LUẬN VĂN:
Tình hình thực hiện luật thuế GTGT
của một số doanh nghiệp kinh doanh
thương mại trên địa bàn Quận Hoàn
Kiếm – Hà Nội
Lời mở đầu
Đối với bất kỳ một Quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò quan trọng
chiếm phần lớn trong tổng thu Ngân sách nhà nước. Việc thực thi một chính sách thuế
hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này, từ đó tạo điều kiện mở rộng sản xuất
phát triển kinh tế - hội của đất nước. Việt Nam, theo thống của tổng cục thuế thì
92% Ngân sách nhà nước thu từ thuế nên cần phải chính sách thuế hoàn chỉnh
muốn vậy luật thuế đưa ra phải phương pháp tính thuế hợp nhằm đảm bảo scông
bằng cho các đối tượng nộp thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp
phải đúng chế độ kế toán, tài chính và quy định của pháp luật.
Nếu như trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuế lợi tức, thuế hàng
hoá thuế Doanh thu tỏ ra ơng đối phù hợp góp phần không nhỏ vào thu Ngân
sách nhà ớc thì khi chuyển sang nền kinh tế thtrường những loại thuế y trở nên
không còn phù hợp, mắc phải nhiều nhược điểm. Chính vậy đến ngày 01/01/1999 một
luật thuế mới ra đời, đó thuế GTGT tạo nên bước ngoặt trong quá trình cải cách thuế
giai đoạn II của nước ta.
Về mặt thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, khả năng tạo được
công bằng trong việc thu thuế, thúc đầy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, bảo
đảm nguồn thu cho Ngân sách n ớc. Đặc biệt sau hơn ba m thực hiện luật thuế
GTGT, chúng ta đã đạt được một s khích lệ.
Tuy nhiên do thuế GTGT một phương pháp đánh thuế tiên tiến, nhưng còn rất
mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Trong thời gian công tác và học tập tại chi cục thuế Quận Hoàn Kiếm thành phố
Nội cùng với những kiến thức tiếp thu tại trường kết hợp cùng thực tiễn nghiên cứu tìm
tòi, nhận thức được vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đối với Ngân sách nhà nước,
em đã mạnh dạn chọn đề tài: Tình hình thực hiện luật thuế GTGT của một số doanh
nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Nội dung của bản báo cáo thực tập gồm ba chương:
Chương I : Những lý luận chung về thuế GTGT.
Chương II: Tình hình đăng ký, kê khai thanh quyết toán thuế GTGT của một số
doanh nghiệp kinh doanh thương mại trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm trong thời gian qua.
Chương III: Đánh giá và đề xuất.
Mục đích của đề tài y qua nghiên cứu số liệu, tìm hiểu tình hình đăng ký,
khai thanh quyết toán thuế GTGT tại một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại
điển hình áp dụng thuế theo phương pháp khấu trừ trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm đ từ
đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số đề xuất - giải pháp nhằm làm hn thiện hơn luật
thuế GTGT.
Chương I
Những lý luận chung về thuế giá trị gia tăng.
I. Sơ lược về thuế nhà nước:
1.Khái niệm về thuế:
Thuế một phạm trù lịch sử, nó phát triển tồn tại cùng với sự ra đời tồn tại
phát triển của nhà nước.Có thể khẳng định rằng, dưới bất kỳ chế độ hội nào khi đă
Nhà nước phải thuế. Sự xuất hiện của Nhà ớc đòi hi phải cơ sở vật chất để đảm
bảo điều kiện cho Nhà ớc tồn tại thực hiện các chức ng của mình.Nhà nước dùng
quyền lực chính trị của mình để ban hành những quy định pháp luật cần thiết nhằm làm
công cụ phân phối lại một phần của cải xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước. Đồng thời, sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong hội cũng cơ schủ yếu
tạo khả năng và nguồn thu để thúc đẩy tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thế nên thuế ra đời một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức
năng của nhà nước. Nhà nước sử dụng luật thuế như một cung cụ quan trọng đế điều tiết
nền kinh tế, thuế không những nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách nhà nước
còn ảnh hưởng lớn đến công cuộc phát triển kinh tế. Nhiệm vụ chính trị của mỗi Nhà
nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế khoá.
Mặt khác, bản chất của thuế tuỳ thuộc vào bản chất nhà nước sinh ra . Nếu như
trước thời kỳ phong kiến, hình thái ban đầu của thuế chhiện vật ny công lao động
thì đến chủ nghĩa tư sản cho đến nay, thuế đã chuyển sang hình thái phổ biến là tiền tệ
các sắc thuế khác nhau cũng không ngừng hòan thiện. Nhưng cấu nội dung cả hệ
thống từng sắc thuế phải được nghiên cưú, sửa đổi, bổ sung cải tiến đổi mới để kịp
thời thích hợp với tình hình, nhiệm vụ hợp tác, đủ sức thực hiện các quy định của pháp
luật về thuế đã được nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Khái niệm về thuế nhà nước, chưavề sự thống nhất tuỳ thuộc vào từng đối tượng
mà có những khái niệm về thuế khác nhau:
- Đối với nhàớc, thuế là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách nhà ớc để đáp
ứng các nhu cầu chỉ tiêu cho mục đích kinh tế xã hội.
- Đối với các tổ chức mọi thành viển trong hội khoản thu y mang tính chất
bắt buộc theo pháp luật, không hoàn trả trực tiếp.
- Đối với người nộp thuế: thuế khoảng đóng góp tính chất bắt buộc mà các tổ
chức kinh tế hay người kinh doanh phải thực hiện theo luật định nộp vào ngân sách nhà
nước để đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu của bộ máy nhà nước.
Tóm lại, thuế một khoản thu mang tính chất bắt buộc gắn liền với quyền lực
chính trị của nnước bằng các sắc lệnh do nhà nước quy định. được thể hiện thông
qua luật văn bản ới luật được cơ quan nhà ớc quyền lực cao nhất ban hành đó
Quốc hội.
Thuế được tập trung vào ngân sách nhàớc, đáp ứng các nhu cầu chỉ tiêu của mục
đích: phát triển kinh tế, văn hoá hội, quản n nước an ninh quốc phòng. Một
phần thuế đã nộp đảm bảo cho công bằng xã hội thông qua việc trả lại cho người dân một
cách gián tiếp dưới hình thức trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và tiêu dùng xã hội khác.
Nền kinh tế càng phát triển, hội càng công bằng văn minh thì yêu cầu phải có
một hệ thống thuế khoá phù hợp càng cao. Chúng ta phải luôn luôn đổi mới, bổ xung
không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế hiện hành phát huy vai trò lớn của phục vụ
cho nhà nước, cho quốc gia của mình.
2. Đặc điểm của thuế:
* Thuế một biện pháp tài chính của n nước được thiết lập trên nguyên tắc lập
định, mang tính quyền lực, tính cưỡng chế tính pháp cao. Đồng thời khi được thực
hiện thì có thể làm thay đổi quyền sở hữu về tài sản.
* Thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về kinh tế xã hội. Thế nên việc xác
lập một hệ thống các loại sắc thuế khác nhau, trước hết bắt nguồn tsự chi tiêu của nhu