Lưu ý dùng thuốc chữa viêm túi mật cấp
Viêm đường mật - túi mt là biến chứng thường gặp nhất của sỏi và giun
đũa chui o đường mật - túi mật, nhất là khi tắc nghẽn ống mật. Trong nhóm
bệnh này, thì bệnh viêm túi mật cấp là một cấp cứu vtiêu hóa, thường do sỏi
mật gây nên. Bệnh hay gặp nữ, tuổi thường gặp 40 - 60. Bnh cần được chẩn
đoán sớm, điều trị kịp thời để phòng những biến chứng có thể dẫn tới tử vong.
Khi sỏi đường mật nhất là sỏi cổ túi mật hoặc giun chui đường mật sẽ
gây tc nghẽn đường mật, muối mật kích thích gây tổn thương thành túi mật, lúc
đó vi khuẩn sẽ xâm nhập vào trong túi mật và phát triển gây ra viêm túi mật cấp.
Bệnh gây ra do vi khuẩn chiếm 50 - 85% trường hợp. Vi khuẩn thường gặp
là E.coli, Klebsiella, Streptococcus nhóm D, Staphylococcus và Clostridium.
Thường khởi phát bởi cơn đau quặn gan, sau đó diễn tiến đưa đến nhiễm
trùng tắc mật. khoảng 60-70% bệnh nhân với cơn đau đầu tiên t lui bệnh.
Tuy nhiên, những cơn đau kéo dài vsau sẽ đưa đến đau lan tỏa cả vùng hsườn
phải, lan đến vùng bả vai phải.
Đau tăng khi ho hít sâu, bệnh nhân thường nôn chán ăn; Vàng da ch
xuất hiện khi viêm phù nhoặc hạch cn ép vào đường dẫn mật chính nên
thường không có hoặc đến muộn.
Chẩn đoán bệnh dựa vào m sàng, xét nghiệm công thức máu, bilirubin
máu và siêu âm hthống gan mật.
Nếu không chẩn đoán điều trị kịp thời, khá nhiều biến chứng có thể
xảy ra, thậm chí cả những biến chứng gây nguy hiểm đến tính mạng người
bệnh. Các biến chứng thường gặp là viêm m túi mật, nước túi mật, hoại thư
thủng túi mật.
Làm sao khỏi bệnh?
Điều trị bao gồm nội và ngoại khoa:
Điều trị nội khoa: Nghỉ ngơi, truyền dịch để nuôi dưỡng và cân bằng nước
điện giải. Dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ trơn như nospa hay sparmaverin.
Kháng sinh thuốc đầu tay, hiện nay rất nhiều kháng sinh thể lựa chọn với
ưu tiên là các kháng sinh có phtác dụng trên vi khuẩn gram âm như quinolon thế
h2 và kháng sinh tác dụng trên các vi khuẩn kỵ khí như nhóm imidazole. Tùy
theo tình trạng, tùy theo mức độ và tùy theo điều kiện thực tế mà bác sĩ sẽ cho ch
định điều trị hợp .
Nhóm imidazole (metronidazole, tinidazole, ornidazole): thuốc tác dụng
tốt với các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn kỵ khí, nhất là nhiễm khuẩn tiêu hóa và
giá thành rnhưng khi dùng thuốc kéo dài cn lưu ý thgặp tác dụng phụ
như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mày đay... các dấu hiệu
này thường nhẹ và mất sau khi thể đào thải hết thuốc. Đặc biệt, đối với bệnh
nhân tiền s rối loạn huyết động học khi sdụng dài ngày loại thuốc này nhất
thiết phải được theo dõi công thức bạch cầu. Thuốc này không được dùng cho ph
nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ cho con bú.
Trong nhóm quinolon thế hệ 2, ciproflocacin hoặc peflacin thuốc được
lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn tiêu hóa do giá thành rẻ, hiệu
qu cao. Thuốc hấp thu nhanh và d dàng qua đường tiêu hoá, sinh kh dụng
khoảng 70 - 95%. Thức ăn và các thuốc kháng acid làm chậm hấp thu thuốc. Phân
b rộng khắp các và dịch thể ít qua hàng o máu não người bình thường
nhưng khi màng não bviêm thì xâm nhập tốt hơn. Thuốc qua được nhau thai và
sữa mẹ. Tuy nhiên, khi dùng thuốc một số tác dụng không mong muốn thể
xảy ra rối loạn tiêu hoá nbuồn nôn, nôn, tiêu chảy; gây đau nhức xương khớp,
kém phát triển xương khớp nhất là tuổi đang phát triển; ngoài ra thcác
biểu hiện khác như nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, trường hợp kích động,
động kinh nhất là khi dùng cùng với theophylin, ng bạch cầu ưa acid, giảm bạch
cầu lympho, giảm bạch cầu đa nhân, giảm tiểu cầu, thiếu máu.
Trong trường hợp bệnh nặng cần sử dụng phối hợp kháng sinh và dùng
bằng đường tiêm, thường phối hợp thêm với cephalosporin thế hệ 3 như
cefotaxim, ceftriazon hoc cefuroxim. Ngoài ra cần chú ý đến nhiễm các vi khuẩn
kỵ khí, do đó cần phối hợp thêm metronidazol hoặc clindamycin (dalacin).
Điều trị ngoại khoa: Phẫu thuật cấp cứu: Trong trường hợp không đáp ứng
với điều trị nội khoa mà tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng hoặc biến
chứng ngoại khoa như túi mật hoại tử, thấm mật phúc mạc và viêm phúc mạc mật.
Hiện nay thường mổ túi mật qua đường nội soi.
Trong trường hợp viêm túi mật hoại tcũng bắt đầu là viêm túi mật cấp do
sỏi hoặc không nhưng sau đó do thiếu máu hoại tử thành túi mật, do các vi
khuẩn sinh hơi kỵ khí. Tử vong loại này thường cao hơn, do vậy trong những
trường hợp này cần mổ sớm cho bệnh nhân và phối hợp với hồi sức kháng sinh
thích hp.
Phẫu thuật chuẩn bị: Thường sau một đợt điều trị nội khoa để ổn định
nhiễm trùng, nhất là người già bệnh tim mạch, đái tháo đường, để chuẩn bị
bệnh nhân được tốt hơn.