00050011090 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THIÊN LÝ

Xö Lý VI PH¹M PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THIÊN LÝ

Xö Lý VI PH¹M PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thiên Lý

LỜI CẢM ƠN

Với những tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc

đến toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi hệ

thống tri thức về Luật học nói chung cũng như kiến thức về chuyên ngành

Luật Kinh tế nói riêng.

Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Quốc gia Hà

Nội, Khoa Luật, Bộ môn Luật Kinh doanh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận

lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành được luận văn

đúng kế hoạch.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn

khoa học PGS.TS Nguyễn Hữu Chí đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ

tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Xử lý vi phạm

pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”.

Mặc dù tôi đã cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.

Song cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Kính mong

được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo và các bạn để bài luận văn được hoàn

thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Thị Thiên Lý

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP

LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ VIỆC XỬ LÝ ............................... 9

1.1. Vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................................. 9

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .......... 9

1.1.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ........................ 12

1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ................................ 14

1.2. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .................................. 16

1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ..................... 16

1.2.2. Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm

pháp luật về bảo hiểm xã hội ................................................................ 16

Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 21

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM

BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN .................. 22

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong

lĩnh vực bảo hiểm xã hội ................................................................... 22

2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội ........................................................... 22

2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hình sự trong

lĩnh vực bảo hiểm xã hội ..................................................................... 24

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực

bảo hiểm xã hội .................................................................................. 32

Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 42

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI ................................... 43

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội .......... 43

3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh

vực bảo hiểm xã hội ........................................................................... 46

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật về bảo

hiểm xã hội ......................................................................................... 50

3.3.1. Cải cách thủ tục hành chính trong công tác giải quyết chế độ bảo

hiểm xã hội .......................................................................................... 50

3.3.2. Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý nhằm hạn chế vi phạm

pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................................................. 52

3.3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra ngành

Bảo hiểm xã hội .................................................................................. 53

3.3.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công khai thông tin

tình hình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo

hiểm xã hội .......................................................................................... 55

3.3.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền

trong xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh lực bảo hiểm xã hội ........ 56

Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 58

KẾT LUẬN .................................................................................................... 59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 63

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH: Bảo hiểm xã hội

BHYT: Bảo hiểm y tế

VPHC: Vi phạm hành chính

VPPL: Vi phạm pháp luật

"tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương" gọi chung là: "tỉnh"

"quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh" gọi chung là: "huyện"

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Tên bảng Số hiệu

Bảng 2.1 Kết quả xử lý vi phạm hành chính từ năm 2016 đến hết

năm 2019 24

Bảng 2.2 Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH (từ

năm 2016 đến hết năm 2019) 30

Bảng 2.3 Kết quả thực hiện công tác TTKT ngành BHXH từ năm

2016 đến hết năm 2019 31

Bảng 2.4 Số nợ bảo hiểm xã hội từ năm 2016 đến hết năm 2019 35

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo

hiểm thất nghiệp (BHTN) là những chính sách lớn, là trụ cột chính của hệ

thống bảo đảm an sinh xã hội của mỗi quốc gia, Việt Nam chúng ta cũng

không đứng ngoài xu thế chung đó của thế giới.

Chính sách BHXH, BHYT, BHTN đã được Đảng, Nhà nước ta coi

trọng và từng bước điều chỉnh để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và sự

phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, trong đó BHXH là sự bảo đảm

thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm

hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết

tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH; ngày 20/11/2014, tại

kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BHXH, theo đó việc tham

gia BHXH là quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động

“Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia BHXH bắt buộc,

BHYT bắt buộc, BHTN và được hưởng các chế độ theo quy định của pháp

luật về BHXH và pháp luật về BHYT” [16, Điều 186, khoản 1].

Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của hệ thống an sinh xã

hội quốc gia mà trong đó chính sách BHXH là một trong những trụ cột chính,

thì việc lợi dụng các kẽ hở hoặc cố tình vi phạm các quy định gây thiệt hại

cho hệ thống an sinh xã hội, cho Nhà nước và những người tham gia BHXH

đang ngày càng lan rộng và phức tạp. Tìm hiểu thực trạng các quy định về xử

lý vi phạm pháp luật (VPPL) về BHXH ở Việt Nam và bản chất, nguyên nhân

của tình trạng trên có ý nghĩa quan trọng để đưa ra các biện pháp đấu tranh

một cách có hiệu quả nhằm ổn định xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của người lao động.

1

Theo quy định của pháp luật, hiện có nhiều cơ quan được giao nhiệm

vụ giám sát việc thực thi chính sách pháp luật về BHXH (Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam), theo đó: Thanh tra

lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

về việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, Thanh tra tài chính thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính BHXH theo quy

định của pháp luật về thanh tra và cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh

tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT song chế tài xử lý, lực lượng

tham gia, phương thức tham gia, ... còn bộc lộ những hạn chế nhất định.

Để công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các hành vi VPPL

trong lĩnh vực BHXH, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động đòi

hỏi phải có công trình nghiên cứu một cách cơ bản, cụ thể cả về lý luận và thực

tiễn, cần đánh giá được tình hình VPPL và việc xử lý các hành vi VPPL trong

lĩnh vực BHXH trong thời gian qua; chỉ ra những mặt đạt được và những tồn

tại hạn chế để từ đó rút ra kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp nhằm nâng

cao hơn nữa hiệu quả công tác này. Đó cũng chính là lý do tác giả quyết định

lựa chọn Đề tài: "Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam".

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài

Trong những năm gần đây, xuất phát từ thực tế tình hình VPPL về

BHXH nên vấn đề xử lý VPPL về BHXH luôn được các ngành, các tổ chức,

cá nhân quan tâm, nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Trong số đó, đáng

chú ý một số công trình nghiên cứu như:

(1). Đề án “Xây dựng quy trình tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi

phạm pháp luật về BHXH, BHYT và BHTN" của tác giả Lê Quyết Thắng và

nhóm nghiên cứu (BHXH Việt Nam, năm 2009).

Trên cơ sở đánh giá thực trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHYT và

những phân tích về tình hình vi phạm, nguyên nhân vi phạm, cùng với việc

2

nghiên cứu các nội dung liên quan đến hồ sơ tham gia tố tụng và chế tài xử

phạt VPPL về BHXH, BHYT và BHTN ở Việt Nam, đề án của tác giả Lê

Quyết Thắng và nhóm nghiên cứu đã góp phần nâng cao nhận thức cho các

cán bộ ngành BHXH trong công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các

hành vi vi phạm về BHXH, BHTN, BHYT, đóng góp tích cực trong việc kiến

nghị sửa đổi Nghị định số 135/2007/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành

chính (VPHC) trong lĩnh vực BHXH và kiến nghị cần phải tội phạm hóa một

số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH nhằm tạo ra sự đồng bộ của hệ thống

pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực BHXH, qua

đó góp phần bảo đảm quyền và lợi chính đáng của người lao động.

(2). Luận án tiến sĩ luật học năm 2012 “Tội phạm trong lĩnh vực BHXH

- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Anh Thơ tại

Trường Đại học Luật Hà Nội.

Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về tội phạm trong lĩnh vực

BHXH, một lĩnh vực chuyên ngành hẹp nhưng lại có liên quan đến nhiều

ngành, lĩnh vực và có tác động không nhỏ tới đời sống chính trị - xã hội của

đất nước. Mục đích mà luận án hướng tới là xây dựng cơ sở khoa học cũng

như thực tiễn cho các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về

nhóm tội phạm trong lĩnh vực BHXH. Để đạt được mục đích này luận án đã

nghiên cứu một cách toàn diện lý luận về tội phạm và VPPL trong lĩnh vực

BHXH; nghiên cứu thực tiễn lập pháp và thực tiễn áp dụng các quy định về

tội phạm trong lĩnh vực BHXH của Việt Nam và một số nước trên thế giới,

trên cơ sở đó kiến nghị hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự

về tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng như hướng hoàn thiện các quy định

của pháp luật hành chính về vi phạm trong lĩnh vực BHXH để đảm bảo tính

thống nhất của hệ thống pháp luật.

3

Luận án cũng là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam đề xuất mô

hình tổng thể bổ sung quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH với các

phương án khác nhau - phương án mở rộng nguồn trực tiếp của pháp luật hình

sự cũng như mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm và phương án giữ nguyên

như quy định hiện nay. Trong đó, luận án không chỉ xác định các tội danh

thuộc lĩnh vực BHXH mà còn mô tả các dấu hiệu pháp lý của các tội danh này.

Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất hoàn thiện một số quy định của pháp luật về

xử phạt vi phạm hành chính có liên quan nhằm tạo ra sự đồng bộ của hệ thống

pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực BHXH.

(3). Đề tài "Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra

chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT" của tác giả Mai Xuân Nam và

nhóm nghiên cứu (BHXH Việt Nam, năm 2016).

Trên cơ sở nghiên cứu Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Thanh tra và

những quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành; đề tài đã đi sâu phân

tích, đánh giá thực trạng công tác thanh tra chuyên ngành, phối hợp thanh

tra chuyên ngành tại các đơn vị sử dụng lao động về đóng BHXH, BHTN

và BHYT, từ đó đề xuất được những giải pháp chủ yếu về rà soát, hoàn

thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra chuyên ngành và

xử lý vi phạm trong lĩnh vực đóng BHXH, BHTN, BHYT, nâng cao chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh tra - kiểm tra của tổ

chức BHXH, ... để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về

đóng của cơ quan BHXH được thực hiện hiệu quả hơn, trong đó việc hoàn

thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên

ngành không chỉ đơn thuần dừng lại trong phạm vi các chế định của pháp

luật về thanh tra mà còn liên quan đến pháp luật chuyên ngành và pháp

luật về xử lý VPHC.

4

(4). Bài viết "Xử lý VPPL BHXH, BHYT: Cần chế tài mạnh" của tác giả

Hùng Anh được đăng tại http://tapchitaichinh.vn ngày 11/02/2019.

Trong bài viết, tác giả đã nêu ra nhiều hành vi sai phạm về pháp luật

BHXH, BHYT: Lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH, BHYT,

BHTN nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian tham gia, lao động

tham gia thiếu mức quy định hay tình trạng các đơn vị sử dụng lao động nợ

đọng, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT; qua đó khẳng định cần chế tài mạnh

xử lý VPPL BHXH, BHYT "Theo các chuyên gia, cần có chế tài mạnh xử lý

nghiêm tình trạng VPPL về BHXH, BHYT cùng với đó có kế hoạch phối hợp

thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện, xử lý nghiêm các đơn vị, doanh nghiệp

VPPL về BHXH, BHYT".

(5). Bài viết "Xử lý VPPL về BHXH, BHYT, BHTN" của tác giả Thủy Hà

được đăng tại tapchibaohiemxahoi.gov.vn ngày 12/10/2018.

Bài viết đề cập tới một số nội dung được nêu tại Hội thảo khoa học

"Các giải pháp triển khai thực hiện Bộ luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh

vực BHXH, BHYT, BHTN" với sự tham gia của Tòa án Nhân dân tối cao,

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng cục Thuế, Cục Cảnh sát

kinh tế, BHXH Việt Nam ... và một số đơn vị có liên quan.

Qua việc thẳng thắn trao đổi, phối hợp nghiên cứu xây dựng văn bản

hướng dẫn về hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển hồ sơ vi phạm có dấu hiệu tội

phạm về BHXH, BHYT sang cơ quan điều tra của các thành viên tại Hội thảo

đã góp phần đẩy nhanh quá trình ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm

phán, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng 1 số điều trong Bộ luật

Hình sự hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận BHXH, BHTN, Điều

215 về tội gian lận BHYT và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH, BHTN,

BHYT cho người lao động của Bộ luật Hình sự) [10].

5

(6). Bài viết "Xử lý vi phạm qua thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm" của tác giả

Ths. Nguyễn Thị Hồng Thắm được đăng tại http:// http://thanhtravietnam.vn/nghien-

cuu-trao-doi/xu-ly-vi-pham-qua-thanh-tra-trong-linh-vuc-bao-hiem-187979

ngày 02/10/2019

Bài viết đã phân tích thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm

qua thanh tra; những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định

về xử lý vi phạm qua thanh tra, từ đó đưa ra các giải pháp: Nâng cao nhận

thức về thanh tra thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; hoàn thiện thể

chế về thanh tra thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; tăng cường đào

tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, tổng kết kinh nghiệm và nâng cao chất

lượng kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra. Những giải pháp này đã góp

phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm qua thanh tra.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nâng cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:

- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

- Đánh giá thực trạng tình hình vi phạm và xử lý VPPL trong lĩnh vực

BHXH ở Việt Nam.

- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác

xử lý các hành vi VPPL về BHXH trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các quy định về VPPL và chế tài xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở

Việt Nam.

- Tình hình vi phạm và thực trạng xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam.

6

- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thanh tra,

kiểm tra về BHXH.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ có hạn của một luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung

nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực trạng việc xử lý VPHC và xử

lý hình sự trong việc thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam của cơ quan

BHXH trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp thu thập tài liệu: Tác giả đã thu thập tài liệu thông qua

các nguồn bên trong và bên ngoài ngành BHXH nhằm đưa ra những thông tin,

tài liệu và quan điểm, định hướng đầy đủ, chính xác nhất.

- Phương pháp thống kê phân tích: Số liệu được thông qua điều tra xã

hội học được thống kê, phân tích để tính các chỉ số, thống kê theo thời gian để

thấy đặc điểm biến động của vấn đề cần nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh: Qua số liệu thu thập được và các chỉ số phân

tích, so sánh kết quả đạt được giữa các năm của đối tượng nghiên cứu, giữa

đối tượng nghiên cứu và đối tượng khác.

- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn sâu, phỏng vấn trực tiếp một số

cán bộ Lãnh đạo và các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra

của BHXH Việt Nam về tình hình vi phạm và các biện pháp xử lý vi phạm

pháp luật về BHXH ở Việt Nam.

6. Đóng góp mới của đề tài

Vấn đề xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH đã có các công trình, bài

báo nghiên cứu ở mức độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, các công trình

nghiên cứu hoặc do đã thực hiện cách đây quá lâu, không còn phù hợp với

7

quy định pháp luật hiện hành hoặc mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy

định của pháp luật, ở góc độ lý luận mà chưa gắn với thực tiễn để đưa ra các

giải pháp hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa xác thực hơn.

Trong phạm vi luận văn, tác giả đi sâu phân tích các quy định của pháp

luật hiện hành về xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, phân tích và đánh giá

tình hình vi phạm, công tác xử lý vi phạm và những tồn tại, hạn chế, vướng

mắc để từ đó đưa ra những đề xuất phù hợp.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra định hướng và một số

giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh

vực BHXH, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện và xử lý các hành vi VPPL

về BHXH, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội

và việc xử lý.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm bảo hiểm xã hội và

thực tiễn thực hiện.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.

8

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT

BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ VIỆC XỬ LÝ

1.1. Vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

VPPL là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong các sách, báo, tài

liệu pháp lý ở nước ta. Khái niệm VPPL được nhiều công trình của giới

nghiên cứu khoa học pháp lý nước ta tìm hiểu, giải mã.

Theo Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Bộ Công an năm

2010 định nghĩa: "Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành

động) trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực

hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ" [26, tr.157]. Có bốn

loại VPPL: Vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm

pháp luật hành chính và vi phạm kỷ luật Nhà nước; tương ứng với mỗi loại vi

phạm là một hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể.

Theo đó: VPPL trong lĩnh vực BHXH là hành vi trái pháp luật, có lỗi

của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức BHXH hoặc cá nhân, tổ

chức liên quan khác có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý

hoặc vô ý xâm hại đến quan hệ BHXH được pháp luật bảo vệ.

VPPL nói chung và VPPL trong lĩnh vực BHXH nói riêng là một loại sự

kiện pháp lý đặc biệt. Tìm hiểu bản chất, nguyên nhân của tình trạng VPPL có ý

nghĩa quan trọng để đưa ra các biện pháp đấu tranh với chúng một cách có hiệu

quả nhằm lập lại trật tự và ổn định xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người dân.

VPPL về BHXH có những đặc trưng cơ bản:

Thứ nhất: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội

VPPL trước hết phải là hành vi của con người hoặc hoạt động của các

cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ... (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm

9

hoặc có khả năng nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định một VPPL thì hành vi

nguy hiểm cho xã hội là không thể thiếu. Không có hành vi nguy hiểm của

con người thì không thể có VPPL. Hành vi đó có thể thể hiện dưới dạng hành

động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều

chỉnh những suy nghĩ tình cảm hay những đặc tính cá nhân khác của con

người cho dù nó có nguy hiểm cho xã hội hay không.

Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH

thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ BHXH qua

vi phạm các nghĩa vụ phát sinh do luật định liên quan đến quan hệ đóng,

hưởng và quản lý hoạt động BHXH, ... Mức độ gây thiệt hại cho quan hệ

BHXH của các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH phụ thuộc chủ yếu vào

các nhóm yếu tố sau: Mức độ thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quỹ

BHXH được tính thành tiền và mức độ thiệt hại được xác định bằng số lượng

hồ sơ sai phạm, số lượng người lao động bị thiệt hại do hành vi vi phạm,

khoảng thời gian mà hành vi vi phạm diễn ra, ...

Thứ hai: Trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật

xác lập và bảo vệ.

VPPL không những phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà hành vi

đó còn phải trái pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật

xác lập và bảo vệ. Do vậy, những hành vi trái với các quy định của các tổ

chức xã hội, trái với tập quán, đạo đức và các tín điều tôn giáo nhưng không

trái các quy định pháp luật thì không bị xem là VPPL. Tính trái pháp luật

cũng là một đặc tính không thể thiếu của hành vi VPPL.

Hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT có thể

được thể hiện dưới các hình thức: Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp

luật đóng BHXH, BHTN, BHYT cấm (ví dụ: Cố ý báo cáo sai sự thật, cung

cấp sai lệch thông tin, số người thuộc diện tham gia BHXH, BHTN, BHYT);

10

chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện

(ví dụ: không tham gia BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động theo quy

định) hoặc chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép, ... Tính trái

pháp luật hình sự được hiểu là một dấu hiệu mà trong đó có nội dung chính

được quy định trong luật hình sự; theo đó, tội phạm trong lĩnh vực BHXH chỉ

có thể là các hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt

hại đáng kể cho quan hệ BHXH đã được quy định trong Luật Hình sự.

Thứ ba: Có lỗi của chủ thể

Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là dấu hiệu bên ngoài của hành vi VPPL. Để

xác định VPPL cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi mà ở đây mặt chủ

quan là yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện

thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật.

Cũng như mọi hành vi VPPL nói chung, hành vi VPPL trong lĩnh vực

BHXH cũng đòi hỏi phải có dấu hiệu có lỗi. Lỗi của hành vi vi phạm trong

lĩnh vực BHXH là sự phủ định chủ quan các đòi hỏi về nghĩa vụ của pháp luật

BHXH được đặt ra cho các bên tham gia quan hệ BHXH, đó có thể là lỗi cố ý

hoặc lỗi vô ý.

Thứ tư: Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý

Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý

của chủ thể do nhà nước quy định. Thông thường nhà nước chỉ quy định những

người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mới phải chịu trách nhiệm

đối với hành vi của mình. Đối với những người do mất năng lực nhận thức

hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện

hành vi thì họ cũng không có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định pháp

luật. Theo đó, chủ thể thực hiện các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH có thể

là người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức BHXH hoặc cá nhân, tổ

chức liên quan khác có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện hành vi.

11

1.1.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

Cấu thành VPPL là những dấu hiệu đặc trưng của một VPPL cụ thể.

Trong phạm vi Luận văn, tác giả đi sâu phân tích khách thể, mặt khách quan,

chủ thể và mặt chủ quan của vi phạm trong lĩnh vực BHXH.

Thứ nhất: Khách thể của VPPL là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ

nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới.

Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHXH được pháp luật bảo vệ và trở

thành khách thể, đó là quan hệ giữa các chủ thể: Nhà nước, cơ quan BHXH,

người sử dụng lao động và người lao động, ... Quan hệ này được hình thành,

duy trì và phát triển là nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi trực tiếp cho người

lao động, qua đó đảm bảo cho sự ổn định của xã hội.

Quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHXH chỉ có thể duy trì và phát triển

để thực hiện chức năng xã hội tốt đẹp đó khi các chủ thể thực hiện đúng

trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, tuy nhiên xuất phát từ chính nghĩa vụ và

quyền lợi của các bên trong quan hệ BHXH đã dẫn tới nguy cơ các chủ thể

không tuân thủ nghĩa vụ ở những mức độ khác nhau. Chính bởi tầm quan

trọng của vấn đề an sinh xã hội đối với sự ổn định xã hội và phát triển của

nền kinh tế xã hội mà các quan hệ trong lĩnh vực BHXH đã được coi là

khách thể bảo vệ của pháp luật.

Thứ hai: Mặt khách quan của VPPL là những dấu hiệu biểu hiện ra

bên ngoài thế giới khách quan của VPPL. Yếu tố mặt khách quan của vi

phạm trong lĩnh vực BHXH gồm trước hết là hành vi khách quan, hậu quả

nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và

hậu quả nguy hiểm cho xã hội, bên cạnh đó còn có thể là thủ đoạn vi phạm,

thời gian vi phạm...

Hành vi khách quan của vi phạm trong lĩnh vực BHXH tuy đa dạng

nhưng có cùng tính chất là vi phạm nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực

12

hiện các quy định của pháp luật về BHXH, đó có thể là không làm, làm không

đúng yêu cầu của pháp luật BHXH hoặc làm những việc mà pháp luật BHXH

không cho phép.

Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả của vi phạm trong lĩnh vực

BHXH trước hết là thiệt hại về vật chất gây ra cho quỹ BHXH. Thiệt hại này

được thể hiện dưới dạng bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc

không thu đủ) hay bị thất thoát. Vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn có thể gây

ra thiệt hại cho người lao động, đó là thiệt hại đe dọa gây ra đối với lợi ích

trước mắt (các quyền được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động

hoặc bệnh nghề nghiệp, chế độ BHYT, BHTN) và những quyền lợi lâu dài mà

người lao động được hưởng khi hết tuổi lao động (quyền được hưởng lương

hưu và chế độ tử tuất).

Thứ ba: Chủ thể của VPPL là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm

pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật.

Trong lĩnh vực BHXH, chủ thể VPPL là cá nhân thường là người thuộc

đối tượng tham gia BHXH, riêng về chủ thể tham gia BHXH bắt buộc được

quy định là: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,

hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc

theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể

cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại

diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao

động; Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến

dưới 03 tháng; Cán bộ, công chức, viên chức; .... và người tham gia BHXH tự

nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng

tham gia BHXH bắt buộc.

Ngoài ra còn có chủ thể đặc biệt của vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn

có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hệ thống BHXH (có

13

hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản hoặc làm trái quy định

trong khi thực hiện hoạt động BHXH).

Thứ tư: Mặt chủ quan của VPPL là trạng thái tâm lý bên trong của chủ

thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ,

mục đích VPPL.

Dấu hiệu lỗi ở vi phạm trong lĩnh vực BHXH cũng bao gồm 2 hình

thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Tuy nhiên, trong khi lỗi của chủ thể ở nhóm

hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH được giới hạn chỉ là lỗi cố ý thì ở

nhóm hành vi vi phạm liên quan đến quản lý và thực hiện hoạt động BHXH,

lỗi của chủ thể có thể là cố ý và cũng có thể là lỗi vô ý (trong các trường hợp

hành vi khách quan thể hiện sự thiếu trách nhiệm của những người có chức

vụ, quyền hạn). Mục đích vi phạm của nhiều vi phạm thuộc nhóm này là mục

đích tư lợi, trước hết là ở nhóm hành vi vi phạm quyền thụ hưởng BHXH

cũng như ở một số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, xuất phát từ động

cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, trong đó có thể có động cơ có tính “tập

thể” như để tăng nguồn vốn của đơn vị hoặc tăng thu nhập một cách không

chính đáng cho thành viên trong đơn vị…

1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm

pháp luật, vi phạm pháp luật về BHXH được chia thành các loại sau:

1.1.3.1. Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm)

Trong những năm gần đây, vi phạm pháp luật về BHXH có chiều

hướng gia tăng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, điển hình là

tình trạng chậm đóng, nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người

lao động tiếp tục xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước. Nghiêm trọng

hơn có nhiều đơn vị nợ BHXH trong thời gian dài hoặc cá biệt có đơn vị

chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động dẫn đến ảnh hưởng quyền

lợi của hàng trăm nghìn người lao động trong việc hưởng các chế độ BHXH.

14

Mặc dù đã có quy định trong Luật BHXH cho phép truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, tuy nhiên, do Bộ

luật Hình sự năm 1999 không quy định tội danh cụ thể đối với những hành vi

bị coi là tội phạm về BHXH nên thực tế không xử lý được. Chính vì vậy, Bộ

luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm 03 tội danh liên quan đến lĩnh vực

này, đó là tội gian lận BHXH, BHTN; tội gian lận BHYT và tội trốn đóng

BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động [19, Điều 214 - 216].

1.1.3.2. Vi phạm pháp luật hành chính

Hoạt động thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm là hoạt động thanh tra

chuyên ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với

cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy

định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực BHXH.

Việc xử lý hành chính được áp dụng đối với các hành vi vi phạm chưa

đến mức độ nghiêm trọng. Đối với chủ thể vi phạm là cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan không phải là cán bộ, công chức thì sẽ bị xử phạt vi phạm

hành chính theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại

điều phải bồi thường theo quy định. Do vậy, qua công tác thanh tra khi phát

hiện hành vi vi phạm không có dấu hiệu tội phạm thì sẽ xử lý về hành chính

đối với hành vi vi phạm đó, ngoài ra có thể kiến nghị xử lý về kinh tế và kiến

nghị xử lý về trách nhiệm, áp dụng các biện pháp quy định tại Luật Xử lý vi

phạm hành chính [15, Điều 46].

1.1.3.3. Vi phạm kỷ luật Nhà nước

Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lí áp dụng đối với cán bộ,

công chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong

hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách

nhiệm hình sự.

Thông qua hoạt động thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm, thanh tra tài

chính hoặc thanh tra chuyên ngành có liên quan, nếu chủ thể vi phạm là cán

15

bộ, công chức, viên chức thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ công chức

[12, Điều 78-79], Luật Viên chức [14, Điều 52] nếu gây thiệt hại phải thực

hiện việc bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước [20] và

các văn bản hướng dẫn.

1.1.3.4. Vi phạm dân sự

Việc khởi kiện ra Tòa các đơn vị vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

BHXH còn ít so với các đơn vị vi phạm, bên cạnh đó việc tổ chức thi hành

án chưa hiệu quả. Thực tế trong các vụ kiện đòi nợ của BHXH Việt Nam,

mặc dù các đơn vị đều thừa nhận nợ nhưng việc thu hồi tiền nợ còn gặp

nhiều khó khăn.

Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, tổ

chức công đoàn được trao quyền khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi vi

phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người lao động, tập thể người lao động. Tuy nhiên, việc khởi kiện của tổ chức

công đoàn gặp nhiều khó khăn, không phát huy được hiệu quả như mong đợi

do quy định về việc ủy quyền của người lao động, quyền khởi kiện của các tổ

chức Công đoàn còn nhiều bất cập.

1.2. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội

Xử lý VPPL là việc xem xét, quyết định áp dụng các hình thức trách

nhiệm pháp lí đối với các cá nhân, tổ chức VPPL.

Theo đó, xử lý VPPL về BHXH là việc các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền xem xét, quyết định áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với

các cá nhân, tổ chức VPPL về BHXH.

1.2.2. Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm

pháp luật về bảo hiểm xã hội

Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các VPPL về BHXH

16

được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015; Luật Xử lý VPHC và Nghị định số

28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC

trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài theo hợp đồng; Luật Cán bộ công chức, ...

Khi phát hiện hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, tùy theo tính chất,

mức độ vi phạm mà đối tượng vi phạm có thể bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo

quy định của pháp luật. Cụ thể:

Thứ nhất: Trách nhiệm hành chính

Các hình thức xử phạt VPHC trong lĩnh vực BHXH bao gồm: Phạt

cảnh cáo và phạt tiền, trong đó: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ

chức VPHC không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị

áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người

chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện; cảnh cáo được quyết

định bằng văn bản [15, Điều 22]. Đối với hình thức phạt tiền, mức phạt tiền

tối đa trong lĩnh vực BHXH, BHYT là 75 triệu đồng đối với cá nhân, mức

phạt tối đa đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt đối với cá nhân [15, Điều 24,

Khoản 1, điểm d và khoản 2]. Hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử

phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh

vực BHXH được quy định tại văn bản có liên quan [6, Điều 38 - 40].

Thứ hai: Trách nhiệm hình sự

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi hành vi vi phạm có

mức độ nghiêm trọng, vi phạm có dấu hiệu tội phạm tức là có đủ các yếu tố

cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Các vi phạm về BHXH đã được đề cập trong Bộ Luật Hình sự năm

2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Lần đầu tiên nhóm tội danh về

các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT đã được đưa vào

17

phạm vi chịu trách nhiệm hình sự với 03 điều luật, trong đó có 02 điều về các

hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH: Điều 214: Tội gian lận BHXH, BHTN

và Điều 216: Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động; các

tội danh này thuộc Mục B “Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân

hàng, chứng khoán, bảo hiểm” của Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế.

Có thể thấy, tội phạm trong lĩnh vực BHXH xét về bản chất pháp lý

cũng là loại VPPL về BHXH (trực tiếp hoặc gián tiếp). Do vậy, giữa tội phạm

và VPHC trong lĩnh vực BHXH có những điểm giống nhau cơ bản:

- Cùng xâm hại quan hệ BHXH, nghĩa là cùng xâm hại đến quan hệ

giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong việc hình

thành quỹ tài chính để đảm bảo bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập cho

người lao động trong các trường hợp bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau,

thai sản, người lao động - BNN, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp… và cung cấp

các dịch vụ chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động;

- Đều gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại) về vật chất cho Nhà nước

hoặc có thể cho cá nhân người lao động;

- Cùng có hành vi khách quan cũng như lỗi của chủ thể tương tự nhau

vì tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT thực chất là các hành vi vi

phạm trong lĩnh vực này nhưng có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội đòi hỏi

phải bị xử lý bằng chế tài hình sự;

- Cùng vi phạm trực tiếp hoặc gián tiếp các quy định của pháp luật về

BHXH. Các quy định này chủ yếu bao gồm các quy định về đóng và hưởng

các chế độ BHXH.

Tội phạm và VPHC trong lĩnh vực BHXH về cơ bản được phân biệt

với nhau ở mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, từ đó

dẫn tới sự khác nhau thứ hai về hậu quả pháp lý mà chủ thể thực hiện phải

gánh chịu, cụ thể:

18

- Về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội: Tội phạm trong lĩnh vực

BHXH là những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể, đòi

hỏi phải bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là

hình phạt. Đó là mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho Nhà nước

hoặc người lao động, là mức độ lỗi của người có hành vi VPPL BHXH, là

tình hình thực thi pháp luật BHXH đặt trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế -

xã hội cụ thể. Việc xác định ranh giới giữa tội phạm trong lĩnh vực BHXH và

VPHC trong lĩnh vực này có thể căn cứ vào: Mức độ thiệt hại về vật chất mà

hành vi đã gây ra cho quỹ BHXH hoặc cho người lao động; Quy mô và mức

độ vi phạm; Tính chất “lặp lại” của hành vi vi phạm.

- Về hậu quả pháp lý: Nếu như VPPL chỉ bị xử lý bằng các biện pháp

cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn như biện pháp hành chính (Phạt cảnh cáo hoặc

phạt tiền), biện pháp kỷ luật hay biện pháp bồi thường thiệt hại thì tội phạm

trong lĩnh vực BHXH cũng như các tội phạm nói chung bị xử lý bằng hình

thức nghiêm khắc nhất là hình phạt với loại và mức khác nhau, tương xứng

với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi được quy định trong Bộ luật

Hình sự. Đồng thời, người phạm tội còn phải mang án tích trong một thời hạn

nhất định theo quy định của pháp luật.

Ngoài hai sự khác biệt nêu trên, tội phạm và VPHC trong lĩnh vực

BHXH còn khác nhau ở hình thức phản ánh, đây là dấu hiệu có ý nghĩa quan

trọng đối với người áp dụng pháp luật. Nếu như các hành vi bị coi là tội phạm

được quy định trong Bộ luật Hình sự thì việc xử lý VPHC căn cứ vào các quy

định tại Luật Xử lý VPHC và Nghị định có liên quan (Nghị định số 95/2013/NĐ-

CP; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP, ...).

Thứ ba: Trách nhiệm kỷ luật

Trong trường hợp chủ thể vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức thì

sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ công chức, Luật viên chức và các văn bản

19

có liên quan, nếu gây thiệt hại phải thực hiện việc bồi thường theo Luật Trách

nhiệm bồi thường của nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ tư: Trách nhiệm dân sự

Theo quy định hiện hành, tổ chức công đoàn có quyền: “Khởi kiện ra Tòa

án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội gây ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, tập thể người lao động theo quy

định tại khoản 8 Điều 10 của Luật công đoàn” [18, Điều 14, khoản 1, điểm d].

“Người lao động có quyền khởi kiện về BHXH theo quy định của pháp luật”

[18, Điều 18, khoản 8]. Người sử dụng lao động có quyền khởi kiện về

BHXH theo quy định của pháp luật [18, Điều 20, khoản 2].

Có thể thấy, các VPPL về BHXH là vô cùng phức tạp, theo đó các hình

thức xử lý VPPL về BHXH cũng rất đa dạng, tuy nhiên, như ở phạm vi nghiên

cứu của Luận văn đã đề cập, trong khuôn khổ có hạn của một Luận văn thạc sỹ,

tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật và thực trạng

việc xử lý VPHC và xử lý hình sự trong việc thực hiện chính sách BHXH ở

Việt Nam của cơ quan BHXH trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019 với

đối tượng vi phạm là người lao động và người sử dụng lao động.

20

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1 tác giả đã đi sâu nghiên cứu lý luận về VPPL và xử lý

VPPL về BHXH ở Việt Nam thông qua việc nghiên cứu khái niệm, đặc trưng,

cấu thành, phân loại VPPL và khái niệm, các hình thức truy cứu trách nhiệm

pháp lý đối với các VPPL về BHXH.

Việc xử lý các hành vi VPPL về BHXH đang đặt ra những yêu cầu cấp

bách trong tình hình hiện nay khi không ít doanh nghiệp, người sử dụng lao

động còn thiếu hiểu biết pháp luật về BHXH hoặc cố tình trốn đóng, chậm

đóng, VPPL về BHXH làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp

pháp của người lao động. Ngày 22/11/2012 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 21-

NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH,

BHYT giai đoạn 2012-2020”, qua đó thấy được vai trò của BHXH, BHYT

trong chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, những định hướng

phát triển ngành BHXH, BHYT và các biện pháp nhằm thực hiện việc các chế

độ chính sách đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia BHXH.

Việc phân tích lý luận về VPPL và xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam

ở Chương 1 làm cơ sở để tác giả nghiên cứu thực trạng tình hình vi phạm và

xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam ở Chương 2.

21

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM

BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh

vực bảo hiểm xã hội

2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội

Giai đoạn trước ngày 01/01/2016 (trước khi ngành BHXH được giao

chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT), để khắc

phục tình trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, ngành BHXH đã áp dụng các

giải pháp như: kiểm tra, kiến nghị xử lý vi phạm; phối hợp thực hiện thanh

tra; cử cán bộ chuyên quản theo dõi, đôn đốc việc đóng và trả nợ tiền BHXH

của các đơn vị sử dụng lao động; thành lập các Tổ thu nợ liên ngành; yêu cầu

BHXH các tỉnh, thành phố tăng cường công tác kiểm tra và thông tin, báo cáo

kịp thời tình hình VPPL về BHXH của các đơn vị trên địa bàn để có hướng

chỉ đạo giải quyết, xử lý kịp thời; công khai thông tin về các đơn vị trốn đóng,

nợ tiền đóng BHXH, BHYT số lượng lớn, kéo dài trên các phương tiện thông

tin đại chúng...

Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam giai đoạn này chỉ

dừng lại ở việc phát hiện, đề nghị, kiến nghị xử lý, không có thẩm quyền xử

phạt nên hiệu quả chưa cao. Mặt khác, sau khi phối hợp thực hiện thanh tra và

có quyết định xử phạt VPHC thì việc phối hợp với các cơ quan nhà nước để

theo dõi, đôn đốc thực hiện chưa được quan tâm và rất khó để cưỡng chế các

đơn vị bị xử phạt thi hành quyết định xử phạt VPHC theo quy định.

Ngày 20/11/2014, Quốc hội thông qua Luật số 58/2014/QH13 về BHXH

(Luật BHXH năm 2014), có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 đã trao cho cơ quan

22

BHXH thêm công cụ hữu hiệu để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về đóng

BHXH là chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, theo đó cơ quan

BHXH có thẩm quyền xử phạt VPHC đối với các hành vi vi phạm. Cũng từ

đó, công tác thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH tiếp tục được đẩy mạnh

theo hướng tăng cường thanh tra, kiểm tra phối hợp giữa các đơn vị thuộc

BHXH Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan, cụ thể: Phối hợp với thanh tra

ngành Lao động, các bộ, ngành liên quan thanh tra, kiểm tra việc chấp hành

pháp luật về BHXH tại nhiều đơn vị, doanh nghiệp, đặc biệt các đơn vị nợ

đọng BHXH và xử lý hành chính các hành vi vi phạm theo quy định.

Đối với ngành BHXH, thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực

BHXH, BHTN, BHYT được quy định cho Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam

[7, Điều 6, khoản 5], Giám đốc BHXH cấp tỉnh [7, Điều 8, khoản 5], Trưởng

đoàn thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT do Tổng Giám

đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập [7, Điều 11, khoản 3], cụ thể:

- Thẩm quyền của Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố: Phạt tiền đến 50%

mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng, theo đó mức phạt tối đa đối

với cá nhân là 37,5 triệu đồng, đối với tổ chức là 75 triệu đồng

- Thẩm quyền của Trưởng đoàn thanh tra do Tổng Giám đốc quyết định

thành lập: Phạt tiền đến 70% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng,

theo đó mức phạt tối đa đối với cá nhân là 52,5 triệu đồng, đối với tổ chức là

105 triệu đồng;

- Thẩm quyền của Tổng Giám đốc: Phạt tiền đến mức tối đa đối với

lĩnh vực tương ứng, theo đó mức phạt tối đa đối với cá nhân là 75 triệu đồng,

đối với tổ chức là 150 triệu đồng.

Theo đó, từ năm 2016-2019 qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành

BHXH đã ban hành 2.311 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền

90.402 triệu đồng. Cụ thể:

23

Đơn vị tính: triệu đồng

Bảng 2.1: Kết quả xử lý vi phạm hành chính từ năm 2016 đến hết năm 2019

Năm

Năm

Năm

Năm

Tổng

STT

Chỉ tiêu

2016

2017

2018

2019

cộng

1

Số Quyết định xử phạt VPHC

104

264

1.051

892

2.311

2

Số tiền xử phạt VPHC

2.174

7.899 37.323 43.006 90.402

(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)

2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hình sự

trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi mức độ hành vi vi

phạm có mức độ nghiêm trọng, vi phạm có dấu hiệu tội phạm tức là có đủ các

yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Qua thanh tra

nếu phát hiện các vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan BHXH phải

chuyển Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát làm rõ những vi phạm có dấu hiệu tội

phạm để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã

bổ sung quy định xử lý hình sự đối với các hành vi VPPL về BHXH, BHYT,

BHTN, BHTN tại các điều: Điều 214 (Tội gian lận BHXH, BHTN), Điều 215

(Tội gian lận BHYT); Điều 216 (Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người

lao động). Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng và mạnh mẽ để xử lý nghiêm khắc

hơn đối với hành vi vi phạm các chính sách BHXH, BHYT, BHTN đang gây

bức xúc cho xã hội, đặc biệt là đối với công nhân lao động. Mục đích truy cứu

trách nhiệm hình sự loại hành vi phạm tội này cũng nhằm trước hết là bảo vệ

quỹ BHXH, BHYT, BHTN bảo vệ quyền lợi của người lao động. Do vậy,

việc truy cứu trách nhiệm hình sự vừa phải bảo đảm thu hồi được tiền đóng

BHXH, BHYT, BHTN và vừa tạo điều kiện cho bên có nghĩa vụ đóng BHXH,

BHYT, BHTN tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, số vụ việc được xử

lý theo các điều luật mới này còn quá ít và chưa kịp thời.

24

Trong 5 năm (2012 - 2017), lực lượng Cảnh sát kinh tế cả nước đã phát

hiện, điều tra, xử lý 70 vụ việc vi phạm liên quan đến lĩnh vực BHXH,

BHYT; khởi tố điều tra 46 vụ với gần 130 đối tượng, trong đó có nhiều vụ

việc liên quan tới trục lợi Quỹ BHYT [1]. Trong 8 tháng đầu năm 2018 đã có

12 BHXH tỉnh, thành phố chuyển sang cơ quan điều tra đề nghị xử lý hình sự

các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN với tổng số 40 hồ sơ.

Trong đó: 15 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 214, 01 hồ sơ đề nghị xử lý theo

Điều 215 và 24 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 216 [4], cụ thể:

- Kết quả xử lý của cơ quan điều tra:

+ 02 vụ việc đã bị khởi tố nhưng theo tội danh khác: “Giả mạo trong

công tác” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” (Hưng Yên).

+ 01 vụ việc chuyển sang xử lý vi phạm hành chính do cơ quan điều tra

xác định chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm (Quảng Bình).

+ 10 vụ việc cơ quan điều tra không thụ lý với lý do hành vi vi phạm xảy

ra trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực (ngày 01/01/2018)

(Đồng Nai, Đồng Tháp).

+ 01 trường hợp công ty đã tự nguyện trả hết nợ sau khi cơ quan

BHXH chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra (Hà Tĩnh)

+ Các trường hợp còn lại cơ quan điều tra đang xem xét, nghiên cứu hồ sơ.

Hồ sơ chuyển cơ quan điều tra chủ yếu là các tài liệu liên quan đến hoạt

động quản lý của cơ quan BHXH như: Biên bản vi phạm hành chính; Quyết

định xử phạt vi phạm hành chính; Thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT,

BHTN; Biên bản và Kết luận thanh tra; Công văn báo cáo Ủy ban nhân dân

tỉnh; Hồ sơ thanh toán chế độ BHXH; Danh sách lao động tham gia BHXH,

BHYT, BHTN…

Tại Bình Phước, thực hiện Chương trình phối hợp giữa Công an và

BHXH tỉnh, BHXH tỉnh đã chuyển hồ sơ của 04 doanh nghiệp có hành vi nợ

25

tiền BHXH, BHYT, BHTN kéo dài nhiều năm với số tiền lên tới hơn 4.4 tỷ

đồng đến cơ quan Công an tỉnh để phối hợp điều tra, xử lý theo quy định của

Bộ Luật Hình sự, nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người

lao động, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Hồ sơ vi phạm pháp luật về

BHXH, BHYT, BHTN của 04 doanh nghiệp này cụ thể như sau:

Tính đến hết tháng 9/2018, Công ty TNHH TM-XNK TH&DV Hùng

Nhơn (xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 1.134.069.203 đồng,

thời gian nợ là 77 tháng; Công ty CP Hùng Nhơn (xã Thuận Lợi, huyện Đồng

Phú) nợ với số tiền là 656.563.963 đồng, thời gian nợ là 48 tháng; Công ty CP

Hà Mỵ (xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 2.457.233.759 đồng,

thời gian nợ là 72 tháng; Công ty TNHH SX phân bón hữu cơ vi sinh Tân

Đồng Tiến (xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú), nợ với số tiền là 1.134.069.203

đồng, thời gian nợ là 23 tháng [4]. Trước đó, BHXH tỉnh đã thực hiện nhiều

giải pháp như: Hàng tháng, gửi thông báo đến các doanh nghiệp này về số

tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, đôn đốc, yêu cầu nộp tiền nợ theo quy định;

tiến hành kiểm tra liên ngành, thanh tra chuyên ngành đối với 04 doanh

nghiệp này nhưng các doanh nghiệp trên đã không khắc phục số tiền nợ mà

còn cố tình tiếp tục chây ỳ kéo dài nhiều năm. Việc cố tình vi phạm, không

nộp tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và

lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động.

Trước tình trạng lạm dụng chế độ, chính sách để trục lợi ngày càng

phức tạp và số tiền nợ BHXH, BHTN, BHYT tăng, khả năng thu hồi khó,

BHXH Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các bộ, ngành nhằm thực hiện

tốt công tác quản lý về BHXH, BHTN, BHYT, trong đó có phối hợp với Bộ

Công an thực hiện nghiêm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vi

phạm có dấu hiện tội phạm tại các Điều 214, Điều 215, Điều 216 Bộ luật

Hình sự. Tuy nhiên, loại tội phạm về bảo hiểm ngày càng có dấu hiệu gia tăng

26

và diễn biến hết sức phức tạp, ngoài các hành vi né tránh nghĩa vụ trích nộp

BHXH, BHTN, BHYT, nợ quỹ BHXH tái diễn, còn phát sinh nhiều hiện

tượng vi phạm pháp luật khác, như: Các doanh nghiệp di chuyển khỏi nơi trú

đóng hoặc doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh nhưng không tồn tại đúng

với địa chỉ trên giấy phép, tình trạng doanh nghiệp cho người lao động tăng

lương đột biến, sau đó lợi dụng các kẽ hở chính sách về BHXH để lạm dụng,

trục lợi quỹ BHXH, BHYT; giả mạo hồ sơ, thẻ BHYT hoặc sử dụng thẻ

BHYT được cấp khống, thẻ BHYT giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ

BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy

định… Do vậy, rất cần có các giải pháp hữu hiệu nhằm kịp thời phát hiện, xử

lý các vi phạm, chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm đúng thời gian, trình tự,

thủ tục, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi cho

người lao động.

Với sự phối hợp tích cực của các cơ quan có thẩm quyền, ngày 15/8/2019

Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số

05/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận BHXH,

BHTN, Điều 215 về tội gian lận BHYT và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH,

BHTN, BHYT cho người lao động của Bộ luật Hình sự trong đó giải thích về

một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng các điều 214, 215 và

216 của Bộ luật Hình sự như: Trốn đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216,

Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền BHXH, BHTN, BHYT quy

định tại khoản 1 Điều 216, Không đóng tiền BHXH, BHTN, BHYT quy định

tại khoản 1 Điều 216, Không đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216, ...;

một số tình tiết định khung hình phạt (Có tính chất chuyên nghiệp, Không

đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động, ...) hay

vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể và xác

định tư cách tố tụng của cơ quan BHXH.

27

Sự ra đời của Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP đã tạo hành lang pháp

lý quan trọng để xử lý doanh nghiệp VPPL BHXH, để bảo vệ quyền lợi cho

người lao động, buộc chủ sử dụng lao động chấp hành đầy đủ quy định về

pháp luật BHXH. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng để cơ quan nhà

nước có thẩm quyền thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về BHXH,

bảo đảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để

doanh nghiệp, người lao động được hưởng quyền lợi theo đúng quy định.

Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hình sự, các hành vi vi

phạm về BHXH còn bị xử lý bởi các biện pháp xử lý khác, cụ thể:

Thứ nhất: Phối hợp với tổ chức công đoàn trong việc khởi kiện đơn vị

nợ BHXH

Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, tổ

chức công đoàn được trao quyền khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi

VPPL về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao

động, tập thể người lao động. Triển khai thực hiện quy định của pháp luật,

tháng 9/2016 BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng liên đoàn Lao động

Việt Nam ký Quy chế phối hợp số 3601/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 20/9/2016

về việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu trong việc khởi kiện ra Tòa án đối

với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT giữa BHXH Việt

Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Theo đó, cơ quan BHXH có

trách nhiệm cung cấp cho tổ chức công đoàn danh sách các đơn vị nợ BHXH

cần khởi kiện, hồ sơ xác định nợ và các tài liệu khác có liên quan để phục vụ

việc khởi kiện [25]. Qua đó đã đạt một số kết quả nhất định:

- Từ năm 2016-2018 cơ quan BHXH các cấp đã cung cấp 2.909 hồ sơ

đơn vị sử dụng lao động nợ tiền BHXH cho công đoàn cùng cấp để thực hiện

việc khởi kiện (riêng năm 2018 là 887 hồ sơ), Liên đoàn lao động tỉnh đã nộp

126 hồ sơ khởi kiện cho Tòa án, 04 vụ việc đã có Quyết định công nhận thỏa

28

thuận của Tòa án (hòa giải thành) với tổng số tiền đã trả nợ sau hòa giải là 1

tỷ 320 triệu đồng (riêng năm 2018 là 696 triệu đồng) [2]

- Cơ quan BHXH và tổ chức công đoàn đã tích cực phối hợp đôn đốc,

thuyết phục các đơn vị sử dụng lao động trả nợ. Kết quả: Nhiều đơn vị đã chủ

động khắc phục hết nợ hoặc cam kết trả nợ theo lộ trình. Tính đến cuối tháng

7/2018 đã có 986 đơn vị nợ tiền BHXH nộp hết số tiền nợ, 883 đơn vị đã khắc

phục một phần số nợ với tổng số tiền thu được là 878 tỷ đồng (riêng năm

2018 là 176 tỷ đồng) [4].

- Liên đoàn lao động và BHXH một số tỉnh, thành phố đã chủ động tích

cực thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ như: Thành lập Tổ giám sát và tiến

hành giám sát tình hình doanh nghiệp nợ BHXH trước khi lập hồ sơ khởi kiện;

thành lập Hội đồng chỉ đạo và thực hiện khởi kiện; gửi thư nhắc nợ; thành lập

Đoàn thanh tra chuyên ngành; chuyển danh sách các đơn vị nợ cho cơ quan thuế

để điều chỉnh chi phí hoạt động của doanh nghiệp khi quyết toán thuế hàng năm...

Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, việc khởi kiện của tổ chức

công đoàn đòi hỏi phải do công đoàn cơ sở khởi kiện hoặc phải có giấy ủy

quyền của người lao động. Trên thực tế, việc khởi kiện của tổ chức công đoàn

gặp rất nhiều khó khăn và hầu như chưa phát huy được hiệu quả. Một trong

các nguyên nhân đó là do người được trao quyền khởi kiện lại không dám sử

dụng quyền của mình (tổ chức công đoàn cơ sở không dám đứng ra khởi kiện

hoặc ủy quyền cho công đoàn cấp trên khởi kiện; người lao động lại càng

không dám ủy quyền cho tổ chức công đoàn kiện chủ doanh nghiệp của mình

khi bản thân cần có công ăn việc làm). Do đó, thời gian này, mặc dù cơ quan

BHXH đã tích cực hỗ trợ các tổ chức công đoàn về hồ sơ, tài liệu, số liệu

phục vụ cho việc khởi kiện và đã chuyển hơn 2.909 hồ sơ cho tổ chức công

đoàn nhưng số vụ mà tổ chức công đoàn khởi kiện còn rất khiêm tốn (126 hồ

sơ) trong đó có tới 96 hồ sơ bị Tòa án trả lại với lý do thiếu giấy ủy quyền của

người lao động hoặc giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở [2].

29

Thứ hai, tăng cường thực hiện công tác thanh tra chuyên ngành đóng,

kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH

Thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu của quản lý Nhà

nước. Công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện và xử

lý các vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một

biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Để tăng cường công

tác phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi VPPL về BHXH, bảo vệ quyền

và lợi ích chính đáng của người lao động, trong những năm qua ngành BHXH

đã tích cực thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra.

Theo số liệu thống kê, từ năm 2016-2019, toàn ngành BHXH đã thực

hiện 52.823 cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT

tại 86.909 đơn vị, trong đó kiểm tra tại 41.453 đơn vị, thanh tra chuyên

ngành tại 23.513 đơn vị và phối hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành tại 21.943

đơn vị, cụ thể:

Bảng 2.2: Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra

của ngành BHXH (từ năm 2016 đến hết năm 2019)

Stt

Chỉ tiêu

Tổng cộng

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2016

Năm 2017

1 Số cuộc TTKT

10.046

8.740 16.083 18.954

53.823

2 Số đơn vị TTKT

13.828

19.402 25.343 28.336

86.909

- Kiểm tra:

7.747

10.055 11.135 12.516

41.453

+ Đơn vị nội bộ

452

385

455 1.759

3.051

+ Đơn vị sử dụng lao động

2.639

6.427 7.940 7.900

24.906

+ Cơ sở KCB

752

702

592

876

2.922

+ Đại lý thu, đại diện chi trả

2.491 2.038 2.265

3.780

10.574

- Thanh tra chuyên ngành

4.006 8.447 9.886

1.174

23.513

- Phối hợp liên ngành

4.907

5.341 5.761 5.934

21.943

(Nguồn: BHXH Việt Nam)

30

Qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành BHXH đã phát hiện nhiều sai

phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, cụ thể:

- Phát hiện 176.394 lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH,

BHTN, BHYT nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian với số tiền

phải truy đóng là 506.389 triệu đồng;

- Có 173.756 lao động đóng thiếu mức quy định với số tiền phải truy

đóng là 238.549 triệu đồng.

- Tổng số tiền các đơn vị được thanh tra, kiểm tra nợ BHXH, BHTN,

BHYT là trên 9.913.205 triệu đồng;

- Yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH số tiền 43.760 triệu đồng do chi sai

quy định.

Bảng 2.3: Kết quả thực hiện công tác TTKT ngành BHXH

Đơn vị tính: triệu đồng

từ năm 2016 đến hết năm 2019

Stt

Chỉ tiêu

Tổng cộng

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

1

44.056

45.365

48.562

38.411

176.394

Số lao động chưa tham gia, đóng thiếu thời gian tham gia

2

24.039

97.223

140.768

244.359

506.389

Số tiền truy thu do chưa đóng, đóng thiếu thời gian

3

29.645

50.734

48.689

44.688

173.756

Số lao động đóng thiếu mức quy định

4

9.869

47.349

54.987

126.344

238.549

Số tiền truy thu do đóng thiếu mức

5 Số nợ đọng yêu cầu truy nộp 194.061 2.352.108 3.815.230 3.251.806 9.613.205

6

8.316

9.628

12.104

13.712

43.760

Số tiền phải thu hồi về quỹ BHXH

(Nguồn: BHXH Việt Nam)

Thực tế cho thấy, hiệu quả công tác thu hồi, giảm nợ BHXH, BHTN,

BHYT từ khi BHXH Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

đóng đã được thể hiện bằng những con số thuyết phục:

31

Nếu năm 2015 khi chưa có chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng

BHXH, BHTN, BHYT thì số nợ là 7,780,6 triệu đồng, tương ứng với 3,74%

số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ giao thì sang năm 2016- 2019 số

nợ đã giảm dần tương ứng với 3,64% năm 2016; 2,93% năm 2017; 1,7% năm

2018 và 1,6% năm 2019 so với số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ

giao [3]. Những con số trên là một minh chứng cho thấy quy định giao chức

năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho cơ quan

BHXH là hoàn toàn đúng đắn, mang lại hiệu quả cao, góp phần bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người lao động; đồng thời có tác dụng răn đe, phòng

ngừa hành vi vi phạm của các chủ sử dụng lao động.

Tuy nhiên hiện nay, ngoài thanh tra chuyên ngành đóng thì việc xử lý

những vi phạm mới chỉ dừng ở mức độ phát hiện sai sót, kiến nghị thu hồi và

kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước xử lý theo quy định của pháp luật, còn

tình trạng kết luận sau kiểm tra của cơ quan BHXH không được các đơn vị

thực hiện nghiêm túc, chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm

của các chủ sử dụng lao động. Đây là một trong những lý do cơ bản, ảnh

hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện chế độ, chính sách BHXH.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực

bảo hiểm xã hội

Hiện nay, việc thực hiện pháp luật pháp luật về xử lý vi phạm trong

lĩnh vực BHXH gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là bởi các hành

vi vi phạm đang diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp, cụ thể:

Thứ nhất: Vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH

Có thể thấy, các hành vi VPPL về BHXH đang diễn ra khá phổ biến với

tính chất ngày càng phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực thu BHXH. Tính từ

năm 2007 đến hết năm 2013, số nợ BHXH, BHYT, BHTN tăng khá cao, nếu

năm 2007 số nợ là 1.734 tỷ đồng thì đến hết năm 2013 tổng số nợ BHXH, BHYT,

32

BHTN đã trên 10,5 nghìn tỷ đồng; tính đến 31/7/2014, tổng số nợ BHXH, BHYT,

BHTN là trên 11 nghìn tỷ đồng, quyền lợi của rất nhiều lao động bị ảnh

hưởng nghiêm trọng dẫn đến người lao động khiếu nại, tố cáo, thậm chí có

nơi còn đình công ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội [3].

Nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH biểu hiện ở các dạng

hành vi chủ yếu:

- Trốn đóng BHXH đối với toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp

(doanh nghiệp trốn đóng hoàn toàn)

Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế

hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh

nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên mới có trên 1/3 số doanh nghiệp trong đó

tham gia BHXH cho người lao động. Mặc dù số liệu về doanh nghiệp đang

tồn tại về pháp lý như trên và số liệu về doanh nghiệp đang thực sự tồn tại,

hoạt động sản xuất kinh doanh, có sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia

BHXH còn có khoảng cách lớn và cần được làm rõ, nhưng với các con số trên

cũng đã cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tham gia BHXH còn thấp.

Việc trốn đóng BHXH thường tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp

nhỏ như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, các văn phòng, hợp tác

xã ... Nguyên nhân của thực trạng này là do một bộ phận người sử dụng lao

động chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi tham gia BHXH, nhiều

doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh khó khăn, dẫn đến việc chưa thực

hiện hoặc thực hiện chưa đúng đúng trách nhiệm của người sử dụng lao động

trong việc đóng BHXH hay các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hoặc không có

người lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, người làm

việc theo hợp đồng lao động nhưng đang hưởng lương hưu hoặc làm việc theo

nhiều hợp đồng lao động đang tham gia BHXH bắt buộc, ... Việc nắm bắt,

quản lý biến động đối dượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn hạn

33

chế do công tác phối hợp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan BHXH với các cơ

quan liên quan về quản lý doanh nghiệp, lao động như Kế hoạch - Đầu tư,

Thuế, Lao động - Thương binh và Xã hội tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn

chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Đóng BHXH không đủ số người lao động trong đơn vị (thực tế là trốn

đóng BHXH đối với một số lao động trong đơn vị)

Đây là hành vi rất phổ biến. Người sử dụng lao động lợi dụng kẽ hở của

pháp luật bằng cách hợp đồng miệng hoặc núp dưới hợp đồng theo mùa vụ

hoặc ký chuỗi hợp đồng lao động/làm việc có thời hạn dưới 01 tháng để

không phải đăng ký tham gia BHXH bắt buộc (theo quy định của Luật BHXH

thì người lao động có hợp đồng lao động dưới 01 tháng không phải tham gia

BHXH) hoặc thuần túy là không đăng ký tham gia BHXH bắt buộc cho một

nhóm người lao động không phải là cán bộ chủ chốt của đơn vị.

Vi phạm theo dạng này có thể nói tới trường hợp Công ty cổ phần Tập

đoàn Hoành Sơn (Hà Tĩnh), Công ty này sử dụng trên 2.000 lao động nhưng

chỉ đóng BHXH cho 50 người [9]. Mặt khác, qua giám sát 10 doanh nghiệp

và 2 hợp tác xã tại Hà Tĩnh, tỷ lệ người tham gia BHXH bắt buộc còn chưa

cao, còn 2.250 lao động chưa được tham gia BHXH bắt buộc, chiếm tỷ lệ

38,72%. Cũng theo Báo cáo này, trong năm 2012 tổng số 50.192 người lao

động trong khối doanh nghiệp đã được ký hợp đồng lao động, chỉ có 25.628

người được tham gia BHXH và BHTN, tỷ lệ tham gia BHXH đạt 43,3%

(trong đó, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp FDI đã ký

43.228 hợp đồng lao động nhưng chỉ có 16.664 người được tham gia BHXH).

Hậu quả của việc người sử dụng lao động trốn đóng BHXH là quỹ

BHXH bị thất thu và khi phát sinh các sự kiện về BHXH như ốm đau, tai

nạn... thì người lao động không được hưởng quyền lợi về BHXH, thiệt thòi

cho bản thân, đồng thời tạo gánh nặng cho xã hội, không đảm bảo mục tiêu an

sinh xã hội bền vững.

34

- Hành vi đóng BHXH, BHTN chậm hơn so với thời gian quy định (thực

chất là nợ tiền BHXH, BHYT)

Tình trạng người sử dụng lao động đóng BHXH chậm còn xảy ra ở tất

cả các địa phương. Bản chất của hành vi chậm đóng BHXH là nợ tiền BHXH.

Một số đơn vị sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn thậm chí không còn

tiền để trả lương cho người lao động, dẫn đến không có tiền đóng BHXH nên

phải nợ; nhưng nhiều đơn vị cố tình chiếm dụng tiền BHXH (bao gồm cả

phần trích từ tiền lương thuộc trách nhiệm đóng của người lao động) để đưa

vào nguồn vốn của đơn vị.

Theo số liệu từ BHXH Việt Nam, số nợ BHXH hàng năm là không hề

nhỏ, từ năm 2016 đến hết năm 2019. Bảng thống kê dưới đây thể hiện số nợ

BHXH từ năm 2016 đến hết năm 2019 và tỷ lệ số nợ so với số phải thu:

Bảng 2.4: Số nợ bảo hiểm xã hội từ năm 2016 đến hết năm 2019

Đơn vị tính: tỷ đồng

STT

Chỉ tiêu

Năm 2016 Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

5.715

6.018

Số nợ bảo hiểm xã hội

6.551

5.737

1

2

Tỷ lệ số nợ so với số phải thu

3,64%

2,93%

1,7%

1,6%

(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)

Việc các đơn vị sử dụng lao động cố tình chây ỳ, không đóng BHXH

cho người lao động trong thời gian dài trong khi vẫn chiếm dụng số tiền trích

đóng BHXH thuộc trách nhiệm của người lao động, không chỉ gây nhiều khó

khăn cho cơ quan BHXH mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động.

Theo đó một số lượng không nhỏ người lao động đã ký hợp đồng lao động tại

các doanh nghiệp còn nợ BHXH nhưng có nhu cầu chuyển công tác, đủ điều

kiện nghỉ hưu hoặc các trường hợp phát sinh sự kiện BHXH khác… không

giải quyết được. Mặt khác, đây chính là hành vi chiếm dụng tiền quỹ BHXH,

ảnh hưởng đến công tác đầu tư, tăng trưởng quỹ.

35

Việc các đơn vị nợ tiền BHXH có nguyên nhân chính từ cơ chế chính

sách do quy định mức phạt lãi chậm đóng quá thấp (thấp hơn nhiều so với tiền

vay ngân hàng). Vì vậy các đơn vị lựa chọn nợ tiền BHXH thay vì vay tiền

ngân hàng với thủ tục hết sức phức tạp và phiền nhiễu. Chế tài xử lý hành

chính đối với hành vi này còn chưa tương xứng.

- Đóng BHXH thấp hơn mức quy định

Người sử dụng lao động thực hiện hành vi này nhằm mục đích giảm

bớt chi phí đóng BHXH thuộc phần trách nhiệm của họ nhưng hậu quả là gây

thất thu cho Quỹ BHXH và người lao động phải gánh chịu do mức hưởng

BHXH, BHTN được xác định trên cơ sở mức đóng. Khi phát sinh sự kiện

BHXH, BHTN thì mức hưởng của người lao động sẽ thấp hơn mức thực tế lẽ ra

họ phải được hưởng. Việc đóng BHXH thấp hơn mức quy định thường xảy ra

phổ biến ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh (kể cả các doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài). Hành vi này được thực hiện dưới các hình thức:

Sử dụng hai hệ thống sổ lương khác nhau: Một hệ thống lương dùng để

chi trả lương thực tế cho người lao động (thường là tương ứng với sức lao

động), một hệ thống lương khác dùng để đăng ký tham gia và làm cơ sở tính

mức đóng BHXH, BHTN (trong nhiều trường hợp mức lương này chỉ bằng

hoặc cao hơn mức lương tối thiểu vùng một chút): Trường hợp Công ty Trách

nhiệm hữu hạn J and V, Đồng Nai, qua kiểm tra, thanh tra phát hiện những

trường hợp người lao động có tới 2 hợp đồng lao động. Mức lương ký trên

hợp đồng lao động thực trả là 12.000.000 đồng/tháng, mức lương ký hợp

đồng lao động để tham gia BHXH chỉ bằng với mức lương tối thiểu vùng vào

thời điểm đó [4].

Ký hợp đồng lao động, trong đó xác định mức tiền lương, tiền công

thấp (vì theo quy định đây là mức lương làm căn cứ tham gia BHXH; trong

nhiều trường hợp mức lương này chỉ bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu

36

vùng một chút) nhưng bổ sung thêm các khoản phụ cấp ngoài lương khác như

tiền ăn trưa, tiền vệ sinh, tiền xăng xe,... Trong nhiều trường hợp, người lao

động làm công việc thuộc danh mục nghề nặng nhọc, độc hại theo quy định

phải được hưởng mức lương cao hơn 7% và thực tế hưởng cao hơn nhưng tiền

lương đóng BHXH cũng chỉ bằng các trường hợp làm nghề thông thường.

- Đóng BHXH cao hơn bất thường so với mức quy định

Đây là hành vi người sử dụng lao động đóng BHXH trên cơ sở mức

lương tăng cao đột ngột bất thường để trục lợi Quỹ BHXH, hành vi này có sự

thông đồng giữa người sử dụng lao động và người lao động và thường xảy ra

trong các doanh nghiệp thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao

động quyết định. Trong đó, người lao động sẽ chịu phần chi phí chênh lệch

đóng BHXH tăng thêm do tăng mức lương làm căn cứ tham gia BHXH,

BHTN và không loại trừ việc chia sẻ với người sử dụng lao động phần tiền

BHXH trục lợi. Biểu hiện cụ thể thường thấy là đột ngột tăng mức đóng

BHXH, BHTN rất cao, thậm chí bằng mức tối đa pháp luật cho phép (20 lần

mức lương tối thiểu chung) trong các tháng làm căn cứ tính trợ cấp thai sản,

trợ cấp thất nghiệp để trục lợi khi sinh con, nhận nuôi con nuôi hoặc khi nghỉ

việc hưởng BHTN, ... Hậu quả của hành vi này là quỹ BHXH phải bù ra một

khoản tiền để trả thêm mức chênh lệch cho người trục lợi, không đảm bảo

công bằng xã hội.

Có thể thấy nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chưa kiểm

soát tốt để ngăn chặn từ khâu thu BHXH (khi phát hiện được cần kiến nghị để

thanh tra, kiểm tra thực trạng chi trả lương đối với người sử dụng lao động, có

đối chiếu với mức lương làm cơ sở xác định thuế thu nhập cá nhân và thuế

của doanh nghiệp).

- Hành vi đóng BHXH không đúng đối tượng

Đây là hành vi người lao động không tham gia quan hệ lao động nhưng

37

đơn vị vẫn lập hồ sơ tham gia đóng BHXH để cộng thời gian đóng BHXH đủ

điều kiện hưởng chế độ hưu trí (thực chất là người lao động gửi đóng BHXH

bắt buộc), gây thất thoát Quỹ BHXH. Tuy chưa có thống kê chính thức nhưng

hiện tượng này xảy ra khá phổ biến và ở hầu hết các địa phương. Việc giải

quyết hậu quả đối với các trường hợp này thường kéo dài và hết sức phức tạp.

Đơn cử trường hợp bà Trần Thị Ngôn (Thái Bình): Bà Ngôn đã được

giải quyết hưởng chế độ hưu trí, nhưng qua giải quyết đơn thư tố cáo phát

hiện đây là trường hợp gửi đóng BHXH bắt buộc cho đủ điều kiện hưởng chế

độ hưu trí. BHXH tỉnh Thái Bình đã có quyết định dừng chi trả, thu hồi số

tiền lương hưu bà Ngôn đã nhận. Tranh chấp phát sinh, qua nhiều cấp xét xử,

nhiều đợt kiểm tra (kể cả kiểm tra liên ngành) và rất nhiều công văn trao đổi,

đến nay vẫn bế tắc trong khâu thi hành án do quyết định của Tòa án buộc cơ

quan BHXH phải tiếp tục chi trả chế độ đối với bà Ngôn có nhiều nội dung

chưa phù hợp với quy định của pháp luật BHXH.

Việc người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH đã ảnh

hưởng rất lớn đến việc giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động.

Nhiều trường hợp người lao động khi ốm đau, thai sản không được hưởng chế

độ BHXH, BHYT hoặc đã đủ điều kiện nghỉ hưu nhưng do doanh nghiệp

chưa đóng tiền BHXH nên chưa thể chốt sổ để hưởng chế độ theo quy định.

Từ thực tế trên, có thể thấy các hành vi thuộc nhóm hành vi vi phạm nghĩa

vụ đóng BHXH đã gây thiệt hại lớn về tài chính cho quỹ BHXH, xâm phạm trực

tiếp đến quyền thụ hưởng BHXH của người lao động ở cả hiện tại và tương

lai. Các hành vi VPPL về nghĩa vụ đóng BHXH xảy ra ngày càng nghiêm

trọng, gây thiệt hại lớn đến quyền lợi BHXH của hàng ngàn người lao động,

là nguyên nhân của những cuộc đình công đòi quyền lợi của người lao động,

làm mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến mục tiêu bảo đảm an sinh xã

hội, thậm chí gây sự hiểu lầm rằng cơ quan thực hiện chính sách BHXH gây

khó khăn cho người lao động.

38

Thứ hai: Vi phạm trong giải quyết hưởng các chế độ BHXH

Bên cạnh các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, các vi phạm trong

quá trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH, ảnh hưởng đến quyền thụ

hưởng BHXH của người lao động, đặc biệt là các hành vi nhằm trục lợi quỹ

BHXH cũng trở thành hiện tượng phổ biến ở nhiều địa phương.

- Giả mạo hồ sơ hưởng BHXH

Làm giả hồ sơ hưởng BHXH (giấy chứng nhận nghỉ việc, giấy ra viện,

giấy khám thai, ...) để bán cho người lao động (người bệnh, chữ ký của bác

sỹ, con dấu hoàn toàn là giả)

Đây là hành vi vi phạm có tổ chức được thực hiện hết sức tinh vi, thể

hiện ý thức manh động, coi thường pháp luật của những kẻ làm giả chứng từ

nhằm trục lợi từ người lao động và thông qua đó trục lợi Quỹ BHXH; đối với

người lao động, việc mua chứng từ giả cũng thể hiện ý thức coi thường pháp

luật và trong nhiều trường hợp nhằm mục đích trục lợi, một số trường hợp

thuần túy chỉ nhằm mục đích được nghỉ việc để giải quyết các nhu cầu cá

nhân, tránh bị đơn vị sử dụng lao động kỷ luật. Hậu quả của hành vi lạm dụng

này là một mặt, làm thất thoát Quỹ BHXH, mặt khác làm ảnh hưởng đến kế

hoạch sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động do bị động về nhân

công và trên hết tạo tâm lý coi thường pháp luật trong cộng đồng.

Riêng trong năm 2017 toàn quốc phát hiện trên 2.000 chứng từ giả đề

nghị thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, một số vụ việc được phát hiện với

tính chất chuyên nghiệp như ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Thành phố Hồ Chí

Minh, Bình Dương... [4]. Do tính chất có tổ chức của hành vi này nên người

lao động trong đơn vị thường chỉ bảo nhau cách thức tiếp cận để mua giấy tờ

giả này. Vì vậy, biểu hiện có thể nhận biết được là nhiều người lao động cùng

nghỉ việc trong những thời điểm nhạy cảm với giấy chứng nhận nghỉ việc có

con dấu của cùng một cơ sở y tế cấp.

39

- Sửa chữa, tẩy xóa hồ sơ hưởng BHXH

Hành vi này được thực hiện rất tinh vi dưới hình thức: Sửa tăng thời gian

nghỉ, sửa chữa tên người bệnh, sau đó chụp màu lại các giấy tờ này để xóa dấu

vết sửa chữa, tẩy xóa nên rất khó phát hiện. Tuy nhiên, việc lạm dụng dưới

hình thức này ít hơn so với việc làm giả.

- Cấp khống chứng từ hưởng BHXH (giấy chứng nhận nghỉ việc, giấy

ra viện, giấy khám thai)

Đây là hành vi vi phạm một cách cố ý của các cơ sở khám chữa bệnh, cấp

các giấy tờ này mà không có người bệnh đến khám vì nể nang trong các mối

quan hệ cá nhân hoặc thậm chí bán phôi của các giấy tờ này ra ngoài sau khi đã

đóng dấu của cơ sở khám chữa bệnh nhằm trục lợi từ người lao động, thông qua

đó trục lợi Quỹ BHXH. Hành vi này thường chỉ xảy ra ở các cơ sở khám, chữa

bệnh nhỏ như trạm y tế xã, phường, một số phòng khám khu vực hoặc trung tâm

y tế huyện. Tính chất của hành vi này là hết sức nghiêm trọng vì nó được thực

hiện bởi những người được pháp luật trao những quyền hạn nhất định.

Trong thời gian từ cuối năm 2011 đến hết năm 2018, BHXH thành phố

Hà Nội đã phát hiện khoảng 1.000 trường hợp cấp khống chứng từ hưởng

BHXH; BHXH tỉnh Bắc Giang phát hiện 585 trường hợp; BHXH tỉnh Đắk

Lắk phát hiện 369 trường hợp; BHXH tỉnh Lào Cai phát hiện 63 trường hợp;

BHXH tỉnh Điện Biên phát hiện 75 trường hợp và BHXH tỉnh Lai Châu phát

hiện 10 trường hợp, ... [4]. Biểu hiện có thể nhận biết được ở hình thức lạm

dụng này cũng tương tự như đối với hành vi làm giả: Là nhiều người lao động

cùng nghỉ việc trong những thời điểm nhạy cảm với giấy chứng nhận nghỉ

việc có con dấu của cùng một cơ sở y tế cấp.

- Người sử dụng lao động giải quyết chế độ BHXH cho người lao động

không đúng quy định

Người sử dụng lao động giải quyết chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức

phục hồi sức khỏe cho người lao động vẫn có tên trong danh sách chấm công

và được trả lương.

40

Hành vi này do người sử dụng lao động thực hiện như một kiểu ban

phát quyền lợi cho người lao động, gây thất thoát Quỹ BHXH, tạo ý thức coi

thường pháp luật. Nếu thực hiện công tác hậu kiểm bằng cách đối chiếu giữa

bảng chấm công của đơn vị sử dụng lao động với danh sách người sử dụng

lao động đề nghị thanh toán chế độ thì sẽ phát hiện được.

Ví dụ như: BHXH tỉnh Lâm Đồng qua kiểm tra, đối chiếu giữa bảng

chấm công của Công ty TNHH AGRIVINA với hồ sơ quyết toán của cơ quan

BHXH đã phát hiện 150 trường hợp người lao động thuộc Công ty hưởng sai

quy định như vừa làm việc và hưởng lương, vừa thanh toán các chế độ nghỉ

dưỡng sức với tổng số tiền là 164.025.171 đồng [4].

- Người sử dụng lao động và người lao động câu kết với các cơ sở y tế

để được cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH làm căn cứ thanh toán

tiền trợ cấp ốm đau, thai sản

Đây là hành vi vi phạm có tổ chức thể hiện tâm lý trục lợi đương nhiên

và coi thường pháp luật. Hành vi này thường chỉ xảy ra tại các đơn vị sản

xuất, kinh doanh thua lỗ, không có việc làm (đặc biệt là ở các đơn vị sử dụng

lao động mà y tế cơ quan được ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT), họ coi

đây như là giải pháp tình thế nhằm bù đắp thu nhập thu nhập cho người lao

động trong thời gian đơn vị không có việc làm (thường tỷ lệ chi trợ cấp ốm

đau, thai sản rất cao, khoảng trên 5% quỹ lương của đơn vị). Hậu quả là Quỹ

BHXH bị thất thoát và làm thay chức năng phân phối thu nhập của xã hội.

Hành vi này là một biến thể của hành vi lạm dụng dưới hình thức “cho

người lao động nghỉ việc không đúng với thực trạng bệnh lý hoặc cho nghỉ

việc mặc dù người lao động không bị bệnh” nhưng ở mức độ tinh vi hơn.

Dấu hiệu để có thể phát hiện việc lạm dụng dưới hình thức này là việc

nghỉ luân phiên với tần xuất cao. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó có căn cứ để

xác định vi phạm và quy kết trách nhiệm đối với trường hợp này do hồ sơ đều

được thống nhất hợp thức hóa một cách kín kẽ.

41

Tiểu kết Chương 2

Quá trình thực hiện luận văn tác giả đã thu thập thông tin, xử lý và phân

tích thông tin để đưa ra các vấn đề cần nghiên cứu.

Ở Chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng VPPL về BHXH (vi

phạm nghĩa vụ đóng BHXH, vi phạm trong giải quyết hưởng các chế độ

BHXH và vi phạm trong quản lý nhà nước về BHXH) và các biện pháp xử lý

VPPL về BHXH (biện pháp xử lý vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hình

sự và các biện pháp xử lý khác).

Kết quả phân tích làm cơ sở để tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị

nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt

Nam ở Chương 3. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng bởi có thể thấy tính

nguy hiểm đáng kể cho xã hội của một số hành vi vi phạm pháp luật BHXH

thể hiện rất rõ. Nếu những hành vi đó không bị xử lý kịp thời bằng bản án

nghiêm khắc của pháp luật hình sự thì lòng tin của người dân vào các chính

sách xã hội của Nhà nước, vào tính nghiêm minh của pháp luật bị giảm sút

nghiêm trọng. Khi VPPL xảy ra mà không bị xử lý nghiêm hoặc không thể bị

xử lý cho tương ứng với mức độ vi phạm sẽ dẫn đến ngày càng có thêm nhiều

hành vi vi phạm mới hoặc người đã vi phạm sẽ dễ dàng tái phạm, anh hưởng

đến tính nghiêm minh của pháp luật và mục tiêu của các chính sách an sinh xã

hội của Đảng và Nhà nước.

42

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM TRONG LĨNH VỰC

BẢO HIỂM XÃ HỘI

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội

Có thể thấy hiện nay, tình trạng VPPL về BHXH diễn ra ngày càng phổ

biến xuất phát từ nhiều nguyên nhân như:

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về xử phạt VPHC đối với các

hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT còn chưa đầy đủ dẫn

đến một số hành vi vi phạm chưa có quy định để xử lý. Thẩm quyền của tổ

chức BHXH về một số hành vi sai phạm chưa được quy định rõ trong các văn

bản quy phạm pháp luật như: Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC

khi đối tượng vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, ... nên

còn khó khăn trong tổ chức thực hiện.

Thứ hai, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT chưa đủ

sức răn đe, trong tổ chức thực hiện thì chưa nghiêm, chưa kiên quyết dẫn đến

một số đơn vị sử dụng lao động còn coi thường pháp luật, vẫn cố tình nợ đọng

kéo dài hoặc trục lợi chính sách BHXH, BHYT.

Thứ ba, các quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT đã

được quy định trong Bộ Luật hình sự năm 2015 tuy nhiên đến nay, việc lập hồ

sơ chuyển cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để khởi tố khi phát hiện

các hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực BHXH còn rất nhiều khó

khăn, vướng mắc.

Từ những tác động trên đặt ra yêu cầu của của việc hoàn thiện pháp

luật và nâng cao hiệu quả xử lý VPPL về BHXH.

Theo đó, công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH cần đảm bảo các

yêu cầu sau:

43

Thứ nhất: Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế

Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách

nhiệm pháp lí nói chung và công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH nói

riêng là yêu cầu tiên quyết trong quá trình thực hiện. Công tác xử lý VPPL về

BHXH phải được tiến hành đúng thẩm quyền, theo đúng trình tự, thủ tục mà

pháp luật quy định, có căn cứ pháp lí vũng chắc, đúng người, đúng vi phạm,

đúng pháp luật, tránh oan sai và không bỏ lọt vi phạm.

Thứ hai: Yêu cầu bảo đảm tính hợp lí

Trong công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH thì yêu cầu đảm bảo

tính hợp lí là rất quan trọng nhằm đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị -

xã hội và đời sống nhân dân. Khi xử lý vi phạm pháp luật về BHXH cần phải

xem xét đến sự phù hợp với các điều kiện hiện thực để có thể thi hành đồng

thời phải đảm bảo tính có lợi nhất về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội và đặc biệt là quyền lợi của người tham gia BHXH..

Mục đích của BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu

nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ

sở đóng vào quỹ BHXH do đó khi xem xét xử lý các vi phạm pháp luật về

BHXH cần chú trọng đến quyền lợi, cuộc sống của những người lao động

nhất là đối với các vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH của chủ sử dụng lao động.

Yêu cầu này cũng đã được thể hiện rõ khi xây dựng Bộ luật Hình sự năm

2015 trong đó đã bổ sung tội danh và quy định hình thức phạt tiền là hình

phạt chính đối với các tội danh thuộc lĩnh vực BHXH. Cũng trong Bộ luật

Hình sự năm 2015, lần đầu tiên quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức -

pháp nhân thương mại với hình phạt chính là phạt tiền. Như vậy, việc áp dụng

hình phạt tiền là hình phạt chính và xử phạt pháp nhân thương mại cũng là

đảm bảo tính hợp lí trong quá trình xử lý hình sự các vi phạm BHXH..

44

Thứ ba: Yêu cầu tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người

Có thể thấy, việc áp dụng các vi phạm hành chính là mang tính chất răn

đe, trong khi đó các hình phạt hình sự được phân chia nhiều cấp độ mang cả

tính răn đe, phòng ngừa và trừng phạt. Tuy nhiên các hình phạt này đều tuân

thủ nguyên tắc không áp dụng những biện pháp cưỡng chế có tính chất làm

nhục con người. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý các vi phạm pháp luật

BHXH cũng đạt ra yêu cầu khoan hồng đối với những người thành khẩn, tự

nguyện khắc phục hậu quả nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia

BHXH, đồng thời nghiêm trị những kẻ cầm đầu chủ mưu, vi phạm pháp luật

có tính chuyên nghiệp.

Thứ tư: Yêu cầu kịp thời, nhanh chóng

Nhằm bảo đảm việc xử lý các vi phạm pháp luật về BHXH được thuận

lợi, ngăn chặn kịp thời các VPPL tương tự có thể xẩy ra cũng như ngăn ngừa

hiện tượng tiêu cực trong quá trình xử lý thì việc phát hiện kịp thời, xử lý

nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội có một ý

nghĩa không chỉ đối với việc đấu tranh chống tội phạm mà còn có ý nghĩa

phòng ngừa tội phạm.

Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp do phát hiện kịp thời hành vi vi

phạm nên đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại do hành vi vi phạm gây ra.

Phát hiện kịp thời hành vi vi phạm còn có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho

mọi công dân đấu tranh và phòng ngừa các vi phạm, cảnh báo những ai có ý

định thực hiện hành vi vi phạm. Phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm pháp luật

BHXH còn có tác dụng tạo niềm tin giúp mọi người yên tâm lao động sản

xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân có

nhiệm vụ phát hiện vi phạm, tố giác hành vi phạm tội với các cơ quan có trách

nhiệm, yêu cầu này cũng đặt các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm

phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.

45

Thứ năm: Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc công bằng

Yêu cầu này thể hiện người vi phạm đều bình đẳng trước pháp luật,

không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã

hội; công bằng trong việc xác định hành vi vi phạm hoặc vận dụng các dấu

hiệu cấu thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội, đối với hình phạt,

chống những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người vi phạm khác

nhau. Đây không chỉ là yêu cầu trong xử lý vi phạm nói chung và vi phạm

pháp luật về BHXH nói riêng mà đây cũng là yêu cầu đối với toàn xã hội, cần

phải có thái độ công bằng đối với người vi phạm, người phạm tội dù họ là ai.

3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực

bảo hiểm xã hội

Hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xử

lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, hoạt động này chỉ thực hiện hiệu quả trên

cơ sở những quy định pháp luật đầy đủ, đồng bộ; do đó cần sớm hoàn thiện cơ

sở pháp lý cho hoạt động này, cụ thể:

Thứ nhất: Cần bổ sung các quy định về xử phạt VPHC và xử lý hình sự

đối với các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH:

- Ngoài các tội danh đã được quy định trong Bộ luật Hình sự, cần bổ

sung quy định về xử lý hình sự đối với những hành vi phạm tội khác liên quan

đến quản lý và thực hiện BHXH: Hành vi người sử dụng lao động không cung

cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về đóng BHXH, BHTN, BHYT của

người lao động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; người sử

dụng lao động có hành vi chiếm dụng tiền hưởng BHXH bắt buộc của người

lao động hay hành vi thỏa thuận không tham gia BHXH, BHTN, BHYT, tham

gia không đúng đối tượng hoặc tham gia không đúng mức quy định bởi đây là

những hành vi xuất phát từ lỗi chủ quan của người sử dụng lao động, gây ảnh

hưởng đến hệ thống an sinh xã hội, đến quỹ BHXH, đến quyền và lợi ích hợp

pháp của người lao động.

46

Việc tội phạm hóa một số hành vi vi phạm pháp luật về BHXH không

chỉ thể hiện các hành vi vi phạm này có tính chất phổ biến và gây nguy hiểm

đáng kể cho xã hội đến mức phải dùng loại chế tài nghiêm khắc nhất - chế tài

hình sự để xử lý, mà còn thể hiện rõ quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà

nước ta trong việc bảo vệ và phát triển hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo

quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.

- Bổ sung các quy định về xử phạt VPHC đối với các hành vi vi phạm

trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT để phù hợp với thực tế, tránh bỏ lọt các

vi phạm do không có quy định xử lý, đơn cử: Nhiều đơn vị sử dụng lao động

cố tình không ký hợp đồng lao động hoặc ký sai hợp đồng lao động và không

đóng BHXH cho người lao động, dẫn đến không thể xử phạt VPHC đối với

hành vi đóng BHXH bắt buộc, BHTN không đúng mức quy định và đóng

BHXH, BHTN không đủ số người thuộc diện phải tham gia BHXH, BHTN

mà chỉ có thể xử phạt đơn vị sử dụng lao động với hành vi không ký hợp

đồng lao động đối với người lao động với mức phạt nhẹ hơn nhiều bởi các

hành vi này chưa được đề cập đến trong các văn bản quy định về các hành vi

vi phạm trong lĩnh vực BHXH và chưa có quy định xử lý.

- Nâng mức xử phạt VPHC đối với một số hành vi vi phạm thường

xuyên diễn ra hiện nay như: Trốn đóng, chậm đóng BHXH, BHTN, BHYT của

chủ sử dụng lao động, ... làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động:

Theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động,

BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng, đối với hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN; đóng BHXH,

BHTN không đúng mức quy định mà không phải là trốn đóng; đóng BHXH,

BHTN không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHTN mà

không phải là trốn đóng thì số tiền phạt mới dừng lại ở mức từ 12% đến 15%

tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biên bản vi

47

phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng đối với người sử dụng

lao động. Đối với người sử dụng lao động không đóng BHXH bắt buộc,

BHTN cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc,

BHTN mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì số tiền phạt từ 18%

đến 20% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập

biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng. Đối với

người sử dụng lao động có hành vi trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN mà

chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì phạt tiền từ 50 triệu đồng đến

75 triệu đồng [6].

Như vậy theo quy định hiện nay thì số tiền xử phạt VPHC tối đa đối

với các hành vi vi phạm về đóng BHXH, BHTN mới dừng ở mức 75 triệu

đồng, có thể thấy mức phạt này là khá thấp, thiếu tính răn đe, cần thiết phải

tăng lên nhiều lần, không nhất thiết mức phạt vi phạm hành chính thấp hơn

hình sự để hạn chế các hành vi vi phạm, tăng tính bền vững của quỹ BHXH,

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý:

Pháp luật về xử phạt VPHC cần xác định thứ tự ưu tiên các nguyên tắc; theo

đó, người thụ lý vụ việc đầu tiên có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt là

nguyên tắc ưu tiên trước để đảm bảo mọi hành vi VPHC đều được phát hiện

kịp thời và xử phạt nghiêm minh, tránh tình trạng cơ quan nhà nước có thẩm

quyền đùn đẩy trách nhiệm cho nhau và chủ thể vi phạm vẫn ngang nhiên

thực hiện hành vi vi phạm gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng

chính sách BHXH, BHTN, BHYT.

Thứ hai: Giao cho cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra toàn

diện về BHXH, BHTN, BHYT để Ngành BHXH có thể thực hiện được thanh

tra trong việc thanh quyết toán các chế độ chính sách BHXH (cả trong lĩnh

vực thu và chi trả) tại các đơn vị sử dụng lao động.

48

Hiện nay tình trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHYT đang diễn ra ở

nhiều nơi và có diễn biến ngày càng phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực chi

BHXH, BHYT; nhiều sai phạm trong lĩnh vực này chưa được các cơ quan chức

năng tiến hành thanh tra, xử lý kịp thời với nhiều lý do, một trong số đó là việc

cơ quan BHXH chưa được giao nhiệm vụ thanh tra lĩnh vực chi BHXH, BHYT.

Theo quy định hiện nay, "Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh

tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT theo quy định của Luật

này và quy định khác của pháp luật có liên quan" [18, Điều 13, khoản 3], cơ

quan BHXH có quyền "Kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH; thanh tra

chuyên ngành việc đóng BHXH, BHTN, BHYT" [18, Điều 22, khoản 7],

"BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng tổ chức thực hiện

các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý

và sử dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT; thanh tra chuyên ngành việc đóng

BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật [8, Điều 1, khoản 1].

Như vậy, tổ chức BHXH có quyền và trách nhiệm tổ chức thực hiện

chế độ, chính sách BHXH, BHYT nhưng lại chỉ có chức năng thanh tra

chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT mà không có chức năng thanh

tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHXH, BHYT

đối với các tổ chức, cá nhân, đơn vị sử dụng lao động và các cơ sở KCB

BHYT, nên đã gặp khó khăn không nhỏ trong việc tổ chức thực hiện các quy

định của chính sách pháp luật về BHXH, BHYT; quyền và lợi ích hợp pháp

của người tham gia BHXH, BHYT, BHTN bị xâm hại không được ngăn chặn

hoặc xử lý kịp thời; nên hàng năm có hàng trăm nghìn lao động không được

hưởng các chế độ BHXH, BHTN, BHYT kịp thời; mức độ vi phạm không chỉ

dừng ở mức độ xử phạt VPHC mà trong một số trường hợp đến mức phải truy

cứu trách nhiệm hình sự.

Để hạn chế được tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHTN, BHYT,

49

cần thiết phải bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành đầy đủ cho ngành

BHXH, theo đó cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật BHXH năm 2014 theo

hướng bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành về giải quyết, chi trả, thanh

quyết toán các chế độ BHXH và giám định, thanh quyết toán chi phí KCB

BHYT cho cơ quan BHXH và nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số

21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 quy định việc thực hiện chức năng thanh tra

chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH theo

hướng bổ sung chức năng chuyên ngành đầy đủ cho cơ quan BHXH, bởi cơ

quan BHXH đã có cơ cấu tổ chức thanh tra, kiểm tra theo ngành dọc từ Trung

ương tới tỉnh và có đủ đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT, kiểm tra đã được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về nghiệp vụ thanh

tra; có chuyên môn, nghiệp vụ về chế độ, chính sách BHXH, BHYT, có đủ

năng lực thực hiện nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện hợp đồng KCB BHYT,

quản lý chi trả đảm bảo chế độ người lao động ở đơn vị sử dụng lao động.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật về bảo

hiểm xã hội

3.3.1. Cải cách thủ tục hành chính trong công tác giải quyết chế độ

bảo hiểm xã hội

Tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động, người lao động

tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH theo đúng quy định của pháp luật

cần tiếp tục được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Ngành BHXH để

góp phần ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đảm

bảo an ninh chính trị và an sinh xã hội.

Trong 5 năm (từ năm 2013-2017), số lượng thủ tục hành chính trong

lĩnh vực BHXH đã được cắt giảm mạnh từ 115 thủ tục xuống còn 28 thủ tục

(giảm trên 75%). Tính riêng năm 2017, giảm từ 32 thủ tục xuống còn 28 thủ

tục và đến năm 2019 còn 27 thủ tục [3] (hiện 27 thủ tục này đều đã được cập

50

nhật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, công khai trên Trang

thông tin điện tử ngành BHXH và tổ chức niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận và

trả kết quả thủ tục hành chính của cơ quan BHXH cấp tỉnh, cấp huyện, đảm

bảo cho các tổ chức, cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận, thuận tiện khi giải quyết

công việc); rút ngắn thời hạn cấp sổ BHXH từ 20 ngày xuống còn 5 ngày, thẻ

bảo hiểm y tế (BHYT) từ 7 ngày xuống còn 5 ngày (riêng với người hưởng

trợ cấp thất nghiệp không quá 2 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy

định), cấp lại thẻ BHYT không thay đổi thông tin được thực hiện trong ngày.

Riêng số giờ thực hiện thủ tục hành chính từ 335 giờ năm 2016 giảm

xuống còn 49 giờ/năm 2017. Với việc thực hiện giao dịch điện tử trong tất cả

các khâu (từ thu, nộp đến quản lý chi, trả) thì số lần thực hiện giao dịch điện

tử giảm từ 12 lần/năm xuống còn 1 lần/năm. Đặc biệt, năm 2017, BHXH Việt

Nam xếp thứ 2/20 trong số các bộ, ngành về chỉ số sẵn sàng ứng dụng công

nghệ thông tin, tăng 18 bậc so với năm 2016 và là đơn vị đứng đầu trong các

cơ quan thuộc Chính phủ về việc ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển

Chính phủ điện tử trong năm 2018.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính

trong giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, Ngành BHXH cần tiếp tục coi cải

cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm tiết

kiệm chi phí và thời gian cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện giao dịch về

BHXH, theo đó cần tăng cường rà soát, đánh giá sự cần thiết, tính hợp pháp,

hợp lý, hiệu quả của quy định thủ tục hành chính hiện hành, chủ động cắt

giảm những thủ tục không cần thiết và giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục

hành chính, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các quy định về thủ tục

hành chính và phát sinh thủ tục hành chính ngoài quy định, tạo mọi điều kiện

thuận lợi cho người dân được tiếp cận dịch vụ và giải quyết các chế độ, chính

sách BHXH một cách công khai, minh bạch, đảm bảo quyền và lợi ích chính

đáng của người lao động.

51

Cùng với việc triển khai thực hiện cơ chế “một cửa” liên thông, giao

dịch điện tử, cần bổ sung, sửa đổi các quy định phân cấp trong điều hành,

quản lý, giải quyết các thủ tục liên quan đến BHXH, BHYT, cần tiếp tục hoàn

thiện quy trình tiếp nhận, trả hồ sơ và giải quyết mỗi loại công việc liên quan

xét duyệt chế độ, in, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT ở cấp tỉnh và cấp huyện (làm

rõ thêm các bước thực hiện, thời gian thực hiện và trách nhiệm từng tổ chức,

cá nhân thực hiện), đề cao trách nhiệm của cơ quan BHXH về đảm bảo đầy

đủ quyền lợi của người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT,

BHTN (xét duyệt hồ sơ hưởng, chi trả các chế độ BHXH, BHYT; in, cấp sổ

BHXH, thẻ BHYT).

3.3.2. Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý nhằm hạn chế vi phạm

pháp luật về bảo hiểm xã hội

Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý được coi là một trong những giải

pháp quan trọng nhằm hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH,

trọng tâm là xây dựng hệ thống phần mềm về quản lý hoạt động BHXH, xây

dựng cơ sở dữ liệu tập trung của toàn Ngành BHXH.

Việc xây dựng các phần mềm nghiệp vụ hiện đại, liên thông để chia sẻ

thông tin và thực hiện các nghiệp vụ xét duyệt, quản lý BHXH trên các phần

mềm một cách đầy đủ và tự động, thống nhất, công khai, minh bạch là biện

pháp quan trọng để hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH. Cần xây

dựng và từng bước sử dụng thẻ BHXH điện tử thay thế sổ BHXH hiện hành,

theo đó mọi dữ liệu về quá trình tham gia BHXH, những biến động về lương,

mức đóng, những thay đổi nhân thân v.v... được quản lý trên phần mềm thống

nhất toàn quốc, việc giải quyết các chế độ BHXH sẽ không phải phụ thuộc

vào sổ BHXH như hiện nay, việc nâng cấp các phần mềm hiện có nhằm đảm

bảo các ứng dụng nghiệp vụ, duy trì hoạt động ổn định và đáp ứng các yêu

cầu cấp bách về thay đổi và phát sinh nghiệp vụ; bên cạnh đó cần sớm hoàn

52

thiện việc cơ sở dữ liệu người hưởng BHXH kết nối liên thông với chương

trình xét duyệt các chế độ BHXH và các cơ sở dữ liệu khác, điều này có tác

dụng thiết thực trong việc tra cứu thông tin khi giải quyết đề nghị cấp lại sổ

BHXH cũng như trong việc giải quyết hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ra, đây

còn là căn cứ để thực hiện việc rà soát (hậu kiểm) tại BHXH Việt Nam. Việc

nâng cấp tính năng bảo mật, phân quyền trong thực hiện nghiệp vụ đảm bảo

lưu dấu khi có các can thiệp để chỉnh sửa dữ liệu của chương trình cũng góp

phần xác định được trách nhiệm của các cá nhân trong thực hiện nghiệp vụ.

Đặc biệt, cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp phần mềm nghiệp vụ

thanh tra, kiểm tra - một phần mềm trong hệ thống phần mềm ứng dụng của

BHXH Việt Nam nhằm hiện đại hóa công tác quản lý, giảm tải sử dụng văn

bản giấy và sổ sách ghi chép tay; tiết kiệm thời gian cho cán bộ trong công

tác báo cáo, tổng hợp; hỗ trợ các tiện ích để nâng cao hiệu quả công tác

thanh tra, kiểm tra, đồng thời công tác quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra

được toàn diện, bao quát và đồng bộ hơn từ BHXH huyện, thị đến BHXH

tỉnh và BHXH Việt Nam…

3.3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra

ngành Bảo hiểm xã hội

Nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra

và xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH chính là nhân tố con người làm công

tác thanh tra, kiểm tra, bao gồm phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và

ý thức trách nhiệm của cán bộ.

Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công

tác thanh tra, kiểm tra nói chung và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra

ngành BHXH nói riêng để có phẩm chất đạo đức, kỹ năng, kinh nghiệm nhằm

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là công việc có ý nghĩa lâu dài đối với

việc củng cố, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát

53

hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH. Hàng năm cần tổ

chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra theo

từng chuyên ngành cụ thể nhằm trang bị nội dung thiết thực, hữu ích, trang bị

nhiều kiến thức, kỹ năng cần thiết, chuyên sâu, đồng thời, trao đổi và giải đáp

các tình huống cụ thể và cả những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển

khai thanh tra, kiểm tra thực tế tại đơn vị, qua đó giúp cán bộ nâng cao trình

độ, nghiệp vụ chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra trong lĩnh

vực BHXH và trang bị kiến thức cơ bản về trình tự, thủ tục tiến hành một

cuộc thanh tra, kiểm tra, nguyên tắc tiến hành, quyền và nghĩa vụ của đối

tượng thanh tra, kiểm tra, các mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, xử phạt

VPHC; việc thu xác minh, thập tài liệu, chứng cứ, việc thực hiện trình tự, thủ

tục khi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, …

Cần tiếp tục tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

BHXH, BHYT ở các đơn vị sử dụng lao động nắm vững các văn bản quy

định, hướng dẫn để phối hợp tốt việc thực hiện chế độ, chính sách ở từng đơn

vị; đẩy mạnh phong trào học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

trở thành công việc thường xuyên; thực hiện tốt Quy định “Chuẩn mực đạo

đức cán bộ, đảng viên, công chức viên chức ngành BHXH” nhằm nâng cao

phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng

lực quản lý, điều hành để phục vụ nhân dân tốt hơn. Nâng cao nhận thức của

đội ngũ cán bộ ngành BHXH về tư duy phục vụ và cung cấp sản phẩm dịch vụ

công đối với khách hàng thụ hưởng là các đối tượng tham gia BHXH và tiếp

thu sự đánh giá về độ hài lòng với sản phẩm dịch vụ mà ngành BHXH cung

cấp cho họ. Mức độ hài lòng của những khách hàng này là cơ sở để đánh giá

năng lực, hiệu quả làm việc cũng như chính sách khen thưởng đối với cán bộ.

Bên cạnh đó cần định kỳ đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công

chức viên chức và bố trí công việc phù hợp với trình độ, năng lực, kinh nghiệm

54

mỗi người theo từng vị trí việc làm đã xác định; phân công nhiệm vụ rõ

ràng, cụ thể gắn liền với quyền hạn, trách nhiệm từng tổ chức, cá nhân;

thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức viên

chức để đáp ứng công việc theo từng vị trí đảm nhiệm nhằm nâng cao chất

lượng, hiệu quả công việc.

3.3.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công khai thông

tin tình hình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm

xã hội

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về BHXH tới

mọi người dân tham gia BHXH, đặc biệt là đối với chủ sử dụng lao động và

người lao động để họ nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện

các quy định về BHXH, qua đó giảm thiểu được các vi phạm do không hiểu

biết về quy định của pháp luật. Khi biết được các chế tài nghiêm khắc áp dụng

đối với hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, họ sẽ có thái độ cẩn trọng hơn

khi thực hiện để tránh rơi vào trường hợp vi phạm quy định, khi đã để xảy ra

vi phạm họ sẽ tuân thủ nghiêm chỉnh các quyết định xử phạt của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, khắc phục hậu quả đã gây ra. Theo đó, nội dung tuyền

truyền cần chú trọng tới các hành vi bị coi là VPPL trong lĩnh vực BHXH,

thẩm quyền xử phạt, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục

hậu quả, … Hình thức tuyên truyền, giáo dục cũng cần đa dạng, phong phú

hơn, kết hợp nhiều cách thể hiện khác nhau: Qua Đài Truyền hình, Truyền

thanh của Trung ương và địa phương, lập các website, tổ chức các cuộc thi

tìm hiểu về VPPL trong lĩnh vực BHXH, treo các băng rôn, áp phích với các

khẩu hiệu tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật về BHXH, ...

Cần tăng cường vai trò của công cụ thông tin, công khai thông tin tình

hình vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, nội dung của việc công

khai thông tin là biểu dương những chủ thể thực hiện tốt, phê bình những chủ

55

thể thực hiện chưa tốt, có hành vi sai phạm với mục đích tạo sức ép đối với

các chủ thể thực hiện chưa nghiêm chỉnh và khuyến khích những chủ thể thực

hiện tốt quy định của pháp luật trong lĩnh vực BHXH.

3.3.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền

trong xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh lực bảo hiểm xã hội

Tích cực thực hiện các quy chế phối hợp, đặc biệt là sự phối hợp chia

sẻ thông tin giữa cơ quan BHXH với các cơ quan liên quan trong công tác

phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về BHXH góp phần quan trọng

trong việc bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội:

Phối hợp với cơ quan thuế trong trao đổi thông tin về tổ chức và cá nhân trả

thu nhập từ tiền lương tham gia đóng các khoản BHXH bắt buộc và nộp thuế

để phối hợp quản lý thu các khoản BHXH, …

Cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong

quản lý và đấu tranh phòng chống tội phạm, VPPL trong lĩnh vực BHXH,

thông qua việc ký và thực hiện các Quy chế phối hợp, đặc biệt là sự phối hợp

giữa BHXH Việt Nam và Bộ Công an nhằm tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu

quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm (Quy chế phối hợp số

3461/QCPH-TCCS-BHXH ngày 16/8/2017 giữa Tổng cục Cảnh sát và BHXH

Việt Nam trong công tác phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về

BHXH, BHYT, BHTN, theo đó: Cần nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc,

nội dung và phương pháp phối hợp ở tất cả các cấp (cấp Trung ương, cấp

tỉnh, cấp huyện) giữa lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm và quản lý

hành chính về trật tự, an toàn xã hội và BHXH Việt Nam nhằm tăng cường,

nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm và các

hành vi VPPL góp phần bảo đảm an ninh, giữ gìn trật tự an toàn trong hoạt

BHXH, BHTN, BHYT.

Bên cạnh đó, cần thực hiện đầy đủ các nội dung phối hợp: Phối hợp

56

phòng, chống các loại tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh BHXH,

BHTN, BHYT; phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các hành VPPL

hình sự trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT; phối hợp bảo vệ tài sản của Nhà

nước, của tập thể, cá nhân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan BHXH các

cấp và phối hợp bảo đảm an toàn đối với hoạt động của cơ quan BHXH.

Quan hệ phối hợp giữa hai bên là quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở

tuân thủ quy định của pháp luật và theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mỗi bên. Việc phối hợp phải thường xuyên, kịp thời và hiệu quả; đồng

thời bảo đảm sự chủ động, tích cực, đồng bộ, thống nhất trong chỉ đạo, điều

hành của Lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát và Lãnh đạo BHXH Việt Nam. Thường

xuyên cung cấp, trao đổi thông tin về các hoạt động liên quan đến công tác

phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHTN,

BHYT. Việc trao đổi thông tin và tài liệu có liên quan đến công tác phòng,

chống tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT phải

được phê duyệt của lãnh đạo có thẩm quyền và đúng quy định của pháp luật.

57

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng các quy định về chế tài xử

lý VPPL trong lĩnh vực BHXH, thực trạng VPPL và xử lý VPPL trong lĩnh

vực BHXH cũng những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý VPPL về

BHXH, tác giả đã mạnh dạn đưa ra 05 giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý

VPPL trong lĩnh vực BHXH, gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt

các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH; Bổ sung chức năng thanh tra

chuyên ngành đầy đủ cho ngành BHXH; Nâng cao chất lượng cán bộ làm

công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm

tra ngành BHXH nói riêng; Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và

công khai thông tin tình hình xử lý các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH

và Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xử lý

các hành vi vi phạm trong lĩnh lực BHXH.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý vi phạm

trong lĩnh vực BHXH, tác giả cũng đưa ra các kiến nghị với Quốc hội, Chính

phủ và với các cơ quan quản lý nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan.

Tác giả cho rằng các giải pháp, kiến nghị trên có thể tham khảo, nghiên

cứu, áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý VPPL trong lĩnh vực

BHXH của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và cơ quan BHXH nói

riêng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.

58

KẾT LUẬN

Nhiệm vụ của luận văn là nghiên cứu, phân tích, đánh giá nhằm nâng

cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt Nam. Thực

hiện nhiệm vụ này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và

đề xuất các giải pháp, nêu ra các kiến nghị để thực hiện nhiệm vụ của luận văn.

Qua nghiên cứu, tác giả đã rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đã trình bày, làm rõ bản chất, nội dung một số khái niệm có

liên quan đến các vấn đề trình bày tại luận văn (vi phạm pháp luật, xử lý vi

phạm pháp luật) cũng như các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với

các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.

Thứ hai, đã nghiên cứu, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về

BHXH trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng và trong giải quyết hưởng các chế

độ BHXH; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về BHXH (xử lý hành

chính, xử lý hình sự và một số biện pháp khác) để thấy được sự phức tạp của

tình hình VPPL trong lĩnh vực BHXH cũng như những nỗ lực, cố gắng của

các cơ quan chức năng nói chung và ngành BHXH nói riêng trong việc phát

hiện và xử lý các hành vi VPPL nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người lao động.

Thứ ba, đã đưa ra yêu 05 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý vi

phạm trong lĩnh vực BHXH trong thời gian tới.

Theo tác giả những giải pháp này có tính khả thi, cơ bản phù hợp trong

điều kiện của nước ta và các cơ quan thực thi pháp luật về BHXH nói chung,

ngành BHXH nói riêng; nếu thực hiện theo nghiên cứu đề xuất của luận văn

sẽ góp phần không nhỏ trong việc ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật về BHXH ở Việt Nam, bảo vệ có hiệu quả quỹ BHXH, quyền và lợi

ích chính đáng của người lao động.

59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) (2017), Báo cáo kết quả công tác phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm của BHXH Việt Nam và Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) tại Hội nghị sơ kết kết 05 năm thực hiện Quy chế phối hợp số 1853/QCPH- TCCSPCTP-BHXH giữa BHXH Việt Nam và Bộ Công an, Hà Nội.

2.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2018), Báo cáo về việc thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT giai đoạn 2016-2018 của BHXH Việt Nam năm 2018, Hà Nội.

3.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007-2019), Báo cáo tổng kết công tác từ năm 2007 đến năm 2019 của BHXH Việt Nam, Hà Nội.

4.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011-2019), Báo cáo kết quả công tác thanh tra, kiểm tra từ năm 2011 đến năm 2019 của BHXH Việt Nam, Hà Nội.

5.

Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020", Hà Nội.

6.

Chính phủ (2013), Nghị định số 28/2020/NĐ-CP, ngày 01/3/2020, Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.

7.

Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016, Quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH, Hà Nội.

8.

Chính phủ (2020), Nghị định số 89/2020/NĐ-CP, ngày 04/8/2020, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.

60

9.

Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2012), Báo cáo giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với người lao động trên địa bàn tỉnh giai đoạn từ 2010 đến 2012” số 98/BC-HĐND ngày 26/11/2012.

10. Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số

05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019, Hà Nội.

11. Mai Xuân Nam và nhóm nghiên cứu (Bảo hiểm xã hội Việt Nam), (2016), Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, Đề tài.

12. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, số 22/2008/QH12 ngày

13/11/2008, Hà Nội.

13. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra, số 56/2010/QH12, ngày 15/11/2010,

Hà Nội.

14. Quốc hội (2010), Luật Viên chức, số 58/2010/QH12, ngày 15/11/2010,

Hà Nội.

15. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, số 15/2012/QH13,

ngày 20/6/2012, Hà Nội.

16. Quốc hội (2013), Bộ Luật Lao động, số 10/2012/QH13, ngày 18/3/2012, Hà

Nội.

17. Quốc hội (2013), Luật Việc làm, số 38/2013/QH13, ngày 16/11/2013,

Hà Nội.

18. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, số 58/2014/QH13, ngày 20/11/2014,

Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13, ngày 27/11/2015,

Hà Nội.

20. Quốc hội (2017), Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước số

10/2017/QH14 ngày 20/6/2017, Hà Nội.

61

21. Quốc hội (2019), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật viên chức, số 52/2019/QH14 ngày 25/11/2019, Hà Nội.

22. Lê Quyết Thắng và nhóm nghiên cứu (Bảo hiểm xã hội Việt Nam) (2009)), Xây dựng quy trình tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi phạm pháp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, Đề án.

23. Nguyễn Thị Anh Thơ (2012), Tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

24. Tổng cục Cảnh sát - Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quy chế phối hợp số 3461/QCPH-TCCS-BHXH ngày 16/8/2017 giữa Tổng cục Cảnh sát và BHXH Việt Nam trong công tác phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về BHXH, BHYT, BHTN, Hà Nội.

25. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quy chế phối hợp số 3601/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 20/9/2016 về việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu trong việc khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội.

26. Phùng Thế Vắc (chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Bộ Công an năm 2010 được ban hành theo Quyết định số 2714/QĐ-X11 (X14) ngày 22/4/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục xây dựng lực lượng công an nhân dân.

Tài liệu Website

27. Hùng Anh, "Xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế:

Cần chế tài mạnh", đăng tại http://tapchitaichinh.vn ngày 11/02/2019.

29.

28. Thủy Hà, "Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp", đăng tại http: tapchibaohiemxahoi.gov.vn ngày 12/10/2018. Nguyễn Thị Hồng Thắm, "Xử lý vi phạm qua thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm", đăng tại http:// http://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/xu-ly- vi-pham-qua-thanh-tra-trong-linh-vuc-bao-hiem-187979 ngày 02/10/2019.

62

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

NGHỊ QUYẾT SỐ 05/2019/NQ-HĐTP NGÀY 15/8/2019

CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN, TOÁN ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 05/2019/NQ-HĐTP

Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019

NGHỊ QUYẾT

HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 214 VỀ TỘI GIAN LẬN BẢO HIỂM XÃ HỘI,

BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, ĐIỀU 215 VỀ TỘI GIAN LẬN BẢO HIỂM Y TẾ VÀ

ĐIỀU 216 VỀ TỘI TRỐN ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO

HIỂM THẤT NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;

Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại các điều 214, 215 và 216 của

Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số

12/2017/QH14; Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13;

Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ

trưởng Bộ Tư pháp,

QUYẾT NGHỊ

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 214 về tội gian

lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế

và Điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp

cho người lao động của Bộ luật Hình sự.

63

Điều 2. Về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng

các điều 214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự

1. Lập hồ sơ giả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Hình sự

là hành vi lập hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong đó có giấy tờ, tài

liệu giả (ví dụ: giấy tờ, tài liệu không có thật, không do cơ quan có thẩm quyền cấp

hoặc cấp không đúng quy định, không đúng thẩm quyền, không đúng thời hạn...) để

thanh toán các chế độ: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu

trí; tử tuất; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề;

hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng để duy trì việc làm cho người

lao động và chế độ khác theo quy định của pháp luật.

2. Lập hồ sơ bệnh án khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ

luật Hình sự là trường hợp không có sự việc khám bệnh, chữa bệnh hoặc có sự việc

khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng họ không phải điều

trị mà vẫn lập hồ sơ bệnh án cho họ.

3. Kê đơn thuốc khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật

Hình sự là trường hợp không có sự việc khám bệnh, chữa bệnh hoặc có sự việc

khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng không có việc sử

dụng thuốc mà vẫn kê đơn thuốc cho người có thẻ bảo hiểm y tế.

4. Kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi

phí giường bệnh quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật Hình sự là

trường hợp có sự việc khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng

kê số lượng thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật nhiều hơn số lượng thuốc, vật tư y tế,

dịch vụ kỹ thuật mà thực tế người bệnh sử dụng hoặc kê thêm các loại thuốc, vật tư y

tế, dịch vụ kỹ thuật mà thực tế người bệnh không sử dụng; kê tăng số lượng ngày điều

trị nội trú tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc kê không đúng tên thuốc, vật tư y tế,

loại giường và các dịch vụ kỹ thuật khác mà thực tế người bệnh đã sử dụng để làm tăng

tiền chi phí khám bệnh, chữa bệnh thanh toán với quỹ bảo hiểm y tế.

5. Chi phí khác quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật Hình sự là

các chi phí phát sinh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh,

64

chữa bệnh không bao gồm chi phí tiền thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật và chi phí

giường bệnh (ví dụ: tiền công khám, chi phí vận chuyển người bệnh...).

6. Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế quy định tại điểm b khoản 1 Điều

215 của Bộ luật Hình sự là hành vi lập, sử dụng hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế không do

cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế của người

khác để hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định.

7. Thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống quy định tại điểm b khoản 1 Điều

215 của Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

cấp cho người không đóng hoặc không thuộc diện được các tổ chức, nguồn quỹ

khác đóng bảo hiểm y tế theo quy định.

8. Thẻ bảo hiểm y tế giả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215 của Bộ luật

Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

9. Thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215 của

Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho

người tham gia bảo hiểm y tế nhưng đã bị thu hồi theo quy định của pháp luật và bảo

hiểm y tế hoặc thẻ đã bị sửa chữa, làm sai lệch thông tin của người có thẻ.

10. Trốn đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự là hành

vi của người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để

không đóng hoặc không đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

11. Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự

là trường hợp cố ý không kê khai hoặc kê khai không đúng thực tế việc đóng bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với cơ quan có thẩm quyền.

12. Không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy

định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người sử dụng lao

động không gửi hồ sơ đăng ký đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

65

nghiệp đối với người lao động hoặc có gửi hồ sơ và đã xác định rõ, đầy đủ số người

phải đóng hoặc các khoản phải đóng, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người

lao động, thu nhập doanh nghiệp, nhưng không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định.

13. Không đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự là

việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập

chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng

chỉ đóng một phần tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cơ

quan bảo hiểm xã hội theo quy định.

14. 06 tháng trở lên quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự được

xác định là 06 tháng liên tục hoặc 06 tháng cộng dồn trở lên.

Ví dụ: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, Doanh

nghiệp A không đóng bảo hiểm xã hội 04 tháng trong năm 2018 (gồm các tháng 5,

7, 9 và 11) và 02 tháng trong năm 2019 (tháng 01 và tháng 02) là không đóng bảo

hiểm xã hội 06 tháng cộng dồn trở lên.

15. Thiệt hại do hành vi phạm tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp quy định tại Điều 214 và Điều 215 của Bộ luật Hình sự gây ra

không bao gồm số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bị

chiếm đoạt.

Điều 3. Về một số tình tiết định khung hình phạt

1. Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 các điều 214 và

215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian lận bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã

bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa

hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người

phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập.

2. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại điểm đ khoản 2 các điều 214

và 215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao,

móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc thủ đoạn

66

gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội, gây khó

khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.

3. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm a khoản 2 Điều 216 của Bộ luật

Hình sự; là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội trốn đóng bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động từ 02 lần trở lên nhưng đều

chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm

hình sự.

4. Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao

động quy định tại điểm d khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 216 của Bộ luật Hình sự

là trường hợp người sử dụng lao động đã thu hoặc đã khấu trừ tiền đóng bảo hiểm

từ tiền lương tháng đóng bảo hiểm của người lao động nhưng không đóng cho cơ

quan bảo hiểm.

Điều 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể

1. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy định

tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử phạt

vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa hết

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tổng số tiền bảo hiểm của các lần bị

chiếm đoạt bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

định của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phải bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng số tiền của các lần bị

chiếm đoạt, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

2. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy định

tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự gây thiệt hại cho quỹ bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử

phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc

chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tổng số tiền của các lần bị thiệt

hại bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của

Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phải bị truy cứu

67

trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng số tiền của các lần gây thiệt

hại, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

3. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội vừa chiếm đoạt tiền bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp vừa gây thiệt hại mà số tiền bị

chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự thì xử lý như sau:

a) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều thuộc khung

hình phạt cơ bản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung

hình phạt cơ bản.

Ví dụ: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm

đoạt 20.000.000 đồng và gây thiệt hại 150.000.000 đồng thì Nguyễn Văn A bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy

định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.

b) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại thuộc các khung

hình phạt khác nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung

hình phạt cao hơn.

Ví dụ: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm

đoạt 20.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000 đồng thì Nguyễn Văn A bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy

định tại điểm d khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.

c) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại cùng một khung

hình phạt tăng nặng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo cả hai

tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Ví dụ: Nguyễn Văn B thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm

đoạt 150.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000 đồng thì Nguyễn Văn B bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp với tình

tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.

4. Người thực hiện hành vi làm giả hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất

nghiệp, bảo hiểm y tế, thẻ bảo hiểm y tế để chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo

68

hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc gây thiệt hại, ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội phạm tương ứng quy định tại các điều 214 hoặc 215 của Bộ luật Hình

sự, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu

của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy

định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Điều 5. Xử lý hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp cho người lao động thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01

tháng 01 năm 2018

1. Đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về

hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp xử

lý như sau:

a) Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt

vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính.

b) Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử

phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử

phạt vi phạm hành chính được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật

Xử lý vi phạm hành chính. Việc thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi

phạm hành chính này thực hiện theo pháp luật về thi hành, cưỡng chế thi hành quyết

định xử phạt vi phạm hành chính.

c) Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội

hoặc tổ chức, cá nhân khác thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật

tố tụng dân sự.

2. Không coi việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước 0 giờ 00

phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự.

69

Điều 6. Xác định tư cách tố tụng của cơ quan bảo hiểm xã hội

Trong các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo Điều 214 của Bộ luật Hình sự; tội

gian lận bảo hiểm y tế theo Điều 215 của Bộ luật Hình sự; tội trốn đóng bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo Điều 216 của Bộ luật

Hình sự, cơ quan bảo hiểm xã hội tham gia tố tụng với tư cách là bị hại.

Điều 7. Tổ chức thực hiện

1. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214, 215

và 216 của Bộ luật Hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan

bảo hiểm xã hội gửi văn bản kiến nghị khởi tố kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên

quan đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện cho người lao động và cơ quan,

tổ chức, cá nhân khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều

214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự thì thông báo ngay đến cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Khi nhận được tin báo về tội phạm hoặc văn bản kiến nghị khởi tố và

chứng cứ, tài liệu có liên quan, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem

xét, thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp luật.

3. Việc gửi văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển chứng cứ, tài liệu có liên

quan đến cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-

BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân

dân tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực

hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Điều 8. Hiệu lực thi hành

Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

70

thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng

9 năm 2019.

Nơi nhận:

TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để giám sát);

CHÁNH ÁN

- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (để giám sát);

- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để giám sát);

- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;

- Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội;

Nguyễn Hòa Bình

- Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo);

- Văn phòng Trung ương Đảng (để báo cáo);

- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo);

- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng

Công báo);

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);

- Bộ Tư pháp (để phối hợp);

- Bộ Công an (để phối hợp);

- Bảo hiểm xã hội Việt Nam;

- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam;

- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);

- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC

(để thực hiện);

- Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải);

- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.

71

Phụ lục 2

MỘT SỐ VỤ ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1. Vụ việc ông Đỗ Văn Măng (Hậu Giang)

Người khởi kiện: Ông Đỗ Văn Măng

Người bị kiện: Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang

Tóm tắt vụ việc:

Ông Đỗ Văn Măng có quá trình công tác:

Từ tháng 9/1976 đến tháng 9/1979 là giáo viên trường Trường Long Tây I,

huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ tháng 10/1979 đến

tháng 12/1986 là giáo viên trường Nhơn Ái 3, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ

(cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ tháng 01/1987 đến tháng 12/1989 là giáo viên trường

Nhơn nghĩa 3, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ

tháng 01/1990 đến tháng 9/1993 tự ý xin nghỉ việc do hoàn cảnh gia đình khó khăn;

từ tháng 10/1993 đến tháng 12/1997 là giáo viên trường Vị Thanh 2, huyện Vị

Thanh; từ tháng 10/1998 đến nay là giáo viên giảng dạy tại huyện Vị Thủy, tỉnh

Hậu Giang. Có quá trình công tác hưởng lương Nhà nước liên tục (trừ thời gian

nghỉ từ tháng 01/1990 đến tháng 9/1993) và đóng BHXH đầy đủ. Khi nghỉ việc ông

cũng chưa nhận khoản trợ cấp nào, cho rằng BHXH tỉnh Hậu Giang không cộng

dồn thời gian ông tham gia BHXH từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 là không

đúng, ông đã tiến hành khiếu nại theo quy định.

Căn cứ vào tờ khai cấp sổ BHXH của ông Măng thì thời gian từ tháng

01/1990 đến tháng 9/1993 là do ông Măng tự ý xin nghỉ việc do hoàn cảnh gia đình

khó khăn. Căn cứ vào Thông tư số 41/2009/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2009 của

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Theo quy định tại tiểu mục c, mục 12, phần

II Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và tại tiểu mục c, mục 12,

phần II Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách

mạng lâm thời đã quy định thì thời gian ông Măng làm việc từ tháng 9/1976 đến

tháng 12/1989 không được tính là thời gian để hưởng BHXH. Đồng thời, BHXH

72

tỉnh Hậu Giang ban hành Công văn số 225/BHXH-CĐBHXH không chấp nhận

khiếu nại của ông là đúng quy định.

Tòa tuyên án:

- Về tố tụng: Ông Măng yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi hành chính của

BHXH tỉnh Hậu Giang về việc không tính thời gian từ tháng 9/1976 đến tháng

12/1989 để ông được hưởng BHXH là trái pháp luật. Đồng thời yêu cầu Tòa án

buộc BHXH tỉnh Hậu Giang có trách nhiệm bổ sung vào sổ BHXH thời gian ông đã

công tác từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 để ông được hưởng các chế độ BHXH

theo quy định. Căn cứ vào khoản 2, Điều 3; khoản 1, Điều 18; khoản 1, Điều 30

Luật Tố tụng Hành chính thì xác định đây là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.

Xác định người bị kiện: Theo yêu cầu khởi của ông Măng, sau khi xác định

đối tượng khởi kiện của vụ án. Căn cứ khoản 7, Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính;

Điều 2 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 Nghị quyết của Hội đồng

Thầm phán Tòa án tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng

Hành chính và các quy định pháp luật về BHXH xác định người bị kiện trong vụ án

là Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang.

Xác định thời hiệu khởi kiện: Ngày 25/4/2014 ông Măng có đơn khiếu nại

đến BHXH tỉnh Hậu Giang về việc không cho ông hưởng các chế độ BHXH trong

thời gian từ tháng 9/1976 đến tháng 12/19789. Đến ngày 20/5/2014 Giám đốc

BHXH tỉnh Hậu Giang ban hành Công văn số 255/BHXH-CĐBHXH trả lời khiếu

nại của ông Măng. Sau đó ông Măng tiếp tục khiếu nại, đến ngày 23/7/2014 BHXH

Việt Nam ban hành Công văn số 2692/BHXH-CSXH trả lời khiếu nại của ông

Măng. Do không đồng ý với hành vi hành chính của BHXH tỉnh Hậu Giang nên đến

ngày 13/11/2014 ông Măng nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Ngày 17/12/2014 Tòa án

tiến hành thụ lý vụ án. Căn cứ vào điểm a, khoản 2, Điều 104 Luật Tố tụng Hành

chính thì vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện là 01 năm.

- Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn Măng về việc cho

rằng hành vi hành chính của Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang không thực hiện việc

73

tính thời gian công tác của ông từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 để ông được

hưởng các chế độ BHXH theo quy định. Xét thấy, ông Măng có thời gian công tác

trong ngành giáo dục thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang từ tháng 9/1976 đến

tháng 12/1989. Từ tháng 01/1990 đến tháng 9/1993 ông Măng tự ý xin nghỉ việc vì

hoàn cảnh gia đình, đến tháng 01/1998 ông tiếp tục quay lại làm việc cho đến nay.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì yêu cầu của ông Măng là không có

căn cứ chấp nhận. Theo quy định tại điểm 18, khoản 9, Điều 1 Thông tư số

41/2009/TT-LĐTBXH ngày 30/12/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

quy định: “Việc tính thời công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng

BHXH được thực hiện theo hướng dẫn tại các văn bản quy định trước đây về thời

gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng BHXH của cán bộ, công

chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân”. Theo các văn bản trước

đây thì căn cứ vào tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của

Bộ Nội vụ và tại tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976

của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “ … những trường hợp

không do yêu cầu của tổ chức mà công nhân, viên chức tự ý xin thôi việc, quân

nhân xin giải ngũ vì hoàn cảnh riêng, sau được trở lại làm việc thì thời gian công tác

trước khi nghỉ việc hoặc giải ngũ không được tính là thời gian công tác liên tục mà

chỉ được tính là thời gian công tác nói chung (thời gian nghỉ việc không tính)…”.

Thời gian công tác nói chung được quy định tại mục 1, phần I Thông tư số

13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của

Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “để xét xem người công

nhân, viên chức đã lao động cho xã hội nhiều hay ít để được hưởng quyền nghỉ ngơi

khi tuổi già (chế độ hưu trí)”.

Như vậy, thời gian ông Măng làm việc từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989

chỉ được tính để xem xét cho hưởng chế độ hưu trí, không được tính là thời gian

công tác liên tục để được hưởng các chế độ BHXH theo quy định.

2. Vụ việc của bà Mai Thị Hằng, Cần Thơ

Người khởi kiên: Bà Mai Thị Hằng sinh năm 1958.

74

Địa chỉ: 53/13, Nguyễn Việt Dũng, KV3, phường An Thới, quận Bình Thủy,

thành phố Cần Thơ

Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Hoàng Vinh, sinh năm 1978.

Địa chỉ: 140B/19C1, Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận Ninh Kiều,

thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 23/11/2013, có mặt)

Người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Lê Hoàng

Nhí - Công ty TNHH MTV Lê Hoàng, thuộc Đoàn luật sư thành phố cần Thơ.

Người bị kiên: Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ

Địa chỉ: 138X/20 Nguyễn Văn Cừ, phường An Khánh, quận Ninh Kiều,

thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh Long, sinh năm 1958:

chức vụ: Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phổ Cần Thơ

Theo đơn khởi kiện ngày 28/10/2013 bà Mai Thị Hằng trình bày:

Bà không đồng ý với Công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc

Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của

bà. Yêu cầu tòa án hủy bỏ công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo

hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà

gồm thời gian công tác trong quân đội và thời gian công tác tại phường với chức

danh phó chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc phường An Thới, phó chủ tịch Hội liên

hiệp phụ nữ phường An Thới.

Ngày 10/10/2014 ông Phạm Hoàng Vinh (Đại diện ủy quyền của bà Hằng)

có đơn rút một phần nội dung khởi kiện về nội dung của công văn 541/BHXH ngày

01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian

đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng khi đang công tác trong quân đội, vẫn giữ yêu

cầu khởi kiện về thời gian giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc

phường An Thới, Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường An Thới. Căn cứ pháp

lý ông Vinh trình bày theo Khoản 2 Điều 1 Nghị định 29/2013/NĐ-CP ngày

8/4/2013, Điều 2 thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013, công văn số

1203/BHXH ngày 11/4/2014 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Nghị định 09/1998/NĐ-

CP ngày 23/01/1998.

75

Tại bản tự khai ngày 06/7/2015 ông Phạm Hoàng Vinh:

1/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ cộng nối thời gian bà Hằng giữ

chức danh Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường từ ngày 01/01/1986 đến

31/10/1988. Cộng nối thời gian giữ chức danh Phó Chủ tịch Uy ban mặt trận Tổ

quốc phường từ 01/01/1990 đến 31/01/2001.

2/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ chi trả và bồi thường các khoản:

+ Chi trả lương hưu hàng tháng kể từ ngày 01/9/2013.

+ Bồi thường tiền mua bảo hiểm y tế 02 năm 1.242.000 đồng.

+ Bồi thường lãi suất 2 năm trên số tiền 83.190.000 đồng (tạm tính đến tháng

9/2015) là 7.487.100 đồng.

Đại diện BHXH thành phố cần Thơ - Ông Nguyễn Thanh Long trình bày:

Thời gian công tác tại phường An Thới của bà Hằng:

+ Từ năm 1986 đến tháng 01/1990: Đảm nhiệm chức danh Phó Chủ tịch Hội

liên hiệp phụ nữ phường, trưởng khu vực 6 Chủ tịch Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.

+ Từ tháng 01/1990 đến tháng 12/2000: Đảm nhiệm các chức danh Phó chủ tịch

Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.

Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ đã căn cứ vào các quy định tại: Điều 16 nghị

định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ-

CP ngày 08/04/2013 sửa đổi, bổ sung nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009;

Điều 8 Thông tư số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010

hướng dẫn thực hiện nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định giải

quyết về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã có thời gian đảm nhiệm chức danh

theo nghị định 09/1998/NĐ-CP.

Đối chiếu các quy định trên, do trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm

nhiệm các chức danh được hưởng chế độ khi nghỉ việc theo Nghị định số

09/1998/NĐ-CP nên thời gian công tác trước ngày 01/01/1998 của bà Hằng không

được tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Cho nên trường hợp bà Hằng không

thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội và không được tính thời gian đóng bảo hiểm

76

xã hội, không thuộc đối tương điều chỉnh của Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày

8/4/2013, Thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2015/HCST ngày 24/9/2015 của Tòa

án nhân dân thành phố Cần Thơ, quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điểm c khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành

chính, khoản 2 điều 16 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; khoản 2 điều 1

Nghị định 29/2003/NĐ-CP ngày 08/4/2013; khoản 1,2,3,4,5,7 Điều 3 Nghị Định số

9/NĐ-CP ngày 23/01/1998 sửa đổi bổ sung NĐ số 50/CP ngày 26/7/1995; Thông tư

sổ 24/2013/TT- BLĐTBXH ngày 17/10/2013 của Bộ Lao động thương binh và xã

hội, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Bác yêu cầu của người khởi kiện - bà Mai Thị Hằng (có ông Phạm Hoàng

Vinh là người đại diện theo ủy quyền) về việc khiếu kiện yêu cầu hủy văn bản số

541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm TP. Cần Thơ về việc tính thời

gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng công tác tại phường từ tháng 01/1986 đến

31/01/2001.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo vụ án

theo luật định.

Ngày 01/10/2015 ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà

Mai Thị Hằng kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án

sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ

Chí Minh: Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy

định của pháp luật, cũng phân tích toàn bộ các chứng cứ có thể hiện trong hồ sơ vụ

án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 205 của Luật Tố tụng hành

chính, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là người đại

diện họp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của

Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án cũng như qua

77

thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận của các đương sự và

ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát. Đối chiếu với các quy định của pháp luật cho

thấy, do thời gian trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm nhiệm chức danh,

chức vụ được hưởng chế độ nghỉ việc theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP nên thời

gian công tác trước ngày 01/01/1998 cho đến tháng 12/2000 các chức danh, chức vụ

bà Hằng đảm nhiệm không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội, nên không được

tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Mặt khác, xét thấy trước ngày 01/01/1998 bà

Hằng vẫn công tác tại phường An Thới, không được điều động tuyển dụng vào quân

đội nhân dân, công an nhân dân hoặc làm việc trọng các cơ quan, đơn vị, doanh

nghiệp của nhà nước, Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội trước ngày

01/01/1998. Riêng việc bà Hằng công tác trong quân đội từ năm 1976 đến năm

1979, Bảo hiểm xã hội đã có xem xét cho bà Hằng và phía bà Hằng đã chấp nhận

không khiếu nại đối với mốc thời gian trong quân đội. Từ năm 1979 bà tự nghỉ việc

do có gia đình đến năm 1984 tiếp tục xin vào làm việc và giữ các chức danh, chức

vụ như đã nêu trên. Đối chiếu với quy định tại Điều 2 Thông tư số 24/2013/TT-

BLĐTBXH thì bà Hằng không hội đủ các điều kiện được tính thời gian đóng bảo

hiểm. Điều này cũng được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số

2652/LĐTBXH-BHXH ngày 25/7/2014 trả lời “Trường hợp bà Mai Thị Hằng

không thuộc diện áp dụng theo quy định tại Thông tư số 24/2013/TT-BLĐTBXH”.

Mặt khác, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị

Hằng cũng không có cung cấp hay bổ sung thêm tình tiết chứng cứ nào mới để làm

cơ sở cho việc yêu cầu kháng cáo của bà.

Do đó, Hội đồng xét xử xét đơn kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là

người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng là không có cơ sở để thực hiện theo

yêu cầu kháng cáo của bà. Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của vị đại

diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là

người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại

diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của

Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.

78

3. Vụ việc của ông Nguyễn Văn Lục và bà Đinh Thị Vịnh, Bắc Giang

- Ông Nguyễn Văn Lục: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo Quyết

định số 54 ngày 20/5/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Bắc Giang). Theo đó,

ông Lục sinh năm 1947, có thời gian công tác thực tế là 30 năm 03 tháng; thời gian

công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 32 năm 09 tháng.

Nhận lương hưu tại Hà Tĩnh và chuyển về Bắc Giang từ tháng 8/2011

- Đối với bà Định Thị Vịnh: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo

Quyết định số 02 ngày 20/11/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Hà Tĩnh). Theo

đó, bà Vinh sinh năm 1950, có thời gian công tác thực tế là 25 năm 7 tháng; thời

gian công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 26 năm 11 tháng.

Chuyển về Bắc Giang nhận lương hưu từ tháng 8/2011.

- Bà Đinh Thị Điển, có địa chỉ tại 118 ngõ Xã Đàn II, phường Nam Đồng,

Đống Đa, Hà Nội có đơn tố cáo về hành vi giả mạo hồ sơ của ông Lục, bà Vịnh để

hưởng chế độ hưu trí. Theo đó, thời gian công tác thực tế không đúng so với thời

gian ghi trong quyết định nghỉ hưu và sửa năm sinh (ông Lục sinh năm 1952, sửa

thành năm 1947; bà Vịnh sinh năm 1954, sửa thành năm 1952).

- Ngày 18/7/2015 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công

văn số 2109/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang, đề nghị tạm dừng chi trả lương hưu

đối với ông Lục, bà Vinh để phục vụ cho công tác điều tra.

- Ngày 01/4/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công

văn số 155/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang. Theo đó:

+ Ông Lục có tổng thời gian công tác kê khai 30 năm 03 tháng, trong đó có

10 năm 08 tháng làm tại Lâm trường Đô lương, Nghệ an là không đúng.

+ Bà Vịnh có tổng thời gian công tác kê khai 25 năm 07 tháng, trong đó có

07 năm 04 tháng tại Ngân hàng Ngoại Thương và 02 năm 07 tháng tại Công ty Cầu

đường Hà Bắc là không đúng.

+ Đề nghị BHXH tỉnh Bắc Giang hủy Quyết định chi trả lương hưu đối với

ông Lục, bà Vịnh; truy thu số tiền hưởng sai quy định; giải quyết chế độ theo thời

gian công tác thực tế theo quy định.

79

- Ngày 22/8/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số

3145/LĐTBXH-BHXH. Theo đó: BHXH tỉnh Bắc Giang có trách nhiệm thực hiện

theo đề nghị của Cơ quan điều tra; Việc giải quyết lại chế độ đối với ông Lục, bà

Vịnh thực hiện trên cơ sở thời gian công tác theo xác định của Cơ quan điều tra.

Vụ việc đang được Tòa án nhân dân tỉnh xét xử.

80