đại diện của người
được hưởng án treo là người dưới 18 tuổi.
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định về việc phải có người đại
diện của người được hưởng án treo trong trường hợp người được hưởng án treo có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng
của người được hưởng án treo, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục người được hưởng
án treo. Mặt khác, luật chỉ quy định triệu tập người đại diện của người được hưởng án
treo nhưng lại không quy định cụ thể những quyền mà họ có cũng như những nghĩa vụ
mà họ phải thực hiện. Điều này làm cho quy định về sự có mặt của người đại diện hợp
pháp mang tính hình thức và chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của người đại
diện hợp pháp trong việc giáo dục, cải tạo người chấp hành án treo.
Thứ ba, những hạn chế, thiếu sót trong quy định về bảo đảm cơ sở vật chất phục
vụ hoạt động thi hành án hình sự
Pháp luật thi hành án hình sự chưa quy định chế độ phụ cấp, đãi ngộ đối với
những người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
Hiện nay, theo Điều 171 Luật THAHS năm 2019 khi quy định về “Bảo đảm cơ sở vật
chất phục vụ hoạt động thi hành án hình sự” thì căn cứ yêu cầu công tác thi hành án
61
hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ sở vật
chất của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm đất
đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao thông,
thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất, kỹ thuật khác; ưu tiên
bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đặc biệt
khó khăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong khi đó,
UBND cấp xã theo quy định của Luật THAHS năm 2019 là cơ quan được giao một số
nhiệm vụ thi hành án hình sự, trực tiếp tổ chức công tác thi hành án treo và cải tạo
không giam giữ trực tiếp tại địa phương nhưng lại không được bảo đảm cơ sở vật chất
phục vụ hoạt động thi hành án hình sự của mình. Vì vậy, người được phân công trực
tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cũng không có chế độ bồi dưỡng,
phụ cấp tương xứng nên thiếu tâm huyết trong việc thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, hoạt
động giám sát, giáo dục của người được phân công trực tiếp làm nhiệm vụ này chỉ
mang tính hình thức, không phát huy được hiệu quả trên thực tế.
Thứ tư, Luật Thi hành án hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có
quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể của người được phân công trực tiếp
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Điều này dẫn đến việc giám sát, giáo dục
mang tính hình thức, không hiệu quả. Luật cũng chưa quy định về trách nhiệm pháp lý
đối với người được phân công trực tiếp quản lý, giám sát giáo dục người được hưởng
án treo cũng như về phía Ủy ban nhân dân cấp xã trong trường hợp người thi hành án
treo vi phạm nghĩa vụ thi hành án. Bên cạnh đó, Luật cũng chưa quy định rõ về phụ
cấp, chế độ đãi ngộ, chính sách, quyền lợi cụ thể đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý, theo dõi, tham mưu và được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo nên chưa khuyến khích họ tích cực nhiệt tình trong công việc.
2.2.2. Các nguyên nhân khác
Hiện nay, nhiệm vụ và quyền hạn của người được phân công trực tiếp giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo được quy định tại Điều 9 Nghị định số
62
61/2000/NĐ-CP quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhưng qua thực
tiễn tại UBND cấp xã trong thời gian qua, đa số các UBND cấp xã; lực lượng công an
cấp xã và ngay cả lực lượng công an chuyên nghiệp làm việc tại cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện đều cho rằng nghị định trên đã không còn hiệu lực áp dụng
khi Luật THAHS năm 2019 được ban hành, do đó các quy định tại Nghị định trên
không còn được áp dụng trên thực tế. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của người
được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tại Nghị định
trên sẽ không tạo ra sự thống nhất và hiệu quả cao trong việc áp dụng pháp luật so với
việc quy định trong Luật THAHS năm 2019.
Tại một số huyện có địa bàn hành chính rộng như huyện Tân Châu, Tân Biên,
Châu Thành, số lượng người chấp hành án treo đến năm 2019 tương đối tăng, do đó
lực lượng Công an cấp xã gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt tình hình chấp hành
án của người được hưởng án treo. Vì vậy, công tác tham mưu của lực lượng công an xã
còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo của UBND cấp xã.
Một số quy định của Luật Thi hành án hình sự quy định về quyền của người
được hưởng án treo chỉ mang tính chất chung chung, khẩu hiệu bởi vì việc đảm bảo
thực hiện các quyền này không có bất kỳ cơ sở pháp lý đi kèm đảm bảo cho quy định
đó được thực hiện. Chẳng hạn như người được hưởng án treo được Ủy ban nhân dân
cấp xã tạo điều kiện tìm việc làm nhưng trên thực tế quy định này rất khó thực hiện bởi
không có cơ chế nào ràng buộc về tính bắt buộc của quy định này.
Đối với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và gia đình người được hưởng án
treo, luật thi hành án hình sự cũng chưa quy định một biện pháp nào mang tính ràng
buộc pháp lý cụ thể để đảm bảo cho cơ quan, tổ chức và gia đình phía người được
hưởng án treo thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình theo luật định. Từ đó dẫn
đến việc làm ảnh hưởng tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả đã đề ra với mục
đích thi hành án treo.
63
- Về phía người có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo.
Nhìn chung người có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án treo đã phát huy
tốt tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng đắn, đầy đủ quy định của pháp Luật Thi hành
án hình sự, đảm bảo tốt hiệu quả thi hành án. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận người có
thẩm quyền chưa làm hết tinh thần trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế dẫn đến không thực hiện đúng đắn, kịp
thời việc tổ chức thi hành và thi hành án treo, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp
của người chấp hành án. Đặc biệt là các cán bộ trong Ủy ban nhân dân cấp xã được
phân công thường kiêm nhiệm việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong
khi khối lượng công việc nhiều, lại không được đào tạo chuyên sâu về công tác thi
hành án hình sự nói chung và thi hành án án treo nói riêng nên không thể tránh khỏi
những vi phạm sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, việc giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo đòi hỏi người được phân công làm nhiệm vụ này phải có
những kiến thức, kỹ năng nhất định về nghiệp vụ công tác thi hành án treo. Theo quy
định tại khoản 2, Điều 170 Luật THAHS năm 2019 thì “Người làm công tác thi hành
án hình sự phải được đào tạo, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng pháp luật
phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao” [25], thực tế những người được phân
công giám sát, giáo dục người được hưởng án treo chưa được quan tâm, đầu tư tập
huấn nghiệp vụ về thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng. Việc
phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục hiện nay chỉ tồn tại trên hồ sơ khi người
được phân công này không có hoạt động giám sát, giáo dục nào trên thực tế vì họ
không biết công việc cụ thể phải làm gì và làm như thế nào, có chăng chỉ là theo dõi
xem người được hưởng án treo hiện nay có hay vắng mặt ở địa phương hay không để
báo cáo UBND cấp xã khi có yêu cầu hoặc khi có kiểm tra, kiểm sát. Việc người trực
tiếp giám sát, giáo dục buông lỏng hoạt động giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo đã dẫn đến tình trạng người được hưởng án treo không tự giác chấp hành nghĩa vụ
thi hành án, coi thường pháp luật, trật tự kỷ cương nên có một số trường hợp lại tiếp
64
tục phạm tội, phải xử lý theo quy định của pháp luật. Cuối cùng, giao nhiệm vụ giám
sát, giáo dục cho cán bộ trong Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không có bồi dưỡng
pháp luật phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Về phía người được hưởng án treo.
Nhiều người ý thức chấp hành pháp luật còn thấp, trình độ văn hóa, trình độ
nhận thức còn hạn chế nên không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết. Thực tiễn
cho thấy có một số người được hưởng án treo không hiểu rõ bản chất của hoạt động
chấp hành án nên họ có tâm lý coi án treo không phải là bị kết án hoặc biết bản thân
đang phải chấp hành án treo nhưng có thái độ chống đối, bất cần, coi thường pháp luật,
coi thường người giám sát, giáo dục hoặc cố ý trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ
chấp hành án, dẫn đến tình trạng chấp hành án mang tính hình thức, không có giá trị,
hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, không có giá trị cải tạo đối với người chấp hành án.
- Về công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát trong quá trình thi hành án treo.
Các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án
hình sự và chính quyền địa phương còn thiếu sự quan tâm đúng mực, chưa làm hết
trách nhiệm và thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với nhau để đạt hiệu quả trong thi
hành án treo. Đặc biệt là sự phối hợp của Ủy ban nhân dân cấp xã với người được phân
công nhiệm vụ giám sát, giáo dục và với cơ quan, tổ chức và gia đình người được
hưởng án có phần lỏng lẽo, rời rạc và chỉ mang tính luật định, không thực chất.
- Về điều kiện cơ sở vật chất.
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thi hành án treo còn
chưa được trang bị đồng bộ, hiệu quả, còn nhiều hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động quản lý hồ sơ, sổ sách về thi hành án treo còn chưa được
quan tâm, đầu tư đúng mức.
- Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
65
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao trình độ, nhận thức
pháp luật và ý thức pháp luật liên quan đến thi hành án treo chưa được quan tâm và
chưa được thực hiện một cách liên tục. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng chưa có những
chương trình, hoạt động xã hội để giúp thay đổi những định kiến của cộng đồng, xã hội
đối với người đã và đang chấp hành án treo.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, xu hướng tuyên phạt án treo có chiều
hướng tăng lên nên vấn đề đặt ra là cần phải bảo đảm cho quản lý và giám sát, giáo dục
các đối tượng có thể được diễn ra một cách hiệu quả, đúng với mục đích ban đầu đề ra.
Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy được những hạn chế trong quá trình thi hành án treo.
Chính vì vậy, đã phần nào làm giảm đi tính răn đe, giáo dục của biện pháp này. Từ
thực trạng này, cần phải có các giải pháp, biện pháp thích hợp nhằm tuyên truyền, phổ
biến pháp luật một cách có hiệu quả nhằm loại bỏ những định kiến của xã hội đối với
người chấp hành án treo, đảm bảo cho việc thi hành án treo được diễn ra có hiệu quả
trên thực tế.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thi hành án treo
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về việc ra quyết định thi hành án treo
Việc ra quyết định thi hành án treo hiện nay nằm rải rác ở nhiều văn bản khác
nhau như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự và văn bản dưới luật
hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao dẫn đến khó khăn trong
thực tiễn ra quyết định. Vì vậy, tác giả kiến nghị cần bổ sung quy định cụ thể về việc ra
quyết định thi hành án treo nói riêng và các loại án nói chung chi tiết, cụ thể trong
Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Luật Thi hành án năm 2019 chưa quy định cụ thể về trường hợp Ủy thác ra
quyết định thi hành án. Vấn đề này được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và
được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP nhưng trong Nghị quyết số
66
02/2007/NQ-HĐTP cũng chưa quy định rõ hồ sơ ủy thác thi hành án treo gửi cho Tòa
án khác cùng cấp bao gồm các tài liệu, giấy tờ gì dẫn đến việc áp dụng không thống
nhất trên thực tế. Ủy thác thi hành án là một nội dung quan trọng nhưng mới chỉ được
hướng dẫn trong Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP.
Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 84 Luật THAHS năm 2019 theo hướng như
sau: quy định cụ thể Chánh án Tòa án đã xét xử sở thẩm ra quyết định thi hành án
hoặc Ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Đồng thời quy định
cụ thể trường hợp nào thì phải ủy thác, quy định cụ thể về hồ sơ ủy thác thi hành án
bao gồm những tài liệu, giấy tờ gì để đảm bảo thống nhất, thuận lợi trong thực tiễn áp
dụng.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về người đại diện của người được hưởng án treo
là người dưới 18 tuổi.
Luật THAHS năm 2019 cần bổ sung quy định về việc phải có người đại diện
hợp pháp của người được hưởng án treo trong trường hợp người được hưởng án treo có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần để đảm bảo quyền lợi của người được hưởng án
treo, đảm bảo chất lượng giáo dục của người được hưởng án treo.
Trường hợp người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo cố ý không
có mặt tại buổi triệu tập của Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an cấp huyện thì
các cơ quan này được quyền dẫn giải họ để đảm bảo việc thi hành án.
Luật THAHS năm 2019 cần nghiên cứu để bổ sung một Điều luật quy định cụ
thể quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là
người dưới 18 tuổi và người có nhược điểm và thể chất, tâm thần nhằm đảm quyền lợi
cho người chấp hành án, cũng như để người đại diện có thể thực hiện tốt vai trò, trách
nhiệm của mình. Cụ thể: “Người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là
người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần phải ký xác định
vào các biên bản cam kết hoặc các biên bản liên quan như bản tự nhận xét hàng
tháng..”. Điều này làm cho quy định về người đại diện hợp pháp mang tính thực chất
67
và góp phần phát huy vai trò, trách nhiệm của người đại diện hợp pháp trong việc giáo
dục, cải tạo người được hưởng án treo.
Thứ ba, Luật THAHS năm 2019 đã giao cho UBND cấp xã trực tiếp giám sát,
giáo dục người chấp hành án treo nhưng ngân sách chi cho công tác thi hành án treo
của UBND cấp xã chưa được cấp; chưa có chế độ, định mức để chi bồi dưỡng cho cán
bộ làm công tác này, nhất là lực lượng Công an xã và những người được giao trực tiếp
giám sát, giáo dục bị án trong khi đó tiền lương, tiền công của cán bộ xã rất thấp nên
chưa góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án treo tại địa phương. Vì vậy, để
công tác thi hành án treo ở UBND cấp xã đi vào khuôn khổ và thực chất, góp phần tích
cực vào việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
công tác thi hành án treo thiết nghĩ cần sửa đổi, bổ sung Điều 171 Luật THAHS năm
2019 theo hướng như sau:
“Căn cứ yêu cầu công tác thi hành án hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện
kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất của cơ quan quản lý thi hành án
hình sự, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành
án hình sự bao gồm đất đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ,
phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất,
kỹ thuật khác; ưu tiên bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa,
miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội”.
Thứ tư, Luật THAHS năm 2019 cần bổ sung Điều luật quy định nhằm tăng
cường lực lượng cơ sở, đặc biệt là Công an chính quy được đưa về xã để bổ sung vào
lực lượng thi hành án nói chung của các thiết chế thi hành án hình sự hiện nay, nhằm
xây dựng mạng lưới các tổ chức thiết chế nhà nước và phi nhà nước trong tổ chức thi
hành án hình sự. Nên xem án treo không chỉ phụ thuốc vào thiết chế nhà nước mà cần
huy động các thiết chế xã hội và phi xã hội
68
2.3.2. Các giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án treo trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh
- Về yếu tố con người trong công tác thi hành án treo.
Đối với Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự: Cần không ngừng
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các
cán bộ làm công tác thi hành án treo. Bố trí một số cán bộ chuyên trách làm công tác
thi hành án treo. Việc phân công một cán bộ chuyên trách như vậy để việc kiểm tra,
giám sát, thực hiện các các hoạt động thi hành án treo không bị trì trệ, đảm bảo thống
nhất, hiệu quả vì lý do chồng chéo, kiêm nhiệm trong nhiệm vụ của các cán bộ trong
các cơ quan trên. Ngoài ra, việc phân công một cán bộ chuyên trách như vậy sẽ đảm
bảo được sự theo sát trong công tác kiểm tra, giám sát và từ đó cán bộ được phân công
có thể kịp thời tham mưu, đưa ra những kiến nghị cho các cơ quan có thẩm quyền để ra
các quyết định và tiến hành các thủ tục theo quy định, theo dõi sát quá trình tổ chức thi
hành án đối với người bị kết án treo. Theo quan điểm của tác giả, cần có quy định một
số phụ cấp cần thiết cho cán bộ được phân công phụ trách công tác thi hành án treo.
Đồng thời, quyền lợi phải đi kèm với nghĩa vụ nên cần phải quy định những trách
nhiệm cá nhân phù hợp để đảm bảo tinh thần trách nhiệm của cán bộ được phân công.
Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã: Đây được xem là cơ quan có vai trò quan
trọng trong quá trình thi hành án treo vì đây là cơ quan trực tiếp nhận quyết định thi
hành án treo và giám sát việc thi hành án treo tại chính quyền địa phương của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như đã phân tích
ở trên. Vì vậy để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo của UBND cấp xã trong thời gian tới, để sự quản lý, giám sát, giáo
dục người bị kết án đạt kết quả, đòi hỏi phải đề cao trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã và người được phân công trực tiếp quản lý, giám sát, giáo dục người chấp
hành án. Với vai trò quan trọng của Ủy ban nhân dân cấp xã nên cần phải quy định
trách nhiệm ràng buộc đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để đảm bảo cho quá
69
trình thi hành án treo được thực hiện đúng quy định của pháp luật và được giám sát kỹ
lưỡng.
Bên cạnh đó, người được phân công giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo theo pháp luật THAHS cần phải quy định những tiêu chuẩn cụ thể đối với người
này, họ phải là những người sống gần với người được hưởng án treo, có trình độ nhận
thức và am hiểu pháp luật nhất định để thực hiện nhiệm vụ khi được phân công, bởi lẽ
người trực tiếp giám sát, giáo dục là người trực tiếp giúp cho người được hưởng án treo
hoà nhập với cộng động, nhận thức được những chuẩn mực của hành vi trong cuộc
sống và những giá trị đạo đức của cộng đồng, họ phải thường xuyên gặp gỡ, hướng dẫn
những chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người chấp hành án để họ
biết được những hành vi trước đây là sai trái, vi phạm pháp luật để không lặp lại. Hơn
nữa, Ủy ban nhân dân cấp xã và người được phân công giám sát, giáo dục cần tích cực
giúp người chấp hành án tìm việc làm ổn định thích hợp, động viên họ tham gia vào
các phong trào đoàn thể tại địa phương nơi mình sinh sống tránh để họ có nhiều thời
gian rảnh rỗi dễ phát sinh các hành vi tiêu cực.
- Về cơ chế phối hợp: Cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và đồng bộ giữa
các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương, gia đình, tổ chức đoàn thể, quần
chúng nhân dân trong việc thi hành án treo nhằm đảm bảo hiệu quả trong suốt quá trình
thi hành án từ chuẩn bị thi hành, thi hành và cả quá trình sau khi chấp hành xong án
treo. Cụ thể các cơ quan này cần ngồi lại với nhau để xây dựng quy chế phối hợp liên
ngành giữa Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, các
Ủy ban nhân dân cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện, giữa Ủy ban nhân
dân cấp xã với gia đình người chấp hành án treo và các đoàn thể ở địa phương.
- Cần nâng cao nhận thức pháp luật cho người được hưởng án treo. Các chủ
thể có thẩm quyền cần trang bị cho người chấp hành án biết được thời gian thử thách là
gì? Nghĩa vụ và quyền lợi của họ trong thời gian thử thách và đặc biệt lưu ý họ về hậu
quả nếu phạm tội trong thời gian thử thách. Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc
70
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo cũng cần đảm bảo các quyền lợi hợp pháp
của họ trong thời gian thử thách.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân về án treo. Các cơ quan có
thẩm quyền cần thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
quần chúng nhân dân trong đó có việc tuyên truyền, phổ biến Luật Thi hành án hình sự
về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật. Triển khai các văn bản pháp luật bằng nhiều hình thức,
giới thiệu văn bản luật theo hướng tăng cường trao đổi, đối thoại, giải đáp những thắc
mắc từ phía người được tuyên truyền nhằm nâng cao tính chủ động tìm hiểu và tiếp cận
kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân.
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả áp dụng án treo, tăng cường công tác giám sát,
giáo dục người được hưởng án treo, cán bộ giám sát của Ủy ban nhân dân các phường,
xã, thị trấn cần được tổ chức tập huấn, phổ biến Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về
thi hành án treo. Ủy ban nhân dân thực hiện việc giám sát, giáo dục người cho hưởng
án treo có trách nhiệm nhắc nhở và tạo điều kiện cho họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và
quyền của mình, quan tâm tạo công ăn việc làm phù hợp cho họ, giúp họ hòa nhập với
cuộc sống xã hội, không tái phạm.
71
Tiểu kết Chương 2
Trong phạm vi nghiên cứu trong Chương 2 tác giả tiến hành khảo sát việc áp
dụng các quy định của Luật Thi hành hành án hình sự về thi hành án treo trong thực
tiễn địa bàn tỉnh Tây Ninh. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy nhìn chung
việc thi hành án treo trong thực tiễn được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo, đảm bảo hiệu quả
hoạt động thi hành án treo và góp phần vào thành công của công tác đấu tranh phòng
ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thi hành án
treo cũng gặp phải những hạn chế, vướng mắc từ khâu ra quyết định thi hành án treo
đến việc thi hành quyết định thi hành án treo, cũng như việc giám sát, giáo dục và đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người được hưởng án treo.
Trên cở sở phát hiện những hạn chế, tồn tại trong hoạt động thi hành án treo
trong thời gian qua. Luận văn đã chỉ ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế
bất cập trên thực tiễn, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực tiễn
áp dụng pháp luật về thi hành án treo của các chủ thể có thẩm quyền. Đây là một trong
những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi
hành án treo tại địa phương. Trên cở sở hoàn thiện yếu tố này sẽ giúp cho người được
hưởng án treo tại địa phương tái hòa nhập cộng đồng tốt hơn và thực sự trở thành một
công dân có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, việc người được phân công làm tốt công tác
giám sát, giáo dục của mình cũng sẽ giúp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người được
hưởng án treo cư trú hoàn thành công tác thi hành án treo tại địa phương. Qua đó, góp
phần thực hiện có hiệu quả chính sách nhân đạo trong việc áp dụng pháp luật hình sự
của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
72
PHẦN KẾT LUẬN
Thực hiện đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”, qua nghiên
cứu những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời khảo sát, đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật về thi hành án hình sự, luận văn phân tích, đánh giá hiệu quả công tác
thi hành án treo trong những năm gần đây, nêu ra những bất cập, hạn chế và xác định
các nguyên nhân. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về công tác thi hành án hình sự nói chung và nâng cao hiệu quả
trong công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của Uỷ ban nhân dân cấp
xã nói riêng. Qua đó có thể kết luận chung như sau:
Thứ nhất, thi hành án treo là một bộ phận của thi hành án hình sự, có vai trò
quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; thể hiện chính sách nhân
đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai, thi hành án treo là hoạt động hành chính tư pháp có tính chất xã hội,
tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc với nhiều chủ thể tham gia. Trình tự, thủ tục thi hành
án treo cũng tương đối phức tạp, với nhiều công đoạn khác nhau. Mỗi chủ thể tham gia
thi hành án treo có quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ khác nhau song đều có mục
đích chung là giám sát, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ, tạo điều kiện để người bị kết án cải
tạo tốt trong môi trường cuộc sống bình thường, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ ba, hoạt động thi hành án treo có đạt được hiệu quả hay không phụ thuộc
rất lớn vào vai trò giám sát, giáo dục của Uỷ ban nhân dân cấp xã và người được phân
công trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Do đó, Luật Thi hành án
hình sự hiện nay phải quy định cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này
cũng như chế độ họ được hưởng khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong công tác thi
hành án treo.
73
Tác giả mong muốn và hi vọng với những kiến nghị mà luận văn đã nêu ra sẽ
giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các nhà làm luật nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung quy định của Luật Thi hành án hình sự về tổ chức thi hành án treo; giúp cho Uỷ
ban nhân dân cấp xã, cán bộ làm công tác giám sát, giáo dục người chấp hành án treo ở
các địa phương khắc phục được những khó khăn, vướng mắc thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Việt Nam.
Với những kiến thức còn hạn chế của tác giả, kết quả của Luận văn khó có thể
tránh khỏi những thiếu sót,với tinh thần thực sự cầu thị, tác giả rất mong nhận được sự
bình luận, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp để bản thân
được hiểu biết thêm và có cơ hội để hoàn thiện tốt hơn những trang viết còn khiếm
khuyết này./.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành
ngày 24/05/2005, Hà Nội,
2. Bộ Công an (2011) Thông tư quy định các loại biểu mẫu, sổ sách về công tác thi hành
án hình sự, ban hành ngày 07/9/2011, Hà Nội.
3. Chính phủ (2014) Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2000 quy định
việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Hà Nội.
4. Công Nhung (2019), “Kiểm tra công tác tại Công an tỉnh Tây Ninh”,
(07/11/2019).
5. Dương Sơn Tùng (2017) Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
6. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, (phần chung),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Đinh Văn Quế (2012) “Tổng hợp hình phạt tù với án treo”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 09/2012.
8. Huỳnh Văn Út (2013) Án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
9. Lê Văn Cảm (2019) Giáo trình tư pháp Hình sự, Bộ môn Tư pháp Hình sự-Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Lệ Hà – Phạm Tuân (2013) “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ”,
Tạp chí Kiểm sát, số 23/2013.
11. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2004) Án treo và thi hành án treo tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thị Minh Thu (2011) “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện quy
định án treo”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2011.
13. Nguyễn Nông (2012) “Một số vấn đề về án treo”, Tạp chí Kiểm sát, số 19/2012.
14. Phương Thuỷ (2019) “Đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm hình sự”,
pham-hinh-su-551851/>, (04/7/2019). 15. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội. 16. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội. 17. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành ngày 26/11/2013, Hà Nội. 18. Quốc hội (2010) Luật thi hành án hình sự 2010, ban hành ngày 17/06/2010, Hà Nội. 19. Quốc hội (2019) Luật thi hành án hình sự 2019, ban hành ngày 14/06/2019, Hà Nội. 20. Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh (2019) Báo cáo tổng kết công tác ngành TAND tỉnh Tây Ninh từ năm 2015 đến năm 2019, Tây Ninh. 21. Toà án nhân dân Tối cao (2007) Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 02/10/2007, Hà Nội. 22. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh (2019) Báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm sát từ năm 2015 đến năm 2019, Tây Ninh. 23. Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng (2006) Pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.