
LUẬN VĂN:
Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại
một số doanh nghiệp Kinh doanh -
Thương mại trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm - Hà Nội

Lời mở đầu
Từ 01/01/1999, Việt Nam bắt đầu thi hành một luật thuế mới, đó là thuế Giá trị gia
tăng (GTGT). Việc Nhà nước ta quyết định thay Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế
GTGT là hoàn toàn phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới. Nhìn
chung, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá
cao do đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân
sách Nhà nước, đơn giản, trung lập, ....
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế GTGT về cơ bản đã phát huy các mặt tích cực đối
với đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư, ổn định sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và trình độ quản lý của ngành thuế...
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã gặp những vướng mắc khó khăn. Vì vậy,
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều
văn bản sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn thi hành Luật thuế này.
Với mong muốn tìm hiểu một luật thuế còn khá mới mẻ này, tôi đã quyết định chọn
đề tài: "Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại một số doanh nghiệp Kinh doanh -
Thương mại trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Hà Nội" làm báo cáo thực tập tốt nghiệp
của mình.

chương I
những lý luận chung về thuế giá trị gia tăng
I- sơ lược về thuế nhà nước
1-Khái niệm về thuế
Thuế là một phạm trù lịch sử, nó phát sinh tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời,
tồn tại và triển của nhà nước.Có thể khẳng định rằng , dưới bất kỳ một chế độ xã hội nào
khi đã có nhà nước thì phải có thuế. Sự xuất hiện của nhà nước đòi hỏi phải có cơ sở vật
chất để đảm bảođiều kiện cho nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng của mình.Nhà
nước dùng quyền lực chính trị của mình để ban hành những qui định pháp luật cần thiết
nhằm làm công cụ phân phối lại một phần của cải xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước. Đồng thời, sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong xã hội cũng là
cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn thu để thuế tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế ra
đời là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của nhà nước.
Nhà nước sử dụng thế như một công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thuế
không những là nguồn thu quan trọng chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn có ảnh
hưởng to lớn đến công cuộc phát triển kinh tế.
Nhiệm vụ chính trị của mỗi nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm cuẩ
phương thhức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò,
nội dung và đặc điểm của thuế khoá. Bản chất của thuế tuỳ thuộc vào bản chất nhà nước
sinh ra nó. Trước thời kỳ phong kiến, hình thái ban đầu của thuế chỉ là hiện vật và ngày
công lao động, kể từ chủ nghĩa tư sản cho đến nay, thuế đã dần chuyển sang hình thái phổ
biến là tiền tệ và các sắc thuế khác nhau cũng không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên,
hệ thống thuế được coi là phù hợp không thể chỉ nhìn vào số lượng các sắc thuế nhiều
hay ít, và mục tiêu đơn thuần về động viên tài chính mà được phân tích một cách cụ tể
toàn diện mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế lành mạnh, với đời sống xã
hội không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân. Do đó, cơ cấu và

nội dung cẩ hệ thống và từng sắc thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cải tiến và
đổi mới, kịp thời thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Đồng thời, phải
giải quyết, tổ chức hợp tác , đủ sức bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về thuế
đã được nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Khái niệm về thuế nhà nước chưa có một sự thống nhất, tuỳ thuộc vào từng đối
tượng mà có những khái niệm về thuế khác nhau:
-Đối với nhà nước: Thuế là một khoản thu chủ yếu của nhà nước , đối với các tổ
chức xã hội vầ mọi thành viên trong xã hội khoản thu này mang tính chất bắt buộc theo
pháp luật, không hoàn trả trực tiếp
-Đối với người nộp thuế thuế là khoản đóng góp có tính chất bắt buộc mà các tổ
chức kinh tế hay người kinh doanh phải thực hiện theo luật định nộp vào ngân sách nhà
nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.
Tóm lại , thuế là một khoản thu mang tính chất bắt buộc gắn liền với quyền lực
chính trị của nhà nước bằng các sấc lệnh do nhà nước quy định. Nó được thể hiện thông
qua các luật và văn bản dưới luật được cơ quan quyền lực cao nhất ban hành đó là Quốc
hội.
Thuế được tập trung vào ngân sách nhà nước,đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu,cho
các mục đích: phát triển kinh tế , văn hoá , xã hội , quản lý nhà nước và an ninh quốc
phòng. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách,nhà nước thực hiện phân phối lại thu
nhập ,đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc trả lại cho người dân một cách gián tiếp
dưới hình thức trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quĩ tiêu dùng xã hội khác.
Nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng công bằng, văn minh thì yêu cầu phải có
một hệ thống thuế khoá phù hợp càng cao. Chúng ta phải luôn luôn đổi mới, bổ xung,
không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế hiện hành và phát huy những vai trò to lớn cuả nó,
phục vụ cho nhà nước, cho quốc gia của mình.
2-Đặc điểm của thuế
Thuế là một biện pháp tài chính của nhà nước được thiết lập trên nguyên tắc luật
định, mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao. Đồng thời khi được thực
hiện thì có thể làm thay đổi quyền sở hữu về tài sản.

Thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về kinh tế, xã hội. Tuy là biện pháp
tài chínhcủa nhà nước mang tính chất bất buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác
lập trên nền tảng của các vấn đề kinh tế, xã hội của người làm nghĩa vụ đóng thuế. Việc
xác lập một hệ thống thuế với các loại thuế xuất khác nhau trước hết bắt nguồn từ sự chi
tiêu của nhu cầu nhà nước, song trong thực tế mức độ động viên qua thuế bao giờ cũng
chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, xã hôị của một quốc gia trong từng giai đoạn
lịch sử.
Thuế là một khoản đóng góp không mang hoàn trả trực tiếp.
3-Phân loại thuế:
Tuỳ theo mục đích yêu cầu của việc xem xét, đánh giá, phân tích và phân loại các
sắc thuế mà có các cách phân loại sau:
3.1 Phân loại theo tính chất chuyển giao thuế.
*Thuế trực thu: Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là người chịu
thuế.
Ví dụ: Thuế thu nhập doanh nghiệp ,thuế thu nhập cá nhân
*Thuế gián thu: là loại thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá và
dịch vụ, đồng thời người chịu thuế gián thu và người nộp thuế không đồng nhất.
Ví dụ: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu
3.2 Phân loại theo đối tượng tính thuế:
*Thuế đánh vào nsản xuất kinh doanh và dịch vụ.
Ví dụ: Thuế doanh thu
Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá:
Ví dụ: thuế tiêu thụ đặc biệt
*Thuế đánh vào thu nhập :
Ví dụ :thuế thu nhập doanh nghiệp
*Thuế đánh vào việc sử dụng tài sản của nhà nước.