
Luận văn tốt nghiệp
Vũ Thị Thuý MSV : 2001D1573
LỜI NÓI ĐẦU
Với chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình sở hữu, xoá bỏ quan liêu bao cấp,
chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng XHCN. Vì vậy đã tạo cho nền kinh tế nước ta một bước tiến mới trên
con đường đổi mới và phát triển, vươn lên hội nhập với nền kinh tế các nước
trong khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế thị tường bất cứ một tổ chức kinh doanh nào muốn
tồn tại và phát triển được đòi hỏi phải có một phương thức kinh doanh phù
hợp, trong đó hoạt động tài chính là hoạt động quan trọng nhất, đóng vai trò
quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp bởi vì thông qua
chỉ tiêu tài chính mà doanh nghiệp đưa ra phương án kinh doanh cụ thể, phù
hợp với tinh hình thực tế vừa giảm thiểu được những rủi ro trong kinh doanh
vừa mang lại kết quả cao nhất trong việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay vấn đề tổ chức và sử
dụng vốn lưu động đang được đặc biệt quan tâm. Cùng với sự chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn vốn ngân sách, mở rộng quyền
tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp tự tổ chức và sử dụng, đã tạo
nên một tình hình mới trong quá trình vận động của vốn nói chung và vốn lưu
động nói riêng. Một số doanh nghiệp đã có phương thức biện pháp sử dụng
vốn kinh doanh một cách năng động và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu kinh tế
mới. Bên cạnh đó không ít doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn do công
tác tổ chức và sử dụng vốn còn thiếu chặt chẽ và kém hiệu quả.
Trong bối cảnh đó Công ty thương mại và Đầu tư phát triển miền núi
Thanh Hoá đã có nỗ lực làm ăn có lãi với số vốn Nhà nước giao. Tuy nhiên để
có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường đầy khắc nghiệt thì Công ty cần

Luận văn tốt nghiệp
Vũ Thị Thuý MSV : 2001D1573
phải quan tâm hơn nữa tới việc tổ chức và sử dụng vốn đặc biệt là vốn lưu
động chiếm hơn một nửa tổng số vốn kinh doanh .
Sau hai tháng thực tập tại Công ty thương mại và Đầu tư phát triển
miền núi Thanh Hoá được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và Ban lãnh
đạo Công ty, em đã bước đầu làm quen với thực tế vận dụng lý luận vào thực
tiễn của Công ty. Qua đó càng thấy rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề hiệu
quả sử dụng vốn lưu động, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Vốn
lưu động và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty thương mại và Đầu tư phát triển miền núi Thanh Hoá”.
Kết cấu luận văn gồm :
Chương I: vốn lưu động và sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty thương mại và Đầu tư phát triển miền núi Thanh Hoá.
Do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế vì vậy đề tài nghiên cứu
của em không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy
cô giáo để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2005
Sinh viên
Vũ Thị Thuý

Luận văn tốt nghiệp
Vũ Thị Thuý MSV : 2001D1573
CHƯƠNG I
VỐN LƯU ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
I. VỐN LƯU ĐỘNG VÀ NGUỒN VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1. Khái niệm, vai trò vốn lưu động và quản lý vốn lưu động:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp (DN) thực hiện
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu
cầu xã hội nhằm mục tiêu sinh lời hoặc thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao.
Để đạt được mục tiêu đó DN có thể tham gia một hoặc toàn bộ quá trình đầu
tư từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
DN là một đơn vị kinh tế để có thể hoạt động được phải đảm bảo đầy đủ
các yếu tố sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sự kết hợp
của ba yếu tố này sẽ tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cung ứng ra thị
trường. Trong đó đối tượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và chuyển dịch toàn bộ giá trị
vào giá trị của sản phẩm, giá trị này được bù đắp khi giá trị của sản phẩm
được thực hiện biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động là tài
sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. Hoạt động sản xuất kinh doanh
của DN gắn với quá trình sản xuất và lưu thông, và các tài sản lưu động
(TSLĐ) luôn chuyển hoá với tài sản lưu thông (TSLT) làm cho quá trình tái
sản xuất diễn ra liên tục. Để hình thành nền TSLĐ và TSLT doanh nghiệp cần
phải có một lượng vốn ứng trước đầu tư vào các tài sản đó. Lượng tiền đó là
vốn lưu động (VLĐ) của DN.
Như vậy, VLĐ của DN là số tiền ứng trước về TSLĐ sản xuất và TSLT
nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của DN thực hiện được thường
xuyên liên tục. VLĐ chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ
trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một chu
kỳ kinh doanh.
1.2.Thành phần và kết cấu VLĐ.
VLĐ của DN có vai trò quan trọng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh thường xuyên, liên tục. Việc tổ chức quản lý sử dụng hiệu quả VLĐ có
ý nghĩa quyết định sự tăng trưởng, phát triển của DN. Nghĩa là DN tổ chức tốt
quá trình mua sắm, sản xuất và tiêu thụ làm tăng tốc độ luân chuyển vốn,
giảm được nhu cầu VLĐ cần sử dụng mà kết quả đạt được tương đương làm
hiệu quả sử dụng VLĐ tăng cao.
Để quản lý tốt VLĐ thì DN phải phân loại VLĐ theo các tiêu thức khác
nhau, căn cứ vào các đặc điểm mỗi cách phân loại để phân tích đánh giá tình

Luận văn tốt nghiệp
Vũ Thị Thuý MSV : 2001D1573
hình quản lý VLĐ tại DN và định hướng quản lý VLĐ ở kỳ tiếp theo. Có thể
căn cứ một số tiêu thức sau để phân loại VLĐ.
* Căn cứ vào vai trò của vốn trong quá trình tái sản xuất VLĐ chia ra ba
loại, mỗi loại căn cứ vào công dụng lại được chia thành nhiều khoản vốn cụ thể
như sau:
- Vốn lưu động trong quá trình dự trữ sản xuất.
+ Vốn nguyên vật liệu chính: là giá trị biểu hiện của vật tư dự trữ khi
tham gia vào sản xuất nó lập thành thực thể của sản phẩm.
+ Vốn vật liệu phụ: là các loại giá trị dự trữ trên cho sản xuất giúp cho
hình thành sản phẩm.
+ Vốn nguyên liệu: là giá trị của các loại nhiên liệu dùng trong sản
xuất.
+ Vốn phụ tùng thay thế: bao gồm giá trị phụ tùng dự trữ dùng để thay
thế mới khi sửa chữa TSLĐ.
+ Vốn vật liệu đóng gói: bao gồm giá trị vật liệu bao bì dùng để đóng
gói trong quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất:
+ Vốn sản phẩm đang chế tạo: là giá trị sản phẩm dở dang trong quá
trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên địa điểm làm việc chờ chế biến
tiếp.
+ Vốn bán thành phẩm tự chế: là giá trị sản phẩm dở dang đã hoàn
thành một hoặc nhiều giai đoạn chế biến nhất định.
+ Vốn về phí tổn đợi phân bổ: là phí tổn chi ra trong kỳ nó có tác dụng
cho nhiều kỳ sản xuất vì thế chưa tính hết vào giá thành trong kỳ mà tính dần
vào giá thành kỳ sau.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông bao gồm:
+ Vốn thành phẩm: biểu hiện bằng tiền của sản phẩm nhập kho và
chuẩn bị tiêu thụ.
+ Vốn tiền tệ: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, mà trong quá trình
luân chuyển VLĐ thường xuyên tồn tại một bộ phận ở hình thái này.
+ Vốn trong thanh toán: là khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá
trình mua bán vật tư hàng hoá hoặc thanh toán nội bộ.
Theo cách phân loại này. Vốn dự trữ và vốn lưu thông không tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất nên cần hạn chế hợp lý vật tư hàng hoá dự trữ
tồn kho ở mức cần thiết tối thiểu. Mặt khác, căn cứ khả năng nhu cầu tiêu thụ
để có thể tăng cường khối lượng vốn trong sản xuất tạo nên giá trị mới.

Luận văn tốt nghiệp
Vũ Thị Thuý MSV : 2001D1573
* Căn cứ vào hình thái biểu hiện và chức năng của các thành phần VLĐ
có thể chia thành các loại sau:
- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: bao gồm các khoản vốn tiền tệ
như; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các
khoản đầu tư ngắn hạn. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu,
mua tài sản cố định, trả tiền thuế...
Tiền bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiềnthì
việc tối thiểu hoá lượng tiền phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên,
việc giữ tiền trong kinh doanh cũng là vấn đề cần thiết, điều đó xuất phát từ
những lý do sau:
Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tạo dựng được những cơ hội trong
kinh doanh, chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả.
- Khi mua hàng hoá dịch vụ, nếu có đủ tiền mặt DN có thể được hưởng
lợi thế chiết khấu.
Tuy nhiên giữ tiền mặt cũng có chi phí, đó chính là cơ hội bỏ qua nếu thay gửi
tiền mặt ta giữ một tài sản khác sinh lời như chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân
hàng.
- Vốn vật tư hàng hoá: là các khoản VLĐ biểu hiện bằng hình thái hiện
vật hàng hoá là các khoản VLĐ biểu hiện bằng hình thái hiện vật cụ thể như
nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.
Trong quá trình luân chuyển của VLĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh,
thì việc tồn vật tư, sản phẩm dở dang, hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước
đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Quản lý dự trữ là tính toán duy trì một lượng nguyên vật liệu, sản phẩm
dở dang, thành phẩm hàng hoá với cơ cấu hợp lý để sản xuất kinh doanh được
liên tục và có hiệu quả. Dự trữ tồn kho gồm ba loại: nguyên vật liệu thô cho
quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Thông qua cách phân loại xác định kết cấu VLĐ tối ưu xác định nhu cầu
VLĐ cho DN.
* Phân loại theo quan hệ sở hữu về vốn chia VLĐ thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu: là số VLĐ thuộc quyền sở hữu của DN, doanh nghiệp
có đầy đủ các quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt. Tuỳ theo loại hình DN
mà vốn chủ sở hữu này gồm các nội dung cụ thể riêng.
- Các khoản nợ: là các khoản VLĐ được hình thành từ vốn vay các
NHTM hoặc các tổ chức tín dụng khác, thông qua phát hành trái phiếu, các
khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.