
Chuyên đề thực tập
1
LỜI NÓI ĐẦU
Nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển, kế toán ngày càng trở nên quan
trọng và trở thành công cụ không thể thiếu được trong quản lý kinh tế của Nhà
nước và của doanh nghiệp. Để điều hành quản lý được toàn bộ hoạt động kinh
doanh ở doanh nghiệp có hiệu quả nhất, các doanh nghiệp phải nắm bắt kịp thời,
chính xác các thông tin kinh tế và thi hành đầy đủ các chế độ kế toán, chế độ quản
lý trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh và quá trình sử dụng
vốn.
Ngành xây dựng cơ bản là một trong những ngành sản xuất đặc thù có chức
năng tạo ra TSCĐ cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, việc hạch toán đúng đắn giá
thành sản phẩm và hoàn thiện công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp xây lắp trong việc giúp
bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh phân tích đưa ra các biện pháp tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành sản phẩm, khai thác mọi tiềm năng của doanh nghiệp mà còn
có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân vốn đầu tư XDCB hàng năm
chiếm khoảng 40% ngân sách Nhà nước. Mặt khác phẩm xây lắp mang tính đơn
chiếc, kết cấu phức tạp, chu kỳ sản xuất dài, hoạt động của doanh nghiệp xây lắp
mang tính lưu động rộng lớn nên công tác kế toán trong doanh nghiệp xây lắp có
những đặc điểm riêng biệt. Do đó, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu về tổ chức
quản lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm của từng
công trình cụ thể. Sản phẩm xây dựng cơ bản có giá trị lớn, khối lượng công trình
lớn, thời gian thi công tương đối dài. Trong quá trình thực tập ở Công ty Kiến trúc
Tây Hồ em chọn đề tài: “ Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp tại Công ty Kiến trúc Tây Hồ” bài làm của em chia làm 3
phần.
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phần II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần Kiến trúc Tây Hồ.
Phần III: Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty Kiến Trúc Tây Hồ.

Chuyên đề thực tập
2
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP.
Để đảm bảo kế toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm, cung cấp thông tin kịp thời cho quản trị doanh nghiệp, kế toán trong các
doanh nghiệp xây lắp cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:
1.1. Nội dung và bản chất kinh tế của chi phí.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ nhất định( tháng, quý, năm). Tức chi phí
sản xuất được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp tiêu dùng
trong một thời kỳ mà doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, chi
phí là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối
tượng tính giá. Nên kế toán phải tổng hợp các thành phần chi phí cấu tạo nên sản
phẩm từ nguyên vật liệu, con người và khấu hao tài sản cố định phát sinh trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Những chi phí này phải được phân loại theo
từng tiêu thức nhất định trong từng công trình và hạng mục công trình, toàn bộ chi
phí sản phẩm xây lắp được thể hiện qua các yếu tố sau:
1.2.Phân loại chi phí sản xuất.
Do chi phí sản xuất- kinh doanh có nhiều loại nên cần thiết phải phân loại chi phí
nhằm tạo thuận lợi cho công việc quản lý hạch toán chi phí. Phân loại chi phí nhằm
là việc sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm theo đặc trưng nhất định.
Trong thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên lựa chọn phương
pháp nào do cách quản lý và hạch toán. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải áp dụng
cho mính sao cho sử dụng phương pháp nào để hạch toán các chi phí không bị
trùng lắp. Sau đây là một số cách phân loại chi phí:

Chuyên đề thực tập
3
a. Phân loại theo yếu tố chi phí.
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí
được phân theo yếu tố. Cách phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích
dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia
làm 7 yếu tố sau;
-Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính,
vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ…sử dụng vào sản xuất kinh
doanh ( loại trừ giá trị dụng không hết nhập kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên
liệu động lực). Trong xây dựng thường bao gồm nguyên liệu chính( như Sắt, thép,
xi măng…) vật liệu phụ, nhiên liệu, năng lượng, động lực được sử dụng trong kỳ(
xăng, dầu, điện nước, điện thoại…).
-Yếu tố nhiên liệu, động lực trong quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ, số
dùng không hết nhập kho và phế liệu thu hồi.
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tiền lương và phụ
cấp lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp sản xuất .
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh số trích theo tỷ lệ quy định trên
tổng số tiền lương và tiền phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên tính vào chi
chí.
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định(TSCĐ): Phản ánh tổng số khấu TSCĐ phải
trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh như máy thi công,
phân xưởng, máy móc.
- Yếu tố chi phí và dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toán bộ chi phí và dịch vụ
mua ngoài trong quá trính sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí bằng tiền: Gồm các chi phí khách bằng tiền chưa phản ánh ở
các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
b. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.

Chuyên đề thực tập
4
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành sản phẩm, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối
tượng. Theo quy định hiện hành giá thành khoản mục gồm 5 mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu
liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay việc thực hiện lao vụ
dịch vụ như: Gạch, gỗ, xi măng, sắt, thép…
- Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm toàn bộ tiền lương ( tiền công) và các
khoản phụ cấp mang tính chất cho công nhân viên trực tiếp xây lắp hay thực hiện
các khoản lao vụ dịch vụ cùng với các khoản trích theo tỷ lệ quy định cho các quỹ
kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cũng có thể là công nhân thuê
ngoài.
- Chi phí sản xuất chung: Gồm toàn bộ các chi phí còn lại phát sinh trong
phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất sau khi đã loại trừ đi chi phí nguyên vật
liệu và chi phí nhân công trực tiếp nói trên.
c. Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí.
Theo cách thức kết chuyển, toán bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia
thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn
liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua; còn chi phí thời kỳ là
những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần
giá trị sản phẩm được sản xuất ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
d. Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn
thành.
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ
để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất- kinh doanh lại được
phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí
được chia thành biến phí và định phí.

Chuyên đề thực tập
5
- Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số,về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn chi về nguyên liệu, nhân công trực tiếp…chi phí
này tính cho một đơn vị sản phẩm thì không thay đổi
- Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công
việc hoàn thành, chẳng hạn như các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí
thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh…các chi phí này khi tính cho một đơn vị
sản phẩm thì lại biến đổi khi khối lượng của sản phẩm thay đổi.
1.3. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong doanh nghiệp xây lắp giá thành của sản phẩm được xác định theo
nhiều tiêu thức khác nhau thường là theo nguồn số liệu hay thời điểm để tính giá
thành. Vì vậy giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ lao động
sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối
lượng sản phẩm đã hoàn thành.
a. Giá thành dự toán: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức
cũng được xác định trước khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng giá
này được xác định dựa vào định mức bình quân tiên tiến và không biế đổi trong
suốt thời kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở định mức về
chi phí hiện hành từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch. Nên giá thành định
mức thường thay đổi phù hợp với định mức chi phí đạt được trong quá trình thực
hiện giá thành.
Giá thành kế hoạch: Giá thành này được xác định trước khi bước vào sản xuất kinh
doanh trên cơ sở thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán của kỳ kế hoạch
được tính theo từng công trình, hoặc hạng mục công trình.
Mặt khác, giá trị dự toán của từng CT, HMCT được xác định theo các định
mức, đơn giá( về vật liệu, nhân công, máy…) của các cơ quan có thẩm quyền ban
hành và dựa trên mặt bằng giá cả thị trường. Doanh nghiệp phải phấn đấu có lợi
nhuận cao vì vậy doanh nghiệp phải lập giá thành kế hoạch, dự kiến chỉ tiêu hạ giá
thành. Theo thông tư 09/2000/TT- BXD ngày 17/7/2000 thì giá thành dự toán được
áp dụng theo công thức sau:

