1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-o0o-
LÊ THỊ THU THÚY
ỨNG DỤNG LỚP MÔ HÌNH GARCH
TRONG VIỆC ƯỚC TÍNH VALUE-AT-RISK
CỦA CHUỖI LỢI TỨC CHỈ SỐ VN-INDEX
Chuyên ngành : Tài chính-Ngân hàng
Mã số: 60.34.0201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: GS-TS. Trần Ngọc Thơ
TP Hồ Chí Minh - Năm 2013
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ
Chí Minh cùng bạn bè, gia đình và các anh/chị đồng nghiệp.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy – GS.TS Trần Ngọc Thơ đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Cảm ơn em Huỳnh Thanh Điền đã nhiệt tình giúp tôi hiểu rõ hơn các mô hình định
lượng, cảm ơn các bạn cùng lớp đã hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã tận tình giảng dạy ba năm
học cao học. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, giúp đỡ và tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2013
Học viên
LÊ THỊ THU THÚY
3
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. 4
DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... 5
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU .................................................................................... 6
TÓM TẮT ..................................................................................................................... 7
1. GIỚI THIỆU ............................................................................................................. 9
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ........................................... 10
2.1. Quan điểm về rủi ro thị trường.............................................................................. 10
2.1.1. Khái niệm ........................................................................................................... 10
2.1.2. Đo lường rủi ro thị trường theo cách tiếp cận hiện đại ..................................... 11
2.2. Khung lý thuyết về VAR ...................................................................................... 12
2.2.1. Khái niệm ........................................................................................................... 12
2.2.2. Thông số ảnh hưởng đến VAR danh mục ........................................................... 13
2.2.3. Nhược điểm của VAR ......................................................................................... 14
2.2.4. Phương pháp ước tính VAR ............................................................................... 15
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước đây .................................................................... 18
2.3.1. Nghiên cứu tại các nền kinh tế phát triển .......................................................... 18
2.3.2. Nghiên cứu tại các thị trường mới nổi ............................................................... 20
2.3.3. Nghiên cứu tại thị trường Việt Nam ................................................................... 22
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 23
3.1. Mô hình nghiên cứu GARCH ............................................................................... 23
3.1.1. Ý tưởng của mô hình ARCH ............................................................................... 23
3.1.2. Giới thiệu mô hình GARCH ............................................................................... 24
3.1.3. Các giả định phân phối xác suất trong lớp mô hình GARCH ........................... 27
3.1.4. Tiêu chuẩn kiểm định mức độ phù hợp của mô hình ......................................... 29
4
3.1.5. Thứ tự thực hiện mô hình ................................................................................... 30
3.2. Dữ liệu ................................................................................................................... 31
4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 32
4.1. Phân tích thống kê mô tả dữ liệu ........................................................................... 32
4.2. Kiểm định tính dừng ............................................................................................. 33
4.3. Xây dựng mô hình ARMA .................................................................................... 34
4.3.1. Ước lượng mô hình ............................................................................................ 34
4.3.2. Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình ........................................................... 35
4.3.3. Kiểm định hiệu ứng ARCH của mô hình ............................................................ 36
4.4. Ước lượng lớp mô hình GARCH với các giả định về phân phối của sai số ......... 37
4.5. Dự báo VAR của chuỗi TSSL VN-Index ............................................................. 40
4.6. So sánh kết quả của các mô hình và tiến hành kiểm định ..................................... 41
5. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 43
5.1. Các kết quả nghiên cứu chính của đề tài ............................................................... 43
5.2. Thảo luận và đề xuất ............................................................................................. 44
5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................... 45
5.3.1. Hạn chế .............................................................................................................. 45
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................................... 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 47
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 50
Phụ lục 1 : Kiểm định tính dừng của chuỗi TSSL VN-Index.
Phụ lục 2 : Lược đồ hàm tự tương quan (ACF) và tự tương quan riêng phần (PACF)
tương ứng 36 độ trễ đối với chuỗi TSSL VN-Index.
Phụ lục 3 : Kết quả ước lượng mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Phụ lục 4 : Kiểm định nghiệm nghịch đảo của mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Phụ lục 5 : Kiểm định tính dừng của chuỗi phần dư mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
5
Phụ lục 6 : Lược đồ hàm tự tương quan tương ứng 36 độ trễ đối với phần dư chuẩn
hóa của mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Phụ lục 7 : Lược đồ hàm tự tương quan tương ứng 36 độ trễ đối với bình phương sai
số mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Phụ lục 8 : Kiểm định hiệu ứng ARCH đối với mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Phụ lục 9 : Kết quả ước lượng mô hình GARCH(p,q).
Phụ lục 10 : Kết quả ước lượng mô hình ARMA-GARCH theo giả định phân phối
chuẩn.
Phụ lục 11 : Kết quả ước lượng mô hình ARMA-GARCH theo giả định phân phối
Student’s-t.
Phụ lục 12 : Kết quả ước lượng mô hình ARMA-GARCH theo giả định phân phối
GED.
Phụ lục 13 : Đồ thị giá trị dự báo VAR 99% của lớp mô hình GARCH.
Phụ lục 14 : Đồ thị giá trị dự báo VAR 95% của lớp mô hình GARCH.
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACF : Auto Correlation Function – Hàm tự tương quan.
ARMA : Autoregressive Moving Average – Tự hồi quy trung bình trượt.
ARCH : Autoregressive Conditional Heteroskedasticity – Tự hồi quy phương
sai của sai số thay đổi có điều kiện.
EGARCH : Exponentially Generalized Autoregressive Conditional
Heteroskedasticity – Tự hồi quy phương sai của sai số thay đổi có
điều kiện dạng tổng quát số mũ.
GARCH : Generalized Autoregressive Conditional Heteroskedasticity – Tự hồi
quy phương sai của sai số thay đổi có điều kiện dạng tổng quát.
GED : Generalized Error Distribution – Phân phối sai số tổng quát.
IGARCH : Intergrated Generalized Autoregressive Conditional
Heteroskedasticity – Tự hồi quy phương sai của sai số thay đổi có
điều kiện dạng tổng quát tích hợp.
i.i.d : Independent and Identical Distribution – Phân phối độc lập và tương
tự nhau.
PACF : Partial Auto Correlation Function – Hàm tự tương quan riêng phần.
RRTT : Rủi ro thị trường.
TGARCH : Threshold Generalized Autoregressive Conditional
Heteroskedasticity – Tự hồi quy phương sai của sai số thay đổi có
điều kiện dạng tổng quát bất đối xứng.
: Tỷ suất sinh lợi. TSSL
: Value At Risk – Giá trị có rủi ro . VAR
7
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.2.1.1: Minh họa VAR trong phân phối TSSL danh mục.
Hình 4.1.1 : Biểu đồ mật độ phân phối TSSL của VN-Index .
Hình 4.1.2 : Biến động của TSSL hàng ngày VN-Index giai đoạn 2000-2011.
Hình 4.3.2.1: Nghiệm nghịch đảo của mô hình ARMA.
8
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 3.1.4.1: Tiêu chuẩn của Ủy ban Basel kiểm định độ phù hợp các mô hình dự báo
VAR.
Bảng 4.1.1 : Thông số thống kê mô tả của chuỗi TSSL VN-Index giai đoạn 2000-2011.
Bảng 4.2.1 : Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với chuỗi TSSL VN-Index.
Bảng 4.3.1.1: Kết quả ước lượng mô hình AR(1,5) MA(1,4,5,6).
Bảng 4.3.2.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của sai số mô hình ARMA.
Bảng 4.3.3.1: Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH đối với mô hình ARMA.
Bảng 4.4.1 : Kết quả ước lượng mô hình GARCH(1,1) và GARCH(2,1).
Bảng 4.4.2 : Kết quả ước lượng mô hình xác định VAR của chuỗi TSSL VN-Index với
phân phối chuẩn.
Bảng 4.4.3 : Kết quả ước lượng mô hình xác định VAR của chuỗi TSSL VN-Index với
phân phối Student’s-t.
Bảng 4.4.4 : Kết quả ước lượng mô hình xác định VAR của chuỗi TSSL VN-Index với
phân phối GED.
Bảng 4.6.1 : Số giá trị vi phạm của các mô hình theo các giả định phân phối.
Bảng 4.6.2 : Mức độ hiệu quả của mô hình theo chuẩn Basel II.
Bảng 4.6.3 : Giá trị thống kê với tần số vi phạm kì vọng là 1%.
9
TÓM TẮT
Bài luận tập trung ứng dụng mô hình ước lượng VAR gần đây để đo lường rủi ro trên thị
trường chứng khoán Việt Nam thông qua nghiên cứu chỉ số VN-Index giai đoạn 2000-
2012; đồng thời trên cơ sở đó đánh giá hiệu quả hoạt động của các mô hình để lựa chọn
ra mô hình phù hợp. Để đạt được mục tiêu này, đề tài ứng dụng mô hình VAR khá phổ
biến hiện nay là lớp mô hình GARCH với ba giả định phân phối của thu nhập: phân phối
chuẩn, phân phối Student’s-t và phân phối sai số tổng quát (GED).
Kết quả như sau:
- Thống kê mô tả cho thấy chuỗi TSSL của VN-Index không theo phân phối chuẩn
đồng nhất mà có hiện tượng “leptokurtosis”. Đây có lẽ là nguyên nhân làm cho mô
hình ước lượng VAR theo giả định của phân phối chuẩn kém hơn hẳn so với 02 giả
định phân phối còn lại. Cụ thể là tần số vi phạm nhiều hơn và bị kiểm định Kupiec
bác bỏ ¾ trường hợp dự báo.
- Trong 2 giả định phân phối còn lại thì student’s-t có vẻ tốt hơn khi dự báo giá trị
VAR ít vi phạm hơn GED mặc dù GED không bị kiểm định Kupiec bác bỏ. Giả định
GED dự báo giá trị VAR cao hơn giá trị thực 17 lần trong khi giả định student’s-t chỉ
là 12 lần. Nếu tính toán về lợi ích kinh tế thì rõ ràng student’s-t có lợi về mặt kinh tế
hơn vì GED bắt buộc chúng ta dự trữ vốn để phòng rủi ro cao hơn student’s-t thông
qua đó làm mất đi chi phí cơ hội của vốn. Từ đó cũng cho thấy những giả định phân
phối có ý nghĩa rất quan trọng lên chất lượng dự báo của những mô hình VAR.
- Kết quả kiểm định cũng cho thấy, tại mức tin cậy 99%, các mô hình ước tính VAR
cho ra kết quả tốt hơn so với mức tin cậy 95%.
- Kết quả ước lượng chỉ ra phân phối của TSSL VN-Index gần như đối xứng nên các
cú sốc âm dương sẽ tác động như nhau đến độ dao động của TSSL VN-Index. Do đó
hệ số bất đối xứng trong các mô hình dự báo phương sai có điều kiện là EGARCH
10
và TGARCH không có ý nghĩa thống kê nên các mô hình ước lượng này không thể
xem xét được tính bất cân xứng của các cú số âm dương như bản chất của mô hình.
GARCH là một trường hợp đối xứng nhưng GARCH không có giả định như
IGARCH nên để xác định VAR thì mô hình IGARCH là phù hợp nhất.
Bài luận văn đưa ra những kết luận mới về lớp mô hình GARCH trong việc ước lượng
VAR của chuỗi TSSL VN-Index, có thể nói kết quả ước lượng có một số điểm khác biệt
so với một vài bài nghiên cứu. Trong bối cảnh các nghiên cứu về vấn đề này ở nước ta
hiện nay còn rất ít, thì đề tài đã cung cấp phương pháp xác định và dự báo hai thông số
quan trọng nhất để xác định danh mục đầu tư tối ưu theo lý thuyết Markowitz, đó là kỳ
vọng và phương sai có điều kiện của chuỗi TSSL một chứng khoán hay danh mục.
Mặc dù còn hạn chế về mặt số liệu và quá trình tính toán, nhưng trong giới hạn cho phép,
đề tài đã xây dựng được mô hình xác định và dự báo mức độ sụt giảm tối đa của chỉ số
VN-Index theo ngày, cung cấp thông tin dự báo biến động tối đa của toàn thị trường dựa
trên tiêu chuẩn kiểm định quốc tế của Ủy ban Basel II. Đây là cơ sở quan trọng cho các
quyết định đầu tư cũng như xác lập mức vốn an toàn trong quá trình đầu tư của cá nhân,
tổ chức tham gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời cũng giúp các cơ
quan quản lý có thêm công cụ hữu ích trong việc giám sát và điều tiết để thị trường ngày
càng hoạt động lành mạnh và hiệu quả.
11
1. GIỚI THIỆU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra gần đây đã có những tác động hết sức tiêu
cực đến thị trường tài chính của các nền kinh tế, kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt định
chế tài chính và các tập đoàn đầu tư lớn, dẫn đến sự sụt giảm mạnh của các chỉ số chứng
khoán toàn cầu... Do đó, yêu cầu bức thiết đặt ra để kiểm soát rủi ro thị trường là phải
nghiên cứu, phát triển và đề xuất những mô hình quản trị rủi ro thích hợp nhằm định
lượng dự báo mức tổn thất tài chính có thể xảy ra. Quản trị rủi ro trên cơ sở những mô
hình VAR đã nhanh chóng nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch định, nhà
làm luật, giới học thuật và nhà đầu tư, và nhanh chóng được Ủy ban Basel về giám sát
Ngân hàng (1996) xem là thước đo chuẩn mực cũng như là cơ sở xác định an toàn vốn
tối thiểu trước rủi ro thị trường.
Ở Việt Nam, thị truờng chứng khoán đã đi vào hoạt động được hơn 10 năm và đang
trong quá trình từng bước xây dựng các quy định, cơ chế. Các nhà đầu tư thì dần làm
quen với loại hình đầu tư mới nên trong hành vi đầu tư còn có những đặc điểm riêng, do
đó xu hướng biến động của chỉ số VN-Index thường là lên rất nhanh, giảm rất mạnh và
thị trường có những giai đoạn điều chỉnh sâu. Điều này khiến cho hoạt động đầu tư tài
chính ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Với mục đích góp phần giúp các nhà đầu tư
lượng hóa được những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để có phương án tái cơ cấu
danh mục và dự phòng phù hợp nhằm tối thiểu hóa thiệt hại cũng như tạo điều kiện để
thị trường hoạt động lành mạnh và bền vững hơn, tác giả muốn thông qua chỉ số VN-
Index giai đoạn 2000-2012 để “Ứng dụng lớp mô hình GARCH trong việc ước tính
Value-at-Risk của chuỗi lợi tức chỉ số VN-Index”.
Tác giả cho rằng nghiên cứu đề tài này vào thời điểm hiện nay là rất cần thiết, đặc biệt
khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa có dấu hiệu chấm dứt, nền kinh tế trong
nước đang đối mặt với nhiều khó khăn; trong khi đó các công cụ và mô hình dự báo,
định lượng rủi ro thị trường còn chưa phổ biến, các quyết định đầu tư chủ yếu vẫn dựa
trên phân tích định tính. Để giải quyết vấn đề này, tác giả đặt ra một số câu hỏi liên quan:
12
1. Cần những điều kiện nào để có thể ứng dụng mô hình ước lượng VAR trong thực tế
của thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Mô hình nào là thích hợp nhất nên được ứng dụng để ước lượng VAR?
3. Những điểm đóng góp chính của bài nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, tác giả chia bài nghiên cứu thành 05 phần, cụ thể:
Phần 1: Tổng quan các nội dung chính của luận văn và các vấn đề nghiên cứu, cũng như
trình bày lý do thực hiện nghiên cứu này.
Phần 2: Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây của các tác giả khác có liên quan
đến mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Nêu lên những vấn đề đã được giải quyết và chưa
được giải quyết trong các bài nghiên cứu này, từ đó tác giả nêu ra các câu hỏi nghiên
cứu của mình.
Phần 3: Trình bày phương pháp nghiên cứu, mô hình được sử dụng trong bài, mô hình
này đã được các tác giả nào sử dụng trước đây và lý do lựa chọn mô hình này. Trình bày
quá trình thu thập và xử lý dữ liệu gồm: nguồn dữ liệu, quy trình xử lý dữ liệu đầu vào.
Phần 4: Trình bày nội dung và kết quả ước lượng được từ các mô hình được ứng dụng.
Từ đó tiến hành thảo luận về các kết quả nghiên cứu đạt được.
Phần 5: Tổng kết các vấn đề được trình bày gồm: những phát hiện chính của nghiên cứu
và một số đề xuất, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn gặp phải và gợi ý hướng nghiên
cứu tiếp theo.
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Quan điểm về rủi ro thị trường
2.1.1. Khái niệm
Rủi ro là mức thiệt hại có thể xảy ra do hậu quả của một sự kiện nhất định và khả năng
xảy ra sự kiện đó, đồng thời rủi ro cũng là sự biến động tiềm ẩn của kết quả hay là mức
độ bất định trong kết quả so với kỳ vọng.
RRTT là sự không chắc chắn trong giá trị công ty hoặc dòng tiền liên quan với các biến
động của các nguồn gốc cơ sở của rủi ro. Ví dụ một công ty có thể quan tâm các biến
13
động trong lãi suất, tỷ giá hoặc giá cả hàng hóa. Theo A.Resti và A.Sironi (2007) thì trên
thực tế, việc xem xét rủi RRTT được tập trung vào tất cả các tài sản tài chính của định
chế tài chính.
2.1.2. Đo lường rủi ro thị trường theo cách tiếp cận hiện đại
Markowitz (1952) đã nhấn mạnh mối quan tâm đồng thời cả rủi ro và TSSL. Mô hình
Markowitz sử dụng độ lệch chuẩn là thước đo rủi ro, đặc trưng cho độ phân tán của phân
phối xác suất của TSSL.
Stone(1973) đã trình bày một lớp các thước đo rủi ro bao gồm hầu hết các rủi ro mang
tính lý thuyết và thực nghiệm xác định:
Trong đó, Rt (W, 2, ∞; f): độ lệch chuẩn; W: giá trị thị trường của tài sản. Trong trường
hợp tổng quát, tham số A có thể được sử dụng để biểu diễn cho bán phương sai (semi-
variance) hay các thước đo khác.
Artzner (1999) đã đưa ra các tính chất cần thiết phải có đối với một thước đo rủi ro như:
(i) Thước đo rủi ro phải chỉ ra được mức tổn thất lớn nhất có thể; (ii) Tính cộng: Nếu hai
danh mục đầu tư X1 và X2 được kết hợp với nhau theo tỷ trọng tương ứng [wX1 + (1-
w)X2] thì rủi ro của danh mục mới không vượt quá tổng rủi ro của các danh mục riêng
theo tỷ trọng tương ứng, nghĩa là:
với M là một hàm giá trị thực trên không gian các giá trị danh mục; (iii) Tính thuần nhất,
nghĩa là nếu quy mô danh mục đầu tư tăng hoặc giảm λ thì rủi ro danh mục sẽ tăng hoặc
giảm λ lần tương ứng.
Thước đo VAR thỏa mãn các tính chất trên nên được xem là thước đo rủi ro với ưu điểm
nổi bật là tính minh bạch trong tính toán và có thể tổng hợp, so sánh được trong những
phạm vi sử dụng khác nhau.
14
2.2. Khung lý thuyết về VAR
Phương pháp VAR được phát triển từ năm 1993 dựa trên sự kế thừa từ những phương
pháp đo lường rủi ro trước đó. Vào năm 1994, với sự ra đời của RiskMetrics – một gói
sản phẩm ứng dụng VAR của JP Morgan Chase thì VAR trở thành một tiêu chuẩn trong
việc đo lường cũng như giám sát rủi ro tài chính và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế
giới. Ủy ban Basel (1996) xem VAR là nền tảng để xây dựng hành lang pháp lý nhằm
tạo sân chơi an toàn và bình đẳng cho các tổ chức tài chính quốc tế.
2.2.1. Khái niệm
Theo Darrell Duffie and Jun Pan (1997), Linsmeier and Pearson (1996) thì VAR là sự
thua lỗ tối đa được dự báo trước từ việc giữ một chứng khoán hay một danh mục thị
trường trong một khoảng thời gian với một mức tin cậy nhất định. VAR trả lời câu hỏi
giá trị cao nhất mà một danh mục đầu tư có thể mất đi dưới những điều kiện thị trường
bình thường trên cơ sở trong một khoảng thời gian và độ tin cậy nhất định.
Hình 2.2.1.1 – Minh họa VAR trong phân phối TSSL danh mục
Về mặt toán học, VAR được định nghĩa:
Trong đó, VAR là giá trị có rủi ro; V0 là giá trị ban đầu của danh mục; Vt là giá trị tương
lai của danh mục sau một khoảng thời gian nhất định, được xác định: - α là
xác suất mức lỗ của danh mục không vượt quá VAR.
15
* là tỷ suất sinh lợi (TSSL) thấp nhất của cổ phiếu sau khoảng thời gian τ nhất định
Từ (1), thước đo VAR có thể viết dưới dạng tỷ suất sinh lợi của tài sản như sau:
Với rt
với xác suất tương ứng 1-α; r(τ) là TSSL liên tục của cổ phiếu trong khoảng thời gian τ,
được xác định: rt(τ) = ln(Pt+τ / Pt); Pt là giá thị trường của cổ phiếu tại thời điểm t; f(r) là
hàm mật độ phân phối xác suất của TSSL. Theo đó VAR được xác định:
Chẳng hạn, một danh mục chứng khoán có VAR là 1.5 triệu USD cho 1 ngày tại mức ý
nghĩa 1%, có nghĩa là khả năng danh mục bị thua lỗ tối đa 1.5 triệu USD trong 01 ngày
là 99%. Hay nói cách khác, có 99% tin cậy rằng trung bình trong 100 ngày giao dịch,
chỉ có 1 ngày danh mục sẽ bị thua lỗ vượt quá 1.5 triệu USD.
Căn cứ vào VAR, người ta có thể biết mức độ rủi ro của một tổ chức tài chính hoặc của
một danh mục đầu tư trong một giai đoạn cụ thể. Một ngân hàng công bố VAR hàng
ngày của một danh mục giao dịch của họ vào khoảng 30 triệu USD với độ tin cậy 95%
có nghĩa là xác suất ngân hàng bị thiệt hại tối đa 30 triệu USD trong một ngày là 95%.
Ngoài ra, căn cứ vào VAR, các cổ đông, các thành viên tham gia thị trường có thể xem
xét chấp nhận hay không một mức rủi ro như vậy. Các cơ quan quản lý ngân hàng chứng
khoán cũng ngày càng quan tâm đến VAR.
2.2.2. Thông số ảnh hưởng đến VAR danh mục
Theo Zvi Wiener (1997) thì thước đo VAR phụ thuộc vào 02 yếu tố chính là mức tin cậy
và kỳ đánh giá. Việc lựa chọn 02 yếu tố này như thế nào tùy thuộc vào bản chất của các
mô hình VAR cũng như mục đích chủ quan của nguời sử dụng, cụ thể:
- Kỳ đánh giá: Là khoảng thời gian ấn định để dự báo sự thay đổi giá trị thị trường của
danh mục có thể xảy ra. Việc lựa chọn kỳ đánh giá dựa trên nguyên tắc phân phối
16
giữa chi phí và lợi ích. Theo Ủy ban Basel, kỳ đánh giá được lựa chọn là 10 ngày
kinh doanh trong khi theo quan điểm của RiskMetrics, kỳ đánh giá nên được chọn là
01 ngày kinh doanh đối với các danh mục đầu tư nhằm mục đích mua bán kiếm lợi
nhuận trong ngắn hạn và 25 ngày kinh doanh đối với danh mục đầu tư dài hạn.
- Mức tin cậy: Dưới góc độ an toàn vốn, xác suất tổn thất được lựa chọn sao cho tối
thiểu hóa các trường hợp giá trị tổn thất thực tế vượt quá dự báo của VAR. Theo Ủy
ban Basel, mức tin cậy được chọn là 99% trong khi RiskMetrics đề nghị mức 95%
cho cả mục đích mua bán lẫn đầu tư.
2.2.3. Nhược điểm của VAR
Mặc dù VAR được gộp lại thành một con số, có tính trực giác dễ so sánh và được ứng
dụng rộng rãi trong việc kiểm soát rủi ro thị trường (Philippe Jorion), nhưng theo
Andreas Krause (2003), nó vẫn bao hàm những hạn chế nhất định:
- Hạn chế lớn nhất của VAR là sử dụng dữ liệu quá khứ để dự báo tương lai với giả
định phân phối lợi nhuận của các khoản đầu tư là ổn định và các yếu tố của thị trường
là bình thường, không thay đổi nhiều trong khoảng thời gian xác định VAR. Hậu quả
trong năm 2007, 2008, một loạt ngân hàng đầu tư trên thế giới bị phá sản do những
biến động đột ngột vượt xa so với trong quá khứ.
- Hạn chế thứ hai là hiệu ứng “đuôi dày”. Do tuân theo quy luật phân phối chuẩn nên
hàm mật độ của danh mục có hình quả chuông, và những tổn thất lớn nhất ngoài dự
đoán thường nằm ở phần đuôi bên trái của đồ thị hình quả chuông này. Chẳng hạn
khi đo lường VAR cho một danh mục với tổng quy mô 640 triệu USD trong 252 ngày
với độ tin cậy 99%, ngân hàng xác định ngưỡng tổn thất lớn nhất là 50 triệu USD.
Tuy nhiên chỉ cần 02 ngày nằm ngoài mức tin cậy (1% đuôi còn lại trong 252 ngày),
có 01 ngày mức tổn thất của danh mục vượt quá ngưỡng, giả sử 300 triệu USD thì
ngay lập tức danh mục sẽ phá sản. Đó là hạn chế của VAR, với những tổn thất ngoài
dự đoán khiến cho hàng loạt ngân hàng đầu tư phá sản khi quá tin tưởng vào VAR
có được.
17
- Hạn chế thứ ba là khi kích cỡ của ma trận tương quan của các tài sản gần bằng hoặc
vượt quá quy mô của dữ liệu quan sát thì theo Ju và Pearson (1999), ước tính VAR
theo những tình huống này sẽ bị chệch xuống đáng kể, rủi ro sẽ bị ước tính thấp hơn
so với thực tế.
Tóm lại, với những khó khăn trong việc thu thập số liệu kinh tế để ước tính VAR như:
các tham số luôn thay đổi, sai số ước lượng lớn, ước lượng bị chệch xuống…thì rõ ràng
còn rất nhiều vấn đề cần phải xem xét để tìm ra một thước đo rủi ro chính xác.
2.2.4. Phương pháp ước tính VAR
Trong khi VAR là một khái niệm mang tính trực giác và rất dễ hiểu, thì việc đo lường
VAR là một vấn đề thống kê đầy thách thức. Mặc dù các mô hình tính toán VAR hiện
có sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng tất cả đều theo một cấu trúc chung phổ
biến, được tóm tắt thành 03 điểm: (i) Xác định danh mục thị trường, (ii) Ước lượng phân
phối của lợi nhuận danh mục, (iii) Tính toán VAR của danh mục. Điểm khác biệt chủ
yếu giữa các mô hình VAR có liên quan đến điểm (ii) - đó là cơ sở để các mô hình giải
quyết khó khăn trong việc ước tính những thay đổi của giá trị danh mục. Hiện nay, số
lượng các mô hình tính VAR đang phát triển theo cấp số mũ, không thể liệt kê hết.
Simone Manganelli và Robert F.Engle (2001) đã phân loại các mô hình hiện có thành 03
loại cụ thể:
- Mô hình tham số (RiskMetric và GARCH);
- Mô hình phi tham số (Mô phỏng lịch sử và mô hình kết hợp);
- Mô hình bán tham số (Lý thuyết cực trị, CAViaR và GARCH gần như hợp lý cực
đại).
Mô hình tham số: Các mô hình như RiskMetric (1996) và GARCH đưa ra việc tham số
hóa cụ thể đối với hành vi của giá cả. Họ các mô hình ARCH được giới thiệu bởi Engle
(1982) và Bollerslev (1986) và được ứng dụng thành công vào dữ liệu tài chính. Mô hình
này có 02 yếu tố cốt yếu: xác định cụ thể phương trình phương sai và giả định rằng các
18
phần dư chuẩn có phân phối độc lập và tương tự nhau (i.i.d). Yếu tố đầu tiên là do những
đặc tính của dữ liệu tài chính, còn giả định về phần dư chuẩn có i.i.d chỉ là một công cụ
cần thiết để ước tính các tham số chưa biết. Một bước cần thiết nữa để thực hiện bất kỳ
thuật toán nào của GARCH là xác định phân phối của phần dư chuẩn. Phân phối thường
được sử dụng nhất là phân phối chuẩn. Theo phương pháp RiskMetric, phương sai được
tính toán trên cơ sở trung bình trượt có trọng số mũ, tương ứng với mô hình IGARCH:
t = λσ2
t-1 + (1-λ)y2
t-1 với λ bằng 0.94 hoặc 0.97. RiskMetric cũng giả định rằng sai số
σ2
chuẩn có phân phối chuẩn.
Kết quả của phương pháp normal GARCH và RiskMetric có khuynh hướng ước tính
thấp VAR, bởi vì giả định phân phối chuẩn của sai số chuẩn dường như không phù hợp
với hành vi của chuỗi lợi suất tài chính. Thuận lợi chủ yếu của phương pháp này là chúng
mô tả trọn vẹn về phân phối của chuỗi lợi suất và có thể cải thiện những mô hình này
bằng cách không sử dụng giả định phân phối chuẩn.
Mô hình phi tham số:
Một trong những phương pháp phổ biến nhất để ước tính VAR là Mô phỏng lịch sử.
Phương pháp này không đưa ra bất kỳ giả định phân phối nào về lợi nhuận danh mục,
nó dựa trên khái niệm những cửa sổ di động. Đầu tiên chọn một cửa sổ quan sát, phạm
vi phổ biến là từ 06 tháng đến 02 năm. Sau đó, lợi nhuận danh mục trong phạm vi cửa
sổ này được sắp xếp theo thứ tự tăng dần và θ-điểm phân vị của lợi nhuận được cho bởi
lợi nhuận mà bên trái của nó là θ% quan sát và bên phải nó là (1- θ%). Nếu một con số
như vậy rơi vào giữa 02 lợi nhuận liên tiếp nhau thì phép nội suy được sử dụng. Để tính
toán VAR ngày sau đó, toàn bộ cửa sổ được dịch chuyển tiếp về phía trước thêm 01 quan
sát và toàn bộ quy trình tính toán được lặp lại.
Mặc dù phương pháp này không đưa ra giả định rõ ràng về phân phối lợi nhuận của danh
mục thì một giả định ngấm ngầm bị giấu đi đằng sau quy trình tính toán này: Phân phối
của lợi nhuận danh mục không thay đổi trong phạm vi cửa sổ quan sát, do đó làm nảy
sinh nhiều vấn đề. Đầu tiên, phương pháp này không phù hợp về mặt logic. Nếu tất cả
19
lợi nhuận trong cửa sổ được giả định có cùng phân phối, thì kết quả logic phải là tất cả
lợi nhuận trong chuỗi thời gian phải có cùng phân phối: Nếu yt-window,…, yt và yt+1-window,…,
yt+1 là i.i.d thì yt+1 và yt-window phải là i.i.d bởi tính chất bắc cầu. Thứ hai, công thức ước
lượng điểm phân vị theo lối kinh nghiệm chỉ phù hợp nếu k, kích thước cửa sổ, tiến đến
vô cực. Vấn đề thứ ba liên quan đến chiều dài cửa sổ. Bởi vì việc dự báo VAR theo
phương pháp này chỉ có ý nghĩa nếu dữ liệu lịch sử được sử dụng để tính toán có cùng
phân phối (một cách mạnh mẽ). Trong thực tế, khoảng thời gian tập trung sự biến động
không dễ xác định. Chiều dài của cửa sổ phải thỏa mãn hai thuộc tính trái ngược: Nó
phải đủ lớn để có thể đưa ra các kết luận thống kê có ý nghĩa, và nó cũng không được
quá lớn để tránh rủi ro quan sát ngoài khoảng biến động hiện hành. Rõ ràng, không có
giải pháp dễ dàng cho vấn đề này. Hơn nữa, giả định thị trường dịch chuyển từ thời kỳ
có biến động tương đối thấp sang thời kỳ có biến động tương đối cao (hoặc ngược lại)
thì việc ước tính VAR theo phương pháp mô phỏng lịch sử sẽ bị chệch dưới (hoặc chệch
trên), vì sẽ mất một chút thời gian trước khi những quan sát từ thời kỳ biến động thấp
rời khỏi cửa sổ. Cuối cùng, việc ước tính VAR theo mô phỏng lịch sử có thể cho thấy
những lỗ hổng có thể dự báo trước, là do tính rời rạc của những lợi nhuận cách xa nhau.
Đây là một đặc tính rắc rối và có lẽ đủ để bỏ qua phương pháp mô phỏng lịch sử như là
một phương pháp đáng tin cậy.
Một biến thể thú vị của phương pháp mô phỏng lịch sử là phương pháp kết hợp giữa
phương pháp RiskMetric và Mô phỏng lịch sử bằng cách ứng dụng những trọng số giảm
dần theo quy luật hàm số mũ đối đối với các lợi nhuận trong quá khứ của danh mục,
được đề xuất bởi Boudoukh Richardson và Whitelaw (1998). Nghĩa là mỗi lợi nhuận
khác nhau sẽ có các trọng số khác nhau, tùy thuộc vào những quan sát được lấy trong
thời gian xa xưa nào.
Mô hình bán tham số:
Gần đây, các phương pháp thay thế được đề xuất để ước tính VAR, chẳng hạn việc ứng
dụng Lý thuyết cực trị (Danielson and deVries (1998) hoặc Gourieroux and Jasak
20
(1998)) và ứng dụng kỹ thuật phân vị hồi quy (Chernozhukov and Umantsev (2000) và
Engle and Manganelli (1999)). Một số phương pháp khác là những phương pháp dựa
theo Bollerslev and Woolridge (1992) GARCH hợp lý gần như cực đại, như đã được đề
nghị bởi Diebold, Schuermann and Stroughair (1999), được thực hiện độc lập bởi
McNeil and Frey (2000) và Engle and Manganelli (1999).
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Kể từ khi Engle (1982) đề xuất mô hình ARCH, có rất nhiều công trình nghiên cứu về
dự báo dao động. Các chứng cứ thực nghiệm thì khá hỗn tạp trong việc tìm ra một mô
hình dự báo tốt nhất. Akgiray (1989) nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Mỹ đã
nhận thấy rằng GARCH (1,1) hoạt động tốt hơn các kỹ thuật dự báo truyền thống.
Brailsford và Faff (1996) nghiên cứu dữ liệu của Australia kết luận rằng lớp mô hình
ARCH và mô hình hồi quy đơn giản cung cấp dự báo dao động tốt hơn. Tuy nhiên việc
đánh giá các mô hình khác nhau tùy thuộc vào chuỗi dữ liệu, tần số xuất hiện và tiêu
chuẩn đánh giá. Bên cạnh đó, giả định phân phối chuẩn đi kèm được sử dụng rộng rãi vì
sự đơn giản của nó nhưng nó không mô tả một cách hiệu quả phần đuôi của chuỗi lợi
suất. Để giải thích tốt hơn đặc tính “leptokurtosis” của chuỗi dữ liệu, người ta sử dụng
thêm giả định phân phối Student’s-t và một số phân phối khác như phân phối chuẩn hỗn
hợp, phân phối sai số tổng quát và phân phối Student chệch.
2.3.1. Nghiên cứu tại các nền kinh tế phát triển
Billio và Pelizzon (2000) đã ứng dụng mô hình GARCH(1,1) với giả định phân phối
chuẩn và Student’s-t để ước lượng VAR của 10 cổ phiếu Italia và chỉ số thị trường
MIB30 của Italia. Kết quả cho thấy mô hình với giả định phân phối chuẩn có khuynh
hướng đánh giá thấp rủi ro trong khi theo giả định phân phối Student’s-t thì lại đánh giá
quá cao mức độ rủi ro. Từ đó, ông đề xuất mô hình chuyển đổi chế độ đa biến để cho ra
ước lượng chính xác hơn.
21
P.Christoffersen, Jinyong Hahn, A.Inoue (2001) trong đó kiểm định và so sánh các
thước đo VAR dựa trên kết quả ước lượng theo mô hình GARCH(1,1) của chuỗi lợi suất
hàng ngày của chỉ số S&P 500 giai đoạn từ 11/1985 đến 10/1994. Kết quả cho thấy
GARCH(1,1) theo phân phối Student’s-t cung cấp những con số dự báo rủi ro chính xác
hơn mô hình GARCH(1,1) theo phân phối chuẩn.
Một nghiên cứu khác của Guermat và Harris (2002) cũng cho ra kết luận tương tự như
nghiên cứu của Billio và Pelizzon (2000), đó là ước lượng VAR hàng ngày tại mức tin
cậy 95% theo mô hình GARCH với giả định phân phối Student’s-t đều điều chỉnh quá
mức mức độ rủi ro. Nếu mức tin cậy cao hơn thì kết quả dự báo được cải thiện hơn.
P.Giot và S.Lauren (2003) đã ước tính VAR hàng ngày đối với 03 chỉ số chứng khoán
quốc tế (FTSE, NASDAQ, NIKKEI) và 03 chứng khoán thuộc chỉ số Down Jones của
Mỹ (Alcoa, MacDonald, Merck), sử dụng mô hình GARCH theo giả định phân phối
Student’s chệch và đã chỉ ra rằng mô hình hoạt động tốt hơn là một mô hình đối xứng
thuần túy, vì nó phản ánh các đặc tính của phân phối thực nghiệm một cách chính xác
hơn và do đó các con số VAR dự báo gần với VAR thực tế hơn.
Tiếp đó là công trình nổi bật của T.Angelidis, A.Benos, S. Degiannakis (2004) trong
bài “The use of GARCH models in VAR estimation” đã nghiên cứu khá bao quát hoạt
động của họ các mô hình ARCH mở rộng trong việc ước tính VAR hàng ngày tại mức
tin cậy 95% và 99% theo các giả định phân phối đối với năm chỉ số chứng khoán (S&P
500, NIKKEI 225, FTSE 100, CAC 40 và DAX 30). Nghiên cứu cho thấy: (1) Mô hình
theo giả định phân phối chuẩn cho ra kết quả kém chính xác với việc ước tính VAR hàng
ngày tại mức tin cậy 95% và 99% dưới giá trị VAR thực sự, phân phối chuẩn chỉ hoạt
động tốt nhất đối với chỉ số NIKKEI 225 tại mức 95% và 99% mặc dù kiểm định Jarque-
Bera kết luận chuỗi lợi suất NIKKEI không có phân phối chuẩn. (2) Phân phối Student’s-
t là sự lựa chọn tốt hơn, đặc biệt đối với việc ước tính VAR 95%, tuy nhiên đối với chỉ
số NIKKEI 225 thì nó lại điều chỉnh quá mức độ dày đuôi và vì thế phân phối chuẩn tại
mức tin cậy 95% hoặc GED tại mức tin cậy 99% lại tốt hơn. (3) Việc sử dụng chỉ mô
22
hình ARCH sẽ cho ra kết quả chấp nhận được khi phần dư được mô hình hóa hoặc theo
phân phối Student’s-t hoặc GED, không bao giờ là trường hợp của phân phối chuẩn. (4)
Có chứng cứ cho thấy mô hình GARCH bất đối xứng, ở đây là mô hình EGARCH đơn
giản nhất theo giả định GED cho ra kết quả dự báo VAR phù hợp nhất đối với phần lớn
thị trường.
Nghiên cứu của tác giả Đặng Hữu Mẫn (2009) trong đó ứng dụng mô hình VAR khá
phổ biến là GARH(1,1) dưới những giả định phân phối của thu nhập để dự báo rủi ro
của chỉ số FTSE 100 trên thị trường chứng khoán Anh quốc, sử dụng chuỗi dữ liệu từ
05/06/2002 đến 22/06/2009 (Nghiên cứu chất lượng dự báo của những mô hình quản trị
rủi ro thị trường vốn – Trường hợp của Value – at – risk Models). Tác giả chỉ ra rằng,
trong suốt giai đoạn khủng hoảng, những mô hình VAR chỉ hoạt động hiệu quả tại 97.5%
độ tin cậy, thấp hơn mức khuyến cáo của Ủy ban Basel khi dự báo rủi ro đối với danh
mục đầu tư của một định chế tài chính (99%). Ngoài ra nghiên cứu khẳng định không có
bất kỳ bằng chứng nào chứng tỏ mô hình t-GARCH(1,1) cung cấp những con số dự báo
rủi ro chính xác hơn mô hình N-GARCH(1,1). Điều này có thể trái ngược với một số kết
quả của các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến việc ứng dụng những mô hình
GARCH(1,1) trong dự báo dao động thị trường.
2.3.2. Nghiên cứu tại các thị trường mới nổi
Brooks và Persand (2003) dựa trên hiệu ứng bất đối xứng trong việc ước tính chính xác
VAR, đã kết luận rằng những mô hình không cho phép tính bất đối xứng hoặc là trong
phân phối của TSSL hoặc là trong xác định dao động thì đều ước tính VAR thấp hơn
VAR thực sự.
Yu Chuan Huang, Bor-Jing Lin (2004), nghiên cứu chỉ số TAIFEX và SGX-DT theo
ngày của thị trường chứng khoán Đài Loan cho thấy đối với TSSL của tài sản có đặc
tính đuôi dày và dao động hội tụ thì những giá trị VAR được ước tính theo mô hình
ARCH bất đối xứng với giả định phân phối chuẩn chính xác hơn ở những mức tin cậy
23
thấp, còn ở những mức tin cậy cao hơn thì mô hình với giả định phân phối Student’s lại
chính xác hơn.
Hongyu Pan và Zhichao Zhang (2006) đã đánh giá hoạt động của mô hình GARCH
dựa trên chuỗi chỉ số Composite của thị trường chứng khoán Shanghai và chỉ số
Component của thị trường chứng khoán Shenzhen từ tháng 01/2000 đến 12/2004 với giả
định sai số có phân phối chuẩn, Student’s-t và student’s-t chệch (Forecasting financial
volatility: Evidence from Chinese stock market). Kết quả cho thấy, mô hình GARCH với
phân phối Student’s-t được hỗ trợ hơn đối với cả chỉ số Shanghai và Shenzhen.
G.Benavides (2007) ứng dụng quá trình GARCH để ước tính VAR của chuỗi lãi suất
danh mục tương lai trên thị trường Mexico nhằm xem xét liệu mô hình GARCH có đánh
giá quá cao mức độ rủi ro hay không. Tác giả sử dụng chuỗi lãi suất Cetes 91 ngày (được
tính từ lãi suất trái phiếu Chính phủ Mexico) và chuỗi lãi suất TIIE 28 ngày (được tính
toán từ các giao dịch đi vay và cho vay của các Ngân hàng thương mại Mexico). Kết quả
cho thấy quá trình GARCH có thể ước tính VAR chính xác trong thời gian 01 ngày giao
dịch, tuy nhiên với thời gian hơn 10 ngày giao dịch hoặc lâu hơn thì GARCH lại đánh
giá quá mức mức độ rủi ro do bởi sự kéo dài dao dộng trong mô hình.
D.G.Millan, A.E.H.Speight (2007) đã điều tra VAR tại các thị trường mới nổi và so
sánh việc ứng dụng các mô hình GARCH đối xứng, bất đối xứng và GARCH có các cú
sốc kéo dài. Tác giả phân tích chuỗi dữ liệu chỉ số hàng ngày đối với 8 thị trường chứng
khoán mới nổi khu vực Châu Á Thái Bình Dương và nhận thấy rằng cả hiệu ứng bất đối
xứng và cú sốc kéo dài đều rất quan trọng trong việc đưa ra các ước tính VAR được cải
thiện hơn so với mô hình đối xứng.
Tiếp đó, một nghiên cứu khác nữa của D.G.McMillan, P.Thupayagale (2010) nghiên
cứu việc lựa chọn một cách phù hợp các mô hình GARCH bất đối xứng và GARCH có
các cú sốc kéo dài trong việc dự báo VAR. Tác giả sử dụng chuỗi giá trị đóng cửa hàng
ngày của chỉ số JSE All Share trên thị trường chứng khoán Nam Phi từ 01/1990 đến
12/2007 gồm 4,965 quan sát. Kết quả cho thấy tính vượt trội trong việc ước lượng chính
24
xác VAR của các mô hình có hiệu ứng bất đối xứng hoặc có hiệu ứng các cú sốc kéo dài
và mô hình nào phù hợp hơn còn tùy thuộc vào việc lựa chọn các tiêu chuẩn kiểm định
mô hình.
Nghiên cứu của J.Iqbal, S.Azher, A. Ijza (2010) ước tính VAR trên thị trường chứng
khoán Pakistan dựa trên mô hình GARCH(1,1) theo giả định phân phối GED, sau đó so
sánh với các phương pháp ước lượng tham số và phi tham số khác. Tác giả sử dụng chuỗi
TSSL hàng ngày của chỉ số KSE-100 từ 1992 đến 2008 gồm 4,298 quan sát. Kết quả mô
hình GARCH(1,1) ước lượng chính xác hơn cả, đặc biệt là tại mức tin cậy 95%. Trong
trường hợp này, khoản lỗ thực sự vượt quá ước tính VAR chỉ trong 2 năm 1998 và 2006.
2.3.3. Nghiên cứu tại thị trường Việt Nam
Cho đến nay, nghiên cứu về việc ứng dụng lớp mô hình GARCH để ước tính VAR trong
việc dự báo rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam chưa nhiều, trong đó có bài
nghiên cứu chuyên sâu là luận văn thạc sĩ: “Mô hình giá trị chịu rủi ro trong đầu tư cổ
phiếu tại thị trường chứng khoán Việt Nam” của Nguyễn Anh Tùng (2010). Bằng việc
vận dụng mô hình RiskMetric và lớp mô hình ARMA-GARCH để xác định VAR đối
với chỉ số VNIndex với chuỗi dữ liệu được lấy từ 28/07/2000 đến 30/10/2009 gồm 2.154
quan sát theo ngày, đã cho ra kết luận như sau: (1) Các mô hình với giả định phân phối
xác suất của TSSL là phân phối chuẩn và bất đối xứng sẽ không phù hợp vì phân phối
xác suất của TSSL là gần như đối xứng và xuất hiện đặc tính “leptokurtotic”. Kết quả
ước lượng chỉ ra phân phối GED phù hợp đối với phân phối thực nghiệm của TSSL của
VN-Index. (2) Do có các yếu tố ngoại sinh như biên độ dao động, tâm lý đám đông…
đã ảnh hưởng đến việc lựa chọn mô hình cũng như độ chính xác trong kết quả dự báo
VAR đối với TSSL của VN-Index. Trong điều kiện này, mô hình IGARCH là phù hợp
hơn so với GARCH.
Tóm lại, có nhiều nghiên cứu về việc ứng dụng lớp mô hình GARCH với các giả định
phân phối khác nhau của chuỗi TSSL để dự báo VAR. Một số kết quả nghiên cứu này là
25
không giống nhau do sự khác biệt về chọn mẫu, lỗi mô hình dẫn đến phương trình ước
lượng sai, sai số có thể không phải là i.i.d… Nhưng hầu hết các nghiên cứu này đều cho
thấy rằng giả định phân phối chuẩn cho ra các kết quả dự báo rủi ro rất yếu ớt. Do
chuỗi dữ liệu tài chính có đặc tính “leptokurtosis” nên người ta phải lựa chọn các giả
định phân phối khác phù hợp như phân phối chuẩn hỗn hợp, Studen’s-t, Student’s chệch,
GED… Ngoài ra, việc sử dụng các mô hình GARCH bất đối xứng sẽ cho kết quả ước
lượng chính xác hơn là các mô hình đối xứng thuần túy.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Không có mô hình nào là tối ưu hoàn toàn vì mỗi mô hình đều có ưu nhược điểm riêng.
Do đó, người dùng phải căn cứ vào đặc tính riêng biệt của mỗi chuỗi dữ liệu tài chính
để lựa chọn mô hình xác định VAR phù hợp. Theo N.Khindanova và T.Rachev (2000),
nếu danh mục bao gồm các tài sản phi tuyến tính thì phương pháp mô phỏng lịch sử hay
mô phỏng Monte Carlo là phù hợp, ngược lại danh mục chỉ bao gồm các tài sản tuyến
tính thì phương pháp tham số sẽ phù hợp hơn.
T.Angelidis, A.Benos và S.Degiannakis (2004) đã ứng dụng lớp mô hình GARCH mở
rộng gồm GARCH, TARCH và EGARCH với một số giả định về phân phối (chuẩn,
Student’s-t và GED) và kích cỡ mẫu khác nhau để ước tính VAR của 05 chỉ số chứng
khoán. Dựa trên bài nghiên cứu của ông, tác giả sử dụng mô hình lớp mô hình GARCH
theo ba giả định về phân phối của TSSL: phân phối chuẩn, Student’s-t và GED nhằm
làm rõ mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra ở trên.
3.1. Mô hình nghiên cứu GARCH
3.1.1. Ý tưởng của mô hình ARCH
- Nhà đầu tư khi tham gia thị trường đều mong muốn danh mục của mình thu được
TSSL cao nhất, tuy nhiên nhà đầu tư cũng cần phải hiểu rõ mức độ rủi ro của danh
mục mà mình nắm giữ. Nhiều mô hình định giá tài sản đã nỗ lực ước lượng TSSL kỳ
vọng của một tài sản cụ thể và ứng với mỗi TSSL kỳ vọng đều bao hàm yếu tố rủi ro
26
hệ thống và phi hệ thống. Với thực tiễn đó, các mô hình kinh tế lượng đòi hỏi phải
có khả năng dự báo được mức dao động của các chuỗi thời gian. Các mô hình dự báo
như vậy thuộc họ các mô hình ARCH.
- Phân tích kinh tế lượng cổ điển đều giả định phương sai của sai số là không đổi theo
thời gian, tuy nhiên các chuỗi dữ liệu tài chính thường có xu hướng dao động cao vào
một số giai đoạn theo sau một số giai đoạn ít biến động (do ảnh hưởng ít nhiều của
các tin tức tốt/xấu liên quan và các nhà đầu tư ứng xử theo kiểu hành vi đám đông),
cho nên giả định phương sai không đổi không phù hợp với các chuỗi dữ liệu thời
gian. Mô hình ARCH do Engle phát triển năm 1982 cho rằng, phương sai của các số
hạng nhiễu tại thời điểm t phụ thuộc vào các số hạng nhiễu bình phương thời kỳ trước
đó. Đến năm 1986, Bollerslev đã đề xuất mô hình GARCH trên cơ sở đưa thêm các
biến trễ của phương sai có điều kiện vào phương trình phương sai theo dạng tự hồi
quy nhằm khắc phục hiện tượng có quá nhiều độ trễ trong ảnh hưởng ARCH.
3.1.2. Giới thiệu mô hình GARCH
Mô hình GARCH(p,q) tổng quát có dạng sau:
Yt = β1 + β2Xt + εt (4)
εt ~ N(0, ht)
t-j