00050011090 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THIÊN LÝ
Xö Lý VI PH¹M PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THIÊN LÝ
Xö Lý VI PH¹M PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thiên Lý
LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi hệ
thống tri thức về Luật học nói chung cũng như kiến thức về chuyên ngành
Luật Kinh tế nói riêng.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Khoa Luật, Bộ môn Luật Kinh doanh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành được luận văn
đúng kế hoạch.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn
khoa học PGS.TS Nguyễn Hữu Chí đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Xử lý vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”.
Mặc dù tôi đã cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Kính mong
được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo và các bạn để bài luận văn được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Thiên Lý
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP
LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ VIỆC XỬ LÝ ............................... 9
1.1. Vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................................. 9
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .......... 9
1.1.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ........................ 12
1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ................................ 14
1.2. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội .................................. 16
1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ..................... 16
1.2.2. Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội ................................................................ 16
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 21
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN .................. 22
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong
lĩnh vực bảo hiểm xã hội ................................................................... 22
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội ........................................................... 22
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hình sự trong
lĩnh vực bảo hiểm xã hội ..................................................................... 24
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực
bảo hiểm xã hội .................................................................................. 32
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 42
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI ................................... 43
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội .......... 43
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh
vực bảo hiểm xã hội ........................................................................... 46
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội ......................................................................................... 50
3.3.1. Cải cách thủ tục hành chính trong công tác giải quyết chế độ bảo
hiểm xã hội .......................................................................................... 50
3.3.2. Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý nhằm hạn chế vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội .............................................................. 52
3.3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra ngành
Bảo hiểm xã hội .................................................................................. 53
3.3.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công khai thông tin
tình hình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội .......................................................................................... 55
3.3.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh lực bảo hiểm xã hội ........ 56
Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 63
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
VPHC: Vi phạm hành chính
VPPL: Vi phạm pháp luật
"tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương" gọi chung là: "tỉnh"
"quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh" gọi chung là: "huyện"
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang Tên bảng Số hiệu
Bảng 2.1 Kết quả xử lý vi phạm hành chính từ năm 2016 đến hết
năm 2019 24
Bảng 2.2 Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH (từ
năm 2016 đến hết năm 2019) 30
Bảng 2.3 Kết quả thực hiện công tác TTKT ngành BHXH từ năm
2016 đến hết năm 2019 31
Bảng 2.4 Số nợ bảo hiểm xã hội từ năm 2016 đến hết năm 2019 35
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo
hiểm thất nghiệp (BHTN) là những chính sách lớn, là trụ cột chính của hệ
thống bảo đảm an sinh xã hội của mỗi quốc gia, Việt Nam chúng ta cũng
không đứng ngoài xu thế chung đó của thế giới.
Chính sách BHXH, BHYT, BHTN đã được Đảng, Nhà nước ta coi
trọng và từng bước điều chỉnh để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và sự
phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, trong đó BHXH là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH; ngày 20/11/2014, tại
kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BHXH, theo đó việc tham
gia BHXH là quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động
“Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia BHXH bắt buộc,
BHYT bắt buộc, BHTN và được hưởng các chế độ theo quy định của pháp
luật về BHXH và pháp luật về BHYT” [16, Điều 186, khoản 1].
Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của hệ thống an sinh xã
hội quốc gia mà trong đó chính sách BHXH là một trong những trụ cột chính,
thì việc lợi dụng các kẽ hở hoặc cố tình vi phạm các quy định gây thiệt hại
cho hệ thống an sinh xã hội, cho Nhà nước và những người tham gia BHXH
đang ngày càng lan rộng và phức tạp. Tìm hiểu thực trạng các quy định về xử
lý vi phạm pháp luật (VPPL) về BHXH ở Việt Nam và bản chất, nguyên nhân
của tình trạng trên có ý nghĩa quan trọng để đưa ra các biện pháp đấu tranh
một cách có hiệu quả nhằm ổn định xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động.
1
Theo quy định của pháp luật, hiện có nhiều cơ quan được giao nhiệm
vụ giám sát việc thực thi chính sách pháp luật về BHXH (Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam), theo đó: Thanh tra
lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
về việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, Thanh tra tài chính thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính BHXH theo quy
định của pháp luật về thanh tra và cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT song chế tài xử lý, lực lượng
tham gia, phương thức tham gia, ... còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Để công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các hành vi VPPL
trong lĩnh vực BHXH, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động đòi
hỏi phải có công trình nghiên cứu một cách cơ bản, cụ thể cả về lý luận và thực
tiễn, cần đánh giá được tình hình VPPL và việc xử lý các hành vi VPPL trong
lĩnh vực BHXH trong thời gian qua; chỉ ra những mặt đạt được và những tồn
tại hạn chế để từ đó rút ra kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả công tác này. Đó cũng chính là lý do tác giả quyết định
lựa chọn Đề tài: "Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam".
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, xuất phát từ thực tế tình hình VPPL về
BHXH nên vấn đề xử lý VPPL về BHXH luôn được các ngành, các tổ chức,
cá nhân quan tâm, nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Trong số đó, đáng
chú ý một số công trình nghiên cứu như:
(1). Đề án “Xây dựng quy trình tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi
phạm pháp luật về BHXH, BHYT và BHTN" của tác giả Lê Quyết Thắng và
nhóm nghiên cứu (BHXH Việt Nam, năm 2009).
Trên cơ sở đánh giá thực trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHYT và
những phân tích về tình hình vi phạm, nguyên nhân vi phạm, cùng với việc
2
nghiên cứu các nội dung liên quan đến hồ sơ tham gia tố tụng và chế tài xử
phạt VPPL về BHXH, BHYT và BHTN ở Việt Nam, đề án của tác giả Lê
Quyết Thắng và nhóm nghiên cứu đã góp phần nâng cao nhận thức cho các
cán bộ ngành BHXH trong công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các
hành vi vi phạm về BHXH, BHTN, BHYT, đóng góp tích cực trong việc kiến
nghị sửa đổi Nghị định số 135/2007/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
chính (VPHC) trong lĩnh vực BHXH và kiến nghị cần phải tội phạm hóa một
số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH nhằm tạo ra sự đồng bộ của hệ thống
pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực BHXH, qua
đó góp phần bảo đảm quyền và lợi chính đáng của người lao động.
(2). Luận án tiến sĩ luật học năm 2012 “Tội phạm trong lĩnh vực BHXH
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Anh Thơ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về tội phạm trong lĩnh vực
BHXH, một lĩnh vực chuyên ngành hẹp nhưng lại có liên quan đến nhiều
ngành, lĩnh vực và có tác động không nhỏ tới đời sống chính trị - xã hội của
đất nước. Mục đích mà luận án hướng tới là xây dựng cơ sở khoa học cũng
như thực tiễn cho các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về
nhóm tội phạm trong lĩnh vực BHXH. Để đạt được mục đích này luận án đã
nghiên cứu một cách toàn diện lý luận về tội phạm và VPPL trong lĩnh vực
BHXH; nghiên cứu thực tiễn lập pháp và thực tiễn áp dụng các quy định về
tội phạm trong lĩnh vực BHXH của Việt Nam và một số nước trên thế giới,
trên cơ sở đó kiến nghị hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng như hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật hành chính về vi phạm trong lĩnh vực BHXH để đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống pháp luật.
3
Luận án cũng là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam đề xuất mô
hình tổng thể bổ sung quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH với các
phương án khác nhau - phương án mở rộng nguồn trực tiếp của pháp luật hình
sự cũng như mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm và phương án giữ nguyên
như quy định hiện nay. Trong đó, luận án không chỉ xác định các tội danh
thuộc lĩnh vực BHXH mà còn mô tả các dấu hiệu pháp lý của các tội danh này.
Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất hoàn thiện một số quy định của pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính có liên quan nhằm tạo ra sự đồng bộ của hệ thống
pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực BHXH.
(3). Đề tài "Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT" của tác giả Mai Xuân Nam và
nhóm nghiên cứu (BHXH Việt Nam, năm 2016).
Trên cơ sở nghiên cứu Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Thanh tra và
những quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành; đề tài đã đi sâu phân
tích, đánh giá thực trạng công tác thanh tra chuyên ngành, phối hợp thanh
tra chuyên ngành tại các đơn vị sử dụng lao động về đóng BHXH, BHTN
và BHYT, từ đó đề xuất được những giải pháp chủ yếu về rà soát, hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra chuyên ngành và
xử lý vi phạm trong lĩnh vực đóng BHXH, BHTN, BHYT, nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thanh tra - kiểm tra của tổ
chức BHXH, ... để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về
đóng của cơ quan BHXH được thực hiện hiệu quả hơn, trong đó việc hoàn
thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên
ngành không chỉ đơn thuần dừng lại trong phạm vi các chế định của pháp
luật về thanh tra mà còn liên quan đến pháp luật chuyên ngành và pháp
luật về xử lý VPHC.
4
(4). Bài viết "Xử lý VPPL BHXH, BHYT: Cần chế tài mạnh" của tác giả
Hùng Anh được đăng tại http://tapchitaichinh.vn ngày 11/02/2019.
Trong bài viết, tác giả đã nêu ra nhiều hành vi sai phạm về pháp luật
BHXH, BHYT: Lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH, BHYT,
BHTN nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian tham gia, lao động
tham gia thiếu mức quy định hay tình trạng các đơn vị sử dụng lao động nợ
đọng, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT; qua đó khẳng định cần chế tài mạnh
xử lý VPPL BHXH, BHYT "Theo các chuyên gia, cần có chế tài mạnh xử lý
nghiêm tình trạng VPPL về BHXH, BHYT cùng với đó có kế hoạch phối hợp
thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện, xử lý nghiêm các đơn vị, doanh nghiệp
VPPL về BHXH, BHYT".
(5). Bài viết "Xử lý VPPL về BHXH, BHYT, BHTN" của tác giả Thủy Hà
được đăng tại tapchibaohiemxahoi.gov.vn ngày 12/10/2018.
Bài viết đề cập tới một số nội dung được nêu tại Hội thảo khoa học
"Các giải pháp triển khai thực hiện Bộ luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh
vực BHXH, BHYT, BHTN" với sự tham gia của Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng cục Thuế, Cục Cảnh sát
kinh tế, BHXH Việt Nam ... và một số đơn vị có liên quan.
Qua việc thẳng thắn trao đổi, phối hợp nghiên cứu xây dựng văn bản
hướng dẫn về hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển hồ sơ vi phạm có dấu hiệu tội
phạm về BHXH, BHYT sang cơ quan điều tra của các thành viên tại Hội thảo
đã góp phần đẩy nhanh quá trình ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng 1 số điều trong Bộ luật
Hình sự hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận BHXH, BHTN, Điều
215 về tội gian lận BHYT và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH, BHTN,
BHYT cho người lao động của Bộ luật Hình sự) [10].
5
(6). Bài viết "Xử lý vi phạm qua thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm" của tác giả
Ths. Nguyễn Thị Hồng Thắm được đăng tại http:// http://thanhtravietnam.vn/nghien-
cuu-trao-doi/xu-ly-vi-pham-qua-thanh-tra-trong-linh-vuc-bao-hiem-187979
ngày 02/10/2019
Bài viết đã phân tích thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm
qua thanh tra; những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định
về xử lý vi phạm qua thanh tra, từ đó đưa ra các giải pháp: Nâng cao nhận
thức về thanh tra thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; hoàn thiện thể
chế về thanh tra thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, tổng kết kinh nghiệm và nâng cao chất
lượng kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra. Những giải pháp này đã góp
phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm qua thanh tra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng tình hình vi phạm và xử lý VPPL trong lĩnh vực
BHXH ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
xử lý các hành vi VPPL về BHXH trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định về VPPL và chế tài xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở
Việt Nam.
- Tình hình vi phạm và thực trạng xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam.
6
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thanh tra,
kiểm tra về BHXH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực trạng việc xử lý VPHC và xử
lý hình sự trong việc thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam của cơ quan
BHXH trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp thu thập tài liệu: Tác giả đã thu thập tài liệu thông qua
các nguồn bên trong và bên ngoài ngành BHXH nhằm đưa ra những thông tin,
tài liệu và quan điểm, định hướng đầy đủ, chính xác nhất.
- Phương pháp thống kê phân tích: Số liệu được thông qua điều tra xã
hội học được thống kê, phân tích để tính các chỉ số, thống kê theo thời gian để
thấy đặc điểm biến động của vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: Qua số liệu thu thập được và các chỉ số phân
tích, so sánh kết quả đạt được giữa các năm của đối tượng nghiên cứu, giữa
đối tượng nghiên cứu và đối tượng khác.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn sâu, phỏng vấn trực tiếp một số
cán bộ Lãnh đạo và các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra
của BHXH Việt Nam về tình hình vi phạm và các biện pháp xử lý vi phạm
pháp luật về BHXH ở Việt Nam.
6. Đóng góp mới của đề tài
Vấn đề xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH đã có các công trình, bài
báo nghiên cứu ở mức độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu hoặc do đã thực hiện cách đây quá lâu, không còn phù hợp với
7
quy định pháp luật hiện hành hoặc mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy
định của pháp luật, ở góc độ lý luận mà chưa gắn với thực tiễn để đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa xác thực hơn.
Trong phạm vi luận văn, tác giả đi sâu phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành về xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, phân tích và đánh giá
tình hình vi phạm, công tác xử lý vi phạm và những tồn tại, hạn chế, vướng
mắc để từ đó đưa ra những đề xuất phù hợp.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra định hướng và một số
giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh
vực BHXH, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện và xử lý các hành vi VPPL
về BHXH, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội
và việc xử lý.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm bảo hiểm xã hội và
thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ VIỆC XỬ LÝ
1.1. Vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
VPPL là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong các sách, báo, tài
liệu pháp lý ở nước ta. Khái niệm VPPL được nhiều công trình của giới
nghiên cứu khoa học pháp lý nước ta tìm hiểu, giải mã.
Theo Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Bộ Công an năm
2010 định nghĩa: "Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành
động) trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ" [26, tr.157]. Có bốn
loại VPPL: Vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm
pháp luật hành chính và vi phạm kỷ luật Nhà nước; tương ứng với mỗi loại vi
phạm là một hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể.
Theo đó: VPPL trong lĩnh vực BHXH là hành vi trái pháp luật, có lỗi
của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức BHXH hoặc cá nhân, tổ
chức liên quan khác có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm hại đến quan hệ BHXH được pháp luật bảo vệ.
VPPL nói chung và VPPL trong lĩnh vực BHXH nói riêng là một loại sự
kiện pháp lý đặc biệt. Tìm hiểu bản chất, nguyên nhân của tình trạng VPPL có ý
nghĩa quan trọng để đưa ra các biện pháp đấu tranh với chúng một cách có hiệu
quả nhằm lập lại trật tự và ổn định xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người dân.
VPPL về BHXH có những đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội
VPPL trước hết phải là hành vi của con người hoặc hoạt động của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ... (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm
9
hoặc có khả năng nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định một VPPL thì hành vi
nguy hiểm cho xã hội là không thể thiếu. Không có hành vi nguy hiểm của
con người thì không thể có VPPL. Hành vi đó có thể thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật không điều
chỉnh những suy nghĩ tình cảm hay những đặc tính cá nhân khác của con
người cho dù nó có nguy hiểm cho xã hội hay không.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH
thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ BHXH qua
vi phạm các nghĩa vụ phát sinh do luật định liên quan đến quan hệ đóng,
hưởng và quản lý hoạt động BHXH, ... Mức độ gây thiệt hại cho quan hệ
BHXH của các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH phụ thuộc chủ yếu vào
các nhóm yếu tố sau: Mức độ thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quỹ
BHXH được tính thành tiền và mức độ thiệt hại được xác định bằng số lượng
hồ sơ sai phạm, số lượng người lao động bị thiệt hại do hành vi vi phạm,
khoảng thời gian mà hành vi vi phạm diễn ra, ...
Thứ hai: Trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật
xác lập và bảo vệ.
VPPL không những phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà hành vi
đó còn phải trái pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật
xác lập và bảo vệ. Do vậy, những hành vi trái với các quy định của các tổ
chức xã hội, trái với tập quán, đạo đức và các tín điều tôn giáo nhưng không
trái các quy định pháp luật thì không bị xem là VPPL. Tính trái pháp luật
cũng là một đặc tính không thể thiếu của hành vi VPPL.
Hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT có thể
được thể hiện dưới các hình thức: Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp
luật đóng BHXH, BHTN, BHYT cấm (ví dụ: Cố ý báo cáo sai sự thật, cung
cấp sai lệch thông tin, số người thuộc diện tham gia BHXH, BHTN, BHYT);
10
chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện
(ví dụ: không tham gia BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động theo quy
định) hoặc chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép, ... Tính trái
pháp luật hình sự được hiểu là một dấu hiệu mà trong đó có nội dung chính
được quy định trong luật hình sự; theo đó, tội phạm trong lĩnh vực BHXH chỉ
có thể là các hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại đáng kể cho quan hệ BHXH đã được quy định trong Luật Hình sự.
Thứ ba: Có lỗi của chủ thể
Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là dấu hiệu bên ngoài của hành vi VPPL. Để
xác định VPPL cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi mà ở đây mặt chủ
quan là yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện
thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật.
Cũng như mọi hành vi VPPL nói chung, hành vi VPPL trong lĩnh vực
BHXH cũng đòi hỏi phải có dấu hiệu có lỗi. Lỗi của hành vi vi phạm trong
lĩnh vực BHXH là sự phủ định chủ quan các đòi hỏi về nghĩa vụ của pháp luật
BHXH được đặt ra cho các bên tham gia quan hệ BHXH, đó có thể là lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý.
Thứ tư: Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý
của chủ thể do nhà nước quy định. Thông thường nhà nước chỉ quy định những
người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mới phải chịu trách nhiệm
đối với hành vi của mình. Đối với những người do mất năng lực nhận thức
hoặc khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện
hành vi thì họ cũng không có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định pháp
luật. Theo đó, chủ thể thực hiện các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH có thể
là người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức BHXH hoặc cá nhân, tổ
chức liên quan khác có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện hành vi.
11
1.1.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Cấu thành VPPL là những dấu hiệu đặc trưng của một VPPL cụ thể.
Trong phạm vi Luận văn, tác giả đi sâu phân tích khách thể, mặt khách quan,
chủ thể và mặt chủ quan của vi phạm trong lĩnh vực BHXH.
Thứ nhất: Khách thể của VPPL là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới.
Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHXH được pháp luật bảo vệ và trở
thành khách thể, đó là quan hệ giữa các chủ thể: Nhà nước, cơ quan BHXH,
người sử dụng lao động và người lao động, ... Quan hệ này được hình thành,
duy trì và phát triển là nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi trực tiếp cho người
lao động, qua đó đảm bảo cho sự ổn định của xã hội.
Quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHXH chỉ có thể duy trì và phát triển
để thực hiện chức năng xã hội tốt đẹp đó khi các chủ thể thực hiện đúng
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, tuy nhiên xuất phát từ chính nghĩa vụ và
quyền lợi của các bên trong quan hệ BHXH đã dẫn tới nguy cơ các chủ thể
không tuân thủ nghĩa vụ ở những mức độ khác nhau. Chính bởi tầm quan
trọng của vấn đề an sinh xã hội đối với sự ổn định xã hội và phát triển của
nền kinh tế xã hội mà các quan hệ trong lĩnh vực BHXH đã được coi là
khách thể bảo vệ của pháp luật.
Thứ hai: Mặt khách quan của VPPL là những dấu hiệu biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan của VPPL. Yếu tố mặt khách quan của vi
phạm trong lĩnh vực BHXH gồm trước hết là hành vi khách quan, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, bên cạnh đó còn có thể là thủ đoạn vi phạm,
thời gian vi phạm...
Hành vi khách quan của vi phạm trong lĩnh vực BHXH tuy đa dạng
nhưng có cùng tính chất là vi phạm nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực
12
hiện các quy định của pháp luật về BHXH, đó có thể là không làm, làm không
đúng yêu cầu của pháp luật BHXH hoặc làm những việc mà pháp luật BHXH
không cho phép.
Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả của vi phạm trong lĩnh vực
BHXH trước hết là thiệt hại về vật chất gây ra cho quỹ BHXH. Thiệt hại này
được thể hiện dưới dạng bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc
không thu đủ) hay bị thất thoát. Vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn có thể gây
ra thiệt hại cho người lao động, đó là thiệt hại đe dọa gây ra đối với lợi ích
trước mắt (các quyền được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp, chế độ BHYT, BHTN) và những quyền lợi lâu dài mà
người lao động được hưởng khi hết tuổi lao động (quyền được hưởng lương
hưu và chế độ tử tuất).
Thứ ba: Chủ thể của VPPL là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật.
Trong lĩnh vực BHXH, chủ thể VPPL là cá nhân thường là người thuộc
đối tượng tham gia BHXH, riêng về chủ thể tham gia BHXH bắt buộc được
quy định là: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể
cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại
diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao
động; Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng; Cán bộ, công chức, viên chức; .... và người tham gia BHXH tự
nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc.
Ngoài ra còn có chủ thể đặc biệt của vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn
có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong hệ thống BHXH (có
13
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản hoặc làm trái quy định
trong khi thực hiện hoạt động BHXH).
Thứ tư: Mặt chủ quan của VPPL là trạng thái tâm lý bên trong của chủ
thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ,
mục đích VPPL.
Dấu hiệu lỗi ở vi phạm trong lĩnh vực BHXH cũng bao gồm 2 hình
thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Tuy nhiên, trong khi lỗi của chủ thể ở nhóm
hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH được giới hạn chỉ là lỗi cố ý thì ở
nhóm hành vi vi phạm liên quan đến quản lý và thực hiện hoạt động BHXH,
lỗi của chủ thể có thể là cố ý và cũng có thể là lỗi vô ý (trong các trường hợp
hành vi khách quan thể hiện sự thiếu trách nhiệm của những người có chức
vụ, quyền hạn). Mục đích vi phạm của nhiều vi phạm thuộc nhóm này là mục
đích tư lợi, trước hết là ở nhóm hành vi vi phạm quyền thụ hưởng BHXH
cũng như ở một số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, xuất phát từ động
cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, trong đó có thể có động cơ có tính “tập
thể” như để tăng nguồn vốn của đơn vị hoặc tăng thu nhập một cách không
chính đáng cho thành viên trong đơn vị…
1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm
pháp luật, vi phạm pháp luật về BHXH được chia thành các loại sau:
1.1.3.1. Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm)
Trong những năm gần đây, vi phạm pháp luật về BHXH có chiều
hướng gia tăng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, điển hình là
tình trạng chậm đóng, nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người
lao động tiếp tục xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước. Nghiêm trọng
hơn có nhiều đơn vị nợ BHXH trong thời gian dài hoặc cá biệt có đơn vị
chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động dẫn đến ảnh hưởng quyền
lợi của hàng trăm nghìn người lao động trong việc hưởng các chế độ BHXH.
14
Mặc dù đã có quy định trong Luật BHXH cho phép truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, tuy nhiên, do Bộ
luật Hình sự năm 1999 không quy định tội danh cụ thể đối với những hành vi
bị coi là tội phạm về BHXH nên thực tế không xử lý được. Chính vì vậy, Bộ
luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm 03 tội danh liên quan đến lĩnh vực
này, đó là tội gian lận BHXH, BHTN; tội gian lận BHYT và tội trốn đóng
BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động [19, Điều 214 - 216].
1.1.3.2. Vi phạm pháp luật hành chính
Hoạt động thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm là hoạt động thanh tra
chuyên ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy
định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực BHXH.
Việc xử lý hành chính được áp dụng đối với các hành vi vi phạm chưa
đến mức độ nghiêm trọng. Đối với chủ thể vi phạm là cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan không phải là cán bộ, công chức thì sẽ bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại
điều phải bồi thường theo quy định. Do vậy, qua công tác thanh tra khi phát
hiện hành vi vi phạm không có dấu hiệu tội phạm thì sẽ xử lý về hành chính
đối với hành vi vi phạm đó, ngoài ra có thể kiến nghị xử lý về kinh tế và kiến
nghị xử lý về trách nhiệm, áp dụng các biện pháp quy định tại Luật Xử lý vi
phạm hành chính [15, Điều 46].
1.1.3.3. Vi phạm kỷ luật Nhà nước
Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lí áp dụng đối với cán bộ,
công chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong
hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Thông qua hoạt động thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm, thanh tra tài
chính hoặc thanh tra chuyên ngành có liên quan, nếu chủ thể vi phạm là cán
15
bộ, công chức, viên chức thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ công chức
[12, Điều 78-79], Luật Viên chức [14, Điều 52] nếu gây thiệt hại phải thực
hiện việc bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước [20] và
các văn bản hướng dẫn.
1.1.3.4. Vi phạm dân sự
Việc khởi kiện ra Tòa các đơn vị vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
BHXH còn ít so với các đơn vị vi phạm, bên cạnh đó việc tổ chức thi hành
án chưa hiệu quả. Thực tế trong các vụ kiện đòi nợ của BHXH Việt Nam,
mặc dù các đơn vị đều thừa nhận nợ nhưng việc thu hồi tiền nợ còn gặp
nhiều khó khăn.
Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, tổ
chức công đoàn được trao quyền khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động, tập thể người lao động. Tuy nhiên, việc khởi kiện của tổ chức
công đoàn gặp nhiều khó khăn, không phát huy được hiệu quả như mong đợi
do quy định về việc ủy quyền của người lao động, quyền khởi kiện của các tổ
chức Công đoàn còn nhiều bất cập.
1.2. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
Xử lý VPPL là việc xem xét, quyết định áp dụng các hình thức trách
nhiệm pháp lí đối với các cá nhân, tổ chức VPPL.
Theo đó, xử lý VPPL về BHXH là việc các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét, quyết định áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với
các cá nhân, tổ chức VPPL về BHXH.
1.2.2. Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội
Các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các VPPL về BHXH
16
được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015; Luật Xử lý VPHC và Nghị định số
28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC
trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng; Luật Cán bộ công chức, ...
Khi phát hiện hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà đối tượng vi phạm có thể bị xử phạt VPHC, xử lý kỷ luật
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất: Trách nhiệm hành chính
Các hình thức xử phạt VPHC trong lĩnh vực BHXH bao gồm: Phạt
cảnh cáo và phạt tiền, trong đó: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ
chức VPHC không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị
áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện; cảnh cáo được quyết
định bằng văn bản [15, Điều 22]. Đối với hình thức phạt tiền, mức phạt tiền
tối đa trong lĩnh vực BHXH, BHYT là 75 triệu đồng đối với cá nhân, mức
phạt tối đa đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt đối với cá nhân [15, Điều 24,
Khoản 1, điểm d và khoản 2]. Hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử
phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh
vực BHXH được quy định tại văn bản có liên quan [6, Điều 38 - 40].
Thứ hai: Trách nhiệm hình sự
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi hành vi vi phạm có
mức độ nghiêm trọng, vi phạm có dấu hiệu tội phạm tức là có đủ các yếu tố
cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Các vi phạm về BHXH đã được đề cập trong Bộ Luật Hình sự năm
2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Lần đầu tiên nhóm tội danh về
các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT đã được đưa vào
17
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự với 03 điều luật, trong đó có 02 điều về các
hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH: Điều 214: Tội gian lận BHXH, BHTN
và Điều 216: Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động; các
tội danh này thuộc Mục B “Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm” của Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế.
Có thể thấy, tội phạm trong lĩnh vực BHXH xét về bản chất pháp lý
cũng là loại VPPL về BHXH (trực tiếp hoặc gián tiếp). Do vậy, giữa tội phạm
và VPHC trong lĩnh vực BHXH có những điểm giống nhau cơ bản:
- Cùng xâm hại quan hệ BHXH, nghĩa là cùng xâm hại đến quan hệ
giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong việc hình
thành quỹ tài chính để đảm bảo bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập cho
người lao động trong các trường hợp bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau,
thai sản, người lao động - BNN, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp… và cung cấp
các dịch vụ chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động;
- Đều gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại) về vật chất cho Nhà nước
hoặc có thể cho cá nhân người lao động;
- Cùng có hành vi khách quan cũng như lỗi của chủ thể tương tự nhau
vì tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT thực chất là các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực này nhưng có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội đòi hỏi
phải bị xử lý bằng chế tài hình sự;
- Cùng vi phạm trực tiếp hoặc gián tiếp các quy định của pháp luật về
BHXH. Các quy định này chủ yếu bao gồm các quy định về đóng và hưởng
các chế độ BHXH.
Tội phạm và VPHC trong lĩnh vực BHXH về cơ bản được phân biệt
với nhau ở mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, từ đó
dẫn tới sự khác nhau thứ hai về hậu quả pháp lý mà chủ thể thực hiện phải
gánh chịu, cụ thể:
18
- Về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội: Tội phạm trong lĩnh vực
BHXH là những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể, đòi
hỏi phải bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là
hình phạt. Đó là mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho Nhà nước
hoặc người lao động, là mức độ lỗi của người có hành vi VPPL BHXH, là
tình hình thực thi pháp luật BHXH đặt trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế -
xã hội cụ thể. Việc xác định ranh giới giữa tội phạm trong lĩnh vực BHXH và
VPHC trong lĩnh vực này có thể căn cứ vào: Mức độ thiệt hại về vật chất mà
hành vi đã gây ra cho quỹ BHXH hoặc cho người lao động; Quy mô và mức
độ vi phạm; Tính chất “lặp lại” của hành vi vi phạm.
- Về hậu quả pháp lý: Nếu như VPPL chỉ bị xử lý bằng các biện pháp
cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn như biện pháp hành chính (Phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền), biện pháp kỷ luật hay biện pháp bồi thường thiệt hại thì tội phạm
trong lĩnh vực BHXH cũng như các tội phạm nói chung bị xử lý bằng hình
thức nghiêm khắc nhất là hình phạt với loại và mức khác nhau, tương xứng
với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi được quy định trong Bộ luật
Hình sự. Đồng thời, người phạm tội còn phải mang án tích trong một thời hạn
nhất định theo quy định của pháp luật.
Ngoài hai sự khác biệt nêu trên, tội phạm và VPHC trong lĩnh vực
BHXH còn khác nhau ở hình thức phản ánh, đây là dấu hiệu có ý nghĩa quan
trọng đối với người áp dụng pháp luật. Nếu như các hành vi bị coi là tội phạm
được quy định trong Bộ luật Hình sự thì việc xử lý VPHC căn cứ vào các quy
định tại Luật Xử lý VPHC và Nghị định có liên quan (Nghị định số 95/2013/NĐ-
CP; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP, ...).
Thứ ba: Trách nhiệm kỷ luật
Trong trường hợp chủ thể vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức thì
sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ công chức, Luật viên chức và các văn bản
19
có liên quan, nếu gây thiệt hại phải thực hiện việc bồi thường theo Luật Trách
nhiệm bồi thường của nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư: Trách nhiệm dân sự
Theo quy định hiện hành, tổ chức công đoàn có quyền: “Khởi kiện ra Tòa
án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, tập thể người lao động theo quy
định tại khoản 8 Điều 10 của Luật công đoàn” [18, Điều 14, khoản 1, điểm d].
“Người lao động có quyền khởi kiện về BHXH theo quy định của pháp luật”
[18, Điều 18, khoản 8]. Người sử dụng lao động có quyền khởi kiện về
BHXH theo quy định của pháp luật [18, Điều 20, khoản 2].
Có thể thấy, các VPPL về BHXH là vô cùng phức tạp, theo đó các hình
thức xử lý VPPL về BHXH cũng rất đa dạng, tuy nhiên, như ở phạm vi nghiên
cứu của Luận văn đã đề cập, trong khuôn khổ có hạn của một Luận văn thạc sỹ,
tác giả tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật và thực trạng
việc xử lý VPHC và xử lý hình sự trong việc thực hiện chính sách BHXH ở
Việt Nam của cơ quan BHXH trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019 với
đối tượng vi phạm là người lao động và người sử dụng lao động.
20
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1 tác giả đã đi sâu nghiên cứu lý luận về VPPL và xử lý
VPPL về BHXH ở Việt Nam thông qua việc nghiên cứu khái niệm, đặc trưng,
cấu thành, phân loại VPPL và khái niệm, các hình thức truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với các VPPL về BHXH.
Việc xử lý các hành vi VPPL về BHXH đang đặt ra những yêu cầu cấp
bách trong tình hình hiện nay khi không ít doanh nghiệp, người sử dụng lao
động còn thiếu hiểu biết pháp luật về BHXH hoặc cố tình trốn đóng, chậm
đóng, VPPL về BHXH làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động. Ngày 22/11/2012 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 21-
NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH,
BHYT giai đoạn 2012-2020”, qua đó thấy được vai trò của BHXH, BHYT
trong chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, những định hướng
phát triển ngành BHXH, BHYT và các biện pháp nhằm thực hiện việc các chế
độ chính sách đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia BHXH.
Việc phân tích lý luận về VPPL và xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam
ở Chương 1 làm cơ sở để tác giả nghiên cứu thực trạng tình hình vi phạm và
xử lý VPPL về BHXH ở Việt Nam ở Chương 2.
21
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh
vực bảo hiểm xã hội
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Giai đoạn trước ngày 01/01/2016 (trước khi ngành BHXH được giao
chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT), để khắc
phục tình trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, ngành BHXH đã áp dụng các
giải pháp như: kiểm tra, kiến nghị xử lý vi phạm; phối hợp thực hiện thanh
tra; cử cán bộ chuyên quản theo dõi, đôn đốc việc đóng và trả nợ tiền BHXH
của các đơn vị sử dụng lao động; thành lập các Tổ thu nợ liên ngành; yêu cầu
BHXH các tỉnh, thành phố tăng cường công tác kiểm tra và thông tin, báo cáo
kịp thời tình hình VPPL về BHXH của các đơn vị trên địa bàn để có hướng
chỉ đạo giải quyết, xử lý kịp thời; công khai thông tin về các đơn vị trốn đóng,
nợ tiền đóng BHXH, BHYT số lượng lớn, kéo dài trên các phương tiện thông
tin đại chúng...
Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam giai đoạn này chỉ
dừng lại ở việc phát hiện, đề nghị, kiến nghị xử lý, không có thẩm quyền xử
phạt nên hiệu quả chưa cao. Mặt khác, sau khi phối hợp thực hiện thanh tra và
có quyết định xử phạt VPHC thì việc phối hợp với các cơ quan nhà nước để
theo dõi, đôn đốc thực hiện chưa được quan tâm và rất khó để cưỡng chế các
đơn vị bị xử phạt thi hành quyết định xử phạt VPHC theo quy định.
Ngày 20/11/2014, Quốc hội thông qua Luật số 58/2014/QH13 về BHXH
(Luật BHXH năm 2014), có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 đã trao cho cơ quan
22
BHXH thêm công cụ hữu hiệu để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về đóng
BHXH là chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, theo đó cơ quan
BHXH có thẩm quyền xử phạt VPHC đối với các hành vi vi phạm. Cũng từ
đó, công tác thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH tiếp tục được đẩy mạnh
theo hướng tăng cường thanh tra, kiểm tra phối hợp giữa các đơn vị thuộc
BHXH Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan, cụ thể: Phối hợp với thanh tra
ngành Lao động, các bộ, ngành liên quan thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về BHXH tại nhiều đơn vị, doanh nghiệp, đặc biệt các đơn vị nợ
đọng BHXH và xử lý hành chính các hành vi vi phạm theo quy định.
Đối với ngành BHXH, thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực
BHXH, BHTN, BHYT được quy định cho Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
[7, Điều 6, khoản 5], Giám đốc BHXH cấp tỉnh [7, Điều 8, khoản 5], Trưởng
đoàn thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT do Tổng Giám
đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập [7, Điều 11, khoản 3], cụ thể:
- Thẩm quyền của Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố: Phạt tiền đến 50%
mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng, theo đó mức phạt tối đa đối
với cá nhân là 37,5 triệu đồng, đối với tổ chức là 75 triệu đồng
- Thẩm quyền của Trưởng đoàn thanh tra do Tổng Giám đốc quyết định
thành lập: Phạt tiền đến 70% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng,
theo đó mức phạt tối đa đối với cá nhân là 52,5 triệu đồng, đối với tổ chức là
105 triệu đồng;
- Thẩm quyền của Tổng Giám đốc: Phạt tiền đến mức tối đa đối với
lĩnh vực tương ứng, theo đó mức phạt tối đa đối với cá nhân là 75 triệu đồng,
đối với tổ chức là 150 triệu đồng.
Theo đó, từ năm 2016-2019 qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành
BHXH đã ban hành 2.311 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền
90.402 triệu đồng. Cụ thể:
23
Đơn vị tính: triệu đồng
Bảng 2.1: Kết quả xử lý vi phạm hành chính từ năm 2016 đến hết năm 2019
Năm
Năm
Năm
Năm
Tổng
STT
Chỉ tiêu
2016
2017
2018
2019
cộng
1
Số Quyết định xử phạt VPHC
104
264
1.051
892
2.311
2
Số tiền xử phạt VPHC
2.174
7.899 37.323 43.006 90.402
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hình sự
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi mức độ hành vi vi
phạm có mức độ nghiêm trọng, vi phạm có dấu hiệu tội phạm tức là có đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Qua thanh tra
nếu phát hiện các vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan BHXH phải
chuyển Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát làm rõ những vi phạm có dấu hiệu tội
phạm để xử lý theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã
bổ sung quy định xử lý hình sự đối với các hành vi VPPL về BHXH, BHYT,
BHTN, BHTN tại các điều: Điều 214 (Tội gian lận BHXH, BHTN), Điều 215
(Tội gian lận BHYT); Điều 216 (Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người
lao động). Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng và mạnh mẽ để xử lý nghiêm khắc
hơn đối với hành vi vi phạm các chính sách BHXH, BHYT, BHTN đang gây
bức xúc cho xã hội, đặc biệt là đối với công nhân lao động. Mục đích truy cứu
trách nhiệm hình sự loại hành vi phạm tội này cũng nhằm trước hết là bảo vệ
quỹ BHXH, BHYT, BHTN bảo vệ quyền lợi của người lao động. Do vậy,
việc truy cứu trách nhiệm hình sự vừa phải bảo đảm thu hồi được tiền đóng
BHXH, BHYT, BHTN và vừa tạo điều kiện cho bên có nghĩa vụ đóng BHXH,
BHYT, BHTN tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, số vụ việc được xử
lý theo các điều luật mới này còn quá ít và chưa kịp thời.
24
Trong 5 năm (2012 - 2017), lực lượng Cảnh sát kinh tế cả nước đã phát
hiện, điều tra, xử lý 70 vụ việc vi phạm liên quan đến lĩnh vực BHXH,
BHYT; khởi tố điều tra 46 vụ với gần 130 đối tượng, trong đó có nhiều vụ
việc liên quan tới trục lợi Quỹ BHYT [1]. Trong 8 tháng đầu năm 2018 đã có
12 BHXH tỉnh, thành phố chuyển sang cơ quan điều tra đề nghị xử lý hình sự
các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN với tổng số 40 hồ sơ.
Trong đó: 15 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 214, 01 hồ sơ đề nghị xử lý theo
Điều 215 và 24 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 216 [4], cụ thể:
- Kết quả xử lý của cơ quan điều tra:
+ 02 vụ việc đã bị khởi tố nhưng theo tội danh khác: “Giả mạo trong
công tác” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” (Hưng Yên).
+ 01 vụ việc chuyển sang xử lý vi phạm hành chính do cơ quan điều tra
xác định chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm (Quảng Bình).
+ 10 vụ việc cơ quan điều tra không thụ lý với lý do hành vi vi phạm xảy
ra trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực (ngày 01/01/2018)
(Đồng Nai, Đồng Tháp).
+ 01 trường hợp công ty đã tự nguyện trả hết nợ sau khi cơ quan
BHXH chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra (Hà Tĩnh)
+ Các trường hợp còn lại cơ quan điều tra đang xem xét, nghiên cứu hồ sơ.
Hồ sơ chuyển cơ quan điều tra chủ yếu là các tài liệu liên quan đến hoạt
động quản lý của cơ quan BHXH như: Biên bản vi phạm hành chính; Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính; Thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT,
BHTN; Biên bản và Kết luận thanh tra; Công văn báo cáo Ủy ban nhân dân
tỉnh; Hồ sơ thanh toán chế độ BHXH; Danh sách lao động tham gia BHXH,
BHYT, BHTN…
Tại Bình Phước, thực hiện Chương trình phối hợp giữa Công an và
BHXH tỉnh, BHXH tỉnh đã chuyển hồ sơ của 04 doanh nghiệp có hành vi nợ
25
tiền BHXH, BHYT, BHTN kéo dài nhiều năm với số tiền lên tới hơn 4.4 tỷ
đồng đến cơ quan Công an tỉnh để phối hợp điều tra, xử lý theo quy định của
Bộ Luật Hình sự, nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người
lao động, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Hồ sơ vi phạm pháp luật về
BHXH, BHYT, BHTN của 04 doanh nghiệp này cụ thể như sau:
Tính đến hết tháng 9/2018, Công ty TNHH TM-XNK TH&DV Hùng
Nhơn (xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 1.134.069.203 đồng,
thời gian nợ là 77 tháng; Công ty CP Hùng Nhơn (xã Thuận Lợi, huyện Đồng
Phú) nợ với số tiền là 656.563.963 đồng, thời gian nợ là 48 tháng; Công ty CP
Hà Mỵ (xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 2.457.233.759 đồng,
thời gian nợ là 72 tháng; Công ty TNHH SX phân bón hữu cơ vi sinh Tân
Đồng Tiến (xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú), nợ với số tiền là 1.134.069.203
đồng, thời gian nợ là 23 tháng [4]. Trước đó, BHXH tỉnh đã thực hiện nhiều
giải pháp như: Hàng tháng, gửi thông báo đến các doanh nghiệp này về số
tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, đôn đốc, yêu cầu nộp tiền nợ theo quy định;
tiến hành kiểm tra liên ngành, thanh tra chuyên ngành đối với 04 doanh
nghiệp này nhưng các doanh nghiệp trên đã không khắc phục số tiền nợ mà
còn cố tình tiếp tục chây ỳ kéo dài nhiều năm. Việc cố tình vi phạm, không
nộp tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động.
Trước tình trạng lạm dụng chế độ, chính sách để trục lợi ngày càng
phức tạp và số tiền nợ BHXH, BHTN, BHYT tăng, khả năng thu hồi khó,
BHXH Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các bộ, ngành nhằm thực hiện
tốt công tác quản lý về BHXH, BHTN, BHYT, trong đó có phối hợp với Bộ
Công an thực hiện nghiêm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vi
phạm có dấu hiện tội phạm tại các Điều 214, Điều 215, Điều 216 Bộ luật
Hình sự. Tuy nhiên, loại tội phạm về bảo hiểm ngày càng có dấu hiệu gia tăng
26
và diễn biến hết sức phức tạp, ngoài các hành vi né tránh nghĩa vụ trích nộp
BHXH, BHTN, BHYT, nợ quỹ BHXH tái diễn, còn phát sinh nhiều hiện
tượng vi phạm pháp luật khác, như: Các doanh nghiệp di chuyển khỏi nơi trú
đóng hoặc doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh nhưng không tồn tại đúng
với địa chỉ trên giấy phép, tình trạng doanh nghiệp cho người lao động tăng
lương đột biến, sau đó lợi dụng các kẽ hở chính sách về BHXH để lạm dụng,
trục lợi quỹ BHXH, BHYT; giả mạo hồ sơ, thẻ BHYT hoặc sử dụng thẻ
BHYT được cấp khống, thẻ BHYT giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ
BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy
định… Do vậy, rất cần có các giải pháp hữu hiệu nhằm kịp thời phát hiện, xử
lý các vi phạm, chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm đúng thời gian, trình tự,
thủ tục, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi cho
người lao động.
Với sự phối hợp tích cực của các cơ quan có thẩm quyền, ngày 15/8/2019
Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số
05/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận BHXH,
BHTN, Điều 215 về tội gian lận BHYT và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH,
BHTN, BHYT cho người lao động của Bộ luật Hình sự trong đó giải thích về
một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng các điều 214, 215 và
216 của Bộ luật Hình sự như: Trốn đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216,
Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền BHXH, BHTN, BHYT quy
định tại khoản 1 Điều 216, Không đóng tiền BHXH, BHTN, BHYT quy định
tại khoản 1 Điều 216, Không đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216, ...;
một số tình tiết định khung hình phạt (Có tính chất chuyên nghiệp, Không
đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động, ...) hay
vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể và xác
định tư cách tố tụng của cơ quan BHXH.
27
Sự ra đời của Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP đã tạo hành lang pháp
lý quan trọng để xử lý doanh nghiệp VPPL BHXH, để bảo vệ quyền lợi cho
người lao động, buộc chủ sử dụng lao động chấp hành đầy đủ quy định về
pháp luật BHXH. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng để cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về BHXH,
bảo đảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp, người lao động được hưởng quyền lợi theo đúng quy định.
Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hình sự, các hành vi vi
phạm về BHXH còn bị xử lý bởi các biện pháp xử lý khác, cụ thể:
Thứ nhất: Phối hợp với tổ chức công đoàn trong việc khởi kiện đơn vị
nợ BHXH
Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, tổ
chức công đoàn được trao quyền khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi
VPPL về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, tập thể người lao động. Triển khai thực hiện quy định của pháp luật,
tháng 9/2016 BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam ký Quy chế phối hợp số 3601/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 20/9/2016
về việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu trong việc khởi kiện ra Tòa án đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT giữa BHXH Việt
Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Theo đó, cơ quan BHXH có
trách nhiệm cung cấp cho tổ chức công đoàn danh sách các đơn vị nợ BHXH
cần khởi kiện, hồ sơ xác định nợ và các tài liệu khác có liên quan để phục vụ
việc khởi kiện [25]. Qua đó đã đạt một số kết quả nhất định:
- Từ năm 2016-2018 cơ quan BHXH các cấp đã cung cấp 2.909 hồ sơ
đơn vị sử dụng lao động nợ tiền BHXH cho công đoàn cùng cấp để thực hiện
việc khởi kiện (riêng năm 2018 là 887 hồ sơ), Liên đoàn lao động tỉnh đã nộp
126 hồ sơ khởi kiện cho Tòa án, 04 vụ việc đã có Quyết định công nhận thỏa
28
thuận của Tòa án (hòa giải thành) với tổng số tiền đã trả nợ sau hòa giải là 1
tỷ 320 triệu đồng (riêng năm 2018 là 696 triệu đồng) [2]
- Cơ quan BHXH và tổ chức công đoàn đã tích cực phối hợp đôn đốc,
thuyết phục các đơn vị sử dụng lao động trả nợ. Kết quả: Nhiều đơn vị đã chủ
động khắc phục hết nợ hoặc cam kết trả nợ theo lộ trình. Tính đến cuối tháng
7/2018 đã có 986 đơn vị nợ tiền BHXH nộp hết số tiền nợ, 883 đơn vị đã khắc
phục một phần số nợ với tổng số tiền thu được là 878 tỷ đồng (riêng năm
2018 là 176 tỷ đồng) [4].
- Liên đoàn lao động và BHXH một số tỉnh, thành phố đã chủ động tích
cực thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ như: Thành lập Tổ giám sát và tiến
hành giám sát tình hình doanh nghiệp nợ BHXH trước khi lập hồ sơ khởi kiện;
thành lập Hội đồng chỉ đạo và thực hiện khởi kiện; gửi thư nhắc nợ; thành lập
Đoàn thanh tra chuyên ngành; chuyển danh sách các đơn vị nợ cho cơ quan thuế
để điều chỉnh chi phí hoạt động của doanh nghiệp khi quyết toán thuế hàng năm...
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, việc khởi kiện của tổ chức
công đoàn đòi hỏi phải do công đoàn cơ sở khởi kiện hoặc phải có giấy ủy
quyền của người lao động. Trên thực tế, việc khởi kiện của tổ chức công đoàn
gặp rất nhiều khó khăn và hầu như chưa phát huy được hiệu quả. Một trong
các nguyên nhân đó là do người được trao quyền khởi kiện lại không dám sử
dụng quyền của mình (tổ chức công đoàn cơ sở không dám đứng ra khởi kiện
hoặc ủy quyền cho công đoàn cấp trên khởi kiện; người lao động lại càng
không dám ủy quyền cho tổ chức công đoàn kiện chủ doanh nghiệp của mình
khi bản thân cần có công ăn việc làm). Do đó, thời gian này, mặc dù cơ quan
BHXH đã tích cực hỗ trợ các tổ chức công đoàn về hồ sơ, tài liệu, số liệu
phục vụ cho việc khởi kiện và đã chuyển hơn 2.909 hồ sơ cho tổ chức công
đoàn nhưng số vụ mà tổ chức công đoàn khởi kiện còn rất khiêm tốn (126 hồ
sơ) trong đó có tới 96 hồ sơ bị Tòa án trả lại với lý do thiếu giấy ủy quyền của
người lao động hoặc giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở [2].
29
Thứ hai, tăng cường thực hiện công tác thanh tra chuyên ngành đóng,
kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH
Thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu của quản lý Nhà
nước. Công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện và xử
lý các vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Để tăng cường công
tác phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi VPPL về BHXH, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của người lao động, trong những năm qua ngành BHXH
đã tích cực thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016-2019, toàn ngành BHXH đã thực
hiện 52.823 cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT
tại 86.909 đơn vị, trong đó kiểm tra tại 41.453 đơn vị, thanh tra chuyên
ngành tại 23.513 đơn vị và phối hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành tại 21.943
đơn vị, cụ thể:
Bảng 2.2: Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra
của ngành BHXH (từ năm 2016 đến hết năm 2019)
Stt
Chỉ tiêu
Tổng cộng
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2016
Năm 2017
1 Số cuộc TTKT
10.046
8.740 16.083 18.954
53.823
2 Số đơn vị TTKT
13.828
19.402 25.343 28.336
86.909
- Kiểm tra:
7.747
10.055 11.135 12.516
41.453
+ Đơn vị nội bộ
452
385
455 1.759
3.051
+ Đơn vị sử dụng lao động
2.639
6.427 7.940 7.900
24.906
+ Cơ sở KCB
752
702
592
876
2.922
+ Đại lý thu, đại diện chi trả
2.491 2.038 2.265
3.780
10.574
- Thanh tra chuyên ngành
4.006 8.447 9.886
1.174
23.513
- Phối hợp liên ngành
4.907
5.341 5.761 5.934
21.943
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
30
Qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành BHXH đã phát hiện nhiều sai
phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, cụ thể:
- Phát hiện 176.394 lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH,
BHTN, BHYT nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian với số tiền
phải truy đóng là 506.389 triệu đồng;
- Có 173.756 lao động đóng thiếu mức quy định với số tiền phải truy
đóng là 238.549 triệu đồng.
- Tổng số tiền các đơn vị được thanh tra, kiểm tra nợ BHXH, BHTN,
BHYT là trên 9.913.205 triệu đồng;
- Yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH số tiền 43.760 triệu đồng do chi sai
quy định.
Bảng 2.3: Kết quả thực hiện công tác TTKT ngành BHXH
Đơn vị tính: triệu đồng
từ năm 2016 đến hết năm 2019
Stt
Chỉ tiêu
Tổng cộng
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
1
44.056
45.365
48.562
38.411
176.394
Số lao động chưa tham gia, đóng thiếu thời gian tham gia
2
24.039
97.223
140.768
244.359
506.389
Số tiền truy thu do chưa đóng, đóng thiếu thời gian
3
29.645
50.734
48.689
44.688
173.756
Số lao động đóng thiếu mức quy định
4
9.869
47.349
54.987
126.344
238.549
Số tiền truy thu do đóng thiếu mức
5 Số nợ đọng yêu cầu truy nộp 194.061 2.352.108 3.815.230 3.251.806 9.613.205
6
8.316
9.628
12.104
13.712
43.760
Số tiền phải thu hồi về quỹ BHXH
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Thực tế cho thấy, hiệu quả công tác thu hồi, giảm nợ BHXH, BHTN,
BHYT từ khi BHXH Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
đóng đã được thể hiện bằng những con số thuyết phục:
31
Nếu năm 2015 khi chưa có chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng
BHXH, BHTN, BHYT thì số nợ là 7,780,6 triệu đồng, tương ứng với 3,74%
số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ giao thì sang năm 2016- 2019 số
nợ đã giảm dần tương ứng với 3,64% năm 2016; 2,93% năm 2017; 1,7% năm
2018 và 1,6% năm 2019 so với số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ
giao [3]. Những con số trên là một minh chứng cho thấy quy định giao chức
năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho cơ quan
BHXH là hoàn toàn đúng đắn, mang lại hiệu quả cao, góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động; đồng thời có tác dụng răn đe, phòng
ngừa hành vi vi phạm của các chủ sử dụng lao động.
Tuy nhiên hiện nay, ngoài thanh tra chuyên ngành đóng thì việc xử lý
những vi phạm mới chỉ dừng ở mức độ phát hiện sai sót, kiến nghị thu hồi và
kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước xử lý theo quy định của pháp luật, còn
tình trạng kết luận sau kiểm tra của cơ quan BHXH không được các đơn vị
thực hiện nghiêm túc, chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm
của các chủ sử dụng lao động. Đây là một trong những lý do cơ bản, ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện chế độ, chính sách BHXH.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực
bảo hiểm xã hội
Hiện nay, việc thực hiện pháp luật pháp luật về xử lý vi phạm trong
lĩnh vực BHXH gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là bởi các hành
vi vi phạm đang diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp, cụ thể:
Thứ nhất: Vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH
Có thể thấy, các hành vi VPPL về BHXH đang diễn ra khá phổ biến với
tính chất ngày càng phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực thu BHXH. Tính từ
năm 2007 đến hết năm 2013, số nợ BHXH, BHYT, BHTN tăng khá cao, nếu
năm 2007 số nợ là 1.734 tỷ đồng thì đến hết năm 2013 tổng số nợ BHXH, BHYT,
32
BHTN đã trên 10,5 nghìn tỷ đồng; tính đến 31/7/2014, tổng số nợ BHXH, BHYT,
BHTN là trên 11 nghìn tỷ đồng, quyền lợi của rất nhiều lao động bị ảnh
hưởng nghiêm trọng dẫn đến người lao động khiếu nại, tố cáo, thậm chí có
nơi còn đình công ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội [3].
Nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH biểu hiện ở các dạng
hành vi chủ yếu:
- Trốn đóng BHXH đối với toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp
(doanh nghiệp trốn đóng hoàn toàn)
Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh
nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên mới có trên 1/3 số doanh nghiệp trong đó
tham gia BHXH cho người lao động. Mặc dù số liệu về doanh nghiệp đang
tồn tại về pháp lý như trên và số liệu về doanh nghiệp đang thực sự tồn tại,
hoạt động sản xuất kinh doanh, có sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia
BHXH còn có khoảng cách lớn và cần được làm rõ, nhưng với các con số trên
cũng đã cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tham gia BHXH còn thấp.
Việc trốn đóng BHXH thường tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp
nhỏ như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, các văn phòng, hợp tác
xã ... Nguyên nhân của thực trạng này là do một bộ phận người sử dụng lao
động chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi tham gia BHXH, nhiều
doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh khó khăn, dẫn đến việc chưa thực
hiện hoặc thực hiện chưa đúng đúng trách nhiệm của người sử dụng lao động
trong việc đóng BHXH hay các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hoặc không có
người lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, người làm
việc theo hợp đồng lao động nhưng đang hưởng lương hưu hoặc làm việc theo
nhiều hợp đồng lao động đang tham gia BHXH bắt buộc, ... Việc nắm bắt,
quản lý biến động đối dượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn hạn
33
chế do công tác phối hợp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan BHXH với các cơ
quan liên quan về quản lý doanh nghiệp, lao động như Kế hoạch - Đầu tư,
Thuế, Lao động - Thương binh và Xã hội tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Đóng BHXH không đủ số người lao động trong đơn vị (thực tế là trốn
đóng BHXH đối với một số lao động trong đơn vị)
Đây là hành vi rất phổ biến. Người sử dụng lao động lợi dụng kẽ hở của
pháp luật bằng cách hợp đồng miệng hoặc núp dưới hợp đồng theo mùa vụ
hoặc ký chuỗi hợp đồng lao động/làm việc có thời hạn dưới 01 tháng để
không phải đăng ký tham gia BHXH bắt buộc (theo quy định của Luật BHXH
thì người lao động có hợp đồng lao động dưới 01 tháng không phải tham gia
BHXH) hoặc thuần túy là không đăng ký tham gia BHXH bắt buộc cho một
nhóm người lao động không phải là cán bộ chủ chốt của đơn vị.
Vi phạm theo dạng này có thể nói tới trường hợp Công ty cổ phần Tập
đoàn Hoành Sơn (Hà Tĩnh), Công ty này sử dụng trên 2.000 lao động nhưng
chỉ đóng BHXH cho 50 người [9]. Mặt khác, qua giám sát 10 doanh nghiệp
và 2 hợp tác xã tại Hà Tĩnh, tỷ lệ người tham gia BHXH bắt buộc còn chưa
cao, còn 2.250 lao động chưa được tham gia BHXH bắt buộc, chiếm tỷ lệ
38,72%. Cũng theo Báo cáo này, trong năm 2012 tổng số 50.192 người lao
động trong khối doanh nghiệp đã được ký hợp đồng lao động, chỉ có 25.628
người được tham gia BHXH và BHTN, tỷ lệ tham gia BHXH đạt 43,3%
(trong đó, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp FDI đã ký
43.228 hợp đồng lao động nhưng chỉ có 16.664 người được tham gia BHXH).
Hậu quả của việc người sử dụng lao động trốn đóng BHXH là quỹ
BHXH bị thất thu và khi phát sinh các sự kiện về BHXH như ốm đau, tai
nạn... thì người lao động không được hưởng quyền lợi về BHXH, thiệt thòi
cho bản thân, đồng thời tạo gánh nặng cho xã hội, không đảm bảo mục tiêu an
sinh xã hội bền vững.
34
- Hành vi đóng BHXH, BHTN chậm hơn so với thời gian quy định (thực
chất là nợ tiền BHXH, BHYT)
Tình trạng người sử dụng lao động đóng BHXH chậm còn xảy ra ở tất
cả các địa phương. Bản chất của hành vi chậm đóng BHXH là nợ tiền BHXH.
Một số đơn vị sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn thậm chí không còn
tiền để trả lương cho người lao động, dẫn đến không có tiền đóng BHXH nên
phải nợ; nhưng nhiều đơn vị cố tình chiếm dụng tiền BHXH (bao gồm cả
phần trích từ tiền lương thuộc trách nhiệm đóng của người lao động) để đưa
vào nguồn vốn của đơn vị.
Theo số liệu từ BHXH Việt Nam, số nợ BHXH hàng năm là không hề
nhỏ, từ năm 2016 đến hết năm 2019. Bảng thống kê dưới đây thể hiện số nợ
BHXH từ năm 2016 đến hết năm 2019 và tỷ lệ số nợ so với số phải thu:
Bảng 2.4: Số nợ bảo hiểm xã hội từ năm 2016 đến hết năm 2019
Đơn vị tính: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2016 Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
5.715
6.018
Số nợ bảo hiểm xã hội
6.551
5.737
1
2
Tỷ lệ số nợ so với số phải thu
3,64%
2,93%
1,7%
1,6%
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Việc các đơn vị sử dụng lao động cố tình chây ỳ, không đóng BHXH
cho người lao động trong thời gian dài trong khi vẫn chiếm dụng số tiền trích
đóng BHXH thuộc trách nhiệm của người lao động, không chỉ gây nhiều khó
khăn cho cơ quan BHXH mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động.
Theo đó một số lượng không nhỏ người lao động đã ký hợp đồng lao động tại
các doanh nghiệp còn nợ BHXH nhưng có nhu cầu chuyển công tác, đủ điều
kiện nghỉ hưu hoặc các trường hợp phát sinh sự kiện BHXH khác… không
giải quyết được. Mặt khác, đây chính là hành vi chiếm dụng tiền quỹ BHXH,
ảnh hưởng đến công tác đầu tư, tăng trưởng quỹ.
35
Việc các đơn vị nợ tiền BHXH có nguyên nhân chính từ cơ chế chính
sách do quy định mức phạt lãi chậm đóng quá thấp (thấp hơn nhiều so với tiền
vay ngân hàng). Vì vậy các đơn vị lựa chọn nợ tiền BHXH thay vì vay tiền
ngân hàng với thủ tục hết sức phức tạp và phiền nhiễu. Chế tài xử lý hành
chính đối với hành vi này còn chưa tương xứng.
- Đóng BHXH thấp hơn mức quy định
Người sử dụng lao động thực hiện hành vi này nhằm mục đích giảm
bớt chi phí đóng BHXH thuộc phần trách nhiệm của họ nhưng hậu quả là gây
thất thu cho Quỹ BHXH và người lao động phải gánh chịu do mức hưởng
BHXH, BHTN được xác định trên cơ sở mức đóng. Khi phát sinh sự kiện
BHXH, BHTN thì mức hưởng của người lao động sẽ thấp hơn mức thực tế lẽ ra
họ phải được hưởng. Việc đóng BHXH thấp hơn mức quy định thường xảy ra
phổ biến ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh (kể cả các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài). Hành vi này được thực hiện dưới các hình thức:
Sử dụng hai hệ thống sổ lương khác nhau: Một hệ thống lương dùng để
chi trả lương thực tế cho người lao động (thường là tương ứng với sức lao
động), một hệ thống lương khác dùng để đăng ký tham gia và làm cơ sở tính
mức đóng BHXH, BHTN (trong nhiều trường hợp mức lương này chỉ bằng
hoặc cao hơn mức lương tối thiểu vùng một chút): Trường hợp Công ty Trách
nhiệm hữu hạn J and V, Đồng Nai, qua kiểm tra, thanh tra phát hiện những
trường hợp người lao động có tới 2 hợp đồng lao động. Mức lương ký trên
hợp đồng lao động thực trả là 12.000.000 đồng/tháng, mức lương ký hợp
đồng lao động để tham gia BHXH chỉ bằng với mức lương tối thiểu vùng vào
thời điểm đó [4].
Ký hợp đồng lao động, trong đó xác định mức tiền lương, tiền công
thấp (vì theo quy định đây là mức lương làm căn cứ tham gia BHXH; trong
nhiều trường hợp mức lương này chỉ bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu
36
vùng một chút) nhưng bổ sung thêm các khoản phụ cấp ngoài lương khác như
tiền ăn trưa, tiền vệ sinh, tiền xăng xe,... Trong nhiều trường hợp, người lao
động làm công việc thuộc danh mục nghề nặng nhọc, độc hại theo quy định
phải được hưởng mức lương cao hơn 7% và thực tế hưởng cao hơn nhưng tiền
lương đóng BHXH cũng chỉ bằng các trường hợp làm nghề thông thường.
- Đóng BHXH cao hơn bất thường so với mức quy định
Đây là hành vi người sử dụng lao động đóng BHXH trên cơ sở mức
lương tăng cao đột ngột bất thường để trục lợi Quỹ BHXH, hành vi này có sự
thông đồng giữa người sử dụng lao động và người lao động và thường xảy ra
trong các doanh nghiệp thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao
động quyết định. Trong đó, người lao động sẽ chịu phần chi phí chênh lệch
đóng BHXH tăng thêm do tăng mức lương làm căn cứ tham gia BHXH,
BHTN và không loại trừ việc chia sẻ với người sử dụng lao động phần tiền
BHXH trục lợi. Biểu hiện cụ thể thường thấy là đột ngột tăng mức đóng
BHXH, BHTN rất cao, thậm chí bằng mức tối đa pháp luật cho phép (20 lần
mức lương tối thiểu chung) trong các tháng làm căn cứ tính trợ cấp thai sản,
trợ cấp thất nghiệp để trục lợi khi sinh con, nhận nuôi con nuôi hoặc khi nghỉ
việc hưởng BHTN, ... Hậu quả của hành vi này là quỹ BHXH phải bù ra một
khoản tiền để trả thêm mức chênh lệch cho người trục lợi, không đảm bảo
công bằng xã hội.
Có thể thấy nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chưa kiểm
soát tốt để ngăn chặn từ khâu thu BHXH (khi phát hiện được cần kiến nghị để
thanh tra, kiểm tra thực trạng chi trả lương đối với người sử dụng lao động, có
đối chiếu với mức lương làm cơ sở xác định thuế thu nhập cá nhân và thuế
của doanh nghiệp).
- Hành vi đóng BHXH không đúng đối tượng
Đây là hành vi người lao động không tham gia quan hệ lao động nhưng
37
đơn vị vẫn lập hồ sơ tham gia đóng BHXH để cộng thời gian đóng BHXH đủ
điều kiện hưởng chế độ hưu trí (thực chất là người lao động gửi đóng BHXH
bắt buộc), gây thất thoát Quỹ BHXH. Tuy chưa có thống kê chính thức nhưng
hiện tượng này xảy ra khá phổ biến và ở hầu hết các địa phương. Việc giải
quyết hậu quả đối với các trường hợp này thường kéo dài và hết sức phức tạp.
Đơn cử trường hợp bà Trần Thị Ngôn (Thái Bình): Bà Ngôn đã được
giải quyết hưởng chế độ hưu trí, nhưng qua giải quyết đơn thư tố cáo phát
hiện đây là trường hợp gửi đóng BHXH bắt buộc cho đủ điều kiện hưởng chế
độ hưu trí. BHXH tỉnh Thái Bình đã có quyết định dừng chi trả, thu hồi số
tiền lương hưu bà Ngôn đã nhận. Tranh chấp phát sinh, qua nhiều cấp xét xử,
nhiều đợt kiểm tra (kể cả kiểm tra liên ngành) và rất nhiều công văn trao đổi,
đến nay vẫn bế tắc trong khâu thi hành án do quyết định của Tòa án buộc cơ
quan BHXH phải tiếp tục chi trả chế độ đối với bà Ngôn có nhiều nội dung
chưa phù hợp với quy định của pháp luật BHXH.
Việc người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH đã ảnh
hưởng rất lớn đến việc giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động.
Nhiều trường hợp người lao động khi ốm đau, thai sản không được hưởng chế
độ BHXH, BHYT hoặc đã đủ điều kiện nghỉ hưu nhưng do doanh nghiệp
chưa đóng tiền BHXH nên chưa thể chốt sổ để hưởng chế độ theo quy định.
Từ thực tế trên, có thể thấy các hành vi thuộc nhóm hành vi vi phạm nghĩa
vụ đóng BHXH đã gây thiệt hại lớn về tài chính cho quỹ BHXH, xâm phạm trực
tiếp đến quyền thụ hưởng BHXH của người lao động ở cả hiện tại và tương
lai. Các hành vi VPPL về nghĩa vụ đóng BHXH xảy ra ngày càng nghiêm
trọng, gây thiệt hại lớn đến quyền lợi BHXH của hàng ngàn người lao động,
là nguyên nhân của những cuộc đình công đòi quyền lợi của người lao động,
làm mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến mục tiêu bảo đảm an sinh xã
hội, thậm chí gây sự hiểu lầm rằng cơ quan thực hiện chính sách BHXH gây
khó khăn cho người lao động.
38
Thứ hai: Vi phạm trong giải quyết hưởng các chế độ BHXH
Bên cạnh các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, các vi phạm trong
quá trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH, ảnh hưởng đến quyền thụ
hưởng BHXH của người lao động, đặc biệt là các hành vi nhằm trục lợi quỹ
BHXH cũng trở thành hiện tượng phổ biến ở nhiều địa phương.
- Giả mạo hồ sơ hưởng BHXH
Làm giả hồ sơ hưởng BHXH (giấy chứng nhận nghỉ việc, giấy ra viện,
giấy khám thai, ...) để bán cho người lao động (người bệnh, chữ ký của bác
sỹ, con dấu hoàn toàn là giả)
Đây là hành vi vi phạm có tổ chức được thực hiện hết sức tinh vi, thể
hiện ý thức manh động, coi thường pháp luật của những kẻ làm giả chứng từ
nhằm trục lợi từ người lao động và thông qua đó trục lợi Quỹ BHXH; đối với
người lao động, việc mua chứng từ giả cũng thể hiện ý thức coi thường pháp
luật và trong nhiều trường hợp nhằm mục đích trục lợi, một số trường hợp
thuần túy chỉ nhằm mục đích được nghỉ việc để giải quyết các nhu cầu cá
nhân, tránh bị đơn vị sử dụng lao động kỷ luật. Hậu quả của hành vi lạm dụng
này là một mặt, làm thất thoát Quỹ BHXH, mặt khác làm ảnh hưởng đến kế
hoạch sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động do bị động về nhân
công và trên hết tạo tâm lý coi thường pháp luật trong cộng đồng.
Riêng trong năm 2017 toàn quốc phát hiện trên 2.000 chứng từ giả đề
nghị thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, một số vụ việc được phát hiện với
tính chất chuyên nghiệp như ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương... [4]. Do tính chất có tổ chức của hành vi này nên người
lao động trong đơn vị thường chỉ bảo nhau cách thức tiếp cận để mua giấy tờ
giả này. Vì vậy, biểu hiện có thể nhận biết được là nhiều người lao động cùng
nghỉ việc trong những thời điểm nhạy cảm với giấy chứng nhận nghỉ việc có
con dấu của cùng một cơ sở y tế cấp.
39
- Sửa chữa, tẩy xóa hồ sơ hưởng BHXH
Hành vi này được thực hiện rất tinh vi dưới hình thức: Sửa tăng thời gian
nghỉ, sửa chữa tên người bệnh, sau đó chụp màu lại các giấy tờ này để xóa dấu
vết sửa chữa, tẩy xóa nên rất khó phát hiện. Tuy nhiên, việc lạm dụng dưới
hình thức này ít hơn so với việc làm giả.
- Cấp khống chứng từ hưởng BHXH (giấy chứng nhận nghỉ việc, giấy
ra viện, giấy khám thai)
Đây là hành vi vi phạm một cách cố ý của các cơ sở khám chữa bệnh, cấp
các giấy tờ này mà không có người bệnh đến khám vì nể nang trong các mối
quan hệ cá nhân hoặc thậm chí bán phôi của các giấy tờ này ra ngoài sau khi đã
đóng dấu của cơ sở khám chữa bệnh nhằm trục lợi từ người lao động, thông qua
đó trục lợi Quỹ BHXH. Hành vi này thường chỉ xảy ra ở các cơ sở khám, chữa
bệnh nhỏ như trạm y tế xã, phường, một số phòng khám khu vực hoặc trung tâm
y tế huyện. Tính chất của hành vi này là hết sức nghiêm trọng vì nó được thực
hiện bởi những người được pháp luật trao những quyền hạn nhất định.
Trong thời gian từ cuối năm 2011 đến hết năm 2018, BHXH thành phố
Hà Nội đã phát hiện khoảng 1.000 trường hợp cấp khống chứng từ hưởng
BHXH; BHXH tỉnh Bắc Giang phát hiện 585 trường hợp; BHXH tỉnh Đắk
Lắk phát hiện 369 trường hợp; BHXH tỉnh Lào Cai phát hiện 63 trường hợp;
BHXH tỉnh Điện Biên phát hiện 75 trường hợp và BHXH tỉnh Lai Châu phát
hiện 10 trường hợp, ... [4]. Biểu hiện có thể nhận biết được ở hình thức lạm
dụng này cũng tương tự như đối với hành vi làm giả: Là nhiều người lao động
cùng nghỉ việc trong những thời điểm nhạy cảm với giấy chứng nhận nghỉ
việc có con dấu của cùng một cơ sở y tế cấp.
- Người sử dụng lao động giải quyết chế độ BHXH cho người lao động
không đúng quy định
Người sử dụng lao động giải quyết chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức
phục hồi sức khỏe cho người lao động vẫn có tên trong danh sách chấm công
và được trả lương.
40
Hành vi này do người sử dụng lao động thực hiện như một kiểu ban
phát quyền lợi cho người lao động, gây thất thoát Quỹ BHXH, tạo ý thức coi
thường pháp luật. Nếu thực hiện công tác hậu kiểm bằng cách đối chiếu giữa
bảng chấm công của đơn vị sử dụng lao động với danh sách người sử dụng
lao động đề nghị thanh toán chế độ thì sẽ phát hiện được.
Ví dụ như: BHXH tỉnh Lâm Đồng qua kiểm tra, đối chiếu giữa bảng
chấm công của Công ty TNHH AGRIVINA với hồ sơ quyết toán của cơ quan
BHXH đã phát hiện 150 trường hợp người lao động thuộc Công ty hưởng sai
quy định như vừa làm việc và hưởng lương, vừa thanh toán các chế độ nghỉ
dưỡng sức với tổng số tiền là 164.025.171 đồng [4].
- Người sử dụng lao động và người lao động câu kết với các cơ sở y tế
để được cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH làm căn cứ thanh toán
tiền trợ cấp ốm đau, thai sản
Đây là hành vi vi phạm có tổ chức thể hiện tâm lý trục lợi đương nhiên
và coi thường pháp luật. Hành vi này thường chỉ xảy ra tại các đơn vị sản
xuất, kinh doanh thua lỗ, không có việc làm (đặc biệt là ở các đơn vị sử dụng
lao động mà y tế cơ quan được ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT), họ coi
đây như là giải pháp tình thế nhằm bù đắp thu nhập thu nhập cho người lao
động trong thời gian đơn vị không có việc làm (thường tỷ lệ chi trợ cấp ốm
đau, thai sản rất cao, khoảng trên 5% quỹ lương của đơn vị). Hậu quả là Quỹ
BHXH bị thất thoát và làm thay chức năng phân phối thu nhập của xã hội.
Hành vi này là một biến thể của hành vi lạm dụng dưới hình thức “cho
người lao động nghỉ việc không đúng với thực trạng bệnh lý hoặc cho nghỉ
việc mặc dù người lao động không bị bệnh” nhưng ở mức độ tinh vi hơn.
Dấu hiệu để có thể phát hiện việc lạm dụng dưới hình thức này là việc
nghỉ luân phiên với tần xuất cao. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó có căn cứ để
xác định vi phạm và quy kết trách nhiệm đối với trường hợp này do hồ sơ đều
được thống nhất hợp thức hóa một cách kín kẽ.
41
Tiểu kết Chương 2
Quá trình thực hiện luận văn tác giả đã thu thập thông tin, xử lý và phân
tích thông tin để đưa ra các vấn đề cần nghiên cứu.
Ở Chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích thực trạng VPPL về BHXH (vi
phạm nghĩa vụ đóng BHXH, vi phạm trong giải quyết hưởng các chế độ
BHXH và vi phạm trong quản lý nhà nước về BHXH) và các biện pháp xử lý
VPPL về BHXH (biện pháp xử lý vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hình
sự và các biện pháp xử lý khác).
Kết quả phân tích làm cơ sở để tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt
Nam ở Chương 3. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng bởi có thể thấy tính
nguy hiểm đáng kể cho xã hội của một số hành vi vi phạm pháp luật BHXH
thể hiện rất rõ. Nếu những hành vi đó không bị xử lý kịp thời bằng bản án
nghiêm khắc của pháp luật hình sự thì lòng tin của người dân vào các chính
sách xã hội của Nhà nước, vào tính nghiêm minh của pháp luật bị giảm sút
nghiêm trọng. Khi VPPL xảy ra mà không bị xử lý nghiêm hoặc không thể bị
xử lý cho tương ứng với mức độ vi phạm sẽ dẫn đến ngày càng có thêm nhiều
hành vi vi phạm mới hoặc người đã vi phạm sẽ dễ dàng tái phạm, anh hưởng
đến tính nghiêm minh của pháp luật và mục tiêu của các chính sách an sinh xã
hội của Đảng và Nhà nước.
42
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
BẢO HIỂM XÃ HỘI
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Có thể thấy hiện nay, tình trạng VPPL về BHXH diễn ra ngày càng phổ
biến xuất phát từ nhiều nguyên nhân như:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về xử phạt VPHC đối với các
hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT còn chưa đầy đủ dẫn
đến một số hành vi vi phạm chưa có quy định để xử lý. Thẩm quyền của tổ
chức BHXH về một số hành vi sai phạm chưa được quy định rõ trong các văn
bản quy phạm pháp luật như: Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC
khi đối tượng vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, ... nên
còn khó khăn trong tổ chức thực hiện.
Thứ hai, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT chưa đủ
sức răn đe, trong tổ chức thực hiện thì chưa nghiêm, chưa kiên quyết dẫn đến
một số đơn vị sử dụng lao động còn coi thường pháp luật, vẫn cố tình nợ đọng
kéo dài hoặc trục lợi chính sách BHXH, BHYT.
Thứ ba, các quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT đã
được quy định trong Bộ Luật hình sự năm 2015 tuy nhiên đến nay, việc lập hồ
sơ chuyển cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để khởi tố khi phát hiện
các hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực BHXH còn rất nhiều khó
khăn, vướng mắc.
Từ những tác động trên đặt ra yêu cầu của của việc hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả xử lý VPPL về BHXH.
Theo đó, công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH cần đảm bảo các
yêu cầu sau:
43
Thứ nhất: Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế
Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách
nhiệm pháp lí nói chung và công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH nói
riêng là yêu cầu tiên quyết trong quá trình thực hiện. Công tác xử lý VPPL về
BHXH phải được tiến hành đúng thẩm quyền, theo đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định, có căn cứ pháp lí vũng chắc, đúng người, đúng vi phạm,
đúng pháp luật, tránh oan sai và không bỏ lọt vi phạm.
Thứ hai: Yêu cầu bảo đảm tính hợp lí
Trong công tác xử lý vi phạm pháp luật về BHXH thì yêu cầu đảm bảo
tính hợp lí là rất quan trọng nhằm đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị -
xã hội và đời sống nhân dân. Khi xử lý vi phạm pháp luật về BHXH cần phải
xem xét đến sự phù hợp với các điều kiện hiện thực để có thể thi hành đồng
thời phải đảm bảo tính có lợi nhất về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và đặc biệt là quyền lợi của người tham gia BHXH..
Mục đích của BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ BHXH do đó khi xem xét xử lý các vi phạm pháp luật về
BHXH cần chú trọng đến quyền lợi, cuộc sống của những người lao động
nhất là đối với các vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH của chủ sử dụng lao động.
Yêu cầu này cũng đã được thể hiện rõ khi xây dựng Bộ luật Hình sự năm
2015 trong đó đã bổ sung tội danh và quy định hình thức phạt tiền là hình
phạt chính đối với các tội danh thuộc lĩnh vực BHXH. Cũng trong Bộ luật
Hình sự năm 2015, lần đầu tiên quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức -
pháp nhân thương mại với hình phạt chính là phạt tiền. Như vậy, việc áp dụng
hình phạt tiền là hình phạt chính và xử phạt pháp nhân thương mại cũng là
đảm bảo tính hợp lí trong quá trình xử lý hình sự các vi phạm BHXH..
44
Thứ ba: Yêu cầu tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người
Có thể thấy, việc áp dụng các vi phạm hành chính là mang tính chất răn
đe, trong khi đó các hình phạt hình sự được phân chia nhiều cấp độ mang cả
tính răn đe, phòng ngừa và trừng phạt. Tuy nhiên các hình phạt này đều tuân
thủ nguyên tắc không áp dụng những biện pháp cưỡng chế có tính chất làm
nhục con người. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý các vi phạm pháp luật
BHXH cũng đạt ra yêu cầu khoan hồng đối với những người thành khẩn, tự
nguyện khắc phục hậu quả nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia
BHXH, đồng thời nghiêm trị những kẻ cầm đầu chủ mưu, vi phạm pháp luật
có tính chuyên nghiệp.
Thứ tư: Yêu cầu kịp thời, nhanh chóng
Nhằm bảo đảm việc xử lý các vi phạm pháp luật về BHXH được thuận
lợi, ngăn chặn kịp thời các VPPL tương tự có thể xẩy ra cũng như ngăn ngừa
hiện tượng tiêu cực trong quá trình xử lý thì việc phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội có một ý
nghĩa không chỉ đối với việc đấu tranh chống tội phạm mà còn có ý nghĩa
phòng ngừa tội phạm.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp do phát hiện kịp thời hành vi vi
phạm nên đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại do hành vi vi phạm gây ra.
Phát hiện kịp thời hành vi vi phạm còn có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho
mọi công dân đấu tranh và phòng ngừa các vi phạm, cảnh báo những ai có ý
định thực hiện hành vi vi phạm. Phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm pháp luật
BHXH còn có tác dụng tạo niềm tin giúp mọi người yên tâm lao động sản
xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân có
nhiệm vụ phát hiện vi phạm, tố giác hành vi phạm tội với các cơ quan có trách
nhiệm, yêu cầu này cũng đặt các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm
phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
45
Thứ năm: Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc công bằng
Yêu cầu này thể hiện người vi phạm đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã
hội; công bằng trong việc xác định hành vi vi phạm hoặc vận dụng các dấu
hiệu cấu thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội, đối với hình phạt,
chống những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người vi phạm khác
nhau. Đây không chỉ là yêu cầu trong xử lý vi phạm nói chung và vi phạm
pháp luật về BHXH nói riêng mà đây cũng là yêu cầu đối với toàn xã hội, cần
phải có thái độ công bằng đối với người vi phạm, người phạm tội dù họ là ai.
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực
bảo hiểm xã hội
Hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xử
lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, hoạt động này chỉ thực hiện hiệu quả trên
cơ sở những quy định pháp luật đầy đủ, đồng bộ; do đó cần sớm hoàn thiện cơ
sở pháp lý cho hoạt động này, cụ thể:
Thứ nhất: Cần bổ sung các quy định về xử phạt VPHC và xử lý hình sự
đối với các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH:
- Ngoài các tội danh đã được quy định trong Bộ luật Hình sự, cần bổ
sung quy định về xử lý hình sự đối với những hành vi phạm tội khác liên quan
đến quản lý và thực hiện BHXH: Hành vi người sử dụng lao động không cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về đóng BHXH, BHTN, BHYT của
người lao động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; người sử
dụng lao động có hành vi chiếm dụng tiền hưởng BHXH bắt buộc của người
lao động hay hành vi thỏa thuận không tham gia BHXH, BHTN, BHYT, tham
gia không đúng đối tượng hoặc tham gia không đúng mức quy định bởi đây là
những hành vi xuất phát từ lỗi chủ quan của người sử dụng lao động, gây ảnh
hưởng đến hệ thống an sinh xã hội, đến quỹ BHXH, đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động.
46
Việc tội phạm hóa một số hành vi vi phạm pháp luật về BHXH không
chỉ thể hiện các hành vi vi phạm này có tính chất phổ biến và gây nguy hiểm
đáng kể cho xã hội đến mức phải dùng loại chế tài nghiêm khắc nhất - chế tài
hình sự để xử lý, mà còn thể hiện rõ quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta trong việc bảo vệ và phát triển hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.
- Bổ sung các quy định về xử phạt VPHC đối với các hành vi vi phạm
trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT để phù hợp với thực tế, tránh bỏ lọt các
vi phạm do không có quy định xử lý, đơn cử: Nhiều đơn vị sử dụng lao động
cố tình không ký hợp đồng lao động hoặc ký sai hợp đồng lao động và không
đóng BHXH cho người lao động, dẫn đến không thể xử phạt VPHC đối với
hành vi đóng BHXH bắt buộc, BHTN không đúng mức quy định và đóng
BHXH, BHTN không đủ số người thuộc diện phải tham gia BHXH, BHTN
mà chỉ có thể xử phạt đơn vị sử dụng lao động với hành vi không ký hợp
đồng lao động đối với người lao động với mức phạt nhẹ hơn nhiều bởi các
hành vi này chưa được đề cập đến trong các văn bản quy định về các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực BHXH và chưa có quy định xử lý.
- Nâng mức xử phạt VPHC đối với một số hành vi vi phạm thường
xuyên diễn ra hiện nay như: Trốn đóng, chậm đóng BHXH, BHTN, BHYT của
chủ sử dụng lao động, ... làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động:
Theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động,
BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, đối với hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN; đóng BHXH,
BHTN không đúng mức quy định mà không phải là trốn đóng; đóng BHXH,
BHTN không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHTN mà
không phải là trốn đóng thì số tiền phạt mới dừng lại ở mức từ 12% đến 15%
tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biên bản vi
47
phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng đối với người sử dụng
lao động. Đối với người sử dụng lao động không đóng BHXH bắt buộc,
BHTN cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc,
BHTN mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì số tiền phạt từ 18%
đến 20% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập
biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng. Đối với
người sử dụng lao động có hành vi trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì phạt tiền từ 50 triệu đồng đến
75 triệu đồng [6].
Như vậy theo quy định hiện nay thì số tiền xử phạt VPHC tối đa đối
với các hành vi vi phạm về đóng BHXH, BHTN mới dừng ở mức 75 triệu
đồng, có thể thấy mức phạt này là khá thấp, thiếu tính răn đe, cần thiết phải
tăng lên nhiều lần, không nhất thiết mức phạt vi phạm hành chính thấp hơn
hình sự để hạn chế các hành vi vi phạm, tăng tính bền vững của quỹ BHXH,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý:
Pháp luật về xử phạt VPHC cần xác định thứ tự ưu tiên các nguyên tắc; theo
đó, người thụ lý vụ việc đầu tiên có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt là
nguyên tắc ưu tiên trước để đảm bảo mọi hành vi VPHC đều được phát hiện
kịp thời và xử phạt nghiêm minh, tránh tình trạng cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đùn đẩy trách nhiệm cho nhau và chủ thể vi phạm vẫn ngang nhiên
thực hiện hành vi vi phạm gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng
chính sách BHXH, BHTN, BHYT.
Thứ hai: Giao cho cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra toàn
diện về BHXH, BHTN, BHYT để Ngành BHXH có thể thực hiện được thanh
tra trong việc thanh quyết toán các chế độ chính sách BHXH (cả trong lĩnh
vực thu và chi trả) tại các đơn vị sử dụng lao động.
48
Hiện nay tình trạng VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHYT đang diễn ra ở
nhiều nơi và có diễn biến ngày càng phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực chi
BHXH, BHYT; nhiều sai phạm trong lĩnh vực này chưa được các cơ quan chức
năng tiến hành thanh tra, xử lý kịp thời với nhiều lý do, một trong số đó là việc
cơ quan BHXH chưa được giao nhiệm vụ thanh tra lĩnh vực chi BHXH, BHYT.
Theo quy định hiện nay, "Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT theo quy định của Luật
này và quy định khác của pháp luật có liên quan" [18, Điều 13, khoản 3], cơ
quan BHXH có quyền "Kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH; thanh tra
chuyên ngành việc đóng BHXH, BHTN, BHYT" [18, Điều 22, khoản 7],
"BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng tổ chức thực hiện
các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý
và sử dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT; thanh tra chuyên ngành việc đóng
BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật [8, Điều 1, khoản 1].
Như vậy, tổ chức BHXH có quyền và trách nhiệm tổ chức thực hiện
chế độ, chính sách BHXH, BHYT nhưng lại chỉ có chức năng thanh tra
chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT mà không có chức năng thanh
tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHXH, BHYT
đối với các tổ chức, cá nhân, đơn vị sử dụng lao động và các cơ sở KCB
BHYT, nên đã gặp khó khăn không nhỏ trong việc tổ chức thực hiện các quy
định của chính sách pháp luật về BHXH, BHYT; quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia BHXH, BHYT, BHTN bị xâm hại không được ngăn chặn
hoặc xử lý kịp thời; nên hàng năm có hàng trăm nghìn lao động không được
hưởng các chế độ BHXH, BHTN, BHYT kịp thời; mức độ vi phạm không chỉ
dừng ở mức độ xử phạt VPHC mà trong một số trường hợp đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Để hạn chế được tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHTN, BHYT,
49
cần thiết phải bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành đầy đủ cho ngành
BHXH, theo đó cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật BHXH năm 2014 theo
hướng bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành về giải quyết, chi trả, thanh
quyết toán các chế độ BHXH và giám định, thanh quyết toán chi phí KCB
BHYT cho cơ quan BHXH và nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số
21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 quy định việc thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH theo
hướng bổ sung chức năng chuyên ngành đầy đủ cho cơ quan BHXH, bởi cơ
quan BHXH đã có cơ cấu tổ chức thanh tra, kiểm tra theo ngành dọc từ Trung
ương tới tỉnh và có đủ đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT, kiểm tra đã được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về nghiệp vụ thanh
tra; có chuyên môn, nghiệp vụ về chế độ, chính sách BHXH, BHYT, có đủ
năng lực thực hiện nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện hợp đồng KCB BHYT,
quản lý chi trả đảm bảo chế độ người lao động ở đơn vị sử dụng lao động.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội
3.3.1. Cải cách thủ tục hành chính trong công tác giải quyết chế độ
bảo hiểm xã hội
Tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động, người lao động
tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH theo đúng quy định của pháp luật
cần tiếp tục được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Ngành BHXH để
góp phần ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đảm
bảo an ninh chính trị và an sinh xã hội.
Trong 5 năm (từ năm 2013-2017), số lượng thủ tục hành chính trong
lĩnh vực BHXH đã được cắt giảm mạnh từ 115 thủ tục xuống còn 28 thủ tục
(giảm trên 75%). Tính riêng năm 2017, giảm từ 32 thủ tục xuống còn 28 thủ
tục và đến năm 2019 còn 27 thủ tục [3] (hiện 27 thủ tục này đều đã được cập
50
nhật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, công khai trên Trang
thông tin điện tử ngành BHXH và tổ chức niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả thủ tục hành chính của cơ quan BHXH cấp tỉnh, cấp huyện, đảm
bảo cho các tổ chức, cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận, thuận tiện khi giải quyết
công việc); rút ngắn thời hạn cấp sổ BHXH từ 20 ngày xuống còn 5 ngày, thẻ
bảo hiểm y tế (BHYT) từ 7 ngày xuống còn 5 ngày (riêng với người hưởng
trợ cấp thất nghiệp không quá 2 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy
định), cấp lại thẻ BHYT không thay đổi thông tin được thực hiện trong ngày.
Riêng số giờ thực hiện thủ tục hành chính từ 335 giờ năm 2016 giảm
xuống còn 49 giờ/năm 2017. Với việc thực hiện giao dịch điện tử trong tất cả
các khâu (từ thu, nộp đến quản lý chi, trả) thì số lần thực hiện giao dịch điện
tử giảm từ 12 lần/năm xuống còn 1 lần/năm. Đặc biệt, năm 2017, BHXH Việt
Nam xếp thứ 2/20 trong số các bộ, ngành về chỉ số sẵn sàng ứng dụng công
nghệ thông tin, tăng 18 bậc so với năm 2016 và là đơn vị đứng đầu trong các
cơ quan thuộc Chính phủ về việc ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển
Chính phủ điện tử trong năm 2018.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính
trong giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, Ngành BHXH cần tiếp tục coi cải
cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm tiết
kiệm chi phí và thời gian cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện giao dịch về
BHXH, theo đó cần tăng cường rà soát, đánh giá sự cần thiết, tính hợp pháp,
hợp lý, hiệu quả của quy định thủ tục hành chính hiện hành, chủ động cắt
giảm những thủ tục không cần thiết và giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục
hành chính, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các quy định về thủ tục
hành chính và phát sinh thủ tục hành chính ngoài quy định, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho người dân được tiếp cận dịch vụ và giải quyết các chế độ, chính
sách BHXH một cách công khai, minh bạch, đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của người lao động.
51
Cùng với việc triển khai thực hiện cơ chế “một cửa” liên thông, giao
dịch điện tử, cần bổ sung, sửa đổi các quy định phân cấp trong điều hành,
quản lý, giải quyết các thủ tục liên quan đến BHXH, BHYT, cần tiếp tục hoàn
thiện quy trình tiếp nhận, trả hồ sơ và giải quyết mỗi loại công việc liên quan
xét duyệt chế độ, in, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT ở cấp tỉnh và cấp huyện (làm
rõ thêm các bước thực hiện, thời gian thực hiện và trách nhiệm từng tổ chức,
cá nhân thực hiện), đề cao trách nhiệm của cơ quan BHXH về đảm bảo đầy
đủ quyền lợi của người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT,
BHTN (xét duyệt hồ sơ hưởng, chi trả các chế độ BHXH, BHYT; in, cấp sổ
BHXH, thẻ BHYT).
3.3.2. Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý nhằm hạn chế vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội
Ứng dụng công nghệ tin trong quản lý được coi là một trong những giải
pháp quan trọng nhằm hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH,
trọng tâm là xây dựng hệ thống phần mềm về quản lý hoạt động BHXH, xây
dựng cơ sở dữ liệu tập trung của toàn Ngành BHXH.
Việc xây dựng các phần mềm nghiệp vụ hiện đại, liên thông để chia sẻ
thông tin và thực hiện các nghiệp vụ xét duyệt, quản lý BHXH trên các phần
mềm một cách đầy đủ và tự động, thống nhất, công khai, minh bạch là biện
pháp quan trọng để hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH. Cần xây
dựng và từng bước sử dụng thẻ BHXH điện tử thay thế sổ BHXH hiện hành,
theo đó mọi dữ liệu về quá trình tham gia BHXH, những biến động về lương,
mức đóng, những thay đổi nhân thân v.v... được quản lý trên phần mềm thống
nhất toàn quốc, việc giải quyết các chế độ BHXH sẽ không phải phụ thuộc
vào sổ BHXH như hiện nay, việc nâng cấp các phần mềm hiện có nhằm đảm
bảo các ứng dụng nghiệp vụ, duy trì hoạt động ổn định và đáp ứng các yêu
cầu cấp bách về thay đổi và phát sinh nghiệp vụ; bên cạnh đó cần sớm hoàn
52
thiện việc cơ sở dữ liệu người hưởng BHXH kết nối liên thông với chương
trình xét duyệt các chế độ BHXH và các cơ sở dữ liệu khác, điều này có tác
dụng thiết thực trong việc tra cứu thông tin khi giải quyết đề nghị cấp lại sổ
BHXH cũng như trong việc giải quyết hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ra, đây
còn là căn cứ để thực hiện việc rà soát (hậu kiểm) tại BHXH Việt Nam. Việc
nâng cấp tính năng bảo mật, phân quyền trong thực hiện nghiệp vụ đảm bảo
lưu dấu khi có các can thiệp để chỉnh sửa dữ liệu của chương trình cũng góp
phần xác định được trách nhiệm của các cá nhân trong thực hiện nghiệp vụ.
Đặc biệt, cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp phần mềm nghiệp vụ
thanh tra, kiểm tra - một phần mềm trong hệ thống phần mềm ứng dụng của
BHXH Việt Nam nhằm hiện đại hóa công tác quản lý, giảm tải sử dụng văn
bản giấy và sổ sách ghi chép tay; tiết kiệm thời gian cho cán bộ trong công
tác báo cáo, tổng hợp; hỗ trợ các tiện ích để nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra, đồng thời công tác quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra
được toàn diện, bao quát và đồng bộ hơn từ BHXH huyện, thị đến BHXH
tỉnh và BHXH Việt Nam…
3.3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra
ngành Bảo hiểm xã hội
Nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH chính là nhân tố con người làm công
tác thanh tra, kiểm tra, bao gồm phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và
ý thức trách nhiệm của cán bộ.
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công
tác thanh tra, kiểm tra nói chung và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra
ngành BHXH nói riêng để có phẩm chất đạo đức, kỹ năng, kinh nghiệm nhằm
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là công việc có ý nghĩa lâu dài đối với
việc củng cố, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát
53
hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH. Hàng năm cần tổ
chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra theo
từng chuyên ngành cụ thể nhằm trang bị nội dung thiết thực, hữu ích, trang bị
nhiều kiến thức, kỹ năng cần thiết, chuyên sâu, đồng thời, trao đổi và giải đáp
các tình huống cụ thể và cả những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển
khai thanh tra, kiểm tra thực tế tại đơn vị, qua đó giúp cán bộ nâng cao trình
độ, nghiệp vụ chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra trong lĩnh
vực BHXH và trang bị kiến thức cơ bản về trình tự, thủ tục tiến hành một
cuộc thanh tra, kiểm tra, nguyên tắc tiến hành, quyền và nghĩa vụ của đối
tượng thanh tra, kiểm tra, các mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, xử phạt
VPHC; việc thu xác minh, thập tài liệu, chứng cứ, việc thực hiện trình tự, thủ
tục khi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, …
Cần tiếp tục tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
BHXH, BHYT ở các đơn vị sử dụng lao động nắm vững các văn bản quy
định, hướng dẫn để phối hợp tốt việc thực hiện chế độ, chính sách ở từng đơn
vị; đẩy mạnh phong trào học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trở thành công việc thường xuyên; thực hiện tốt Quy định “Chuẩn mực đạo
đức cán bộ, đảng viên, công chức viên chức ngành BHXH” nhằm nâng cao
phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng
lực quản lý, điều hành để phục vụ nhân dân tốt hơn. Nâng cao nhận thức của
đội ngũ cán bộ ngành BHXH về tư duy phục vụ và cung cấp sản phẩm dịch vụ
công đối với khách hàng thụ hưởng là các đối tượng tham gia BHXH và tiếp
thu sự đánh giá về độ hài lòng với sản phẩm dịch vụ mà ngành BHXH cung
cấp cho họ. Mức độ hài lòng của những khách hàng này là cơ sở để đánh giá
năng lực, hiệu quả làm việc cũng như chính sách khen thưởng đối với cán bộ.
Bên cạnh đó cần định kỳ đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công
chức viên chức và bố trí công việc phù hợp với trình độ, năng lực, kinh nghiệm
54
mỗi người theo từng vị trí việc làm đã xác định; phân công nhiệm vụ rõ
ràng, cụ thể gắn liền với quyền hạn, trách nhiệm từng tổ chức, cá nhân;
thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức viên
chức để đáp ứng công việc theo từng vị trí đảm nhiệm nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc.
3.3.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công khai thông
tin tình hình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm
xã hội
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về BHXH tới
mọi người dân tham gia BHXH, đặc biệt là đối với chủ sử dụng lao động và
người lao động để họ nắm được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện
các quy định về BHXH, qua đó giảm thiểu được các vi phạm do không hiểu
biết về quy định của pháp luật. Khi biết được các chế tài nghiêm khắc áp dụng
đối với hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, họ sẽ có thái độ cẩn trọng hơn
khi thực hiện để tránh rơi vào trường hợp vi phạm quy định, khi đã để xảy ra
vi phạm họ sẽ tuân thủ nghiêm chỉnh các quyết định xử phạt của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, khắc phục hậu quả đã gây ra. Theo đó, nội dung tuyền
truyền cần chú trọng tới các hành vi bị coi là VPPL trong lĩnh vực BHXH,
thẩm quyền xử phạt, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả, … Hình thức tuyên truyền, giáo dục cũng cần đa dạng, phong phú
hơn, kết hợp nhiều cách thể hiện khác nhau: Qua Đài Truyền hình, Truyền
thanh của Trung ương và địa phương, lập các website, tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu về VPPL trong lĩnh vực BHXH, treo các băng rôn, áp phích với các
khẩu hiệu tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật về BHXH, ...
Cần tăng cường vai trò của công cụ thông tin, công khai thông tin tình
hình vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, nội dung của việc công
khai thông tin là biểu dương những chủ thể thực hiện tốt, phê bình những chủ
55
thể thực hiện chưa tốt, có hành vi sai phạm với mục đích tạo sức ép đối với
các chủ thể thực hiện chưa nghiêm chỉnh và khuyến khích những chủ thể thực
hiện tốt quy định của pháp luật trong lĩnh vực BHXH.
3.3.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh lực bảo hiểm xã hội
Tích cực thực hiện các quy chế phối hợp, đặc biệt là sự phối hợp chia
sẻ thông tin giữa cơ quan BHXH với các cơ quan liên quan trong công tác
phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về BHXH góp phần quan trọng
trong việc bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội:
Phối hợp với cơ quan thuế trong trao đổi thông tin về tổ chức và cá nhân trả
thu nhập từ tiền lương tham gia đóng các khoản BHXH bắt buộc và nộp thuế
để phối hợp quản lý thu các khoản BHXH, …
Cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong
quản lý và đấu tranh phòng chống tội phạm, VPPL trong lĩnh vực BHXH,
thông qua việc ký và thực hiện các Quy chế phối hợp, đặc biệt là sự phối hợp
giữa BHXH Việt Nam và Bộ Công an nhằm tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm (Quy chế phối hợp số
3461/QCPH-TCCS-BHXH ngày 16/8/2017 giữa Tổng cục Cảnh sát và BHXH
Việt Nam trong công tác phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về
BHXH, BHYT, BHTN, theo đó: Cần nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc,
nội dung và phương pháp phối hợp ở tất cả các cấp (cấp Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện) giữa lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm và quản lý
hành chính về trật tự, an toàn xã hội và BHXH Việt Nam nhằm tăng cường,
nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm và các
hành vi VPPL góp phần bảo đảm an ninh, giữ gìn trật tự an toàn trong hoạt
BHXH, BHTN, BHYT.
Bên cạnh đó, cần thực hiện đầy đủ các nội dung phối hợp: Phối hợp
56
phòng, chống các loại tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh BHXH,
BHTN, BHYT; phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các hành VPPL
hình sự trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT; phối hợp bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, cá nhân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan BHXH các
cấp và phối hợp bảo đảm an toàn đối với hoạt động của cơ quan BHXH.
Quan hệ phối hợp giữa hai bên là quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở
tuân thủ quy định của pháp luật và theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mỗi bên. Việc phối hợp phải thường xuyên, kịp thời và hiệu quả; đồng
thời bảo đảm sự chủ động, tích cực, đồng bộ, thống nhất trong chỉ đạo, điều
hành của Lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát và Lãnh đạo BHXH Việt Nam. Thường
xuyên cung cấp, trao đổi thông tin về các hoạt động liên quan đến công tác
phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHTN,
BHYT. Việc trao đổi thông tin và tài liệu có liên quan đến công tác phòng,
chống tội phạm và các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT phải
được phê duyệt của lãnh đạo có thẩm quyền và đúng quy định của pháp luật.
57
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng các quy định về chế tài xử
lý VPPL trong lĩnh vực BHXH, thực trạng VPPL và xử lý VPPL trong lĩnh
vực BHXH cũng những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý VPPL về
BHXH, tác giả đã mạnh dạn đưa ra 05 giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý
VPPL trong lĩnh vực BHXH, gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt
các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH; Bổ sung chức năng thanh tra
chuyên ngành đầy đủ cho ngành BHXH; Nâng cao chất lượng cán bộ làm
công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm
tra ngành BHXH nói riêng; Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và
công khai thông tin tình hình xử lý các hành vi VPPL trong lĩnh vực BHXH
và Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xử lý
các hành vi vi phạm trong lĩnh lực BHXH.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý vi phạm
trong lĩnh vực BHXH, tác giả cũng đưa ra các kiến nghị với Quốc hội, Chính
phủ và với các cơ quan quản lý nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan.
Tác giả cho rằng các giải pháp, kiến nghị trên có thể tham khảo, nghiên
cứu, áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý VPPL trong lĩnh vực
BHXH của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và cơ quan BHXH nói
riêng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.
58
KẾT LUẬN
Nhiệm vụ của luận văn là nghiên cứu, phân tích, đánh giá nhằm nâng
cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi VPPL về BHXH ở Việt Nam. Thực
hiện nhiệm vụ này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và
đề xuất các giải pháp, nêu ra các kiến nghị để thực hiện nhiệm vụ của luận văn.
Qua nghiên cứu, tác giả đã rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đã trình bày, làm rõ bản chất, nội dung một số khái niệm có
liên quan đến các vấn đề trình bày tại luận văn (vi phạm pháp luật, xử lý vi
phạm pháp luật) cũng như các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
Thứ hai, đã nghiên cứu, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về
BHXH trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng và trong giải quyết hưởng các chế
độ BHXH; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về BHXH (xử lý hành
chính, xử lý hình sự và một số biện pháp khác) để thấy được sự phức tạp của
tình hình VPPL trong lĩnh vực BHXH cũng như những nỗ lực, cố gắng của
các cơ quan chức năng nói chung và ngành BHXH nói riêng trong việc phát
hiện và xử lý các hành vi VPPL nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động.
Thứ ba, đã đưa ra yêu 05 giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý vi
phạm trong lĩnh vực BHXH trong thời gian tới.
Theo tác giả những giải pháp này có tính khả thi, cơ bản phù hợp trong
điều kiện của nước ta và các cơ quan thực thi pháp luật về BHXH nói chung,
ngành BHXH nói riêng; nếu thực hiện theo nghiên cứu đề xuất của luận văn
sẽ góp phần không nhỏ trong việc ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về BHXH ở Việt Nam, bảo vệ có hiệu quả quỹ BHXH, quyền và lợi
ích chính đáng của người lao động.
59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) (2017), Báo cáo kết quả công tác phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm của BHXH Việt Nam và Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) tại Hội nghị sơ kết kết 05 năm thực hiện Quy chế phối hợp số 1853/QCPH- TCCSPCTP-BHXH giữa BHXH Việt Nam và Bộ Công an, Hà Nội.
2.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2018), Báo cáo về việc thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT giai đoạn 2016-2018 của BHXH Việt Nam năm 2018, Hà Nội.
3.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007-2019), Báo cáo tổng kết công tác từ năm 2007 đến năm 2019 của BHXH Việt Nam, Hà Nội.
4.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011-2019), Báo cáo kết quả công tác thanh tra, kiểm tra từ năm 2011 đến năm 2019 của BHXH Việt Nam, Hà Nội.
5.
Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020", Hà Nội.
6.
Chính phủ (2013), Nghị định số 28/2020/NĐ-CP, ngày 01/3/2020, Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.
7.
Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016, Quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH, Hà Nội.
8.
Chính phủ (2020), Nghị định số 89/2020/NĐ-CP, ngày 04/8/2020, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.
60
9.
Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2012), Báo cáo giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với người lao động trên địa bàn tỉnh giai đoạn từ 2010 đến 2012” số 98/BC-HĐND ngày 26/11/2012.
10. Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số
05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019, Hà Nội.
11. Mai Xuân Nam và nhóm nghiên cứu (Bảo hiểm xã hội Việt Nam), (2016), Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, Đề tài.
12. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, số 22/2008/QH12 ngày
13/11/2008, Hà Nội.
13. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra, số 56/2010/QH12, ngày 15/11/2010,
Hà Nội.
14. Quốc hội (2010), Luật Viên chức, số 58/2010/QH12, ngày 15/11/2010,
Hà Nội.
15. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, số 15/2012/QH13,
ngày 20/6/2012, Hà Nội.
16. Quốc hội (2013), Bộ Luật Lao động, số 10/2012/QH13, ngày 18/3/2012, Hà
Nội.
17. Quốc hội (2013), Luật Việc làm, số 38/2013/QH13, ngày 16/11/2013,
Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, số 58/2014/QH13, ngày 20/11/2014,
Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13, ngày 27/11/2015,
Hà Nội.
20. Quốc hội (2017), Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước số
10/2017/QH14 ngày 20/6/2017, Hà Nội.
61
21. Quốc hội (2019), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật viên chức, số 52/2019/QH14 ngày 25/11/2019, Hà Nội.
22. Lê Quyết Thắng và nhóm nghiên cứu (Bảo hiểm xã hội Việt Nam) (2009)), Xây dựng quy trình tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi phạm pháp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, Đề án.
23. Nguyễn Thị Anh Thơ (2012), Tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
24. Tổng cục Cảnh sát - Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quy chế phối hợp số 3461/QCPH-TCCS-BHXH ngày 16/8/2017 giữa Tổng cục Cảnh sát và BHXH Việt Nam trong công tác phòng, chống tội phạm và các hành vi VPPL về BHXH, BHYT, BHTN, Hà Nội.
25. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quy chế phối hợp số 3601/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 20/9/2016 về việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu trong việc khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội.
26. Phùng Thế Vắc (chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Bộ Công an năm 2010 được ban hành theo Quyết định số 2714/QĐ-X11 (X14) ngày 22/4/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục xây dựng lực lượng công an nhân dân.
Tài liệu Website
27. Hùng Anh, "Xử lý vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế:
Cần chế tài mạnh", đăng tại http://tapchitaichinh.vn ngày 11/02/2019.
29.
28. Thủy Hà, "Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp", đăng tại http: tapchibaohiemxahoi.gov.vn ngày 12/10/2018. Nguyễn Thị Hồng Thắm, "Xử lý vi phạm qua thanh tra trong lĩnh vực bảo hiểm", đăng tại http:// http://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/xu-ly- vi-pham-qua-thanh-tra-trong-linh-vuc-bao-hiem-187979 ngày 02/10/2019.
62
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
NGHỊ QUYẾT SỐ 05/2019/NQ-HĐTP NGÀY 15/8/2019
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN, TOÁN ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 05/2019/NQ-HĐTP
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 214 VỀ TỘI GIAN LẬN BẢO HIỂM XÃ HỘI,
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, ĐIỀU 215 VỀ TỘI GIAN LẬN BẢO HIỂM Y TẾ VÀ
ĐIỀU 216 VỀ TỘI TRỐN ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO
HIỂM THẤT NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại các điều 214, 215 và 216 của
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14; Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13;
Sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 214 về tội gian
lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế
và Điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động của Bộ luật Hình sự.
63
Điều 2. Về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng
các điều 214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự
1. Lập hồ sơ giả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Hình sự
là hành vi lập hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong đó có giấy tờ, tài
liệu giả (ví dụ: giấy tờ, tài liệu không có thật, không do cơ quan có thẩm quyền cấp
hoặc cấp không đúng quy định, không đúng thẩm quyền, không đúng thời hạn...) để
thanh toán các chế độ: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu
trí; tử tuất; trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề;
hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng để duy trì việc làm cho người
lao động và chế độ khác theo quy định của pháp luật.
2. Lập hồ sơ bệnh án khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ
luật Hình sự là trường hợp không có sự việc khám bệnh, chữa bệnh hoặc có sự việc
khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng họ không phải điều
trị mà vẫn lập hồ sơ bệnh án cho họ.
3. Kê đơn thuốc khống quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật
Hình sự là trường hợp không có sự việc khám bệnh, chữa bệnh hoặc có sự việc
khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng không có việc sử
dụng thuốc mà vẫn kê đơn thuốc cho người có thẻ bảo hiểm y tế.
4. Kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi
phí giường bệnh quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật Hình sự là
trường hợp có sự việc khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng
kê số lượng thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật nhiều hơn số lượng thuốc, vật tư y tế,
dịch vụ kỹ thuật mà thực tế người bệnh sử dụng hoặc kê thêm các loại thuốc, vật tư y
tế, dịch vụ kỹ thuật mà thực tế người bệnh không sử dụng; kê tăng số lượng ngày điều
trị nội trú tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc kê không đúng tên thuốc, vật tư y tế,
loại giường và các dịch vụ kỹ thuật khác mà thực tế người bệnh đã sử dụng để làm tăng
tiền chi phí khám bệnh, chữa bệnh thanh toán với quỹ bảo hiểm y tế.
5. Chi phí khác quy định tại điểm a khoản 1 Điều 215 của Bộ luật Hình sự là
các chi phí phát sinh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh,
64
chữa bệnh không bao gồm chi phí tiền thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật và chi phí
giường bệnh (ví dụ: tiền công khám, chi phí vận chuyển người bệnh...).
6. Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế quy định tại điểm b khoản 1 Điều
215 của Bộ luật Hình sự là hành vi lập, sử dụng hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế không do
cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế của người
khác để hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định.
7. Thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống quy định tại điểm b khoản 1 Điều
215 của Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp cho người không đóng hoặc không thuộc diện được các tổ chức, nguồn quỹ
khác đóng bảo hiểm y tế theo quy định.
8. Thẻ bảo hiểm y tế giả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215 của Bộ luật
Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
9. Thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa quy định tại điểm b khoản 1 Điều 215 của
Bộ luật Hình sự là thẻ bảo hiểm y tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho
người tham gia bảo hiểm y tế nhưng đã bị thu hồi theo quy định của pháp luật và bảo
hiểm y tế hoặc thẻ đã bị sửa chữa, làm sai lệch thông tin của người có thẻ.
10. Trốn đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự là hành
vi của người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để
không đóng hoặc không đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
11. Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự
là trường hợp cố ý không kê khai hoặc kê khai không đúng thực tế việc đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với cơ quan có thẩm quyền.
12. Không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp quy
định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người sử dụng lao
động không gửi hồ sơ đăng ký đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
65
nghiệp đối với người lao động hoặc có gửi hồ sơ và đã xác định rõ, đầy đủ số người
phải đóng hoặc các khoản phải đóng, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người
lao động, thu nhập doanh nghiệp, nhưng không đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định.
13. Không đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự là
việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập
chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng
chỉ đóng một phần tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cơ
quan bảo hiểm xã hội theo quy định.
14. 06 tháng trở lên quy định tại khoản 1 Điều 216 của Bộ luật Hình sự được
xác định là 06 tháng liên tục hoặc 06 tháng cộng dồn trở lên.
Ví dụ: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, Doanh
nghiệp A không đóng bảo hiểm xã hội 04 tháng trong năm 2018 (gồm các tháng 5,
7, 9 và 11) và 02 tháng trong năm 2019 (tháng 01 và tháng 02) là không đóng bảo
hiểm xã hội 06 tháng cộng dồn trở lên.
15. Thiệt hại do hành vi phạm tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp quy định tại Điều 214 và Điều 215 của Bộ luật Hình sự gây ra
không bao gồm số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bị
chiếm đoạt.
Điều 3. Về một số tình tiết định khung hình phạt
1. Có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 các điều 214 và
215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian lận bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người
phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập.
2. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại điểm đ khoản 2 các điều 214
và 215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao,
móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc thủ đoạn
66
gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội, gây khó
khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.
3. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm a khoản 2 Điều 216 của Bộ luật
Hình sự; là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội trốn đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động từ 02 lần trở lên nhưng đều
chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự.
4. Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao
động quy định tại điểm d khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 216 của Bộ luật Hình sự
là trường hợp người sử dụng lao động đã thu hoặc đã khấu trừ tiền đóng bảo hiểm
từ tiền lương tháng đóng bảo hiểm của người lao động nhưng không đóng cho cơ
quan bảo hiểm.
Điều 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
1. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy định
tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử phạt
vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tổng số tiền bảo hiểm của các lần bị
chiếm đoạt bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng số tiền của các lần bị
chiếm đoạt, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
2. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi quy định
tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự gây thiệt hại cho quỹ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử
phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tổng số tiền của các lần bị thiệt
hại bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phải bị truy cứu
67
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng số tiền của các lần gây thiệt
hại, nếu các hành vi được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
3. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội vừa chiếm đoạt tiền bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp vừa gây thiệt hại mà số tiền bị
chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định tại các điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự thì xử lý như sau:
a) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại đều thuộc khung
hình phạt cơ bản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung
hình phạt cơ bản.
Ví dụ: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm
đoạt 20.000.000 đồng và gây thiệt hại 150.000.000 đồng thì Nguyễn Văn A bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy
định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.
b) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại thuộc các khung
hình phạt khác nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung
hình phạt cao hơn.
Ví dụ: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm
đoạt 20.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000 đồng thì Nguyễn Văn A bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.
c) Nếu số tiền bảo hiểm bị chiếm đoạt, số tiền bị thiệt hại cùng một khung
hình phạt tăng nặng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo cả hai
tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Nguyễn Văn B thực hiện hành vi lập hồ sơ giả bảo hiểm xã hội chiếm
đoạt 150.000.000 đồng và gây thiệt hại 250.000.000 đồng thì Nguyễn Văn B bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp với tình
tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 214 của Bộ luật Hình sự.
4. Người thực hiện hành vi làm giả hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế, thẻ bảo hiểm y tế để chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội, bảo
68
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc gây thiệt hại, ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm tương ứng quy định tại các điều 214 hoặc 215 của Bộ luật Hình
sự, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu
của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy
định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Điều 5. Xử lý hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho người lao động thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01
tháng 01 năm 2018
1. Đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về
hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp xử
lý như sau:
a) Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính.
b) Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử
phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật
Xử lý vi phạm hành chính. Việc thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính này thực hiện theo pháp luật về thi hành, cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính.
c) Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội
hoặc tổ chức, cá nhân khác thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự.
2. Không coi việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước 0 giờ 00
phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự.
69
Điều 6. Xác định tư cách tố tụng của cơ quan bảo hiểm xã hội
Trong các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo Điều 214 của Bộ luật Hình sự; tội
gian lận bảo hiểm y tế theo Điều 215 của Bộ luật Hình sự; tội trốn đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo Điều 216 của Bộ luật
Hình sự, cơ quan bảo hiểm xã hội tham gia tố tụng với tư cách là bị hại.
Điều 7. Tổ chức thực hiện
1. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214, 215
và 216 của Bộ luật Hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan
bảo hiểm xã hội gửi văn bản kiến nghị khởi tố kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên
quan đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện cho người lao động và cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều
214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự thì thông báo ngay đến cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Khi nhận được tin báo về tội phạm hoặc văn bản kiến nghị khởi tố và
chứng cứ, tài liệu có liên quan, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem
xét, thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Việc gửi văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển chứng cứ, tài liệu có liên
quan đến cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-
BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Điều 8. Hiệu lực thi hành
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
70
thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng
9 năm 2019.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để giám sát);
CHÁNH ÁN
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (để giám sát);
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để giám sát);
- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội;
Nguyễn Hòa Bình
- Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo);
- Văn phòng Trung ương Đảng (để báo cáo);
- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng
Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp (để phối hợp);
- Bộ Công an (để phối hợp);
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam;
- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC
(để thực hiện);
- Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.
71
Phụ lục 2
MỘT SỐ VỤ ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Vụ việc ông Đỗ Văn Măng (Hậu Giang)
Người khởi kiện: Ông Đỗ Văn Măng
Người bị kiện: Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang
Tóm tắt vụ việc:
Ông Đỗ Văn Măng có quá trình công tác:
Từ tháng 9/1976 đến tháng 9/1979 là giáo viên trường Trường Long Tây I,
huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ tháng 10/1979 đến
tháng 12/1986 là giáo viên trường Nhơn Ái 3, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ
(cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ tháng 01/1987 đến tháng 12/1989 là giáo viên trường
Nhơn nghĩa 3, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (cũ) nay là tỉnh Hậu Giang; từ
tháng 01/1990 đến tháng 9/1993 tự ý xin nghỉ việc do hoàn cảnh gia đình khó khăn;
từ tháng 10/1993 đến tháng 12/1997 là giáo viên trường Vị Thanh 2, huyện Vị
Thanh; từ tháng 10/1998 đến nay là giáo viên giảng dạy tại huyện Vị Thủy, tỉnh
Hậu Giang. Có quá trình công tác hưởng lương Nhà nước liên tục (trừ thời gian
nghỉ từ tháng 01/1990 đến tháng 9/1993) và đóng BHXH đầy đủ. Khi nghỉ việc ông
cũng chưa nhận khoản trợ cấp nào, cho rằng BHXH tỉnh Hậu Giang không cộng
dồn thời gian ông tham gia BHXH từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 là không
đúng, ông đã tiến hành khiếu nại theo quy định.
Căn cứ vào tờ khai cấp sổ BHXH của ông Măng thì thời gian từ tháng
01/1990 đến tháng 9/1993 là do ông Măng tự ý xin nghỉ việc do hoàn cảnh gia đình
khó khăn. Căn cứ vào Thông tư số 41/2009/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2009 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Theo quy định tại tiểu mục c, mục 12, phần
II Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và tại tiểu mục c, mục 12,
phần II Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách
mạng lâm thời đã quy định thì thời gian ông Măng làm việc từ tháng 9/1976 đến
tháng 12/1989 không được tính là thời gian để hưởng BHXH. Đồng thời, BHXH
72
tỉnh Hậu Giang ban hành Công văn số 225/BHXH-CĐBHXH không chấp nhận
khiếu nại của ông là đúng quy định.
Tòa tuyên án:
- Về tố tụng: Ông Măng yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi hành chính của
BHXH tỉnh Hậu Giang về việc không tính thời gian từ tháng 9/1976 đến tháng
12/1989 để ông được hưởng BHXH là trái pháp luật. Đồng thời yêu cầu Tòa án
buộc BHXH tỉnh Hậu Giang có trách nhiệm bổ sung vào sổ BHXH thời gian ông đã
công tác từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 để ông được hưởng các chế độ BHXH
theo quy định. Căn cứ vào khoản 2, Điều 3; khoản 1, Điều 18; khoản 1, Điều 30
Luật Tố tụng Hành chính thì xác định đây là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
Xác định người bị kiện: Theo yêu cầu khởi của ông Măng, sau khi xác định
đối tượng khởi kiện của vụ án. Căn cứ khoản 7, Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính;
Điều 2 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 Nghị quyết của Hội đồng
Thầm phán Tòa án tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng
Hành chính và các quy định pháp luật về BHXH xác định người bị kiện trong vụ án
là Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang.
Xác định thời hiệu khởi kiện: Ngày 25/4/2014 ông Măng có đơn khiếu nại
đến BHXH tỉnh Hậu Giang về việc không cho ông hưởng các chế độ BHXH trong
thời gian từ tháng 9/1976 đến tháng 12/19789. Đến ngày 20/5/2014 Giám đốc
BHXH tỉnh Hậu Giang ban hành Công văn số 255/BHXH-CĐBHXH trả lời khiếu
nại của ông Măng. Sau đó ông Măng tiếp tục khiếu nại, đến ngày 23/7/2014 BHXH
Việt Nam ban hành Công văn số 2692/BHXH-CSXH trả lời khiếu nại của ông
Măng. Do không đồng ý với hành vi hành chính của BHXH tỉnh Hậu Giang nên đến
ngày 13/11/2014 ông Măng nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Ngày 17/12/2014 Tòa án
tiến hành thụ lý vụ án. Căn cứ vào điểm a, khoản 2, Điều 104 Luật Tố tụng Hành
chính thì vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện là 01 năm.
- Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn Măng về việc cho
rằng hành vi hành chính của Giám đốc BHXH tỉnh Hậu Giang không thực hiện việc
73
tính thời gian công tác của ông từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989 để ông được
hưởng các chế độ BHXH theo quy định. Xét thấy, ông Măng có thời gian công tác
trong ngành giáo dục thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang từ tháng 9/1976 đến
tháng 12/1989. Từ tháng 01/1990 đến tháng 9/1993 ông Măng tự ý xin nghỉ việc vì
hoàn cảnh gia đình, đến tháng 01/1998 ông tiếp tục quay lại làm việc cho đến nay.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì yêu cầu của ông Măng là không có
căn cứ chấp nhận. Theo quy định tại điểm 18, khoản 9, Điều 1 Thông tư số
41/2009/TT-LĐTBXH ngày 30/12/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định: “Việc tính thời công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng
BHXH được thực hiện theo hướng dẫn tại các văn bản quy định trước đây về thời
gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 để hưởng BHXH của cán bộ, công
chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân”. Theo các văn bản trước
đây thì căn cứ vào tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 13/NV ngày 04/9/1972 của
Bộ Nội vụ và tại tiểu mục c, mục 12, phần II Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976
của Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “ … những trường hợp
không do yêu cầu của tổ chức mà công nhân, viên chức tự ý xin thôi việc, quân
nhân xin giải ngũ vì hoàn cảnh riêng, sau được trở lại làm việc thì thời gian công tác
trước khi nghỉ việc hoặc giải ngũ không được tính là thời gian công tác liên tục mà
chỉ được tính là thời gian công tác nói chung (thời gian nghỉ việc không tính)…”.
Thời gian công tác nói chung được quy định tại mục 1, phần I Thông tư số
13/NV ngày 04/9/1972 của Bộ Nội vụ và Thông tư số 07-TT/76 ngày 18/6/1976 của
Phủ Chủ tịch - Chính phủ cách mạng lâm thời quy định: “để xét xem người công
nhân, viên chức đã lao động cho xã hội nhiều hay ít để được hưởng quyền nghỉ ngơi
khi tuổi già (chế độ hưu trí)”.
Như vậy, thời gian ông Măng làm việc từ tháng 9/1976 đến tháng 12/1989
chỉ được tính để xem xét cho hưởng chế độ hưu trí, không được tính là thời gian
công tác liên tục để được hưởng các chế độ BHXH theo quy định.
2. Vụ việc của bà Mai Thị Hằng, Cần Thơ
Người khởi kiên: Bà Mai Thị Hằng sinh năm 1958.
74
Địa chỉ: 53/13, Nguyễn Việt Dũng, KV3, phường An Thới, quận Bình Thủy,
thành phố Cần Thơ
Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Hoàng Vinh, sinh năm 1978.
Địa chỉ: 140B/19C1, Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận Ninh Kiều,
thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 23/11/2013, có mặt)
Người bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Lê Hoàng
Nhí - Công ty TNHH MTV Lê Hoàng, thuộc Đoàn luật sư thành phố cần Thơ.
Người bị kiên: Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ
Địa chỉ: 138X/20 Nguyễn Văn Cừ, phường An Khánh, quận Ninh Kiều,
thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh Long, sinh năm 1958:
chức vụ: Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phổ Cần Thơ
Theo đơn khởi kiện ngày 28/10/2013 bà Mai Thị Hằng trình bày:
Bà không đồng ý với Công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc
Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của
bà. Yêu cầu tòa án hủy bỏ công văn 541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo
hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà
gồm thời gian công tác trong quân đội và thời gian công tác tại phường với chức
danh phó chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc phường An Thới, phó chủ tịch Hội liên
hiệp phụ nữ phường An Thới.
Ngày 10/10/2014 ông Phạm Hoàng Vinh (Đại diện ủy quyền của bà Hằng)
có đơn rút một phần nội dung khởi kiện về nội dung của công văn 541/BHXH ngày
01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố cần Thơ về việc tính thời gian
đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng khi đang công tác trong quân đội, vẫn giữ yêu
cầu khởi kiện về thời gian giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc
phường An Thới, Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường An Thới. Căn cứ pháp
lý ông Vinh trình bày theo Khoản 2 Điều 1 Nghị định 29/2013/NĐ-CP ngày
8/4/2013, Điều 2 thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013, công văn số
1203/BHXH ngày 11/4/2014 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Nghị định 09/1998/NĐ-
CP ngày 23/01/1998.
75
Tại bản tự khai ngày 06/7/2015 ông Phạm Hoàng Vinh:
1/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ cộng nối thời gian bà Hằng giữ
chức danh Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ phường từ ngày 01/01/1986 đến
31/10/1988. Cộng nối thời gian giữ chức danh Phó Chủ tịch Uy ban mặt trận Tổ
quốc phường từ 01/01/1990 đến 31/01/2001.
2/ Yêu cầu Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ chi trả và bồi thường các khoản:
+ Chi trả lương hưu hàng tháng kể từ ngày 01/9/2013.
+ Bồi thường tiền mua bảo hiểm y tế 02 năm 1.242.000 đồng.
+ Bồi thường lãi suất 2 năm trên số tiền 83.190.000 đồng (tạm tính đến tháng
9/2015) là 7.487.100 đồng.
Đại diện BHXH thành phố cần Thơ - Ông Nguyễn Thanh Long trình bày:
Thời gian công tác tại phường An Thới của bà Hằng:
+ Từ năm 1986 đến tháng 01/1990: Đảm nhiệm chức danh Phó Chủ tịch Hội
liên hiệp phụ nữ phường, trưởng khu vực 6 Chủ tịch Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.
+ Từ tháng 01/1990 đến tháng 12/2000: Đảm nhiệm các chức danh Phó chủ tịch
Hội chữ thập đỏ, Phó Chủ tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam phường An Thới.
Bảo hiểm xã hội TP. cần Thơ đã căn cứ vào các quy định tại: Điều 16 nghị
định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ-
CP ngày 08/04/2013 sửa đổi, bổ sung nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009;
Điều 8 Thông tư số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010
hướng dẫn thực hiện nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định giải
quyết về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã có thời gian đảm nhiệm chức danh
theo nghị định 09/1998/NĐ-CP.
Đối chiếu các quy định trên, do trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm
nhiệm các chức danh được hưởng chế độ khi nghỉ việc theo Nghị định số
09/1998/NĐ-CP nên thời gian công tác trước ngày 01/01/1998 của bà Hằng không
được tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Cho nên trường hợp bà Hằng không
thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội và không được tính thời gian đóng bảo hiểm
76
xã hội, không thuộc đối tương điều chỉnh của Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày
8/4/2013, Thông tư 24/2013/TT-BLĐTBXH ngày 17/10/2013.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2015/HCST ngày 24/9/2015 của Tòa
án nhân dân thành phố Cần Thơ, quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điểm c khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành
chính, khoản 2 điều 16 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009; khoản 2 điều 1
Nghị định 29/2003/NĐ-CP ngày 08/4/2013; khoản 1,2,3,4,5,7 Điều 3 Nghị Định số
9/NĐ-CP ngày 23/01/1998 sửa đổi bổ sung NĐ số 50/CP ngày 26/7/1995; Thông tư
sổ 24/2013/TT- BLĐTBXH ngày 17/10/2013 của Bộ Lao động thương binh và xã
hội, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Bác yêu cầu của người khởi kiện - bà Mai Thị Hằng (có ông Phạm Hoàng
Vinh là người đại diện theo ủy quyền) về việc khiếu kiện yêu cầu hủy văn bản số
541/BHXH ngày 01/8/2013 của Giám đốc Bảo hiểm TP. Cần Thơ về việc tính thời
gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Hằng công tác tại phường từ tháng 01/1986 đến
31/01/2001.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo vụ án
theo luật định.
Ngày 01/10/2015 ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà
Mai Thị Hằng kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án
sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh: Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy
định của pháp luật, cũng phân tích toàn bộ các chứng cứ có thể hiện trong hồ sơ vụ
án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 205 của Luật Tố tụng hành
chính, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là người đại
diện họp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của
Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án cũng như qua
77
thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận của các đương sự và
ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát. Đối chiếu với các quy định của pháp luật cho
thấy, do thời gian trước ngày 01/01/1998 bà Hằng không đảm nhiệm chức danh,
chức vụ được hưởng chế độ nghỉ việc theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP nên thời
gian công tác trước ngày 01/01/1998 cho đến tháng 12/2000 các chức danh, chức vụ
bà Hằng đảm nhiệm không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội, nên không được
tính thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Mặt khác, xét thấy trước ngày 01/01/1998 bà
Hằng vẫn công tác tại phường An Thới, không được điều động tuyển dụng vào quân
đội nhân dân, công an nhân dân hoặc làm việc trọng các cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp của nhà nước, Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội trước ngày
01/01/1998. Riêng việc bà Hằng công tác trong quân đội từ năm 1976 đến năm
1979, Bảo hiểm xã hội đã có xem xét cho bà Hằng và phía bà Hằng đã chấp nhận
không khiếu nại đối với mốc thời gian trong quân đội. Từ năm 1979 bà tự nghỉ việc
do có gia đình đến năm 1984 tiếp tục xin vào làm việc và giữ các chức danh, chức
vụ như đã nêu trên. Đối chiếu với quy định tại Điều 2 Thông tư số 24/2013/TT-
BLĐTBXH thì bà Hằng không hội đủ các điều kiện được tính thời gian đóng bảo
hiểm. Điều này cũng được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số
2652/LĐTBXH-BHXH ngày 25/7/2014 trả lời “Trường hợp bà Mai Thị Hằng
không thuộc diện áp dụng theo quy định tại Thông tư số 24/2013/TT-BLĐTBXH”.
Mặt khác, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị
Hằng cũng không có cung cấp hay bổ sung thêm tình tiết chứng cứ nào mới để làm
cơ sở cho việc yêu cầu kháng cáo của bà.
Do đó, Hội đồng xét xử xét đơn kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là
người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng là không có cơ sở để thực hiện theo
yêu cầu kháng cáo của bà. Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của vị đại
diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Hoàng Vinh là
người đại diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng, ông Phạm Hoàng Vinh là người đại
diện hợp pháp của bà Mai Thị Hằng. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của
Tòa án nhân dân thành phố cần Thơ.
78
3. Vụ việc của ông Nguyễn Văn Lục và bà Đinh Thị Vịnh, Bắc Giang
- Ông Nguyễn Văn Lục: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo Quyết
định số 54 ngày 20/5/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Bắc Giang). Theo đó,
ông Lục sinh năm 1947, có thời gian công tác thực tế là 30 năm 03 tháng; thời gian
công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 32 năm 09 tháng.
Nhận lương hưu tại Hà Tĩnh và chuyển về Bắc Giang từ tháng 8/2011
- Đối với bà Định Thị Vịnh: Được nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí theo
Quyết định số 02 ngày 20/11/1993 của Công ty Vật tư nông nghiệp (Hà Tĩnh). Theo
đó, bà Vinh sinh năm 1950, có thời gian công tác thực tế là 25 năm 7 tháng; thời
gian công tác quy đổi để tính hưởng chế độ là 26 năm 11 tháng.
Chuyển về Bắc Giang nhận lương hưu từ tháng 8/2011.
- Bà Đinh Thị Điển, có địa chỉ tại 118 ngõ Xã Đàn II, phường Nam Đồng,
Đống Đa, Hà Nội có đơn tố cáo về hành vi giả mạo hồ sơ của ông Lục, bà Vịnh để
hưởng chế độ hưu trí. Theo đó, thời gian công tác thực tế không đúng so với thời
gian ghi trong quyết định nghỉ hưu và sửa năm sinh (ông Lục sinh năm 1952, sửa
thành năm 1947; bà Vịnh sinh năm 1954, sửa thành năm 1952).
- Ngày 18/7/2015 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công
văn số 2109/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang, đề nghị tạm dừng chi trả lương hưu
đối với ông Lục, bà Vinh để phục vụ cho công tác điều tra.
- Ngày 01/4/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang có Công
văn số 155/PC46 gửi BHXH tỉnh Bắc Giang. Theo đó:
+ Ông Lục có tổng thời gian công tác kê khai 30 năm 03 tháng, trong đó có
10 năm 08 tháng làm tại Lâm trường Đô lương, Nghệ an là không đúng.
+ Bà Vịnh có tổng thời gian công tác kê khai 25 năm 07 tháng, trong đó có
07 năm 04 tháng tại Ngân hàng Ngoại Thương và 02 năm 07 tháng tại Công ty Cầu
đường Hà Bắc là không đúng.
+ Đề nghị BHXH tỉnh Bắc Giang hủy Quyết định chi trả lương hưu đối với
ông Lục, bà Vịnh; truy thu số tiền hưởng sai quy định; giải quyết chế độ theo thời
gian công tác thực tế theo quy định.
79
- Ngày 22/8/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Công văn số
3145/LĐTBXH-BHXH. Theo đó: BHXH tỉnh Bắc Giang có trách nhiệm thực hiện
theo đề nghị của Cơ quan điều tra; Việc giải quyết lại chế độ đối với ông Lục, bà
Vịnh thực hiện trên cơ sở thời gian công tác theo xác định của Cơ quan điều tra.
Vụ việc đang được Tòa án nhân dân tỉnh xét xử.
80